Không Tên Phần 1
Tên eBook:
Plato Và Con
Thú Mỏ Vịt Bước Vào Quán
Bar
Nguồn:
tve-4u.org
Ebook:
Đào Tiểu Vũ eBook
-
http://www.dtv-ebook.com
Giới thiệu:
Sáng tạo thêm bên cạnh TRIẾT HỌC một
khái niệm mới: TIẾU HỌC,
Thomas
Cathcart
và
Daniel Klein
đã mở rộng
cánh cửa để ánh sáng của rừng cười tràn
vào ngôi đền triết học.
PLATO VÀ CON
THÚ MỎ VỊT BƯỚC VÀO QUÁN
BAR
... dẫn dắt người đọc vào cuộc du
hành vui vẻ và hài hước, qua truyện cười
để hiểu lịch sử triết học cổ kim, đưa ra
những câu trả lời đơn giản đến bất ngờ
cho những ai muốn đi sâu vào bản chất
Các Câu Hỏi Lớn mà không bị chìm
nghỉm trong lý luận hàn lâm.
Từ đây, các nhà tư tưởng lớn từ cổ chí
kim như
Aristotle, Plato, Descartes
Kant, Hegel, Wittgenstein, Sartre...
với
ta không còn quá xa cách; siêu hình học,
siêu triết học, nhận thức luận, triết học
tôn giáo hay đạo đức học... với ta không
còn nằm ngoài tầm hiểu.
Nhận định
"Không dễ tìm được món quà hoàn hảo
cho những người mà chúng ta yêu mến...
Thật tình cờ vì tôi có trên tay Plato và
con rái mỏ vịt bước vào quán bar... Sẽ
xảy điều gì, nếu pha trộn truyện cười,
những châm biếm sâu sắc và hài hước
vào các bài học lớn của đời sống? Bạn
được đọc một cuốn sách thật hay và bạn
muốn chia sẻ nó với càng nhiều người
càng tốt. Khi nó không thuần túy là truyện
cười!"
- Orlando Stinel
"Thế giới này dù tuyệt diệu đến
đâu,chúng ta cũng chỉ ghé qua trong
chuyến thăm ngắn ngủi.Nhưng ngắn ngủi
so với gì? Với vĩnh hằng ư?"
- Thomas
Cathcart và Daniel Klein (Về Vô Tận
và Vĩnh Hằng)
"Plato và con rái mỏ vịt bước vào một
quán bar... Lĩnh hội triết học thông qua
truyện cười, của Thomas Cathcart và
Daniel Klein là cuốn sách thật sinh
động."
- Chicago Sun-Times
Mời các bạn đón đọc
Plato và Con thú
mỏ vịt bước vào quán bar
của
tác giả
Thomas Cathcart
&
Daniel Klein
.
Xem thêm các tác phẩm khác
của Thomas
Cathcart:
http://www.dtv-
ebook.com/search/label/Thomas
Cathcart
Xem thêm các tác phẩm khác
của Daniel
Klein:
http://www.dtv-
ebook.com/search/label/Daniel
Klein
TRIẾT TẾU
PLATO VÀ CON THÚ MỎ VỊT
BƯỚC VÀO QUÁN BAR
Để tưởng nhớ GROUCHO MARX, ông
tổ về Triết lý của chúng tôi - người đã
tổng kết hệ tư tưởng cơ bản của chúng tôi
khi nói:
"Đây là những nguyên tắc của
tôi, nếu các vị không thích chúng, tôi
có những nguyên tắc khác."
Dẫn nhập
DIMITRI: Nếu thần Atlas đỡ Địa cầu,
vậy thì ai đỡ thần Atlas?
TASSO: Thần Atlas đứng trên lưng
con rùa.
DIMITRI: Nhưng con rùa ấy đứng
trên cái gì?
TASSO: Một con rùa khác.
DIMITRI: Thế con rùa
khác ấy
đứng
trên cái gì?
TASSO: Dimitri thân mến à,
trở
xuống toàn là rùa suốt lượt!
oOo
Mẩu đối thoại kiểu Hy Lạp cổ đại này
minh họa hoàn hảo cho khái niệm triết
học về sự hồi quy vô tận, một khái niệm
nảy sinh khi chúng ta đặt câu hỏi liệu có
hay không một Nguyên nhân Đầu tiên -
của cuộc sống, của vũ trụ, của thời gian
và không gian, và quan trọng nhất là của
một Đấng Sáng tạo. Phải có một cái gì
đó đã sáng tạo ra Đấng Sáng tạo, vậy thì
cái bệ đỡ nguyên nhân - hay con rùa -
không thể dừng lại
ở
Đấng Sáng tạo ấy.
Hay - Đấng Sáng tạo đằng sau ông ấy.
Thậm chí không dừng lại
ở
cái
ông sau
ông ấy nữa. Từ đó trở xuống - hay trở lên
-
đều là các Đấng Sáng tạo suốt lượt, nếu
đó có vẻ là hướng đúng để truy tìm các
Đấng Sáng tạo.
Nếu thấy rằng sự hồi quy vô tận sớm
chẳng đưa bạn đến đâu, bạn có thể lưu ý
đến học thuyết về
creatio ex nihilo
-
sáng tạo từ hư vô - hay, như John Lennon
diễn tả trong một bối cảnh hơi khác một
chút, "Trước Elvis, không có gì cả."
Nhưng chúng ta hãy lần nữa lắng nghe
ông lão Tasso. Lời đáp của ông - "Trở
xuống toàn là rùa suốt lượt!" không chỉ
làm sáng tỏ câu chuyện - mà rõ ràng còn
có tính tiếu lâm nữa. Ba-da-bing!
Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên
cả. Kết cấu và yếu tố gây cười của truyện
tiếu lâm cũng như kết cấu và kết luận đúc
rút từ các khái niệm triết học được tạo
nên từ cùng thứ chất liệu. Chúng chọc
ghẹo tâm trí theo cùng một cách. Đó là
bởi triết học và tiếu lâm xuất phát từ
cùng một thôi thúc: xáo trộn cảm thức
của chúng ta về cách mà sự vật hiện hữu,
lật ngược thế giới của chúng ta lên, và
lôi ra những sự thật bị che giấu, thường
là không hay ho gì, về cuộc đời. Cái mà
các triết gia gọi là thấu thị thì các tếu gia
gọi là châm biếm.
Chẳng hạn, hãy xem truyện cười nổi
tiếng sau đây. Thoạt nghe, nó chỉ có vẻ
ngớ ngẩn rất buồn cười, nhưng xét kỹ
hơn, nó nói tới điều hết sức cốt lõi của
triết học kinh nghiệm chủ nghĩa Anh -
vấn đề chúng ta có thể tin cậy loại thông
tin nào về thế giới này.
Anh chàng Morty về nhà, thấy vợ
đang trần như nhộng trên giường với gã
bạn chí cốt của mình là Lou. Trong khi
Morty còn chưa kịp há miệng ra thì Lou
đã nhảy phắt khỏi giường và kêu lên,
"Này bạn vàng, trước khi mày nói bất cứ
điều gì, hãy thử xem mày tin vào cái gì,
tin tao hay tin vào mắt mày?"
Bằng cách thách thức tính ưu việt của
kinh nghiệm cảm giác, Lou đã đặt ra câu
hỏi loại thông tin nào là chắc chắn và tại
sao. Có hay không, một cách thức thu
thập dữ kiện về thế giới - chẳng hạn như
nhìn
[bằng mắt] - đáng tin cậy hơn những
cách khác - chẳng hạn như bất chấp tất cả
để tin cậy và chấp nhận mô tả [bằng lời]
của Lou về thực tại?
Còn đây là ví dụ khác nữa về truyện
triết tếu, liên quan đến phép loại suy,
phát biểu rằng nếu có hai kết quả tương
tự thì chúng phải có chung một nguyên
nhân.
Một ông lão chín mươi tuổi đến gặp
bác sĩ và nói, "Thưa bác sĩ, cô vợ mười
tám tuổi của tôi sắp sinh con."
Ông bác sĩ bèn đáp, "Để tôi kể cụ
nghe câu chuyện này nhé. Một gã đi săn,
đáng lẽ mang súng thì hắn lại vác nhầm
theo cái ô. Khi bất thình lình bị gấu vồ,
hắn giương ngay ô lên, bắn chết tươi con
gấu."
Ông lão nói, "Làm gì có chuyện. Nhất
định phải có ai khác đã bắn con gấu đó
rồi."
Ông bác sĩ nói, "Thì ý tôi đúng là thế
đấy!"
Thật khó có thể kiểm được minh họa
nào hay hơn về phép Loại Suy, một mánh
khóe triết học vẫn đang được áp dụng
(và áp dụng sai) để bảo vệ thuyết Thiết
kế Thông minh (tức là, nếu có một nhãn
cầu, thì nhất định phải có một Đấng-
Thiết-kế-Nhãn-cầu-trên-Trời).
Chúng tôi có thể cứ tiếp tục mãi - và
thực tế là chúng tôi sẽ tiếp tục, từ thuyết
Bất khả tri đến Thiền, từ Thông diễn học
đến Vĩnh hằng luận. Chúng tôi sẽ cho
thấy các khái niệm triết học có thể được
soi sáng bằng những truyện tiếu lâm như
thế nào, và có biết bao nhiêu truyện tiếu
lâm chất chứa nội dung triết học hấp dẫn
ra sao. Khoan đã, hai khái niệm ấy có
phải là một không nhỉ? Chúng tôi có thể
trở lại đề tài này với các bạn được chứ?
Các sinh viên lơ ngơ bước vào lóp
Triết thường hy vọng sẽ đạt đến một nhãn
quan nào đó, về ý nghĩa của vạn sự
chẳng hạn, nhưng rồi có một gã đầu bù
tóc rối mặc bộ tuýt xộc xệch thong thả
bước lên bục giảng và bắt đầu giảng về ý
nghĩa của "ý nghĩa".
Phải tuần tự trước sau rõ ràng đã, gã
nói. Trước khi trả lời bất cứ câu hỏi nào,
lớn hay nhỏ, chúng ta cần phải hiểu được
bản thân câu hỏi có nghĩa gì. Miễn cưỡng
lắng nghe, chẳng mấy chốc chúng tôi phát
hiện ra rằng những gì gã kia nói thú vị ra
trò.
Triết học và các triết gia là như vậy
đấy. Câu hỏi nọ đẻ ra câu hỏi kia, rồi các
câu hỏi lại đẻ ra cả loạt những câu hỏi
khác.
Trở xuống toàn là câu hỏi suốt
lượt.
Chúng ta có thể bắt đầu vói những câu
hỏi cơ bản như, "Ý nghĩa của vạn sự là
gì?", "Chúa có tồn tại không?" rồi "Tôi
có thể là chính mình như thế nào?" và
"Có phải tôi đang ngồi nhầm lớp?"
nhưng rồi chúng ta sẽ chóng phát hiện ra
rằng chúng ta cần hỏi những câu hỏi khác
để trả lời cho những câu hỏi ban đầu của
mình. Quá trình này đã khai sinh ra một
loạt các phân môn triết học, mỗi môn
đào sâu vào Những Câu Hỏi Lớn riêng
bằng cách hỏi và cố gắng trả lời các cầu
hỏi nằm bên dưới chúng. Thế đấy, có ai
hỏi gì không?
