Một thời để nhớ-Lenghiabk05

Ký ức Tết một thời gian khó

.

Điều lo lắng nhất của mỗi gia đình khi Tết đến gần là làm sao mua được hết các tiêu chuẩn gạo, thịt và “tiêu chuẩn Tết”. Tiêu chuẩn Tết cũng chẳng có gì nhiều: một hộp mứt thập cẩm đồng loạt cho cả nước, đựng trong cái hộp bìa mỏng manh xấu xí, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng, hình như mỗi người được thêm lạng thịt và cuối cùng là một bánh pháo tép. Xếp hàng ở các ở các loại cửa hàng khác nhau mua cho hết các tiêu chuẩn là nỗi lo lắng đầu tiên và lớn nhất của mỗi gia đình khi Tết đến.

Bánh chưng là nỗi lo lắng thứ hai. Bánh chưng hồi đó rất quan trọng, là một món ăn ngon được chờ đón và là chủ lực trong mấy ngày Tết. Khách đến chơi cũng mang bánh chưng ra mời và nhà nào “có khả năng” (từ chỉ nhà giàu) gói được cái bánh chưng ngon, nhiều đậu, thịt thì rất tự hào và là chủ đề bàn tán cho bạn bè, khách khứa trong nhiều ngày sau đó. Hồi đó không có ai làm bánh chưng để bán và một gia đình thì cũng không thể làm cả một nồi bánh chưng. Vì vậy thường là mấy gia đình chung nhau luộc một nồi bánh chưng. Bánh nhà ai nhà nấy gói, đánh dấu riêng, chiều 29 mang đến một nhà có sân, có một cái nồi to (hoặc mượn ở đâu đó), bắc bếp củi lên nấu và thay nhau canh suốt đêm, đến sáng hôm sau thì chín. Mãi sau này, khi "kinh tế thị trường" bắt đầu phát triển, mới có các cửa hàng bán nước sôi nhận luộc bánh chưng thuê vì họ có sẵn nồi và bếp than. Bây giờ chắc nhiều bạn trẻ không thể hình dung ra được những cửa hàng bán nước sôi, nơi có một bếp than và cái nồi nước sôi sùng sục suốt ngày có vòi ở dưới, khi cần bạn có thể xách phích ra mua một phích nước sôi về dùng.

Vì thế mà bận rộn nhất mấy ngày giáp Tết là chuẩn bị gói bánh chưng. Mua lá dong, rửa lá, thái thịt rồi ướp nước mắm, hạt tiêu, ngâm và đãi đậu xanh. Tôi đã từng có những buổi sáng ngồi còng lưng đãi đậu xanh cho thật sạch vỏ, rồi lại ngồi gói. Bao giờ cuối cùng cũng vét chỗ gạo, thịt đậu còn sót làm một hai cái bánh dậm nho nhỏ để ăn ngay sau khi vớt từ nồi ra (các bánh to phải để cúng, không được ăn).

Ngoài tiêu chuẩn Tết chính thức của nhà nước cho, các cơ quan bao giờ cũng cố gắng lo thêm cái gì đó cho cán bộ, nhân viên. Phòng Hành chính hoặc phòng Đời sống (có cơ quan có hẳn thứ phòng này chuyên lo tìm kiếm mua bán các loại hàng hóa quanh năm) tỏa đi khắp nơi, liên hệ với mọi mối quan hệ để mua lợn, bò, gạo nếp, thuốc lá. Tôi nhớ có năm, cơ quan lo được cho mỗi phòng một con lợn sống. Ngày 29 Tết cả cơ quan nhộn nhịp chọc tiết làm thịt lợn. Lợn làm xong được chia ra thành từng phần theo số người trong phòng, cả thịt, xương phải tương đối đều. Sau đó bắt thăm cho công bằng, phần ai người đó bỏ vào túi nilông, lòng lợn và tiết canh thì làm bữa liên hoan cuối năm. Không khí rất nhộn nhịp vui vẻ và đầm ấm khác hẳn không khí cơ quan bây giờ mặc dù lĩnh thưởng Tết tiền triệu. Đến lúc chia tay, xe đạp người nào cũng đeo lỉnh kỉnh túi thịt, túi gạo ra về.

Một việc nữa cũng quan trọng, phải lo là chuẩn bị cái xe đạp để đi chơi Tết. Thanh niên ngày ấy hầu như ai cũng biết sửa xe đạp. Trước mấy ngày Tết, ngả cái xe ra, tháo tung các ổ bi, rửa dầu hỏa sạch sẽ rồi lắp vào, bôi đầy mỡ mới. Nan hoa, ốc vít được kiểm tra, siết chặt lại kỹ lưỡng. Xích thì tăng lên cho nó khỏi chùng. Các thứ hỏng hóc khác cũng được sửa kỳ hết. Sau đó lau sạch sẽ toàn bộ xe, cái khung xe bằng sắt đã long sơn và rỉ hoen thì chỉ có mỗi cách là dùng dầu hỏa lau, trông nó cũng bong bóng lên một ít. Cái xe hồi đó là cả một tài sản và công cụ không thể thiếu nên được chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Có người "đi làm nhà nước" gần hết đời mới được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp mà phải qua một đợt bình bầu, xem xét rất kỹ lưỡng.

Cả Hà nội hồi đó chỉ có một chợ hoa hàng Lược. Nhà nào cũng cố mua lấy hai cành đào: cành to thì cắm ở chỗ tiếp khách, cành nhỏ cắm trên bàn thờ. Chiều 30, đàn ông con trai thì lo dọn dẹp lau nhà cửa (được cái nhà hồi đó cũng hẹp chỉ 20m2 là to nên dọn cũng nhanh), phụ nữ thì lo làm cỗ cúng. Hai mâm cỗ cúng tối 30 và sáng mùng một không bao giờ bỏ được.

Tiêu chuẩn vải cả năm hình như chỉ mỗi người 5 mét. Vì vậy thanh niên bao giờ cũng để dành đến Tết mới bắt đầu diện. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác sau khi dọn dẹp nhà cửa xong xuôi, bắt tay vào là bộ "củ" (từ dùng để gọi bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất). Chắc chắn là chúng tôi là cẩn thận, nâng niu và mất thì giờ hơn bây giờ nhiều. Cái quần kaki thôi nhưng phẳng lỳ, ly quần sắc như dao cạo! Những cái bàn là thời Pháp cũ, băng sắt nặng chình chịch, rải vỏ chăn ra để quần áo lên trên mà là, không có cầu là như bây giờ. Đôi dép nhựa Tiền phong nếu được mua trong năm cũng phải để dành đến Tết, còn nếu không trước Tết phải kiểm tra lại, gia cố những chỗ sắp bị đứt. Hà nội có hồi nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, đồng phục của cả nước (trước đó thì là dép cao su). Giầy thì chỉ có cán bộ cao cấp, ngoại giao hoặc những anh đi Tây về mới có.

Phải nói là cái thời gian khổ ấy lại có rất nhiều cảm giác sung sướng. Vì thiếu thốn mọi thứ nên khi có được cái gì là sướng đến hàng tháng!!! Cái bữa ăn tối ba mươi được cả nhà hồi hộp chờ đón và ăn rất ngon lành. Vì quanh năm ăn uống có gì đâu, thiếu chất nên cảm giác đói triền miên. Ngồi trước một mâm cỗ có thịt gà rán, thịt gà luộc, bánh chưng, bát bóng, bát măng, trẻ con người lớn mặt mày đều rạng rỡ. Đến giờ, ngay cả khi dự những bữa tiệc rất thịnh soạn và đắt tiền trong các khách sạn 5 sao, tôi không bao giờ có được cảm giác ăn ngon như ngày ấy nữa. Phần do tuổi tác nhưng tôi chắc các bạn trẻ bây giờ cũng không có được cảm giác ăn ngon như chúng tôi ngày xưa trong một bữa cỗ.

Cái cảm giác sung sướng nữa mà tôi còn nhớ là khi ăn xong bắt đầu đóng bộ đi chơi. Khoác cái áo sơ mi vải pôpơlin, cái quần kaki mới là xong hồi chiều,... vào thấy người khác hẳn, "nhớn" hẳn lên, đẹp trai hẳn lên, tự tin hẳn lên nhưng đi đứng thì rón rén vì sợ làm mất nếp quần áo! Bây giờ, mặc cái sơ mi Pierre Cardin 500 000đ, bộ comple gần chục triệu cũng thờ ơ không sướng được như hồi ấy.

