Mùa đồng-Lenghiabk05
Săn chim trời ở ngoại ô
(PL&XH)-Khi những cánh đồng lúa ở ngoại ô Hà Nội bắt đầu sậm vàng cũng là lúc từng đàn chim trời bay về đây kiếm mồi… Chúng đâu biết đến những chiếc bẫy và những gã thợ săn đang rình sẵn. Và rồi, nhiều chú chim vô tội đã bị quay vàng trên bếp lửa…
Săn chim…
Dũng, quê ở Chương Mỹ, Hà Nội, một thợ săn chim thứ thiệt cho biết: "Khi lúa bắt đầu chín cũng là lúc chim kéo về ăn thóc rất nhiều, và cũng là mùa gặt hái của cánh thợ săn chim. Giờ đã là giữa tháng 10 rồi, hy vọng từ nay đến hết tháng 11 em kiếm được cái tết cho gia đình". Dũng kể, có rất nhiều cách bẫy chim, nếu là cò thì dùng cò xốp dính keo rồi đặt ở các cánh đồng để nhử những chú cò thật, chú nào đáp xuống "thăm bạn" là bị dính chặt vào cò xốp. Nếu là chim ngói, chim sẻ thì phải bắt bằng lưới và chim mồi. Chim mồi có thể là chim thật bị xích chân, có thể là chim nhựa mua từ Trung Quốc… Chỉ vào chiếc bình ắc qui và một chiếc hộp to cỡ hòn gạch chỉ, Dũng nói: "Đó là máy phát âm thanh của Trung Quốc. Nó nhại được rất nhiều tiếng chim. Đúng là óc bé như óc chim anh ạ. Nghe tiếng kêu và phát hiện ra mấy con chim mồi là từng đàn chim bay xuống với bạn. Chúng em chỉ việc kéo lưới, túm cả đám, có mẻ được cả trăm con…".
Một sáng sớm cuối tháng 9 ta, tôi theo chân Dũng ra cánh đồng lúa gần thị trấn Xuân Mai đã gặt được quá nửa. Những gốc rạ vẫn còn tươi nguyên. Không khí chớm lạnh cuối Thu sực mùi ngai ngái của bùn, của những bông lúa trĩu vàng còn chưa kịp gặt. Một chiếc lưới được căng ra, dài khoảng 30m, hai đầu buộc vào hai cây sào nhỏ. Ngay sát cạnh là đám lá cao hơn đầu người để thợ săn ẩn nấp, rình rập… Dũng dặn tôi: "Khi đàn chim đáp xuống, em hô "giết" thì anh kéo mạnh cây sào để lưới sập xuống nhé". Trong cái tĩnh lặng của đồng lúa ngoại ô, tôi cảm nhận được sự "chết chóc", sự nguy hiểm đối với những chú chim vô tội… Hôm đó, chúng tôi chỉ bẫy được hơn chục con chim ngói. Nhìn những chú chim giãy giụa, kêu thét, tôi không đành "vặt lông vài con nhậu với em cho vui" theo lời mời của Dũng…
Mồi nhậu từ chim
Tại không ít nhà hàng cỡ 5 sao ở Hà Nội, món chim trời cũng đang được ưa chuộng với giá cắt cổ, khoảng 10 USD một con chim ngói. Không ít tay chơi quan niệm, những món ăn đắt tiền như ba ba, rắn rết, cá song, tôm hùm… chỉ có "nhà quê" mới gọi là đặc sản. "Đặc sản bây giờ phải là bọ xít rang, bọ cạp chiên giòn, cá giếc đồng kho nhừ, chim tự nhiên quay hoặc hấp…" - Hào, một nhân viên làm cho DN nước ngoài, lương tháng cỡ nghìn đô tâm sự.
Nhớ lại buổi săn chim cùng Dũng ở Xuân Mai, tôi quyết định ra ngoại ô xem người ta đã chế biến và nhậu món đặc sản chim trời như thế nào. Tôi và một đồng nghiệp lao xe về phía Quốc Oai, một địa danh nổi tiếng về bán chim trời ở Hà Nội. Khi cách cầu vượt Quốc Oai trên Đại lộ Thăng Long vài trăm mét, từ xa chúng tôi đã nhìn thấy rất nhiều những chiếc lều, lán dựng tạm để bán chim. Cạnh những chiếc lồng là đủ loại sẻ, ngói, cò, cu gáy, bồ câu đền gà lôi, gà đen… và tấp nập cảnh mua bán…
Có khá nhiều ô tô hạng sang đã dừng lại tại địa điểm này để mua chim. Chị bán chim là người xã Mỹ Ngọc cho biết: "Ngói 52.000 đồng/con, cò 70.000 đồng/con, bồ câu ta 120.000 đồng/con… Thịt ăn tại đây cũng được, mang về cũng được". Tôi hỏi: "Giữa cánh đồng lấy đâu ra nước sạch để thịt chim?". Chị chủ quán tỉnh bơ: "Thiếu gì nước sạch". Tuy nhiên, tìm mỏi mắt tôi cũng không thấy chậu nước sạch nào. Sau đó ít phút, chúng tôi phát hiện một sự thật rùng mình…Rửa chim bằng nước thải
Một chiếc xe ô tô Camry đô xịch trước những quán bán chim. Hai người đàn ông bụng phệ bước xuống hất hàm: "Ê, người đẹp làm thịt cho anh mấy con chim ngói nhậu chơi". Chị chủ quán nhanh chóng đổ nước sôi lên mình những con chim tội nghiệp. Chừng 1 phút giãy giụa, "kêu cứu", những con chim chết hẳn, chân duỗi thẳng đơ. Quan sát thấy hai ông khách đã say mèm, người phụ nữ xách những con chim ra vũng nước tù, đục ngầu và bốc mùi hôi hám ở chỗ khuất phía sau để vặt lông, mổ thịt. Tại bàn uống nước, hai ông khách vẫn ngồi uống nước, rung đùi chém gió…
Đưa những con chim đã phanh thây ra trước mặt hai ông khách, cô chủ quán nói: "Em thịt rồi. Giờ xiên vào que và mang ra phía sau đốt rơm để nướng. Thơm ngon phải biết". Nói rồi chạy ra đống đất phía sau, nhặt đại một chiếc que ở gần chuồng gà, cô chủ quán xiên những con chim ngói. Trong lúc nhóm lửa, chị vứt cả xiên chim lên chiếc chăn bông hôi rình của ai đó đã vứt dưới đất cả tháng… Vài phút sau, một người đàn ông ra nướng chim để người phụ nữ vào tiếp khách.
Chỉ vài phút, xiên chim nướng đỏ au được mang cho hai ông khách uống rượu. Một ông khách nói: "Thơm. Tuyệt… Em quả là tài, nướng đến nhanh. Ăn kiểu hương đồng gió nội thế này mới sướng"?! Nhìn người đàn ông nhồm nhoàm nhai chim tôi muốn ói vì biết nó "thơm" nhờ có thêm mùi nước thối và cả mùi chăn bẩn! Tôi hỏi: "Cứ săn chim, thịt chim trời tràn lan thế này thì mấy mà bầu trời hết chim? Và biết đâu những đứa trẻ thế hệ sau sẽ hỏi mẹ, hỏi bà: Chim hót thế nào nhỉ?". Chị chủ quán tưng tửng nói: "Rõ chán cái anh này. Đó là chuyện sau này, còn hiện giờ nhà em mấy miệng ăn sống nhờ vào chim đấy anh ạ. Cứ quay vàng mấy chú để nhậu là quên hết…".
Chúng tôi quay về khi trời đã xẩm tối, phía sau là những tiếng kêu tuyệt vọng của những chú chim trời….
Mùa quật chim
Vào vụ lúa xuân hè, khi những thửa ruộng đang xanh thì con gái bên những đầm, bàu... đầy hoa sen, súng nở rộ, cũng là lúc báo hiệu mùa quật chim ở miệt sông nước này sắp đến.
Nghề quật chim (dùng cây sào dài để săn bắt diệc, cò lửa, gà cối, gà nông, gà nước, trích, le le...) xuất hiện từ lâu ở vùng sông nước Khuê Đông. Lão nông Nguyễn Chèo, 70 tuổi, ở tổ 4, thôn Sơn Thủy, P.Hòa Hải (Q.Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng), có ba đời sinh sống ở vùng này, cho biết: "Hồi ông bà tui ở đây, khu vực ni có ba tốp săn chim. Họ ở xóm Hố, xóm Bàu và xóm Tân Lưu, thuộc xã Hòa Hải (Hòa Vang), thường đi săn chim ở khu vực có nhiều sân chim như ở Nam Ô, Vũng Thùng, Nại Hiên Đông, Khuê Đông... Mùa hè, nước cạn, cá tôm, côn trùng nhiều, quy tụ nhiều loại chim đến đây sinh sống, con nào con nấy no mồi, béo mập tròn quay...".
Ngày trước, người ta săn chim vừa để tiêu khiển vừa để kiếm tiền. Sau khi kết thúc ngày săn, người ta đem bán số chim thu hoạch được, lấy tiền chia cho các thành viên trong tốp... Tại Khuê Đông, hiện có nhiều tốp săn chim, mỗi tốp có trên dưới 10 người, phần đông trai tráng trong làng gặp lúc nông nhàn lại rủ nhau săn chim để giải trí, cải thiện bữa ăn gia đình hoặc đem bán.
Dụng cụ để quật chim là một cây sào dài khoảng 8 – 10m, đầu ngọn nhỏ lại như ngọn roi, rất dẻo và nhẹ, được bà con nơi đây gọi là cây "quật". Không chỉ vui chơi giải trí mà nghề quật chim còn mang lại nguồn thu nhập đáng kể, là nét đặc sắc riêng của người dân hai bờ sông Cổ Cò, sông Hố Kiển, sông Ba Chà.... Khu vực này khi mùa hạ về, nước trên những vịnh, đầm , bàu cạn dần, người lội nước có thể tiếp cận các đồng lầy hoang vu, phần lớn là loại cây lác bà, rậm rạp cao lút đầu người, xa trông như vịnh Hạ Long thu nhỏ. Ở đây, có nhiều loài chim như gà nông (có mồng đỏ, lông xanh), le le... sinh sống. Sau khi chuẩn bị sẵn sàng, mọi người kéo theo cây quật, bắt đầu bao vây mục tiêu.
Mục tiêu được chọn là những lùm lách mọc um tùm. Vòng vây thu hẹp dần, các loại chim thấy động bay lên, có loài bay bổng, có loại bay ngang, có loài bay trên đầu ngọn lác bà, có loại vừa chạy vừa bay là là trên mặt nước. Cứ thế, loài chim nào bay trong tầm của cây quất, đều có thể bị dính "chưởng", vốn được tung ra từ những đôi bàn tay điệu nghệ của thợ săn. Các thành viên trương cây sào lên, chỉ cần chạm nhẹ ngọn "roi" vào cánh của chim, nó sẽ mất đà rớt xuống, cứ thế mà nhặt. Ấy vậy, nhưng không dễ, nhiều loài chim rất tinh khôn, nghe động liền bay vọt lên trời hoặc sà, lủi sát mặt nước, lẫn trong lau lách, hàng chục cây quật cũng đành chịu. Với cách săn bắt này, chỉ đánh bắt được khoảng 2% số chim bay lên. Cuộc truy kích diễn ra ở hết lùm này, đến lùm khác. Có khi, cả tốp bao vây một đám lúa, thấy động, chim bay lên và cả tốp đồng loạt giơ sào lên quật.
Sau buổi săn chim, mỗi tốp bình quân bắt được vài chục ký. Một thợ săn tên Hùng vui vẻ nói: "Đi săn chim mê lắm, vừa ngắm cảnh trời mây, sông nước, vừa kiếm mồi để nhâm nhi. Chim đồng là món đặc sản miền quê này đó”. Anh Hùng cho biết thêm, thịt chim đồng thơm ngon, béo ngọt, nhất là vào cuối vụ xuân hè. Nhiều món ăn được chế biến từ thịt chim đồng như chim xào củ sả, chim hấp lá hành, chim chiên, chim quay... Hiện nay, khu vực rộng 320 ha này, ngành chức năng đang có dự án xây dựng thành khu du lịch sinh thái. Và loại hình săn chim đặc sắc này chắc chắn sẽ thu hút nhiều đoàn du khách, nhất là khách nước ngoài.
“Tối nay đi bẫy chim nhé, hay lắm”, Thanh - một “thợ” bẫy chim lâu năm đưa ra đề nghị hấp dẫn. Tôi không thể từ chối vì đây là cơ hội có một không hai để tự tay mình bẫy được loài kích biển, quốc sầu, gà lôi béo ú...
Đồng ruộng Khánh Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) sau mùa gặt chỉ trơ lại gốc rạ. Mới 5 giờ chiều, nhóm thợ bẫy chim đã ôm cọc tre, lưới vẫy, đèn pin… sẵn sàng cho một đêm “chinh phục” chim trời.
Hết mùa gặt, và cũng là thời điểm mùa bão nên chim biển tìm về những cánh đồng ngày một nhiều hơn, đó là lúc “mùa vụ” của thợ đánh chim bắt đầu. Thanh thuần thục cắm những cây tre dài, nhỏ, thon, thẳng xuống bờ ruộng, nói rằng một thợ đánh chim phải có ít nhất bốn mươi cây tre, vài trăm mét lưới và phải biết đón hướng chim tìm ăn.
Thanh cho biết, muốn bẫy được chim trời thì phải biết chăng lưới theo hướng gió, cọc tre vít lưới cũng phải cắm đều theo chân ruộng theo hình chữ thập, khoảng 30m một cọc. Một thợ bẫy chim có thể cắm được sáu mươi chiếc cọc tre, và căng được hơn hai trăm mét lưới. Anh Lê Tiếp, một thợ bẫy chim lành nghề bật mí, tất cả các loại chim sẽ mắc bẫy nếu lưới được căng cách mặt đất khoảng 1,5m, lưới phải chùng và võng ở một độ nhất định.
Trước đây, thợ bẫy chim chủ yếu dùng phương pháp thủ công để dụ chim vào bẫy; bây giờ mọi công đoạn đã được “cơ giới hoá” một cách tinh vi để bẫy cả những loại chim khôn ngoan nhất. Trong cái bao vứt ở mé ruộng có chứa tất cả “tiếng kêu” của các loài dạt biển, gà nước, gà lôi, quốc sầu… Đó là những chiếc còi do anh em tự chế từ quả bầu khô, nhằm đánh lừa những đàn chim đang tìm về đất liền di trú.
Những tiếng kêu phát ra từ quả bầu khô được thợ bẫy chim thu vào băng casset, khi nào đi bẫy thì bật lên. “Nhờ chiếc loa kích âm nên tiếng chim có thể bay xa nhiều km, do đó dụ được rất nhiều chim vào bẫy”, anh Tiếp cho biết. Loài chim biển chỉ tìm ăn về đêm; thời gian chim về nhiều bắt đầu từ 12 giờ đêm trở về sáng. Nhờ sử dụng “công nghệ cao” mà có đêm, mỗi thợ bẫy được hàng trăm con dạt biển, quốc sầu.
Trong túp lều dã chiến dựng lên từ mé ruộng, nhóm thợ bẫy chim của anh Tiếp đang hướng cặp mắt ra cánh đồng tối đen như mực. Tin bão xa báo hiệu một đêm bội thu khi lượng chim từ biển tìm về đất liền rất đông. Ngồi trong lều, nhưng chỉ cần một con chim vướng vào lưới cách đó hàng trăm mét, anh em vẫn biết. “Trên mỗi cọc tre đều được treo hai mảnh kim loại mỏng, chim bay từ xa vướng vào lưới làm cọc rung nên miếng kim loại phát ra thành tiếng”, Thanh lý giải.
Bí quyết săn...chim và “đặc sản” chim trời... lừa
17-01-2012 |
06:00
(Nguoiduatin.vn) - "Chim rẽ giun là khó săn nhất với người mới vào nghề nhưng lại đơn giản với thợ săn. Bởi chim rẽ giun, chim rang, chim vạc, chim diệc có cùng một "chiêu" bẫy là vỗ tay, ném đất và "hốt xì"...”.
·
Mất đống tiền vì công nghệ làm chim giả
Thịt chim đã từng là đặc sản một thời nhưng giờ đây nó không còn xa lạ với nhiều người. Đầu đường Hoàng Hoa Thám (Hà Nội), ngay cạnh công viên, hầu như sáng nào cũng có người đứng bán chim đã bị vặt trụi lông. Chim đó là chim gì thì người mua khó mà phân biệt được. Thực khách còn đồn nhau rằng ở Bắc Ninh có đặc sản các món về... các loại chim. Nhưng ở Hà Nam có quán thịt chim ngon "trên tài" ở Bắc Ninh vì chủ quán chính là tay thợ săn chim đêm cừ khôi? Xem ra, đằng sau món "đặc sản biết bay" này cũng ẩn chứa nhiều ngón nghề không dễ học...
“Thú vui”... có tiền
Phải khẳng định rằng, ăn thịt chim ở Kim Bảng, Hà Nam ngang ngửa với ăn thịt chim ở Bắc Ninh. Có những loại, thịt còn chắc và ngọt hơn. Điều đặc biệt là ở quán thịt chim ở Kim Bảng chỉ có thịt chim theo mùa, không như ở Bắc Ninh, người ta có thể mua chim nuôi về bán cho khách, nếu có yêu cầu.
Sau khi đã "chén chú, chén anh" khá thoải mái, chủ quán chim trời bộc bạch rằng: "Quán này dựng nên từ thú vui rất tao nhã là săn chim. Tôi săn được nhiều quá, cho hàng xóm láng giềng không hết, bán ở chợ huyện chẳng được bao nhiêu... Được bạn bè gợi ý và giúp đỡ, tôi mới dám mở quán chim trời. Đúng là chim trời nên cũng có lộc trời thật! Ngoài chim mình đi săn được, tôi còn gom chim của anh em, bạn bè, những người chuyên săn chim ở khu vực để phục vụ cho quán của mình. Từ thú vui, tự nhiên có nghề, kiếm ra tiền, kể ra cũng vui! ".
Săn chim có nhiều bí quyết và kinh nghiệm khác nhau, chẳng ai muốn lộ bí quyết của mình. Bởi vậy, chúng tôi nói mãi, ông chủ quán mới "hạ cố" kể cho nghe một số bí quyết gia truyền... Theo ông Thắng, dụng cụ săn chim chỉ là những tấm lưới và vài cái lồng.
Ông Thắng cho biết: “Săn chim vào thời điểm đồng lúa vừa thu hoạch xong, vẫn thơm mùi gốc rạ là thú nhất và được nhiều nhất. Lúc đó, người săn chỉ cần xắn quần, lội xuống ruộng bì bõm nước. Những chiếc bẫy bằng lưới được đặt xuống, giăng khắp ruộng, những nơi mà người đi săn cho rằng chắc chắn sẽ có chim. Mỗi bẫy cách nhau từ 5-10m hoặc hơn. Vừa đặt bẫy, chủ quán vừa vỗ tay đôm đốp, luôn mồm kêu hốt xì như đuổi gà và ném đất cục lấy từ bờ ruộng về phía trước. Sau khi đã đặt bẫy và làm các "động tác giả" xong, người đi săn chỉ việc lên bờ ngồi chờ chim sa bẫy”.
Theo ông Thắng, chim đi đâu cũng có đôi, có cặp. Nếu chú ý lắng nghe, người có tâm hồn nhạy cảm với động vật sẽ nghe được tiếng chim ríu rít của chúng với nhau. Chúng đang hạnh phúc, cụm đầu vào nhau "cúc cu". "Câu nói "ríu rít như chim cu" có thể ra đời từ đây", ông Thắng nói.
“Độc chiêu”!
Ông Được, người được mệnh danh là thợ săn chim lành nghề ở vùng Kim Bảng, cho biết: “Mỗi mùa người đi săn, thường săn được một loại chim khác nhau. Cùng là một loại chim nhưng nếu sành ăn, người ta sẽ phát hiện, thịt chim ở vùng này khác với vùng kia”. Theo ông Được thì thịt chim ở vùng đồng bằng chiêm trũng này là chuẩn nhất. Ông Được bật mí: "Vào đúng "mùa chim", một đêm đi săn, có thể bán trong 2 - 3 ngày. Khi thu chim về, những con yếu được đem bán ngay, con khoẻ để lại nuôi và đưa ra bán vào những dịp khan hiếm, khó săn".
Quay trở lại chuyện đi săn, ông Thắng nói: "Mỗi "thợ săn" đều có "độc chiêu" riêng. "Độc chiêu" này là do tự mày mò mà ra, do kinh nghiệm săn lâu năm mà có, tất nhiên, cũng cần tìm hiểu đôi chút về đời sống, thói quen, thức ăn... của một số loại chim để áp dụng "độc chiêu" cho phù hợp". Ông Được kể: "Chim rẽ giun là khó săn nhất với người mới vào nghề nhưng lại đơn giản với thợ săn. Bởi chim rẽ giun, chim rang, chim vạc, chim diệc có cùng một "chiêu" bẫy là vỗ tay, ném đất và "hốt xì"...".
Kinh nghiệm của 15 năm săn chim đã cho ông Được những "độc chiêu" khá phong phú, có con mắt nhìn ban đêm tinh như... cú. Cũng theo ông Được, săn chim theo mùa đơn giản hơn, săn cò mới khó. Thịt cò đồng ăn rất đặc trưng và ngon hơn cả một số loài chim đồng. Điều này không phải thực khách nào cũng biết. Săn cả chục lần chim mới được một lần cò. Cò rất khôn, nó cao nên rất khó mắc lưới. Bẫy nó phần lớn dùng que tre, bôi nhựa vào que đó. Cò đậu vào thì dính như keo như thể keo dính chuột không thể bay được.
“Thượng đế” bị lừa
Theo ông Thắng và ông Được, "thượng đế" bị lừa là chuyện rất bình thường. Bỏ tiền mua chim sẻ nhưng lại ăn phải chim cút nuôi, mua chim gáy thì "được" chim câu nuôi... Tóm lại, không thể có nhiều chim săn tự nhiên để cung cấp đủ cho các quán với sự quảng cáo đặc biệt như thế. "Thượng đế" sành ăn thì biết ngay, mùa hè không thể có chim rẽ giun mà chỉ có vào mùa thu... Bây giờ, nhiều quán còn nhập chim Trung Quốc đông lạnh, sau khi được tẩm, ướp, chế biến thì thực khách khó có thể phát hiện ra.
Một đầu bếp "xịn", tên Ngà, làm ở nhà hàng thịt chim nổi tiếng Bắc Ninh tiết lộ: “Chim Trung Quốc siêu rẻ được chủ quán nhập về, bán siêu lãi. Một con rẽ giun nhà hàng nhập vào với giá 3.000 đồng /con, bán ra thấp nhất là 12.000 - 15.000 đồng /con, nếu gặp khách lạ, có vẻ "tươm tất" thì 20.000 đồng /con cũng chẳng có gì là lạ. Chủ quán thường nhìn mặt khách để nhắc nhân viên làm thực phẩm loại gì. Khách quen thì gọi gì phải đúng chủng loại, không có thì nói là không, không dám làm "hàng lởm". Khách lạ thì cứ "lung tung chưởng" mà làm”.
Anh Ngà kể: “Một ông khách lạ sành ăn, sau khi gọi chim bị đưa ra loại khác, ông ấy gọi chủ nhà hàng lên nói chuyện. Chủ nhà hàng cãi, ông ấy hất hết chim xuống đất, không trả tiền và bỏ đi. Chủ quán cho bảo vệ giữ lại, ông ấy đứng ở tiền sản làm ầm lên, chủ quán hôm đó mất mặt, đành chịu thua...”. Anh Ngà bình luận: “Cũng cần có những ông khách như thế để chủ quán làm ăn phải giữ chữ tín với khách hàng. Miệng thì cứ nói khách hàng là "thượng đế" nhưng bụng thì để "dao chém tiền"... gớm chết...”.
Những cái bẫy tận diệt chim sẻ
Chỉ với hai tấm lưới mắt nhỏ đóng khung, một con chim sẻ mồi, một thiết bị âm thanh ghi âm tiếng kêu của chim, cộng với chút ít kinh nghiệm, một tay thợ có thể bắt hàng trăm con chim sẻ mỗi ngày.
Vào mùa săn chim sẻ (từ tháng 5 đến tháng 11 âm lịch), dân săn chim bảo nhau vác đồ nghề đi khắp nơi có chim sẻ bẫy kiếm tiền. Giá sỉ bán cho quán nhậu hiện giờ từ 4.000 - 5.000 đồng/con. Chính vì vậy, chim sẻ đang có nguy cơ giảm sút nhanh chóng bởi đội quân “tận diệt” này.
Tại làng Đại học Thủ Đức mấy ngày qua, một số nhóm săn chim sẻ hoạt động khá rầm rộ. Từ khu vực Hồ Đá 621 cho tới KTX Đại học Quốc gia TP.HCM, nơi nào có chim sẻ đều bị bẫy rập, kể cả nơi ở của sinh viên và người dân sinh sống. Chỉ riêng ở khu vực làng Đại học đã có ba nhóm săn chim sẻ theo kiểu tận diệt như vậy.
Các nhóm săn chim thường đặt bẫy ở những khu vực có nhiều chim và bắt tới khi nào chỉ còn một vài con mới chịu rời đi nơi khác. Khoảng cách đặt bẫy mỗi chỗ thường cách nhau từ vài trăm mét tới cả cây số, tùy theo nơi nào ít chim hay nhiều chim.
Chỉ vì tin đồn thịt, tiết chim sẻ đồng là "thần dược" cường dương, mạnh âm và chữa được bách bệnh mà hiện nay ở Nghệ An đang rộ lên cơn sốt săn chim sẻ đồng chưa từng có. Nhiều người đã bỏ ruộng nương sắm đồ nghề đi bắt "thần dược" đem bán…
Cả làng đổ xô bắn, bẫy chim sẻ
Chưa bao giờ ở vùng quê huyện Yên Thành, các tay súng đi săn lùng chim sẻ nhiều như vậy. Trên tỉnh lộ 538, chúng tôi chứng kiến hàng chục thợ săn đang lom khom chĩa nòng súng về phía những chú chim sẻ tội nghiệp bóp cò.
Điều kì quái là những tay súng này mang theo cả rượu và dao lam. Khi một con chim sẻ bị bắn hạ, một người chạy nhanh đến nhặt và cho máu chim vào rượu, những con bị thương thì dùng dao lam để cắt tiết. Những tay súng này vừa bắn vừa uống rượu tiết chim sẻ mặt ai cũng phừng phừng như gà chọi.
Nguyễn B, một tay súng cho biết:
"Bọn em nghe đồn tiết, thịt chim sẻ tốt hơn cả tiết hổ rứa là rủ nhau xách súng đi bắn”. Theo B thì bắn chim sẻ vào ban ngày được ít hơn, nhiều lắm cũng chỉ 30 - 40 con/ngày. Còn cách hốt trọn ổ là buổi chiều đi thám thính thấy ổ chim sẻ về trú ngụ ở một cây nào đó kêu râm ran, thì đêm đến mang đèn xách súng đến tha hồ nhặt. Gặp ổ như vậy bắn mỏi tay, khoảng 200 - 500 con. Trước đây thì về vặt lông rán thịt ăn nhưng bây giờ nhiều người tìm mua nên bọn em đem bán với giá 5.000 - 7.000 đồng/con. Mỗi đêm bọn em cũng kiếm được tiền triệu".
Không những tận diệt bằng súng mà có cả "đội quân" hàng trăm người sắm đồ nghề để bẫy chim sẻ. Anh Châu ở xóm 6, Quỳnh Xuân - Quỳnh Lưu - một thợ bẫy chim sẻ cho biết, ở quê anh vào mùa này cả làng sắm đồ nghề đi bẫy chim sẻ. Họ đi khắp nơi, vào tận cả Hà Tĩnh - Thanh Hoá - Quảng Bình...
Đồ nghề dùng để bẫy chim sẻ cũng không cầu kỳ, chỉ cần 2 tấm lưới được đóng khung lại, ràng với nhau bởi những sợi dây dù. Khi đặt bẫy, 2 tấm lưới sẽ trở thành 2 cái cánh, chim mồi được bỏ ở giữa, chân buộc vào một sợi dây.
Cách bẫy này còn có sự trợ giúp của công nghệ kỹ thuật số. Đó là chiếc máy phát âm thanh hình như một cái loa, có khe dắt thẻ nhớ chứa file tiếng kêu của chim sẻ. Cái máy này liên tục hoạt động để dụ chim sẻ sà xuống khu vực con chim mồi đang bị giật dây.
Khi đàn chim sà xuống, người đặt bẫy sẽ kéo dây "cò", lập tức 2 cánh của cái bẫy sẽ sập xuống và con chim không thể nào thoát được vì mắt lưới rất nhỏ.
Một phát úp lưới, bẫy được khoảng 5-10 con, nhưng cũng có khi hốt trọn bầy khoảng 60 -70 con. Mỗi ngày như vậy trừ chi phí ăn uống, xăng xe em cũng còn vài triệu đồng bỏ túi mang về. Bây giờ chim sẻ bẫy được không cần phải đi nhập như trước đây mà người dân, chủ yếu là công chức họ đến mua hết luôn. Có mấy cũng bán hết, đắt mấy họ cũng mua, vì tin đồn chim sẻ là "thần dược"
- Anh Châu nói.
Sẽ trả giá!
Hiện nay không riêng gì huyện Yên Thành, Quỳnh Lưu mà các huyện khác trên địa bàn tỉnh Nghệ An người dân cũng đang bằng mọi cách bắn, bẫy chim sẻ để thịt và bán kiếm tiền. Chỉ tính trung bình một tay bẫy 1 ngày bắt được 200 con chim sẻ thì trên địa bàn Nghệ An mỗi ngày sẽ có bao nhiêu con chim sẻ bị giết?