Kết quả là, "Ý nghĩa của vạn sự là
gì?" được giải quyết bởi một môn có tên
là Siêu hình học, "Chúa có tồn tại
không?" bởi môn Triết học Tôn giáo,
"Tôi có thể là chính mình như thế nào?"
thuộc về trường phái Hiện sinh, "Có phải
tôi đang ngồi nhầm lóp?" thuộc địa hạt
mới của triết học gọi là Siêu Triết học,
bộ môn đặt ra câu hỏi "Triết học là gì?".
Và cứ như thế, mỗi lĩnh vực của triết học
đảm nhiệm những loại câu hỏi và quan
niệm khác nhau.
Chúng tôi sắp xếp cuốn sách này
không theo trật tự thời gian mà theo trình
tự những câu hỏi trong tâm trí mình khi
lơ ngơ bước vào giờ triết học đầu tiên -
và những phân môn triết học giải quyết
chúng. Thật vừa khéo là toàn bộ chùm
truyện tiếu lâm tình cờ lại nằm gọn trong
vùng lãnh địa khái niệm của các phân
môn kia. (Có hoàn toàn tình cờ không
nhỉ? Hay rốt cuộc có một Đấng Thiết kế
Thông minh?) Và có một lý do lớn giải
thích tại sao tất cả lại vừa khéo đến thế:
Khi ngập ngừng
rời
lớp học, hai chúng
tôi cảm thấy thật hoang mang bối rối bởi
tin chắc rằng mình không bao giờ lĩnh
hội được cái món nặng đầu này. Đúng
lúc đó, một sinh viên khóa trên ung dung
lại gần và kể cho chúng tôi nghe chuyện
anh chàng Morty về nhà bắt quả tang gã
Lou chí cốt đang trên giường với vợ
mình.
"Đấy
mới là triết học!" anh ta nói.
Còn chúng tôi gọi nó là
triết tếu.
THOMAS CATHCART DANIEL
KLEIN
Tháng Tám, 2006.
I
SIÊU HÌNH HỌC
Siêu hình học giải quyết Những Câu
Hỏi Lớn: Bản thể là gì? Bản chất của
thực tại là gì? Chúng ta có ý chí tự do
không? Bao nhiêu thiên thần có thể
nhảy múa trên đầu một cây kim? Cần
bao nhiêu vị để thay một bóng đèn?
DIMITRI: Gần đây có một điều cứ
làm tôi bất ổn, Tasso ạ.
TASSO: Điều gì vậy?
DIMITRI: Ý nghĩa của mọi sự là gì?
TASSO: Mọi sự gì?
DIMITRI: Cậu biết đấy: cuộc sống,
cái chết, tình yêu - toàn bộ cái mớ hổ lốn
đó.
TASSO: Sao cậu nghĩ rằng những thứ
đó đều có ý nghĩa?
DIMITRI: Bởi vì nó phải có chứ. Nếu
không cuộc
sống
sẽ chỉ
là...
TASSO: Là gì?
DIMITRI: Tôi cần một cốc ouzo.
(
Rượu khai vị đặc trưng của Hy Lạp.)
MỤC ĐÍCH LUẬN
Vũ trụ có mục đích không?
Theo Aristotle,
mọi vật
đều có một
telos,
tức là một mục đích nội tại mà nó
nhằm đạt tới. Một quả sồi có
telos:
một
cây sồi. Đó là cái mà quả sồi "nhằm đạt
tới". Chim có mục đích của chim, ong có
mục đích của ong. Người ta nói rằng ở
Boston ngay đến những quả đậu cũng có
mục đích. Mục đích là một phần trong
chính cấu trúc của thực tại.
Nếu các lập luận trên có vẻ hơi trừu
tượng, thì trong câu chuyện sau đây, bà
Goldstein đã khiến
telos
trở nên cụ thể.
Bà Goldstein đang xuôi phố cùng hai
đứa cháu nội. Một người bạn dừng lại
hỏi bà lũ nhỏ mấy tuổi.
Bà đáp, "Thằng bác sĩ này lên năm,
còn thằng luật sư kia lên bảy."
Đời người có
telos
không?
Aristotle cho rằng có. Ông cho rằng
telos
của đời người là hạnh phúc, một
quan điểm mà các nhà triết học khác đã
tranh cãi suốt cả lịch sử loài người.
Bảy
thế kỷ sau, Thánh Augustine tuyên bố
telos
của
đời người là yêu Chúa. Còn
với một nhà hiện sinh thế kỷ hai mươi
như Martin Heidegger, thì
telos
của con
người chính là sống không chối bỏ bản
chất người đích thực, đặc biệt là không
chối bỏ cái chết.
Hạnh phúc ư? Vớ vấn!
Các truyện cười về ý nghĩa cuộc sống
đua nhau sinh sôi cùng với các ý nghĩa
của cuộc sống, thứ vốn dĩ cũng sinh sôi
nảy nở nhanh như các nhà triết học.
Một kẻ tầm sư học đạo nghe nói
vị
guru
thông thái nhất toàn cõi Ấn Độ sống
trên đỉnh ngọn núi cao nhất của Ấn Độ.
Vì vậy anh ta vất vả lặn lội khắp núi non
và thành Delhi cho đến khi tới được
ngọn núi trứ danh nọ. Ngọn núi dốc đứng
quá sức tưởng tượng, anh ta trầy trật leo
lên ngã xuống không ít lần. Lên được tới
đỉnh núi, anh ta trầy xước thảm tím khắp
cả mình mẩy, nhưng rốt cuộc đã gặp
được
vị
guru
đang ngồi kiết già trước
cửa hang.
"Ôi, thưa tôn sư thông thái," kẻ tầm sư
học đạo lên tiếng. "Con đến để hỏi thầy
bí mật của cuộc sống là gì ạ."
"À, bí mật của cuộc sống," vị
guru
nói. "Bí mật của cuộc sống là một tách
trà."
"Một tách trà? Con cực nhọc đi bao
đường đất tới đây để tìm ý nghĩa cuộc
sống, thế mà thầy lại bảo con rằng nó là
một tách trà thôi ư!"
Vị
guru
nhún vai. "Vậy có thể nó
không phải là một tách trà."
Như vậy, vị
guru
thừa nhận rằng xác
định được
telos
của cuộc sống là điều
nan giải. Hơn nữa, không phải với ai nó
cũng là một tách trà.
Có sự khác biệt giữa
telos
của cuộc
sống - thứ mà con người được
ấn định
phải là - và những mục tiêu riêng của cá
nhân trong cuộc sống - thứ mà anh ta
muốn
là. Liệu Sam, chàng nha sĩ trong
câu chuyện dưới đây, thực ra đang tìm
kiếm
telos
phổ quát của cuộc sống hay
đơn giản chỉ giải quyết vấn đề của cá
nhân mình? Nhưng bà mẹ anh ta thì rõ
ràng là có hình dung riêng về
te
los
của
cuộc đời con trai bà.
Một nha sĩ người Philadelphia là Sam
Lipschitz sang tận Ấn Độ để tìm ý nghĩa
của cuộc sống. Hàng tháng trời đã trôi
qua mà mẹ anh ta không nhận được tin
tức gì của con mình. Cuối cùng, bà bèn
đáp máy bay sang Ấn Độ và hỏi thăm
xem người thông thái nhất xứ đó sống ở
đâu. Bà được chỉ đường đến một tịnh
thất, nơi người canh cửa nói với bà rằng
bà có thể phải đợi một tuần lễ đề được
tiếp kiến
guru
,
và khi gặp, bà chỉ được
phép nói ba từ với ông ấy. Bà mẹ đã đợi,
cẩn thận chuẩn bị những lời định nói. Khi
rốt cuộc cũng được dẫn vào gặp nhà
thông thái, bà nói với ông ta, "Sam, về
nhà!"
oOo
Hãy tra từ "Siêu hình học"
(Metaphysics) trong từ điển, bạn sẽ thấy
rằng nó xuất phát từ tên một khảo luận
của Aristotle, và rằng nó giải quyết
những vấn đề trừu tượng vượt ra ngoài
(
meta
) quan sát khoa học. Nhưng đây
hóa ra lại là một trường hợp mà trong
tiếng Latin gọi là
post hoc hokum
(từ cái
sai này dẫn đến cái sai khác). Trên thực
tế, Aristotle chưa bao giờ gọi khảo luận
của ông là "Siêu hình học",
hơn
nữa cái
tên này không dính dáng gì đến việc các
vấn đề được đề cập đến trong khảo luận
nằm ngoài phạm vi của khoa học. Thật
ra, nó được người sắp xếp tuyển tập của
Aristotle đặt cho cái tên này vào thế kỷ
thứ nhất Công nguyên. Ông ta chọn tên
này vì chương đó "vượt ra ngoài" (có
nghĩa là "có sau") khảo luận của
Aristotle về "Vật lý" (Physics).
BẢN
CHẤT LUẬN
Cấu trúc của thực tại là gì? Những
thuộc tính đặc thù nào khiến sự vật là
chính nó? Hay như các nhà triết học quen
nói: Những thuộc tính nào không làm cho
sự vật không phải là nó?
Aristotle rút ra sự khác biệt giữa đặc
tính
bản chất,
và
đặc
tính
ngẫu nhiên.
Theo cách ông trình bày, đặc tính bản
chất là những tính chất mà nếu không có
chúng thì sự vật không còn là nó nữa,
còn đặc tính ngẫu nhiên là những tính
chất xác định sự vật
như thế nào,
chứ
không phải nó
là gì.
Chẳng hạn, Aristotle
cho rằng lý trí là bản chất để làm nên
một con người, và vì Socrates là một con
người nên lý trí của ông là phẩm chất
thiết yếu để ông là Socrates. Không có
đặc tính lý trí, thì Socrates đơn giản
không phải là Socrates nữa. Thậm chí
ông còn không thể là một con người, vậy
thì sao có thể là một Socrates được? Mặt
khác, Aristotle nghĩ rằng đặc tính mũi
hếch của Socrates chỉ là ngẫu nhiên, cái
mũi hếch chỉ là một phần của việc
Socrates nom như
thế nào,
nhưng nó
không có tính bản chất đối vói việc ông
ta là ai, hay là cái gì. Nói cách khác, lấy
đi lý trí khỏi Socrates thì ông không còn
là Socrates nữa, nhưng nếu giải phẫu
thẩm mỹ cho ông thì ông
sẽ là Socrates
vói chiếc mũi mới. Nó nhắc chúng ta
nhớ
đến một câu chuyện cười.
Khi Thompson tròn bảy mươi, ông ta
quyết định thay đổi hoàn toàn lối sống để
thọ được lâu hơn. Ông duy trì một chế độ
ăn kiêng nghiêm ngặt, ông tập chạy bộ,
bơi lội và tắm nắng. Mới được ba tháng,
ông đã sút đi khoảng mười ba cân rưỡi,
giảm vòng bụng đi 15 cm, và ngực nở
thêm 13 cm. Người thon gọn và rám
nắng, ông quyết định hoàn thành quá trình
tân trang ấy bằng một kiểu đầu mới theo
phong cách xì-po. Sau đó, vừa bước ra
khỏi tiệm cắt tóc, ông bị xe buýt tông.
Giữa cơn hấp hối, ông kêu lên, "Ôi
Chúa, Người nỡ lòng nào làm chuyện
này với con?"
Và một giọng nói từ trên cao vọng
xuống, "Nói thật với con, Thompson ạ,
quả tình ta không nhận ra con."
Ông lão Thompson khốn khổ dường
như đã thay đổi một số đặc tính ngẫu
nhiên cụ thể của bản thân, mặc dầu chúng
ta biết rằng về bản chất ông ta vẫn là
Thompson. Chính Thompson cũng không
nghi ngờ gì về điều này. Thực ra, đối với
câu chuyện cười, cả hai điều kiện đó đều
quan trọng. Trớ trêu thay, nhân vật duy
nhất trong truyện
không
nhận ra
Thompson lại chính là Chúa, đấng mà ta
nghĩ thực ra phải Toàn tri. Sự khác nhau
giữa các đặc tính bản chất và ngẫu nhiên
được minh họa bằng khá nhiều truyện
cười khác cùng một dạng như thế này.
Abe: Này Sol, tớ có câu đố này cho
cậu. Cái gì màu xanh lá cây, được treo
trên tường và huýt sáo?
Sol: Tớ chịu.
Abe: Con cá trích.
Sol: Nhưng cá trích đâu có xanh lá
cây.
Abe: Thì cậu có thể sơn nó màu xanh
lá cây.
Sol: Nhưng cá trích đâu có treo trên
tường.
Abe: Cậu đóng một cái đinh và treo
nó lên.
Sol: Nhưng cá trích đâu có huýt sáo!
Abe: Vậy hả? Thế thì nó không huýt
sáo.
Dị bản dưới đây của truyện cười đó
có lẽ không khiến bạn cười ha hả như ở
Câu lạc bộ Hài kịch Caroline (
Caroline's
Comedy Club: Một trong những câu lạc bộ hài
kịch nổi tiếng ở New York),
nhưng nó có thể
giúp bạn ghi điểm
ở
hội nghị thường niên
của Hội Triết học Hoa Kỳ.
Abe: Một vật thể "X" có các đặc tính
xanh lá cây, treo trên tường, và có khả
năng huýt sáo, là cái gì?
Sol: Tớ không nghĩ ra nổi một vật nào
khớp với mô tả của cậu.
Abe: Con cá trích.
Sol: Cá trích đâu có màu xanh lá cây.
Abe: Đặc tính
bản chất
thì không,
Solly ạ. Nhưng một con cá trích có thể
ngẫu nhiên
có màu xanh lá cây, đúng
không? Thử sơn nó đi. Cậu sẽ thấy.
Sol: Nhưng con cá trích không phải
vật treo trên tường.
Abe: Nếu cậu ngẫu nhiên đóng đinh
nó lên tường thì sao?
Sol: Làm sao mà cậu có thể ngẫu
nhiên đóng đinh nó lên tường?
Abe: Tin tớ đi. Mọi chuyện đều có
thể. Thế mới là triết học.
Sol: Ô kê, nhưng dù ngẫu nhiên thế
nào thì con cá trích cũng không huýt sáo.
Abe: Cậu có giỏi thì kiện tớ đi.
Abe và Sol quay về phía cử tọa của
Hội Triết học Hoa Kỳ, lúc này đang im
phăng phắc.
Sol: Cái gì thế nhỉ, hội nghị của các
nhà Khắc kỷ à? Này các vị, lúc công
kích Vatican, Nietzsche còn cười nhiều
hơn các vị đấy.
Đôi khi sự vật có những đặc tính thoạt
nhìn thì tưởng là ngẫu nhiên, nhưng hóa
ra chỉ là ngẫu nhiên trong giới hạn nhất
định, như được minh họa trong truyện
cười này:
"Tại sao một con voi lại to, màu xám
và nhăn nheo?"
"Bởi vì nếu nhỏ, trắng và tròn trịa, thì
nó là một viên aspirin mất rồi."
Chúng ta có thể tưởng tượng ra một
con voi có kích thước nhỏ - gọi nó là
"con voi nhỏ". Thậm chí chúng ta có thể
tưởng tượng ra một loại voi màu nâu xỉn,
và gọi nó là "loại voi màu nâu xỉn". Còn
một con voi không nhăn nheo có thể gọi
là "con voi trơn láng". Nói cách khác,
độ lớn, màu xám, và nếp nhăn hoàn toàn
không thỏa mãn tiêu chuẩn của Aristotle
về định nghĩa một con voi
bản
chất
là gì.
Thay vào đó chúng mô tả hình dung về lũ
voi, một cách chung chung, và
ngẫu
nhiên.
Tuy nhiên, suy ra từ truyện cười
thì điều này chỉ đúng đến một chừng mực
nhất định. Một cái gì đó nhỏ, trắng và
tròn như một viên aspirin không thế là
một con voi, và nếu bắt gặp
một
vật như
thế, chẳng có lý do gì chúng ta lại hỏi,
"Cậu đang cầm một viên aspirin phải
không, Bob, hay là một con voi đột
biến?"
Vấn đề là độ lớn, màu xám, và da
nhăn không phải là nhừng từ ngữ đủ
chính xác chuyển tải những đặc tính bản
chất của một con voi. Nó chỉ là một
phạm
vi
nhất định của kích
cỡ
,
một
phạm
vi
nhất định của màu sắc, trong số nhiều
phẩm chất khác xác định một vật nào đó
có phải là một con voi hay không. Mặt
khác, nói đến nhăn nheo, có thể là một
con cá trích màu đỏ, hay biết đâu một
con cá trích biết huýt sáo cũng nên.
CHỦ NGHĨA DUY LÝ
Còn bây giờ chúng ta sẽ chuyển hẳn
chủ đề, để bàn đến một trường phái triết
học siêu hình đã trở thành mục tiêu châm
biếm của không ít tác giả. Chỉ có một
vấn đề là: những truyện cười đó đều
nhắm trượt trọng tâm.
Khi triết gia duy lý thế kỷ 17
Gottfried Wilhelm Leibniz thốt ra câu
nói nổi tiếng:
"Đây là thế giới tốt nhất
trong tất cả các thế giới có thể
", ông đã
bị chế nhạo không thương tiếc. Tất cả bắt
đầu vào thế kỷ tiếp theo với
Candide
,
cuốn tiểu thuyết hết sức vui nhộn của
Voltaire về anh chàng tốt bụng (Candide)
và ông thầy triết của chàng, tiến sĩ
Pangloss (Voltaire ám chỉ Leibniz).
Trong những chuyến đi của mình, chàng
Candide trải qua bao nhiêu trận đòn roi,
những hình phạt bất công, dịch bệnh và
một trận động đất mô phỏng động đất
Lisbon năm 1755 từng san phẳng cả
thành phố. Tuy nhiên không gì lay chuyến
nổi lý lẽ khăng khăng của tiến sĩ
Pangloss rằng "Mọi sự đều hướng tới
hoàn thiện trong thế giới tốt nhất của tất
cả những thế giới có thể có này." Khi
Candide định lao xuống cứu Jacques,
một tín đồ phái Rửa tội lại (Anabaptist)
người Hà Lan sắp chết đuối, thì Pangloss
đã ngăn chàng lại, lý sự rẳng vịnh Lisbon
"được tạo ra cốt là để cho gã tín đồ giáo
phái Rửa tội lại này chết chìm trong đó".
Hai thế kỷ sau, vở nhạc kịch hài của
Leonard Berstein năm 1956 nhan đề là
Candide
đã góp thêm tiếng cười cho trò
vui. Khúc hát nổi tiếng nhất của vở diễn,
"Thế giới tốt nhất trong tất cả các thế
giới có thể" - lời của Richard Wilbur,
được Pangloss và ca đoàn hát lên ngợi
ca chiến tranh như một phúc lành trong
tai họa, bởi vì nó đoàn kết tất cả chúng ta
lại, như những nạn nhân.
Terry Southern và Mason Hoffenberg
cũng nhập cuộc vui này bằng việc sáng
tác một
phiên
bản thô tục,
Candy,
nói
về
một
cô gái
trẻ chất phác, mặc dù bị tất cả
những gã đàn ông mà cô ta gặp lợi dụng,
nhưng vẫn ngây thơ và lạc quan. Năm
1964, tác phẩm này được chuyển thể
thành phim với dàn diễn viên ngôi sao,
trong đó có triết gia Ringo Starr.
Tất cả đều rất vui nhộn, nhưng đáng
tiếc rẳng những tác phẩm hài hước nói
trên đều hiểu sai luận đề của Leibniz.
Leibniz là một
nhà duy lý,
một thuật ngữ
triết học để chỉ những người theo quan
điểm coi lý trí là ưu việt so với các cách
thức thu nhận tri thức khác (đối lập,
chẳng hạn, với các
nhà kinh nghiệm chủ
nghĩa
kiên trì quan điểm cho rằng cảm
giác là con đường chủ yếu để đạt đến tri
thức). Leibniz đi đến kết luận rằng thế
giới này là tốt nhất trong các thế giới có
thể nhờ lập luận thuần túy lý trí như sau:
1. Nếu Thượng đế không chọn
sáng tạo ra thế giới, thì có thể
chẳng hề có một thế giới nào hết.
2."Quy luật lý do đầy đủ" nói
rẳng khi có nhiều hon một lựa
chọn, ắt phải có giải thích tại sao
lại chọn cái này mà không chọn
cái khác.
3. Trong trường hợp Thượng đế
đã lựa chọn một thế
giới
nhất
định để sáng tạo, thì nguyên do
nhất thiết phải được tìm kiếm
trong các thuộc tính của chính
Thượng đế, vì tại thời điểm đó
ngoài ngài ra chưa có gì
khác.
4. Bởi vì Thượng đế là toàn năng
và toàn thiện, ngài ắt phải sáng
tạo ra thế giới
tốt nhất
có thể.
Nếu suy nghĩ một chút, thì trong
hoàn cảnh này, đây là thế giới
duy nhất
có thể. Là toàn năng và
toàn thiện, Thượng đế không thể
sáng tạo ra một thế giới không tốt
nhất.
Voltaire, Berstein và cộng sự, Terry
Southern và Mason Hoffenberg, thảy đều
châm biếm tư tưởng của Leibniz đã bị
hiểu theo cách của họ: "Mọi thứ thật
tuyệt cú mèo". Nhưng Leibniz không cho
rằng thế giới chẳng có gì xấu. Ông chỉ
cho rằng, nếu Thượng đế sáng tạo thế
giới khác đi, có thể cái xấu còn nhiều
hơn.
May thay, chúng ta cũng sẵn có hai
truyện cười thực sự rọi sáng triết học
Leibniz.
Một người lạc quan nghĩ rằng đây là
thế giới tốt nhất trong tất cả các thế giới
có thể. Một người bi quan lại sợ rằng nó
đúng là như vậy.
Mẩu chuyện cười này ngụ ý rằng
người lạc quan tán đồng quan điểm coi
thế giới này tốt nhất trong tất cả các thế
giới có thể, trong khi người bi quan thì
không. Từ cái nhìn duy lý của Leibniz,
thế giới chỉ đơn giản là cái mà nó là;
mẩu chuyện chứng tỏ sự thật hiển nhiên
rằng lạc quan và bi quan là những thái độ
cá nhân không liên quan đến mô tả trung
tính, duy lý của Leibniz về thế giới.
Người lạc quan nói: "Cốc này đầy
một nửa." Người bi quan nói: "Cốc này
vơi một nửa. "Người duy lý nói: "Cái
cốc to gấp đôi so với cần thiết."
Điều này thật sáng rõ như thủy tinh
vậy.
VÔ TẬN VÀ VĨNH HẰNG
Hóa ra, dù thế giới này tuyệt vời hay
không, thì chúng ta cũng chỉ ghé qua
trong một cuộc viếng thăm ngắn ngủi.
Nhưng ngắn ngủi so với cái gì nhỉ? Với
năm tháng vô tận ư?