Cả Hà nội tối ba mươi đổ về quanh hồ Hoàn kiếm là chỗ đi chơi duy nhất. Pháo nỗ râm ran suốt từ 7,8 giờ tối. Tiếng pháo nổ và mùi khói pháo cùng với mùi hương là những cái tạo nên không khí đặc thù ngày Tết chắc chắn sẽ phải khôi phục lại. Không có tục hái lộc nên cây cối không bị phá phách như bây giờ. Cũng không có ca nhạc, hàng quán gì quanh hồ, chỉ đi và ngắm nhau thôi. Mà cũng có gì lạ để ngắm đâu. Quần áo, giấy dép, xe cộ hầu như mọi người đều giống nhau chỉ có vài ba loại. Vì Hà nội thời đó vắng nên tuy người đổ về đông nhưng gửi xe, đi dạo cũng không chen chúc, chật chội gì.

Ba ngày Tết chỉ đi thăm nhau là chính. Mồng một là họ hàng, các ngày sau là bạn bè. Tuyệt đối không có lệ biếu xén trước Tết (mà cũng chẳng xoay đâu ra cái gì mà biếu). Đi chơi thăm hỏi nhau cũng thoải mái đầu óc vì cả nước hoàn cảnh sống như nhau, chẳng phải đố kỵ, tủi hờn gì trước cảnh thành đạt, giàu sang của người khác.

Ngày đầu tiên đi làm cũng dành chúc Tết và kéo nhau cả phòng đi thăm từng nhà một. Mà toàn đi bằng xe đạp. Có bao thuốc Tam đảo được phân phối trước Tết cũng để dành nguyên trên bàn thờ để sau Tết tiếp khách cơ quan. Tình cảm đồng nghiệp trong sáng vô tư, giúp được gì nhau là giúp. Vì hồi ấy, trưởng phòng cũng không hơn nhân viên được bao nhiêu, vị trí nào trong cơ quan thì cũng hưởng lương như nhau chẳng có lộc lá gì. Do đó mà âm mưu, thủ đoạn, đố kỵ, tranh giành không có đất mà phát triển. Những chuyện lặt vặt thì tất nhiên là có, nhưng không có những vụ dữ dội như bây giờ.

Tôi còn có một kỷ niệm sâu sắc về Tết những năm chiến tranh. Hồi đó các trường đại học sơ tán về nông thôn. Tôi không ở nhà tập thể của lớp mà tìm vào trong xóm xin ở nhờ nhà một người dân. Cần phải nói rõ "ở nhờ" đây đúng nghĩa là "nhờ": không tiền nong, quà cáp gì hết, chỉ có tấm lòng người dân thương "các chú sinh viên" mà thôi. Gia đình tôi ở nhờ có đến tám người con mà cũng đâu có rộng rãi gì. Một ngôi nhà tranh ba gian hai trái nhỏ nhỏ. Họ dồn cả nhà lại nhường cho tôi một gian.

Tết năm đấy sau khi ăn Tết ở nhà lên, tôi được liên hoan với cả nhà một bữa. Bác chủ nhà trịnh trọng vào trong buồng bê ra một liễn mỡ, lấy đũa móc từ trong đó ra một miếng thịt đã rán chín khoảng nửa lạng và bảo: "Để phần chú suốt từ trong Tết đấy. Phải ngâm vào đây mới giữ được". Mà đã nói phần chú là của chú. Suôt bữa cơm tôi không sao bảo được bọn trẻ con ăn lấy một miếng. Bạn phải biết là dân thành phố thì còn có tiêu chuẩn thịt hàng tháng, nông thôn tuyệt đối không. Chất đạm hàng ngày của họ là con cá, con tôm bắt được trong ao, trong ruộng (không ai nuôi tôm, cá như bây giờ). Nhà có nuôi gà cũng chỉ dám giết thịt vào ngày giỗ. Cái miếng thịt lợn để phần tôi suốt hai tuần tôi nghỉ Tết ấy trích từ tiêu chuẩn của cả nhà, đến Tết hợp tác xã mổ lợn tập thể chia cho, phần rán lấy mỡ để dành cho cả năm, phần để ăn chắc cũng chỉ được hai bữa Tết. Mà nhà họ tám đứa con lít nhít, thiếu ăn, gầy còm. Miếng thịt nhỏ bé, bình thường ấy nặng hơn cả núi.

Còn nhiều những chuyện khác đại loại như thế làm cho tôi, một người Hà nội gốc, các cụ đã nhiều đời ở Hà nội, đến bây giờ vẫn giữ trong tâm khảm sự kính trọng vô bờ bến với những người nông dân chân chất, hiền lành nhưng có một nhân cách và tình người không gì sánh được.

Kể lể chuyện ngày xưa như vậy, không có nghĩa là tôi bảo bây giờ toàn những điều xấu xa cả đâu. Gần đây, tôi có một việc liên quan đến nhiều người giải quyết. Và tôi đã sửng sốt khi phát hiện ra rằng giữa cái thời buổi đồng tiền ngự trị khắp nơi này vẫn còn khá nhiều người tốt, sống và làm việc theo lương tâm. Cái tốt bây giờ khó khăn hơn cái tốt ngày xưa, nhất là với giới công chức: vì làm điều tốt bạn có thể phải chịu tai tiếng oan, gánh nhiều điều phiền toái, bị mất nguồn thu nhập,.v.v. và v.v

Một thời máu và rau

QĐND - Thứ Sáu, 20/04/2012, 10:40 (GMT+7)

QĐND - Sau chuyến đi vùng cao, một người bạn đem về làm quà cho tôi một bó rau rừng. Lẫn trong mớ rau mơn mởn ấy, có cả rau tàu bay quen thuộc với các thế hệ lính đã từng trải qua chiến tranh.

Thực ra gắn bó với người lính không chỉ có rau tàu bay, còn rất nhiều các loại rau rừng khác, đã giúp bộ đội vượt qua muôn vàn khó khăn thiếu thốn trong kháng chiến trường kỳ. Có thể bữa ăn không có thịt cá là chuyện thường tình nhưng không có rau mới khổ. Cho dù chỉ là mấy ngọn rau rừng. Vì thế, để có được mấy ngọn rau, đôi khi chúng tôi đã phải trả giá bằng máu.

Rau rừng, phong phú nhất là các loại có vị chua. Đợt hành quân vào tây nam Huế đầu năm 1975, anh em bắt được một mớ cá suối. Chúng tôi đi kiếm rau để nấu canh. Nhìn lên núi, phát hiện ra một cây quýt quả chín vàng rực. Hai chiến sĩ trèo lên, mò mẫm dưới những lùm cây. Phía dưới, đồng đội phải “xi nhan” mãi mới tới nơi. Thật thất vọng, ở dưới núi, nom cây quýt chỉ nhỉnh hơn cây quất cảnh bày ngày tết. Vậy mà, khi đến tận nơi, đó là một cây quýt “cổ thụ”. Không thể hái được vì cây quá cao, cành lại quá mảnh. Thôi đành thu hoạch kiểu con nhà lính vậy. Nghĩa là, đốn cả cây. Bữa ấy, cả đại đội ăn canh chua thỏa thích. 

Sau rau chua là rau tàu bay, rừng nào cũng sẵn. Tiếp đến là môn thục, mọc nhan nhản dưới suối. ăn chẳng có vị gì, như cỏ vậy. Nếu may mắn vớ được một cây chuối rừng thì tuyệt. Hoa, thân và cả củ đều ăn được. Mà nó gợi lại món ăn dân dã quê nhà, thật thú vị. Hoặc gặp một cây mít rừng cũng có thể ăn tất, chỉ trừ vỏ. Nhưng ngon nhất phải kể đến ngọn của cây móc. Lá như lá cây đùng đình. Tước hết những chiếc bẹ lá, còn lại một đoạn non sát ngọn, ăn giòn và ngọt. Có thể ăn sống được. Hoặc kiếm được chút măng rừng thì miễn bàn.