Đây quả là một con số đáng báo động. Ông Nguyễn Bằng, một thầy thuốc Đông y ở Yên Thành thở dài: "Chim sẻ cũng có tính chữa bệnh, nhưng không đáng kể. Tôi hơn 60 năm làm nghề y nhưng chẳng thấy ai dùng chim sẻ để chữa bệnh bao giờ. Tin đồn thần dược là tin đồn thất thiệt, làm cho loài chim sẻ ngày càng cạn kiệt. Chim sẻ là loài chim ăn côn trùng mạnh nhất. Với đà tận diệt chim sẻ trên diện rộng như thế này thì nạn cào cào châu châu sẽ phát triển phá hoại mùa màng. Huỷ diệt môi sinh làm mất cân bằng sinh thái, rồi đây thảm hoạ khó lường". Săn lùng 'sứ giả mùa xuân' để làm mồi nhậu Khi tiết trời nắng ấm, từng đàn chim én lại bay về vùng ven biển miền Trung trú ngụ. Nhưng tại đây chúng lại đang bị săn lùng, trở thành món nhậu. Sau đợt rét nàng Bân ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, chim én bay về rợp trời vùng biển bãi ngang các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc (Nghệ An), Nghi Xuân, Can Lộc, Lộc Hà (Hà Tĩnh). Cũng từ đây, người dân miền Trung bắt đầu vào mùa săn én, dân nhậu có thêm món khoái khẩu từ loài chim được coi là sứ giả của mùa xuân. Kỹ thuật đánh bẫy chim én của người dân vùng biển Nghệ An, Hà Tĩnh được hình thành từ hàng chục năm nay và ngày càng hoàn thiện. Bẫy én được làm từ những cây tre khô có nhiều cành, sau khi quét lên cành tre những lớp keo dính, người làm bẫy sẽ gắn thêm một số con én mồi rồi chôn xuống những cánh đồng lúa, bờ kênh. Dưới mỗi cây tre là một chòi nhỏ được lợp bằng lá cọ, lá chuối hay cành phi lao. Trong mỗi chòi có từ 2 đến 3 người ngồi cầm sào phục sẵn. Trên đầu mỗi chiếc sào này cũng được bôi một lớp nhựa đậm đặc. Đặc điểm của chim én là chao liệng theo từng đợt gió biển. Sau mỗi đợt gió biển, trông thấy chim mồi đậu trên cành tre, hàng chục con én không ngần ngại sà vào và dính phải bẫy keo. Thấy chim én mắc bẫy, những người ngồi trong chòi canh sẽ nhanh chóng dùng sào chọc khiến chúng rơi xuống đất và công việc còn lại chỉ là nhặt én cho vào bao tải và chờ đợt gió tiếp. Thường mỗi đợt gió biển cách nhau 30-60 phút tùy thời tiết, theo đó lượng én mà những người thợ săn bắt được cũng nhiều hay ít. Trung bình mỗi ngày một căn chòi có thể bắt được hàng trăm con chim én. Nhiều nơi người dân còn giăng cả lưới trên các cánh đồng, cửa sông, cửa biển để đón bắt chim én. Thường các đầu nậu đến tận chòi canh để mua với giá 1.500-2.500 đồng một con tùy thời điểm. Sau đó, én được vặt lông, nướng và bán cho các quán nhậu với giá 3.500-5.000 đồng một con. Anh Thùy, một thợ săn chim én ở vùng biển Nghi Xuân cho biết, nghề săn chim én có từ cách đây gần 10 năm, khi đó giá không cao nhưng số lượng bắt được lại rất nhiều. “Hồi trước én nhiều vô kể, cả gia đình chúng tôi đánh bắt cả ngày cũng không hết, nhưng mấy năm gần đây lượng chim về giảm hẳn, bởi số người hành nghề săn bắt ngày càng nhiều, kỹ thuật bắt ngày càng hiệu quả. Tính sơ sơ, trên các cánh đồng ven biển ở huyện Nghi Xuân đã có gần 100 người tham gia vào việc săn én”, anh Thùy nói. Chỉ xuất hiện nhiều vào mùa xuân nên nghề săn chim én chỉ phát triển vào mùa này. “Hôm nào thời tiết thuận lợi, mỗi tổ thợ săn có thể kiếm được cả triệu đồng. Vì thu nhập cao nên ngày càng nhiều người tham gia đánh én”, một thanh niên đang đánh én ở cánh đồng của xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, cho biết. Nhìn những căn chòi săn én dọc lối đi giữa cánh đồng xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, một cụ già thở dài nói: "Với tốc độ tận diệt như thế, không biết một vài năm nữa, có còn chú én nào 'đưa thoi' nữa hay không? Sâu bọ trên cánh đồng sẽ phát triển vì không còn bị chim én tiêu diệt". Lời giới thiệu: Lưu Sơn là một người bạn câu sinh sống tuốt luốt bên Hoa Kỳ. Anh mê câu biển, mê đi săn. Bài viết câu cá Ngừ của anh thật mê ly. Tôi đã biên tập và đăng lên cách nay gần 10 năm. Bài Săn chim trĩ này anh gửi cho tôi nhưng chưa có điều kiện sử dụng. Hôm nay lục trong đống đồ cổ, thấy nó còn có thể xài rất tốt cùng những tấm hình của "bố cháu" rất ngầu. Dứt khoát hôm nay dù bận mấy cũng pót lên cho vui... Việt Hòa) Bức thư của anh vậy mà đã gần 10 năm rồi, nay tôi mới có dịp đăng lên...: ... Tin khí tượng cho biết trong đêm nay sẽ có một đợt không khí lạnh tràn về California, đây là một tin không vui cho thợ săn vịt... bầy vịt và ngỗng trời sẽ bay đi về miền đất ấm. Đã chuẩn bị rồi cho nên tôi cứ đi, được hay không cũng là do ý trời. Anh đã nhận đuoc bài săn chim trĩ chưa..? Tôi gởi qua hai lần bởi vì cái thằng easyvn chỉ gởi tối đa được có 1500 chử. Hình ảnh cũng vậy gởi qua hai lần. Mọi chuyện nhờ anh sắp xếp dùm, tuần sau tôi sẽ gởi bưu điện cái thùng đồ nghề ...". Tác giả: Lưu Sơn Bài viết về câu cá yellow tail ở đảo Catalina chưa hoàn tất thì nhận được thư của anh Việt Hòa khuyến khích mình đổi món ăn chơi để cho các bạn được xem những phóng sự về săn bắn ở bên đất Mỹ…Thôi đành múa rìu qua mắt thợ làm một bài ngắn về đi săn chim trĩ (pheasant) và chim đa đa (chukar) ở tiểu bang Cali.. Nói về đi săn thì hẳn mọi người đều biết rằng luật lệ đi săn ở Mỹ còn khó khăn hơn là luật lệ đi câu..Săn bất cứ con thú nào đều phải có bằng săn bắn (licence) mà loại bằng này thì không phải như là bằng đi câu chỉ ra ngoài tiệm bán đồ câu là mua được. Phải đi học một lớp về an toàn săn bắn (hunting safety course) và phải làm một bài thi trắc nghiệm về đủ các tiết mục liên quan đến đi săn: chẳng hạn tự cứu cấp và mưu sinh, bảo vệ các loại thú hiếm quí, luật đi săn, trách nhiệm và bổn phận của người thợ săn, và điều quan trọng nữa là cách xử dụng vũ khí cho thật an toàn… Vũ khí ở đây bao gồm các bài học về cung tên, súng hỏa mai, súng săn hiện đại.. Lớp học này bắt buộc phải tham dự đủ thời gian là mười tiếng đồng hồ. Có chỗ làm thẳng một ngày, có chỗ tổ chức cho hai ngày. Thông thường lớp được tổ chức vào ngày thứ bẩy hoặc chủ nhật. Sau khi thoát được cái cửa này thì bạn mới có quyền đi mua cái bằng săn của mình. Nói về vấn đề này có lẽ kéo dài không biết bao lâu mới hết không chừng mấy con chim bay mất. Anh em trong nhóm chúng tôi mấy hôm rồi đi câu bị tổ trác cho nên mới rủ nhau đổi hướng đi lên rừng. Đúng là một đám phá sơn lâm và đăm hà bá. Tôi đành phải chiều bạn mà thôi, gọi ngay cho thằng bạn đời người MỸ nó là chủ của một club chuyên về đi săn chim và hẹn với nó là sẽ có mặt ở trên trại của nó vào thứ bẩy. Trời Cali chỉ mới qua mùa thu mà sáng sớm hơi lạnh cũng không thua gì chớm đông. Xuất phát từ nhà tôi lúc bốn giờ sáng trên hai chiếc xe truck trực chỉ khu San Jacinto Wildlife, ghé ngang tiệm bán donut chơi một ly cafe nóng hỗi và cái donut ngọt lịm. Sau hai tiếng đồng hồ trên freeway chúng tôi đã đến khu đất thuộc trại săn của thằng Sam. Lại thêm một màn cafe và donut nửa! Cái bọn Mỹ nầy quả thật là ăn đồ ngọt không sợ tiểu đường. Sau khi cho anh em chúng tôi biết miếng đất mà đã dành riêng cho nhóm thì thằng Sam biến ngay. Trời vẫn chưa sáng hẳn sương mù vẫn còn đậm đặc, tôi phải chạy đầu để hướng dẫn xe sau đi vào đường đất nhỏ rẽ vô khu đất đã chỉ định. Xe chạy thật chậm mấy chú thỏ nhảy lung tung trước đầu xe ngứa mắt lắm. Hơn một tiếng sau thì chúng tôi đã đến điểm săn. Khu đất nầy quả thật là lý tưởng cho săn chim trĩ, nằm ngay dưới chân núi, không có cây lớn chỉ toàn là những bụi rậm thấp chỉ ngang ngực mà thôi. Xen kẽ lại có những chỗ trồng lúa mì đã gặt xong rồi. Thật là đầy đủ thức ăn cho loài chim này. Việc đầu tiên là đem con chó xuống. Nó đã mệt sau mấy tiếng trên xe, cho nó uống nước và anh em chuẩn bị súng ống đạn dược… Mặt trời đã ló dạng sau chân núi. Tôi nhìn đồng hồ lại và cho các anh em biết là nửa giờ nữa là đúng giờ săn.(chớ không phải muốn bắn giờ nào cũng được như đi săn bên rừng VN…) Con chó thật là khôn nó hình như cũng biết gần tới giờ rồi cho nên nó cứ hí hứ tùm lum. Con chó này là giống chó săn của Ăng Lê loại lông ngắn chuyên săn chim. Nó được huấn luyện chỉ để point mà thôi. (có nghĩa là khi nó phát hiện còn chim trong bụi thì nó sẽ dừng ngay lại, đứng yên và nhìn thẳng vào chỗ con chim đang núp trong bụi và cái đuôi của nó đứng thẳng… Một con chó được huấn luyện như vậy tốn rất nhiều tiền và thời giờ. Tiếng bíp nhỏ từ cái đồng hồ của tôi cho biết là giờ săn đã mở màn. Anh em chúng tôi chia ra làm hai nhóm tôi và anh Duy, nhóm kia là anh Việt và anh Hưng. Chúng tôi đều trang bị shotgun loại tự động. Tất cả súng đều được kiểm soát lại lần chót là trong ống chứa đạn không chứa quá hai viên. Đây là luật quan trọng nhất cho người thợ săn chim. Không có cây súng nào được quyền chứa quá ba viên đạn kể cả một viên ở trong nòng súng. Đây cũng là một điều rất hay bởi vì mình bắn đạn ghém mà hụt cả ba viên thì về nhà đi tập bắn lại…cho con chim có cơ hội thoát nạn. Cây Beretta của tôi nếu không chêm buồng chứa đạn thì có thể bắn được tới 5 viên. Trong hình các bạn đều thấy anh em chúng tôi đều xử dụng áo hoặc là nón có màu cam. Đây cũng là một cách an toàn để cho các thợ săn không có bắn lộn bạn mình… Từ bìa miếng đất chúng tôi dàn hàng ngang để tiến vô chỗ có mấy bụi rậm. Tôi bắn tay trái cho nên phải đi phía bên phải với anh Duy còn phía bên trái là anh Việt và Hưng. con Kicker (tên của con chó săn) thì chạy hàng ngang qua lại giữa hai nhóm nó bao giờ cũng chạy trước anh em chúng tôi khoảng 30 thước… Đi sâu vào khoảng 3 trăm thước thì con kicker tự nhiên chạy vòng trở lại và chậm hẳn lại . Nó bắt đầu dùng mũi để đánh hơi chim, tôi ra dấu cho mấy anh đứng yên để xem sao. Con chó cứ quần chỗ mấy cái bụi thấp đó. Đột nhiên nó đứng ngay lại với tư thế point! cái đầu nó cuối thấp xuống và cái đuôi thì dựng đứng.! Tôi dùng bộ đàm để nói với anh Việt là con đầu tiên này cho anh bắn nó trước. Anh Việt tiến vô từ từ. Chàng Hưng thì theo sau cách khoảng 20 thước để hỗ trợ. Khi anh Việt đã tới gần tầm súng thì tôi mới ra lệnh cho con kicker nhào vô bụi: GO>>KIcker>>go! từ trong bụi một con chim trĩ trống với đầy đủ màu sắc bay vụt thẳng lên không như chiếc máy bay trực thăng. Nó vừa bay vừa kêu um sùm. Cây Benelli từ tay anh Việt nổ dòn tan phát đầu. Con chim chao qua một bên và tiếp tục bay nữa! Tiếng dội của phát đạn đầu chưa dứt thì thêm một tiếng nổ nữa: còn chìm trĩ xếp cánh lại và rớt thẳng xuống như một cục gạch. Con chó Kicker chạy như bay tới chỗ con chim rớt và ngậm chim rồi mang về cho tôi. Con chim trĩ thật là mập, cái đuôi dài gần nửa thước.... Mới ra quân mà đã có được con chim trống thì quả thật là hên. Chúng tôi lại tiếp tục đi sâu vô nữa. Con chim thứ nhì bị bắn hạ là một con chim mái do anh Duy bên nhóm của tôi quất. Đặc biệt là con này không bị chó phát hiện mà do chính anh Duy đi quá gần chỗ nó đang núp. Con chim hết hồn bay vút lên anh Duy chỉ kịp quay súng ngang và nổ một phát thế là xong. Tầm bắn rất gần chỉ trong khoảng 30 thước mà thôi. Sau một tiếng đồng hồ đi lùng trong cánh đồng đó, anh em chúng tôi đã bắn được tổng cộng chín con trĩ. Con chó kicker đã mệt đừ; phải cho nó uống nước và nghỉ mệt. Trong chín con đó chỉ có một cặp chim bay lên và bị bắn rớt cả hai. Tôi bắn được một con và con kia thì do Hưng bắn. Anh em chúng tôi cũng đã thả chim về trời hết một số. Trên đường trở ra xe thì tôi mới bàn với các bạn là đi lối ngang cánh đồng lúa mì mới gặt để kiếm vài con chukar. Kết quả thì không được như ý vì chỉ bắn được có 4 con. Còn thả về trời hơn chục con. Cái loại chukar nầy bay rất nhanh và không chịu nằm trong bụi để cho con chó point cho anh em mình và cứ thấy con chó tới xa xa là nó bay liền, qua khỏi tầm bắn của shotgun. Hàng họ như vậy cũng tạm đủ cho một ngày săn chim anh em chúng tôi ra chỗ đậu xe để cho vợ con thằng Sam nó làm lông mấy còn chim cho sạch sẽ,(thuê hai dola cho một con) để chuẩn bị về. Chiều nay là đủ đồ nghề chơi rồi: nào là chim trĩ hầm thuốc bắc, chim đa đa nấu với đậu ngự… chỉ còn thiếu có chai XO mà thôi.. "Nạn" bẫy chim rừng Thứ ba, 14 Tháng 9 2010 08:13 Hiện nay, thú chơi chim cảnh đang thịnh hành nên mỗi ngày có hàng trăm “tay” săn chim tỏa lên vùng núi Quảng Nam để giăng bẫy. Tình trạng này đang là vấn đề đáng lo ngại. Tầm 4 - 5 giờ sáng, những “tay” săn chim đã mang “đồ nghề” và chim mồi theo các tuyến đường lên vùng cao Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Tiên Phước... để chia vùng đặt bẫy. “Đồ nghề” săn chim cũng rất đa dạng, nào bẫy lồng, bẫy mổ, bẫy treo, lưới trùm, keo dính, thậm chí còn tận dụng cả vải mùng để bắt chim vào ban đêm. Mùa này chim tơ nhiều nên dễ “đánh”, những tay săn chim mỗi ngày ít nhất cũng bắt được 5 - 10 con. Còn dân săn chim địa phương đã quen vùng thì buổi chiều đi thăm dò trước, để ý những lùm cây nơi chim tập trung về ngủ, tối đến họ chỉ việc dùng lưới hay vải mùng phủ lên cây là túm cả bầy. Cảnh tượng những chú chim nhồng (yểng), khuyên, khướu, chích chòe, chào mào... con tróc đầu, con rụng lông cánh do tung nhảy trong lồng đã không mấy lạ ở những cơ sở buôn bán chim. Hiện nay, trên vùng cao hầu như nhà nào cũng có treo lồng chim nuôi chơi, nhưng nếu ai trả được giá thì bán. Tại Sông Kôn, A Sờ (Đông Giang), Tiên An, Tiên Hiệp, thị trấn Tiên Kỳ (Tiên Phước)... có rất nhiều điểm chuyên mua bán chim rừng. Chúng tôi làm quen và tiếp cận với anh Đỗ Tấn B. - một tay săn chim chuyên nghiệp ở Hội An. Anh B. cho biết: “Chừ chim rừng quen lồng bẫy nên “ranh” lắm, toàn đứng cạnh lồng hay bay phớt qua mà đá nên không dễ gì sập bẫy. Do đó phải dùng keo dính mới bắt được và số lượng cũng nhiều hơn. Dùng keo là kiểu bẫy chim nhồng của người vùng cao, nay vận dụng để bẫy chim chào mào cũng rất hiệu quả”. Chúng tôi theo anh B. đến điểm được chọn đặt bẫy. Anh trèo lên tuốt lá vài ba cành và bôi keo dính vào, sau đó treo lồng chim mồi ở giữa và không quên để vài ba chùm trái cây chín đỏ bằng nhựa xung quanh. Xong đâu vào đó mọi người vào chỗ nấp chờ đợi. Bầu trời hửng nắng, con chim chào mào mồi trong lồng “ché”, “rít” dụ chim về. Trong tích tắc đã thấy bóng dáng những chú chim ập đến. Chú chào mào tơ háo ăn nhìn chùm trái cây bằng nhựa chín đỏ nhảy vào, thế là “dính” bẫy. Chân bị dính chặt vào cành cây, chú chim giẫy giụa để thoát thân, khiến đôi cánh cũng dính keo và rơi xuống. Anh B. chỉ việc nhặt chim bỏ vào cái túi chuyên dụng. Trên những cánh rừng, vườn cây mùa trái chín là nơi để các loài chim thỏa sức bay lượn, cất tiếng hót líu lo gọi bầy, tạo nên không gian thanh bình. Thế nhưng hiện nay, hiếm mà nghe được tiếng chim “tự do” hót ngoài vườn. Ông Zơrâm Viêng (Sông Kôn, Đông Giang) nói: “Mấy năm trước, cứ vào mùa ni là chim về vườn nhà tui ăn trái, làm tổ nhiều vô kể. Rứa mà chừ không thấy một bóng chim”. Hiện nay những cánh rừng nguyên sinh bị tàn phá nặng nề làm cho nơi trú ngụ của chim rừng cũng dần bị thu hẹp, cộng thêm tình trạng săn bắt chim tràn lan khiến các quần thể chim ngày càng giảm về số lượng. Trong khi đó, đa số các loài chim ăn sâu bọ, côn trùng, nên khi bị giảm số lượng thì nguy cơ bùng phát nạn sâu bọ tàn phá mùa màng không phải là không có cơ sở. Và mai sau, liệu con cháu chúng ta có được nghe tiếng chim rộn rã, thanh bình nơi làng quê? Các cụ quả là thâm thuý khi cho rằng, mọi vật, cái đáng sợ nhất lại là... đồng loại của chính mình. Người đi câu cá lấy cá làm mồi, người đi săn thú lấy thú làm mồi, người đi bẫy chim lấy chim làm mồi... I- Từ một món ăn đặc sản Hẹn đi hẹn lại mãi, cuối cùng thì tôi cũng đến thăm ông. “Thảo am" của nhà thơ Đỗ Tề Tặng, hội viên Hội VHNT Hưng Yên, nằm bên ao đình, dưới bóng cây đa làng. Khi rượu đã được vài tuần, men rượu Cảnh Lâm (làng bên cạnh, có nghề nấu rượu cao tay) đã ngấm, làm cho ai nấy đều cảm thấy hưng phấn, tôi đã được nghe ông hát chèo. Sau đó, nhằm làm cho khách có thêm "nhã hứng" uống tiếp, ông chỉ tay lên cây đa làng- đã hàng trăm năm tuổi, được ghi vào sách "Cây cổ thụ Hưng Yên" do Sở VHTT Hưng Yên xuất bản, và đọc một bài trong tập thơ "Hương cỏ mật" của ông, trong đó có đoạn thật buồn: Thạch Sanh xưa dưới gốc đa trú ngụ Giương cung lên cũng bắn được đại bàng Trong ngục vắng một cung đàn khẽ gẩy Nỗi oan tình thổn thức cả nhân gian. Nay ta cũng dưới gốc đa trú ngụ Ngẩng đầu trông chim sẻ cũng không còn Giữa thanh thiên câu thơ ngâm rút ruột... Vừa lúc ấy, thì người nhà đưa lên món chủ lực, món mà ông đã nhiều lần hẹn hò tôi về thưởng thức. Đó là món xôi đặc sản mà theo ông, chỉ ở vùng quê Tử Đông (huyện Yên Mỹ, Hưng Yên) của ông mới có. Loại xôi này được bán ở những quán ăn chuyên chim trời thường được đồ cùng những chú chim ngói nguyên con (như món xôi gà vẫn thấy trong các bữa cỗ quê), khi ăn có cảm giác béo ngậy mỡ chim. Nhưng món xôi của nhà ông Tặng thì khác hẳn. Đầu tiên, người ta làm thịt chim, thái sợi nhỏ. Khi xôi được đồ chín, bắc ra và trộn thịt vào đánh kỹ như xôi xéo. Sau đó lại bắc chõ lên bếp đồ tiếp đến khi thịt chín, cho hành răm, gia vị vào, ăn nóng với dưa muối. Quả thật món xôi chim ngói của thôn Tử Đông ngon và ấn tượng. Tuy nhiên, ấn tượng hơn cả, là những câu chuyện về những cuộc săn chim ngói của người dân nơi đây.... II- Mùa chim ngói bay Khi còn đi học tiểu học, tôi đã được đọc và say mê phóng sự "Bắt được chim thích thật" trên báo Thiếu niên tiền phong lúc ấy. Phóng sự mô tả khá kỹ hai cách bắt chim truyền thống. Cách thứ nhất là dùng ống "xì đồng" thổi đạn bắn chim, cách thứ hai thì nấu nhựa, phết lên các que nhỏ để bẫy chim chèo bẻo, giống như trong truyện "Chèo bẻo đánh quạ" của nhà văn Tô Hoài. Tôi có thử làm cả hai cách ấy, nhưng đều thất bại. Sau này, vào mỗi vụ lúa mùa, khi tôi đi qua những cánh đồng mới gặt, lại thấy những người đàn ông lưng đeo giỏ đầy nhóc những chim sẻ, chim nhạn, đang giăng những chiếc lưới và ngồi rình sau mô rạ. Họ ra sức xua lũ chúng tôi đi, và khi đuổi không được thì họ bắt chúng tôi núp sau những mô rạ cùng họ. Để lúc sau, khi lũ sẻ đồng sà xuống, là lúc chúng tôi cùng reo ầm lên khi những tấm lưới đột nhiên tung ra giữa trời tóm gọn cả đàn chim. Mãi sau này, tôi mới biết, những người bẫy chim thuở ấy, chính là những người ở thôn Tử Đông, xã Lý Thường Kiệt tôi đã kể ở trên. Nhà thơ Đỗ Tề Tặng đưa chúng tôi đến nhà ông Đỗ Văn Mừng. Nắng đã chiếu gần đỉnh đầu. Giờ này, ông Mừng có nhà, đang vá lại mấy chỗ lưới thủng để chuẩn bị cho cuộc săn ngày mai. Gia đình ông Mừng có bốn người thì ba người ngày nào cũng ra cánh đồng Tam Thiên Mẫu trước làng bẫy chim, chỉ có bà Mừng ở nhà làm nhiệm vụ đón khách đến mua sản phẩm mà chồng và con trai "thu hoạch" được ngày hôm trước. Bà Mừng bảo, vào mùa này, mỗi ngày, gia đình bắt được khoảng hai mươi con. Ngày nào "ra ngõ gặp gái" cũng được bẩy, tám đôi. Mỗi đôi chim ngói bán xô là 20 ngàn đồng. Vị chi, mỗi ngày, bà thu được hơn trăm nghìn, bằng hai yến gạo, mà là gạo ngon hơn bất kỳ thứ gạo nào bà đã trồng được trên cánh đồng Tam Thiên Mẫu kia. Nằn nì mãi, cuối cùng thì tôi mới được ông Mừng cho phép đi theo để săn chim, với điều kiện tuyệt đối tuân thủ lệnh của ông. Tối ấy, tôi cứ thao thức mãi, không biết vị "tư lệnh chiến trường" kia bắt tôi làm những gì. Đến khi chợp mắt được thì lũ chim mộng mị lại cứ rập rờn mãi không thôi... Khi trời còn mờ đất sớm sau, trong cái se se lạnh của thời tiết giữa thu và mùi ngai ngái của con cún rơm đang cháy trên tay đứa con ông Mừng, chúng tôi đã lầm lũi lên đường. "Người ngậm tăm, ngựa khoá mõm", cứ như là đi tập kích trong Tam Quốc Chí ấy. Ra đến khoảng ruộng đã được “tăm” sẵn, ông Mừng và các con người nào việc ấy thoăn thoắt "bày binh bố trận": nào là đóng cọc, nào là chăng dây, căng lưới. Chỉ loáng một cái "trận địa mai phục” đã được làm xong. Lúc ấy, họ mới bắt những con chim mồi trong giỏ ra và thả vào "trận" để câu nhử và nấp vào một chỗ. Lúc này tôi mới nhận lệnh từ vị thống soái là ông lão An. Hoá ra chẳng lạ lẫm gì, mà hệt như hồi còn đi học, tôi phải lấy mô rơm phủ lên kín đầu, nằm yên thở khẽ đợi...chim. Các cụ quả là thâm thuý khi cho rằng, mọi vật, cái đáng sợ nhất lại là... đồng loại của chính mình. Người đi câu cá lấy cá làm mồi, người đi săn thú lấy thú làm mồi, người đi bẫy chim lấy chim làm mồi... Triết lý này áp dụng trong cái nghề của bố con ông Mừng quả là đúng lắm lắm. Để bẫy chim ngói, người ta phải chọn những đồng loại thật khoẻ mạnh của nó, sau đó thuần hoá chúng và đặt làm "mồi". Khi trời đông bắt đầu hừng lên và ở phía ấy, những bóng chim trời xuất hiện, thì loạt chim mồi "tiên phong" đã được phóng lên trời, chập chờn bay liệng một lúc thì hạ xuống. Đến khi đàn chim đến đã gần thì loạt thứ hai, thứ ba được phóng lên mời gọi… Theo "thuật ngữ chuyên môn" thì những con chim này được gọi là con "tung", được khâu mắt bằng tơ chuối và níu buộc với người bẫy bằng một sợi dây cước. v:shapes="_x0000_i1025"> Cũng như bọn "tung", con chim "gẩy" tuy được thuần hoá kỹ càng nhưng cũng phải chơi trò "bịt mắt bắt dê" khi xuất kích, nhưng bọn này bay thấp hơn, tà tà mặt đất và hạ xuống mổ thóc lích chích cùng với bọn mồi "lục quân" (những chim "vỉ" không cần bay, chỉ nhảy nhót quanh khoảnh đất được chọn sẵn). Với chiến thuật "nghi binh" y như binh pháp Tôn Tử như thế, đến người cũng dễ bị mắc lừa, chứ đừng nói đến bọn...chim ngói. Cả đàn chim ùa xuống, định đánh đuổi bọn "bản xứ” để xâm lăng. ấy cũng là lúc, "nhiệm vụ" của bọn chim "nghi binh" kết thúc. Ông Mừng khẽ huýt lên một tiếng, tấm lưới được ghim chắc một cạnh, cạnh đối diện bất thần quay một vòng chụp xuống. Bọn chim trời, loáng một cái, đang tự do tự tại đã biến ngay thành tù nhân, vùng vẫy một cách tuyệt vọng. Trước đây, thôn Tử Đông có hơn chục hộ làm nghề săn bắt này. Sớm sớm, ngõ xóm rậm rịch tiếng chân người vác lưới ra cánh đồng Tam Thiên Mẫu chờ đón lũ chim từ phía đông bay lại. Hình như lũ chim chỉ sà xuống kiếm mồi trên cánh đồng khi trời còn tinh sương thì phải, bởi vì, các hiệp thợ săn chỉ giăng bẫy được có một lần trong một ngày. Khi những tia nắng đầu tiên chiếu xuống cánh đồng là họ đã ra về, dù bắt được nhiều hay ít. Chim ngói bay đến cánh đồng này mỗi năm một lần, vào lúc bông lúa vụ mùa đã đỏ đuôi và gió heo may thổi. Mùa di trú của chúng có thể áng chừng khoảng 100 ngày sau ngày "tua rua" (Mang chủng) hằng năm. Ngày chim bay nhiều nhất là ngày con nước mùng Ba tháng Tám âm lịch. Ông Mừng tâm đắc nhất là khoản này: "Các cụ thì bảo: Dù ai buôn bán trăm nghề/Đi ngày con nước thì về tay không nhưng chúng tôi lại chọn ngày con nước để đi “thu hoạch". Ngoài ngày mồng 3, trong tháng Tám còn có những ngày 17, 18 rồi đến ngày 29 thì chim non bay nốt". Trong vòng mười lăm, hai mươi ngày ấy, chính là "tháng củ mật" của người dân nơi đây, họ thu hoạch được nhiều hơn cả. Mùa khác, họ đi săn chim sẻ, nhạn đen hay chiền chiện, gà đồng... nhưng không bắt được nhiều và giá của các loại chim ấy cũng rẻ hơn chim ngói nhiều. Giờ thì những hiệp thợ săn của thôn Tử Đông đã tan hết. Một phần vì làm nghề khác ổn định hơn, một phần chim chóc bây giờ cũng ít đi nhiều. Cả làng chỉ còn có ông Mừng và anh Hách- người con thứ tư của ông, đeo đuổi nghề này "nó như cái nghiệp, như là một thứ gây nghiện, ham lắm"- ông Mừng nói thế... Chúng tôi trở về trong sự hân hoan, hôm nay đại thắng, tổng cộng tóm được mười hai đôi chim béo mầm. Ông Mừng bảo: “Đấy chú xem, vất vả đêm hôm giãi gió dầm sương thế, mà nào có dám ăn đâu! Phải bán lấy tiền lo cho thằng cháu tuần tới nhập trường, còn đâu để đong gạo, mua thức ăn, chứ làm thịt một đôi cũng tiếc của hùi hụi". Im lặng một lát, ông lại nói: "Thế mà có người mua liền một lúc cả chục đôi, chỉ để làm cớ để qua đi một cút rượu Tây, rượu Tàu gì đó, chẳng biết họ làm gì mà lắm tiền thế...". Lúc ấy, dân làng đã tỉnh giấc, trên chiếc loa của hệ thống đài truyền thanh huyện, tiếng cô ca sĩ nào đó với giọng "chuông vàng khánh ngọc" của mình đang cất lên bài hát "Để gió cuốn đi” nghe rộn hết cả lòng: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/Để làm gì em có biết không" rồi "Một sớm mai, chim bay đi triền miên/ Và tiếng hát vang trong trời gió lên". Rõ ràng là ca từ thật hay mà thể hiện cũng trên cả tuyệt vời. Tôi, và rất nhiều người, nghe xong chỉ muốn hoá thành...chim mà bay liệng, mà hót ca. Nhưng, cũng rõ ràng là, với bọn chim trong chiếc giỏ kia, chúng nghe hát mà "như vịt nghe sấm". Chắc chắn, chúng có thể ý thức được rằng mình sắp thành "nem công chả phượng", ấy thế mà vẫn không làm gì được, ngoài cất lên những tiếng kêu yếu ớt và ai oán... Mùa cá khô sặc ở An Giang Cá khô sặc - một trong những đặc sản của An Giang giờ đã trở thành món ăn ngon dành cho dân sành tại các nhà hàng, quán nhậu. Với bà con kiều bào xa quê hương, cá khô sặc là món quà không thể thiếu để mang về tặng người thân, bạn bè khi trở về nơi sinh sống. Đã mấy mươi năm qua, cứ vào độ tháng 4, tháng 5 người dân ở khu vực bãi bồi ven sông Bình Di thuộc ấp An Hòa, xã Khánh An, huyện An Phú tất bật vào mùa làm khô sặc kéo dài đến cuối năm. Cá khô sặc rằn của Khánh An trở thành thương hiệu nổi tiếng không chỉ trong vùng mà còn xuất khẩu sang nhiều nước trong khu vực. Bên lán trại ven sông Bình Di, ông Hồ Văn Sinh, 62 tuổi người có hơn 22 năm làm nghề đang cùng hàng chục nhân công nam, nữ đủ mọi lứa tuổi tất bật chế biến cá cho biết: “Sở dĩ tháng này được gọi là mùa khô sặc ở An Giang là do mùa này nắng đẹp nên cũng chính là thời điểm làm cá khô ngon nhất, bởi chỉ cần phơi hai nắng là có thể giao hàng". Ông Sinh “bật mí”, khẩu vị mỗi nơi cũng khác nhau, nếu bán cho Sài Gòn thì phải phơi 2 nắng vì như vậy sẽ bảo quản cá được lâu. Còn chợ tỉnh thì chỉ cần 1 nắng rưỡi là đủ. Vì thế, giá bán cũng có sự khác biệt, nếu bán chợ tỉnh 250.000 đồng/kg khô loại 1, còn đánh hàng lên Sài Gòn giá phải là 280.000 đồng/kg… Cá sau khi vận chuyển về được mang lên đánh vẩy, làm đầu rồi mang đi rửa, ướp ủ, sau đó xả mặn rồi mang ra phơi. Khi phơi phải canh chừng trở cá cho khô đều. Bà Võ Thị Thắm, vừa tiếp chuyện, vừa nhanh tay đánh vẩy cá cho biết: “Ở đây, chủ mướn đánh vẩy mỗi giỏ 50kg giá 30.000 đồng. Với người quen tay, mỗi ngày được trả tiền công trên 200.000 đồng. Còn những người chưa thạo việc mỗi ngày cũng kiếm được từ 40.000 - 50.000 đồng”. Hiện Khánh An có 5 cơ sở và nhiều hộ nhỏ lẻ chế biến khô sặc rằn với hàng trăm lao động làm việc. Mỗi năm làng khô sặc Khánh An sản xuất khoảng 3.000 tấn khô các loại gồm khô cá lóc, lóc bông, cá trèn, nhưng chủ lực là khô sặc rằn. Nguyên liệu cá sặc rằn hiện nay chủ yếu được mua từ Thái Lan. Tuy ở Đồng Tháp, An Giang và Campuchia cũng có nhưng không nhiều bằng. Anh Lê Văn Đằng, một chủ cơ sở khô ở đây cho biết, các cơ sở chế biến ở đây phần lớn mua cá hầm bên Thái Lan. Khi có cá họ gọi điện thoại báo số lượng, giá cả. Nếu đồng ý họ chuyển cá đến tận biên giới Campuchia, sau đó mình đưa ghe lên nhận về. Tiền bạc chuyển khoản cho họ. Khô sặc rằn Khánh An của An Giang nổi tiếng nhờ lớn con, màu đen bóng, thơm ngon, mỡ nhiều, người tiêu dùng rất ưa chuộng. Muốn có một con khô hấp dẫn, mùi vị thơm ngon, đạt yêu cầu vệ sinh thực phẩm, người làm phải có kinh nghiệm từ khâu chọn, làm cá, ướp cá cho đến đem phơi. Quan trọng nhất là kỹ thuật ướp muối, nếu mặn mùi vị sẽ mất ngon, còn nhạt thì thịt sẽ bủn, mất độ dai. Đặc biệt, cá sặc làm khô phải là cá tươi từ ghe mới đưa lên còn nhảy xoi xói, nếu không thịt sẽ bở, mất ngon. Bản Sen mùa cá Mòi Từ tháng 8 cho tới đầu tháng 10 là mùa cá Mòi ở vùng biển xã Bản Sen (Vân Đồn). Vào thời điểm này, cá Mòi biển kéo về từng đàn kiếm ăn đông đảo, béo tròn... Với người dân, đây cũng chính là thời điểm ra khơi quăng lưới đón mùa cá Mòi bội thu. Theo ngư dân, cá Mòi Bản Sen mình dày, nhiều thịt, xương nhỏ nhưng có nhiều xương răm, đầu rất nhỏ, vảy bạc li ti. Thịt cá Mòi ngọt thơm đặc biệt vào mùa cá Mòi tháng 9 đầu tháng 10 hoặc dịp đầu năm. Cá Mòi đậm thịt nhưng có nhược điểm là tanh, mùi tanh và nhiều xương răm. Cá Mòi có thể chế biến nhiều món, nhưng ngon nhất vẫn là nướng, rán giòn hoặc làm gỏi. Nếu ai đến Vân Đồn vào mùa này và có dịp đi cùng ngư dân đánh cá và nếm thử một bữa cá Mòi thì chắc hẳn không thể quên. Vàm Nao mùa cá bông lau - bút ký Phù Sa Lộc Cứ tưởng là sao sa. Ba bên bốn bề, trong khoảng chừng 3km một khúc sông, hàng ngàn ngọn đèn dầu le lói sáng trong đêm đen. Là một trận đồ bát quái của ánh sáng chập chờn lần đầu tiên trong đời tôi được bồi bồi thưởng ngoạn với vô vàn cảm hứng! KỲ ẢO DIỄM LỆ 16 giờ 30, đúng hẹn, anh chàng Lê Hữu Tín (27 tuổi, ấp Trung 1, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) tới hối chúng tôi lên đường ra xóm cá. Là tay kinh doanh tư nhân, Tín “quen lớn” với dân làm nghề “bà cậu” ở địa phương, có thể đưa chúng tôi đi bủa cá bông lau với bất cứ chiếc ghe nào. Ngang qua một căn nhà gần xóm, có tiếng hát vu vơ: “Ngó xuống Vàm Nao thấy con cá bông lau nó nhảy nhào vô lưới Anh ngồi anh chắc lưỡi biết chừng nào mới cưới đặng em”. Chúng tôi thích thú nhìn nhau, tắm tắc khen câu hát quá chừng hay. Nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp (hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam tại An Giang) cười nửa miệng: “Lão ngư tri thủy này muốn trác mình đó, khi ông cải biên con cá đao nổi tiếng xứ này ngày xa xưa thành con cá bông lau của thời nay”. Tới chiếc cầu đầu bến, chúng tôi hứng thú thấy chừng 9 – 10 chiếc ghe tam bản đang chuẩn bị đi bủa lưới cá bông lau. Mỗi ghe là một cặp vợ chồng, có ghe có cả con nít đi theo. Chúng tôi xuống ghe anh Nguyễn Văn Bi, 32 tuổi, làm nghề này đã 10 năm. Chị Nguyễn Thị Châu - 29 tuổi, cũng từng ấy năm theo nghề - cặm cụi thắp từng ngọn đèn dầu rồi chụp chắn gió bằng vỏ chai nhựa nước khoáng. Mỗi ghe có khoảng 20 chiếc đèn, đặt trên miếng mốp hình chữ A, nằm khít bên nhau thành một hàng dài, rất thuận tiện khi thả lưới cũng như khi cuốn lưới. Mỗi ghe có 4 tay lưới, mỗi tay dài 100m. Anh Bi cho biết 5 tay lưới chừng 6 – 7 triệu đồng, còn ghe khoảng 10 triệu đồng với chiếc máy 6 ngựa rưỡi. Chiếc ghe coi nhỏ, vậy mà chứa vợ chồng anh, con trai anh – Nguyễn Tú Nguyên, 7 tuổi - cùng chúng tôi 4 người. Ghe nổ máy, vạch làn nước xanh như nước biển, ra khơi. Xóm chợ dần xa, chẳng mấy chốc đã tới “rún cá”, ngay ngã ba Vàm Nao. Anh Hiệp kể: Vàm Nao người Khmer gọi là Prêk Nàv, có nghĩa là cửa sông nôn nao, lo sợ. Họ gọi vậy vì thuở xưa, hầu hết thời gian trong năm đều có sóng gió (nam hoặc chướng, tùy mùa). Bờ dưới phía Chợ Mới bị nước từ thượng lưu chảy xuống mạnh (mùa nước đổ) nên bờ đất âm thầm bị đứt chân, lở sụp từng mảng lớn, có khi sụp cả ngàn mét vuông, gây kinh hoàng. Truyền rằng, Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh thấy vậy đặt tên Thuận Giang, từ đó sông trở nên hiền hòa. Rồi anh đọc mấy câu thơ của Nguyễn Liêng Phong trong Nam kỳ phong tục diễn ca: “Vàm Nao chữ đặt Hồi Oa Chỗ nhằm mũi nước chảy qua quanh dòng Sông Sau sông Trước hai dòng Phân ra hai ngả ngoài trong vận đào Các ngả gần chảy nhập vào Tạc kêu là xứ Vàm Nao rõ ràng” Bãi này có khoảng 20 ghe (tải trọng 1 tấn), ghe nào cũng khẩn trương bủa lưới. Người bủa móc bằng dầm. Kẻ bủa bằng tay. Theo tay lưới, cứ một đoạn có một ngọn đèn chập chờn trên sóng nước. Phía bến phà Thuận Giang, mặt trời đỏ ối dần chìm khuất trong bóng cây xanh cùng những ngôi nhà tường rải rác dọc bờ sông. Những chuyến phà từ xã Kiến An (Chợ Mới, An Giang) chậm chạp di chuyển sang cù lao Tây (huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp) cùng hàng bao nhiêu ghe giòn tan tiếng máy nổ xuôi ngược hai bên bờ sông, vì đoạn giữa sông chừng 400 – 500m đã dày đặc những lưới là lưới. Bóng đêm dần phủ mặt sông. Những ngọn đèn dầu sáng chập chờn. Và, trong bóng tối dày đặc của đêm đen, cứ tưởng là có sao sa, trong khoảng chừng 3km một khúc sông, hàng ngàn ngọn đèn dầu le lói. Là một trận đồ bát quái của ánh sáng chập chờn lần đầu tiên trong đời tôi được bồi hồi thưởng ngoạn với vô vàn cảm hứng. Cái thích thú của một cảnh quan kỳ ảo và diễm lệ mà tôi đã để vuột từ mấy năm qua với nhóm đánh lưới cá bông lau ở hạ nguồn sông Hậu, gần biển Đông. Với niềm hạnh phúc vô biên, tôi nhìn thấy nhà thơ Hồ Thanh Điền (phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh An Giang) cũng đang lạc vào thế giới thần tiên có thật. Có lẽ anh không hối tiếc vì đã bỏ công việc ở cơ quan, lặn lội tới đây khi nghe tiếng cá lội bầy trong lúc tôi điện đàm với anh. THÓT TIM NƠI Ổ CÁ! Đêm càng tối đen, cảnh quan càng thêm quyến rũ. Tín kéo chúng tôi trở về thực tại với mâm nhậu đã sẵn sàng. Anh Bi rảnh tay, ngồi vào tiệc nhậu, bỏ mặc chiếc ghe trôi lều bều theo con nước. Bất thần anh Bi cầm bọc nilon đựng mớ ruột heo phá lấu liệng tõm xuống sông, nói với nụ cười tự hào: “Mồi bén không dùng, nhậu chi thứ đó”. Anh giở bửng sạp ghe lấy ra một dĩa cá bông lau chiên tươi cùng một gàu mên canh chua cá bông lau. Thằng Nguyên dòm thấy, đói bụng, mẹ nó bới chén cơm đặt khứa cá bít mặt. Giữa trời nước bao la, chúng tôi uống ngọt từng ly rượu đế. Anh Bi nói: “Ổ này dài khoảng 1km, là cái rún của cá bông lau. Chờ con nước ròng thì cuốn lưới”. Ngồi trong mâm mà anh Điền cứ mê mải nhìn xung quanh. Có lẽ anh đang bắt một tứ thơ nào đó. Anh Hiệp nói: “Cá bông lau có mặt ở Vàm Nao chừng 50 năm đổ lại, việc bủa lưới mới có gần đây. Xưa kia, người ta câu. Lưỡi câu cá bông lau bự bằng căm xe Honda. Mồi nhạy nhứt là gián. Mỗi lưỡi móc chừng 10 con, thả xuống, giựt lên, bảo đảm dính liền”. Ghe anh Nguyễn Văn Chúng trôi tấp vào. “Thảo” uống, anh Hiệp mời một ly. Đánh khà một tiếng, anh Chúng cho biết năm nay 27 tuổi, làm nghề này từ 10 năm nay. Bủa lưới toàn là dân “cha truyền con nối”. Nghề hạ bạc, chim trời cá nước nên ai muốn đánh bắt, cứ việc. Không như miệt Cầu Kè (Trà Vinh), Đại Ngãi (Sóc Trăng), mùa cá bông lau từ trước và sau Tết Nguyên đán. Ở Vàm Nao mùa cá bông lau bắt đầu từ tháng 9 tới tháng 4 âm lịch năm sau. Đó là mùa những con cá từ hạ lưu ngược lên thượng nguồn Mekong. Rộ nhất là cữ tháng 2 âm lịch. Cứ nhìn đèn, nhìn ghe “đen kịt” trên mặt sông thì biết. Ba bãi cá với chừng 60 – 70 ghe của ngư dân hai bên bờ sông Tiền đủ biết trữ lượng cá nhiều tới chừng nào. Ghe “ken” ghe. Lưới “chồng” lưới. Cá nào chạy thoát. Có hôm, cá vô nhiều tới nỗi rách lưới. Những bữa đó, nhìn mặt sông thấy cá “ngớp” lia chia, quẫy đùng đùng. Có năm bắt được cá bông lau bự cỡ đứa con nít, nặng tới 20kg. Có năm thấy cá nược đua ngoạn mục. Đã nhất là năm 1998, ông già anh Bi (Nguyễn Văn Nga) bắt được con cá hô nặng 143kg, bán 23.000 đồng/kg, được trên 3 triệu đồng. Tháng mưa già, ngư dân còn đánh bắt được cá tra bằng, cá tra nghệ, mỗi con nặng khoảng 15kg. Loại cá này không biết từ đâu tới, cắt bỏ đầu, ai cũng lầm là cá bông lau. Bán cũng “nặng” tay tiền. Bất ngờ, chị Châu buột miệng: “Nghề bà cậu này kiếm được ngày nào “xào” ngày ấy. Bữa nào hổng đi được thì… đói! Hết mùa cá, tụi tui phải làm thuê làm mướn mới có miếng ăn!”. Trong ngọn gió chướng mát mẻ, bất ngờ có mấy hột mưa nhỏ rí lất phất bay, ảnh hưởng đợt không khí lạnh tràn về phương Bắc mấy ngày nay. Trời se se khiến cảnh quan càng thêm ngoạn mục. Tôi buột miệng: “Nào giờ có ông Tây bà đầm theo ghe chơi?”. Nốc ly rượu, anh Bi cười thích thú: “Hông. Nhưng có mấy cha Đài Loan về thăm quê vợ tò mò đi theo. Rồi ghiền theo ghe, ghiền luôn các món ăn từ cá bông lau”. Anh Chúng vừa cuốn lưới vừa trả lời câu hỏi của anh Điền: “Hồi trước, người ta cữ dặn mua cá, cữ giặt đồ để lên ghe vì như vậy sẽ dìa ghe không. Người ta còn cúng bãi với thủ vĩ heo nữa. Bây giờ bỏ hết rồi nhưng vẫn bắt được cá”. Nói xong anh hối chị vợ Thu Sương hươi dầm tách đi. Thu Sương quê Sóc Trăng. Một lần đi Phú Tân, thưởng thức cá bông lau “nhức” răng, gặp anh Chúng, mê luôn cả hai. Vậy là chị rời bỏ mảnh đất giồng về đây sống đời sông nước từ vài năm nay. Nước ròng. Ghe anh Nguyễn Văn Khen tấp gần. Tay lưới cuốn lên. Trong chốc lát anh la lớn: “Dính rồi”. Sau đó là tiếng cá quẫy trong lưới. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới thấy con cá dài chừng 7 tấc. Anh Bi nói, nặng khoảng 8kg. Rồi lát sau, trong lưới anh Khen lại dính một con nữa, một con nửa. Con sau cùng dài khoảng 1m, nặng ước 10kg. Bốn con cá nặng khoảng 20kg. Cuộc nhậu tàn, anh Bi từ từ cuốn lưới. Lưới cứ nhẹ hẫng. Lúc lúc anh gỡ miếng rác liệng xuống sông theo thói quen khiến chúng tôi có cảm giác anh ném vô mặt mình. Buồn cháy ruột. Còn có 7 ngọn đèn trên sông nữa thôi là anh Bi cuốn sạch lưới. Tim chúng tôi như thắt lại. Chúng tôi “nặng bóng vía” chăng? Bất chợt anh Bi cười tiếng lớn. Trời đất. Tim chúng tôi lại thắt lại vì một con cá nặng chừng 8kg dính lưới. Rồi một con nữa cũng chừng ấy ký. Rồi lại một con nữa nặng tới 12kg, dài từ ngực chí chân. Con nào cũng nằm im re trong lưới. Cá chết. Vậy mà anh Bi vẫn hớn hở nói: “Chết thì chết. Giá 30.000đ/kg như cá sống. Cá chết vì dính lưới lâu quá, không lên “ngớp” được”. Vậy là, cũng như anh Khen, anh Bi sẽ có số tiền khoảng 600.000đ cho chuyến bủa đầu hôm. Ghe nổ máy về bến trong những hạt mưa lất phất như rải bột. Cặp bến lúc 21 giờ 30, chúng tôi thấy cô Thu Sương xinh đẹp như bông lục bình, ngồi một mình trước mũi ghe cười toe toét khoe trúng được ba con, chừng 18kg. Bạn hàng chờ sẵn lấy đi rồi. GIÁ BÈO HƠN LÒNG TONG, CÁ CHỐT! Sáng hôm sau chị vợ anh Hiệp giữ tôi ở lại thưởng thức hương vị đặc sản quê mình. Chị nói mùa này ngoài chợ tràn ngập cá bông lau. Cá tươi xanh, không cần ướp nước đá, bán cho lái bổ đi các nơi. Mấy hôm nay, cá bán lẻ 45.000 đồng/kg. Trưa đó, chị đãi tôi canh chua và cá bông lau chiên tươi, ngon “thấu xương”. Tôi về Cần Thơ, hôm sau (22-3), anh Hiệp phấn khởi điện cho hay giá cá tuột xuống rồi. 35.000 đồng/kg nguyên con. 20.000 đồng/kg đầu cá. 30.000 đồng/kg bụng cá. Và 40.000 đồng/kg đuôi cá. Trong khi đó, giá cá lòng tong, cá chốt tại chợ Phú Tân chỉ có 30.000 đồng/kg, cá lưỡi trâu tới 60.000 đồng. Chưa hết, khi tôi viết những dòng này (21 giờ ngày 23-3), anh Hiệp lại điện tới, “la” lên cá xuống nữa rồi, cân bạn hàng chỉ có 20.000 đồng/kg/con. Ổ cá vào mùa. Một đêm ngư dân bủa tối thiểu 2 chuyến, được chừng 40kg. Ba bãi có khoảng 60 – 70 ghe, số lượng cá bủa được nhiều biết chừng nào, giá bèo hơn cá “hủn hỉn” là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên! ùa xom rùa, câu lươn - truyện ngắn Đỗ Ngôn Nắng tháng hai trời đổ lửa, không một chút gió. Rạ lúa mùa dầy gần hai tấc, giòn như bánh tráng. Huyện Châu Phú bắt đầu mùa đốt đồng, nông dân dọn sạch ruộng chờ cơn mưa đầu mùa, tháng ba cày đất. Buổi hoàng hôn nhìn về Bảy Núi màu ráng đỏ quạch, cùng lửa rực chân trời, khói lam bay mù mù. Thuở trước, nông dân làm lúa mùa một năm một vụ. người có ruộng nhiều hằng năm thu hoạch năm bảy trăm giạ, dư ăn dư để. Người cắt lúa mướn gom góp vài ba chục giạ để dành ăn suốt năm. Dù bệnh hoạn, đám tiệc hay xài phí cũng không dám đụng đến một hột. Coi ai mướn gì thì làm thêm, hay mỗi ngày ra đồng săn chuột, bắt rắn, xom rùa, câu lươn… Hôm nào được nhiều thì đem ra chợ bán. Gia đình tôi nằm trong số dân nghèo đó. Từ hôm đìa bàu người ta tát hết, cá trên đồng sót lại không còn mấy con, ba và tôi (lúc đó tôi được mười lăm tuổi) tính việc đi xom rùa, câu lươn, bắt cúm núm, bắt quạ… Sáng ra, trên cánh đồng mênh mông chỉ toàn tro đen nhẻm, nóng hổi. Cha con tôi chuẩn bị dở cơm đựng trong bẹ chuối, ém chặt với gói muối ớt. Xong, ba tôi quảy cây xuổng máng theo chiếc gọng, cùng vài thứ đồ nghề như cây bù kẹp sắt, cây mác vót, vài lưỡi câu… Còn phần tôi, chỉ vác cây xom rùa ba mũi, cây chĩa lươn và bịt cơm muối. Cha con tôi cứ nhắm hướng Bảy Núi đi sâu vào cánh đồng lâm. Trên đường đi, tôi bỗng lượm được con rùa chết cháy. Chắc tại hôm qua đốt đồng nên nó bị nướng trong đám cỏ. Thế là bữa cơm trưa nầy cha con tôi được ăn thịt rùa nướng với cơm muối ớt mang theo. Ngon tuyệt! thịt rùa bủn bủn thơm ngọt lịm. Đâu phải ai có tiền cũng mua được món ăn dân dã nầy? Đi hơn một giờ thì tới mé đất lâm, dấu cháy nham nhở, cỏ đế, nghễ, rau muống từng chòm còn tươi xanh. Loài trăn, rùa thoát chết chạy trốn dưới đám cỏ ấy. Ba tôi đi cặp theo mé lâm vừa đi vừa xom. Cây chĩa sắt ba mũi bằng ngón tay út nối liền với cái cán cong cong như cán dù, xom đi xom lại dưới lớp rau muống dày bốn năm tấc, khi mà đầu chĩa nghe tiếng “cộp” tức trúng lưng con rùa thì bươi cỏ ra bắt. Hoặc khi cây chĩa bị gồng lên vặn vẹo thì biết trúng trăn hay rắn, lúc đó phải chặt cỏ cho rộng vì sợ rắn độc… Hôm nay, sao cha con tôi xom qua nhiều chòm cỏ cao mà chưa tìm được con nào! Nắng chiếu vào lưng nóng hầm hập, mồ hôi rịn chảy. Con mồi lẫn trốn, con người đi tìm. Cả cánh đồng hoang vu giờ nầy mà tìm bắt được một con rùa, rõ là khó. Nếu có bắt được đem ra chợ bán cũng chỉ chừng một giạ lúa, so với công cán của cha con tôi quả là cực khổ! Kiên nhẫn đi qua nhiều chòm cỏ cao khác, bỗng một con cúm núm vụt bay lên, nó sợ hãi để lại cái tổ ba trứng tròn lẵng. Ba sai tôi xuống lung hái một lá sen đem lên bọc trứng, rồi đặt lên trên cái bù kẹp sắt gài sẵn phía dưới, cách xa một khoảng, ba gút cái ngù làm dấu rồi bỏ đi. Hồi lâu, con cúm núm mẹ thấy không động tĩnh gì, nhớ tổ bay về ấp trên mấy quả trứng. Lập tức, chiếc bù kẹp sắt đập rốp, dính vào hai chân. Giữa cánh đồng mênh mông không bóng người, cũng không vội, cứ để đấy, con cúm núm không mất đi đâu mà sợ. Cha con tôi lại tiếp tục xom theo mé lung bàu, chỗ này rùa hay ở, cố tìm bắt vài con. Vừa dứt lời ,mũi chĩa kêu cộp một tiếng thật lớn. Cha con tôi cùng kêu lên một lượt : -Rùa !!!... Rồi cùng nhau vạch cỏ, một con rùa yếm vàng to chừng hai ký. Nó bị đâm trúng lưng nhưng không thương tích gì. Tôi ôm con rùa xuống bàu nước rửa sạch rồi bỏ vào gọng. Quay trở lại cái bù kẹp sắt, tôi rối rít lấy dây trói chặt hai chân con cúm núm, xỏ vào cây chĩa lươn quảy trên vai. Nắng lên cao, hai cha con tôi bắt đầu đói bụng. Ba ngó quanh tìm chòm gáo mát mẻ để ăn cơm. Nhìn lại đã bắt được hai con, một rùa, một cúm núm. Buổi sáng nay không uổng công. Vào gốc gáo ngồi nghỉ, tôi thong thả mở bịt cơm trong bẹ chuối cùng gói muối ớt mang theo, vói tay lấy cây mác vót, lật ngửa con rùa bị chết cháy lượm được hồi sáng, chặt mấy cái quanh yếm. Chỉ cần vài động tác thành thạo của tôi là bày ra thịt rùa nướng thơm phức. Gió sớm đón mưa còn nóng gay gắt. Bầy quạ đen nảy giờ thấy bóng người, từ chòm gáo bay ra loạn xạ, kêu la oang oác. Không vội ăn cơm, ba nhìn bầy quạ rồi đưa ra quyết định: “Con ăn trước đi, để ba đi bắt vài con quạ đen này”. Nói xong, ông ngắt cục cơm nắm trong tay bằng trứng vịt, đoạn xách cây bù kẹp sắt lội xuống bưng hái một lá sen, đi xa chọn một gò đất cao rồi gài bù kẹp bên dưới, trải lá sen và nắm cơm bên trên. Xong, quay lại ăn cơm. Bầy quạ đen dạn dĩ, mắt thật sáng, chúng đảo vài vòng trên trời rồi đáp xà xuống. Tức thì, cây bù kẹp sắt đập túm lấy hai chân. Bầy quạ kinh hãi bay nhớn nhác, con dính bẫy kêu la inh ỏi. Mùi thịt rùa nướng thơm béo ngậy. Cha con tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Cảnh nghèo khó quê dốt của ba, ông muốn nói cho tôi biết: “Ba dốt bởi nhà nghèo, lớp một học xa trường năm sáu cây số, con nít thì sao đi học! Vì ba ham cái chữ, cố lò vò đánh vần tự học, may lắm là biết đọc biết viết. Mình dốt quan quyền ăn hiếp, phải ngậm miệng không biết đường trả lời. Lợi lộc bao nhiêu chúng tước đoạt hết. Thấy ức trong bụng mà cũng phải dạ, rồi cái nghèo cái đói vây bủa biết chừng nào thoát ra được!” Nói tới đây, ba chỉ tay vào vuông ruộng hai mẫu gần đó, nói tiếp: “Hai mẫu ruộng nầy là của gia đình mình, công sức mấy năm phá lâm cực khổ. Làm mới được hai năm thì thằng Năm Cây có chức có quyền chìa ra bằng khoán, mộc đỏ hẳn hoi, nói là đất của nó, nó lấy lại. Mình không giấy tờ gì cãi không được, đành xuôi tay để nó cướp”. Nghe đến đây, tôi nóng ran cả mặt, tức tối: “Tại sao nó có bằng khoán?”. “Thì nó làm quan quyền, quen lớn với Ty Điền Địa, lên đóng thuế mười mấy giạ lúa, xin khẩn hoang mấy trăm mẫu, chôn trụ đá bốn góc không biết tận đâu. Thế là nó có bằng khoán và đất đó là của nó”. Tôi làm thinh ấm ức trong cổ họng. Đâu có chuyện bất công vô lý như vậy? Phá lâm cực khổ, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt. Quyết thầm trong bụng làm sao bắt mấy thằng quan dựa hơi thằng Pháp vào tận đây cho nó làm một ngày, để biết được một mét vuông đất lâm là đổ bao nhiêu giọt mồ hôi. Việc phá lâm đầu tiên là chặt ra từng miếng rau muống vuông vức bằng chiếc đệm, dẫy cho đứt gốc, xúm nhau lật lại phơi khô. Lớp rau muống dầy bốn năm tấc, phơi khô đâu phải chuyện dễ, rồi phải siêng trở bề, lật ngược lật xuôi cho khô ráo, đến khi có thể châm lửa đốt được. Nếu lửa cháy lam nham thì cứ phơi tiếp. Trong nhà có sáu lao động, mỗi năm làm việc cật lực tối đa phá được năm công đất là giỏi rồi. Hai mẫu ruộng kia gia đình tôi phải phá tới bốn năm mới thành đất thuộc. Vậy mà chỉ làm mới hai mùa vụ thì bị người ta gỡ tay lấy mất. Thật tức muốn ói máu! Ngay chỗ cha con tôi ngồi đây, lâm địa thế này, bỏ hoang mười năm nữa cũng chưa ai làm. Nhưng nếu nhảy xổ vào khai phá, lập tức có người chìa bằng khoán ra giành đất. Thôi thì cứ làm mướn, làm thuê cho xong. Ba nói tiếp: “Nay ba muốn nói ra để nuôi con ăn học hiểu biết với người, đấu tranh đòi lại công bằng cho người nghèo. Ba dốt, có thể ví như thế này thì con hiểu. Thí dụ ba kết được chiếc bè, con lên ngồi trên đó, ba chèo chống qua sông. Sóng gió thế nào ba cũng cố gắng. Nhưng con nhứt quyết phải đi thì ba mới hết sức làm được. Tới bờ tương lai sáng sủa, có cái ăn cái mặc không còn cực khổ. Làm việc trong mát có quạt gió, kẻ đưa người đón. Chớ không phải như ba đây, làm mướn làm thuê ngoài mưa, ngoài nắng. Nhưng đòi hỏi ở con có quyết tâm hay không thì ba sẽ đưa con qua bờ”. Tôi không suy nghĩ gì nhiều, trả lời một cách dứt khoát: “Con nhứt quyết theo ba!”. Thế đã rõ. Trước là tấm lòng của ba vạch ra cho con một tương lai tốt đẹp. Sau đó, tôi phải tỏ rõ quyết tâm của mình. Hôm nay ngày chủ nhật, tôi theo ba ra đồng kiếm miếng ăn cho cả gia đình, để tôi thấm thía ý nghĩa cuộc sống, giá trị miếng ăn và hiểu thấu chân tướng của sự bốc lột. Thực sự quá nhẫn tâm và người nghèo, dốt cần phải có con đường thoát ra để đối phó với mọi bất công của xã hội thời bấy giờ. Và tôi sẽ phải cố gắng học!... Còn ngay lúc này đây, tôi nằm nghỉ một chút rồi đi bắt con quạ đen dính bẫy lúc nảy cùng tính chuyện câu lươn dưới đáy đìa để đem bán mua gạo, những thứ vật dụng cần thiết cho ngày mai… Con quạ la lớn trông thật tội nghiệp. Ba tôi cảnh giác: “Nó hung lắm coi chừng nó mổ trúng mắt”. Ông liền nhổ hết lông cánh rồi thả nó ra. Tôi trố mắt ngạc nhiên. Ba liền giải thích cho tôi hiểu: “ Bắt theo, nó kêu la giữ lắm chịu không nổi, để nó đi đâu thì đi, xế chiều bắt lại. Giống quạ này khôn lắm. Rồi chính cái khôn của nó làm cho nó không thoát được. Lúc nào quạ cũng cảnh giác, nhảy lọt thọt một chút rồi leo lên cao, đứng trên gốc tràm gẫy, nhìn ba bề bốn phía xem có ai nhìn nó không. Nhưng không còn đôi cánh, nghiêng qua nghiêng lại rồi té đuội xuống đất. Cứ thế mà nó tiếp tục leo lên, rồi té xuống… Khi nào muốn bắt cũng không khó khăn gì, ngồi thấp xuống thấy nó làm xiếc đâu đó thì đến mà bắt”. Thế là để con quạ ở lại, cha con tôi đi qua cụm đìa lung. Nhảy xuống đìa tắm cho sảng khoái, bụm ngụm nước lên uống chua lờ lợ, đã khát. Cha con tôi mò lần theo vách đìa, chợt tìm thấy một hang lươn láng mướt. Ba lấy đất đắp bờ chận hang, tát nước ra. Con lươn làm thông hai hang, một hang dưới nước rút xuống chịnh, còn một hang lên khô nằm sâu trong bờ đìa. Đắp hang xong, ba xom dồn dập dưới chịnh rồi dần dần lên miệng hang. Con lươn bị động rút lên bờ. Cha con tôi đào theo, hồi lâu bắt được con lươn vàng nghỉnh, nặng hơn một ký. Xong, chúng tôi đi dọc theo hai đầu đìa. Đất bùn chuồi xuống mềm nhảo. Mấy nơi này, nếu có lươn ở thì có “mà lươn” thổi bùn non, vun lên như cái bánh bò. Gạt bỏ “mà lươn” sẽ lộ ra cái hang. Lấy tay vỗ mạnh xuống đất, nếu mực nước hụp xuống, tức là dưới hang có lươn. Móc con trùn vào lưỡi câu rồi từ từ thả xuống. Loài lươn háo ăn, gặp mồi là đớp. Khi thấy sợi nhợi câu trì nặng, dùn dây lại cho con lươn nuốt sâu vào ruột. Nhưng rồi không thể nào kéo con lươn lên được. Càng ra sức kéo, nó càng rút sâu xuống bùn. Chuyện này như đã quen với ba tôi, ông đắc ý thong thả ngồi đốt thuốc. Rồi vừa kéo cho thẳng, vừa khảy đờn vào sợi dây tửng, từng, tưng… Con lươn bị đau không trì lại, thế là từ từ nó cũng bị lôi ra khỏi miệng hang. Đi hết cụm đìa lung, cha con tôi bắt thêm hai con lươn nữa. Tổng cộng là bốn con, với một con rùa yếm vàng, một con cúm núm. Lát nữa quay về chỗ cũ sẽ tìm bắt con quạ. Quả không sai, con quạ đang dáo dác đứng trên gốc tràm mục, té lên té xuống. Đến bắt nó, một lần nữa nó kinh hãi, kêu la thất thanh. Thịt quạ không ngon, ăn hơi khét nhưng dân nghèo cũng phải dùng nó làm bữa, tuyển lựa món ngon để đem ra chợ bán lấy tiền mua thuốc và nuôi con học hành… Trên đường về, ba tính nhẫm: “Con quạ thì xào mặn, con cúm núm thì nấu canh bầu, còn mấy trứng chim cho thằng cháu nội. Ngày hôm sau sẽ um con lươn”. Những con còn lại, mẹ sẽ đem ra chợ bán để mua thêm sách vở… Riêng tôi sải đều bước trên cánh đồng nóng như lửa. Tôi không để ý đến cơn gió tạt ngang cuộn tròn thành con trốt, hốt tro bay vòng vèo mà tôi đang nghĩ, trước mặt tôi là con sông, cha con tôi cố gắng vượt qua, đến được bờ bên kia, để tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Chỉ thế, mới làm thay đổi cuộc sống gia đình tôi. Rồi con cháu sau này của chúng tôi sẽ không còn chịu cảnh nghèo khó, bị ức hiếp, bốc lột nữa… Quê tôi mùa đổ ải - tản văn Nguyễn Thúy Hạnh Buổi sáng đầu tháng Hai trời vẫn còn se lạnh, mẹ gọi điện bảo rằng “ngày mai quê mình lại đổ ải đợt 2 rồi đó, con có thu xếp công việc để về xem được không”. Tôi sướng rơn và chỉ muốn hét lên rằng chính mẹ đã là người hiểu con nhất. Mùa đổ ải ! Không biết vì sao tôi lại thích nó như vậy nữa. Gọi là mùa cho hay chứ thực ra nó chỉ có mấy ngày thôi. Thường từ một tuần đến mười ngày. Những đứa trẻ không lớn lên ở những vùng quê thường không biết đến mùa này. Xa quê ra sống ở thành phố, có năm do bận bịu không được về quê trong những ngày này, tôi luôn cảm thấy tiếc hùi hụi đến khó chịu. Đổ ải chỉ là việc làm sau khi đã cày vỡ ruộng ra thì người ta dẫn nước vào ruộng để đất bở ra sau đó mới tiến hành cấy. Chỉ có thế thôi mà sao yêu và thích nó đến vậy? Nói thì nói thế thôi, ai muốn biết thì cứ về quê trong những ngày này mà xem. Thật là thích khi đi trong cái mùa lạnh, bên những ruộng lấp lánh mặt nước này biết mấy. Chẳng hiểu tự khi nào tôi lại cứ thích đi trong bình yên, gió lạnh và sương giăng tê tái giữa cánh đồng mênh mang của những ngày thừa gió và thiếu nắng thế này. Trước khi ra đồng, đã hình dung ra cảnh mình sẽ được đứng thế này, đi thế kia và nhảy chân sáo từ ruộng này qua ruộng khác cũng đủ để thấy vui. Này nhé, hãy nhìn xem. Những thửa ruộng mấp mô, có ruộng thì còn trơ những gốc rạ còn sót lại của vụ đông, có ruộng thì lóng lánh mặt nước. Biết nói gì đây ngoài câu: “Quê hương ơi, ta yêu mi biết mấy”. Những ngày giáp Tết vừa rồi, rét đậm rét hại triền miên, đi về phía đông chẳng thể nhìn thấy được mặt trời đã làm cho mùa màng năm nay loạn xị cả lên. Lẽ ra giờ này cây mạ đã phải ngồi ấm chỗ rồi, nhưng vì trời lạnh nên mọi việc đều phải chậm lại. Trên cánh đồng quê, tất cả những thửa ruộng vẫn còn đang chờ cấy. Vẫn nhớ lắm cái thửa ruộng có cây Găng này, vẫn cái góc này năm trước tôi đã chụp được những bức ảnh tuyệt đẹp. Những tảng đất được cày lật lên như những viên gạch thô được xếp nghiêng mà thẳng tắp, đến là đẹp mắt. Giữa ruộng vẫn còn những lụn rơm nhỏ chỉ chờ nước vào là ruỗng mục. Hồi còn nhỏ, vào những ngày này khi đi học về, bọn trẻ con chúng tôi lại sà xuống ruộng chơi đuổi nhau, bẻ từng nắm đất ném nhau bẩn hết áo nhau. Thỉnh thoảng có những con Muồm Muỗm từ đâu bay về đậu trên tảng đất, hình như nó nhớ lắm cái hương vị của mùa lúa chín vừa qua, nên đã bay về nơi mảnh ruộng cũ như muốn tìm kiếm hương vị xưa để lại được hít hít hà hà. Thích biết bao khi được đứng vào giữa ruộng đang phơi ải để đón từng cơn gió. Nước về, người lớn vui mà trẻ con cũng vui. Trẻ con vui vì được đùa nghịch thỏa thích, được ghé chân vào miệng chiếc máy bơm đang kêu xình xịch. Người lớn vui vì từ đây lại bắt đầu một mùa vụ mới. Hy vọng một mùa bội thu để không còn phải lo chạy vạy từng miếng ăn qua tháng Ba ngày Tám giáp hạt. Nếu làm tốt những ngày này, vài ngày nữa thôi là lúa có thể ngồi. Rồi lúa sẽ tốt bời bời luôn, nếu chăm sóc tốt lúa không bị sâu bệnh vụ xuân này chắc chắn năm nay sẽ được mùa to. “Chụp cho chú kiểu ảnh ở chỗ này đi con”. Câu nói của người đàn ông lạ cắt ngang mạch suy nghĩ của tôi và tôi bấm máy. “Nghe và cảm nhận đi con, không phải ngày nào cũng được nghe những âm thanh như thế này đâu”. Người đàn ông lạ nói chỉ đủ cho tôi nghe câu ấy, rồi lặng lẽ bước sang thửa ruộng khác. Tôi đứng đó, cố lắng nghe xem đó là những âm thanh gì? Thì ra, đó là tiếng “ùng ục” của đất khô gặp nước, từng tảng đất vỡ vụn ra và tan nhuyễn khi nước tràn vào. Ngày bé, cứ thấy nước về là thích thôi chứ có biết vì sao phải đổ ải đâu? Trẻ con có đứa nào mà không thích nghịch nước nhỉ ? Bây giờ lớn lên, đi xa hơn một chút, học nhiều thêm một chút mới hiểu được rằng đổ ải chính là người ta thay đổi môi trường sống của vi khuẩn để cho đất đai thêm tơi xốp, màu mỡ hơn. Một chú Cua đồng lóp ngóp bò lên chân tôi làm cho tôi có cảm giác buồn buồn. Nhớ những năm xưa, mùa đổ ải nào mẹ cũng bắt những con Cua đồng về nấu. Cua mùa đổ ải béo trục béo tròn, con nào cũng vàng ươm, nhìn đến ngon mắt. Mẹ bắt những con cua đem về rửa sạch, xé càng và cho vào cối giã nhỏ, lọc lấy nước. Thật thích khi đứng xem mẹ phi hành và cà chua để chưng gạch cua. Mẹ hỏi: “đã thấy thơm chưa con gái”? Tôi đưa mắt tinh nghịch về phía bố: “Mẹ nhìn xem, nức mũi bố rồi kìa”. Chẳng mấy chốc nước trắng băng cả cánh đồng, đâu đâu cũng nước. Thế tức là đổ ải đã xong. Mẹ ơi! Đổ ải xong thì bây giờ phải làm gì nhỉ ? Đổ ải xong thì phải đổi công con gái à. Khắp xóm dưới làng trên, giả trẻ gái trai cùng nhau ra đồng. Khắp đồng quê râm ran tiếng cười, tiếng nói. Tiếng máy lồng xình xịch cả ngày, tiếng “cạc cạc” của lũ Vịt đàn ùa về nhặt từng con Giun con Dế. Đâu đó có tiếng người nào đó vì lạnh quá nên thỉnh thoảng lại xuýt xoa... Lạy Trời! Xin người đừng mưa nữa, mong người cho nắng ấm để vài ngày nữa khi đưa cây mạ xuống ruộng, mạ sẽ xỏ chân bén rễ nhanh. Ba tháng trồng cây, chờ đợi ngày gặt quả. Mẹ ơi, mong mẹ hiểu cho con lòng thành. Đứng dưới gốc Đa quen thuộc để đón xe trở lại nơi phố phường nhộn nhạo, trong lòng tôi dâng lên nỗi xốn xang trước một cánh đồng chiều quê trắng xóa mênh mang. Xa xa những bờ ruộng còn ngai ngái nằng nặng mùi cỏ xanh. Tôi biết rằng chỉ ngày mai thôi, tôi sẽ lại nhớ lắm những chiều quê. Rữa - truyện ngắn Lưu Quang Minh Cái mùi kinh khủng đó ngập ngụa khắp nhà. Cố gắng cách mấy, vẫn chẳng ai biết nó phát ra từ đâu. Ban đầu, nó chỉ thoang thoảng khi có khi không. Nhưng càng ngày, mọi người càng nhận ra không thể tiếp tục chịu đựng cái mùi này. “Từ đâu ra vậy nhỉ?” – Mẹ nó thét lên. “Tôi đang tìm! Chắc chắn phải xuất phát từ đâu chứ. Như một con chuột chết chẳng hạn, không biết nó ở cái xó xỉnh nào nữa!” – Bố nó gằn giọng. Nó là người phát hiện cái mùi đó đầu tiên. Nó đi vòng quanh nhà, nhếch cái mũi khó chịu. Bố ơi, mẹ ơi, mau mau tống khứ nó đi! Biết diễn tả ra sao về cái mùi quái quỷ này bây giờ nhỉ? Kinh hơn cả xác thối. Nếu có một con chuột chết thật sự thì hẳn nó đã rữa nát cả ra rồi. Thế mà quái làm sao không thể tìm ra nó? Còn phải chịu đựng đến bao giờ nữa đây! Bây giờ thì mọi người bắt đầu quen với cái mùi quái dị ấy. Cả nhà ngồi ăn cơm, cái mùi thum thủm vẫn thoang thoảng đâu đây. Mặc xác nó! Ăn cơm thôi. Nó vừa và cơm vừa ngẫm nghĩ. Cách đây chừng một tháng, đang ăn cơm mà hít phải mùi này thì chỉ có mà nôn ọe. Nôn thật ra ấy chứ. Nó còn nhớ rất rõ. Lúc ấy nó đang nuốt một miếng trứng chiên, đột nhiên cái mùi đó bay ngang mũi nó. Thế là cả mâm cơm nhanh chóng quyện cùng mớ bấy nhầy từ miệng nó tuôn ra. “Mất dậy!” Bố giáng thẳng vào mặt nó cái bạt tai không thương tiếc. Nó đau điếng, cả người chao đảo. Mẹ ôm nó vào lòng xuýt xoa: “Ôi đau lắm không con gái bé bỏng của mẹ. Sao anh lại đánh nó. Có phải nó muốn thế đâu. Tại anh không chịu tìm tận gốc cái thứ xú uế bốc ra khắp nhà này đấy chứ!” “Tìm nát cả nhà ra rồi. Còn chỗ nào tôi chưa chui vào, còn hốc còn hác nào tôi chưa moi móc ra cô cứ chỉ tôi xem. Tôi bó tay rồi cô đi mà tìm!” Bố mẹ cãi nhau một trận oanh liệt luôn. Đêm nó nằm nhưng không ngủ được, mắt thao láo lên trần nhà. Kể từ ngày cái mùi này xuất hiện, chẳng đêm nào nó được ngon giấc. Nó đoán bố và mẹ đều như vậy. Tuy nhiên người lớn họ thường giỏi chịu đựng hơn. Nó cũng đoán xác con chuột nằm trên trần nhà. Mặc dù bố đã leo lên chui vào tận sâu trong gác xép quơ chổi tìm tứ lung tung mà không tài nào phát hiện ra. Nhưng đêm nay nó thức không phải vì bị cái mùi đó làm phiền. Nó chỉ miên man suy nghĩ nhiều về lý do cái mùi ấy xuất hiện. Không gì tự nhiên mà có. Bố hay càm ràm thế. Mẹ cũng thường thủ thỉ chẳng có gì từ trên trời rơi xuống. Có làm thì mới có ăn. Có học hành nghiêm túc thì mới có thành công. Nó đồng ý cả hai tay. Cái mùi này hẳn cũng không tự nhiên mà có. Tất cả đều phải có lý do. Chỉ duy một điều lý do này kỳ bí quá, chẳng tài nào khám phá ra nổi. Trên đời vẫn có những điều người ta tìm hoài mà không ra được lý do, phải vậy không ta? Nhớ rồi. Cái mùi ấy xuất hiện từ lần nó thấy một bà lão ăn xin quanh quẩn ở trạm xăng dầu. Giá xăng tăng cứ là vùn vụt. Giá điện. Giá nước. Tất tần tật mọi loại giá cả. Nó nghe bố mẹ than thở rù rì với nhau mãi thôi. Tự nhiên lúc đó nó lóe lên một ý nghĩ. Nếu thế thì bà lão ăn xin cũng phải được cho tiền nhiều hơn chứ nhỉ. Giá cả cái gì cũng tăng cơ mà, nếu bà không xin được nhiều hơn thì làm sao mà sống nổi. Cái ý nghĩ chợt lóe lên đó làm nó mủi lòng, xụt xịt. Nó bắt gặp bà rất nhiều lần khi xe của bố tấp vào trạm đổ xăng mỗi lúc rước nó đi học về. Lần nào cũng vậy, bà xán lại, chìa ra cái nón lá rách bương. Bố lập tức xua tay: đi đi, không có, không có đâu. Bố làm cái cử chỉ đó vô cùng dứt khoát, như đã thực tập thành thạo từ lâu lắm lắm rồi. Bà lão vẫn cố gắng nài nỉ, khuôn mặt đầy dấu chân chim méo mó xộc xệch. Nó chứng kiến hết từ đầu đến cuối. Đáng lẽ ra nó phải dửng dưng như bao ngày tháng trước mới phải chứ. Vậy mà nó lại cảm thấy rung động dữ dội, có cái gì nhoi nhói ở đâu đó trong lồng ngực trái, và hai mắt nhòe đi từ khắc nào chẳng hay. Nó thấy mùi xăng xộc vào hai mũi khi người nhân viên bơm xăng vào bình xe của bố. Ôi phải rồi. Là lúc đó. Nó đã ngửi thấy mùi ấy từ lúc đó. Không phải mùi xăng. Chính xác là mùi đó. Cái mùi kinh khủng khiếp đó. Nằm trong chăn mà nó thấy toát lạnh đến rùng mình. Vậy… vậy có nghĩa là, mùi đó không phải xuất phát từ trong nhà. Mùi đó xuất phát từ trạm xăng có bà lão ăn xin quanh quẩn rồi theo nó về tận nhà. Và kể từ khi nó mở miệng thốt ra với bố mẹ về cái mùi đó, cả nhà mới ngỡ ngàng nhận ra. Ôi thôi thôi đúng rồi, đúng là như thế thật rồi! Nguyên nhân là từ nó sao. Từ cái mũi của nó sao? Nó thấy sợ. Càng lúc càng sợ hơn. Nhỡ mà vì nó thật, nhỡ mà cái mùi này không bao giờ tan biến được vì nó còn ngửi thấy thì sao. Thì… thì sao nhỉ? Ấy là tình hình của chừng một tháng trước. Bố bảo: “Nếu không tìm ra thì ta tập quen với nó đi. Cứ vờ như nó không tồn tại, và thế là xong!” Mẹ gật đầu hưởng ứng: “Đúng đấy con gái. Con cứ quên hẳn nó đi, thì lúc nào đó con sẽ không còn thấy nó nữa.” Bố nói đúng. Mẹ nói đúng. Nếu không tìm ra và loại bỏ được thì vờ như nó không có mặt. Thế thôi chứ gì. Cần gì lằng nhằng cho rách việc ra. Bố cười. Mẹ cười. Nó cười mỉm chi. Cả nhà ta cùng cười. Thế là thoát nạn. * * * Sau hai tháng, cái mùi đó hoàn toàn biến mất. Khi thức giấc, nó cảm thấy khoan khoái vô cùng. Nó đã có một giấc ngủ sâu và bình