Leibniz bước tới đối diện với Thượng
đế hiện ra ở góc trái (đừng nhầm với
Thượng đế trên kia). Là một nhà duy lý,
Leibniz không hài lòng với việc nói rằng
một cái gì đó chỉ đơn giản "xảy ra", như
thể một cái gì khác có thể dễ dàng xảy ra
thay thế. Ông cảm thấy phải có một
lý
do
khiến mọi hoàn cảnh là
cần
thiết.
Tại
sao
ở
Seattle mưa nhiều hơn ở
Albuquerque? Bởi vì các điều kiện A, B
và C khiến nó
không thế
xảy ra khác đi
được. Với các điều kiện A, B và C,
không thể có hoàn cảnh nào khác. Cho
đến nay, đa phần chúng ta đều đồng ý với
ông, đặc biệt là các cư dân Seattle.
Nhưng Leibniz lập luận tiếp, rằng
ngay
cả các điều kiện cho trước này (A, B và
C)
cũng không thể khác. Và các điều kiện
trước chúng, và trước chúng nữa, cứ thế
và cứ thế liên tu bất tận. Đây là cái mà
ông gọi là "Luật lý do đầy đủ", nghĩa là
lý do để bất kỳ trạng thái thực của sự
việc nào
là
thực, không thể diễn ra theo
cách nào khác. Một vũ trụ không có
lượng mưa chênh lệch ở Seattle và
tập
hợp các điều kiện dẫn đến tình trạng
mưa đó
đơn giản không còn là một vũ
trụ. Một vũ trụ mà không có cái "đơn
nhất" thì chỉ là hỗn độn.
(
Tác giả chơi chữ:
vũ trụ (universe), và cái đơn nhất (uni)
Ý niệm về vô tận, trạng thái vĩnh hằng
chẳng hạn vẫn làm cho các nhà siêu hình
học bối rối. Tuy nhiên các nhà phi-siêu
hình học thì không quan tâm lắm.
Hai con bò đang đứng trên bãi cỏ.
Một con quay sang con kia nói, "Mặc dù
pi
thường được rút ngắn còn năm con số,
thật ra nó kéo dài đến vô tận."
Con bò thứ hai quay sang con thứ nhất
và đáp, "Bòòòò."
Truyện cười tiếp theo sau đây gắn tư
tưởng về vĩnh hằng với một khái niệm
triết học nổi tiếng khác là tính tương đối:
Một bà được bác sĩ cho biết bà ta chỉ
còn sống thêm sáu tháng. "Liệu tôi có thể
làm gì được nữa không?" bà ta hỏi.
"Có chứ," bác sĩ đáp. "Bà có thể kết
hôn với một viên kế toán thuế."
"Việc ấy sẽ giúp tôi chữa bệnh thế
nào?"
"Ồ, chữa bệnh thì không," bác sĩ nói,
"nhưng nó sẽ làm cho sáu tháng đó như
thể vĩnh hằng!"
Câu chuyện nêu lên câu hỏi triết học
"Làm thế nào mà một thứ hữu hạn, như
sáu tháng, lại có thể tương tự một thứ vô
tận, như vĩnh hằng?" Những ai đặt câu
hỏi này hẳn chưa bao giờ phải sống với
một viên kế toán thuế.
QUYẾT ĐỊNH LUẬN ĐỌ VỚI Ý
CHÍ TỰ DO
Trong khi chúng ta đang ở đây lúc
này, liệu chúng ta có thể kiểm soát chút
nào vận mệnh của mình không?
Suốt nhiều thế kỷ qua, các triết gia đã
tốn không biểt bao nhiêu giấy mực để tìm
kiểm lời đáp cho câu hỏi: liệu con người
có tự do quyết định và hành động, hay
những quyết định và hành động của
chúng ta bị định đoạt bởi các lực lượng
bên ngoài: di truyền, môi trường, lịch sử,
số mệnh, Microsoft.
Các bi kịch gia Hy Lạp nhấn mạnh
rằng tính cách và các khiếm khuyết không
tránh khỏi của nó có ảnh hưởng quyết
định đến quá trình của các sự kiện.
Khi được hỏi ông có tin vào ý chí tự
do không, tiểu thuyết gia thế kỷ hai mưoi
Isaac Bashevis Singer hóm hỉnh đáp,
"Tôi làm gì có lựa chọn nào khác." (Thật
ra đây là quan điểm mà một số triết gia
hoàn toàn nghiêm túc tán thành: rằng
chúng ta buộc phải tin vào ý chí tự do
của bản thân, bởi nếu không thì sẽ không
có cơ sở cho niềm tin của chúng ta vào
trách nhiệm đạo đức. Những lựa chọn
đạo đức của chúng ta sẽ tuột khỏi tay
chúng ta).
Gần đây, thứ tư tưởng cho rằng những
tác động tâm lý ngoài tầm kiểm soát của
chúng ta quyết định hành vi của chúng ta,
đã ăn mòn quan niệm về trách nhiệm đạo
đức, đến mức ngày nay chúng ta có "lối
biện hộ chày cối", kiểu như một bị cáo
kêu rằng lượng đường trong chút rượu
hắn uống đã đẩy hẳn đến chỗ phạm tội
giết người. Đó vẫn là lối nói "ma dẫn lối
quỷ đưa đường" cũ kỹ ngụy trang dưới
lớp áo tâm lý học hiện đại.
Mặt khác, có những người theo quyết
định luận nói rằng, "Chúa khiến tôi làm
thế. Thật ra, Chúa đã định đoạt mọi thứ
trong vũ trụ cho đến từng chi tiết cuối
cùng." Baruch Spinoza, nhà triết học
người Hà Lan gốc Do Thái thế kỷ mười
bảy, và Jonathan Edwards, nhà thần học
Mỹ thế kỷ mười tám là những người đề
xuất quyết định luận thần học này. Con
đại bàng, con ếch và người lái xe tải
trong câu chuyện dưới đây hẳn đã nghĩ
rằng họ lựa chọn và thực hiện các hành
động của mình một cách tự do.
Moses, Jesus, và một ông lão để râu
đang chơi golf. Moses đánh một cú văng
xa, bóng đáp xuống đường lăn nhưng rồi
lại lăn thẳng về phía đầm nước. Moses
giơ gậy golf của ông lên, rẽ nước, và quả
bóng nhẹ nhàng lăn sang bờ bên kia.
Jesus cũng đánh một phát bóng xa về
phía cái đầm ấy, nhưng đúng lúc sắp rơi
xuống giữa đầm thì bóng bay lơ lửng lên
trên mặt nước. Jesus thong thả bước đi
trên mặt đầm nước và hất bóng lên cỏ.
Ông lão để râu đánh một phát, bóng
đập vào hàng rào và bật nảy ra phố, ở đó
nó đập trúng một chiếc xe tải vừa chạy
tới rồi văng trở lại phía đường lăn bóng,
thẳng hướng đầm nước, nhưng lại rơi
xuống một lá hoa súng. Một con ếch ngồi
trên chiếc lá trông thấy quả bóng, há
miệng đớp ngay lấy. Một con đại bàng sà
xuống, quắp con ếch và bay đi mất. Khi
con đại bàng và con ếch bay qua bãi cỏ
xanh, con ếch đánh rơi quả bóng, và nó
rơi trúng ngay vào lỗ.
Moses quay sang Jesus và nói, "Tôi
ghét chơi với bố của cậu."
TRIẾT HỌC DIỄN TIẾN
Đến một lúc nào đó, nhất định phải có
một triết gia chống lại quan niệm về vị
Chúa áp đặt, nhúng tay vào mọi sự. Triết
gia thế kỷ hai mươi Alfred North
Whitehead lập luận rằng không những
Chúa không có khả năng quyết định
tương lai, mà chính tương lai sẽ quyết
định ngài. Theo triết thuyết diễn tiến của
Whitehead thì Chúa không toàn năng
cũng chẳng toàn thiện, mà bị thay đổi
theo diễn biến của các sự kiện. Hay như
các vị thời Kỷ Nguyên Mới từng nói,
"Chúa ư, có vẻ ông ấy cũng tiến hóa
nhiều đấy."
Alvin đang làm việc trong cửa tiệm
của mình thì nghe thấy một giọng ồm ồm
từ trên cao phán xuống, "Alvin, hãy bán
cửa hiệu của ngươi đi!" Anh ta mặc kệ.
Nhưng giọng nói đó cứ tiếp tục ra lệnh
hết ngày nọ sang ngày kia, "Alvin, hãy
bán cửa hiệu của ngươi lấy ba triệu đô
la!" Sau nhiều tuần lễ, anh ta mềm lòng
và bán cửa hiệu.
Giọng nói phán, "Alvin, hãy đến Las
Vegas!"
Alvin hỏi tại sao.
"Alvin, cứ đem ba triệu đô và đến
Las Vegas đi."
Alvin vâng lời, đến Las Vegas và ghé
vào một sòng bạc.
Giọng đó nói, "Alvin, hãy đến bàn
chơi bài xì dách và đặt hết tiền đi!"
Alvin lưỡng lự nhưng cũng đặt cược.
Anh ta được chia hai quân, tổng điểm là
mười tám. Nhà cái lật ra một con sáu.
"Alvin, cầm một quân bài lên!"
"Cái gì cơ? Nhà cái có mỗi..."
"Cầm một quân bài lên!"
Alvin bảo nhà cái chia bài cho anh ta,
và nhận được một quân Át. Mười chín.
Anh ta thở dễ hơn.
"Alvin, lấy một quân bài nữa."
"Cái gì cơ?"
"LẤY MỘT QUÂN BÀI NỮA!"
Alvin xin một quân bài nữa. Lại là
một con Át. Anh ta có hai mươi.
"Alvin, lấy một quân bài nữa!" giọng
nói ra lệnh. "Tôi có hai mươi rồi!" Alvin
gắt lên.
"LẤY MỘT QUÀN BÀI NỮA!"
giọng nói vang lên.
"Lấy bài!" Alvin nói. Anh ta lại được
một con Át nữa. Hai mươi mốt!
Giọng nói ồm ồm từ trên cao thốt lên,
"Ôi ngũ linh, con bà nó không thể tin
được!
(Theo luật chơi bài xì dách Blackjack, khi có
năm quân bài trên tay mà tổng điểm từ 21 trở
xuống thì người chơi thắng tuyệt đối.)
Ô, có gì đó thật là thú vị khi Chúa có
thể ngạc nhiên về chính mình.
NGUYÊN TẮC TIẾT KIỆM
Trong triết học vẫn luôn tồn tại
khuynh hướng phản siêu hình học, phát
triển tới đỉnh điểm đồng thời với cuộc
khải hoàn của thế giới quan khoa học
trong hai thế kỷ qua. Rudolf Carnap và
Nhóm Vienna (
The Vienna Circle, hiệp hội
các nhà triết học tập hợp xung quanh đại học
Vienna năm 1922, còn có tên là Hội Ernst
Mach (the Ernst Mach Society
).(không phải
nhóm nhạc disco của thập niên bảy mươi
như nhiều người hay nhầm lẫn) còn đi xa
đến mức tuyên bố đặt dấu chấm hết cho
siêu hình học như một tập hợp các tư
tưởng phi lý đã bị khoa học bác bỏ.
Rudy và Nhóm Vienna đã lấy cảm
hứng từ nhà thần học thế kỷ mười bốn
William Occam, cha đẻ của nguyên tắc
tiết kiệm, nối tiếng với tên gọi "dao cạo
Occam". Nguyên tắc này tuyên bố rằng
"Các lý thuyết không nên phức tạp hơn
mức cần thiết." Hoặc, như Occam diễn tả
theo siêu hình học, các lý thuyết không
nên "sản sinh ra các thực thể một cách
vô ích".