Hồi ở Hà Tĩnh, một lần tôi được cử đi lấy rau. Một hợp tác xã nào đó cung cấp cho đơn vị một ít rau muống. Từ cánh rừng đóng quân đến nơi lấy rau mất đúng nửa ngày đường. Việc đầu tiên, chúng tôi luộc ngay một bó, chén một bữa nhớ đời. Nhưng lúc về mới thật là gay. Bụng đã nặng mà rau còn nặng hơn. Là lính “cày đường nhựa”, tôi có biết gánh gồng là gì đâu. Đã thế, cái đòn gánh là khúc tre sần sùi như răng cá sấu, cứ vô tư nhai đôi vai gầy của chàng thư sinh. Có đoạn mương nước chảy xiết, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến: Thả hai bao tải rau xuống mương cho nó tự trôi, còn tôi đi trên bờ. Nhưng chỉ được hơn một cây số, mương chảy theo hướng khác. Tôi đành phải vớt hai bao tải rau lên. ôi thôi, trọng lượng của nó đã tăng lên bội phần. Gần nửa đêm tôi mới về đến đơn vị, đôi vai thì chảy máu, dính bết vào quân phục, mãi mới lành.

Vào Quảng Trị chiến đấu năm 1972, hậu cần càng khó khăn hơn. Một lần, tại căn cứ ái Tử, bên đống rác khổng lồ, tôi thấy vương vãi một ít cuộng rau muống, nửa xanh nửa vàng. Cái phần vứt đi khi ta nhặt rau ấy, đã giúp chúng tôi có một chút canh cũng ấm lòng .

Tiếp đến là những ngày nằm trong chốt An Tiêm, chợ Sải rồi Thanh Hội. Đêm đêm, anh nuôi lại đem vào cho chúng tôi một ít rau bầu đất. Cái loại rau dại này ăn vừa cứng vừa nhơn nhớt, mùi vị thật khó chịu. ấy vậy mà, không ít chiến sĩ đã đổi mạng trên đường vào chốt tiếp tế cho anh em.

Những hôm chốt trong vườn chuối có khá hơn. Rau dền rất nhiều. Đục hai lỗ bên mép của một chiếc vỏ hộp dầu đậu nành, tôi buộc một đoạn dây thép vào. Thế là có một chiếc xoong dã chiến. Chất đốt là vỏ nhựa của những quả đạn cối 82mm, chẻ nhỏ. Nằm trong hầm chữ A, bỏ một nắm rau vào lon dầu, tôi kiên nhẫn đốt từng thanh nhựa chờ rau chín, cho một ít mì chính vào, ăn với cơm nắm cũng dễ nuốt hơn nhiều so với chút muối rang. Có ai dám lên mặt đất đâu, mất mạng như chơi. 

Đầu xuân năm 1975, chúng tôi tham gia chiến dịch giải phóng Huế -Đà Nẵng. Ngày 26-3, từ An Cựu, đơn vị được lệnh cùng các sư đoàn bạn, tiếp tục truy kích địch đang tháo chạy ra cửa biển Thuận An. Đã 7 ngày tham gia chiến dịch, ăn uống thất thường. Tiểu đội gắng gượng tiến quân trên những dải cát dài. Quân trang, quân dụng của địch vứt ngổn ngang. Bắt gặp một ngôi nhà nhỏ ven đường, tôi cho anh em vào nghỉ tạm. Trước sân nhà là một mảnh vườn nhỏ, mấy luống cải củ xanh mướt khiến cả tiểu đội không rời mắt. Dồn lại được hai phong lương khô, tôi đề nghị ông chủ đổi cho một ít rau. Chủ nhà ngơ ngác mãi mới hiểu. ông ta nói:

 - Chẳng tiếc mấy chú chi mô. Nhưng các chú có ở lại hay lại ra đi như năm Mậu Thân? Cha tui đi tiếp tế cho quân Giải Phóng nên phải chịu cảnh tù đày…

Vì cái màu xanh ngăn ngắt của những luống cải kia, chúng tôi cứ hứa bừa với ông là sẽ ở lại mãi mãi. May sao, lời hứa ấy sau này thành sự thực.

Mươi ngày sau, tiểu đoàn đóng quân tại sân bay Nước Mặn. Bên hàng rào kẽm gai có một bụi bí dại, những ngọn non mơn mởn của nó cứ vươn dài, rung rinh vẫy gọi trước gió xuân. Tôi ngắm những ngọn bí ấy mà thèm. Nhưng không đùa được. Hàng rào bảo vệ của sân bay quân sự, chắc chắn có mìn. Tiếc lắm, đành bấm bụng quay đi.

Mươi phút sau, một tiếng nổ tung trời. Ngoảnh lại, một chiến sĩ trẻ nằm vật bên hàng rào. Chân nát bét, máu chảy đẫm một vạt cát. Chiếc giày rách bươm văng đến gần mấy ngọn bí. Người đồng đội xấu số ấy kêu khóc thật thảm thiết. Tự dưng tôi thấy chóng mặt. Những ngọn bí như loài kỳ nhông đổi màu. Thoắt chuyển thành màu đỏ, cứ đỏ lòm…

Luộc nắm rau rừng bạn cho, tôi nhấm nháp cái vị đăng đắng xa xưa, cố tìm trong ấy chút dư vị ngọt bùi; nhấm nháp luôn cả những kỷ niệm của một thời trai trẻ: Máu và Rau.

Về Vàm Sát nếm rau bui rừng, cá rô biển

Ai đã từng ghé thăm rừng ngập mặn Vàm Sát (huyện Cần Giờ, TP.HCM) mà chưa nếm qua những món đặc sản riêng có của xứ này như rau bui, cơm nắm, cá rô biển... kể như chưa biết Cần Giờ.

Một trong những món thuộc hàng đặc sản, dân dã nhất và cũng "bắt" nhất là rau bui rừng luộc chấm nước mắm kho quẹt, ăn với cơm nắm và khô cá dứa chiên. Không biết có phải do lúc ấy chúng tôi đang đói rã người sau cả buổi sáng lang thang trong rừng đước, rừng tràm ngắm bầy dơi đu trĩu cành, chơi đùa với khỉ giữa rừng... hoặc mùi vị món ăn khá lạ miệng nên ai nấy đều gắp luôn tay, miệng xuýt xoa khen ngon.

Người dân địa phương bảo rau bui là loại rau mọc rất nhiều trong rừng ở đây, song nó không mọc chen giữa rừng rậm mà ở một khoảng rừng thưa ngập nắng. Người đi hái rau bui rừng chỉ cần ngắt một đoạn ngọn cỡ chừng gang tay là vừa ngon. Trong khay tre đựng đủ thứ rau vườn lẫn rau rừng, rau bui đã được phong là "ông hoàng" bởi mùi vị của nó thật khó tả, có một chút the the cay cay của rau kinh giới, một chút nhân nhẩn của khổ qua, một chút ngọt giòn của rau muống...

Càng tuyệt hơn nữa khi chấm rau bui luộc vừa tới xanh một màu tươi rói với một chút mắm kho quẹt dậy mùi mỡ hành, tôm khô và một vắt cơm dẻo thơm gạo đặc sản Cần Giờ.

Khô cá dứa tưởng chừng chỉ là món ăn giản dị của một bữa cơm dân dã thường ngày, song bỗng thành món ăn "sơn hào hải vị" khi được thưởng thức cùng với rau bui rừng, cơm dẻo. Chỉ đơn giản là chiên sém vàng một chút để miếng cá vừa đủ độ giòn, béo và đẩy hương vị rau rừng hoang dã lên tuyệt đỉnh. Thú vị nhất là những món ăn bình dân này đã được khu

du lịch

Vàm Sát đưa vào hàng món độc để khách từ xa tới có thể nếm hết mùi vị dân dã của một vùng nước ngập mặn ven ô có một không hai. Món ăn độc chiêu khác của rừng Vàm Sát, Cần Giờ là cá rô biển. Trông giống như cá rô phi thường bán nhiều ở các chợ, người dân vùng rừng ngập mặn bảo cá rô biển được câu ở vùng biển này. Điểm đặc biệt của món cá rô biển chiên xù của Vàm Sát là nó được chiên làm sao để con cá đứng được trên đôi mang dang rộng hai bên.

Ngư dân ở đây giải thích lý do con cá đứng như thế là từ tục lệ của dân miền biển là kiêng lúc ăn cá không lật ngược mình cá lại sau khi đã ăn hết phần nạc ở thân trên. Vì vậy, trông chú cá rô biển đứng thẳng ưỡn ngực trên đĩa rau sống xanh non thật ấn tượng và khác thường, dẫu chỉ là món cá chiên đơn thuần. Hương vị của cá rô biển hẳn nhiên cũng khác nhiều so với con cá rô phi mà ta thường mua ở chợ. Thịt cá rô biển trắng, dai, đậm đà vị muối thiên nhiên, quyện cùng rau sống thơm ngọt ngon tuyệt! 