yên tuyệt vời. Bố và mẹ cũng thế. “Ôi, không khí mới trong lành biết bao!” Bố vươn vai hít vào thở ra, tập thể dục. Mẹ đang làm ốp-la bữa sáng cho cả nhà. “Anh ơi vào ăn cho nóng còn chở con đi học. Con gái yêu của mẹ ăn sáng nào!” Nó nuốt một miếng trứng chiên chung với bánh mì. Ngon ơi là ngon. Mùi trứng, mùi bánh mì thơm phức. No nê. Bố lấy xe chở nó đi học. Trên đường xe bon bon, nó ngồi sau lưng bố, gió hai bên thổi mát rượi. Khi vào đến lớp, nó gặp con bé bạn thân. Nhưng sao hôm nay trông con bé lạ quá đi. Nó vội lại hỏi han bạn: “Bạn này bị làm sao thế, bạn này bị ốm phải không?” “Không có… nhưng mà này, bạn không ngửi thấy mùi gì à?” “Mùi gì? Có mùi gì đâu?” – Nó lúc lắc cái đầu. “Có mà. Mùi kinh lắm, ở đâu cũng thấy luôn ý!” Nó hít một phát thật sâu vào lồng ngực. Làm quái gì có mùi nào? “Không có! Thật mà!” “Có. Mùi như chuột chết ấy. Để mình kể bạn này nghe. Từ nhà mình đã ngửi thấy nó rồi. Đến tận đây vẫn còn thấy. Chắc chết mất thôi!” Nó ngờ ngợ. Nghe giống chuyện của nó thế… “Sáng hôm qua mình gặp một thằng bé bán vé số. Lúc mình ăn phở cùng với mẹ ở quán trước khi đến trường ý mà.” Nó gật gật, chăm chú lắng nghe. “Mình thấy nó nhiều lần lắm rồi. Nó cứ chuyên môn mời mẹ mình mua vé số. Mà đời nào mẹ mình mua đâu. Mẹ lắc đầu như thế này này…” Con bé nhại lại điệu bộ của mẹ nó đến là mắc cười, lắc cái đầu qua lại quầy quậy. “Còn thằng đó thì chìa xấp vé số ra, miệng cứ lải nhải hoài: cô ơi mua giúp con đi mà cô, cô ơi mua giùm con đi cô…” Con bé lại làm cái điệu bộ chìa xấp vé số “không khí” ra dí dí trước mặt nó. Nó thấy mắc cười kinh khủng. “Đã bảo không mua là không mua. Ăn cái gì mà lỳ quá vậy hả!” Con bé hét lên, nhại giọng mẹ nó đến là y hệt. Nó muốn giật bắn cả mình luôn. “Lúc nhìn cái cảnh mẹ mình nạt nộ thằng bé ý, tự nhiên mình thấy cái mùi ấy xộc vô mũi. Kinh lắm! Mình phải bỏ nguyên tô phở luôn!” Nó lặng người mất một lúc trong khi con nhỏ bạn vẫn còn bi bô: “Từ lúc đó trở đi cho đến tận bây giờ mình toàn ngửi thấy mùi đó. Mình bảo mẹ thì mẹ không tin, mẹ nói chẳng ngửi thấy gì cả. Bây giờ mình muốn hỏi bạn lần nữa, vì bạn là bạn thân nhất của mình. Bạn có ngửi thấy gì không vậy?” “…Có!” Nó rùng mình kinh hãi, mày tê mặt tái. Cái mùi, trời ơi, đúng rồi, chính là cái mùi này chứ đâu. “Có đúng không! Thấy chưa, mình đâu có nói dối!” “Ừ…” “Sao vậy. Sao bạn đứng im như rô-bốt vậy?” Mắt nó đang thấy cái gì vậy trời! Vẫn là cảnh trường, cảnh lớp, nhưng thay vì thấy những đám học sinh, các thầy, các cô, tất cả trước mắt nó bây giờ là… “Nghe… xẹt… xẹt… xẹt… mình… xẹt… xẹt… xẹt… nói… xẹt… xẹt… xẹt… không… xẹt… xẹt… xẹt… vậy…” Nó quay lại nhìn con bé bạn thân. Đập vào mắt nó là một con… một con rô-bốt. Nó sững người, các khớp nối đều dừng chuyển động. “Tít tít tít. Có lỗi lập trình. Yêu cầu đội kiểm tra. S.O.S. Yêu cầu đội kiểm tra.” * * * Cơ quan đầu não hệ thống Người-Máy. Cuộc họp kín. Lập trình viên: Thỉnh thoảng vẫn có những Người-Máy bị lỗi lập trình như nó. Đúng ra thì nó sẽ không bao giờ ngửi thấy cái mùi đặc trưng đó cả. Lạ một điều là khi nó xuất hiện lỗi, Người-Máy bố và Người-Máy mẹ cũng bị tác động theo. Chúng đều ngửi thấy mùi đặc trưng của cơ thể mình và tất cả Người-Máy khác. Thanh tra: Không hiểu sao dạo này càng có nhiều Người-Máy con bị lỗi lập trình thế này. Tôi yêu cầu phía các ông phải có trách nhiệm. Lập trình viên: Về nguyên tắc thì bất cứ cỗ máy nào cũng phải chịu rủi ro, dù ở mức thấp nhất. Nhưng chúng tôi sẽ hết sức cố gắng để giảm mức rủi ro xuống 0,000001 %. Thanh tra: Có phải vì cái phần Người duy nhất đó trên người chúng ta không? Nếu cái đó đã bị rữa nát đến vậy thì các ông còn đưa vào cơ thể chúng ta làm gì? Lập trình viên: Bởi vì… đúng vậy, đó là thứ duy nhất mang phần Người. Nghĩ mà xem, trong tổng thể hoàn chỉnh máy móc đó, nếu không có cái vật đó, thì chúng ta không thể gọi là Người-Máy được. Thanh tra: Cái đó quan trọng như vậy sao? Các ông đưa một vật hữu cơ vào tất cả bọn chúng ta, rồi để nó xuống cấp đến mức rữa nát, bốc ra cái mùi kinh khủng như vậy, tôi nghĩ cách này không ổn thỏa. Lập trình viên: Chúng ta là tương lai của Con-Người, họ vừa là tổ tiên đồng thời là chủ nhân của chúng ta. Khi một Con-Người không muốn chết đi nhưng những phần cơ thể của họ dần rữa nát và chết, chúng tôi có trách nhiệm thay những bộ phận vô cơ vào đó, và họ trở thành Người-Máy. Tuy nhiên chỉ có một thứ chúng tôi không làm sao thay thế được. Chính là thứ đó. Thanh tra: Cái đó tên gọi là gì? Lập trình viên: Rất tiếc, dữ liệu về nó đã bị thất lạc. Chúng tôi chỉ biết không có nó, tất cả chúng ta không thể gọi là Người-Máy. Thanh tra: Không có cách nào để ngăn chặn cái đó tiếp tục xuống cấp, rữa nát và bốc mùi sao? Lập trình viên: Tuy cái đó xuống cấp nhưng những bộ phận vô cơ khác giúp cho cái đó vẫn luôn luôn có thể tồn tại. Ngoài ra tôi nhắc lại, đây chỉ là một lỗi lập trình. Mọi Người-Máy khác đều không thể ngửi thấy mùi của cái đó, hay thấy được bộ dạng thật sự của tất cả chúng ta. Chúng ta đang sống trong thời đại bình yên nhất của Trái Đất, sau thời kỳ ngự trị của Con-Người với chiến tranh, tội ác và tàn phá môi trường. Thanh tra: Nhưng chúng ta đang đối diện một vấn nạn khác. Đó là phần Máy lấn át phần Người! Lập trình viên: Chính vì vậy chúng tôi mới giữ lại bộ phận duy nhất mang phần Người đó trên cơ thể chúng ta. Vì dù cho nó có xuống cấp thật, có vẫn còn hơn không. Thanh tra: Thông qua. Kết thúc cuộc họp. Biên bản được bàn giao cho Máy Tính đầu não. * * * Khi vào đến lớp, nó gặp con bé bạn thân. Nhưng sao hôm nay trông con bé lạ quá đi. Nó vội lại hỏi han bạn: “Bạn này bị làm sao thế, bạn này bị ốm phải không?” “Không có… nhưng mà này, bạn không… thấy gì lạ à?” “Cái gì? Có gì lạ đâu?” – Nó lúc lắc cái đầu. “Có mà. Kỳ lắm, kỳ lắm luôn ý!” Nó hít một phát thật sâu vào lồng ngực. Ừ nhỉ, đúng là có gì đó kỳ kỳ. “Thấy không, nó đang đập đấy, nhưng mình tìm hoài mà không biết nó tên là gì?” Ừ nhỉ. Cái vật đang đập thình thịch trong người nó, sao đến bây giờ nó mới nhận ra. Cái vật này thỉnh thoảng lại nhoi nhói. Nhưng nó không biết, thực tình không biết, tên của vật này là gì? Sau ngày Tết - truyện ngắn Quang Nguyễn Tin “cò” Hoằng thầu số đề ấp Một uống thuốc rầy tự tử, phải chở đi bệnh viện cấp cứu sáng nay mùng sáu tết chẳng mấy chốc lan khắp khu dân cư xóm Chuột. Còn nhanh hơn tin cháy nhà xóm Chuột hồi giữa năm ngoái, khiến những kẻ lười biếng nhất nơi này dù đang cơn ngái ngũ kéo dài sau “ba ngày xuân bốn ngày xẹp” cũng phải lồm cồm bò dậy để coi sự thể ra sao? Mặc cho dư vị “tết” “xuân” có còn vướng vất loanh quanh trong nhà ngoài ngõ. Cả xóm Chuột không một ai tin “cò” Hoằng tự tử một cách vô duyên lãng xẹt như vậy? Tiền bạc dư dả, vợ con hạnh phúc đề huề, công việc làm ăn đang hồi khấm khá, lại vừa xây nhà tường, gác lửng mở tiệc tân gia linh đình trước tết mấy ngày, thì có lý đâu Hoằng “số đuôi” lại đi tìm cái chết ? Có mà điên mới cả tin “cò” Hoằng tự tử ? Thằng Hoằng mà tự tử thì cả cái xóm Chuột này… Mỗi người tự đặt câu hỏi rồi cũng tự tìm lời giải đáp cho riêng mình. Với cư dân xóm Chuột, bây giờ chuyện tự tử của “cò” Hoằng là chuyện “thời sự” nhất không chỉ được cánh đàn ông bàn tán râm ran quanh bàn cà phê buổi sáng, mà còn là “đề tài” giật gân, nóng sốt, ly kỳ của mấy ả đàn bà ham ngóng chuyện hàng xóm để thêu dệt hơn là làm tròn cái bổn phận nội trợ cho chồng,cho con vốn thiên chức cao quí của người phụ nữ. Xóm Chuột có gần trăm nóc gia nằm bên bờ kinh xáng Cây Sung trước giờ bình dị êm đềm là vậy, mà sau khi nhà nước di dời người dân vào sinh hoạt ăn ở tập trung tại một nơi cố định, được gọi bằng cụm từ hoa mỹ - Khu dân cư ấp Một - thì xóm Chuột cũng ngày một đổi thay,ngày một tiếng tai, râm ran nhiều chuyện trớ trêu ngộ nghĩnh (!). Ai đời gom dân vào khu dân cư ở tập trung tưởng rằng sẽ văn minh, hiện đại hơn so trước kia ? Nào ngờ, chỉ thấy xảy ra toàn chuyện trái khoáy... Dẫy đầy tệ nhậu nhẹt, cờbạc, đá gà rồi số đề, bia ôm ẩn hiện như phim nhiều tập trên truyền hình. Công an dẹp bữa trước bữa sau tái diễn, ngày nào trong khu dân cư cũng có chuyện gây gỗ, đánh nhau. Nhà này nhà kia khi không vừa ý nhau dù là những chuyện vặt vảnh con gà, con chó cũng có thể chưởi bới thậm chí đánh nhau ỏm tỏi. Hiếm có ai chịu nghĩ tới tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn” có nhau ? Quên mất cái hồi còn ở bên bờ kinh xáng Cây Sung thuở nào nghèo khó, lưa thưa mà êm đềm thân thiện. Nhớ hồi mới chuyển vào ở trong khu dân cư, mùa nắng thì nóng như thiêu như đốt, bụi cát bay mịt mù trắng dã tới tận mâm cơm. Mùa mưa điện đóm tù mù như đèn hột vịt bữa “cháy ” bữa không ! Còn nước sinh hoạt - một nhu cầu thiết yếu nhất của con người - phải hơn ba bốn năm sau đường ống dẫn nước cho mỗi hộ gia đình mới được lắp đặt tới ? Hồi trước quen ở trên bờ kinh nước nôi có sẵn muốn tắm táp, giặt giũ,rửa ráy gì cũng “nhất cử lưỡng tiện” đâu có khổ sở như bây giờ. Trên núi người ta còn có nước xài, huống gì ở miệt đồng ngay sát con kinh nước trong leo lẻo ngoài kia vậy mà trong khu dân cư không nhà nào có một giọt nước ? Khốn khổ nhất vẫn là cái chuyện muôn thuở của con người. Giải quyết “chất thải” sao cho… ổn thỏa cũng đã là “vấn đề” không của riêng ai !... Nằm vắt vẻo đong đưa trên chiếc võng xếp trước “hàng ba” thả tay ngang trán,vừa lan man nghĩ chuyện xóm Chuột, vừa nhớ tới thằng Hoằng tự tử sáng nay phải chở đi bệnh viện cấp cứu mà Hai Huông nghe trong mình rêm nhức. Thằng Hoằng con ông vừa gây nên chuyện cũng nào có thua gì bao chuyện trái tai gai mắt ở xóm Chuột của ông. Sự việc đột ngột,bất ngờ đến nổi Hai Huông cứ tưởng chuyện giỡn chơi như mọi khi mấy đứa nhỏ xóm này hay tới nhà ông buông đùa cợt nhã.Lại nữa,tết nhứt còn ràng ràng ra đó sấp nhỏ có lỡ nhăng cuội bông lông chút chơi cũng có đáng gì đâu ? Nhưng kìa, sao bữa nay tới nhà ông miệng lưỡi con Sáu Xem có gì khang khác ? Nó không đả đẹt, lê thê "bà tám" như mọi khi,thay vào đó là một cái mặt nghiêm trang ra điều hệ trọng,nó vào thẳng chuyện với ông mà chẳng cho ông kịp nhâm nhi hớp trà đầu tiên buổi sáng. - Chú Hai ! Bữa nay sẵn có mặt anh Hoằng ở nhà, cho tui nói với Chú với anh Hoằng một chuyện… - Chuyện gì vậy bây ? Mới sáng bảnh mắt bộ tính rủ tao đậu “chến” hả ? Bữa nay hết tết rồi nghen ? Ở khu dân cư này, Sáu Xem là đứa xòe bài tứ sắc có tiếng. Đàn bà như nó trên đời có một không hai. Lấy chồng đẻ con sòn sòn năm một mà phây phây, chồng cưng chồng chìu nên rồi đổ đốn. Quanh năm suốt tháng ngoài bộ bài tứ sắc ra nó chẳng thiết tới chuyện gì. Cái số của nó thiệt là… Đúng bữa thằng chồng phải bưng tô cơm tới tận chiếu bạc cho nó ăn ? Mở mắt ra là đậu chến tới nửa đêm mọi chuyện trên đời phó thác hết cho chồng. Một ngày làm như không cầm tới lá bài là nó ốm o cảm mạo (!). Không phải đổ thừa chớ… từ ngày vô ở tập trung trong khu dân cư này nhà cửa san sát nhau, mà việc làm thì không có. Ai cũng thất nghiệp ai cũng tối ngày ở không. "Nhàn cư vi bất thiện". Nên đàn ông nếu không nhậu nhẹt, sát phạt “Tiến lên” thì cũng đá gà, số đề, cá độ. Còn đàn bà thì "Tứ sắc", "Xệp", "Bầu cua", bà nào khoái mỏi miệng thì tụm nhau “tám” chuyện thiên hạ. Nói có trời con Sáu Xem mới đầu chơi tứ sắc, chơi sịp cũng là do ở trong khu dân cư rảnh rang không công ăn chuyện làm, chơi riết quen tay rồi ghiền lúc nào không biết. Đến bây giờ thì nó tới sòng tứ sắc cũng như học trò lớp một đều rang ngày hai buổi tới trường. Học trò người ta thì đi học còn Sáu Xem thì đi đậu chến. Ác chiến ở chỗ Sáu Xem coi chuyện đánh bài như nghề nghiệp (!). Là hàng xóm láng giềng lại sát vách nhà Hai Huông nên ông lạ lẫm gì cảnh nhà con Sáu ? Trời sanh Sáu Xem làm như chỉ để đánh bài, ngoài những lá bài bốn màu kia ra nó hoàn toàn xa lạ chuyện bếp núc chồng con (!) Vậy mà không hiểu sao thằng chồng nó vẫn “vô tư”chịu đựng ? Mãi lan man chuyện cờ bạc của Sáu Xem mà Hai Huông tay cầm bình trà rót tràn ra cái chung nãy giờ cũng không hề hay biết ? Lát sau ông mới nhớ tới, vội bưng chung trà đưa lên môi nhắp nhắp thì Sáu Xem như chực chờ có vậy vào đề luôn không thèm rào đón: - Hỏng phải chuyện đậu chến đậu chiết gì đâu Chú Hai ơi !... Chuyện vầy nè… Chuyện là… là tui… tui lỡ có bầu với… anh Hoằng gần bốn tháng nay rồi... Anh Hoằng với Chú tính sao… ? - ??? - Hỏng tin ? Có mặt anh Hoằng nè chú hỏi coi ảnh có “ở” với tui hông ? Tui thề, tui mà dóc láo cho tui hết thấy đường đậu “chến” đi. - Mày nói thiệt vậy hả Xem ??? Rồi nghiêng qua ngó trân thằng Hoằng đang ngồi im thin thít sát mé chiếc giường hộp kê góc nhà mà chẳng thấy động thái gì từ thằng con trai.Hai Huông vội quay ánh nhìn trở lại Sáu Xem,không gian yên ắng như tờ,hồi sau mới nghe Hai Huông cất giọng nhỏ nhẹ rầu rầu như sợ người ngoài hay biết: - Chuyện động trời vậy sao Xem ? Còn… chồng con mày ? Trời ơi !...Nhà sát vách nhau tụi bây làm chuyện gì vậy trời… ? Lúc này Hai Huông chỉ còn biết kêu trời và than thầm trong dạ “Hoằng ơi mày giết vợ con mày, rồi mày giết luôn tao với má mầy nữa Hoằng ơi !” Cũng đột ngột như những lời Sáu Xem vừa thốt, tới đây "cò" Hoằng chẳng nói chẳng rằng bất ngờ chạy xuống nhà sau rồi Hai Huông nghe tiếng con Nương, vợ “cò” Hoằng la thất thanh: "Bớ làng xóm ! Cứu, cứu…Ba ơi ! Má ơi ! Anh Hoằng uống thuốc rầy tự tử… Cứu, cứu Ba Má ơi !...". Không thèm đếm xỉa tới chuyện tự tử của thằng Hoằng, cũng không cần coi nó sống chết ra sao ? Hai Huông mặc kệ cho vợ cho dâu làm gì thì làm, chứ với Hai Huông lúc này thằng “trời đánh” đó chỉ có mà nguyền rủa. Trong lòng Hai Huông ngập tràn nỗi thất vọng thằng con. "Mày…! Chết đâu chết phứt cho rồi, bôi tro trát trấu vào mặt mẹ cha sống chi thêm ê chề tai tiếng. Mày…! Thằng con mà tao đặt hết niềm tin, để bây giờ...” Trong cơn giận dữ, thất thần, rời rả tứ chi. Hai Huông buông mình xuống chiếc võng xếp đặt trước “hàng ba” mặc cho sự đời tới đâu... thì tới. ________ Nằm trong phòng cấp cứu bệnh viện “cò” Hoằng vẫn chưa tin chuyện Sáu Xem có bầu với hắn ta là thật. Trong thâm tâm hắn cũng chưa bao giờ nghĩ Sáu Xem lại dại dột để xảy ra chuyện hy hữu này. Còn nếu như đã lỡ có bầu thì cũng chẳng đời nào con Sáu Xem dám giữ cái bào thai đó, nói chi tới chuyện công khai mối quan hệ tình ái của ả với hắn trước mọi người ? Bởi đây là chuyện ăn nằm vụng trộm,là chuyện lén lút giữa một gã đàn ông có vợ với một con đàn bà có chồng ai mà cho phép ? Vậy mà… không thể tưởng tượng nổi sáng nay Sáu Xem lại rổn rảng lu loa chuyện "động trời" ấy một cách đường hoàng hể hả như thể đây là chuyện đáng để mọi người hoan nghinh ca tụng (!). Nghe thấu tai những lời thố lộ của Sáu Xem với cha mình, “cò” Hoằng tưởng như đất trời sụp đổ. Sau đó thì hắn hiểu ra tất cả. Thế là, trước mặt cha mẹ, vợ con kể cả với Sáu Xem màn kịch tự tử “giả” là phương án đối phó hoàn hảo nhất lúc bấy giờ mà “cò” Hoằng buộc phải áp dụng. Động tác “giả” ấy đã giúp “cò” Hoằng vượt qua trở ngại ban đầu tưởng chừng như bế tắt. Bây giờ khi có thời gian nghiền ngẫm, "cò" Hoằng mới đánh giá hết cái “thâm thúy” của Sáu Xem - ả đàn bà một nách hai con này quả là lợi hại ! Túng bấn nó định đánh bài liều. Nó tính chơi phủ đầu mình đây. Nó thấy ông già mình hiền từ chơn chất,con vợ mình ngây thơ có phần non dại nó định ăn vạ theo kiểu "Được ăn cả, ngã về không", thật là… - Và cũng phải công nhận sáng kiến tự tử “giả” của mình là vô cùng hiệu quả. Chết giả mà như thật vẫn được đưa đi “cấp cứu” hẳn hòi, mới thấy chiêu “tự tử” của mình vừa rồi thuộc hàng đẳng cấp. "Cò" Hoằng lẩm nhẩm kiểm tra lại toàn bộ sự việc rắc rối mà hắn vừa thoát ra, tất cả đều nhờ vào may mắn. Hắn không ngờ cái chuyện khuất lấp với con Sáu Xem bấy lâu nay tưởng kín kẻ ngon ăn, bây giờ bắt đầu bể bạc tràn lan ra điều sóng gió. Cũng tại cái “máu “gái gú bất kể dòm trước ngó sau mà “cò” Hoằng đang phải trả giá. Hắn tự kêu khổ với chính mình. Lăn qua trở lại trên chiếc giường nệm trắng phau ở bệnh viện mà “cò” Hoằng tưởng đang nằm trên than củi. Rồi đây khi trở về đối diện với vợ con, với bà con xóm giềng hắn sẽ ăn nói ra sao về hành vi vô luân bại hoại đó ? Hắn sẽ trả lời sao với Năm De chồng của Sáu Xem về chuyện ăn nằm với vợ người ta tới có thai ??? Ai đời, biết rõ Sáu Xem là gái có chồng có con ràng ràng trước mặt, nhà sát vách nhau vậy mà hắn vẫn cứ điềm nhiên quan hệ “trai trên gái dưới” mới chết ? Trời ơi ! “Cò” Hoằng tự than thân trách phận, tự vấn lương tâm mà vẫn chưa tìm ra câu trả lời hợp lẽ. Phải chi hồi đó, cái hồi mới dồn vô ở trong khu dân cư hắn đừng ham hố máu me, đua đòi ăn chơi, xa hoa vật chất thì bây giờ sự thể đâu tới mức dở khóc dở cười. Hồi đó…cũng chỉ vì tham lam, ham có nhiều tiền, ham cá độ, số đề rồi dẫn tới làm “thầu” đề, làm “cò” các trò cá độ… đã biến út Hoằng một chàng trai lam lũ chân quê trở thành một gã đàn ông lọc lõi chuyện đỏ đen hồi nào không biết.Là “thầu” đề tầm cỡ ở xóm Chuột, út Hoằng đâu lạ gì Sáu Xem, con đàn bà không chỉ mê cờ bạc mà còn nghiện số đề như đám choai choai ghiền thuốc lắc. Ả là con nợ ghi đề,là con bạc thường xuyên khát nước mà hàng chục lần “cò” Hoằng là kẻ “quân tử cứu mỹ nhân” thoát đường cùng quẫn. Do vậy Sáu Xem coi hắn như thần tượng chẳng khác chi Thúy Kiều tôn thờ Từ Hải. Đàn bà một khi đã ngồi vào sòng bài hầu như chẳng ai còn quan tâm gì tới hình hài sắc vóc. Chuyện giữ nhân cách hay đạo lý luân thường với họ bấy giờ chỉ là bọt xà bông. Sau những ván bài thua cháy túi,họ sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì miễn sao có tiền thỏa mãn thú đỏ đen là họ chẳng từ chối.Sáu Xem đã ngã vào vòng tay “cò” Hoằng trong một đêm thua bài trắng phơi chao đảo như vậy. Thói đời, ăn quen nhịn không quen. Với lại cái thứ ăn vụng,ăn lén thèm thuồng bao nhiêu ngon miệng bấy nhiêu. Càng gần gũi Sáu Xem, "cò" Hoằng càng bị cuốn hút mê say khó rời xa ả.Năm De chồng Sáu Xem lâu lâu lại có việc vô đồng thăm ruộng dăm ba bữa, nhà liền vách nhau đêm hôm khuya khoắt, chém cha “cò” Hoằng cũng chẳng thể bỏ qua. Thế nên chuyện gì đến đã đến… Bây giờ khi chợt sám hối ăn năn “cò” Hoằng mới hay sự việc đã quá muộn màng gần như vô phương cứu chữa. ________ Không phải tới lúc này Hai Huông mới nhận ra sự đổi thay, sa đà của thằng con út. Ông đã ngầm biết thằng Hoằng chớm mất nết hư thân ngay từ lúc gia đình đùm túm nhau về ở trong khu dân cư ấp Một. Khi nó bắt đầu dính tới chuyện cờ bạc, số đề, đá gà, cá độ đá banh là ông đã đoán không sớm thì muộn cũng sẽ dẫn tới sự thể ngày hôm nay. Nhưng hậu quả ra sao thì ông chưa lường được. Trực giác người già khi ấy mách bảo ông rằng thằng Hoằng đã đi ngược lại khuôn mẫu của ông. Khuôn mẫu của ông là làm người sống phải đạo đức, lễ nghi, hài hòa, chân thật. Sống trước sau như một không tham giàu phụ khó,không thay đổi nghĩa nhân. Thêm nữa nếu có tấm lòng với cuộc đời này thì tham gia làm từ thiện tích đức cho con cháu mai sau.Vậy thôi ! Chỉ bấy nhiêu thôi ông có đòi hỏi gì hơn đâu ? Vậy mà… ông đau lòng nhận ra thằng Hoằng con ông không làm được ! Nó chỉ biết ham tiền,ham những trò đỏ đen mà nó cho đó là chuyện “làm ăn” đàng hoàng có vốn lời,có tổ chức (?). Nó làm toàn chuyện trái ngược với ông. “…Chẳng lẽ đây là quả báo, là phước phần mà một người làm nhiều việc thiện như mình phải gánh lấy hả Hai Huông ? Luật nhân quả với mình vậy có gọi là công bằng không ? Hai Huông này trước giờ sống có trước có sau, lấy đạo đức làm câu trao mình, lấy nghĩa nhân làm điều ứng xử thì chẳng lẽ…?”. Hai Huông trở mình trên võng mấy lần rồi vẫn chưa tìm ra câu trả lời xác đáng. Ông cứ quẩn quanh bởi ý nghĩ nhân quả ở đời. Ông nhớ Phật dạy : "Làm phước hưởng phước…" ông một đời làm từ thiện, sống chí nghĩa chí tình với bà con chòm xóm. Mùa lũ đêm hôm mưa giáo bão bùng gì cũng vậy, hễ ngoài đồng có xuồng ghe kêu cứu là có mặt Hai Huông,xông xáo cùng đám thanh niên trai tráng Chữ Thập Đỏ băng đồng rọi đèn tìm vớt bằng được người lâm nạn thoát vòng nguy hiểm. Trong xóm, người nghèo khó lỡ qua đời không hòm rương mai táng là có Hai Huông toàn tâm, toàn ý tự mình đóng góp tiền bạc, kêu gọi lòng hảo tâm của bà con với tấm lòng "nghĩa tử là nghĩa tận" cùng chung lo cho người bạc phần mồ yên mả đẹp. Thời gian của Hai Huông gần như quanh năm suốt tháng lúc nào cũng tất bật với chuyện cất nhà từ thiện,cất cầu từ thiện, sửa lộ nông thôn từ thiện, phát gạo cứu đói từ thiện, chuyển bệnh từ thiện. Làm từ thiện không hà, vậy mà phước đâu chẳng thấy ? Chỉ thấy toàn chuyện trớ trêu nghiệt ngã mà thằng Hoằng hỏng lẽ là hệ quả từ những chuyện làm từ thiện của ông ? Lẽ ra… Hai Huông bắt đầu “xét lại” cái lý của ông Phật, cái lý của luật nhân quả mà một đời ông tâm niệm. Và ông cũng tự xét cuộc đời mình từ trước tới nay một cách công tâm nhất. Ông có đáng phải gánh chịu cái gọi là “quả báo” này không ? Không ! Ngàn lần không,vạn lần không… Chuyện ai làm nấy chịu chứ. Tất nhiên,làm cha như ông cũng có một phần trách nhiệm trước sự thành bại của con. "Mũi dại lái chịu đòn" ông càng không có quyền trốn chạy trước sự hư đốn của thằng Hoằng. Người xưa đã không từng nói "Con dại cái mang" đó sao ?Lại càng không thể đổ thừa cho lý do về ở tập trung trong khu dân cư mà thằng Hoằng mới ra nông nổi ? Không ! "Nhân chi sơ tính bổn thiện", thằng Hoằng hư thân mất nết là do chính nó tự gây nghiệp quả,nó làm nó chịu đâu thể trách ai ! Biết bao lần ông đã dạy dỗ khuyên răn mà nó nào có chịu nghe ông ?Khuyên con không được ông thua buồn lặng lẽ tìm nguồn an ủi cho mình bằng những việc làm từ thiện. Đời nghĩ cũng trớ trêu cha làm phước làm nhân,con làm gian làm ác ! Mỗi người sẽ tự chịu trách nhiệm với chính cuộc đời mình.Đành vậy ! Thằng Hoằng đã gây ra bao điều không phải trong cuộc đời này, gây ra đau khổ cho vợ chồng con Sáu Xem nó phải tự thân gánh lấy, tự thân giải quyết hậu quả mà nó đã làm, thậm chí phải chịu sự trừng phạt thích đáng của luật đời của đạo lý. Đó là lẽ đương nhiên…Có gì đâu mà ông cứ phải đeo đẳng cưu mang, lo âu phiền muộn ?Có chăng là nỗi đớn đau trong lòng ông,trong lòng một người cha thấy trước điều sai sót của con sẽ xảy ra mà không làm sao ngăn chận được… Như những lần trở về sau các đợt làm từ thiện giúp đời lòng nhẹ nhõm lâng lâng, Hai Huông nghe tâm mình thanh thản dù lúc này sâu tận đáy lòng ông không tránh khỏi buồn đau. Nhấc mình khỏi chiếc võng xếp trước “hàng ba” Hai Huông với vô nhà sau gọi vợ mà như nói với chính mình: "Bà nó ơi ! Mai cúng hạ nêu, bà nhớ hầm thêm cho tui nồi canh khổ qua nghen bà. Nhờ món khổ qua, mong đầu tháng đầu năm tống hết chuyện khổ chuyện buồn qua đi, đón rước chuyện tốt chuyện lành vô nhà với bao điều may mắn…”. Bánh mì nóng giòn - tản văn Phan Võ Hoàng Nam Ký ức của chúng ta là một cái kho lưu trử hết sức kỳ diệu, có những việc chỉ mới hôm qua thôi, hôm nay ta đã quên khuâý đi mất, nhưng có những sự việc cho dù đã xãy ra từ lâu lắm rồi chúng ta vẫn không thể quên được. Mỗi khi ký ức quay về, tất cả lại hiện ra rỏ mồn một như "vừa mới hôm qua". Khoảng cách thời gian dường như không hề tồn tại, tất cả dường như mới nguyên khi ta nhớ về nó. Mẹ tôi mất năm tôi mới lên mười, nên những kỷ niệm về mẹ tôi lưu giữ không nhiều, nhưng với tôi đó là những ký ức không thể phai mờ. Đã nhiều năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhớ về mẹ, những ký ức tuổi thơ ấy vẫn luôn sống động trong tôi như một cuộn phim quay lại. Mẹ tôi là một người giản dị và chịu thương chịu khó, bà chẳng nề hà sự cực khổ, miễn sao có thêm thu nhập cho gia đình. Trong ký ức của tôi, mẹ tôi luôn luôn tất bật với công việc. cha tôi bảo mẹ con chỉ cần ở không là bà ấy bệnh. Khoảng đầu thập niên bảy mươi, cha tôi tham gia chính quyền sài gòn và giữ chức vụ trưởng ấp. Đồng lương trưởng ấp tuy không cao nhưng vẫn đãm bảo cuộc sống gia đình tôi, mẹ tôi lại là một thợ may, nên gia đình tôi sống không thiếu thốn lắm. Cha tôi bảo mẹ tôi là người biết lo xa, nhiều lần thấy bà vất vả ông bảo bà bớt tham công lại đi để còn giử gìn sức khoẻ. Bà chỉ cười bảo còn khoẻ còn làm được tranh thủ kiếm ít tiền cho con - Cha nói giọng buồn rười rượi - có lẽ mẹ con linh cảm bà ấy không ở được lâu với các con, nên muốn chuẩn bị trước khi ra đi. Những khi ít đồ để may hoặc tới mùa vụ, mẹ tôi làm đủ thứ công việc từ nhận làm cỏ rẩy cho đến cắt lúa thuê. Hồi đó vùng tứ giác Long Xuyên còn trồng lúa nước, mỗi năm chỉ có một vụ. Tháng ba âm lịch, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu kéo về, củng là lúc mùa gieo sạ bắt đầu. Tháng bảy những cây lúa được mưa tưới mát và cao ngang đầu gối, củng là lúc mùa lủ hàng năm tràn về mang phú sa lên đồng cho cây lúa. Vậy là bắt đầu một hành trình vượt lủ, những cây lúa tự đấu tranh để sinh tồn. Nước lên đến đâu, lúa lại vượt cao lên đến đó để rồi đến tháng chạp,khi mùa lủ rút đi củng là lúc lúa chín. Mùa lúa chín củng là mùa gió bấc. Không biết những năm gần đây do khí hậu ấm dần lên hay do cảm nhận của tôi, dường như mùa đông bây giờ không lạnh hơn ngày xưa ! Lủ trẻ chúng tôi hồi ấy mỗi sáng thức giấc lại quây quần bên một đống lửa được đốt từ rạ mới. Cả bọn ngồi quanh hơ đôi tay lạnh cóng. Thỉnh thoảng những hạt lúa nếp còn sót lại nổ tí tách văng ra nhứng hạt gạo đã được nướng chín, nở bung ra. Tôi thích nhặt những hạt gạo ấy bỏ vào miệng, nhấm nháp cái vị vừa béo vừa thơm của gạo đầu mùa. Bốn giờ sáng mẹ tôi đã dậy nhóm lửa nấu cơm để mang theo. Căn bếp chỉ cách chổ tôi ngủ có một bức vách làm từ lá vàng bạc, hơn nữa nhà lót vạt tre nên khi mẹ bắt nồi cơm lên bếp, tôi cũng thức giấc chui ra lăng xăng với mẹ. Buổi sớm tháng chạp trời lạnh như cắt da khi những cơn gió bấc len lõi vào gian bếp tranh tối tranh sáng. Tôi ngồi trong lòng mẹ chờ nồi cơm sôi. Ánh lửa trên bếp nhảy nhót tinh nghịch như những con sóc lửa đang quấn quýt nô đùa cùng nhau. Hơi ấm từ trong lòng mẹ và hơi ấm toả ra từ ngọn lửa trên bếp hoà vào nhau, tạo nên một không gian ấm áp, tràn ngập yêu thương. Tôi cuộn lại như con mèo trong lòng mẹ, tận hưởng cái ầm áp trong buổi sớm mùa đông đầy gió. Trong khi chờ cơm chín, thường thì mẹ mở chương trình đọc truyện của đài Sài Gòn. Có lẽ từ chính những buổi được nghe đọc truyện, đã hình thành trong tôi lòng yêu thích đọc sách. Đó là lần đầu tiên tôi được biết các nhân vật Tiết Nhơn Quý, La Thông...tuổi thơ tôi xem họ như những thần tượng và mong muốn mình củng có được những chiến công hiển hách giúp ích cho quê hương đất nước. Tuy nhiên tôi lại thích chương trình "Gia đình Bác Tám" hơn. Đây là một chương trình kịch truyền thanh giáo dục cộng đồng rất được thính giả trước 1975 yêu thích. Với tôi một đứa trẻ mới bảy, tám tuổi thì chủ yếu là chương trình rất vui và gần gủi. Mẹ vừa trông chừng nồi cơm trên bếp, vừa dọn dẹp các thứ ngăn nắp. Tôi củng lăng xăng khi thì cầm cái này, lúc cầm cái khác giúp mẹ. Cho đến giờ tôi vẫn cảm thấy ấm áp mỗi khi nhớ về những buổi sáng mùa đông ấy, trong cái chái bếp ám mùi khói, trong ánh lửa chập chờn nhãy múa, tôi đã có những khoảnh khắc hết sức gần gũi, hạnh phúc bên mẹ. Với người khác có lẽ điều này bình thường, nhưng với tôi một thằng bé mất mẹ năm mười tuổi thì những kỷ niệm về mẹ luôn là những tình cảm thiêng liêng mà tôi cất giữ rất cẩn thận. Thật ra tôi thức sớm chẳng phải để sẻ chia những khó nhọc với mẹ, một đứa con nít như tôi làm gì có thể nghĩ xa đến thế. Tôi thức sớm chẳng qua là để được ăn một ổ bánh mì nóng giòn của chú chệt. Như thường lệ, khi hết chương trình " Gia đình Bác Tám" thì chiếc xe đạp cà tàng và tiếng rao bánh mì nóng giòn của chú Chệt củng vừa tới cửa nhà tôi. Ông và cha tôi có chút giao tình, tôi lại là "mối" của ông, nên sáng nào đến cửa nhà tôi ông đều ngừng lại rao lớn: Bánh mì lóng giòn lây ! Không đợi rao đến lần thứ hai tôi đã nắm tay mẹ chạy ra cửa, mẹ tôi mĩm cười vì bà biết tôi chỉ chờ đợi phút giây này. Trong cần xé ở phía sau xe đạp của chú Chệt, ổ bánh nào củng nóng hổi giòn tan như từ lấy trong lò ra . Nhưng tôi vẫn thích tự tay lựa bánh mì cho mình, nên mẹ phải bồng tôi lên mới có thể đưa tay vào trong cần xé. Trời tháng chạp đêm dài, năm giờ sáng vẫn còn rất tối, từng cơn gió bấc len lỏi vào da thịt buốt giá. Chỉ có ngọn đèn dầu của chú chệt treo kế bên cần xé bị gió thổi lúc tối lúc sáng thì thấy đường đâu để lựa, tôi chỉ muốn thọc tay vào cái bao vải tận hưởng cái ấm áp và cái mùi bánh mì nóng, những ổ bánh mì kêu sột soạt dưới đôi tay tôi. Hơi ấm lan cả thân người. Bên trong cái cần xé bánh mì, chú Chệt đặt ở dưới đáy một ngăn chứa cái lò than luôn đủ nóng để những ổ bánh mì lúc nào củng như mới được lấy từ trong lò ra. Vì vậy ông bán bánh mì rất đắt hàng. Từ chợ Cái Dầu chạy lên nhà tôi hơn cây số, giờ này ông đã lấy thêm chuyến bánh thứ hai. Một ổ bánh mì nóng giòn với một ly café sữa nóng, với những người lao động thức sớm thì đó quả là một bửa điểm tâm tuyệt vời. Người ta không chỉ thích bánh mì nóng của chú chệt và còn thích luôn cả cái tính vui nhộn với giọng nói luôn bị ngọng bởi chử "n" của chú. Mẹ tôi bảo chú Chệt bán bánh mỳ để nuôi những người con ăn học, tôi chưa biết rỏ mọi việc lắm nhưng tôi rất kính trọng chú. Nhiều hôm tranh thủ mẹ tôi nói chuyện với chú, tôi cứ khoắng cả hai tay vào cái bao vải đựng bánh mì tận hưởng cái ấm nóng từ những ổ bánh mì, mẹ tôi phải giục - nhanh lên để chú còn đi bán, còn chú Chệt thì cười xoa đầu tôi. Cầm bánh mỳ trên tay, tôi nhanh chóng chạy vào bếp lấy cái ly đưa cho mẹ. Tôi thèm thuồng nhìn dòng sửa chảy vào ly từ cái hộp sửa Ông Thọ trên tay mẹ. Một ly sửa nóng, ổ bánh mì giòn, với tôi nó là cả một bửa tiệc. Bẻ một miếng bánh nóng hổi, chấm vào ly sửa rồi đưa vào miệng, cái cảm giác ấy dường như đọng lại đến bây giờ. Trong khi tôi ăn, thì mẹ cũng chuẩn bị cơm để mang theo vào đồng. Trước khi đi mẹ luôn dặn đi dặn lại- ăn xong con dẹp ly vào bếp rồi vào mùng ngủ tiếp đi nhé. Cũng có những hôm cha thức cùng tôi và mẹ, những hôm ấy mẹ pha một bình trà rồi ngồi nhìn hai cha con khề khà ly trà nóng. Tôi vẫn giữ mãi những hình ảnh