Giá sử Isaac Newton nhìn quả táo rơi
và kêu lên, "Tôi hiểu rồi! Quả táo đang
bị kẹt trong một cuộc kéo co giữa hai lũ
quỷ, một lũ kéo lên và một lũ kéo xuống,
và bọn kéo xuống mạnh hơn!"
Occam chắc sẽ đập lại, "Tốt lắm,
Isaac, vậy là lý thuyết của ông giải thích
được tất cả những sự kiện có thể quan
sát, nhưng hãy tuân theo nguyên tắc - giữ
cho nó đơn giản!"
Carnap có lẽ tán thành.
Có lần sau bữa tối, một cậu bé năm
tuổi hỏi bố, "Bố ơi, mẹ đi đâu rồi?"
Bố cậu bé đáp, "Mẹ đang dự tiệc
Tupperware."
Câu trả lời chỉ làm cậu bé thỏa mãn
trong tích tắc, sau đó nó lại hỏi, "Tiệc
Tupperware là cái gì hở bố?"
Ông bố nghĩ một cách giải thích đơn
giản là hay nhất. "Thế này, con trai ạ,"
ông nói, "ở bữa tiệc Tupperware, có một
đám các bà tụ tập lại và bán những chiếc
bát nhựa cho nhau."
Thăng bé bật cười. "Thôi mà, bố!
Thật ra nó là cái gì?"
Sự thật đơn giản, bữa tiệc
Tuppperware đúng là một đám các bà tụ
tập và bán bát nhựa cho nhau. Nhưng các
chuyên gia tiếp thị ở Tập đoàn
Tuppperware, vốn là những người siêu
hình, hẳn sẽ khiến chúng ta tin rằng nó
phức tạp hơn thế.
(Công ty Tupperware sản xuất đồ đựng thức
ăn và dụng cụ nhà bếp do Earl Silas Tupper sáng
lập vào năm 1946 tại Mỹ hiện nay đã phát triển
thành một tập đoàn bán lẻ trực tiếp đa quốc gia.
Bữa tiệc Tupperware là hình thức bán lẻ bát đĩa
thông qua tổ chức tiệc, người đứng ra tổ chức
tiệc thường là phụ nữ, tình cảm của khách mời
dành cho nữ chủ nhân sẽ khiến họ mua hàng hóa
của chủ nhà.)
DIMITRI: Tôi hỏi cậu một câu hỏi
đơn giản, mà cậu lại cho tôi cả chục câu
trả lời khác nhau. Thật chả giúp ích gì.
TASSO: Nếu cậu cần được giúp, thì
đi mà tìm đám công tác xã hội. Tôi nghe
nói ở Sparta bọn họ đông lắm.
DIMITRI: Không, tôi chỉ muốn biết
câu trả lời nào là đúng thôi.
TASSO: Aha! Bây giờ chúng ta đã đạt
được cái gì rồi đó.
II
LOGIC
Không có logic, lý lẽ vô dụng.
Có nó, bạn có thể thắng trong những
cuộc tranh cãi
và khiến các đám đông phải tránh xa.
DIMITRI: Có nhiều môn phái triết
học cạnh tranh nhau quá. Làm sao tôi
biết chắc cái nào đúng?
TASSO: Ai nói có cái gì đúng nào?
DIMITRĨ: Cậu lại thế rồi. Tại sao cậu
luôn trả lòi một câu hỏi bằng một câu hỏi
khác vậy?
TASSO: Cậu bực mình vì thế à?
DIMITRI: Tôi thậm chí chẳng biết tại
sao tôi lại hỏi nữa, vì một số thứ nhất
định phải đúng chứ. Như hai cộng hai
bằng bốn chẳng hạn. Nó đúng, chấm hết.
TASSO: Nhưng sao cậu tin chắc như
thế?
DIMITRI: Bỏi vì tôi là một người
Athen thông minh.
TASSO: Đó là vấn đề khác. Nhưng lý
do cậu có thể tin chắc hai cộng hai bằng
bốn là bởi vì nó tuân theo những quy tắc
logic bất di bất dịch.
oOo
LUẬT PHI MẦU THUẪN
Tasso đúng.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng một truyện
cười kinh điển xuất phát từ logic của
Aristotle.
Một giáo sĩ Do Thái đang xử kiện
trong làng. Schmuel đứng lên tố cáo:
"Thưa thầy, hằng ngày Itzak lùa cừu của
hắn qua ruộng nhà tôi và giẫm nát lúa
của tôi. Đây là đất của tôi. Như vậy
không công bằng."
Giáo sĩ nói, "Anh nói đúng!"
Nhưng Itzak đứng lên và nói, "Nhưng
thưa thầy, đi qua đất của hắn là con
đường duy nhất để bẩy cừu của tôi có thể
uống được nước ở đầm. Nếu không thế,
chúng sẽ chết. Hàng trăm năm nay, những
người chăn cừu có quyền lùa cừu qua
mảnh đất xung quanh đầm, và tôi cũng
thế."
Giáo sĩ nói, "Ông nói đúng!"
Bà quét dọn nghe lỏm được câu
chuyện, nói với giáo sĩ, "Nhưng thưa
thầy, không thể cả hai người đều đúng
được!"
Và giáo sĩ trả lời, "Bà nói đúng!"
Bà quét dọn đã thông báo cho giáo sĩ
biết rằng ông ta vi phạm Luật Phi Mâu
Thuẫn của Aristotle; đối với giáo sĩ thì
việc này không đến nỗi tồi tệ như vi
phạm luật cấm thèm muốn đầy tớ gái nhà
hàng xóm, nhưng cũng gần như thế. Luật
Phi Mâu Thuẫn nói rằng không có cái gì
cùng lúc vừa như thế lại vừa không như
thế.
LẬP LUẬN PHI LOGIC
Lập luận phi logic là tai họa của các
triết gia, nhưng có Trời hiểu, đôi khi nó
cũng có ích. Có lẽ đó là lý do vì sao nó
phổ biến đến thế.
Một người Ireland bước vào một quán
bar ở Dublin, gọi ba vại bia Guinness,
lần lượt uống mỗi vại một ngụm cho đến
khi cả ba vại bia đều cạn sạch. Ông ta
gọi thêm ba vại nữa. Chủ quán nói, "Có
lẽ, ông nên gọi mỗi lần một cốc thì nó sẽ
đỡ nhạt đi."
Người kia nói, "Ồ tôi biết chứ, nhưng
tôi có hai ông anh, một ở Mỹ, một ở Úc.
Khi chia tay nhau mỗi người đi một ngả,
chúng tôi đã cùng hứa sẽ uống theo cách
này để nhớ những ngày còn được ngồi
uống với nhau. Mỗi một cốc này là uống
cho mỗi anh tôi, còn cốc thứ ba là uống
cho tôi."
Chủ quán xúc động nói, "Thật là một
thói quen tuyệt vời!"
Người Ireland ấy trở thành khách
quen ở quán và luôn luôn gọi bia theo
cách đó.
Một hôm, ông ta bước vào và gọi hai
vại bia. Các khách quen khác nhận ra
điều này, và một bầu không khí im lặng
bao trùm trong quán. Khi ông ta đến quầy
để gọi lượt hai, chủ quán nói, "ông bạn,
tôi xin chia buồn cùng ông."
Người Ireland nói, "Ồ không, mọi
người vẫn khỏe cả. Chỉ là tôi vừa gia
nhập Giáo hội Mormon, và tôi phải bỏ
bia rượu."
Nói cách khác, logic vị kỷ cũng có thể
được việc cho bạn lắm chứ.
LOGIC QUY NẠP
Logic quy nạp đi từ các trường hợp
riêng biệt đến các lý thuyết chung, và là
phương pháp được sử dụng để khẳng
định các lý thuyết khoa học. Nếu quan
sát đủ lượng táo rụng từ trên cây, bạn sẽ
kết luận rằng táo luôn rơi xuống chứ
không bay lên hoặc sang ngang. Từ đó,
bạn có thể đi đến một giả thuyết tổng
quát hơn, gộp cả những vật thể rơi khác,
như quả lê chẳng hạn. Tiến trình khoa
học diễn ra như vậy đấy.
Trong lịch sử văn học, không có nhân
vật nào nổi tiếng về năng lực "suy diễn"
như thám tử Sherlock Holmes gan dạ,
nhưng phương pháp của Holmes nhìn
chung không hề dùng logic diễn dịch.
Thực ra ông dùng logic quy nạp. Trước
tiên, ông nghiên cứu kỹ tình huống, sau
đó, dựa trên những kinh nghiệm trước đó
của mình, dùng phép loại suy và xem xét
các khả năng có thể xảy ra, rồi mới đưa
ra kết luận chung, tương tự như trong
mẩu chuyện sau đây:
Holmes và Watson đi cắm trại. Nửa
đêm Holmes thức giấc, huých bác sĩ
Watson một cái:
"Watson," ông nói, "hãy nhìn lên bầu
trời và nói cho tôi biết anh thấy gì?"
"Tôi thấy hàng triệu ngôi sao, Holmes
ạ," Watson đáp.
"Và từ đó anh rút ra kết luận gì hả
Watson?"
Bác sĩ Watson suy nghĩ một lát. "ờ",
ông nói, "về thiên văn, tôi thấy rằng có
hàng triệu thiên hà và có thể có hàng tỷ
hành tinh, về chiêm tinh, tôi thấy Sao
Thổ đang ở trong cung Sư tử, về thời
khắc, tôi suy ra bây giờ vào khoảng ba
giờ mười lăm. Về thời tiết, tôi hy vọng
ngày mai chúng ta sẽ có một ngày đẹp
trời, về thần học, tôi thấy Chúa là toàn
năng còn chúng ta thật nhỏ bé và vô
nghĩa. À, còn anh thì thấy gì, Holmes?"
"Watson, anh ngốc quá! Có kẻ đã trộm
mất cái lều của chúng ra rồi!"
Chúng ta không biết chính xác Holmes
đã đi đến kết luận của mình như thế nào,
nhưng có lẽ đại khái là thế này:
1. Tôi đã đi ngủ trong lều, nhưng bây
giờ tôi có thể thấy sao trời.
2. Trực giác của tôi đưa ra giả thuyết,
dựa trên việc loại suy các kinh nghiệm
tương tự tôi có trong quá khứ, rằng ai đó
đã lấy trộm lêu của chúng tôi.
3.Để kiểm tra giả thuyết đó, chúng ta
hãy xem xét các giả thuyết lựa chọn
khác:
a.Có lẽ chiếc lều vẫn còn đấy, nhưng
ai đó đang chiếu một bức tranh trời sao
lên mái lều. Điều này khó có thể xảy ra,
dựa trên kinh nghiệm quá khứ của tôi về
hành vi của con người và kinh nghiệm
bảo tôi nhất định phải có thiết bị trong
lều trại, nhưng rõ ràng là không có.
b.Có lẽ chiếc lều bị gió thổi bay đi
mất. Điều này khó có thể xảy ra, vì kinh
nghiệm quá khứ của tôi đã dẫn tôi đến
kết luận rằng nếu gió mạnh đến thế hẳn
đã đánh thức tôi dậy, mặc dù có thế
không làm Watson thức giấc.
c.Vân vân, vân vân và vân vân.
4.Không, tôi nghĩ giả thuyết ban đầu
của tôi có lẽ là đúng. Kẻ nào đó đã lấy
trộm cái lều.
Đây chính là quy nạp. Hóa ra bao lâu
nay chúng ta đã dùng sai thuật ngữ khi ca
ngợi kỹ năng suy luận của Holmes.