Rẻo cao Thanh Hóa đói mùa giáp hạt - Bài 1: Quanh năm cơm độn sắn, ngô

Nhà đã hết gạo từ vài tháng qua, phải ăn sắn độn từ tháng này qua tháng khác. Mùa giáp hạt của bà con ở đây kéo dài hơn so với thời gian được ăn cơm trắng.

·

                                

Rẻo cao Thanh Hóa đói mùa giáp hạt - Bài 2: Nghèo đói và ma túy hoành hành

LTS

:

 Thủ tướng vừa quyết định xuất hơn 1.500 tấn gạo để cứu đói khẩn cho người dân Thanh Hóa trong mùa giáp hạt. Số gạo này đang được địa phương khẩn trương cấp phát đến từng hộ dân. Phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM đã đến vùng cực tây của tỉnh này, nơi hầu như mùa giáp hạt nào cái đói cũng diễn ra, để ghi nhận cái đói đang hoành hành ở đây.

Chánh Văn phòng UBND huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) Hà Văn Ca cho biết vào mùa giáp hạt này, xã nào cũng thiếu ăn nhưng gay gắt nhất là các xã trên rẻo cao như Trung Thành, Trung Sơn, Phú Sơn.

Những số phận khốn cùng

Con đường từ Co Lương đi Mường Lát qua địa phận các xã Trung Thành, Trung Sơn chỉ non trăm cây số. Không có đường ô tô, chỉ có thể đi xe máy và phải mất 8 tiếng. Đường đi dọc sông Mã lên dốc xuống đèo, ngồi trên xe như phi ngựa. Tôi chợt nhớ câu thơ Quang Dũng: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống…”.

Mặt đường rộng khoảng hơn một thước, có lúc chui vào vòm lá rừng âm u rậm rịt; có lúc bên trái con sông Mã dưới vực sâu ngoằn ngoèo như sợi chỉ, còn bên phải là núi cao dựng đứng; có lúc phải vượt sông suối bằng bè mảng.

Ông Vi Xuân Nhất, trưởng bản Pượn (xã Trung Sơn, Quan Hóa), cho biết bản này toàn người Thái, có 98 hộ, 100% là hộ nghèo. “Quanh năm chỉ có khoảng ba, bốn tháng là được ăn cơm độn (một phần gạo, 3-4 phần khoai sắn). Thời gian còn lại chỉ ăn sắn, bắp, củ, rau rừng và tháng này là tháng thiếu ăn nhất” - ông Nhất nói.

Ông Nhất dẫn tôi đến nhà ông Vi Văn Thúng, một gia đình đã ăn sắn tám tháng nay. Trong nhà, mùi ẩm mốc, ngột ngạt xộc vào mũi. Trong bóng tối, một người đàn ông chỉ mặc độc quần đùi đang ngồi co ro bên bếp lửa. Ông Nhất cho biết ông Thúng bị thần kinh đã hơn 20 năm nay, thỉnh thoảng lên cơn thì chẳng biết gì. Cách đây ba tháng, trong một lần lên cơn ông ngã vào bếp lửa. Khi gia đình phát hiện thì ông đã bị bỏng toàn thân. Nhà không có tiền chữa trị, vết lở loét cứ thế hành hạ ông, không đi đứng được. Bà vợ phải bồng bế ông kể cả khi đi vệ sinh. Trời lạnh giữa núi rừng thế mà ông không thể khoác gì lên người vì các vết lở loét gây đau đớn nên suốt ngày đêm ông phải ngồi bên bếp lửa. Nhà năm miệng ăn mà chỉ có hai sào nương, quanh năm chỉ nhờ vào gạo cứu đói của huyện. Hiện giờ gạo cứu đói cũng không còn, mỗi buổi chỉ ăn toàn ngô, sắn với muối.

Ông Nhất lại dẫn tôi đến nhà ông Hà Văn Khương. Nhà ông vách nứa, tuềnh toàng nằm trên con dốc dựng đứng. Ông Khương đã có thời đi bộ đội chiến đấu trong Nam bị nhiễm chất độc da cam, phục viên về làm công tác ở xã một thời gian rồi bỗng dưng bị câm điếc, phải ở nhà làm nương. Chất độc quái ác đã di chứng đến đời con ông. Cô con gái đã gần 30 tuổi nhưng cứ ngu ngơ như trẻ lên năm. Đã vậy, bà vợ trong một lần lên núi bị ngã vào đá gãy chân nên giờ đi lại rất khó khăn. Nhà có ba người ở tuổi lao động đều bị tật nguyền cả ba nên ngô, sắn thu hoạch chẳng được bao.

Cũng như nhà ông Thúng, nhà ông Khương chỉ trông chờ vào số gạo cứu đói ít ỏi của huyện. Tôi đến nhà lúc giữa trưa, bữa ăn được nấu từ hai ngày trước đựng trong cái gùi đen sẩm chỉ toàn sắn xắt nhỏ. Bên cạnh là một rổ măng rừng và một đĩa muối. Ông Khương lẩy bẩy bốc từng nắm sắn chấm muối nhai trệu trạo và nói: “Mấy món này cũng là đồ cứu trợ cả đấy”.

Giấc mơ một bát cơm đầy…

“Thế nguồn sống chính của dân bản là gì?” - tôi hỏi trưởng bản. “Bản mình cũng giống mấy bản quanh đây, ruộng lúa nước chỉ có mấy rẻo bên con khe, giữa hẻm núi. Trên sườn núi trồng ít ngô và sắn nhưng bản định cư lâu đời nên đất đã bạc màu rồi, thu hoạch chẳng bao nhiêu” - trưởng bản Vi Xuân Nhất trả lời.

Thế còn có nguồn kinh tế nào khác không?”. “Có đấy, cây luồng mọc rải rác dưới núi nhưng anh thấy đấy, không có đường ô tô vào thu mua. Ngoài đường 15 (quốc lộ 15 từ Hòa Bình qua Thanh Hóa đến Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị - PV) bán một cây luồng khoảng 30.000 đồng nhưng ở đây thỉnh thoảng thương lái vô mua chỉ được 5.000 đồng. Mua xong họ kết bè thả xuống sông Mã xuôi về lộ để bán cho các xưởng chế biến dọc đường 15. Có thể nói các bản quanh đây sống cứ như thời nguyên thủy, cái gì cũng tự cấp, tự túc, hàng quán xe cộ đều không có…” - trưởng bản Nhất trầm ngâm.

Theo chân trưởng bản Nhất, tôi tiếp tục đi đến một số gia đình khó khăn khác. Nhà bà Vi Thị Mía có đứa cháu ngoại mắt toét vì bị bọ xít đái trong một lần đi rừng. Đứa con rể của bà đi xuất khẩu lao động bấy lâu nay bặt tin tức. Lao động chính của nhà chỉ có bà và con gái, canh tác được sào rưỡi lúa nương. Năm rồi thu hoạch được tạ rưỡi, chỉ đủ cho bốn miệng ăn cơm độn trong… ba tháng.

Nhà ông Phạm Bá Sình ở gần đấy cũng chẳng khá hơn. Đã ngót 70 tuổi nhưng ông vẫn phải đi làm nương tít trên sườn núi, mỗi ngày hai bận đi về cũng đã mất 4 tiếng. Ông có đứa con trai nghiện ma túy, bị nhiễm HIV chết vài năm trước, con dâu sau đó bỏ đi mất tích.

Nhà cạnh bên, ông Phạm Văn Miên một tay bị xụi nhiều năm rồi không làm gì được. Nhà ông Lương Văn Yên thì có vợ thương tật trong một lần ngã ở sườn núi. Nhà ông Phạm Văn Hợi, Phạm Bá Bằng… eo sèo không kém. Tất cả đều có chung một hoàn cảnh: Trong nhà hũ gạo cạn veo, lương thực dự trữ sắn ngô thì nhà còn, nhà hết.