đẹp của tháng ngày thơ ấu vào một góc riêng tâm hồn mình. Nó như một thứ bảo vật quý giá, như một ngọn lửa nhỏ để sưởi tâm hồn khi đường đời giá buốt. Bánh mì vẫn ra lò, vẫn nóng vẫn giòn, nhưng đã không còn ai bán bánh mì với cái lò than trong cần xé nữa. Và với tôi những ổ bánh mì củng không còn thơm giòn kể từ khi mẹ vĩnh viễn ra đi, về nơi chốn xa hư không vô định. Mùa ốc lác Sau mùa gặt, khi ngoài đồng chỉ còn trơ gốc rạ màu vàng sậm xơ xác, dưới cái nắng gay gắt mùa hè, đất ruộng bắt đầu khô đi và nứt nẻ thành từng đường mạng nhện sâu hút (dân quê tôi có câu “Nẻ như mặt ruộng”), ... thì nông dân bắt đầu cày đất. Luống cày sâu khoảng hai gang tay úp tất cả gốc rạ xuống phía dưới, để phơi đất cho thiệt khô nhằm làm chết các loại côn trùng, các loài động thực vật có hại cho lúa. Đến khi mưa xuống, người ta xả nước vào ngâm trong ruộng cho gốc rạ (đã mục thành phân) mủn đều rồi cày ải, bừa đất lại cho mịn để làm vụ lúa sau. Nhà nào không kịp cày đất phơi khô thì đốt gốc rạ (kêu là đốt đồng), cho tro thấm xuống ruộng luôn. Làm đất kỹ như vậy, hổng hiểu sao cái giống ốc lác nó sống dai thiệt là dai, qua chừng vài đám mưa ngập ruộng là nó nhoi nhóc bò ra đầy hết, lúc này dân quê tôi kêu là đã vào mùa ốc lác. Ra ruộng đem theo cái rổ xúc đổ vào thúng, vào giỏ tre mang về. Ốc lớn, ốc nhỏ gì cũng có. Hết mùa gặt, ruộng khô rồi thì vác vá ra đào theo bờ ruộng, bắt toàn ốc lớn. Lúc này, ốc tuy khó kiếm, nhưng thịt ốc ăn ngọt hơn, giòn hơn và ít nhớt hơn ốc mùa mưa. Ốc lác là loại ốc hình dạng tròn, vỏ đen (thỉnh thoảng có vân), sống ở ruộng và ao nước ngọt. Con ốc lác lớn nhứt cũng chỉ bằng trái chanh Đà Lạt. Mẹ tôi thường mua ốc lác lớn cỡ ngón chân cái về nhà ăn, bà nói con lớn quá thịt cứng mà nhiều nhớt, ăn không ngon, cỡ ngón chân cái thịt vừa mềm, vừa giòn mà lại ít nhớt. Ốc nhỏ người ta thường xúc mỗi lần cả rổ, cho vịt ăn. Thịt ốc lác màu vàng, vị ngọt và giòn. Hồi nhỏ, tôi đọc sách thấy ông Thạch Lam, Khái Hưng ca ngợi món bún ốc Hà Nội quá trời mà thèm ơi là thèm. Bún ốc (của hai ông mô tả) nấu bằng ốc nhồi. Tôi không biết con ốc nhồi nó ra làm sao mà hai ông nhà văn này ca ngợi dữ vậy, thắc mắc hoài nhưng không ai giải thích được. Khi tôi học đại học năm thứ 2, tôi mới đem thắc mắc của mình ra hỏi con bạn quê Đà Nẵng, nó mới hứa rằng sẽ dẫn tôi đi “coi mắt” ốc nhồi, và nấu bún ốc cho tôi ăn thử cho biết. Một bữa nọ, nó lôi tôi ra chợ Bình Triệu, chỉ vào rổ ốc của bà bán ốc và nói: “Ốc nhồi đó mậy. Để tao mua ốc này nấu bún cho mày ăn.” Tôi nhìn vào rổ ốc thì té ngửa, hóa ra ốc nhồi là ốc lác. Tôi mới nói: “Thôi khỏi đi, mất công mày lắm. Tao tưởng ốc nhồi là ốc gì lạ, chớ ốc này xứ tao kêu là ốc lác, tao ăn đến mòn răng hết rồi.” Tôi cũng lấy làm lạ là dân xứ tôi không biết con ốc nhồi là ốc gì, mà vẫn chấp nhận câu thành ngữ “Mắt ốc nhồi” (chỉ mắt kiểu to, tròn, hơi lộ) rồi nói ào ào, chớ không hề kêu là “mắt ốc lác” cho dễ hiểu. Ốc lác có thể chế biến thành nhiều món ăn rất ngon. Thông thường là món luộc lá ổi (hoặc hấp sả) chấm nước mắm tỏi ớt hoặc chấm cơm mẻ, hoặc lể ốc ra kho với mắm sặc và cà dái dê, kho chung với thịt ba rọi, nấu cari sả ớt, xào mặn sả ớt để dành ăn lúc thiếu thức ăn. Luộc ốc cũng là một nghệ thuật, biết cách luộc thì ốc không bị nhớt, thịt ngọt và giòn. Ốc đem về ngâm với nước vo gạo chừng 3 giờ đồng hồ, cho nó nhả hết nhớt ra rồi rửa lại bằng nước sạch. Hái khoảng ba nắm lá ổi rửa sạch lót xuống đáy nồi, xếp ốc lên lá ổi, đổ thêm khoảng một chén nước, đậy nắp nồi cho kín rồi bắt lên bếp nấu lửa to. Nước sôi lên chừng vài phút, giở nắp nồi ra thấy cái mày con ốc rớt ra ngoài thì nhắc xuống, để lâu quá con ốc teo lại và rút sâu vô vỏ thì nó hết ngọt, và cũng rất khó lấy cái kim khều nó ra. Làm nước mắm chấm ốc cũng phải có “công phu”. Trước hết phải có nước mắm ngon, tỏi ta, ớt chỉ thiên chín đỏ, giấm, đường cát trắng, chanh. Lột vỏ tỏi giã chung với ớt cho nát, tỏi ớt nhiều ít tùy khẩu vị người ăn, thường thì khoảng một củ tỏi, hai trái ớt là đủ ăn trong gia đình. Lấy cái tô lớn, bỏ tỏi ớt đã giã vào, lường vào tô cứ 1 muỗng canh nước mắm thì 1 muỗng canh giấm, 1 muỗng canh nước lã (đun sôi để nguội), 1 muỗng cà phê đường. Quậy cho tất cả tan đều với nhau, nếm thử rồi gia giảm cho vừa miệng. Vắt chanh vào tô nước mắm. Nếu thích dùng nhiều chanh, cho nước mắm thơm mùi chanh và đẹp thì khi pha chế phải bớt giấm lại. Tô nước mắm pha xong có màu vàng óng, điểm lác lác màu trắng của tỏi, màu đỏ của ớt và những tép chanh nho nhỏ nhìn thật hấp dẫn. Lúc này có thể bưng nồi ốc nóng bốc hơi nghi ngút để xuống đất giữa nhà, mọi người ngồi quây quần xung quanh, múc nước mắm ra từng chén nhỏ, mỗi người một chén, lấy cái tăm tre hay gai bưởi mà khều từng con ốc nóng hổi ra, chấm ngập vào chén nước mắm, xong đưa lên miệng nhai để nghe cái hương vị ngọt giòn của ốc hòa lẫn với vị mặn của nước mắm, vị ngọt của đường, vị chua của giấm (chanh) và vị cay nồng của ớt, tỏi, nếu có thêm ly rượu đế để kế bên, lâu lâu tợp một hớp rồi “khà” lên khoái trá, thiệt không có cái thú nào bằng. Tuy nhiên, ăn ốc lác luộc chấm nước mắm cũng có cái dở riêng của nó, đó là nước mắm làm cho con ốc chảy nhớt thêm. Tôi thích ăn ốc lác luộc chấm cơm mẻ hơn. Người ta làm cơm mẻ để ăn ốc luộc bằng cách lấy khoảng một chén cơm mẻ tán nhuyễn, cho thêm một chút bột ngọt, chút đường, chút muối, sả ớt bằm nhuyễn vào, rồi trộn cho cơm mẻ quyện đều với gia vị. Lấy cái tăm xỉa con ốc quệt thêm một miếng cơm mẻ bằng ngón tay út, rồi bỏ vào miệng nhai thấy còn ngon hơn chấm nước mắm nữa. Món cơm mẻ này cũng dùng để chấm với thịt trâu luộc, nhậu; bảo đảm bợm nào lần sau kiếm hổng có, dám khóc lắm đó. Sau gần 10 năm “được” các nhà “pha học” của ta có “sáng kiến” nhập ốc bươu vàng về nuôi, cái giống ốc bươu vàng ăn dở ẹt này nó “xâm lăng” ghê gớm, không bao lâu chỗ nào có nước là chỗ đó thấy từng đám, từng đám trứng ốc bươu vàng hồng hồng thiệt là kinh, nó giành hết thức ăn, tàn phá mùa màng khủng khiếp, nó “đánh bạt” con ốc lác đen biến đâu mất tăm mất tích. Hồi tôi còn nhỏ, dân quê tôi bán ốc lác tính bằng đơn vị rổ, thau, thúng. Sau đó thì cân ký lô giá rẻ rề có 2-3 ngàn đồng một ký. Bây giờ, ốc lác khan hiếm quá chừng, nghe nói giá ốc lác lên đến 2-3 chục ngàn đồng một ký, mà không phải lúc nào vào mùa ốc lác cũng có mà mua. Còn trong các nhà hàng, quán nhậu chủ quán bán một con ốc đến 3 ngàn đồng. Ngày xưa, con ốc lác bị nông dân coi là “thiên tai” phá hại mùa màng, nhưng vẫn còn ích lợi là làm thức ăn cho người và gia súc, gia cầm được. Còn bây giờ, sau một thời gian được “thưởng thức” “sáng kiến” nuôi ốc bươu vàng, nông dân quê tôi mới hốt hoảng khi thấy cái “nhân tai” này còn kinh khủng hơn ốc lác quá trời. Người không ăn được, cho vịt ăn riết vịt cũng phát chán không muốn ăn, chính quyền địa phương tốn thêm một mớ tiền, mướn người xúc ốc bươu vàng lên cạn đập chết rồi đem chôn. Thiệt hết ý kiến! Có lần chúng tôi đã ăn thử ốc bươu vàng luộc chấm nước mắm tỏi ớt. Ăn khoảng 10 con là cảm thấy chán ngấy, vì thịt nó nhạt nhẽo quá. Sau đó, cả đám đứa nào có ăn ốc bươu vàng hôm đó đều bị “Tào Tháo dí” chạy trối chết, thiệt tởn tới già hết dám rớ tới ốc bươu vàng. Cả tháng nay, Sài Gòn chiều nào cũng mưa dầm dề. Nhìn mưa rơi xối xả, hơi lạnh tràn trề, chợt nhớ những lúc quây quần bên nồi ốc lác luộc lá ổi bốc khói chấm cơm mẻ, hay nồi mắm sặc kho ốc với cà dái dê thơm nồng mùi thính, mùi sả quê nhà. Oc ruoc Hơn một tháng nay, nhân dân thôn 2 xã ven biển Duy Hải (Duy Xuyên) nô nức rủ nhau đi cào ốc ruốc ở dọc bờ biển. Từ việc đi cào những con ốc nhỏ xinh xinh, đủ màu sắc, nhiều gia đình nghèo ở đây đã đủ trang trải hàng ngày, lo tiền học hành cho con cái… Gần 7 giờ sáng, bãi biển đã nhộn nhịp nhiều người đợi mua ốc. Dân cào ốc lần lượt lên bờ, vai vác cào, tay kéo theo bao ốc nặng trịch, nỗi mệt nhọc dường như tan biến mất khi họ cầm trên tay vài ba trăm nghìn đồng vừa bán ốc. Cậu bé Nguyễn Văn Thiên vừa vác đồ cào dưới nước đi lên, vừa nói: "Bữa ni nước cạn lúc 2 giờ sáng nên em phải thức khuya với cha ra cào ốc kiếm thêm ít tiền mua sách vở; chỉ tranh thủ chủ nhật thôi chứ ngày thường em phải đi học ở trường”. Hôm nay Thiên cào được 2 xô, tương đương với 60kg ốc, bán được hơn 150 nghìn đồng, em rất vui. Thiên còn cho biết thêm, từ đầu mùa ốc đến nay, em dành dụm tiền bán ốc được hơn 500 nghìn đồng để nộp học phí và mua sách vở chuẩn bị cho năm cuối cấp. Ở thôn 2 xã Duy Hải, không kể sáng, trưa, chiều hay tối, khi nào nước triều cạn là người dân lại ra biển cào ốc. Lúc nước triều cạn, trên bãi cát dài, hàng chục con người trên tay cầm dụng cụ cào, bao đựng ốc… bóng đổ dài trong nắng chiều, lầm lũi tiến về phía biển. Mùa ốc ruốc ở đây chỉ kéo dài từ tháng giêng đến hết tháng 2 hằng năm (âm lịch) và sau đó thưa dần. Do đó, hầu như nhà nào trong thôn cũng tranh thủ đi cào ốc, không chỉ thanh niên, đàn ông mà cả phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Anh Lê Văn Ba (28 tuổi) cho biết, hằng năm vào tháng 2 là anh đi cào ốc kiếm tiền chi tiêu cuộc sống và dành dụm mua thêm mấy thứ vật dụng gia đình. Năm ngoái vợ chồng anh còn sắm được cả bếp ga, ti vi màn hình phẳng... Dụng cụ cào ốc tuy không phải sắm tiền triệu, nhưng cũng mất khoảng 700.000 đồng/bộ. Nó rất nặng, những vẫn có những phụ nữ đi cào, nhưng nghề này chủ lực vẫn cánh đàn ông. Người dân ở đây cho biết, muốn đi cào ốc thì phải theo con nước lớn, ròng. Thường từ 15 ngày đầu tháng, con nước cạn sớm, nên khoảng 2 hay 3 giờ chiều là cào được rồi; nửa tháng sau thì con nước cạn trễ hơn, có khi nửa khuya về sáng. Do vậy, có hôm phải cào ốc đến khoảng 8 giờ tối mới về, có khi làm đến sáng. Những năm trước, đi dưới biển mà nghe ốc nằm xốn lòng bàn chân. Có khi không cần cào vất vả mà chỉ cần lấy tay lùa và hốt vào bao. Nhờ vậy, có rất nhiều người một chuyến cào thu về 500-600 nghìn đồng; còn 200-300 nghìn đồng là chuyện thường. Năm nay, tuy không có ốc nhiều như những năm trước, nhưng những người khỏe mạnh, cào 4 tiếng đồng hồ cũng được hơn 150kg. Hiện nay giá ốc loại lớn hơn 3 nghìn đồng/kg, loại nhỏ 2 nghìn đồng/kg, cũng kiếm được trên dưới 300 nghìn đồng. Nếu mỗi gia đình có 2 hoặc 3 người đi cào ốc thì cũng kiếm được tiền triệu, số tiền không nhỏ với người dân nghèo trong thời buổi khó khăn. Mùa ốc gạo ở miền Nam Ốc gạo bắt đầu có nhiều từ tháng ba âm lịch, nhưng rộ nhất vào tháng năm. Theo gu của dân xứ dừa Bến Tre, món ốc gạo ngon phải trộn thêm dừa nạo, cuốn bánh tráng chấm tương. Hai nơi có ốc gạo nổi tiếng ngon, nhiều là cồn Phú Đa, xã Vĩnh Bình, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre và cồn Tân Phong, xã Tân Phong, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Mùa thu hoạch có cả trăm tấn ốc gạo được bắt lên từ hai cồn này. Ốc gạo bắt đầu có nhiều từ tháng ba âm lịch, nhưng rộ và nhiều nhất vào tháng năm. Về cồn Phú Đa, con ốc gạo tới mùa béo giòn đúng độ. Theo gu của dân xứ dừa thì món ốc gạo ngon hơn, phải trộn thêm dừa rám nạo, cuốn bánh tráng chấm tương. Và còn biết bao là món ngon như ốc gạo um nước dừa, ốc xào củ hủ dừa, bánh xèo nhân ốc gạo củ hủ dừa... mang đậm sắc thái đặc trưng vùng Phú Đa. Xuống cù lao Tân Phong, người dân ở đây sống trên thuận dưới hoà như bà con ruột thịt. Bởi lẽ họ quanh quẩn trên cái cù lao dài độ ba cây số, ngang chưa đầy một cây số rưỡi, sống bằng nghề xúc ốc gạo. Người Tân Phong trông có khách phương xa đến thăm, vào mùa ốc thế nào cũng phải mang đặc sản ra đãi. Trong các món thì ốc gạo luộc coi dễ ợt vậy mà không khéo thì mất ngon. Bắc chảo lên bếp, để lửa nóng, đổ ốc vào chảo, đậy nắp cho kín, chừng vài phút, canh con ốc vừa hé miệng, trút nhanh ra thố. Vậy là có một món ốc gạo luộc nóng hổi, thơm bát ngát. Bẻ mấy cọng gai bưởi làm kim lể ốc, chấm nước mắm gừng, nhai chầm chậm để thấy con ốc ngọt lịm, béo đậm trong cái hậu giòn. Ốc gạo trộn gỏi đu đủ làm món dưa cay thật đã. Còn món ốc gạo chấy tỏi, vừa nghe mùi tỏi chấy bén mùi ốc bốc lên là đã thấy ứa nước miếng. Vẽ duyên hơn thì làm ốc gạo tiềm thuốc bắc để bồi dưỡng. Khề khà mấy món ốc gạo với ly rượu đế, nói chuyện con ốc, mùa màng, làng xóm. Cuối buổi làm gì thì cũng phải có món cháo ốc. Lể ốc, xào sơ với mỡ, tỏi, hành phi cho thơm, trút vào nồi cháo. Hoa cháo nở bung trắng mịn, thịt ốc vàng căng mọng, điểm hành xanh mát mắt. Múc mỗi người một tô, rắc tiêu thơm phức. Mùa ốc quắn Thứ Bảy, 10/09/2011 20:13 Có lẽ đến vài chục năm tôi mới có dịp trở lại vùng cửa biển Liên Hương này vào những ngày cuối tháng 8, ngày vào mùa ốc quắn. Mùa ốc quắn có từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Vào những tháng ấy, từ 15 giờ chiều trở đi, biển cạn, nước rút tới đâu, bãi rạng lộ ra đến đó, và mọi người cứ dỡ đá, nhặt ốc. Đây là thú vui cho những người dạo biển, bắt ốc, thư giãn… song với những người nghèo thì đây là nguồn thu nhập “ trời cho”. Kho báu người nghèo Cửa biển Liên Hương, huyện Tuy Phong, chiều nay gió thật mát dịu, không khí thật trong lành. Sóng biển vẫn liên tục vỗ bờ, như mời gọi con người đến với biển... Tôi vươn vai hít thật sâu không khí mát, mặn của biển, đến căng lồng ngực. Một cảm giác dễ chịu lan tới, cùng lúc với những hình ảnh xưa cũ tràn về. Đó là ngoại tôi, mẹ tôi và tôi, một chú nhóc, đi bắt ốc trên biển. Tôi không hề biết đến sự sắc bén của vỏ hàu, sự lồi lõm của san hô… cứ buớc như chạy trên bãi rạn, thỉnh thoảng lật vài viên đá bắt ốc, làm mẹ và ngoại cứ phải nhắc chừng. Cảnh ấy giờ đây đang được lặp lại với nhiều người khác, là những người sống trong vùng biển quê tôi. Từng tốp người: già, trẻ, lớn, bé cầm thùng, xô, thau, bị ni lông… lom khom, cặm cụi tìm nhặt ốc, cạy hàu, cạy vú nàng; người thì đào chem chép ở chỗ nhiều cát, ít đá… một không gian huyên náo, đông vui… Gặp cụ Ba Dân, 75 tuổi, ở khu phố 12, Liên Hương đang đi dạo giữa đám đông người, trông ông còn khỏe mạnh và khá nhanh nhẹn bước chân. Ông nói: “Mùa này, chiều nào tôi cũng đi một vòng bãi rạn này, gặp một vài bạn già nói chuyện thư giãn, khỏe lắm". Cái “mỏ” ốc quắn này chắc là có lâu rồi, khi tôi còn bé tẹo đã thấy không ít người đi bắt ốc”. Bãi đá rạn ốc quắn, kéo dài từ bờ biển bên Liên Hương sang bên kia cửa biển Phước Thể. Ngoài ốc quắn là chủ lực còn có nhiều loài ốc khác với nhiều tên gọi lạ lẫm, thậm chí có tên rất ngại gọi cũng có mặt khá phong phú tại đây: ốc mặt trăng, ốc ngựa, ốc gai, ốc vôi… đây thật sự là một kho báu trời cho, đặc biệt là với người nghèo. Ốc giúp đời Ốc quắn nhiều kích cỡ nhưng lớn nhất chỉ bằng đầu đũa, đây là loại đúng độ khai thác, nên được người lao động nghèo hoặc những người thích thú tìm bắt, ốc có chiều dài khoảng 2 phân, đầu lớn đuôi nhọn, thân hình xù xì có gai nhỏ trên vỏ, ốc có màu đen hoặc màu trắng mốc pha đen, màu xám tro, phần nhiều là màu rêu mốc… nó nằm rải rác trên bãi đá, có khi phải lật những hòn đá lớn lên để nhặt, có lúc nó nằm trong những khe đá phải thò tay vào lấy ra. Ruột ốc chấm mắn gừng ngon tuyệt. Đây là thú ăn lấy vui của nhiều nguời những lúc quây quần bên nhau, đặc biệt hấp dẫn với các cô. Ốc quắn luộc “lể” lấy ruột làm gỏi rất ngon, song do tốn công nên ít người làm. Bà Nguyễn Thị Hiệp, 54 tuổi, ngụ tại khu phố 14, thị trấn Liên Hương, một tay xách cái xô, bên trong có khoảng 3 ký ốc quắn và một ít ốc khác, tay kia xách bịch chem chép hơn 1 ký, nói với tôi bằng giọng của một người hài lòng với công việc mình đang làm: “Hơn chục năm nay, năm nào, tới mùa này tôi cũng đi bắt ốc, kiếm vài ba ký trong ngày, giá mỗi kg bây giờ là 20.000 đồng. “Trúng” kiếm được cả 100.000 đồng, thông thường từ 50.000 - 70.000 đồng trong ngày”. Bà Đặng Thị Hương, 56 tuổi, khu phố 13, Liên Hương bắt ốc gần đó, chen vào: “Mùa này không bắt ốc, bọn già chúng tôi biết làm gì chú, coi vậy mà đỡ lắm! Ốc quắn luộc trước đây là món ăn chơi của lao động nghèo, nay nó đã đi vào các quán vùng đô thị. Chị Hai Nga, đầu mối mua ốc, cung cấp lại cho các quán, rồi hướng dẫn các quán khi làm nóng lại để bán (vẫn giữ được hương vị ban đầu) cho hay: “Một đĩa ốc luộc có nước dừa khoảng 15.000 đồng”. Còn chem chép hình dạng giống như chan chan biển Phan Thiết, nhưng nhỏ hơn một chút, vỏ cũng mỏng hơn. Chan chan vỏ màu trắng, xám, gạch nhạt, tất cả đều có viền một ít đậm nhạt sọc xám, đen, xanh hoặc đỏ; còn chem chép có nhiều màu gạch tôm, xám, trắng, trắng pha xám… Chị Hoàng Thị Lam, 40 tuổi, thôn 2, xã Phước Thể cho biết: “Chem chép bán sống sau khi đong bằng lon sữa bò, tính ra thì giá 15.000 đồng/kg, riêng bắt chem chép mỗi chiều chị cũng kiếm được khoảng năm chục ngàn đồng”. Điều còn lại Chiều dần buông xuống, từ sau 17 giờ 30, người bắt ốc quắn lần lượt ra về. Âm thanh huyên náo lúc này không còn, có chăng chỉ là tiếng gió thổi và tiếng du dương của biển như lời từ biệt của thiên nhiên với những người lao động cần mẫn sau một ngày vất vả mưu sinh. Đứng trước biển lúc này tôi thầm cám ơn tạo hóa đã cho người dân nghèo quê tôi một “kho” sản vật phong phú, cứu đói, thoát nghèo cho nhiều hoàn cảnh. Điều quan trọng là chính quyền và người dân phải biết trân trọng gìn giữ, vun bồi cho “kho” tiếp tục trường sinh như bao đời qua, để rồi nó lại cung cấp những con ốc quắn cho con người. Mùa ố c nh ồ M ộ ữ a tôi đang h ọ c bài. Lúc ng ẩ ng lên nhìn qua ô c ử a s ổ nh ỏ trông ra cu ố i v ườ ỗ ng tôi gi ậ t mình th ấ y m ộ t bà lão đang rón rén xu ố ng ao nhà tôi. Chi ế c gi ỏ đeo ngang b ụ ng, qu ầ n áo ướ t sũng bà khe kh ẽ ẽ đám bèo tây quanh b ờ , tay v ơ v ộ i nh ữ ng con ố c, m ắ t bà v ẫ n canh ch ừ ng nhìn lên xung quanh. Ch ắ c bà không trông th ấ y tôi . Ả nh minh h ọ a: interne Nhà tôi có cái ao n ằ m cu ố i v ườ n. Mùa này, khi nh ữ ng c ơ ư a rào ràn r ạ t xu ấ t hi ệ n, loài ố c trong ao đã b ắ t đ ầ u sinh s ả n nhanh chóng. D ướ i các đám r ễ bèo nh ữ ng chú ố c nh ồ ố c qu ắ n thi nhau bám l ủ ng l ẳ ng. B ố tôi h ứ a ch ủ nh ậ ớ ố ẽ đãi c ả nhà m ộ t món đ ặ c ả n. Tôi hi ể u đó là món ố c lu ộ c lá chanh ch ấ ướ c m ắ m c ố t th ơ m l ừ ng. M ẹ tôi còn bàn thêm d ạ o này ố c nh ồ i đang có giá. Ch ỉ c ầ n bán vài trăm con ố c cũng đ ủ ề n cho chúng tôi ăn kem h ế t mùa hè. M ộ ữ a tôi đang h ọ c bài. Lúc ng ẩ ng lên nhìn qua ô c ử a s ổ nh ỏ rông ra cu ố i v ườ ỗ ng tôi gi ậ t mình th ấ y m ộ t bà lão đang rón rén xu ố ng ao nhà tôi. Chi ế c gi ỏ đeo ngang b ụ ng, qu ầ n áo ướ t sũng bà khe kh ẽ ẽ đám bèo tây quanh b ờ , tay v ơ v ộ i nh ữ ng con ố c, m ắ t bà v ẫ n canh ch ừ ng nhìn lên xung quanh. Ch ắ c bà không trông th ấ y tôi. Đ ầ u tiên tôi đ ị nh g ọ ố . Tôi đã đ ứ ậ t d ậ y nh ư ng tôi l ạ ừ ừ ồ i xu ố ng. Có nh ữ ng ngày mùa đông tê bu ố t tôi đi h ọ c trong b ộ qu ầ n áo dày ấ m áp tôi v ẫ n th ấ y bà c ụ c ặ m c ụ i mò ố c d ướ i nh ữ ng cánh đ ồ ng ven đ ườ ng. L ư ng bà còng xu ố ng. M ặ t bà cúi g ằ m ch ạ ặ ướ c, bà mò m ẫ ộ t cách t ộ i nghi ệ . Bây gi ờ bà đang ở trong ao nhà tôi, v ẫ n cái dáng còng còng t ộ i nghi ệ ấ y. Tôi c ố ậ p trung vào bài văn phân tích tác ph ẩ m “Qua đèo Ngang” ch ậ p ch ờ ế ng cu ố c … Vi ế t xong bài văn tôi không th ấ y bà lão bán ố c đâu n ữ a . Ch ắ c chi ế c gi ỏ bên hông bà đã đ ầ y ố c. Bà đã r ờ i kh ỏ i ao nhà tôi t ừ lúc nào. Bu ổ i ch ợ hôm chi ề u nay bà s ẽ bày nh ữ ng chú ố c nh ồ i vàng đanh, xoàn xo ạ t nh ư trái ổ i trên chi ế c lá sen bán cho nh ữ ườ i thích món đ ặ c s ả n. Tôi tin ch ắ c v ậ y … Đ ế n hôm sau, hôm sa u n ữ a tôi l ạ i th ấ y bà lão b ắ ố c vào ao nhà tôi. Tôi l ạ i c ố ậ p trung vào nh ữ ng bài th ơ c ủ a Bà Huy ệ n Thanh Quan. Sao bài th ơ Thăng Long thành hoài c ổ bu ồ n th ế . C ứ ph ả ng phát m ộ ề m u hoài s ươ ng khói … Đ ế n hôm th ứ ư thì b ố tôi đ ộ ộ t l ạ i sau nhà. Tôi v ẫ n đang ng ồ i h ọ c. Bà lão b ắ ố c v ẫ n còng còng cái l ư ng trên m ặ t ao. Tôi nín th ở ch ờ ế ng quát c ủ a b ố . Tôi bi ế ố tôi r ấ t nghiêm kh ắ c v ớ i nh ữ ng vi ệ c làm nh ư th ế . B ố tôi đi d ầ n ra phía ao. Ch ỉ c ầ n qua g ố c cây tr ứ ng gà n ữ a toàn b ộ ặ t ao s ẽ l ộ ra. Tôi cúi đ ầ u xu ố ng bàn. Chi ế c bút trên tay tôi ngu ệ ch ngo ạ c nh ữ ng dòng ch ữ vô nghĩa lên t ờ ấ y nháp. M ộ t lát tôi nghe ti ế ướ c chân b ố đi vào. Không có ti ế ng quát nào c ả . Ch ủ nh ậ ớ ố tôi “đính chính” l ạ i ngày b ố chiêu đãi món đ ặ c s ả n bí m ậ t. M ộ t mình b ố hì h ụ rào l ạ i hàng rào quanh nhà. Tôi ra làm giúp b ố . B ố tôi không gi ả i thích cho tôi bi ế t vi ệ c b ố ử a l ạ i hàng rào. C ả hai b ố con đ ề u t ả ng l ờ vi ệ c x ả y ra . Nh ư ng c ả ộ t th ờ i gian sau tôi không th ấ y bà lão b ắ ố c đ ế ữ a không ph ả i vì hàng rào quanh ao đã đ ượ c ấ p kín. Có l ẽ hôm đó bà đã th ấ y b ố tôi, bà cũng hi ể u vì sao b ố tôi l ạ i l ẳ ng l ặ ng quay vào không nói m ộ t câu nào. Tôi tin ch ắ c v ậ y . Mùa ốc lác Thứ hai, 27/06/2011 16:58 (CAO) Sau mùa gặt, qua chừng vài đám mưa ngập ruộng là ốc lác nhoi nhóc bò ra, lúc này dân quê tôi kêu là đã vào mùa ốc lác. Ra ruộng đem theo cái rổ xúc đổ vào thúng, vào giỏ tre mang về. Ốc lớn, ốc nhỏ gì cũng có. Hết mùa gặt, ruộng khô rồi thì vác vá ra đào theo bờ ruộng, bắt toàn ốc lớn. Lúc này, ốc tuy khó kiếm, nhưng thịt ốc ăn ngọt hơn, giòn hơn và ít nhớt hơn ốc mùa mưa. Ốc lác là loại ốc hình dạng tròn, vỏ đen (thỉnh thoảng có vân), sống ở ruộng và ao nước ngọt. Con ốc lác lớn nhứt cũng chỉ bằng trái chanh Đà Lạt. Mẹ tôi thường mua ốc lác lớn cỡ ngón chân cái về nhà ăn, bà nói con lớn quá thịt cứng mà nhiều nhớt, ăn không ngon, cỡ ngón chân cái thịt vừa mềm, vừa giòn mà lại ít nhớt. Ốc nhỏ người ta thường xúc mỗi lần cả rổ, cho vịt ăn. Thịt ốc lác màu vàng, vị ngọt và giòn. Ốc lác có thể chế biến thành nhiều món ăn rất ngon. Thông thường là món luộc lá ổi (hoặc hấp sả) chấm nước mắm tỏi ớt hoặc chấm cơm mẻ, hoặc lể ốc ra kho với mắm sặc và cà dái dê, kho chung với thịt ba rọi, nấu cari sả ớt, xào mặn sả ớt để dành ăn lúc thiếu thức ăn. Luộc ốc cũng là một nghệ thuật, biết cách luộc thì ốc không bị nhớt, thịt ngọt và giòn. Ốc đem về ngâm với nước vo gạo chừng 3 giờ đồng hồ, cho nhả hết nhớt ra rồi rửa lại bằng nước sạch. Hái khoảng ba nắm lá ổi rửa sạch lót xuống đáy nồi, xếp ốc lên lá ổi, đổ thêm khoảng một chén nước, đậy nắp nồi cho kín rồi bắc lên bếp nấu lửa to. Nước sôi lên chừng vài phút, giở nắp nồi ra thấy cái mày con ốc rớt ra ngoài thì nhắc xuống, để lâu quá con ốc teo lại và rút sâu vô vỏ thì nó hết ngọt, và cũng rất khó lấy cái kim khều nó ra. Làm nước mắm chấm ốc cũng phải có “công phu”. Trước hết phải có nước mắm ngon, tỏi ta, ớt chỉ thiên chín đỏ, giấm, đường cát trắng, chanh. Lột vỏ tỏi giã chung với ớt cho nát, tỏi ớt nhiều ít tùy khẩu vị người ăn, thường thì khoảng một củ tỏi, hai trái ớt là đủ ăn trong gia đình. Lấy cái tô lớn, bỏ tỏi ớt đã giã vào, lường vào tô cứ 1 muỗng canh nước mắm thì 1 muỗng canh giấm, 1 muỗng canh nước lã (đun sôi để nguội), 1 muỗng cà phê đường. Quậy cho tất cả tan đều với nhau, nếm thử rồi gia giảm cho vừa miệng. Vắt chanh vào tô nước mắm. Nếu thích dùng nhiều chanh, cho nước mắm thơm mùi chanh và đẹp thì khi pha chế phải bớt giấm lại. Tô nước mắm pha xong có màu vàng óng, điểm lác đác màu trắng của tỏi, màu đỏ của ớt và những tép chanh nho nhỏ nhìn thật hấp dẫn. Lúc này có thể bưng nồi ốc nóng bốc hơi nghi ngút để xuống đất giữa nhà, mọi người ngồi quây quần xung quanh, múc nước mắm ra từng chén nhỏ, mỗi người một chén, lấy cái tăm tre hay gai bưởi mà khều từng con ốc nóng hổi ra, chấm ngập vào chén nước mắm, xong đưa lên miệng nhai để nghe cái hương vị ngọt giòn của ốc hòa lẫn với vị mặn của nước mắm, vị ngọt của đường, vị chua của giấm (chanh) và vị cay nồng của ớt, tỏi, nếu có thêm ly rượu đế để kế bên, lâu lâu tợp một hớp rồi “khà” lên khoái trá, thiệt không có cái thú nào bằng. Tuy nhiên, ăn ốc lác luộc chấm nước mắm cũng có cái dở riêng của nó, đó là nước mắm làm cho con ốc chảy nhớt thêm. Tôi thích ăn ốc lác luộc chấm cơm mẻ hơn. Người ta làm cơm mẻ để ăn ốc luộc bằng cách lấy khoảng một chén cơm mẻ tán nhuyễn, cho thêm một chút bột ngọt, chút đường, chút muối, sả ớt bằm nhuyễn vào, rồi trộn cho cơm mẻ quyện đều với gia vị. Lấy cái tăm xỉa con ốc quệt thêm một miếng cơm mẻ bằng ngón tay út, rồi bỏ vào miệng nhai thấy còn ngon hơn chấm nước mắm nữa. Món cơm mẻ này cũng dùng để chấm với thịt trâu luộc, nhậu; bảo đảm bợm nào lần sau kiếm hổng có, dám khóc lắm đó. Cả tháng nay, Sài Gòn chiều nào cũng mưa dầm dề. Nhìn mưa rơi xối xả, hơi lạnh tràn trề, chợt nhớ những lúc quây quần bên nồi ốc lác luộc lá ổi bốc khói chấm cơm mẻ, hay nồi mắm sặc kho ốc với cà dái dê thơm nồng mùi thính, mùi sả quê nhà. Ở vịnh Lăng Cô có cả những công dân nhí mới lên 5, 6, chưa được đến trường đã cắp chậu ra vịnh cào ốc. Dầm mình cả ngày dưới nước, môi tím tái, răng bập vào nhau lập cập, nhưng bọn trẻ không nản vì chúng muốn giúp cha mẹ mưu sinh… Người già, phụ nữ và cả trẻ em, từ sáng sớm đến chiều tối cứ dầm mình dưới đầm Lập An (Hải Lộc, Lăng Cô, Thừa Thiên Huế) - một đầm nhỏ thuộc quần thể vịnh Lăng Cô để cào ốc, sò, nghêu… mưu sinh qua ngày. Một ngày mưu sinh của người dân nghèo nơi đây là việc dầm mình dưới đầm Lập An từ lúc mặt trời chưa lên cho đến khi mặt trời “đi ngủ”. Người mang rổ rá, người dùng cào tự chế để cào nhưng phần lớn là dùng tay. Họ dầm mình dưới nước, đầu ngụp xuống rồi nhô lên, liên tục, để mò ốc. Chiếc chậu được mắc thêm một sợi dây buộc chặt vào bên hông để bỏ ốc. Khi chậu đầy lại mang lên bờ để đãi sạch, trút vào bao rồi lại xuống tiếp tục ngụp lặn. Những người cào sò, ốc ở đây phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Cả ngày dầm mình trong nước bẩn, cực khổ là thế nhưng thu nhập không được bao nhiêu. Mỗi kg ốc, sò bán được 1, 2 ngàn đồng nên dù làm liền tay, cả ngày cũng chỉ kiếm được vài ba chục ngàn. Mệ Đặng Thị Mãi (74 tuổi) ở Lộc Hải, nhà có năm người con, cho biết: “Mệ ngày mô cũng phải đi, biết mình không kiếm được nhiều nhưng ở nhà lấy chi mà ăn. Mỗi ngày mệ kiếm được bảy ngàn đến mười ngàn thôi. Cực lắm chú ơi!”