KHẢ NĂNG PHẢN NGHIỆM
Bệnh nhân: Đêm qua tôi mơ thấy tôi
lên giường với Jennifer Lopez và
Angelina Jolie, và ba chúng tôi đã làm
tình suốt đêm.
Bác sĩ tâm thần: Không còn nghi ngờ
gì nữa, ông có mong muốn thầm kín ngủ
với mẹ ông.
Bệnh nhân: Cái gì?! Không ai trong
hai người đó giống mẹ tôi chút xíu nào.
Bác sĩ tâm thần: A ha! Một phản ứng
ngược! Ổng nhất định đang kim nén
những dục vọng thật của ông.
Trên đây không phải là một truyện
cười, thực ra đó là cách mà một số tín đồ
của Freud lập luận. Và cách lập luận này
phức tạp ở chỗ: không lấy đâu ra những
tình huống thực tế mà ta có thể nhận biết
để bác bỏ lý thuyết về phức cảm Oedipe
kia. Trong bài phê phán logic quy nạp,
triết gia thế kỷ hai mươi Karl Popper lập
luận rằng để một lý thuyết đứng vững
được, nhất định phải có một số tình
huống khả dĩ có thể chứng minh rang nó
là sai. Trong câu chuyện núp bóng tiếu
lâm ở trên, không có tình huống nào như
thế để ông bác sĩ tâm thần tín đồ của
Freud có thể thừa nhận là chứng cứ.
Còn đây là một truyện cười thực thụ,
mô tả quan điểm của Popper rõ ràng
hơn:
Hai gã đang ăn sáng. Một gã phết bơ
vào miếng bánh mì nướng và nói, "Cậu
có bao giờ để ý thấy, nếu cậu đánh rơi
một lát bánh mì, mặt phết bơ luôn úp
xuống dưới không?"
Gã thứ hai nói, "Không, tớ dám cá là
chỉ có vẻ thế thôi, vì nếu mặt phết bơ úp
xuống thì phải lau dọn sàn nhà rất khó
chịu. Tớ cược là khi nó rơi mặt có bơ
thường quay lên trên."
Gã thứ nhất nói, "Thế hả? Nhìn đây
này." Anh ta thả lát bánh xuống sàn nhà,
mặt phết bơ quay lên trên.
Gã thứ hai nói, "Thấy chưa, tớ đã bảo
mà".
Gã thứ nhất nói, "Ồ, tớ biết tại sao
rồi. Tại tớ phết bơ sai mặt!"
Đối với anh chàng này, không có bất
kỳ chứng cứ nào có thể chứng minh lý
thuyết của gã là sai.
LOGIC DIỄN DỊCH
Logic diễn dịch đi từ cái chung đến
cái riêng. Cốt lõi của lập luận diễn dịch
là phép tam đoạn luận "Mọi người đều
phải chết; Socrates là người; suy ra
Socrates phải chết." Điều đáng ngạc
nhiên là mọi người rất hay lẫn lộn, và họ
lập luận thế này, "Mọi người đều phải
chết; Socrates chết, suy ra Socrates là
người," như vậy là phi logic. Nói thế
chẳng khác nào nói, "Mọi người đều
phải chết, con chuột lang của thằng con
tôi chết, vậy con chuột lang là người."
Một cách khác để làm hỏng suy luận
diễn dịch là lập luận từ một tiền đề sai.
Một anh cao bồi già bước vào quán
rượu gọi một ly. Trong lúc anh ta đang
ngồi nhấm nháp whiskey thì có một cô
gái trẻ ngồi xuống bên cạnh. Cô gái quay
sang hỏi, "Anh có phải là cao bồi chính
hiệu không?"
Anh ta đáp, "ờ, tôi sống cả đời ở nông
trại, chăn ngựa, chữa hàng rào, đóng dấu
gia súc, nên tôi nghĩ tôi là cao bồi."
Cô gái nói, "Còn tôi là người đồng
tính nữ, suốt ngày tôi chỉ nghĩ về đàn bà.
Buổi sáng vừa ngủ dậy tôi nghĩ ngay đến
đàn bà. Khi tôi tắm hay xem ti vi, dường
như cái gì cũng khiến tôi nghĩ đến đàn bà
cả."
Lát sau, một đôi trai gái ngồi xuống
bên cạnh gã cao bồi và hỏi, "Anh có phải
là cao bồi chính hiệu không?"
Anh ta đáp, "Trước tôi cứ tưởng tôi là
cao bồi, nhưng tôi vừa mới phát hiện hóa
ra tôi là người đồng tính nữ."
Phân tích chính xác xem anh chàng
cao bồi kia đã sai ở đâu có lẽ là một
việc khá vui. Cũng có thể không vui.
Nhưng dù sao chúng tôi cũng sẽ thử.
Lần đầu tiên, trả lời cho câu hỏi anh
ta có phải cao bồi thật không, anh ta lập
luận như sau:
1.Nếu ai đó dành toàn bộ thời gian
của mình làm những công việc của cao
bồi, thì anh ta là cao bồi chính hiệu.
2.Tôi dùng toàn bộ thời gian của tôi
làm những công việc của cao bồi.
3 Do đó, tôi là một cao bồi chính
hiệu.
Cô gái lập luận:
1. Nếu một người phụ nữ dành toàn bộ
thời gian của mình nghĩ về phụ nữ, thì cô
ta là một người đồng tính nữ.
2. Tôi là một phụ nữ.
3. Tôi dành toàn bộ thời gian của
mình nghĩ về phụ nữ.
4. Do đó, tôi là một người đồng tính
nữ.
Khi anh cao bồi đi đến cùng kết luận
như cô gái, anh ta đã thừa nhận một tiên
đề sai đối với trường hợp của bản thân:
đó là (2) - tôi là một phụ nữ.
Sao nào, chúng tôi chưa từng hứa với
các bạn rằng triết học và truyện cười là
một.
LẬP LUẬN QUY NẠP THEO PHÉP
LOẠI SUY
Không có gì giống như một lập luận từ
phép loại suy. Ờ, có lẽ một con vịt thì
giống. Có thể thấy lập luận loại suy được
sử dụng trong câu trả lời cho câu hỏi: ai
hoặc cái gì đã tạo ra vũ trụ. Một số nhà
tư tưởng lý luận rẳng: Vì vũ trụ giống
như chiếc đồng hồ, nên phải có Đấng chế
tạo đồng hồ. Như triết gia Anh theo chủ
nghĩa kinh nghiệm thế kỷ mười tám
David Hume đã chỉ ra, đó là một lý lẽ
không đáng tin cậy, vì không có cái gì
hoàn toàn tương tự với cả vũ trụ, trừ phí
nó là một vũ trụ khác, do đó chúng ta
không nên đi chệch sang bất cứ cái gì
vốn chỉ là một phần của vũ trụ
này
. Tại
sao lại là chiếc đồng hồ? Hume đặt câu
hỏi. Tại sao không nói vũ trụ tương tự
con chuột túi chẳng hạn? Nói cho cùng,
thì cả hai đều là những hệ thống gắn kết
hữu cơ. Nhưng nếu dùng con chuột túi
chúng ta sẽ đi dến một kết luận rất khác
về nguồn gốc vũ trụ: đó là, nó được sinh
ra từ một vũ trụ khác sau khi vũ trụ khác
đó giao phốí với một vũ trụ thứ ba. Lập
luận loại suy cơ bản dựa trên giả định
rằng, vì một số khía cạnh của A tương tự
với B, nên các khía cạnh khác của A
cũng tương tự với B. Tuy nhiên thực tế
không phải lúc nào cũng thế.
oOo
Gần đây, lập luận về chiếc đồng hồ và
Đấng chế tạo đồng hồ đã quay lại dưới
hình thức "lý thuyết" Thiết kế Thông
minh. Lý thuyết này cho rằng cấu tạo cực
kỳ phức tạp của các vật thể tồn tại trong
tự nhiên (như bông tuyết, nhãn cầu, hạt
quartz) chứng tỏ phải có một nhà thiết kế
siêu thông minh. Khi Hội đồng Giáo dục
của thành phố Dover, Pennsylvania được
đề nghị đưa Thiết kế Thông minh vào
chương trình giảng dạy trong nhà trường
như một "lựa chọn thêm" bên cạnh thuyết
tiến hóa, ông chủ tịch Hội đồng John
Jones III đã khuyên các tác giả của ý
tưởng này nên quay trở lại ngồi trên ghế
nhà trường. Trong ý kiến trả lời bằng văn
bản thường là hóm hỉnh của mình, Jones
đã không cưỡng lại được việc châm chọc
những chuyên gia phe bảo vệ lý thuyết
Thiết kế Thông minh. Chẳng hạn, một vị
giáo sư thừa nhân rằng lập luận theo
phép loại suy thường có khiếm khuyết,
nhưng "nó vẫn hữu hiệu trong các phim
khoa học giá tưởng".
Thế đấy, còn ai tiếp tục bênh vực nữa,
xin mời!
Lập luận loại suy còn có một vấn đề
khác là từ những quan điểm khác nhau
bạn sẽ có những cách loại suy hoàn toàn
khác nhau.
Ba sinh viên ngành kỹ thuật đang thảo
luận về ngành nghề của vị Chúa đã thiết
kế cơ thể con người. Sinh viên thứ nhất
nói, "Chúa phải là kỹ sư cơ khí. Cứ xem
các khớp thì biết."
Anh thứ hai nói, "Tôi nghĩ Chúa phải
là kỹ sư điện. Hệ thần kinh có hàng ngàn
mối liên kết điện."
Người thứ ba nói, "Thật ra, Chúa là
kỹ sư xây dựng dân dụng. Ngoài Ngài ấy
ra, còn ai có thể đặt đường ống nước thải
độc hại đi qua khu vui chơi giải trí nào?"
Nói chung, các lập luận loại suy
không thuyết phục lắm. Chúng không
cung cấp cho ta độ chắc chắn cần thiết
trong những vấn đề liên quan đến những
niềm tin cơ bản như sự tồn tại của Chúa.
Không gì tệ hơn phép loại suy tồi của
một nhà triết học, có lẽ chỉ trừ phép loại
suy của một học sinh trung học. Bằng
chứng là kết quả cuộc thi "Những câu
loại suy dở nhất trong một bài luận
trường trung học" do tờ Washington Post
tổ chức:
1. "Bị số phận nghiệt ngã chia cắt lâu
ngày, đôi tình nhân bất hạnh băng qua
đồng cỏ lao đến gặp nhau như hai đoàn
tàu chở hàng, một đoàn tàu rời Cleveland
lúc 6:36 chiều, chuyển động với tốc độ
55 dặm một giờ, đoàn tàu kia xuất phát
từ Topeka lúc 7:47 tối với tốc độ 35
dặm một giờ"
2. "John và Mary chưa bao giờ gặp
nhau. Họ giống như hai con chim ruồi
cũng chưa bao giờ gặp nhau."
3. "Con thuyền nhỏ êm đềm trôi qua
đầm đúng như cái cách mà một quả bóng
bowling không bao giờ có thể trôi."
4. Từ trên căn buồng áp mái vọng
xuống tiếng hú ghê rợn. Toàn bộ cảnh này
có một tính chất ma quái, dị thường - như
thể bạn đang đi nghỉ ở một thành phố
khác và chương trình Jeopardy lên sóng
lúc 7 giờ tối thay vì 7:30.