Đặc biệt ở đây có một loại thức ăn trời cho là măng đắng và rau rừng mọc quanh năm. Với các nhà hàng, phố chợ, đây là hai thứ đặc sản cho những người thừa đạm. Nhưng với người dân ở đây lại là thức ăn cứu đói và là chỉ dấu cho thấy cuộc sống tự cấp, tự túc của một xã hội nguyên thủy còn phảng phất…

Trên đường cùng trưởng bản Vi Xuân Nhất trở về, tôi hỏi các bản quanh đây có ai đói đến phải dứt bữa không. Trưởng bản trả lời dứt khoát: “Ồ không, dứt bữa là trưởng bản, chủ tịch xã bị kỷ luật đấy. Thiếu ăn nhưng được cái bà con dân Thái mình quanh năm sống rất gắn bó nhau. Nhà nào hết sạch khoai sắn thì nhà khác cho mượn hoặc giúp đỡ và hằng tháng trưởng bản đều phải trèo núi vài chục cây số lên xã báo cáo tình hình cũng như báo động khẩn cấp khi tình thế sắp hết cách”.

Cả ba xã Trung Thành, Trung Sơn và Phú Sơn mà tôi đi qua nếu nói đói theo nghĩa dứt bữa một, hai ngày không có gì bỏ bụng thì hoàn toàn chưa đến nỗi. Nhưng chuyện người dân suốt cả tháng chỉ ăn sắn, ngô hoặc măng đắng, rau rừng là điều diễn ra như… cơm bữa.

* * *

Núi rừng cuối chiều sương mù bao phủ. Mưa lất phất. Trên con đường“dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”

đến huyện cực tây bắc Mường Lát - nơi ngày xưa đoàn binh Tây tiến trong thơ Quang Dũng đi qua, đọng lại trong tôi là hình ảnh những cụ già co ro bên bếp lửa trong những căn nhà sàn nứa lá tuềnh toàng.

NỒI CƠM KHOAI SẮN

29/11/2010 16:41  |  46 lượt xem

  

Nhà nghèo, lại có tới bốn anh chị em nên cuộc sống gia đình tôi vô cùng chật vật. Năm nào cũng vậy, chưa đến mùa thu hoạch là mẹ tôi lại phải mang quang gánh đi mượn lúa. Mẹ thường mua thêm sắn và khoai ngon, mẹ tôi mua cả một bao lớn để vừa ăn vừa dự trữ.

Sắn và khoai thường được cắt lát mỏng rồi phơi khô theo hai hình dạng là bầu dục và dài. Mẹ rửa chúng qua nước rồi để ráo, cơm sôi là bỏ vào trộn đều lên. Các em tôi khi ấy còn nhỏ nên được mẹ ưu tiên phần cơm trắng nhiều hơn, lắm lúc nhìn chén cơm của mình tôi lại ước được như các em.

    Dù là cơm độn, nhưng nếu được ăn với cá đồng kho là nghệ thì ngon đến lạ. Vì vậy, mỗi khi cha chuẩn bị ra đồng kiếm cá là tôi vui vẻ chờ đợi bữa cơm khoai sắn ngon lành.

    Bão lũ tràn về khi lúa vừa đơm bông. Thế là lại mất mùa, đói kém. Sự nghèo khó cứ đeo bám người dân quê tôi. Nhiều gia đình chỉ ăn toàn khoai với sắn. Chẳng thể chôn chân nơi quê nghèo ấy mãi được, cha tôi ra thành phố làm thuê. Cha đi rồi, nồi cơm sắn được nấu ít đi nhưng chất lượng thì chẳng thay đổi. Mẹ bảo những đồng tiền ấy vất vả lắm cha mới kiếm được. Thỉnh thoảng cha tôi gửi về một bọc mì tôm. Mì tôm lúc ấy là món ăn thật "sang trọng" đối với chị em chúng tôi.

    Nhà tôi tiếp tục vẫn ăn cơm khoai sắn một thời gian dài, chỉ có điều càng ngày phần cơm trắng càng được tăng thêm. Đến khi mẹ thôi không còn mua thêm sắn hay khoai nữa, chị em chúng tôi biết cuộc sống đã được "đổi màu".

    Có người nhớ chái bếp quê nhà với khói mỏng tỏa lan. Còn với tôi, hình ảnh khói lam chiều lại khiến cồn cào nhớ nồi cơm khoai sắn ngày nào. Thỉnh thoảng tôi vẫn còn nhắc và nói đùa với mẹ: Bây giờ con sợ ăn sắn dù ở trong này người ta nấu ngon hơn ngày xưa mẹ nấu. Mẹ tôi chỉ cười rồi bảo: Còn nhớ là còn thương , dù là cơm sắn cơm khoai nó cũng là mồ hôi công sức đấy con ạ

Bùi ngùi miếng sắn tuổi thơ

Nhớ thuở thiếu thời, mỗi khi đến bữa, nhìn chiếc mâm gỗ chỉ vỏn vẹn có đĩa rau luộc, loa canh chuối cùng bát nước mắm, mở nồi cơm thấy toàn là sắn, mấy anh em tôi mếu máo còn bố ngao ngán thở dài.

Thương các con, bố mẹ thường vét đáy nồi đơm “cơm không” (cơm không lẫn sắn) cho mỗi đứa lưng bát. Ðưa miếng cơm bùi lên miệng, ngó sang bát sắn của bố mẹ, nước mắt tôi chảy dài...

Quê tôi, một miền đất trung du cằn cỗi được người ta gọi là “vùng đất sắn”. Người quê tôi sinh ra đã nhìn thấy đồi sắn, lớn lên mấy ai không một lần bị sắn làm say nghiêng ngả. Búp sắn non nấu canh, củ sắn ăn thay cơm, sắn khô là lương thực chính nuôi cả người và vật nuôi trong những ngày đông tháng giá hay khi giáp hạt. Xưa, chỉ người nghèo đói mới phải ăn sắn. Ngày nay, xôi sắn, sắn lùi, dưa sắn chua, canh rau sắn trở thành đặc sản đến ngay cả những người đi ô tô, ở biệt thự cũng thích...

Khi tôi còn bé, làng mất mùa lúa quay quắt đói, chiều mưa dầm mấy đứa trẻ chăn trâu lén rủ nhau lên nương đào trộm sắn non để nướng. Bụng rỗng, sắn non ăn thì ngon mà dễ say. Tôi đã từng bị say ô tô, say sóng trên tàu nhưng chưa khi nào thấy đáng sợ như say sắn. Ðầu đau, bụng chướng, chân tay bải hoải vừa ngứa như kim châm lại tê như đã lìa khỏi cơ thể. Ðã say sắn thì “miệng nôn trôn tháo”, nôn khan đến bong niêm mạc miệng, những cơn lòi ói ợ trào cửa miệng thứ khí nóng nhức như than hồng tỏa ngược từ dạ dày tựa như vừa ăn cả một rổ ớt. Những ai thoát cơn say sẽ sợ sắn đến mãi về sau, dù biết rằng ở đất này chỉ có sắn mới nuôi mình lớn nổi thành người...

Mùa phơi sắn ở quê tôi thường bắt đầu khi heo may về se sắt và sương sớm đủ làm tê buốt hơi thở những ai tinh mơ đã rời nhà. Ðể phơi kịp nắng, bố mẹ tôi thường dựng lán trên nương, ở đó cả ngày để nhổ, cạo vỏ, băm, phơi. Bữa trưa ăn cơm nắm trên nương, tối về đến nhà gà đã lên chuồng. Trên nương cao ấy gió thổi nhiều lắm, hanh và khô, dáng bố mẹ gầy gò vật lộn với từng bụi sắn. Gió làm cho gót chân mẹ vốn đã hay nứt nẻ vào mùa đông nay càng sần sùi như gốc cây gạo. Ðêm về mẹ không ngủ được vì gót chân đau, vì ngay ngáy lo trời mưa, sương dày hỏng sắn... Bố tôi bảo rằng, cây sắn quê mình như người nông nghèo quanh năm cặm cụi bám lấy đất sỏi mà vươn lên khó có sức mạnh nào ngăn trở được. Thân sắn, gốc sắn kia qua mùa thu hoạch củ, cái xác vờ teo quắt miễn là mắt mấu còn tiếp xúc được với đất là còn có cơ nảy mầm. Mà sắn đã nảy được mầm, thì thế nào cũng có củ. Củ không xứng vào nồi đồng điếu nhà giàu thì vào niêu đất méo miệng nhà nghèo. Ngày xưa, trai làng này trồng sắn trước khi ra trận. Người nọ tiếp bước người kia, bới vồng sắn người đi trước trồng thì lại vùi xuống đất một gốc sắn khác để dành người đi sau. Những bậc cao niên, các ông già, bà cả trong làng mượn thân cây sắn róc sạch mấu làm gậy chống để những bước đi dễ dàng hơn...