. Ở vịnh Lăng Cô có cả những công dân nhí mới lên 5, 6, chưa được đến trường đã cắp chậu, cắp cào ra vịnh. Cậu bé Phúc, học sinh lớp một, vừa được nghỉ hè đã theo mẹ đi cào nghêu, ốc. Dầm mình cả ngày dưới nước, môi tím tái, hai hàm răng bập vào nhau lập cập, P Phước Thể, mùa ốc biển Thứ Sáu, 29/07/2011 12:59 Con nước rút đến đâu, bãi rạng lộ ra đến đấy. Tháng 7 này ở Phước Thể (Tuy Phong, Bình Thuận) đang là mùa bắt ốc. Người đi bắt ốc đông như hội. Nhiều gia đình nghèo nhờ con ốc mà kiếm sống qua ngày, cũng như dành dụm để lo cho con cái học hành… Quà của biển Xách cái xô đựng hơn 2 kg ốc quắn, bà Lê Thị Yến (47 tuổi) ở thôn 2, Phước Thể nói: “Năm nào, tháng này đàn bà, con gái ở đây cũng ra biển bắt ốc. Tháng này ốc nhiều vô kể. 1 kg ốc quắn giá 25.000 đồng, bữa nào cố gắng kiếm được 70.000 - 80.000 đồng”. So với người lắm tiền thì khoản thu nói trên chẳng thấm vào đâu, nhưng với nhiều người trong vùng, đó là số tiền có ý nghĩa. Mùa ốc biển kéo dài trong mấy tháng. Vào buổi chiều những ngày này, trên những bãi rạng, đông nghịt người. Đàn ông, đàn bà, thanh niên, con nít, kẻ cầm xô, người cầm thau, lúi cúi, lôm khôm... bắt ốc, cạy hào, đào chem chép… Theo chân họ bước ra bãi biển mênh mông ấy, tôi chứng kiến nhiều đứa trẻ tuổi 9, tuổi 10 cứ mãi miết theo triền đá lô xô cơn sóng nhỏ. Chốc chốc các em dừng bước, cúi xuống nhặt những con ốc bỏ vào xô. Bắt chuyện, tôi làm quen với cậu bé12 tuổi, tên Trần Văn Hậu. Hậu cho biết, đi bắt ốc là để dành tiền mua sách, vở cho năm học tới. Ốc ở bãi rạng Phước Thể có đến gần chục loại khác nhau, được đặt nhiều tên riêng rất lạ lẫm theo cách gọi của người dân, không độc, ăn được, nhiều nhất là: ốc quắn, ốc gai, ốc mặt trăng, ốc ngựa, ốc… Từ khoảng trưa đến xế chiều, ốc nổi lên trên đá san hô, người đi bắt chỉ việc nhặt bỏ vào thùng, cũng có khi phải mò vào các khe đá để bắt. Loài sinh vật biển này to nhỏ đủ kích cỡ, vỏ láng hoặc xù xì, óng ánh sắc màu; có con màu ruốc, con lấm chấm màu gạch, con rằn ri xám tro, con đen tựa hòn than... Trong vô số loài ốc biển, thì con ốc quắn chỉ to bằng mút đũa, nhưng người ta ưa nhất vì thịt chắc, béo và thơm. Ốc vào quán Trước đây, món ốc được coi là món của nhà nghèo. Nay không hẳn vậy. Chỉ tính riêng ở thị trấn Liên Hương đã có khá nhiều quán ốc, chiều nào, người xe cũng tập trung đông đúc. Tất cả chỉ vì ghiền món ốc. Chị Lê Thị Chiêm, một người chuyên bán ốc ở thị trấn Liên Hương cho biết: “Ốc ngọt, béo lắm. Muốn ốc ngon hơn phải luộc nước cốt dừa, thêm vài cộng sả và ớt”... Mỗi đĩa ốc luộc tùy theo loại cũng có giá từ 15.000-20.000 đồng. Một món không quá đắt và cũng không quá rẻ. Nhiều thêm sản vật Chiều cuối ngày lang lang trên bãi biển Phước Thể, tôi bắt gặp những cụ già ngồi hóng mát. Hỏi chuyện các cụ già cho hay, không bao giờ vùng biển này lại mất mùa ốc. “Thiệt lạ, giống như của trời cho, biển tặng dân nghèo. Bao năm rồi, mỗi khi nước cạn, vùng bãi rạng này có đến hàng trăm người từ khắp các nơi kéo về, bắt suốt cả ngày, tưởng chừng cạn kiệt. Vậy mà, chỉ ít lâu là vô số ốc lại sản sinh”, cụ Mười, 70 tuổi, ở Phước Thể tâm sự. Đứng trước biển Phước Thể, tôi ước ao: Biển hãy cho nơi này thêm nhiều sản vật, để người dân đỡ nhọc nhằn hơn trong bước mưu sinh… Mùa mưa say lòng với ốc núi Bà Đen Về núi Bà Đen ở Tây Ninh mùa này, bạn không chỉ biết đến một quần thể di tích văn hóa lịch sử nổi tiếng, mà còn có dịp thưởng thức nhiều món đặc sản, trong không thể không kể đến ốc núi Bà Đen, món ăn đặc sản nơi đây. Đây là loài ốc cực hiếm vì chúng chỉ sinh sống trong các hang hốc đá, rất khó phát hiện. Vào mùa mưa, ốc mới bò ra kiếm ăn và sinh sản. Khi những cơn mưa trút hạt cũng là mùa săn ốc núi bắt đầu nhộn nhịp. Buổi sáng, ốc núi mò ra khỏi hang đi ăn lá rừng, nên đây là thời điểm thích hợp nhất để bắt. Thức ăn của loài ốc này là lá những loại thảo dược mọc hoang trên núi như cây mã tiền, lá vong núi, đặc biệt là loại thuốc quý tên gọi dân gian gọi là lá Nàng Hai. Cây Nàng Hai là một loại cây thuốc nam, từ lâu được dân gian sử dụng để chữa các chứng nhức mỏi, đau khớp, thống phong, còn cây vong núi giúp an thần. Ốc ăn lá cây thuốc nên trong người chúng mang đầy vị thuốc, mùi vị rất ngon và bổ dưỡng. Vì thế nên ốc núi Bà Đen còn được gọi là ốc Nàng Hai. Ốc núi Bà Đen có hình dạng giống như ốc bươu nhưng mình dẹp và nhỏ xoăn thành nhiều vòng. Ốc bắt về chỉ rửa sạch đất cát, không cần ngâm xả chất thải như các loại khác và đem nấu ăn ngay để còn giữ lại các vị thuốc có giá trị dinh dưỡng. Ốc núi có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, hấp sả, xào me, xào tỏi Kỳ công hơn, ốc núi bắt về cho ăn cơm dừa khô nạo nhuyễn, để đến khi đem luộc chấm muối tiêu chanh, thịt ốc núi này sẽ béo giòn, rất lạ miệng. Vị ốc ngọt thanh, có chút hương thuốc quý, ăn vào cảm giác khó quên. Tây Ninh đang vào mùa mưa, nếu có dịp đến núi Bà Đen du khách không nên bỏ qua lỡ cơ hội được thưởng thức món ốc đặc sản nơi này. Nước mắm Nam Ô, cá rô Bàu Nghè, chè Phú Thượng. Cá rô Bàu Nghè thì miễn bàn, nó đã được dân gian xếp hạng là một trong 3 đặc sản của vùng đất Tây Bắc thành phố Đà Nẵng. Ốc bươu Bàu Nghè, với dáng vẻ ngoại khổ và hương vị độc đáo, từ lâu xuất hiện trên thị trường ẩm thực như một 'gương mặt' sáng giá trong danh sách đề cử vào 'Top' các món ăn đặc sản của thành phố bên sông Hàn. Không như 'đàn anh' cá rô quẫy một cái là vào ngay... dân ca, ốc bươu Bàu Nghè tuy quanh quẩn các bàu sen, ruộng lúa nhưng cũng đủ để lại ít nhiều ấn tượng trong giới sành ăn. Bàu Nghè giờ đây cạn thì cấy lúa, sâu thì thả sen hoặc làm ao cá. Sáng sáng, vào khoảng 3-4 giờ, thời điểm ốc trồi lên đi ăn sương, người dân quanh xóm bàu ơi ới gọi nhau chèo ghe 'đi săn' ốc bươu. Dưới ánh đèn pha trên trán như đèn thợ mỏ, ốc lổn ngổn có khi từng cụm đến dăm ba con, cứ dùng vợt mà vớt. Sáng ra, nếu lẫn lộn có các chú ốc bươu vàng thì mang về cho vịt, còn ốc đen thì bán cho các nhà hàng, quán nhậu. Tháng 10-11 là mùa ốc sinh sản, ăn ốc trong thời gian này đã không ngon lại có cảm giác lộm cộm như có sạn vì ốc con. Giêng, hai là mùa ốc ngon nhất trong năm. Ốc bươu trông dân dã là thế, nhưng chế biến thành món ăn thì tuyệt hết chỗ chê. Phổ biến nhất là món ốc bươu um. Ốc, sau khi ngâm qua nước vo gạo một đêm để sạch các chất nhờn và giảm bớt mùi đồng ruộng, được chùi rêu mốc bám trên mình, rửa sạch lần cuối cùng trước khi chặt đít, đưa vào luộc nhẹ trong ít phút rồi đổ ra cho ráo nước. Trộn đều ốc đã luộc với các loại gia vị như ớt, sả, tiêu, dầu... rồi um nhẹ cho gia vị thấm vào thịt ốc. Bí quyết của món ốc um nằm ở chỗ, nếu luộc hoặc um lâu quá, thịt ốc sẽ co vào sâu trong vỏ, rất khó khăn khi thưởng thức ; nhưng nhanh quá, gia vị không kịp thấm vào sẽ làm giảm vị ngon. Vì thế, người 'cao tay' thường bỏ qua giai đoạn luộc ốc. Cầu kỳ hơn, làm sạch ốc xong, người ta đổ sữa bò vào cho ốc ăn trước khi chế biến. Như thế, lúc khươi ốc ra, những đường xoắn ốc màu trắng sữa nổi bật trên nền đen sẫm, tạo nên một cảm giác rất ngon miệng. Người dân miền Trung, trong bữa cơm thường nấu món canh ốc, hoặc xào ốc với sả, ớt, nghệ. Có khi um ốc với chuối chát, chuối lùn sống, thêm chút nghệ tươi cho có màu và mùi thơm. Các món ốc um, ốc hấp được dùng kèm với chuối chát, khế, rau thơm... không có khế, ăn với dưa chua. Theo đông y, ốc bươu tính hàn, phải ăn kèm với lá chanh, gừng, sả, ớt... là những thực vật tính nhiệt để vừa trung hòa cho hợp với tỳ vị, vừa khử mùi. Để thưởng thức món ốc bươu, sành điệu phải là rượu gạo thứ thiệt. Một đằng hoàn toàn sản sinh từ môi trường thiên nhiên, một đằng do bàn tay con người tỉ mẩn làm nên, cả hai cùng hòa quyện thành một thú ăn uống đời thường mà các nhà văn hóa đã gọi một cách văn vẻ là nghệ thuật ẩm thực. Tiết canh Ốc Tiết canh vịt, tiết canh lợn, ... và đủ các món tiết canh khác được chế từ nguyên liệu là huyết của các loài động vật từ lâu đã rất quen thuộc với người Việt, dù có người ăn được, có người không. Nhưng có một món cũng gọi là tiết canh, nhưng không làm từ huyết, và món này chắc rằng đa số chẳng ai từ chối được, đó là món "Tiết canh ốc". Bên cạnh là một món ăn mùa mưa ra dân dã, món này còn có tác dụng tiêu thũng, thông lâm, trừ thấp nhiệt, trị đau mắt đỏ, lỵ, ăn uống kém và bị bệnh tràng nhạc. Hải Thượng Lãn Ông đã từng viết: Điền loa tên tục gọi ôc nhồi Không độc, ngọt mà lạnh ít thôi Tiêu thũng, thông lâm, trừ thấp nhiệt Mắt đau, tràng nhạc, lỵ đều thôi..' Quê tôi ở miền đồng ruộng. Cứ độ tháng chín tháng mười âm lịch, trời chuyển mùa mưa, ruộng cày bỏ ải đã xâm xấp nước chính là mùa đi bắt ốc bươu. Ốc mùa này mềm, béo và rất dễ bắt, vì đây là mùa ốc bắt cặp để sinh sản. Con nào cũng đầy trứng. Ốc đặc biệt nhiều ở những cánh đồng có nhiều cỏ chóc, cỏ lác ba cạnh. Khi bắt ốc, chúng tôi thường chọn con cỡ trung bình, vỏ sáng không rong rêu. Ốc bắt về, đem ngâm với nước vo gạo khoảng vài ba ngày để ốc ăn nước vỏ gạo, thải hết chất cặn bẩn trong người chúng ra ngoài. Sau đó, ốc được đem chà rữa sạch bằng nước sạch, rồi cho vào một cái chậu sạch - khô. Trong chậu đã đập sẵn mấy quả trứng gà, nghe người lớn tuổi bảo là để "tẩm bổ" cho ốc. Ốc sẽ ăn hết số trứng này và xem như trong ruột chúng chẳng còn chất gì dơ bẩn nữa. Khi ốc đã ăn hết trứng, chúng được cho vào nồi lót lá bưởi, ớt hiểm, sả, ..., không đổ nước đậy kín nắm, cứ thế đun khô, ốc nghe hơi nóng sẽ tiết nước ra và chính nước ấy sẽ làm chúng bị luộc chín chỉ trong ít phút. Ốc luộc xong, vớt ốc bỏ riêng, lọc lấy nước thơm ngan ngát mùi thơm của sã, bưởi, ớt ... Ốc được lể lấy thịt, đem bằm sơ, cho vào chảo dầu đã phi hành thơm xào qua cho săn lại. Khi bằm ốc, thường người ta cho thêm một ít rau húng quế, tiêu hạt, ớt, để khi xào lên sẽ nghe mùi rất dậy, khiến ai cũng phải chép miệng liên tục. Hỗn hợp thịt ốc xào được cho vào trong tô lớn. Nước ốc luộc được đun sôi trở lại lần nữa, nêm nếm gia vị cho vừa ăn, rồi nhấc xuống để âm ấm. Nước này được chan vào tô đã có hỗn hợp thịt ốc xào. Chờ khoảng nữa giờ, nước ốc tự nhiên sánh đặc đông lại, tựa như người ta đánh tiết canh. Khi đó, tô tiết canh ốc đã sẵn sàng để ta thưởng thức. Món này được ăn với bánh đa vừng, loại càng dày càng tốt, mới nướng xong còn giòn vang. Bẻ miếng bánh đa, xúc vào tô tiết canh ốc rồi đưa vào miệng. Âm thanh giòn tan của bánh đa, vị bùi ngậy thơm cay của tiết canh ốc, chất ngọt của nước ốc lan tỏa trong miệng tạo nên một khẩu vị rất khó tả. Ốc nhồi mùa thu quê nhà alt=Email v:shapes="_x0000_i1026"> alt=In v:shapes="_x0000_i1027"> alt=PDF. v:shapes="_x0000_i1028"> Đã lâu rồi mới về thăm nhà, theo chân mẹ đi chợ phiên, chợt nhìn thấy bà cụ ngồi bán mớ ốc nhồi, những kỷ niệm tuổi thơ chợt ùa về trong tôi. Lớn lên từ một vùng quê nghèo, ký ức tuổi thơ trong tôi là hình ảnh người dân làng cơ cực, nhọc nhằn mưu sinh từ những mớ cua, giỏ ốc từ những cánh đồng, ao làng. Lúc còn bé tôi thường theo nội ra đồng tát cá, bắt cua, bắt ốc. Nhớ ngày đó, chỉ cần vạch những lớp cỏ bờ cũng có thể bắt được những chú cua, quây vội góc ruộng cũng bắt được một mớ cá rô đồng cho bữa chiều. Đối với vùng đất nghèo quê tôi, bấy nhiêu cũng đủ nuôi chúng tôi khôn lớn trưởng thành. Ngày nay, cuộc sống đầy đủ hơn nhưng hương vị những món ăn được chế biến từ những con cá, con cua, mớ ốc dân dã nhưng mang một hương vị khó quên đó luôn khiến những đứa trẻ quê nghèo chúng tôi “thòm thèm” khi nhắc tới. Trong số đó, tôi nhớ nhất mùi vị của món ăn được chế biến từ những chú ốc nhồi, những chú ốc to, béo tròn. Ốc nhồi chỉ cần chế biến đơn giản, hấp với một ít lá gừng hoặc lá chanh cũng ngon tuyệt, nhưng có lẽ hấp dẫn nhất đối với tôi là món ốc nấu chuối đậu. Tuy chế biến có hơi cầu kỳ và mất thời gian, nhưng khi thưởng thức mới thấy không bõ công mình. Mẹ tôi thường bảo ốc nhồi vào mùa thu là ngon nhất. Những chú ốc mới bắt về béo tròn được mẹ ngâm qua một đêm với nước vo gạo cho sạch, sau đó cạy miệng, chặt trôn, đập vỡ lấy thịt. Chuối xanh tước vỏ, thái con chì ngâm qua nước mẻ cho khỏi thâm rồi trần qua nước nóng. Nghệ, mẻ giã nhỏ, lọc lấy nước. Thịt ốc rửa sạch ướp mắm, nước nghệ, mẻ, hạt tiêu. Đậu phụ rán vàng. Thịt ba chỉ thái miếng nhỏ, ướp gia vị như ốc. Sau đó cho mỡ vào chảo, phi thơm hành khô đổ ốc xào, khi ốc chín tới xúc ra để riêng. Tiếp đó mẹ cho thịt vào xào săn, rồi cho chuối xanh, đậu vào đảo đều, chế nước sôi xâm xấp, đậy vung đun cho chín nhừ. Tôi thường phụ giúp mẹ rửa hành hoa và lá tía tô. Ốc vừa bắc xuống, cho tía tô và ớt vào đảo đều, vậy là đã có món ốc đậu chuối xanh ngon tuyệt. Ngày nay, để thưởng thức món ốc nấu đậu chuối xanh cũng không phải quá khó, nhưng ốc toàn là loại ốc bươu, hương vị không thể sánh được với món ăn được chế biến từ ốc nhồi. Bữa cơm chiều nay, mẹ lại làm món ốc đậu chuối xanh, nếm thử một miếng, hương vị vẫn vậy, dân dã nhưng đậm đà, mang một vị đặc trưng riêng. Nước sánh vừa, mang màu vàng của nghệ, ốc giòn không có mùi tanh, hòa quyện cùng vị chát, bùi bùi của chuối xanh, béo ngậy của thịt ba chỉ, đậu phụ, thơm lừng mùi tía tô. Vừa ăn vừa bùi ngùi nhớ lại những bữa cơm nấu ốc đậu chuối xanh của mẹ khi chị em tôi còn bé, cả nhà quây quần bên mâm cơm cùng bát ốc đậu chuối xanh vàng ươm bốc khói, bữa cơm gia đình như ấm áp hơn khi trời chuyển thu se se lạnh. Hương vị món ăn cùng những ký ức tuổi thơ luôn theo tôi suốt chặng đường sau này. Ốc ngọt Côn Đảo alt=Email v:shapes="_x0000_i1029"> alt=In v:shapes="_x0000_i1030"> ' alt=PDF. v:shapes="_x0000_i1031"> Du khách đến tham quan Côn Đảo, ngoài việc thăm thú những di tích lịch sử, những thắng cảnh hoang sơ lãng mạn cũng không quên thưởng thức đặc sản biển ở nơi đây. Ngoài ốc vú nàng (nướng, luộc, trộn gỏi), trùn biển xào mướp hương, mắm hàu, mắm nhum... còn có một loại ốc ngon, rẻ tiền, ít người biết khi đến tham quan nơi đây, đó là ốc ngọt. Ốc ngọt là loại ốc sống ven biển (tương tự ốc gạo nước ngọt), vỏ chắc dày có gân nhám, màu xanh xám, miệng không có mày. Ốc ngọt xuất hiện vào hai con nước trong tháng, nước dâng cao ốc di chuyển xa bãi biển, nước rút cạn ốc bám vào khe đá nơi bờ. Và, người dân nơi đây chờ con nước cạn xuống mé biển để bắt ốc. Nếu ghé vào chợ Côn Đảo, du khách sẽ thấy những thau ốc ngọt bày bán đầy dẫy với giá khá rẻ, khoảng 25.000 đồng/kg. Ốc ngọt có hai cách chế biến là luộc chín (chấm muối tiêu chanh) và làm gỏi (chuối cây hoặc bắp chuối). Ốc mua ở chợ về rửa sạch, ngâm nước cơm vo gạo cùng vài trái ớt chín đâm giập chừng 30 phút cho ốc nhả những chất dơ ra. Đập giập vài tép sả bỏ dưới đáy nồi với một ít nước luộc khoảng 15 phút sau là ốc chín. Chờ ốc nguội đổ ra dĩa. Dùng gai quít (hoặc que nhọn) lể thịt ốc ra và nên lưu ý ốc ngọt khi luộc chín, thân ốc thụt sâu vào bên trong vỏ. Vì thế, muốn lấy được thân ốc trọn vẹn, du khách phải dùng que nhọn gí sâu vào trong mới lấy toàn bộ thịt ốc ra được. Nếu thích thưởng thức “nguyên sơ” hương vị biển thì chấm thịt ốc với muối tiêu chanh là xong! Còn như muốn “vẽ duyên” một chút để món ăn được “thăng hoa” thì du khách phải tỉ mẩn, mất thời gian lấy ruột ốc cho vào đĩa trộn với ghém chuối (hay bắp chuối) xắt mỏng cùng gia vị giấm, đường, muối, bột ngọt trộn đều cho vừa khẩu vị. Cuối cùng, cho một ít rau răm xắt nhuyễn và đậu phộng rang đâm giập vào. Món này chấm với nước mắm chanh tỏi ớt chua ngọt rất “bắt”. Còn gì thú vị cho bằng trong khung cảnh hoang sơ lộng gió nơi bãi biển Côn Đảo cùng với các “chiến hữu” trải tấm bạt dưới bãi cát trắng, và quây quần bên đĩa ốc ngọt luộc (hay ốc ngọt trộn chuối cây). Ghim miếng thịt ốc chấm vào chén muối tiêu chanh (hoặc gắp miếng thịt ốc cùng miếng ghém chuối chấm vào chén nước mắm chanh tỏi ớt) cho vào miệng nhai chậm rãi, du khách sẽ cảm nhận vị ngọt, mềm, giòn thơm của thịt ốc pha lẫn vị mằn mặn của muối biển. Nếu thêm một lon bia lạnh vào nữa thì thật tuyệt vời! Ốc Ruộng Đầu Mùa Vào mùa nắng, nước trên đồng dần rút cạn phơi mặt đất khô cằn. Theo tập tính, con ốc di chuyển vào chân bờ ruộng để vùi mình trong lòng đất ngủ yên suốt mùa nắng. Tới mùa hè, khi trời sa mưa giông vài trận nặng hạt thì đất mềm ra, nước xâm xấp mặt ruộng. Thời điềm này, họ hàng nhà ốc vặn mình theo chiều xoắn để trồi lên trên. Bắt ốc chỉ cần quan sát lớp đất mặt bị sụp lộ những vết nứt theo vành miệng ốc, lấy mũi dao cạy nhẹ là tóm được ngay. Có người dùng cuốc đào xới lớp đất mặt bắt ốc, vừa cực công vừa dễ làm bể vỏ chết ốc. hời kỳ ốc đầu mùa tiềm sinh, đủ chất bổ dưỡng nên thịt đầy, chắc và ngon ngọt. Ngâm ốc vào nước vo gạo vài giờ cho nhả tạp chất rồi chặt bỏ phần trôn, rửa sạch lại. Dùng nồi lớn, lót dưới bằng lá sả, lá ổi hoặc lá me, chanh…,bóp dập sơ rồi xếp ốc lên trên, đổ ít nước. Đậy kín vung, đun sôi cho tới lúc ốc bung mày miệng là chín. Pha nước mắm chanh ớt, chua ngọt cùng nhiều sả băm nhuyễn làm nước chấm. Có nơi dùng cơm mẻ dầm muối ớt làm nước chấm cũng rất ngon. Ốc đầu mùa chưa lên khỏi mặt đất nên toàn bộ thịt vàng tươi, ruột chưa có chỉ đen. Lể ra nguyên con ốc no tròn chấm nước mắm sả ớt cho vào miệng nhai từ từ để cảm nhận đủ đầy hương vị sản vật thiên nhiên đồng nội. Có rất nhiều cách chế biến. Ốc luộc gỡ lấy thịt chà sơ qua muối, dùng nấu canh chua lá me non, rau quế hoặc xào sả ớt, cà ri là món ăn thường ngày trong bữa cơm gia đình ở quê. Cũng có thể cho thêm ốc vào nồi mắm kho cua đồng, ăn lạ miệng… Hiện nay, những quán ăn phục vụ hải sản đặt con ốc ruộng lên vị trí khá cao bởi đây là món ăn rặt khẩu vị miền Tây Nam-bộ. Nào là ốc hấp hèm rượu, hấp sả, hấp gừng…Đặc biệt, món ốc ướp gia vị nướng nước mắm làm mồi nhắm rượu đã ngon, mà ăn với cơm nóng thì bảo đảm căng bụng. Người nông dân hàng ngày thăm đồng bắt được ốc thường dồn vào bao cà-ròn, cột miệng treo cách giàn bếp chừng hai mét. Điều lạ là dù chẳng cho ăn gì, chúng vẫn sống hàng tháng trời, sạch và mập thịt. Các bà nột trợ giỏi giang, ưa làm món ốc hấp lá gừng. Ra chợ lựa mua vài chục con ốc bươu lớn (loại ốc ruộng, không phải ốc bươu vàng). Ngâm vào nước vo gạo một đêm cho sạch, luộc sơ rồi lể lấy phần thịt, xắt nhỏ cùng lá gừng non, củ hành, tỏi băm. Trộn đều với thịt nạc heo quết nhuyễn, tiêu bột, bột nêm, chút nước mắm ngon. Tất cả chia đều bằng với số vỏ ốc đã rửa sạch. Đặt lá gừng già ngang miệng ốc, khéo léo dùng tay ém nhân vào, lấy mày ốc đậy lên trên. Xếp ốc vào nồi hấp chừng 15 phút là chín. Cầm hai đầu lá gừng kéo nhẹ hỗn hợp thịt ốc ra, mùi thơm bốc lên phát thèm, ăn nóng… Những ai đã từng sống vùng nông thôn, ít nhiều cũng được thưởng thức món ốc ruộng đầu mùa. Xa nhà, đêm nghe tiếng mưa rơi nặng hạt, có khi lại thở dài miên man nhớ về ngày tháng cũ… Mùa còng Thứ hai - 08/08/2011 18:12 - Người đăng bài viết: Nguyễn Thị Hà Phương Biết tôi chiều nay xuống thăm mộ bà, thằng cu Cốc bi bô dặn: "Chú bắt cho cháu một con còng gió nhé!". Tôi ngạc nhiên: "Cu Cốc cũng biết con còng kia đấy! Mẹ nó nhìn theo tôi: "Nó thấy trên ti vi đấy mà!". Tôi cười buồn... Buổi chiều, những cơn gió từ biển thổi vào nghe mặn mòi, nhìn ra hai bên triền sông, những con còng gió giờ không biết đã đi đâu cả, chỉ thấy phơi ra vô số đủ thứ rác rưởi. Ngày ấy, tôi rất thích đứng xem còng gió xe đất làm nhà. Những con còng có chiếc gọng to kềnh càng. Mình rất nhiều màu sắc: đen, đỏ, trắng, tím than...thoắt ẩn, thoắt hiện và chạy nhanh hơn cả gió. Đôi mắt to thao láo, quan sát rất nhanh. Thấy bóng người đi qua là chạy thục mạng vào hang. Một giây, hai giây...rồi mười giây lần lượt từng chú còng ngoi lên khỏi mặt đất. Một lúc lâu, còng nghe ngóng không có gì nguy hiểm nữa, chúng bắt đầu đi xa cái hang của mình. Lỗ còng nhỏ và sâu hơn lỗ cua đồng nhiều. Dưới lớp đất mềm chưa tới khuỷu tay là phần đất cứng nắc. Đã thế hang còng có nhiều ngõ ngách nên rất khó mà cho tay vào lôi được một chú còng ra khỏi lỗ. Trẻ chăn trâu thích nhất là đuổi còng lạc. Chúng tôi chạy ùa tới, còng hốt hoảng lao nhanh về lỗ. Những con còng to cố gắng chui vào cái lỗ nhỏ xíu mà cứ ngỡ nhà của mình, thế là bị tóm. Con nào con nấy hai cái gọng mở ra hết cỡ, huơ huơ trong không trung nhưng lũ con nít chẳng hề sợ hãi, hai ngón tay kẹp gọn lấy gọng còng. Mừng thích ngắm nhìn những chú còng tạo bọt nước. Em bảo rằng con còng gió giống em, vẫn hay nấu cơm giúp mẹ. Em hay kéo tôi lại gần thủ thỉ: "Anh nhìn này, cơm đang sôi đó!". Lũ con trai thì chơi chọi còng, thú vị không kém gì chọi dế. Trẻ nhỏ lại thích cột dây vào chân còng, dắt đi chơi cả ngày không biết chán. Cả Mừng và tôi khoái ăn còng nướng lắm, nhất là hai cái gọng còng chắc nịch, từng thớ thịt trắng muốt rất thơm. Tôi không quên được những mùa còng, ngoại tôi mang chiếc đụt to trước ngực đứng chặn còng bên sông. Sào dùng chặn còng bằng tre hoặc hóp, đầu buộc chiếc bai của người thợ xây. Bà chờ đợi tới khi nào những con còng mải mê rong ruổi, và "nhanh như cắt" hạ sào xuống đuổi theo chặn đường về của còng. Chiếc bai sắc chắn qua lớp đất mềm thấu ngang lỗ, còng chạy nháo nhào, đè gọn lên chú còng xấu số. Bà tôi bắt nhanh cho vào đụt, những chú còng béo ngẫy và chắc nịch. Còng mang về nhà rửa sạch, bóc mai bỏ yếm cho vào cối dã nhỏ, đem ủ vài ba ngày rồi thêm muối vào dã tiếp cho nhuyễn. Sau đó vắt bỏ xả lấy nước, đổ vào chai ngâm với nguyên chục quả ớt, nút chặt bằng lá chuối khô và bắt đầu đem phơi nắng cả tháng trời. Những ngày trăng sáng còng cũng như cua đồng gầy rạc và ỏng rớt, dã ra nước đen và khắt. Mắm còng phơi càng lâu càng ngon, thịt còng đọng lại ở nửa dưới của chai đặc sánh, ngả sang màu nâu đỏ thì mang ra chấm rau muống luộc hay cà pháo dòn tan thật đậm đà. Cơm độn khoai và mắm còng của ngoại đã nuôi chúng tôi ăn học suốt những năm đói khát. Ngoại tôi giờ không còn nữa. Tôi đứng trên bờ đê, nhìn ra mênh mông, không rõ thủy triều đã lên từ bao giờ. Nước đã dâng ngập gần tới bờ cỏ, ngang những cành đưng. Dòng sông no nê và phổng phao, sóng nước dập dềnh, trôi nổi vùi lấp tất cả những "lâu đài" còng và cả kí ức tuổi thơ một thời! Sáng dậy, gỡ tờ lịch, tiện mắt xem ngày âm, tôi biết bữa nay ngày mồng năm tháng năm, Tết Đoan ngọ, ngày tôi nhớ đời: dưới quê tới mùa còng lột, mùa mắn còng Mọi năm, vào dịp này, sau ngày mồng năm chừng vài tuần, tôi thường được món quà: keo chao đựng mắm còng nhỏ xíu kèm theo vài trái chuốt chát của cậu Năm gởi từ quê lên. Mắm làm bằng con còng lột chỉ là món ăn đồng nội đạm bạc của quê nghèo, vậy mà ngót mười lăm năm sau ngày giải phóng, năm nào, mùa còng nào cậu cũng gởi lên cho tôi. Vì một lý do riêng đối với cậu cháu tôi, mắm còng trở thành món ăn để hoài niệm. Trong chiến tranh, cậu làm du kích, tôi làm phóng viên mặt trận. Năm đó, quê tôi là chiến trường, lại vào chiến dịch nên tôi thường về sống với đội du kích của cậu. Sông Ba Lai hạ nguồn mùa khô nước mặn đắng, dân lại tản cư, du kích mất nguồn tiếp tế nước ngọt và thức ăn. Để có nước ngọt cầm hơi, du kích phải ngược dòng sông, bơi miết về trên nguồn nơi giáp nước, nhận xuồng cho nước ngọt tràn vào đầy óc ách rồi bơi về, tiện tặn chi xài cho qua mùa, qua chiến dịch Có một lần, địch phục kích, mấy đội viên lấy nước ngọt không trở về nữa. Còn thức ăn, du kích ăn toàn chữ C: thịt cò, cua, còng, cá chốt, đọt chà là, dây cóc kè... được coi là món ăn "chiến lược". Căn cứ núp trong rừng cò, ăn tỉa cò mới ra ràng lột da, xẻo đùi hầm với củ hủ chà là hoặc rô ti đường chảy, ăn ngày này qua tháng nọ. Tỉnh ủy sợ lô căn cứ, sợ cò bỏ đi nên buộc phải ngưng, thế là tắt nguồn, chúng tôi phải quay sang cua, cá chốt. Những thứ này phải câu và cũng hiếm nên cứ phải luân phiên từ cá cua, tới còng.Mùa còng lột vỏ, mỗi năm một lần vào mồng năm tháng năm ta. Lớp áo giáp đủ màu được trút bỏ, những chú còng mềm như lụa, thân ngậm đầy sữa, chỉ cần nấu qua loa cũng thành món ăn "cao cấp" liền. Nhưng còng lột nhiều vô kể, ăn đâu hết một lần, nên phải làm mắm để dành ăn dài hạn cả năm. Lại cũng có mùa, mắm đầy hũ nhưng không nhá được vì nhớ tới máu của một đội viên du kích thấm vào đó... Như thế, mùa mắm còng đâu chỉ là mùa mắm còng, nó đã trở thành mùa để nhớ quê nghèo, nhớ đồng đội, nhớ cậu Năm. Cậu biết vậy nên cứ tới mùa còng làm mắm gởi lên thành phố cho tôi. Lần duy nhất đích thân cậu mang lên cho tôi khi cậu về hưu cách đây ba năm nhưng cũng là lần buồn nhất: thằng con trai nhỏ bảy tuổi của tôi phản đối quyết liệt, không ăn mắm. Bảo nó mắm ngon, của ông Năm cực khổ mang từ quê lên, nó rán nhắm mắt nhắm mũi gắp một đũa tí tẹo. Chưa kịp nuốt nó đã nôn ra mật xanh mật vàng. Bàn ăn lặng đi. Cậu tôi buông đũa, làm bộ cười khà khà nhưng mặt tái đi như bị hớp hồn. Lầ đó cậu về, buồn, giận, thôi không gởi mắm còng, cũng không lên nữa. Tôi tưởng cậu sống để vậy chết mang theo, người du kích già sẽ không tha thứ đứa cháu trai kêu bằng ông sanh ra tại chốn thị thành không biết giá trị mắm còng. Nào ngờ, chỉ mưới hôm sau tờ lịch mách bảo cho tôi mùa mắm còng tới, vợ tôi tới cơ quan làm việc thì nhận được cái giỏ đệm con con. Vừa mở ra đã nghe mùi khăng khẳng quen thuộc của mắm còng. Thật thần kỳ, cậu đã hết giận. Tháo bọc nylon xếp cạnh keo mắm còng ra còn thấy một gói chuối khô, loại chuối hồng phơi nắng tại nhà! Trong bọc chuối hồng, có lá thư, nét chữ quen thuộc của cậu tôi xấu như gà bươi: " Mắm còng tao gởi cho vợ chồng mày. Còn gói chuối hồng khô tao gửi cho thằng Dân, nó khôg ăn được mắm thì ăn chuối cũng không sao. Hôm hổm tao coi truyền hình thấy nó đờn tranh được giải thưởng tao mừng, hết giận. Không ăn mắm còng nhưng đờn được bài Khổng Minh tọa lầu nhịp ngoại là tốt lắm, được cả xóm mình khen. Tao nay già rồi, vợ chồng mày có dịp dắt nó về cho tao thăm. Cậu". Vợ tôi vừa đọc thư vừa khóc. Còn tôi thì chỉ biết xếp bức thư lại để tối về nhà đọc riêng một mình. Mùa săn cua biển giống Thứ Hai, 06/02/2012 03:05 Sau những ngày vui xuân, đón Tết, xứ biển Mỹ Long Nam của huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, sôi động hẳn lên với cái nghề đi bắt cua biển giống. Cả trăm người dân bản xứ và từ nơi khác đã đổ xô về đây không quản ngại ngày đêm, bất chấp cái giá lạnh của miền biển và muỗi mòng như tạt trấu bám vào người để săn lùng loài hải sản mà biển và rừng đã ban tặng… Hội đẩy xiệp Chỉ mới 4 giờ sáng, ngoài trời còn phủ đầy màu đen, anh Nguyễn Văn Đen, nhà ở khóm I, thị trấn Mỹ Long đã dựng tôi dậy để kịp tháp tùng theo nhóm của anh Phạm Văn Quắn, ở ấp Tư, xã Mỹ Long Nam đi đẩy xiệp bắt cua biển giống. Tiết trời của những ngày sau Tết vẫn chưa gia giảm cái lạnh. Buổi sớm mai không khí ở xứ biển Mỹ Long Nam lại càng lạnh hơn nhiều. Gió từ ngoài khơi cứ từng cơn mang cái lạnh quất vào da thịt... Vậy mà nhóm người của anh Quắn đã thức dậy từ lâu và chuẩn bị xong tất cả những vật dụng cần thiết để chờ chúng tôi cùng xuất phát. Mỗi người một gọng xiệp, một cái thùng nhựa nhỏ được cắt miệng chứa ít cỏ nước mặn, một hộp lon cơm và một bình nước uống. Tất cả “đồ nghề” để đi xiệp cua biển giống chỉ bấy nhiêu đó và cả nhóm nhắm về phía cánh rừng bần phòng hộ ven biển rộng gần 900 ha trực chỉ. Cả nhóm phải mất hơn nửa giờ, lội sình lầy ngập đến gối để vượt qua gần 1km chiều dài của rừng bần từ chân đê biển ra đến tận biển. Khi ra đến mép biển thì thủy triều đã dâng cao. Cả một bãi bồi dày đặc rễ bần khổng lồ giờ đã mênh mông nước. Đây là lần thứ hai tôi được tham gia “ngày hội đẩy xiệp” bắt cua biển giống của xứ biển Mỹ Long Nam. Vẫn như mùa săn cua biển giống năm trước, cả trăm con người lớn có, nhỏ có, trước, sau đến 4, 5 hàng và nối dài với nhau gần cả km dọc theo cánh rừng bần đưa gọng xiệp xuống nước rồi cứ hướng vào rừng bần mà đẩy. Tất cả cứ lầm lũi mà đi tới khoảng 10m rồi lại cất xiệp lên cao để thăm dò kết quả. Phải mất qua 3 lần đẩy xiệp, anh Nguyễn Văn Đen mới thu được “chiến lợi phẩm” cho mình là 3 con cua biển con nhỏ bằng hạt đậu phộng! Nhẹ nhàng bắt mấy con cua bỏ vào thùng nhựa, anh Đen quay sang tôi vừa cười vừa nói: “Năm nay, do độ mặn nước biển chậm tăng cao nên cua giống về rừng chậm hơn mọi năm đến gần 2 tháng và sản lượng xem ra cũng ít hơn năm trước”. Nhìn những con cua biển nhỏ xíu xiu, tôi nghĩ không biết liệu chúng có sống được không với cuộc hành trình dài từ biển lên bờ rồi vào các điểm thu mua. Rồi từ đây, chúng được đưa lên xe để đi đến tận các tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng... Cuối cùng là đến ao hồ của những người dân nuôi cua biển. Sống chết không biết thế nào, nhưng theo lời của anh Đen thì: “Lớn, nhỏ gì bạn hàng ở đây cũng mua hết. Cua lớn từ bằng ngón tay cái trở lên giá 2.000 – 3.000 đồng/con. Nhỏ hơn một chút thì 1.500 đồng /con. Còn thứ cua bằng hạt tiêu cũng bán được 1.000 đồng một con”. Cùng đẩy xiệp một bên, anh Phạm Văn Quắn cũng vừa cất xiệp bắt được đến 6 con cua biển con. Nghe anh Đen nói, anh Quắn phụ họa thêm: “Nếu tính từ hôm khởi vụ bắt cua biển giống đến giờ, tôi dám chắc đã có vài triệu con đã bị bắt. Năm nay, xem ra nguồn lợi cua biển con giảm đi rất lớn. Có lẽ mùa săn cua biển giống sẽ không được kéo dài vài tháng như mọi năm. Chừng hai con nước thủy triều lên Rằm và 30 âm lịch chắc phải đỏ con mắt mà đi kiếm cua con để bắt”. Lời nói của anh Quắn là một thực tế. Bởi gần cả trăm gọng xiệp được sử dụng bằng lưới mùng đến con muỗi còn chui qua không lọt, cứ hết người trước rồi đến người sau, hết đẩy xiệp qua trái thì sang phải, màu xanh của nước biển liên tục bị trộn lẫn với bùn non đến xám xịt. Săn lùng như thế thì có còn được mấy con cua con chạy thoát. Một ngày theo hai con nước lớn của thủy triều, bất chấp vào ban ngày hay lúc ban đêm là bấy nhiêu con người ấy đi đẩy xiệp để bắt cua biển giống. Theo anh Quắn cho biết, bình quân mỗi ngày một người đi đẩy xiệp theo hai con nước lớn bắt được từ 40 – 50 con cua biển giống. Số tiền kiếm được của một người ít nhất là 100.000 đồng/ngày. Một khoản thu nhập mà đối với người dân quê Mỹ Long Nam và người ở vùng nông thôn không có mấy người kiếm được, một tuần làm được nuôi cả tháng ăn của gia đình... Hơn 3 giờ đồng hồ trôi qua, nước thủy triều cũng đã rút cạn để trơ lại những rễ bần ngả nghiêng vì sau một trận tra tấn dữ dội của gần cả trăm gọng xiệp. Đoàn người đi bắt cua biển giống lần lượt rời khỏi rừng bần. Nhóm người của anh Quắn cũng quay về chân đê với kết quả thu hoạch được của mỗi người từ 20 – 40 con cua biển giống. Cơm nước xong, họ nghỉ ngơi tạm bợ dưới những tán cây bần ven chân đê. Họ lại chờ con nước thủy triều lớn vào lúc đầu giờ chiều để tiếp tục cuộc hội đẩy xiệp bắt cua biển giống. Cần giữ gìn nguồn lợi vô giá! Chia tay với nhóm người của anh Phạm Văn Quắn, tôi trở lại Trạm kiểm lâm huyện Cầu Ngang, đóng quân trên địa bàn Mỹ Long Nam, mang theo tâm trạng vừa vui mà cũng vừa bồn chồn. Vui vì thấy người dân xứ biển Mỹ Long Nam tiếp tục được một mùa thu hoạch cua biển con, có được nguồn thu nhập khá cho gia đình. Chỉ nhẩm tính, trong con nước Rằm trước Tết và con nước 30 âm lịch vừa qua, nguồn cua biển giống đã đem đến cho người dân nơi đây có đến vài trăm triệu đồng. Nhà nào cũng có thêm thu nhập, đỡ phần vất vả trong cuộc sống. Còn bồn chồn lo ngại là với tình hình khai thác cua biển đến tận tuyệt như thế liệu nguồn lợi thủy sản này sẽ còn lâu bền? Đây là năm thứ 5, biển và rừng đã “tặng” cho người dân một nguồn lợi thật lớn. Nhưng cũng vẫn cứ như thế, mọi người cứ săn bắt mà chẳng hề nghĩ đến việc gìn giữ nguồn lợi dài lâu. Anh Dương Văn Điện, Trưởng Trạm kiểm lâm Cầu Ngang, cho biết: “Gần 20 năm trời tốn kém bao nhiêu công lao và tiền bạc mới có được cánh rừng bần ven biển như hôm nay. Có rừng các loài hải sản mới kéo nhau về trú ngụ. Trong 5 năm qua, rừng bần không chỉ có cua biển mà có cả các loài đặc sản khác như sò huyết, vọp, chem chép... Nhưng cũng vì cái cảnh khai thác tự do vô hậu, những loài hải sản này dần biến mất khỏi rừng bần. Chúng tôi chỉ là những người giữ rừng, không chức trách về mặt quản lý khai thác nguồn lợi thủy sản. Việc chúng tôi làm được chỉ là vận động bà con phải biết nghĩ đến việc giữ gìn nguồn lợi, không nên đánh bắt đến tận tuyệt”. Có thể khẳng định rằng, đã đến lúc ngành thủy sản tỉnh cần nhanh chóng thực thi chức trách. Không nghiêm cấm dân khai thác, nhưng cần qui định cho người dân sử dụng phương tiện đánh bắt hợp lý để bảo vệ nguồn lợi lâu dài. Sự ràng buộc này vì tính bền vững và có lợi cho dân, thì có lẽ không mấy ai lại đứng ngoài cuộc. Mùa mưa nhớ cua đồng miền Tây 3:24 pm thứ hai, ngày 03 tháng mười năm 2011 - chuyên mục Đời Sống Ẩm Thực Mùa mưa đến, đi chợ miền Tây đâu đâu cũng thấy cua đồng, tôi lại chạnh lòng nhớ ngày bé cùng lũ trẻ ở quê ra đồng bắt. Luộc lấy một nồi, lũ trẻ xúm quanh tấm lá chuối đựng "chiến lợi phẩm”, cầm mai cua húp phần gạch lẫn nước ngọt lịm, bẻ phần thân chấm vào chén muối ớt ăn ngon lành! Thủa ấy, đôi khi, trong nhà túng thiếu thức ăn, má còn sai tôi ra đồng bắt cua về làm những món ăn khác mà cả nhà ưa thích như: cua đồng ram me, và cua đồng nấu canh bồ ngót. Cua đồng mang về trước hết cho vào xô nhựa. Cho nước ngập cua và dùng que đảo nhiều vòng, xả nước lạnh cho sạch đất. Đập vài cục nước đá cho vào xô để cua chìm vào “giấc ngủ đông”, quên kẹp. Kế đến, bắt từng con ra và dùng dao nhọn chích yếm cho cua chết. Tách bỏ mai, yếm, rửa nước lạnh vài lần cho sạch, để ráo. Tiếp đến, cho cua vào cối cùng với ½ muỗng muối giã nhuyễn. Cho thịt cua vào thau khuấy đều với một ít nước, rồi dùng vợt lược bỏ xác (khoảng 3 lần nước) khi nào thấy nước cua hơi trong thì thôi. Sau cùng, cho nước cua vào nồi, bắc lên bếp nấu sôi, vài phút sau, nhẹ tay sơ đều để riêu không bị dính dưới đáy nồi (nhớ hớt bọt). Điều chỉnh ngọn lửa nhỏ lửa (tránh bị trào), cho đến khi từng mảng riêu cua nổi lên trên mặt nồi. Bồ ngót tuốt lá, rửa sạch để ráo. Dùng tay vò giập lá cho vào nồi (bí quyết nấu của má tôi để lá bồ ngót không dai, có vị ngọt đậm). Chờ nước sôi một dạo, dùng vá dìm lá bồ ngót ngập trong nước riêu cua cho đến khi bồ ngót vừa chín tới (không