PHÉP NGỤY BIỆN "POST HOC
ERGO PROPTER HOC"*
*
Tiếng Latinh, có nghĩa là: "Đến
sau do đó là hậu quả của cái trước" -
một lỗi logic có thể diễn giải như sau:
"Vì sự kiện đó đi sau sự kiện này, nên
sự kiện đó do sự kiện này mà ra."
Trước hết, xin nói qua về tập quán xã
hội của thuật ngữ này: trong một số nhóm
giao tiếp, khi được thốt lên kèm một bộ
mặt nghiêm trang, câu này có thể giúp
bạn gặp may ở một bữa tiệc. Thật thú vị,
hiệu quả sẽ ngược lại hoàn toàn khi nó
được nói bằng tiếng Anh: "After this,
therefore because of this." ("Đến sau, do
đó là kết quả của cái trước.") Hãy tự tìm
hiểu đi.
Câu này mô tả lỗi giả định rằng vì một
sự vật
theo sau
sự vật khác, nó phải do
cái kia
gây ra
. Vì những lý do rõ ràng,
cách suy luận sai lầm này phổ biẽn trong
những diễn ngôn chính trị xã hội, như
"phần lớn những người dính vào heroin
đều bắt đầu từ cần sa". Đúng, nhưng còn
nhiều người bắt đầu từ sữa hơn.
Post hoc
được luận giải khá thú vị
trong một số nền văn hóa: "Mặt trời mọc
khi gà gáy, do đó tiếng gà gáy làm mặt
trời mọc." Cảm ơn gà trống nhé. Hoặc
đây, một câu chuyện của đồng nghiệp
chúng tôi:
Sáng nào cô ấy cũng bước ra trước
hiên nhà và trang trọng nói lớn, "Cầu cho
ngôi nhà này không bị lũ hổ quấy nhiễu!"
Rồi lại bước vào.
Cuối cùng, chúng tôi bảo cô ấy, "Cô
nói cái gì thế? Trong bán kính một nghìn
dặm quanh đây làm gì có hổ."
Cô ấy đáp, "Các anh thấy chưa? Có
tác dụng thế còn gì!"
Truyện cười theo mô tip
post hoc
sinh
sôi tỷ lệ thuận với những nhầm lẫn của
con người.
Một quý ông Do Thái lớn tuổi cưới
một cô vợ trẻ, và họ yêu nhau thắm thiết.
Tuy nhiên, dù đức ông chồng nỗ lực cách
mấy trên giường, chị vợ cũng không bao
giờ đạt cực khoái. Vì một người vợ Do
Thái có quyền hưởng khoái cảm tình dục,
nên họ quyết định đến hỏi giáo sĩ. Nghe
đôi vợ chồng trình bày xong, ông giáo sĩ
vuốt râu, và đưa ra lời gợi ý sau đây:
"Hãy thuê một thanh niên to khỏe. Khi
hai người làm tình, thì nhờ anh ta vẫy
vẫy chiếc khăn tay ở phía trên. Việc đó
sẽ giúp cho người vợ trở nên mơ màng
và hẳn sẽ đem lại cực khoái."
Đôi vợ chồng đi về nhà và làm theo
lời khuyên của giáo sĩ, họ thuê một anh
chàng đẹp mã vung vảy chiếc khăn khi họ
làm tình. Vô ích, chị vợ vẫn không thỏa
mãn.
Bối rối, họ lại tìm tới ông giáo sĩ.
"Thôi được", giáo sĩ nói với đức ông
chồng, "hãy thử làm ngược lại. Để người
thanh niên làm tình với vợ ông, còn ông
thì vẫy khăn phía trên họ." Một lần nữa,
hai vợ chồng lại làm theo lời khuyên của
giáo sĩ.
Anh chàng đẹp trai lên giường với chị
vợ, còn ông chồng đứng vẫy khăn. Chàng
trai vào việc hết sức khí thế, chẳng mấy
chốc chị vợ đã cực khoái, la hét rung
chuyển cả căn buồng.
Người chồng mỉm cười nhìn chàng
trai, đắc thắng nói, "Thằng đần ạ, phải
biết vẫy khăn như thế chứ!"
Tiếp nhé, một truyện cười
post hoc
cuối cùng. Chắc chắn đấy.
Trong nhà dưỡng lão, một ông lão
ngoại bát tuần diện quần lửng màu hồng
tươi đến gặp một bà sắp lên lão và nói,
"Hôm nay là sinh nhật tôi!"
"Tuyệt," bà kia đáp. "Tôi cá tôi có thể
nói chính xác ông bao nhiêu tuổi."
"Thật ư? Bao nhiêu?"
Bà kia nói, "Dễ lắm, ông cởi quần
ra."
Ông già cởi quần.
"Tốt lắm," bà ta nói, "bây giờ cởi tiếp
quần đùi ra."
Ông lão làm theo lệnh của bà ta. Bà ta
sờ mó ông một lúc rồi nói, "ông tám
mươi tư tuổi!"
Ông lão sửng sốt, "Sao bà biết?"
Quý bà đáp, "Ông nói với tôi hôm
qua."
Ông lão đã sập một cái bẫy cũ nhất
trong những cái bẫy được mô tả trong
sách này,
post hoc ergo propter hoc
:
quý bà nói tuổi của ông lão
sau khi
sờ
mó, còn ông lão nghĩ vì đã sờ mó nên bà
ta đoán được... Những thứ gọi là
nhân
quả
này lúc nào cũng khiến người ta lẫn
lộn.
Nói chung, chúng ta thường bị
post
hoc ergo propter hoc
đánh lừa vì không
để ý đến tác động của một nguyên nhân
khác.
Một thằng bé người New York được
anh họ dẫn đi qua đầm lầy ở Louisiana.
"Có phải cá sấu sẽ không tấn công nếu
mình mang theo đèn pin không?" thằng bé
thành thị hỏi.
Anh họ nó đáp, "Tùy mày mang đèn
pin có nhanh không?"
Thằng bé thành thị nghĩ đèn pin là
proter
(nguyên nhân) trong khi nó chỉ là
chỗ dựa tinh thần.
NGỤY BIỆN MONTE CARLO
Các tay cờ bạc không xa lạ gì với
Ngụy biện Monte Carlo. Nhưng một số
họ có thể sẽ ngạc nhiên khi biết ra nó là
một phép ngụy biện. Có thể bọn họ coi
nó là Chiến lược Monte Carlo. Quả thật,
đó chính là điều đám hồ lì trông đợi.
Chúng ta biết rằng bánh xe rulét có
một nửa số ô đỏ và một nửa số ô đen,
nghĩa là có 50% cơ hội nó dừng ở ô đỏ.
Nếu chúng ta quay bánh xe rất nhiều lần -
chẳng hạn 1.000 - và bánh xe không bị
chơi gian hay bị lỗi, thì trung bình nó
dừng lại 500 lần ở vị trí đỏ. Do đó, nếu
quay bánh xe sáu lần mà cả sáu lần nó
đều dừng lại ở ô đen, chúng ta có khuynh
hướng nghĩ mình có lợi thế nếu đặt cược
ô đỏ ở vòng thứ bảy. Đỏ phải "tới" rồi
chứ, đúng không? Sai. Bánh xe cũng có
xác suất dừng ở đỏ trong vòng quay thứ
bảy đúng 50 phần trăm y như ở các vòng
quay khác, và dù đen liên tục xuất hiện
bao nhiêu lần đi nữa thì điều này vẫn
đúng.
Và đây là một lời khuyên khôn ngoan
dựa trên Ngụy biện Monte Carlo dành
cho các bạn:
Nếu sắp lên một chiếc máy bay
thương mại, vì lý do an toàn cho bản
thân, hãy mang theo một quả bom... bởi
vì xác suất có hai gã mang bom lên cùng
một chiếc máy bay là quá nhỏ.
LẬP LUẬN VÒNG QUANH
Lập luận vòng quanh là lối lập luận
mà trong đó luận cứ cho một mệnh đề
chứa đựng chính mệnh đề đó. Thông
thường, lập luận vòng quanh vốn đã khôi
hài, chẳng cần ai phải thêm mắm dặm
muối cả.
Mùa thu. Dân trong khu Anh-điêng
đến hỏi thủ lĩnh mới của mình liệu mùa
đông tới có lạnh giá hay không. Nhưng vị
thủ lĩnh này lại là người hiện đại, chưa
hề được truyền dạy các bí quyết cổ xưa,
không sao biết được mùa đông tới sẽ
lạnh giá hay ấm áp. Để phòng xa, ông
khuyên bộ lạc hãy đi kiếm củi chuẩn bị
cho mùa đông giá rét. Mấy ngày sau, sực
nghĩ ra, mặc dù hơi muộn, ông gọi điện
cho Nha Khí tượng, hỏi họ có dự báo
mùa đông sẽ lạnh hay không. Nha Khí
tượng trả lời rằng quả thật họ nghĩ mùa
đông này có thể sẽ rất lạnh. Vị thủ lĩnh
bèn khuyên bộ lạc trữ thêm nhiều củi
nữa.
Vài tuần sau, vị thủ lĩnh quyết định
hỏi lại Nha Khí tượng. "Các vị vẫn dự
đoán mùa đông sẽ lạnh đấy chứ?"
"Chắc đấy," Nha Khí tượng trả lời.
"Có vẻ sẽ là một mùa đông rất lạnh."
Thủ lĩnh bèn khuyên bộ lạc tích cả đến
từng mảnh củi vụn mà họ kiếm được.
Vài tuần sau, thủ lĩnh gọi điện cho
Nha Khí tượng, hỏi tới đây mùa đông sẽ
thế nào. Nha Khí tượng nói, "Chúng tôi
dự báo sẽ là một mùa đông lạnh nhất từ
trước đến nay."
"Thật ư?" vị thủ lĩnh kêu lên. "Làm
sao các ông biết chắc thế?"
Nha Khí tượng đáp: "Người Anh-
điêng đang đi kiếm củi như điên!"
Vậy là luận cứ để vị thủ lĩnh cần tích
trữ thêm nhiều củi té ra chính là việc ông
đang cho tích trữ củi. May sao, ông ấy
đang dùng cưa máy.
NGỤY BIỆN DỰA VÀO TÔN
TRỌNG THẨM QUYỀN
ARGUMENTUM AD
VERECUNDIAM.
Lập luận dựa vào tôn trọng thẩm
quyền là một trong những kiểu lập luận
ưa thích của những người có chức tước.
Viện dẫn thẩm quyền để hỗ trợ lập luận
tự thân không phải là một ngụy biện
logic; ý kiến chuyên gia là luận cứ chính
đáng, bên cạnh những luận cứ khác. Cái
sai ở đây là ta dùng sự tôn trọng thẩm
quyền như khẳng định duy nhất cho ý
kiến của mình, bất chấp các luận cứ có
tính thuyết phục khẳng định điều ngược
lại.
Ted gặp bạn mình lal Al, kêu lên, "Al!
tớ nghe nói cậu đã chết!"
"Làm gì có chuyện đó," Al bật cười
đáp. "Cậu thấy đấy, tớ đang sống nhăn
răng."
"Không thể thế được!" Ted lẩm bẩm.
"Người nói với tớ điều đó đáng tin hơn
cậu nhiều."
Lập luận dựa vào thẩm quyền luôn
gắn vói nhân vật được ai đó xem là có
thẩm quyền chính đáng.
Một người bước vào tiệm bán vật
nuôi hỏi xem vẹt. Chủ tiệm cho anh ta
xem hai con vẹt đẹp nhất trong gian hàng.
"Con này 5.000 đô la còn con kia 10.000
đô la", ông ta nói.