Nhớ những ngày mưa không thể đi làm, mẹ tôi thường mang sắn đã phơi khô ra giã lấy bột làm bánh sắn. Sau khi nhào bột ướt, mẹ sẽ dùng một chiếc đũa làm tâm rồi nặn cục bột xung quanh để đến lúc rút ra, bánh sẽ có một cái lỗ bên trong, như thế, khi luộc bánh sẽ nhanh chín. Nhà tôi nghèo nên món bánh này thường được dùng để ăn thay cơm. Hôm nào có thêm bát mật mía hay chén đường để chấm bánh sắn thì anh em tôi đã sướng lắm rồi. Lại nhớ những độ mùa gặt vừa xong, có ít nếp mới, thèm ăn bữa xôi nhưng không dám phung phí, mẹ nấu gạo nếp với sắn cho cả nhà làm lũ trẻ chúng tôi háo hức cả buổi. Mở nồi xôi ra, mùi thơm lừng của nếp mới tỏa ngào ngạt khắp gian bếp nhỏ. Vị dẻo quánh, ngọt thơm của những hạt nếp quyện với vị bùi, bở tung của sắn trắng ngần là cảm giác no ấm của tuổi thơ tôi...

Một mùa đông nữa lại về. Mùa sắn năm nay, nghe tiếng thở dài của bố mẹ, tôi biết sắn mất mùa, giá lại rẻ trong khi các em tôi vẫn đang tuổi ăn, tuổi học. Tôi từ phố phường về quê nghe gió đông thổi cạn thời gian, thổi rám lá sắn, thổi quắt quéo cả cuộc đời bố mẹ. Ðặt lên vai chiếc đòn gánh cong hai đầu là những củ sắn chắt chiu mồ hôi, công sức đã bao ngày, tôi bước đi chênh chao. Gió mùa vẫn thổi ràn rạt, nhìn bố nở nụ cười hiền nhăn nheo, lòng tôi quặn thắt... Ngày mai tôi lại phải xuôi với những công việc nhàn nhã của mình chốn Hà Thành.

Những năm 70 của thế kỷ trước, cả nước thiếu gạo. Những loại lương thực thứ yếu như khoai, sắn, bắp... vì thế thường xuyên có mặt trong "bữa cơm" hằng ngày của hầu hết các gia đình.

Quế Sơn quê tôi nổi tiếng là một vùng "giàu" sắn, nên hiển nhiên sắn được xếp vào ngôi đầu trong nhóm các lương thực thay thế. Trừ những ngày mùa có được mấy bữa cơm trắng, còn lại, quanh đi quẩn lại cũng chỉ sắn với sắn - sắn "cõng" cơm, sắn "gánh" sắn, thành ra ai cũng ngán. Ngán nhưng vẫn phải ăn. Và để có thể "chung sống" với sắn, phải nghĩ cách chế biến, để sắn phai bớt cái nguyên bản ám ảnh, dù chỉ ở vẻ bề ngoài. 

Sắn tươi, để nguyên củ hay cắt khúc đem hấp, luộc là chuyện đã quá quen. Ăn bữa đầu thấy bùi, thấy ngọt. Sang bữa thứ hai, thứ ba là thấy nồng, thấy đắng, nghe nóng hực nơi cổ. Thì làm cho nó khác đi: bào sợi, nấu canh suông với ít rau, ra món nửa canh nửa cháo. Ngán. Lại có cách khác: để nguyên củ mà mài, để lắng, lấy bột ra nhồi rồi phi với ít hành, gói lá chuối đem hấp cách thủy, để ăn dần từ sáng tới tối... Hết mùa sắn tươi thì chuyển sang sắn khô. Sắn khô có ưu điểm là ít nồng, ít đắng; lại có thể chế biến thành nhiều món khác nhau. Thường thì đem luộc. Sắn xắt lát thì khỏe, luộc mau chín. Còn sắn khô của Quế Sơn quê tôi thường đẵn khúc, dày mo, nên từ lúc bỏ vào nồi đến khi có thể vớt ra ăn được thường mất chừng ba tiếng đồng hồ. Muốn sắn khô luộc cho ngon, lựa mấy khúc củi to, đun lên cho sôi, sau đó ủ than hoặc cho lửa cháy liu riu, thi thoảng châm thêm chút nước lạnh. Luộc xong đem chấm muối mè, muối đậu, lấy cái thơm, béo của mè của, đậu át bớt hơi sắn ngây ngây mùi nắng...

Cách khác: lấy sắn khô xay bột, nhào nước lạnh, véo từng ít một bỏ vào giữa hai lòng bàn tay ép ép, vỗ vỗ cho ra cái bánh. Luộc lên, cái bánh trơn tuột, có người gọi bánh trôi. Nhớ lại lúc làm phải vỗ hai tay vào nhau lép bép, có người “lạc quan hóa vấn đề” nên gọi là bánh hoan hô. Loại bánh này có thể chấm mắm cái hoặc đem chiên, ăn ghém với rau thơm, chuối chát. Hôm nào bắt được mớ cá đồng, bữa bánh hoan hô sẽ có thêm chút nhưn béo ngọt... Riêng ở các xã vùng tây Quế Sơn, sắn khô còn được chế biến thành phở, còn có tên gọi khác là mành mành. Đây là món biến tấu từ sắn được xem là ngon nhất, vì qua mấy lần phơi, hấp, phơi..., vị nồng của sắn đã phai nhiều. Đã vậy, khi ăn lại (phải) có nước nhưn, kèm với rau sống, chuối cây xắt mỏng...

Bây giờ, nỗi lo thiếu ăn không còn nữa. Nhiều vùng chuyên canh sắn đã chuyển sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Dù vậy, cây sắn vẫn còn hiện diện đây đó, nhưng thu hoạch về không phải dành cho người mà chủ yếu để phục vụ chăn nuôi. Những món ăn từ sắn gần như biến mất hoàn toàn; riêng phở sắn thì đang được cân nhắc để nâng lên thành "đặc sản"... Ở quê, bảo thèm sắn thì hơi khó tin. Nhưng ở phố thì đấy là nỗi thèm có thật. Nhiều bữa đi làm về, gặp gánh sắn luộc hấp nước cốt dừa bày bán ven đường, rất nhiều người đã không nỡ bỏ đi. Củ sắn vốn đắng, nồng là vậy nhưng hóa ra lại là món ăn thơm thảo, chắt chiu phận mình để nuôi lớn bao người. Ghé lại gánh sắn luộc trên phố, vì thế không chỉ là một cử chỉ biểu dụng cho cái gọi là hoài niệm...

Ðói lòng nhớ lát sắn khô

Tháng ba, nhà nhà rộn ràng mùa thu hoạch sắn. Nhìn những đoàn xe chất đầy sắn củ chở về các nhà máy chế biến, bất chợt tôi lại nhớ một thời cuộc sống gắn liền với sắn. Nhờ những lát sắn khô mà người dân quê tôi đã cầm cự với nạn đói triền miên trong suốt những năm chiến tranh.

Năm ấy, tôi độ chín, mười tuổi, cái tuổi mà mẹ chăm chút cho từng miếng ăn giấc ngủ. Hôm nào có được món ngon là mẹ dành trọn cho tôi với lời dỗ dành: “Ăn đi con, ăn cho mau lớn mẹ nhờ! Một vài năm nữa là con đã mười hai tuổi. Hết “đốt”, mẹ sẽ cúng ông Táo một con heo, con sẽ lớn bươn cho mà coi”. Mẹ bưng chén cơm độn sắn, thức ăn là mắm đu đủ, rau dền muối ớt. Mỗi miếng nhai của mẹ nghe giòn rụm, ngon lành. Tôi hồn nhiên, vô tình, no nê với những chén cơm có canh lá sắn và một ít mắm muối, cá khô mẹ luôn tay gắp bỏ.