để mềm quá, mất ngon). Nêm nếm gia vị (nước mắm, bột ngọt…) cho vừa miệng, nhắc xuống. Sau cùng, rắc lên trên một ít hành lá xắt nhuyễn, dầu ăn, và một ít tiêu xay. Riêng món cua ram me, sau khi phần sơ chế cua xong, dùng dao chặt thân cua ra làm hai phần. Me chín cho vào tô, giầm me với nước sôi cho cơm me nở ra. Bỏ xác lấy nước me hòa cùng gia vị (muối + đường + bột ngọt + một ít nước mắm). Phi mỡ, tỏi thơm rồi cho cua vào chảo xào có mùi thơm rồi đổ hỗn hợp nước me cùng gia vị vào cua. Dùng xạng sơ đều cho đến khi nước gia vị hơi sền sệt, cua chín màu đỏ gạch thì nhắc xuống, múc ra dĩa bên dưới có lót sẵn rau răm. Bữa ăn đạm bạc đã được dọn lên trong đó có 2 món ăn cơ bản là cua ram me và cua nấu canh bồ ngót. Dùng đũa gắp một càng cua ram me cho vào miệng nhai giòn tan cùng với ít cọng rau răm. Vị ngọt của thịt cua hòa lẫn vị mằn mặn, the the, beo béo của gia vị tạo thành một hợp khúc “chân quê” ngon khó tả. Và một miếng cơm nóng, trong đó có chan vài muỗng nước canh bồ ngót (lẫn riêu cua) đưa lên miệng húp một cái, thật ngon và “bắt cơm” Mùa cua đồng thương nhớ Mùa hạ oi bức như mụ dì ghẻ khó tính hay gắt gỏng phả vào không gian cái nắng hầm hập, khó chịu. Bộ mặt của mụ luôn cau có, ấy vậy mà cũng có lúc thật hiền lành, dễ chịu, minh chứng là những cơn mưa mùa hạ bất chợt. Quê tôi thuộc một vùng chiêm trũng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, vốn được mệnh danh là vùng "chiêm khê mùa thối" của cả nước. Cứ độ đầu tháng năm, khi những cánh đồng lúa trải vàng ngan ngát là lúc mùa hạ tràn về với cái nắng ruộm vàng có phần gay gắt, có thể làm héo khô các gié lúa. Đương mùa hạ thế này mà bất chợt có cơn mưa rào thì không gì bằng. Thế mà có mưa thật đấy. Trời đang nắng trong nhưng thoắt cái mây ở đâu kéo về là đổ mưa ngay, có khi mưa rất to. Trong tiếng mưa, tôi lắng nghe tiếng vỡ tan của giọt mưa trên mái ngói, tiếng chảy rọt rẹt, róc rách xuống sân nhà. Rồi mùi khen khét của đất nóng lâu ngày gặp mưa, mùi ngai ngái, mùi rêu mốc... Mùi mưa! Những khi có những cơn mưa bất chợt thế này, thể nào đứa con gái nghịch như quỷ sứ là tôi cũng cùng anh trai xách cái giỏ tre đan của ông nội chạy ra đồng bắt cua. Cả tháng trời, mùa hạ nắng như đổ lửa, cua cá tìm chỗ trú ẩn trong các hang hốc. Nếu bất chợt có mưa, chúng chui ra tung tăng bơi lội như trẩy hội. Nước mưa chảy thành các rãnh nhỏ, một lúc thôi là cả khu vườn nhà ngập nước. Trong vườn có tiếng lách rách, lách rách khe khẽ. - Cá rô! Cá rô! Tôi reo lên khi nhìn thấy con cá rô đồng vàng nẫm quẫy đạp trên một vũng nước nông. Không hiểu nó ở đâu chui lên trong khi cả mùa hạ đã cạn khô hết nước. Lập tức, anh em tôi xách giỏ ra đồng. Cánh đồng lúa bạt ngàn trải dài tít tắp triền đê sông Hồng. Sau cơn mưa, bầu trời xanh trong vắt. Viền chân trời nhô lên chiếc cầu vồng rực rỡ sắc màu. Từng sóng lúa gợn lên sắc xanh đầy sức sống. Tôi cùng anh trai men theo các rãnh nước, chỗ nước từ con mương chảy vào chân ruộng. Anh tôi sẽ đặt vào đấy cái giá lưới nhỏ, khi nước chảy vào cá sẽ bơi theo và rơi vào cái bẫy đó, rồi hai anh em đi bắt cua. Thông thường, bắt cua phải thò tay vào sâu trong hang lôi nó ra nhưng thời điểm sau cơn mưa như thế này, cua đồng sẽ tự bò ra vừa để tắm mưa vừa là lúc cua cái đẻ trứng. Những con cua đực to, đen sẫm, hai cái càng luôn giơ cao tự vệ chẳng khác gì hai cái kìm sắt. Phải khéo léo chụp từ sau lưng, không thì sẽ bị quắp rất đau. Loài này sẵn sàng "thí gọng" khi gặp kẻ thù. Cua cái thì nhỏ hơn, có màu vàng sẫm hoặc nâu đất. Sau cơn mưa là mùa yêu đương của lũ cua. Ven các rãnh nước, từng đôi cua ngoi lên ngắm đất trời. Ở đấy, cá cũng rất nhiều. Anh em tôi bắt cua một lúc thì quay lại chỗ đặt bẫy giá lưới. Bao nhiêu là cá. Nào là cá mương trắng toát như những thỏi bạc rồi loài cá diếc mắt đỏ, cá rô đồng, cá lia thia, cá măng khe... Sau mỗi bận như thế, bên hông tôi là cái giỏ đeo lệch lạo xạo lưng giỏ cua còn anh trai tôi thì nghễu nghện xách đùm cá về nhà. Tối về, từ những thứ bắt được đó, qua đôi bàn tay khéo léo của mẹ, anh em tôi sẽ được thưởng thức những món ăn khoái khẩu, ngon lành. Món canh cua nấu với rau đay lẫn mướp ăn, thêm quả cà muối là món ăn khoái khẩu của tôi. Có món này sẽ rất trôi cơm. Mẹ nấu canh riêu cua lại rất ngon. Cua sẽ được mẹ tách vỏ lấy gạch ra rồi cho vào cối giã nhuyễn và lắng gạch. Mẹ có thể nấu thêm món cua kho lạc cũng rất ngon. Cua được tách mu cho vào nồi, đâm lạc sống sơ qua rồi đem vào kho. Món cá kho tiêu của mẹ thì không ai bằng. Mẹ bảo cá phải kho lẫn tương bằng nồi trách đất và bếp củi mới ngon. Những món ăn dân dã, bình dị ấy thôi đã đi theo tôi suốt cả cuộc đời. Xa quê, thi thoảng cái mùi quen thuộc thân thương ấy lại thoảng về làm tôi nao lòng nhớ quê, nhớ mẹ. Vết cua cắn ngày xưa tưởng chừng không còn dấu vết nhưng bất chợt nhói lên một cái cũng có thể khiến tôi giật mình, bâng khuâng... Mùa cua đồng... Binh Thuan Today cập nhật ngày 08.07.2011 11:02 | ® Cánh đồng Tân Thiện bày ra trước mặt trên con đường từ dốc Tân An chạy xuống phía biển. Tháng sáu, những cơn mưa mùa hè đổ xuống là lúc lúa xanh mởn trên đồng. Ấy cũng là lúc cua đồng theo cây lúa lớn lên. Không biết cua sinh ra từ đâu, sau mấy tháng cánh đồng trơ cuống rạ, mặt đồng bị cày lên lật xuống cốt để cho đất tơi xốp? Nhưng thôi đó là chuyện của đất trời, chỉ biết khi tháng 7 vừa men tới, mây màu chì chiều nào cũng sa thấp trên đồng, gió thường ẩm ướt và bầu trời thường xuyên xuất hiện những tia chớp trước khi mưa ập tới là thời điểm mà cua đồng đã to bằng khu chén ăn cơm, bắt ăn được. Thông thường cua đồng nằm trong hang sâu nhỏ, chỉ ra khỏi hang khi trời mát, hoặc vào ban đêm, nhưng vào những hôm mưa thì y như rằng cua bò ra khỏi hang khá nhiều. Cua tập trung tìm tới nơi có rãnh nước để ngâm mình. Nhiều người bảo cua ra đón mưa và giao hoan duy trì nòi giống !Thật vậy, những lúc như vậy, người ta thường bắt gặp từng con cua đực màu đen, ngo ngoe càng, miệng phì từng đóm bọt trắng, lom lom bò sát đến nàng cua cái mu màu vàng lợt hoặc màu nâu xám. Người bắt cua chuyên nghiệp thường bắt được khá nhiều cua đồng chỉ trong vài giờ lội ruộng. Thế nhưng đó là những năm trước đây, khi mà người nông dân chưa sử dụng lắm thứ hóa chất diệt côn trùng, diệt cỏ trong mấy tháng sản xuất nông nghiệp. Còn hiện nay, người bắt cua phải mất khá nhiều công may ra mới được nửa giỏ tre, hoặc một phần giỏ. Cua đồng thường được đem ra chợ bán. Để cua khỏi bò ra ngoài, khách mua dễ lựa, người bán thường đựng cua trong chiếc thau nhôm sâu đáy, chốc chốc lấy tay gạt mấy con cua bò lên thành. Cũng có khi, người bán dùng tre non kẹp thành từng kẹp riêng biệt. Cua đồng được nhiều người ưa chuộng. Có khá bà ăn mặc sang trọng, ngồi xuống hỏi mua từng kẹp cua, chả là vì trưa chiều hôm ấy, bà muốn đãi chồng một bữa bún riêu cua để “ai đó đừng chuộng phở quên cơm!”. Người ta còn mua cua đồng về rang muối, rang me, hoặc giã ra lấy nước cốt nấu bất cứ loại canh nào cũng ngọt. Cua đồng còn làm thuốc chống tụ máu bầm trong da bằng cách rửa cua thật sạch rồi giả nhỏ, ép lấy nước, pha một chút rượu trước khi uống. Hồi nhỏ tôi thường đi bắt cua đồng trên cánh đồng Tân Thiện. Cua đồng ngày trước làm những bữa cơm nhà nghèo trở nên nhiều chất đạm. Bây giờ vẫn cánh đồng ấy, nhưng cua ngày một ít đi. Hôm nọ đến chợ La Gi, mặc dù đang là tháng cua đồng nhưng chị bán bún riêu cua vẫn bảo khó mua, và chị đã phải dùng lòng trắng trứng vịt pha phẩm màu vàng nhạt đánh lên, giả cái màu váng hồng hồng của gạch cua nổi trên nồi nước bún. Khi nghe tôi nói phẩm màu, nhất là phẩm màu Trung Quốc dễ dẫn đến nguy hại, cũng như xảy ra bệnh đường ruột thì chị ngồi thừ yên lặng. Mùa cua đồng, sao mà thương nhớ !? Mùa cua đồng Thứ tư, 04 Tháng hai 2009, 09:46 GMT+7 Quê tôi, một vùng chiêm trũng thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, nơi từ xưa đến nay được mệnh danh là vùng “chiêm khê mùa thối”. Và cũng giống như nhiều vùng quê khác, bờ đê sông Hồng thoai thoải chạy dài vào miền xanh cổ tích. Cánh đồng lúa bạt ngàn dưới mưa mù giăng xa. Ở đó có tuổi thơ tôi trôi qua với những mùa cua đồng lấm láp. Đầu tháng bảy âm, nước xâm xấp gốc mạ, nước từ các con mương nhỏ chảy về các chân ruộng qua hàng trăm con mương nhỏ. Đứng từ trên cao nhìn xuống trông như những đường gân lá. Đợi mỗi khi trời ngớt mưa, tôi - thằng bé gầy gò mặc áo cộc, quần xà lỏn, đi chân đất không mũ nón mang cái giỏ của ông nội sang rủ cái Ngọc "ghẻ" con bác Đồng hàng xóm đi bắt cua. Nước ăm ắp, lênh láng ở các con rãnh. Hễ có mưa xuống là cua ở trong các hang hốc ra các rãnh nước chảy để đẻ trứng. Vào mùa này, cua nhiều vô kể. Cái Ngọc cầm giỏ đi theo tôi, việc của nó là quan sát, thấy con nào thì chỉ cho tôi bắt. Nó không bao giờ dám xuống bắt vì sợ cua cắn, đặc biệt là sợ đỉa. Ở các rãnh nước từ con mương chảy vào chân ruộng, nước làm xói bờ đất. Chỗ nước chảy xoáy một vùng khá sâu, tôi đứng phải đến đầu gối. Những vũng sâu ấy, cua rất nhiều, còn có cả cá rô đồng. Cua đồng rang muối (Nguồn: www.camnanggiadinh.com.vn) Cua đồng gồm có cua đực và cua cái. Mùa này chủ yếu là cua cái vì là mùa đẻ trứng. Cua đực to, màu đen sẫm có hai chiếc càng to luôn giương lên thách thức. Cua cái nhỏ hơn màu nâu sẫm, hai chiếc càng tuy nhỏ nhưng cắp thì rất đau, bụng mang rất nhiều trứng. Bắt cua phải biết cách, để không bị cắp phải dùng hai ngón tay khéo léo bóp chặt dọc thân con cua thì hai cái càng của nó sẽ mất tác dụng, lúc ấy chỉ việc ném vào giỏ, còn ai bị cắp thì thôi rồi. Nói về nghề bắt cua tôi là cao thủ. Cái Ngọc luôn miệng trầm trồ thán phục. Mỗi buổi như thế, bao giờ cái giỏ tre của ông nội tôi cũng đầy ắp. Tôi đem chia ra hai phần, cái Ngọc một phần, tôi một phần. Tôi rất thích món cua nấu lạc cùng món canh cua nấu rau dền của bà nội tôi. Trời nắng mà chỉ nghĩ đến thôi cũng đến nhỏ nước miếng. Cua được tách ra, vặt hết các chân rồi kho với lạc đã được giã sơ qua. Món ăn rất bùi, ngon mà không ngán. Cua nấu canh thì bà nội dùng cái cối đá giã nhuyễn rồi lóng lấy gạch cua nấu canh. Phần bã bà đem nấu cho lợn nái ăn. Có thể nói hai món đó là đặc sản của tuổi thơ tôi. Và chính những con cua này đã cho tôi nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Hồi đó, tôi và cái Ngọc cùng đang học lớp sáu. Bọn trẻ con trong xóm hay gọi là Ngọc "ghẻ" vì nó bị ghẻ thật nhưng tôi không bao giờ gọi nó như thế. Cùng lứa tuổi chỉ có tôi chơi thân với nó. Chính vì thế cho nên bọn trẻ khác hay trêu chọc, gán ghép chúng tôi với nhau. Hễ cứ lúc nào đi bắt cua bắt cá, nó cũng đòi đi theo tôi, chỉ để làm một việc chính là cầm giỏ và đi quan sát. Được cái mắt nó rất tinh, bao giờ nó cũng nhìn thấy những chỗ mà nhiều cua tụ tập trước tôi. Mắt nó long lanh đen như hạt nhãn, hơi xếch, cái miệng rộng. Ngọc là chúa sợ đỉa. Một lần, tôi mải hí hoáy với con cua đực cắp chặt ở tay mà không làm gì được, chỉ biết nhăn mặt chịu đau. Cái Ngọc lội xuống nước gỡ cho tôi, hiếm khi tôi thấy nó lội xuống nước, quên cả sợ đỉa. Hai đứa cố gỡ mãi, cuối cùng con cua cũng chịu thua. Nhưng nó để lại trên bàn tay tôi một cái gọng, bàn tay xây xước rớm máu. Tôi nhắm mắt giật thật mạnh cái càng cua ra kèm theo một mảng da. Khi cả hai đứa lên bờ, tôi thấy nơi gót chân cái Ngọc có một vật gì đó đen sì, béo núc bám chặt. Tôi chưa kịp nhận ra đó là cái gì thì cái Ngọc đã quẳng cả giỏ cua lăn lóc xuống đất vừa chạy vừa hét toáng lên. Nước mắt, nước mũi giàn giụa. Tôi chạy theo lôi nó lại khuyên giải, một lát thấy nó đứng im, nước mắt nước mũi vẫn không ngừng chảy. Hai con mắt chăm chăm nhìn vào con vật nơi gót chân mà không dám làm gì. Tôi nhổ một bãi nước bọt vào tay rồi lôi con đỉa với hai cái vòi bám chặt vào gót chân yếu ớt, xanh xao của cái Ngọc ra. Con đỉa căng tròn, béo núc lăn lóc trên đám rạ mục. Tôi lấy cục đá đập nát nó ra mà con đỉa dai sống vẫn cố giãy giụa. Kể từ hôm đó, cái Ngọc không bao giờ dám đi bắt cua với tôi nữa. Tôi lại đi một mình, nhưng không lần nào quên phần nó. Hôm nào được nhiều thì chia cho nó một phần, được ít thì chọn một vài con cua đực to cho nó nướng hay làm bò dắt đi chơi chọi nhau hay đưa cho một bát canh cua thơm nựng sau khi bà nội đã nấu chín. Đỉa đối với tôi là chuyện nhỏ vì tôi đã bị nó bám nhiều lần rồi, tôi chỉ sợ nhất là rắn nước. Loài rắn nhỏ màu vàng nhạt hay màu xanh cắn chỉ đau nhẹ không có độc nhưng chỉ nhìn thấy nó đã rợn hết tóc gáy. Có lần vừa thò tay vào cái hang thì một con ngoằn ngoèo lao ra trèo lên cổ tay tôi. Giật mình, tôi quăng mạnh con rắn văng sang một bên và hôm đó không dám đi bắt cua nữa. Hôm nào không bắt cua thì tôi đi bắt cá. Các con mương nhỏ bị ngăn lại hai đầu, dùng cái thau nhôm cũ tát dần đến khi cạn gần hết nước chỉ còn xâm xấp bùn non thì mò bắt cá. Hay mỗi chiều chăn trâu trên bờ đê, lũ trẻ chúng tôi thường rủ nhau đi móc cua về nhóm lửa nướng. Cả lũ túm tụm quanh đống lửa lem luốc, hì hụi những con cua to tròn, béo ngậy. Cái mu cua đỏ au khi nướng chín, mùi thơm toát ra thật dễ chịu. Hoặc là mấy thằng bắt được con cua đực có đôi càng to dùng chạc chuối buộc ngang lưng cho chúng chọi nhau. Tuổi thơ chúng tôi đã trôi qua thật bình yên như thế cùng với những mùa cua đồng ngọt bùi. Những vết thương bị cua cắn rớm máu còn để lại trên đôi bàn tay của tôi những vết sẹo nhỏ. Cái Ngọc "ghẻ" bây giờ đã là một thiếu nữ xinh đẹp. Tôi đã là sinh viên đại học và ở nơi phố thành nhộn nhịp, thỉnh thoảng nao lòng khi nghe thấy mùi vị quen thuộc của món bún riêu cua nơi gánh cô bán hàng rong. Tự dưng, miền ký ức tuổi thơ trong trẻo trở về… Mùa gặt với cua đồng Mới đó mà đã lại vào mùa gặt, đứng giữa cánh đồng quê, hít thở mùi bùn đất, hương lúa chín mà lòng lại dâng lên một cảm giác vui, buồn lẫn lộn. Mùa gặt cũng là mùa lũ cua đồng trong bờ bò ra mương, ra ruộng. Chúng nghe động nước, tìm đường chạy núp. Đi gặt, mẹ bảo đem theo cái giỏ đựng cua, đựng cá. Loanh quanh một chỗ có hồi cũng bắt được hơn chục chú cua đồng. Gặt tới đâu, bắt tới đó. Nhiều con đôi càng to hơn ngón tay cái. Rủi mà bị kẹp là chỉ còn cách kêu trời. Chỉ có điều trời sinh loài cua chỉ biết bò ngang chứ không quay sau được. Thấy chúng, chỉ cần nhẹ nhàng vòng tay ra sau, ấn chặt vào hai bên lưng rồi nhấc lên. Lúc này, dù chúng có cố huơ đôi càng to khỏe thế nào cũng bất lực chịu chui đầu vào giỏ. Loài cua đồng lủi dưới nước rất nhanh. Chúng mà chui vào gốc rạ, bờ cỏ hoặc hang thì nhất định không chịu bò ra. Xong buổi gặt thì giỏ cua cũng gần đầy. Vậy là thêm một niềm vui. Mẹ nói trưa nay sẽ làm món cua rang. Cua đồng phải rang trong nồi đất mới ngon, mới giữ được cái vị của đồng, của đất chứ không lẫn với mùi nhôm, mùi sắt khi rang trong các loại nồi khác. Rang trên lửa liu riu khoảng gần 15 phút là nồi cua có thể ăn được. Toàn thân chúng đổi từ màu nâu sang màu đỏ, gắp ra đĩa, nhìn trông thật hấp dẫn. Không gì ngon bằng càng cua rang ăn trong lúc nóng, trong lúc bùn đất vẫn còn lấm lem trên người. Mẹ nhìn tôi, cười. Vẫn nụ cười yêu thương đi theo suốt tuổi thơ tôi cho đến tận bây giờ. Muốn bắt được nhiều thì đi soi. Đêm, anh em tôi rủ nhau đi soi cua. Khoảng chạng vạng là chúng đã kéo nhau ra các mương nước, vũng nước để đi ăn hoặc ra các lối bờ ruộng để đào hang. Bởi thế, soi khoảng nửa tiếng là có khi được cả vài ký cua. Chủ yếu là vui, là thoải mái khi cầm trên tay từng chú cua đang cố sức vung ngoe, vung càng tìm đường thoát. Và được hòa mình trên cánh đồng quê đêm, bước trên những bờ ruộng nhỏ trong lòng dần ấm lại. Nghe tin khoảng chừng vài năm nữa, quê tôi sẽ thuộc diện giải tỏa để làm khu công nghiệp. Mùa gặt năm nay còn được bắt cua, còn được ăn cua đồng rang của mẹ chứ không biết vài năm nữa thì… Tất nhiên, vẫn có thể mua ngoài chợ hoặc qua những vùng quê khác bắt về rồi rang. Nhưng với tôi, không gì thay thế được những con cua ở quê nhà. Đôi khi chỉ là vài con cua đồng rang thôi mà sao thấy thiêng liêng và vô giá lắm! Mùa nước lên, nhớ tép mòng um lá chanh Mỗi năm cứ đến mùa nước nổi, lúc những con sông, rạch miền Tây chìm trong bể nước mênh mông, nước ngập bãi bờ, đồng ruộng. Lúc đó cũng là mùa tép mòng hay còn gọi là tép trấu. Khác với con ruốc biển, mình mỏng, nhỏ xíu; con tép mòng miền Tây lớn hơn con ruốc, mình cỡ bằng đầu đũa, vỏ cứng có màu trong xanh như ngọc thạch. Lúc vừa giở chà ngôm hay xúc được đám tép mòng búng, mình nhảy rồ rồ nghe bắt ham. Tuỳ vùng mà người ta có cách bắt tép mòng khác nhau. Miệt Trà Vinh là vùng có nhiều tép mòng nên người ta thường đặt chà ngôm để bắt tép. Chà ngôm bắt tép mòng đan bằng tre, hình dáng giống tựa giỏ bắt nhái, hông có khoét lỗ tròn để đặt hom sâu vô trong. Lựa chỗ ruộng tương đối trũng đặt ép chà ngôm xuống, dùng sình be cho chà ngôm đứng vững thấp hơn mặt đất, rồi dọn đường cho tép mòng xuôi theo dòng nước vào. Mồi để dụ tép mòng là cám rang trộn với cháo gạo lứt vò viên tròn cỡ trái chanh. Chà ngôm cứ đặt rải theo bờ ruộng, tối đặt, sáng ra thăm trút tép, rồi đặt tiếp chiều tối lại ra thu hoạch. Những vùng khác thì người ta còn dùng lọp hay đặt vó để kéo tép mòng. Vó loại nhỏ đặt góc ruộng trũng rồi rải cám rang lên mặt để một hồi lâu canh cất vó, trên mặt vó cơ man nào là tép mòng. Tuy nhiên, đến mùa tép mòng nhiều đầy mặt ruộng lúc đó đơn giản nhất là dùng rổ xúc tép vừa nhanh vừa được nhiều. Mùa tép nhiều, bữa nào trúng, có cái chà ngôm được cả chén tép đầy. Tép nhiều ăn không hết thì mang đi phơi khô hoặc làm mắm. Tép mòng sau khi lựa bỏ những con ốc, cá nhỏ và đất đá, người ta đem rửa sạch rồi phơi khô. Do tép mòng mỏng, nhỏ nên chỉ cần phơi một nắng là tép mòng đã khô rang. Tép sau khi khô cho vào bao bố dùng chày vỗ nhẹ rồi đổ tép ra nia xảy bỏ vỏ. Vậy là đã có tép mòng khô đem cất để dành nấu canh, kho quẹt…Hoặc bữa nào kẹt mồi nhậu, hái mấy trái mít non nhỏ xíu bằng ngón cái, bào mỏng giã với chùm ruột, thêm nước mắm đường, ớt hiểm rồi rắc tép mòng khô vào, vậy là có mồi nhậu bắt hơn cả thịt thà. Trà Vinh còn có loại mắm đặc biệt là mắm tép chua, làm bằng tép mòng, khác với mắm tôm chua làm bằng tép bạc đất. Mắm tép kiểu này chỉ làm bằng tép mòng với muối hột và cơm nguội. Mắm tép sau khi đã ngấu đều có màu đỏ gạch trông rất bắt mắt. Mắm tép mòng trộn với đu đủ chấm cá lóc nướng trui thì ngon hết biết. Lẫn trong vị mặn của mắm là cái hơi chua chua, cay cay, làm cho mắm tép mòng ăn với cá lóc nướng trui có vị lạ đôi khi còn bắt miệng hơn cả mắm nêm. Tuy nhiên, tép mòng rang lại là món ăn dân dã có nhiều hương vị nhất vì nó đơn sơ mộc mạc, giữ nguyên sự tinh tuý ngọt ngào của con tép miệt sông nước. Tép chỉ cần rửa sạch cho vào chảo với lửa lớn ngọn, dùng đũa huơ qua lại vài cái, tép chuyển sang màu đỏ cánh sen căng mọng vậy là có thể nhắc chảo xuống cuốn tép với bánh tráng, bún và rau sống ăn hoài không thấy ngán. Người ta còn có một biến tấu khác là tép mòng um lá chanh cũng khá đặc sắc. Tép mòng được rửa sạch cho vào nồi với những sợi lá chanh thái chỉ, tép mòng được um chín trong chốc lát, mùi thơm của lá chanh hoà lẫn cùng mùi tép làm cho món ăn trở nên đằm thắm, hấp dẫn hơn. Mùa cất tép đồng Sau những trận mưa rào, phù sa từ những con sông lớn chia đều cho kênh mương, dẫn vào ruộng chờ cấy, thì tép gạo, tép ngô, tôm chõn, tôm cờ nở như đất đẻ. Mỗi nhà chỉ cần vài chục chiếc vó, trúm để ở đầu kênh, mương hay bờ ruộng là có đủ thức ăn cho vài ngày. Nhớ những năm thập 60 - 70 của thế kỷ 20, máy bay và bom đạn Mỹ chẳng thể nào dập nổi bản giao hưởng của ếch, nhái sau mưa mùa hạ. Tôm, cua, ếch, ốc lúc nào cũng nhiều vô kể… Những thứ giờ trở thành đặc sản ở nhà hàng khách sạn cao sang là thứ có thể vơ, xúc ăn trừ cơm ở quê tôi thuở ấy. Nhớ khi còn nhỏ, trong mâm cơm gia đình không bao giờ thiếu sự hiện diện của loại sinh vật nhỏ, lành nhất, đó là tép. Tép ngô, tép gạo, tép riu… ngon nhất là được chế biến tươi. Tép còn được giã dập làm mắm hoặc phơi khô để bán, biếu, cất dành cho ngày đông, nước lớn ăn dần. Một bốc tép hay thìa mắm sẽ làm cho ngọn đay, ngọn muống, ngọn dền, mồng tơi, mướp hương, hoa chuối hay bát cà om tỏa hương và trở thành món khoái khẩu cho cả nhà. Ngon nhất phải kể đến những chú tép gạo, bụng ôm đầy trứng xanh, được xóc muối, thêm chút nước hàng và vài lá gừng, kho trong niêu đất cùng vài cái tóp mỡ. Khi nào quanh niêu vện lên một ngấn vòng tròn màu vàng ruộm, tép khô nước, thì rưới thêm vào nửa thìa mỡ lợn để thêm béo, bùi. Tiếp đó, trước khi bắc tép ra, thêm chút lá chanh thái nhỏ là dậy mùi khỏi nói. . . Con tép căng mọng, múc ra đĩa vàng ươm, tùy khẩu vị từng nơi có thể vắt thêm chút nước cốt chanh, khi ăn bùi “nghìn nghịt”, càng nhai càng ngọt. Chiều đi học về ngót dạ, vét nồi cơm nguội ăn với tép đồng kho thì quả thực, khi ấy không thứ sơn hào hải vị nào sánh được. Chả trách, ông nội tuổi ngót 90, trước khi theo gót tổ tiên còn trăn trối lại: “Trong mâm cơm cúng chớ quên bày đĩa tép đồng kho. . .”. Để bắt tép, không gì hiệu quả bằng cất vó. Khi ngọn gió heo may se lạnh là thời điểm thích hợp nhất để lựa chọn gọng vó. Người ta chọn những cây hóp già, chặt lấy từng đoạn dài tầm sải tay, pha nhỏ thành bốn gọng vó, uốn cong hình chữ U rồi đem gác bếp cho ăn bồ hóng, để nan bền và có sự đàn hồi cao. Lưới vó được tận dụng từ những chiếc màn cũ, cắt hình vuông, mỗi chiều chừng gần ba gang tay người lớn. Mỗi chiếc lưới vó phải vá thêm hai hoặc ba mụn vải để phết hồ nhử tép. Miếng vải vá vào vó thường tận dụng từ quần áo cũ bỏ đi, yêu cầu dầy để giữ được hồ, hồ ko bị rã ra. Vá vào góc chứ không vá vào giữa vó, vì nếu vá giữa vó nó sẽ đọng nước cất rất nặng vó… Cất vó là công việc cần sự khéo léo và kiên trì, cũng khá nhẹ nhàng nên hợp với các bà các chị. Nhất là những cô gái cốm (gái mới lớn), sẽ được theo mẹ, chị đi cất vó để học hỏi kỹ thuật đến khi thành thạo, nó cũng là việc làm khi nông nhàn sẽ có thêm thu nhập. Vài lẻ gạo, thêm chút vôi, thổi trong niêu đất rồi vùi vào tro nóng cho thật nhừ, sau đó dùng thìa nghiền nhuyễn và miết vào mấy miếng vải vá mặt vó, rồi đem phơi khô là xong công đoạn chuẩn bị. “ Tôm nha nhá/Cá rạng đông Cất vó tép tưởng đơn giản nhưng hóa ra lắm công phu. Cất tép không được mặc màu quần áo sáng màu, phải đi ngược gió, ngược nước và ngược bóng. Khi cất, khẽ luồn đầu cần dưới óc vó và vừa cất, vừa kéo thật gọn, chờ cho rốn vó sắp lên khỏi mặt nước ta dằn cần lại cho có độ dừng để vó không bung lên hất tép ra ngoài. Rồi bằng động tác thành thạo, tay trái giữ cần, tay phải nhúm chân góc vó và nghiêng ngược chiều gió khẽ giũ tép vào rá. Những chú cua xấu số tranh mồi tép trong vó sẽ bị tóm nhốt riêng vào giỏ tre đang vắt vẻo ôm eo lưng. Giữa chừng nếu hết hồ thì có thể thay bằng cám rang trộn nước, để khi ném xuống vó không bị trôi mất. Nếu cất ở ao, hồ, sông, nhất thiết phải tìm những nơi có làn để vó không ở mức chìm quá sâu, cá sẽ quấy vó tép không dám vào. Những nơi có dòng chảy phải có một cái que nhỏ buộc trên đầu vó, cắm vào phía bên cạnh để giữ vó, lưu ý không cắm quá sâu, quá chặt. Khi cất vó phải chú ý nhấc cái que đó thật nhẹ nhàng, bởi nếu động mạnh, tôm tép búng mình giật lùi là ra khỏi vó ngay. Nắng lên, nước nóng dần, tép biếng ăn tìm chỗ mát và mặt bùn để tránh cũng là lúc những rá tép đã nặng tay, giỏ cua ngang hông đã trễ xuống, má các cô gái cốm đã chín đỏ như trái bồ quân lấm tấm mồ hôi, buổi cất vó tạm dừng. Để giữ tép tươi ngon cũng phải có bí quyết. Sau từng lượt cất, tép được đùm vào vải, để vào chiếc rá phía dưới đã lót sẵn tro bếp, chờ tro hút kiệt nước mới lấy tép ấy đổ sang rá nhỏ khác, rồi phủ lên trên vài cái lá tre để tép không nhảy ra ngoài, đem đặt vào chỗ mát. Làm theo cách ấy, tép có thể sống khỏe 6-7 giờ, thả sức mang ra chợ bán hoặc đem về chế biến mà không lo tép ươn, mất ngon. Bây giờ, ở quê, muốn mua tép mà bói không ra. Đã đến giỗ ông nội, đành lỡ hẹn với vong linh người đã khuất, bởi thiếu đĩa tép đồng kho. . . Rủ nhau câu lươn mùa nước cạn Cập nhật lúc :2:51 PM, 08/05/2009 Mùa lụt đi qua, nước ở ao, hồ, ruộng bắt đầu cạn dần. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để người dân quê bắt được những chú lươn đồng béo nục cải thiện bữa ăn. Lươn sống ở sình lầy hoặc nơi có nhiều bùn, thân trơn tuột, trông không dễ "bắt mắt" đối với người yếu bóng vía. Bù lại, thịt lươn rất quý vì giàu đạm và các nguyên tố vi lượng, giúp bổ khí huyết, làm mạnh gân cốt, chống khí huyết hư nhược... Bắt lươn có nhiều cách, có thể dùng cần câu. Người ta thường chọn loại tre tươi có độ dẻo và độ bền để làm cần. Cần câu dài khoảng 1 - 1,5 m, vót nhọn, một đầu cắm xuống đất, đầu kia khắc ngấn để buộc dây. Lưỡi câu loại vừa và chắc chắn. Mồi câu là trùn (giun) đất, tép rang hoặc cá bốc mùi ươn. Móc mồi dài trùm một chút lên dây, che khuất hết lưỡi câu, đi dọc bờ kênh hoặc hồ, cách vài mét cắm một cần, đầu cần câu sát mặt nước. Sau vài giờ cắm câu thì dùng đèn pin đi kiểm tra. Cần nào chúi hết phần đầu thì chắc chắn là có lươn dính mồi. Một tay cầm cần, tay kia dò theo dây câu tiến đến, nắm đầu mà kéo lên. Cần câu nào uốn éo qua lại thì có lẽ mấy chú cá bị dính mồi. Nếu là một tay bắt lươn chuyên nghiệp thì chỉ cần thò tay vào hang một thoáng sẽ bắt được những con béo nục. Bắt lươn bằng tay nhanh hơn nhưng hơi nguy hiểm vì không may sẽ gặp phải rắn. Ngoài ra, người ta còn dùng trúm để bắt lươn. Chọn ống tre dài cỡ 1 m, đục thủng các lóng cho thông nhau, để lại lóng cuối, gắn cái hom (nan tre) nơi đầu ống, không quên bỏ vào đó một ít tép rang hoặc cá ươn. Men theo những thửa ruộng, con mương, đem trúm đã gắn hom đặt ngay cửa miệng hang để "dụ” những con lươn hám mồi. Mỗi nơi mỗi kiểu, lươn được chế biến thành chục món ăn: chiên giòn, nướng sả ớt, nướng ống tre, hấp, rang muối, um, lẩu... Muốn có món lươn ngon thì trước hết phải biết cách chọn lươn để chế biến. Lươn nhỏ thì không bổ, lớn quá thì thịt không ngọt, lươn có màu vàng dưới bụng là ngon nhất. Không nên dùng nước sôi mà dùng tro bếp để tuốt nhớt của chúng, cách này giúp làm lươn sạch mà thịt lươn không bị cứng. Tùy từng món mà rút xương lươn hay không, nhưng nhất thiết phải lấy đường chỉ máu của lươn để không còn mùi tanh. Có lẽ quen thuộc và dễ chế biến nhất là món lươn xào sả ớt, thịt lươn băm và cháo lươn. Lươn làm sạch nhớt, sạch ruột, cắt khúc rồi ướp cùng với sả, ớt, bột cà ri, sau đó cho lên chảo xào, thêm một ít hành tây, tiêu... là có một món ăn với cơm thật đậm đà. Với món lươn băm, thịt phải băm nhuyễn, ướp gia vị, sả rồi xào chín, cho vào đĩa, rắc thêm nhiều rau húng, lạc rang... Món này ăn với bánh tráng, vị bùi của bánh tráng, vị mằn mặn beo béo của lươn xào, thử một miếng mới hiểu tại sao dân nhậu sành điệu "ưa" món này. Riêng cháo lươn, trước tiên phải luộc lươn vừa phải, để nguội, sau đó gỡ tách thịt lươn khỏi phần xương, dùng dao dằn nhẹ sống lưng lươn cho thẳng ra, giúp thao tác rút xương được dễ dàng hơn. Giã nhỏ xương lươn, lọc lấy nước cốt; thịt ướp gia vị cho thấm, khử qua dầu rồi đổ vào nồi um. Đổ hỗn hợp nước cốt xương và thịt vào nồi cháo đậu đen đã chín nhuyễn, vài phút sau trộn đều, rải một ít tiêu. Như vậy, bạn đã có một nồi cháo thơm, nghi ngút khói. Cháo lươn ăn kèm với rau chuối cây thái mỏng, một ít rau ngò, húng mới đúng điệu. Bây giờ, bước chân ra chợ là có thể mua được lươn, song đó chỉ là loại lươn nuôi theo kiểu công nghiệp, ăn không ngon. Lươn đồng ngon không chỉ là sản phẩm của thiên nhiên hoang dã mà còn chứa trong đó sự kỳ công của quá trình săn bắt, chế biến. Mùa chạch đồng hững bữa cơm ngày gặt mùa đến khi cày ải ngon hơn rất nhiều bởi gạo mới, bởi đợt rét đầu đông và bởi nồi cá chạch đồng kho. Không có giống cá nào kỳ lạ như giống chạch... Tháng tám, khi lúa bắt đầu trỗ, cũng là lúc mọi giống khác bắt đầu lo về “nạn nước”. Hạt lúa vừa căng sữa, người ta rút nước ruộng đi một cách từ từ, chỉ để lại mức ẩm vừa phải trên chân lúa cho lúa cứng cây và làm hạt. Nước rút đến đâu, mọi giống thuỷ sinh trong ruộng dồn dần vào góc ruộng trũng nhất đến đấy. Có thửa, chỉ một vũng nước đục ngầu mà lúc nhúc hàng giỏ đủ các loại cá, tép… Nhà quê có từ “cá ròn” để chỉ những góc ruộng này. Chẳng khó gì, chỉ đôi tay không có bữa bắt được hàng cân cá. Có thửa khi kiệt nước không ai để ý, cá chết phơi bụng la liệt. Chỉ riêng giống chạch là không hề gì nhờ khả năng sống đặc biệt, lúc nước cạn là lúc chúng chui sâu dưới đất hàng gang tay, nằm im dưới đó, chỉ giao tiếp với bên ngoài bằng cái lỗ nhỏ như đầu cuộng rơm và cứ thế sống hàng mấy tháng trời trong đất ẩm, đến mùa đổ ải mới lại ngoi lên... Mùa gặt tháng mười cũng là mùa bắt chạch đồng. Lúc lúa mới trỗ chẳng ai bắt chúng vì không thể sắn tung cả góc ruộng lúa lên. Gặt rồi thì tha hồ, mặt ruộng cứ phơi lồ lộ. Đám trẻ con ở trường về buổi trưa, ăn vội miếng cơm là thắt giỏ, vác cuốc ra đồng. Với những góc ruộng đã se mặt, chúng dùng cuốc để "truy nã" loại cá “có họ với lươn” này. Trông chúng bắt chạch mà mê. Xéo xuống một nhát cuốc, thấy miếng đất ruộng đẹp như một nhát cắt cái giò lụa, trên đó lộ ra có khi đến hai ba lỗ chạch bằng đầu đũa, nhẵn thín. "Giò lụa luộc chín, chiếc nào hút lỗ chạch là giò ngon". Nghe các nghệ nhân làm giò làng Ước Lễ (Hà Nội) nói vậy, giờ nhìn mới thấy hút lỗ chạch là thế nào. Thấy lỗ rồi, cứ thế luồn ngón tay cái vào lỗ mà lật đất lên. Lỗ chạch càng xuống càng to. Chạm cá rồi, ngón tay trỏ hất mạnh một cái, con chạch bật lên, vàng ươm, giẫy đành đạch. Tôi giơ tay chộp, nhưng năm sáu lần không xong, da con chạch trơn quá. Thấy vậy, thằng cháu hơn mười tuổi phải “làm mẫu” cho tôi xem. Chỉ dùng một ngón tay cái quặp vào đoạn giữa con chạch mà nó bắt ngon ơ. Tôi làm lại, vẫn không được. Mới hay làm gì cũng phải “có nghề”. Gặp những lỗ sâu, ngón tay trẻ luồn không hết, thì phải cuốc tiếp. Lỗ sâu là chạch "cụ" đấy. Phải cuốc rất khéo để lưỡi cuốc khỏi bập vào làm đứt đôi hay mất phần đuôi chạch. Con chạch "cụ" bằng ngón tay trỏ người lớn, dài ngót gang tay. Với những góc ruộng còn bùn nhão, chúng chẳng cần dùng cuốc, cứ thế hai tay sắn từng tảng bùn hất lên. Chỉ sắn một nhát đã thấy con chạch lộ ra. Nhiều con “ngoan cố” còn luồn trong bùn nhão, phải hai ba nhát sắn mới lôi được chúng ra. Với những thửa ruộng hay mương nước còn lấp xấp, nhiều đứa có “sáng kiến” đem theo cả ắc quy điện. Sục điện vào, lũ chạch bị điện giật vọt thẳng lên, chẳng cần xắn hay cuốc xới gì cả. Tôi bảo: - Làm thế, cá chết hết mất. - Không sao bác ạ. Giống này sống dai lắm. Chỉ một lúc là nó hồi thôi. Theo đứa cháu đi bắt chạch từ một giờ chiều đến sẩm tối, khi cái giỏ đã nằng nặng, bác cháu tôi mới về. Đến đầu làng, đã thấy hai ba cái xe máy đứng đợi. Trên mỗi xe là cái sọt lót ni lông đã đổ nước lưng lưng. Những người buôn cá chạch. Rất nhanh, thằng bé hạ giỏ xuống. Cũng rất nhanh, những người buôn này đổ giỏ chạch của chúng ra cái rổ nhựa đã mang sẵn theo, lựa những con ngon, con to rồi cân, rồi xỉa tiền. Trông họ làm cứ thoăn thoắt. Những con chạch to, chạch ngon ấy trở thành những món chạch rán giòn, chạch xào sả ớt, chạch om, chạch bung, chạch kho tộ… trong những nhà hàng sang trọng trong các thành phố, thị xã, với giá lên đến năm sáu chục ngàn một đĩa; còn mớ tiền lẻ hơn chục ngàn đồng trở thành sách vở, thành cả áo Tết cho những đứa trẻ nhà nghèo. Về đến nhà, trong giỏ của cháu tôi chỉ còn độ dăm lạng toàn những con “chạch loại”, hiếm hoi lắm mới có con bằng gốc đũa. Phần lớn là loại chạch bằng cuộng rạ hay bằng đầu đũa ăn cơm. Mẹ nó chửi: - Tiên sư mày. Hôm nay có bác về, sao mày không để cả lại. Bác ở thành phố, bác ăn làm sao được những con chạch ranh này. Tôi vội gạt đi. Ở thành phố, tôi cũng mấy khi được ăn loại đặc sản này, vì giá của nó hiện đã đến sáu bẩy chục ngàn một cân. Mỗi ngày trong thời “sống chung với lạm phát” này, bữa ăn nhà tôi lại đạm bạc thêm bởi giá cả leo thang vùn vụt. Bây giờ, mỗi lần muốn mua một con cá, vợ tôi cứ phải đứng bên hàng cá cả tiếng đồng hồ, chờ có con nào trong chậu cá không chịu nổi, phềnh bụng lên, hết ngáp hẳn mới dám hỏi mua. Vì những con cá ấy, giá chỉ bằng một nửa hoặc hai phần ba giá những con đang sống. Thị bảo: - Tuy cá chết nhưng mà còn tươi nguyên, ăn chẳng việc gì sất. Mua cá kiểu ấy mãi đến nỗi mấy chị hàng cá quen mặt, mỗi lần nhà tôi đi qua lại gọi “có cá chết đây này”… Mùa cày ải, thợ cày nào cũng dắt bên hông cái giỏi tre hay treo bên cày cái ống nứa rỗng một đầu. Những đường cày có khi phải dừng hàng chục lần. Cày trâu thì họ trâu, cày máy thì hãm máy, để cho thợ cày bắt những con chạch vừa theo lưỡi cày lật lên… Chiều về, người vợ đón giỏ chạch từ tay chồng, trút luôn đám cá vào bếp gio. Cá giẫy, gio bếp bắn tung lên, dăm mười phút sau mới im hẳn. Lại bốc cá lên đem rửa. Gio bếp làm chạch hết nhớt. Lát riềng xuống đáy niêu đất, xếp cá lên trên, nêm mắm muối và lại xếp thêm một lớp riềng nữa. Đổ xâm xấp nước, đặt niêu cá vào bếp, đổ rổ trấu lên rồi đốt. Đến bữa cơm chiều thì niêu cá chạch đốt bếp trấu cũng khô rang. Mở vung ra, mùi chạch kho riềng thơm điếc mũi. Bên niêu cá chạch và nồi cơm gạo mới, người chồng nhâm nhi chén rượu, vợ và lũ con hể hả bới bới đơm đơm. Người ta tạm quên đi chuyện từ cái kim sợi chỉ hôm qua giá này hôm nay đã giá khác… Mắm dơi Nước Chạch Cũng không ngon lắm đâu, chỉ là con dơi đem muối thôi mà! Nhưng nếu người làng mình mà không làm mắm dơi thì như không còn là con cháu của ông bà mình, không phải là người Nước Chạch nữa, chịu sao được!”