"Chà!" người kia nói. "Con 5.000 đô
la biết làm gì?"
"Con vẹt này có thể hát mọi khúc aria
do Mozart sáng tác," chủ tiệm nói.
"Còn con kia?"
"Nó hát được cả chùm Opera Ring
của Wagner. Còn con nữa ở trong kia giá
30.000 đô la."
"Ôi trời! Nó làm được gì?"
"Tôi chưa nghe nó hát cái gì bao giờ,
nhưng hai con kia gọi nó là 'Đại sư'.
Theo các ý kiến có thẩm quyền của
chúng tôi, có một số bậc thẩm quyền có
uy tín hơn những bậc thẩm quyền khác;
nhưng rắc rối nảy ra khi người đối thoại
với bạn không chấp nhận những uy tín ấy.
Ta hãy xem câu chuyện từ kinh Talmud
của người Babylon hồi thế kỷ 1 dưới
đây.
Bốn vị giáo sĩ thường xuyên tranh cãi
về thần học, nhưng có ba vị luôn hùa
nhau chống lại một vị. Một hôm, ông
giáo sĩ lẻ loi, sau khi lại một lần nữa
thua do ba chọi một, quyết định cầu đến
một bậc thẩm quyền cao hơn.
"Lạy Chúa!" ông kêu lên. "Trong thâm
tâm con biết rằng con đúng và họ sai!
Xin Chúa cho con một dấu hiệu để chứng
minh điều đó với họ!"
Hôm đó là một ngày nắng đẹp. Giáo
sĩ vừa cầu nguyện xong, lập tức có ngay
một đám mây dông lướt qua bầu trời trên
đầu bốn người. Một tiếng sấm nổ rền, và
đám mây tan biến. "Một dấu hiệu từ
Chúa! Thấy chưa, tôi đúng, tôi biết mà!"
Nhưng ba người kia không đổng ý, họ lý
sự rằng mây dông vẫn thường hình thành
vào những ngày nóng nực.
Vì vậy, giáo sĩ kia lại cầu nguyện lần
nữa. "Lạy Chúa, con cần một dấu hiệu
lớn hơn để chứng tỏ rằng con đúng và họ
sai. Vậy con cầu xin Chúa cho con một
dấu hiệu lớn hơn!"
Lần này, bốn đám mây dông xuất hiện,
lao thẳng vào nhau để hình thành một
đám mây lớn, rồi một tia sét giáng xuống
cái cây trên ngọn đồi gần đó.
"Tôi đã bảo các ông là tôi đúng mà!"
ông giáo sĩ kêu lên, nhưng các bạn ông
khăng khăng nói rằng mọi hiện tượng xảy
ra không thể giải thích được bằng nguyên
nhân tự nhiên.
Vị giáo sĩ kia đang chuẩn bị cầu xin
một dấu hiệu rất, rất lớn, nhưng mới vừa
thốt lên "Lạy Chúa..." thì bầu trời bỗng
đen kịt, mặt đất rung chuyển, rồi một
giọng nói vang dội phán xuống,
"ÔÔÔÔÔÔÔÔNG ẤY Đ Ú Ú Ú Ú NG!"
Vị giáo sĩ chống tay ngang hông, quay
lại ba người kia và nói, "Được chưa?"
"Thế thì," một trong ba giáo sĩ còn lại
nhún vai, "bây giờ là ba chọi hai."
NGHỊCH LÝ ZENO
Nghịch lý là đoạn lập luận tưởng như
hợp lý dựa trên những giả định có vẻ
đúng nhưng dẫn đến một kết luận mâu
thuẫn hoặc sai bét. Nói khác đi một chút
thì ý trên có thể dùng để định nghĩa cho
truyện cười - hoặc ít ra là cho hầu hết
các truyện cười trong cuốn sách này. Có
gì đó thật phi lý khi những lập luận đúng
lại biến ra sai một cách có logic; và điều
phi lý thì thường gây cười. Nếu cùng lúc
giữ hai ý tưởng đối chọi nhau trong đầu,
óc bạn sẽ choáng váng. Nhưng quan
trọng nhất là, bạn có thể kể một nghịch lý
lắt léo trong bữa tiệc và đem lại tiếng
cười vui cho mọi người.
Về truyện cười liên quan đến hai ý
tưởng mâu thuẫn, Zeno thành Elea là bậc
thầy. Bạn hẳn đã nghe câu chuyện của
ông về cuộc chạy đua giữa Achilles và
con rùa? Achilles vốn chạy nhanh hơn
con rùa, nên con rùa được chấp cho xuất
phát sớm hơn nhiều. Khi nghe tiếng súng
lệnh, hay như người ta nói vào thế kỷ
năm trước Công nguyên, khi ngọn lao
phóng ra, mục tiêu đầu tiên của Achilles
là đến được điểm xuất phát của rùa. Tất
nhiên, lúc đó thì con rùa đã đi được một
đoạn đường ngắn rồi, cho nên bây giờ
Achilles phải đến được điểm
đó
. Nhưng
lúc chàng đến đó, con rùa đã lại rời đi
rồi. Dù Achilles đến được điểm mà rùa
đã tới trước đó bao nhiêu lần, thậm chí
vô hạn lần, Achilles cũng không bao giờ
bắt kịp được con rùa, mặc dù chàng đã
đến cực gần. Tất cả những gì mà con rùa
cần làm để thắng cuộc đua là không dừng
lại.
Phải, Zeno không phải là Leno (
James
Douglas Muir "Jay" Leno, người dẫn chương
trình và là diễn viên hài nổi tiếng người Mỹ
),
nhưng ở thế kỷ năm trước Công nguyên,
ông là một triết gia không tồi. Và giống
như một diễn viên tấu hài nổi tiếng của
thời ấy, Zeno có thể nói, "Truyện thế này
tôi có cả triệu." Thực ra tất cả chỉ có
bốn truyện. Một truyện khác là nghịch lý
đường đua của ông. Để chạy đến cuối
đường đua, người chạy trước hết phải
hoàn thành vô số quãng đường. Anh ta
phải chạy đến điểm giữa, rồi phải chạy
đến điểm giữa của khoảng cách còn lại,
rồi điểm giữa của khoảng cách vẫn còn
lại, v.v. và v.v. Nói theo lý thuyết, vì anh
ta phải chạy đến các điểm giữa vô hạn
lần, anh ta sẽ không bao giờ đến được
cuối đường. Nhưng tất nhiên [thực tế
thì], anh ta đến được. Ngay cả Zeno cũng
có thể thấy điều đó.
Còn đây là một truyện hài cũ như thể
do chính Zeno nghĩ ra:
Người bán hàng: "Thưa bà, cái máy
hút bụi này sẽ khiến công việc của bà
vơi đi một nửa."
Bà khách: "Hay quá! Lấy cho tôi hai
cái."
Trong câu chuyện này có một điều lạ
lùng. Nghịch lý đường đua đi ngược với
lẽ thường, ngay cả khi không thể chỉ ra
nó sai ở đâu, chúng ta vẫn tin rằng có
cái
gì đó
sai. Trong truyện cười về máy hút
bụi, cách lập luận của Zeno lại không hề
nghịch lý. Nếu mục đích của bà khách là
hoàn thành công việc mà không hề tốn dù
chỉ một chút thời gian, thì không có số
lượng máy hút bụi tiết kiệm thời gian nào
(và người sử dụng chúng đồng thời với
bà) có thế đáp ứng. Bật hai máy hút bụi
chỉ có thể giảm thời gian làm sạch thảm
đi ba phần tư; chạy ba cái, giảm được
năm phần sáu; và tiếp tục như thế, khi số
lượng máy hút bụi tăng đến vô hạn.
NGHỊCH LÝ LOGIC VÀ NGHỊCH
LÝ NGỮ NGHĨA
Gốc của toàn bộ các nghịch lý logic
và nghịch lý ngữ nghĩa là nghịch lý
Russell - gọi theo tên tác giả của nó, triết
gia Anh thế kỷ hai mươi - Bertrand
Russell. Nghịch lý đó thế này: "Liệu tập
hợp của tất cả các tập hợp không phải là
phần tử của chính chúng có phải là phần
tử của chính nó?" Điều này thật gây sốc -
đúng thế, nếu bạn tình cờ có bằng cấp
cao về toán học. Nhưng hẵng khoan. Thật
may, hai nhà logic học khác của thế kỷ
hai mươi là Grelling và Nelson đã xuất
hiện, với phiên bản dễ tiếp cận hơn của
nghịch lý Russell. Nghịch lý ngữ nghĩa
này xét khái niệm của các từ có ý nghĩa
với chính bản thân chúng.
Nghịch lý ngữ nghĩa còn được gọi là Nghịch
lý Grelling, hay Nghịch lý Nelson, hoặc Nghịch
lý heterological: Nếu nó là vậy, thì nó không
vậy; còn nếu nó không vậy, thì nó là vậy. Tiến sĩ
Kurt Grelling (1886-1942) là một nhà toán học
Đức từng có nhiều công trình chung với triết
gia người Đức Leonard Nelson (1882-1927).
Về cuối đời hai người tuyệt giao do nhiều bất
đồng "không thay đổi" được, trong đó có bất
đồng chính trị.
Thử tìm hiểu tiếp: có hai loại từ, một
loại tự nó mô tả nó (từ tự tả -
autological), còn loại kia không tự nó mô
tả được nó (từ không tự tả -
heterological). Ví dụ, các từ như "ngắn"
(bản thân nó ngẳn), hoặc "dài ngoẵng"
(bản thân vốn dài, nhiều âm tiết) là
autological. Còn "dài" (chỉ có một âm
tiết) là heterological. Vậy từ
heterological phải chăng là
heterological? Nếu nó không là vậy, thì
nó không vậy; còn nếu nó không là vậy,
thì nó là vậy. Ha! Ha!
Các bạn vẫn chưa cười được? Vậy
thì, đây là một trường hợp khác, khái
niệm triết học được chuyển dịch sang
truyện cười để trở nên sáng tỏ hơn:
Một thị trấn nọ chỉ có một bác phó
cạo duy nhất - nhân tiện nói thêm, bác ta
là đàn ông - cạo mặt cho tất cả đàn ông
trong thị trấn, và chỉ cạo cho những
người đàn ông nào không tự cạo mặt.
Vậy bác phó cạo có tự cạo mặt cho mình
không?
Nếu bác ta có (tự cạo mặt) thì không.
Nếu bác ta không (tự cạo mặt) thì có.
Đó là một nghịch lý Russell mà bạn
có thể kể khi dự tiệc.
Chúng tôi không thường vào thăm nhà
vệ sinh nữ, nên không biết trong đó xảy
ra những gì, nhưng chúng tôi biết chắc
rằng các độc giả nam giới đã quá quen
thuộc với những nghịch lý nguệch ngoạc
trên tường các ngăn vệ sinh nam, nhất là
trong các khu đại học. Chúng là những
nghịch lý logic ngữ nghĩa kiểu Russell
và Grelling - Nelson, nhưng ngắn gọn
hơn. Các bạn còn nhớ những nghịch lý
đó không? Có nhớ bạn đã bắt gặp chúng
ở đâu không?
"Câu này sai." Nó đúng hay sai?
Hay:
Một người cố gắng để thất bại và đã
thành công, vậy anh ta đã thất bại hay
thành công?
Chỉ để cho vui, lần tới, nếu vào nhà
vệ sinh, bạn hãy viết lên tường: "Từ
'không tự tả' thuộc loại từ
tự tả
hay từ
không tự tả
?" Một chuyện hay đáng để
làm đấy.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top