Ăn là vậy, đêm ngủ mẹ không được tròn giấc, bởi những loạt pháo cầm canh của Trung tâm Biệt kích Đồng Tre. Khi những loạt pháo nổ đì đùng còn ở xa, mẹ bật dậy ngồi co ro canh cho các con ngủ, chờ tới khi những tiếng pháo nổ gần đinh tai nhức óc mẹ mới vội lôi tuột các con xuống hầm tránh đạn dưới gầm giường. Đêm mất ngủ, ngày mẹ vẫn tất bật lam lũ với ruộng đồng. Hạt gạo làm ra từ những ruộng lúa tưới nước trời, mỗi năm một mùa, dẫu mẹ cha có bươn chải vẫn không cách chi đủ ăn. Một gia đình có tới bảy miệng ăn, mà ruộng thì chỉ có hai ba sào, làm rẽ cho các nhà quyền thế, giàu có, ăn chia theo kiểu tứ lục (làm rẽ bốn, chủ sáu). Năm nào được mùa, trúng lắm, nhà tôi cũng chỉ thu được vài ba tạ lúa là cùng. Mỗi bữa ăn dọn ra, nhìn nồi cơm độn hai ba phần khoai sắn, vừa ăn được chừng hai lưng chén, bụng còn trống, miệng còn thèm… thì đã nghe tiếng vét nồi rột roạt.

Cái đói cứ hoành hành nhà tôi từ năm này qua tháng nọ. Cứu cánh cho cả nhà bây giờ không gì hơn là khoai sắn. Nhưng củ khoai ăn hoài phát ngán, chỉ có sắn mới có thể đắp đổi cho cả nhà vượt qua cái đói quay quắt, cùng cực. Để có cái ăn, không chỉ nhà tôi mà tất cả người trong làng ra sức cuốc đất trồng sắn. Sắn trồng trên đất gò, soi cát, ven sông suối và đồi núi. Năm nào được mùa, mọi người phải khoanh bồ giữa nhà  để làm chỗ chứa. Nhờ những bồ sắn lát khô, nhà tôi và dân làng lây lất, đắp đổi lúc giáp hạt, những năm hạn hán mất mùa và cực nhất là phải đương đầu với nạn đói do những trận càn quét, đốt phá của Mỹ - ngụy.

Lúc bấy giờ, củ sắn là sự sống, là phép màu cứu đói không những cho đồng bào miền núi mà còn cho cả bộ đội, du kích và người dân vùng tạm chiếm. Ngày ấy, đói  bữa, ai gặp vùng có trồng sắn, khi nhổ lấy củ ăn, mọi người đều nhắc nhau phải lập tức trồng lại để giữ lấy cái ăn. “Sắn non ăn lá, sắn già ăn củ” là vậy. Trồng kiểu gối đầu, có năm được mùa, sắn nhiều ăn không hết. Những rẫy sắn ở xa mọc lẫn với cây rừng, củ sắn nằm dưới đất hai ba năm; khi đào củ to, có lõi, nặng tới 5-7kg. Có năm, Mỹ dùng chất độc đi-ô-xin hủy diệt sự sống, sắn chết rục. Cả làng chỉ biết ngước mặt kêu trời: “Giặc Mỹ! Tụi bay còn độc ác hơn cả cọp beo trên rừng”.

Còn nhớ năm 1965, cả nhà bỏ làng chạy giặc lên ở trên Kỳ Lộ (xã Xuân Quang 1, huyện Đồng Xuân). Cha tôi luôn đi xa với đoàn dân công mã tải, mẹ ở nhà phải “gồng gánh” một đàn con nheo nhóc, đứa lên năm, lên ba. Không có gạo ăn, mấy mẹ con chỉ biết nhờ vào củ sắn. Với tài khéo léo bếp núc, mẹ phải xoay xở từng bữa mà nguyên liệu chính, quay đi quay lại chỉ có sắn với sắn. Sắn đào về, dùng đòn kê chặt lát, phơi dưới nắng gắt ít nhất là ba ngày, phòng sẵn trong nhà. Ngoài những bữa sắn luộc, sắn lùi, sắn quết ăn dặm lúc nửa buổi, xế chiều, mẹ  còn nghĩ ra những món đổi bữa, bắt miệng mà không ngán như: bánh tráng sắn cuốn rau sống, bánh tai vạc nhân đậu, bánh luộc xào hẹ, sắn bột hấp cơm, sắn hầm xáo với đậu đen, đậu phộng… Lo chạy bữa cho các con, ngày ngày bà phải loay hoay, hì hục giã sắn, rây bột. Mỗi lần giã được thúng bột, tóc tai mặt mũi của mẹ nhuốm bột mốc rụi, thấy mà thương! Mùa đông, không phơi được sắn trước khi giã, những lát sắn khô cho vào cối trở nên “chai lỳ”; chày cối cứ nện thình thịch, nhưng lát sắn dai kìn kịt, bể đôi bể ba, trơ ra và ít bột, làm cho lòng bàn tay mẹ luôn chai sạn, phồng rộp.

Ăn sắn riết thành “nghiện”, hình như các em tôi quên “mơ” tới những bữa cơm với cá. Năm ấy, thấy tình hình chiến sự có phần lắng xuống, mẹ tôi dẫn đàn con từ thôn Kỳ Lộ (xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân) chui đường rừng trở về làng cũ. Gặp lúc trúng lúa rẫy, bác tôi mừng cả nhà đoàn tụ, cho nấu một nồi cơm gạo lúa sấy (lúa phơi gác bếp) ăn với cá kho. Các em tôi cứ ngây mắt, nhìn bát cơm không độn sắn như một thức gì lạ lẫm và như chưa bao giờ được ăn. Thấy vậy mẹ tôi giục bảo: “Lâu rồi mới được ăn “hạt ngọc” đó con, cứ ăn một bữa cho đã, bù lại những ngày qua chỉ có sắn với rau rừng. Các em tôi chần chừ, rồi dùng đũa gắp cơm cho vào miệng, rơi hột trong, hột ngoài, thấy mà ứa nước mắt!.

Cũng trong năm đó, bộ đội chủ lực từ miền Bắc vào trú ở nhà dân, nghe người lớn gọi họ là bộ đội “nghĩa vụ”. Họ vào chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968. Nhà chật, các chú ra vườn mít mắc võng để ngủ, nghỉ. Tôi mải mê theo các chú để được vuốt ve những khẩu súng có gắn lưỡi lê sáng quắc (AK, CKC) vì lần đầu tiên trông thấy. Có chú nói giọng “trọ trẹ” khó nghe, hay gọi nội tôi bằng “mạ” mà sau này tôi mới biết các chú là dân Hà Tĩnh, Nghệ An. Chiều năm ấy, chuẩn bị cho đêm đánh đồn, các chú cũng ăn bữa cơm độn bột sắn lát khô với canh chua lá giang lỏng bỏng, chỉ có muối với bột ngọt. Vậy mà các chú vẫn chan húp, nghe sùm sụp, ngon lành. Ai nấy vẫn vui vẻ nói cười, gọi đây là bữa cơm với canh “toàn quốc”. Nội tôi ngồi nhai trầu, tậc lưỡi: “Tội nghiệp tụi nó quá, tối nay đánh đồn, không biết ai còn ai mất, nhà chẳng có gì ngon cho chúng nó ăn một miếng… thấy mà tủi”. Trận đánh tối hôm đó, nghe nói quân ta tiêu diệt được nhiều đồn bót, thu nhiều chiến lợi phẩm nhưng bộ đội mình có ba người đã vĩnh viễn nằm lại trên vùng đất núi, nơi mà lần cuối, họ chỉ được ăn bữa cơm chiều độn sắn…

Chiến tranh đã lùi xa, ai đã từng trải qua những năm tháng dài sống nhờ củ sắn, rau rừng chắc hẳn sẽ không quên một thời “đói lòng nhớ lát sắn khô”. Riêng tôi, cứ nhớ mãi và biết ơn thế hệ cha ông đã kiên cường, với sức mạnh diệu kỳ “ăn sắn thắng Mỹ”. Củ sắn thời ấy thật vô cùng ý nghĩa, góp phần xây đắp một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Sắn tuổi thơ

Viết bởi TCMN

  

Thứ ba, 17 Tháng 4 2012 13:11

Thời tôi còn nhỏ xíu, quê tôi còn nghèo, gần như cả làng tôi phải ăn độn quanh năm. Nhà tôi không khá giả nhưng cũng chưa phải ăn độn bữa nào bao giờ. Ba mẹ tôi đi làm cả ngày, hai chị em tôi lê la khắp xóm, ở miết trên nhà bà hàng xóm cho đến khi ba mẹ về. Chắc tại nhà bà có tới bâ đứa con xấp xỉ tuổi tôi nên có thể bày nhiều trò chơi. Và hơn cả nhà bà có thứ hấp dẫn tôi “ chực”  mỗi giờ cơm, thứ mà nhà tôi chẳng có bao giờ: sắn!