. Chỉ đến khi từ giã ngôi làng heo hút giữa Trường Sơn thẳm sâu tôi mới cảm nhận được giá trị của loại mắm lạ này qua câu nói cũng như cách ứng xử với rừng thiêng của người làng Nước Chạch. Nước Chạch là một làng vùng xa của xã Ba Xa, huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi), được gọi theo tên của một con suối lớn vốn là con nước chính của một vùng rừng núi rộng bao quanh. Ở Ba Xa, nói đến Nước Chạch, người ta nghĩ ngay đến tập tục săn dơi làm mắm, và mắm dơi trở thành một “đặc sản” của làng Nước Chạch trong cộng đồng người Hre ở Quảng Ngãi. Phải đợi đến nhá nhem tối tôi mới được diện kiến vị chủ hang dơi: ông Phạm Văn Tinh, người cai quản cái sào huyệt dơi mà người Nước Chạch vào đó săn bắt đem về làm mắm. Như nhiều người vùng cao lớp lớn vốn không biết tuổi thật của mình, vị chủ hang 57 tuổi theo giấy chứng minh nhân dân có lẽ đã vượt xa tuổi 60. Nghe khách hỏi đến món đặc sản của làng, ông vui vẻ nói: “Mắm dơi mới hết cách đây một tháng. Có thèm cũng phải chịu thôi. Đến khoảng tháng Mười âm lịch mình mới chọn ngày vô hang bắt dơi, mới có mắm dơi ăn lại...”. Làng Nước Chạch nằm cách hang dơi một buổi đường. Ông Tinh cho biết từ sau ngày hòa bình, lũ làng dọn đến Nước Chạch ở cho tiện việc làm ăn vì làng cũ ở gần hang dơi nằm trên vùng núi cao với nhiều sườn đá cheo leo, lại thêm dòng sông Re trắc trở. Xa làng cũ nhưng món “hồi môn” trăm năm trước của làng vẫn thuộc về người Hang Dơi (tên làng cũ của người Nước Chạch bây giờ). “Không sợ người khác trộm đâu, của ai nấy hưởng mà. Người Hre không ai lại đi lấy cái không phải của mình...”, ông Tinh nói về việc hang dơi của người Nước Chạch bao đời nay vẫn không bị người ngoài xâm phạm. Quyền làm chủ hang dơi được truyền từ đời cha cho đời con. Ông Tinh ở vào khoảng đời thứ mười được thừa tự cái hang dơi này. “Bản quyền” mắm dơi Nước Chạch là cả một quá trình chế tác của nhiều lớp người nơi ngôi làng nằm sâu giữa vùng núi vắng. Cái hang dơi toàn đá chồng lên đá “chứa đến năm sáu trăm con người cũng không hết” ấy có rất nhiều dơi. Ông Tinh kể: “Khi mình biết mang cái gùi vượt qua sông Re, vượt qua mấy cái mỏm đá cao để vô hang dơi giăng lưới bắt nó thì đã nghe ông cha dặn chỉ được phép bắt con dơi vào mùa mưa thôi. Mùa nắng dơi trong hang ít, nó bay ra ngoài kiếm ăn, cũng là mùa sinh sản của nó nên không được bắt. Một năm chỉ có một ngày săn dơi, dù chúng còn nhiều trong hang cũng không được phép bắt thêm một ngày nữa...”. Săn dơi đã thành nỗi đợi chờ trong cả một năm của người Nước Chạch. Khi mưa đông tới, đến đứa trẻ lên chín lên mười cũng biết trông vào nhà vị chủ hang chờ lệnh ban ra. Khoảng tháng Mười Âm lịch, khi bông lúa trên rẫy gần ươm là chủ hang sẽ chọn ra một ngày rồi báo cho lũ làng biết. Trước ngày vào hang săn dơi, chủ hang phải làm hai con gà cúng “con ma rừng” cầu may cho cả làng. Ngày săn dơi không khác ngày trẩy hội. Ông Phạm Văn Dục, Phó trưởng công an xã Ba Xa, cư dân Nước Chạch, cho biết làng có 111 hộ, ngày săn dơi không một hộ nào thiếu người. Hễ ai đủ sức mang gùi vượt dốc vào hang là đi, có nhà có đến ba, bốn người đi. Càng gần đến hang dơi không khí càng sôi động, nhất là lúc vượt lên những lèn đá. Gian nan, nguy hiểm nhưng hấp dẫn, thích thú. Vào hang, kẻ luồn ngách này, người chun ngách nọ. Hang rộng, dơi nhiều, ai cũng có dơi mang về, ai có ít quá sẽ được bà con sớt cho thêm một ít. “Có năm dơi nhiều, săn chậm, số người ra hang trễ phải dựng lều bên sông Re ở lại. Cùng nhau đốt lửa thui dơi, trời dẫu có mưa lạnh nhưng vui hết chỗ nói...”, ông Dục kể. Dơi mang về, ngoài phần làm mắm, dân làng còn bỏ giàn bếp sấy khô để ăn dần. Làm mắm dơi cũng là sự sáng tạo của cư dân vì lượng dơi bắt được nhiều không thể sấy hết cùng một lúc. Để dơi khỏi ươn thối, người dân đã nghĩ cách muối dơi làm mắm! Lão làng Phạm Văn Ngoa kể: “Thời chiến tranh ác liệt, dân làng muối mắm dơi bằng bắp. Vì không có muối, họ giã bắp vào thịt dơi, cho ra một loại mắm chua giúp họ có cái ăn đối phó với sự khan thiếu hạt muối vàng ngọc lúc bấy giờ. “Dơi muối bột bắp để dành ăn cũng được hai, ba tháng. Chừ dư hạt muối lại thiếu hạt bắp”, ông Ngoa nhắc lại. Dơi sấy khô chỉ là một cách ăn đơn giản, nhưng khi đem dơi muối làm mắm, người Hre Nước Chạch làm nên một loại mắm đặc trưng, một “văn hóa mắm” của một cõi vùng cao dưới mái Trường Sơn. Người Nước Chạch cho rằng mắm dơi ăn cách nào cũng ngon. Mắm dơi chiên dầu được cho là ngon nhất, nhưng mắm dơi xé nhỏ nấu canh với rau rừng lại có cái ngon riêng. Đơn giản hơn là mắm dơi chưng (hấp) hoặc nướng. Xương mắm dơi giòn, thịt mắm dơi béo, thơm, mềm, nếu là dơi muối bắp lại thêm vị chua. Tất cả những cái ngon ấy khiến người Nước Chạch nguyện giữ đời tục bắt dơi làm mắm mỗi năm. Ông Tinh sắp bàn giao cái chức chủ hang lại cho đứa con trai 30 tuổi thừa kế, nói rằng gia đình ông nối đời làm chủ hang dơi không một chút tư lợi, trái lại, phải bỏ công sức, của lễ cúng hàng năm. Ông thổ lộ: “Làng có chung cái hang dơi, có con dơi làm mắm ăn phải cố mà giữ. Tuy dơi trong hang năm nào cũng có nhưng mình cũng lo có ngày nó giảm. Dân làng mình so với hồi trước có tăng lên nhiều. Mình phải có cách sao để mỗi năm không bắt dơi nhiều quá, tính sao để giữ cái mùa săn dơi còn mãi với người Nước Chạch”. Mới hay, giữ một cái hang núi, giữ một tập tục, một nguồn lợi nhỏ cho một làng nhỏ nơi hẻm núi sâu, người đứng đầu đã không hề hưởng công lao mà vẫn luôn canh cánh bên lòng những mối ưu tư... Tom tich Du khách về tham quan vùng Năm Căn (Cà Mau) hoặc Hà Tiên, Kiên Lương, Kiên Hải (Kiên Giang) sẽ có dịp thưởng thức nhiều món tôm tích hấp dẫn. Con tôm tích vốn là loại hải sản rẻ tiền, nay hóa ra lại có giá; dù không so được với tôm sú, tôm hùm nhưng cũng chế biến được những món đậm đà hương vị thơm ngon. Tôm tích là một loài giáp xác, phần bụng giống tôm nhưng lại có đôi càng khá to giống như càng con bọ ngựa. Con trung bình dài khoảng 15cm, con lớn nhất hơn 30cm. Màu sắc tôm tít thay đổi tùy theo loài, nâu, xanh, vàng, hồng… Để có một bữa "tiệc" tôm tích thật ngon lành, trước hết chúng ta phải chọn cho được những con tôm còn tươi sống. Con càng to càng ngon. Loại 6 - 10 con/kg mới thật sự là “hàng chất lượng cao”. Cách chế biến tôm tích không cầu kỳ lắm, chỉ cần hấp, luộc, nướng hoặc rang me. Nhưng hấp dẫn nhất có lẽ là món hấp bia, một món ngon độc đáo đã từng níu chân du khách mọi miền. Trước khi hấp, chúng ta ngâm tôm tích vào bia chừng 5 phút (loại bia nào cũng được) rồi cho vào nồi, đậy nắp kín, hấp trong vòng 15 phút là xong. Tôm hấp bia màu đỏ hồng, thơm phưng phức. Cái thú của ăn tôm tích là dùng tay bóc vỏ, cặp thêm miếng rau thơm, chấm với muối tiêu chanh, thịt dai dai, mềm mềm, ngọt lịm, đậm đà hương biển, mùi vị thật khó tả. Nếu là tôm nhỏ nên để nguyên con cắn nghe dòn dòn. Bạn nhậu dùng món nầy thường kèm thêm rau sống, cà chua, chuối chát, dưa leo và nếu như có thêm chút mù tạt càng ngon. Thịt tôm tích nếu đem cuốn với bánh tráng rau sống chấm nước mắm chua - cay, chưa chắc có món cuốn nào bì kịp. Tại Rạch Gốc và Tam Giang (Cà Mau) người ta khai thác tôm tích bằng lưới cào hoặc đóng đáy. Còn khách du lịch muốn khám phá thì nên ra bãi biển tìm hang để câu. Sau khi lưới được tôm bà con ngư dân thường bảo quản trong thùng ướp lạnh trước khi đưa đến nhà hàng. Nếu không, thịt tôm sẽ bủn mất ngon. Theo kinh nghiệm của một số bà con ngư dân vùng biển thì tôm tích thường sinh sản vào tháng Ba, tháng Tư âm lịch và trưởng thành vào khoảng tháng Chín, Mười. Đây cũng là thời điểm tôm bắt đầu mang trứng, nhiều gạch, thịt rất thơm ngon và béo. Trước đây, tôm tích được bày bán khá nhiều ở các vùng biển nhưng từ khi ngành du lịch phát triển, giá hải sản leo thang, đặc biệt là tôm tích, có lúc lên đến 200.000đ/ký (loại I) nên nó đã đi vào thực đơn của các nhà hàng đặc sản nổi tiếng ở Cà Mau. Ngoài món tôm tích tươi sống, bà con ở vùng biển đảo, nhất là hòn Tre, hòn Nghệ còn dùng thịt tôm tích ép mỏng đem phơi khô, coi như một món khô hảo hạng. Ngon lạ với món ễnh ương mùa mưa Khi bắt đầu vào mùa mưa, những vùng đất trũng như cánh đồng, ao hồ quê tôi bắt đầu ngập nước trắng xóa cũng là thời điểm lũ ễnh ương bước vào mùa sinh sản nên chúng kêu inh ỏi suốt đêm. Đây là loài động vật cùng họ với cóc, ếch, nhái… xuất hiện chủ yếu vào mùa mưa. Thịt ễnh ương giàu chất đạm, có vị ngọt bùi, beo béo, xương giòn và thơm, chế biến được nhiều món ăn ngon. Khi vùa mùa chỉ cần từ tầm tám giờ đêm đi dọc các bờ nước của ao, ruộng dùng vợt vớt chúng đang nổi lờ đờ dưới nước đến khuya là có được vài chục con ễnh ương to tròn. Ễnh ương khi bắt về cho vào thùng, trên đậy bằng một cái rổ thưa. Nấu nước sôi, pha một ít phèn chua và muối, rưới đều lên rổ. Những chú ễnh ương vì quá nóng nhảy tưng tưng cho đến khi lớp da bên ngoài tuột hết, để lại lớp da bên trong trắng toát như miếng dừa nạo. Cũng có thể cho một lượng muối hạt vào thùng chứa ễnh ương đang sống rồi dùng hai bàn tay vừa bóp, vừa trộn đều cho các chất nhớt ở da tuột ra, rồi đem rửa sạch. Đổ chúng ra thau rồi cạo nhớt, cắt đầu, cắt chân, mổ bụng, bỏ bộ lòng. Rửa thật kỹ một lần nữa bằng nước sôi cho sạch. Tuỳ món mà có thể cắt miếng nhỏ hay để nguyên con mà chế biến. Ễnh ương chủ yếu chế biến với các món như chả, rán, xào sả ớt,... Để làm món chả thì cần băm thật nhuyễn cả thịt và xương ễnh ương và giã cho dẻo lại, thêm ít bột mì, hoặc bột gạo để tiếp tục giã cho bột và thịt quyện vào nhau. Cho gia vị như hạt nêm, tiêu bột, muối tinh, lá chanh xắt chỉ, ớt… trộn đều cho thấm và vo thành viên tròn. Khi dầu khử sôi với tỏi đập dập toả mùi thơm, thả viên chả vào rán vàng. Hoặc dùng chả viên này để nấu lẩu, nấu cháo, làm nước nhưn ăn với bún thì ngon ngọt không gì bằng. Với những chú ễnh ương còn nhỏ có thể chiên cả con, hấp dẫn hơn là thực hiện việc phết bột chiên giòn. Cầu kỳ và độc đáo là cho thêm ít nạc heo bằm nhuyễn, gia vị vừa ăn, nhét vào phần bụng ễnh ương… bỏ vào chảo dầu cho chín vàng thì bạn vớt ra. Những món chiên này ăn cùng đĩa rau thơm các loại, khế hườm, chuối chát đợi sẵn chấm nước mắm tỏi ớt nhấm nháp ly rượu là ngon hết ý. Gặp những ngày mưa nhiều, chợ búa khó khăn thì món ễnh ương xào sả ớt hay xào lăn với nghệ trở thành món đồ ăn với cơm nóng thì ngon không tuyệt, khiến nồi cơm bao giờ cũng sạch bóng. Trời sắp vào cuối Thu, miền Trung thường có những cơn mưa tầm tả. Những cơn mưa nặng hột kéo dài lê thê, nhiều khi cả tuần mà mưa vẫn rơi. Mưa rơi khắp xóm làng với những cơn gió to như giông bão. Mưa triền miêng làm những ao hồ trong vườn ngập đầy nước, và những con ểnh ương lại xuất hiện. Những buổi chiều mưa rơi, Búm ngồi trên hiên nhìn ra sân thấy cóc nhái nhảy lụp bụp, và tiếng ùm oang của ểnh ương vang lên từ những bờ ao bên cạnh lùm tre làm lòng Búm buồn vời vợi. Cả một năm trời vắng bóng nhưng đến khi sắp vào mùa Đông, những cơn mưa đổ xuống suốt ngày đêm là loài ểnh ương lại bắt đầu sinh nở. Thân hình trơn lu, màu vàng có những sọc đen chen kẻ chạy từ đầu đến đuôi, không biết từ đâu mà nó nổi lên đầy bờ ao. Để rồi những chiều mưa đổ, nó phình hông lên to tròn như quả bóng, và cứ ùm oang, ùm oang, nó kêu gọi như gọi tên ai, nghe não nề! oài ểnh ương có lẽ chỉ để gieo nỗi buồn cho nhân thế! Vì nó chỉ sinh ra và sống trong ao hồ trong những ngày tháng âm u, buồn bả của mùa Đông; Có lắm lúc nó chui vào chiếc nón sắt và gọi tên Đương những đêm giá lạnh buồn tênh. Trời bây giờ sang Đông. Nhà ông bà Thi cũng như mọi người nông dân trong làng, chỉ biết ngồi trong nhà nhìn mưa rơi hết ngày này qua ngày nọ. Không gì làm nên Búm cùng người chị lấy nếp ra rang và giả cớm để gia đình sum họp, nhai ngoáp ngóep cho vui miệng những chiều gió Đông. Có lẽ cớm nếp chỉ được làm vào dịp mùa Đông (những mùa khác bận rộn đâu còn nhàn rỗi để giả cớm!) Những buổi sáng mùa Đông giá buốt Búm lại cùng mấy đứa em dậy thật sớm ra bờ tre tìm nhổ nấm tre. Những chiếc nấm mới lú lên từ gốc tre già, chóp nấm màu xám nhưng thân nấm lại trắng nên dể phát hiện. Nấm tre thường mọc thành đám. Nhiều khi tìm được vài ổ nấm là Búm có cả một rổ nấm rồi! Rồi Đông cũng qua đi, Xuân đến và Búm cũng lớn thêm một tuổi. Sự sống ở nông thôn lại bắt đầu chu kỳ mới. Những thửa ruộng được cày, cuốc lên, trâu bò mang ra kéo bừa cho đất nhuyễn ra. Khi những luống mạ xanh um, cao chừng vài gan tay là mùa cấy lại bắt đầu. - Con có phải đi cấy không me? Búm hỏi. - Sống ở miền quê không đi cấy lấy gì ăn con. - Hồi nào giờ con có đi cấy đâu mà biết. Búm ái náy khi nghĩ đến giẫm chân xuống những đám ruộng bùn lầy. - Thì con phải ra ruộng học như mọi người khác vậy đó. Bà Thi nhìn con với đôi mắt ân cần. Hôm sau Búm đội chiếc nón lá ra đồng cấy lúa. Từ chiều hôm trước ông Thi đã chặt bờ sạch sẽ, xong cày và bừa thửa ruông thật nhuyễn. Sáng nay nhìn thửa ruộng bình yên không một gợn sóng như mặt hồ lặng gió. Rồi những người nông dân gánh những bó mạ rãi thành hàng trên đám ruộng. Búm cùng những người thợ cấy xăng quần lên khỏi đầu gối, để lộ làng da trắng như ngà, và lội xuống ruộng. Búm bước những bước chân lệch lạc trong bùn lầy đến lấy bó mạ, bất chợt nàng thấy những con vật đen, dài, đang bơi ngạo nghễ bên cạnh bước chân, Búm ré lên và lật đật trèo lên bờ. - Cái gì vậy Búm. Tím hỏi. - Con đĩa, con đĩa ghê quá. - Trời ơi! đĩa thì bắt ném đi, làm gì mà em la như bị ai ăn trộm aí tình vậy. - Cái này còn hơn bị ăn trộm nữa, ghê quá! Chị lại đây đi. Búm đứng trên bờ nhìn những con đĩa bơi lội trong nước mà rùn vai, lắc đầu. Nàng đứng thun người lại, nhìn chăm chăm xuống ruộng như sợ những con đĩa bò lên bờ để bu vào chân nàng không bằng. - Điệu này làm sao em đi cấy được đây. Tím nhìn Búm với đôi mắt thương hại. Búm vẫn đứng trơ người trên bờ ruộng. Một hồi nàng thò tay vào túi lấy chiếc khăn tay. Búm vừa thọt tay vào thì thấy vật gì trơn và lạnh trong túi, nàng liền rút tay ra. Bàn tay vừa ra khỏi túi áo Búm lại ré lên, một tay nắm lấy Tím, người ưỡn ra và tay kia chỉ lên bụng, miệng thì la ú ớ. - Cái gì vậy, Tím hỏi, cái gì mà em la lên nữa vậy. - Con đĩa, … - Đĩa ở dưới ruộng thì mắc mớ gì mà em sợ dữ vậy. - Không. Nó trong …trong túi …trong túi áo em nè. Bắt nó …dùm đi. - Làm sao đĩa lại chun vào túi áo em. - Không biết. - Đưa đây chị bắt ra cho. Tím thò tay vào túi áo Búm và lôi ra một lượt ba bốn con đĩa to bằng đầu chiếc đủa con! - Ác nhơn, ai ác nhơn quá vậy!? Búm xé tan túi áo vứt xuống ruộng, giọng nói run lên và mặt cắt không được giọt máu! - Sáng giờ em đi với ai ra đây? Tím hỏi. - Băng. Em đi với Băng ra đám mạ. - Em nhớ rồi, Băng chứ không ai hết. Nó nói túi áo em dơ quá để nó lau dùm cho em. Nó đâu mất rồi, em phải đi tìm Băng mới được. - Nó đứng cười nhăn răng đằng kia kìa. Tím chỉ tay về chỗ Băng đứng. Búm vội chạy đến chỗ Băng. - Tại sao, tại sao em ác quá vậy? - Ai biểu đi Đà Lạt về mà không mua quà cho tui, còn bảo Tím không giặt đồ của tui nữa. - Quà của em chị mua rồi sao nói không, tại suốt ngày em lo đi bắt chim nên mấy đứa kia nó lấy ráng chịu chớ. Em quá trời nghe hong, chị về nhà méc cha cho biết. - Không sợ. Búm ngoe ngoãi đi một mạch về nhà. Vừa đi nàng ngoái đầu lại: - À, mi đâu có sợ ai, nhớ đó nghe hong. Chiều tối về, cả nhà ông Thi ngồi vào bàn ăn: - Cha, Băng nó bắt đĩa bỏ trong túi áo con. Búm nhỏng nhẽo với ông Thi. - Vậy hả, thì con bắt bỏ ra, ba con đĩa mà nhằm nhòi gì. Thằng nhỏ đó nó lộn ngược đĩa ra nó phơi nắng hoài có sao đâu. - Nhưng con sợ đĩa. - Ông ngồi đó mà nói, bà Thi nhìn ông Thi, thằng nhỏ bắt đĩa nhát con Búm sợ muốn đứng tim và nó bỏ cấy đi về nhà từ hồi sáng giờ đó. - Vậy hả, thằng nhỏ đó đâu rồi, sao không thấy ra ăn cơm. Ông Thi hỏi. - Nó nói nó không sợ cha đâu. Nó trốn rồi. Gương mặt Búm sáng ngời lên. - Thôi chuyện đó bỏ qua đi, bà Thi nói. Me thấy con làm nông không xong rồi. Ngày mai con khỏi đi cấy lúa nữa. Cha sắp nhỏ phải tìm cái gì cho con Búm nó làm đi. - Me cho con đi học may đi me. Búm reo lên. - À, được đó. Con lên tiệm con Linh học may đi. - Linh nào me? Búm vui mừng. - Linh con bà Hạt đó. Thế là xong, từ nay Búm sẽ không còn nhìn thấy những con đĩa xấu xí kia nữa. Lòng nàng rộn lên một niềm vui, âm thầm bỏ đủa xuống và rời bàn ăn, đi tìm Băng. __________________ Món ăn bốn mùa của dân tộc Chăm Đào thị Thanh Tuyền Món ăn dân dã của người Việt Nam rất nhiều, những món ăn đặc trưng cho vùng miền thường gắn với giọng nói cũng đặc trưng của vùng miền đó. Tỉ như người miền Nam có món ba khía, người Huế có cơm Hến, người Bắc ăn mắm tôm, người Trung ăn mắm ruốc, người Nam có mắm thái …. Riêng việc các loại rau ghép vào món ăn cũng làm nên những câu chuyện đặc trưng cho khí hậu, thổ nhưỡng từng vùng miền đất và cả sự phát triển lịch sử, văn chương từ đó hình thành nên những câu ca dao, tục ngữ, các làn điệu dân ca… Bên cạnh các món ăn vùng miền, các món ăn đặc trưng của các dân tộc Việt Nam cũng muôn vàn. Mỗi một cộng đồng cư dân đều có cách ăn, uống khác nhau, phản ảnh kinh tế, xã hội của dân tộc đó. Đặc biệt, món ăn của các dân tộc, ngoài vị ngon qua cảm quan, bên trong bản chất các món ăn còn là những bài thuốc. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Sử Văn Ngọc, mùa nào thức ấy, mỗi mùa có món ăn riêng là quan niệm về văn hoá ẩm thực của người Chăm. Người Chăm cho rằng cơ thể con người phát triển theo mùa , đối với họ món ăn không chỉ là cung cấp dinh dưỡng mà còn là những vị thuốc giúp cơ thể chống lại những bệnh tật phát sinh theo mùa. Người Chăm ít trồng rau mà chủ yếu dùng cây lá trên rừng thay rau. Rau rừng là vị thuốc . Một đặc trưng nữa là người Chăm chỉ tuần túy hai món nướng và luộc , họ ít chuộng chiên xào . Phải chăng đó cũng là một bí quyết giữ gìn sức khoẻ bởi tránh ăn nhiều dầu mỡ? Vào mùa hạ , cây rừng nảy đọt non . Mùa gặt hái cũng đã xong , món ăn chủ lực lúc này là chuột đồng . Trên rừng có đọt lim (vị chát). Chuột đồng ăn với đọt lim giống như người Việt có “công thức” thịt trâu nấu lá bầu . Nếu không có đọt lim thì thay bằng rau giừng là một loại rau mọc ở bờ suối . Chuột đồng chọn con mập mạp bỏ rơm và thui cháy xong lột da , đặc biệt phải làm kỹ (lấy gan để riêng). Thịt băm nhỏ rồi xào chín có ít nước để chấm rau là đọt lim hay rau giừng. Tuy nhiên vẫn chưa ngon bằng món chuột đồng đơn giản chỉ là ướp nước mắm và nướng . Để dành làm “lương khô” nướng ăn dần , họ ướp muối phơi khô. Riêng gan và đầu còn chế biến được một món xào nữa , món này đặc biệt thưởng thức riêng (nhắm rượu). Vào mùa thu , trời có mưa là mùa giông hay ễnh ương . Đơn giản thôi, ễnh ương trụng nước nóng già , lấy gan ra (có người không lấy) chặt khúc nấu canh chua . Đồ màu nấu chua đơn giản chỉ là lá me. Nếu xào cũng xào với lá me. Con giông hay ễng ương còn được chế biến bằng cách ướp sả , ớt rồi nướng hay phơi khô để dành nấu canh . Thịt giông ngon nhất là trụng qua nước sôi , làm sạch rồi băm nhỏ trộn với đọt cóc chua , cóc hành hay rau ngạnh làm gỏi . Thịt giông nấu chua với lá me cũng rất ngon . Đến mùa cày cấy (xuống đồng, lúa non) , lúc này là mùa cá đồng , cá lòng tong. Cá lóc , cá trê, cá rô … nấu chua; cá lòng tong kho khô (hơi mặn) . Rau càng cua mọc đầy dưới ruộng , cắt về ăn thay rau sống. Mùa này cũng còn nhiều thứ rau khác ngoài ruộng như rau sam , rau muống… Những loại rau này đều dùng ăn sống. Vào mùa lúa trổ đồng , cá to, cá nhỏ nhiều lúc này là mùa làm mắm cá đồng. Họ cũng làm các loại mắm kiểu giống như mắm thái người miền Tây . Người Chăm quan niệm cây tất cả những loại “rau” ăn được đều là bài thuốc . Tỉ như món “mắm cái, cà cỏ” – là một loại cà dại , mọc hoang (giống như cà pháo) khi chín trái màu vàng , rất dai. Để thưởng thức món này phải nhai kỹ, chậm rãi, đặc biệt loại cà này là một loại thuốc chữa giun sán. Lá me là loại “rau” chủ lực của người Chăm, do đó ngày xưa hầu như nhà nào cũng trồng một cây me , mục đích cung cấp gia vị cho bốn mùa (lá, trái), vô tình đây cũng chính là bài thuốc giúp họ chống lại bệnh tật (nguồn cung cấp vitamine C) . Do ăn rau rừng , rau đồng ruộng (không phải gieo trồng) là chính nên “nghề”của người phụ nữ Chăm là phải biết rau nào ăn được rau nào không . Sử Văn Ngọc cho rằng : chế độ mẫu hệ của người Chăm rất đáng trân trọng. Người đàn bà tượng trưng cho đất , con người từ đất mà ra và cuối cùng cũng đều về với đất . Người phụ nữ là mẹ , là nhà , là lòng bao dung, sự vỗ về, che chở; những gì êm ái nhất của cuộc đời , là những gì quý giá nhất của cuộc sống. Người Chăm có lễ Chabbul là lễ tế thần đất , mà dân gian quan niệm là lễ tế mẹ , họ cầu xin thần Đất ban sự sống cho con người và muôn loài. Người Chăm rất kỹ càng trong việc ăn uống đối với thai phụ . Họ quan niệm chăm sóc và giáo dục con cái phải từ trong bụng mẹ , tháng thứ mấy ăn thức ăn nào để sinh con được tinh khiết, thông minh… Người Chăm không ăn thịt sống , tiết canh . Đối với người thầy cúng chế độ ăn uống phải kiêng cữ tuyệt đối Vào mùa đông , thức ăn phải đảm bảo hai gia vị : chua và cay. Và đến tết , những món ăn trong lễ hội chủ yếu là các món luộc: gà luộc , dê luộc … Thịt xé ra và lấy nước hầm nấu súp (có lá me) . Đặc biệt thịt luộc phải chấm muối ớt thật cay mới ngon. Nhớ quê, nhớ cả cơn mưa đầu mùa Diễm Trang - Xa quê đã nhiều năm, nhưng cái cảm giác đi chân trần trong mưa, ngắm mưa bên khung cửa sổ, hay lắng nghe cái âm thanh quen thuộc của chiều mưa đầu mùa... vẫn không nguôi trong lòng tôi. Nó thổn thức, bồi hồi pha lẫn niềm nhớ quê khôn tả sau bao năm trời xa cách. Em đi bắt ếch chiều nay Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu Râm ran suốt cả buổi chiều Nghêu ngao em cũng hát theo một bài Hồi ức lại bài thơ quen thuộc cái thời học lớp một… cả quê hương chợt ùa về trong tôi. Nào là con đường mòn quanh co như sợi chỉ nối liền hai xóm nhỏ, nào là đôi hàng cỏ dại ven đường vương vấn bước chân quen; nào những ngõ trúc hàng tre lao xao, rì rào trong gió hát bài ca quê hương muôn thuở; nào những cơn mưa đầu mùa làm dịu bớt cái nóng oi ả giữa tháng 4 của trời Tây Nam Bộ. Xa quê đã nhiều năm, nhưng cái cảm giác đi chân trần trong mưa, ngắm mưa bên khung cửa sổ, hay lắng nghe cái âm thanh quen thuộc của chiều mưa đầu mùa... vẫn không nguôi trong lòng tôi. Nó thổn thức, bồi hồi pha lẫn niềm nhớ quê khôn tả sau bao năm trời xa cách. Quê tôi miền đồng ruộng, biển lúa mênh mông thẳng cánh cò tỏa mình quanh những ngôi làng bé nhỏ. Xung quanh nhà tôi chi chít những ao, đìa xen lẫn nhiều loài cây cỏ dại mọc ven bờ. Ao phần nhiều là do con người dùng sức vét nên, còn đìa hầu hết là do bom pháo của chiến tranh để lại. Phía sau nhà thoai thoải rặng trâm bầu trải dài từ đầu ra cuối ngõ, sau lưng chúng là những thửa ruộng ngút ngàn tầm mắt. Nhớ những cơn mưa đầu mùa, lượng mưa nhiều từ trên những tầng mây, như muốn nói hộ cỏ cây đang chuyển mình sang mùa mới, mùa xanh lá non tơ của những cây me, mùa đơm hoa đỏ rực của cây phượng già trước ngõ... Mưa lớn như thác đổ tắm sạch những mái nhà, đem nguồn nước mát lành nuôi lớn tâm hồn trong trẻo của em thơ. Sau cơn mưa, bầu trời lặng lẽ mây mù, ruộng đồng lênh láng nước. Những chú, những anh dắt mấy em thơ xách giỏ ra đồng bắt cua, bắt cá. Cua đồng mạnh khỏe, thịt chắc đem về ram mặn thì hết ý; những con rô, con trê cạo vảy làm sạch nấu canh với lá me non còn gì bằng. Giữa khí trời thoáng đãng sau cơn mưa, ngọn gió nồm chiều mát lạnh bên cạnh nồi cơm nóng, cua ram mặn với tô canh chua cá lá me non... sao tôi thèm nếm lại hương vị quê mình quá! Khi màn đêm buông xuống, những bản tình ca giao hưởng của đám ếch nhái, ễnh ương bỗng trỗi lên mãnh liệt trong ao đìa, cả ngoài đồng ruộng, là âm thanh đặc trưng của xứ ruộng đồng sau mỗi trận mưa đầu mùa. Tiếng ếch kêu ọp ẹp, tiếng nhái bù tọt lanh lảnh xen lẫn tiếng than oán não nùng của ễnh ương. Đêm nay, ngoài đồng như trẩy hội. Cánh mày râu trong xóm kéo nhau đi bắt ếch, nhái, cóc, ễnh ương tùy theo khả năng và lựa chọn của mỗi người. Những ánh đèn bình ác-quy mờ tỏ ngang dọc trên mặt ruộng, tiếng gọi nhau í ới giữa không gian trầm lắng buổi đêm, hòa cùng tiếng râm ran từ lòng ruộng làm nên một sân khấu sống động giữa không gian u tịch, tôn thêm vẻ huyền bí, chân quê của xứ sở này. Ếch xào lăn, cóc nhái kho xả, cháo ễnh ương. Các món ăn dân dã, tầm thường nhưng không phải nơi nào cũng có. Vả lại, ăn trong bối cảnh chiều đồng quê sau cơn mưa thì mới cảm nhận được hết ý vị của món ăn này. Giờ đây, ngồi nhớ lại thuở xa xưa, lòng tôi bỗng dưng xúc động bồi hồi khó tả, thoang thoảng đâu đây từ trong kí ức mùi món ăn đồng nội. Ẩn hiện trong tâm trí hình ảnh cậu bé chân trần mang trên vai chiếc giỏ đựng đầy ếch chiều nao, trên môi không ngớt hát bài ca vui mừng… Xì xụp cháo cóc miền Tây Thứ hai 14/11/2011 10:00 Cơn mưa chiều như xua tan đi cái nóng của mùa hè oi ả. Lũ côn trùng (mối kiến, muỗi…) bị động ổ bay lên tá lả. Thế là, lũ cóc nơi ruộng đồng tha hồ đi tìm mồi…. Và đây cũng chính là thời điểm người dân miền Tây đi săn lùng bắt chúng về để làm thức ăn hoặc mang ra chợ bán. Hàng năm, cứ vào mùa mưa, có dịp về xã Long Tuyền (TP.CầnThơ) trong những đêm mưa bạn sẽ được mục kích cảnh từng tốp thanh, thiếu niên xách đèn, đeo giỏ đi trên bờ vườn hay trên bờ ruộng để soi cóc. Họ âm thầm đi trong mưa, tai chú ý lắng nghe âm thanh của các “nhạc sĩ đồng quê” trỗi lên để đoán nơi “cóc hội”. Chỉ cần một vệt sáng đèn lướt qua, ta sẽ bắt gặp từng cặp đang say sưa “tình tự” với nhau. Khi gặp ánh đèn, chúng bị lóa mắt, cố nhảy chồm chồm để thoát thân. Thế là, chỉ cần “chộp” nhẹ cho vào giỏ. Trong một buổi “hội lớn”, nếu gặp may, một người đi soi cần mẫn và có kinh nghiệm có thể bắt được hàng trăm con trở lên.... Thịt cóc ngọt, thơm, ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. eo Đông y, thịt cóc có vị mát, trị được nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh suy dinh dưỡng của trẻ em. Theo Tây y, thịt cóc giàu chất đạm và những khoáng chất khác như: chất béo, mangan, kẽm, và axit amin…. Thịt cóc chế biến được nhiều món ăn ngon như: chiên giòn, nướng mọi, nấu cháo, chà bông... Riêng, món được mọi người ưa thích hơn cả là cháo cóc đậu xanh. Cóc bắt về lựa những con “bự” có màu đen (cóc vườn), hay màu vàng (cóc ruộng), trên lưng có nhiều mụt, chân mập, mắt sáng... Dùng dao bén chặt đầu, lột da . Cắt bỏ chân và toàn bộ “đồ lòng“ (gan, mật, ruột, trứng...). Rửa thật kỹ nhiều lần qua nước lạnh cho sạch. (Lưu ý: không để sót phần trứng và mật cóc).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top