Nhà người ta ăn sắn thay cơm, còn tôi ăn sắn độn như ăn một thứ quà. Mẹ biết mắng tôi vì tội “ăn chực”, tôi khóc dấm dứt. Mẹ dỗ luộc cho vài củ sắn, nhưng chỉ được vài bận là tôi chán vì mẹ chẳng biết làm những món từ sắn mà bà hàng xóm hay làm. Mấy ngày không thấy tôi lên, bà hàng xóm biết chuyện, mang theo mấy đồng bánh sắn cho tôi, cười xoà với mẹ. Chẳng hiểu bà nói gì, mẹ không cấm tôi đi “ăn chực” nữa.

Bà hàng xóm từ lúc nào trở thành thần tượng trong tôi về tài chế biến các món từ sắn. Vẫn là  những món thông thường như người làng làm, vậy mà qua bàn tay khéo léo của bà, mỗi món cứ đọng lại những dư vị rất riêng. Tôi còn nhớ những buổi chiều lên đồi nhặt sắn giúp bà, cứ thắc mắc mãi những miếng sắn trắng bột ngoài việc để tôi nghịch ngợm xoay tròn thành đốm nắng thì làm đuợc món gì. Chỉ đến khi đang mải mê bày trò chơi, thấy tiếng bà gọi, cả lũ ùa về mới tròn xoe mắt nhìn những  “đốm nắng tinh khôi” ấy nằm gọn đều đặn trong đĩa mà phát thèm. Miếng sắn béo ngậy quện mùi thơm của hành mỡ ăn khi còn nóng cứ quấn quýt mãi nơi đầu lưỡi khiến tôi thầm đặt tên cho món ăn này của bà là “hoa nắng xào hành”.

Món sắn “độn” cơm là trở thành “cơm” trong gia đình hầu hết người dân quê tôi. Gọi là sắn “độn” cơm vì “hạt sắn cõng mười hạt cơm”. Bà hàng xóm có cách làm khác với mọi nhà, món sắn “độn” cơm của bà ăn không hề ngái hay ngấy, chỉ thấy rất bùi. Như mọi nhà, bà lấy sắn ruôi phơi khô “độn” cơm để khi ăn mới không bị nát. Sắn “độn” cơm chín bằng hơi nên khi nấu phải chú ý không mở vung giữa chừng. Đợi sắn chín hẳn mới được mở vung thả chút hành hoa, mỡ, muối cho sắn gới vừa thơm, vừa đỡ khô. Còn cháo sắn, ai bị ốm mới dậy, ăn bát cháo sắn bà nấu sẽ thấy hồi sức rất nhanh. Cháo sắn đọng lại dư vị của cả quê hương làng xóm, nó được nấu từ vị bùi của sắn trên đồi, vị ngọt của con chai chai dưới đồng và vị thơm mát của thì là, hành hoa trong vườn. Sẽ thật thiếu sót nếu không kể đến món xôi sắn của bà. Xôi được làm từ bột sắn khô cho lên chõ đồ đến khi chín xới ra. Bà lại đem chỗ xôi đó nhào thật nhuyễn thành một khối kết dính, chắc lẳn, dẻo quyện với nhau, lấy dao cắt thành từng khoanh mỏng là có thể ăn ngon lành. Sắn phơi khô thường có vị ngái, không còn bùi như sắn tươi. Nhưng ăn miếng xôi sắn bà làm, tôi chỉ thấy đọng mùi nắng, mùi sương kết lại đậm đà, nhai kĩ có vị ngọt. Chưa bao giờ bà để tôi có cảm giác mình là người xa lạ khi cùng chia sẻ những miếng sắn với những đứa trẻ con nhà bà. Tôi thích cùng tụi nó ngồi quanh bếp ăn thứ xôi ấy để nguội, cắt từng miếng bằng bàn tay, cho lên than hồng nướng vàng ruộm cả hai mặt. Cầm miếng xôi sắn lên hít hà trước khi nhỏn nhẻn bẻ từng miếng nhai kĩ, mặc kệ cơn gió mùa đông bắc lạnh buốt ngoài kia, vẫn thấy lòng ấm áp vô cùng.

Có lẽ đặc biệt nhất với  tôi là món bánh sắn bà làm. Đến bây giờ có rất nhiều quà bánh ngon để lựa chọn nhưng cái cảm giác háo hức được cầm đồng bánh sắn trên tay vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Thứ sắn củ tươi bở, trắng ngần cho vào cối giã cho đến khi có độ dẻo mịn thì nặn thành bánh mặn. Thứ bánh ấy làm vất vả không thua gì bánh dày, cũng phải nặn bánh khi còn nóng bỏng tay để bánh quyện lại dẻo dai, mịn màng không nứt vỡ khi bánh nguội. Những chiếc bánh nặn dẹt bằng chiếc đĩa con trắng ngà, xinh xẻo được rắc thêm một lớp lạc rang thơm giòn mới nhìn đã muốn ứa nước miếng. Nhưng chỉ cần ăn một chiếc bánh ấy tha hồ chắc dạ, cả ngày vẫn thấy vương vấn vị ngon dẻo thơm của bánh.

Còn bánh ngọt lại được làm từ thứ bột sắn khô nhào kĩ với chuối ngự chín. Phải ngồi nhìn bà chọn từng quả chuối để làm bánh mới hiểu hết tấm lòng của người vợ, người mẹ Việt Nam chăm chút cho chồng con như thế nào, dù chỉ là miếng ăn nhỏ nhất. Chuối phải chọn thứ chuối ngự mới đủ độ ngọt và vị thơm tự nhiên. Chuối chín vừa độ, không được xanh nếu không bánh ăn sẽ có vị chát, còn chuối chín quá lại có vị chua, bánh sẽ không ngon. Đem những quả chuối chín chọn lọc kĩ càng ấy nhào kĩ với bột sắn, nặn tròn lại bằng nắm tay trẻ con. Bà cẩn thận bọc một lớp lá chuối khô bên ngoài, nhưng vẫn để hở hai đầu thịt bánh, rồi lấy chiếc đũa đâm thủng qua hai đầu để bánh chín đều. Những chiếc bánh ấy để nguội đem ra ăn không còn gì thú bằng, vừa bùi vừa thơm, lại ngọt mát vừa vặn. Loại bánh này bà chỉ làm khi có dịp đặc biệt để dành tặng cho tụi trẻ con trong xóm, thế nên sẽ càng nhớ, càng thèm. Một sớm mai trở về thăm quê, gặp lại bà hàng xóm nay đã móm mém, hiền hậu nhìn tôi cười: “Bánh sắn không con?”mới chợt ứa nước mắt: sắn của bà đâu chỉ ngọt bùi những năm tháng tuổi thơ khốn khó, sắn của bà còn gợi sự ấm áp, thương yêu chân thành của tình làng nghĩa xóm. Nhớ lắm! Thương lắm bánh sắn quê tôi một thời!

Bánh sắn giáp hạt

QĐND - Chủ Nhật, 14/12/2008, 17:33 (GMT+7)

Có một giai đoạn dài, nhất là vào tháng giáp hạt, mỗi khi đi tranh thủ trở lại đơn vị, tôi thường mang theo gói bánh sắn làm quà tặng đồng đội. Với ai đó, có thể chiếc bánh sắn chẳng có gì đáng nói. Nhưng với riêng tôi, nó là kỷ niệm không chỉ của bản thân, mà còn gắn với nhiều đời người quê tôi.

Quê tôi là một vùng đất ven biển tỉnh

Nam

Định. Trước đây, cứ đến tháng giáp hạt, cả làng, cả xóm phải ăn cơm độn khoai, độn sắn. Sắn khô cho vào cối giã gạo hoặc cối đá giã nhỏ rồi trộn với gạo để nấu cơm. Cơm đó quê tôi gọi là cơm sắn. Còn nếu làm bánh, sắn được giã nhỏ đồ với gạo nếp trở thành một thứ bánh ngon, lạ miệng.

Giã sắn khô không dễ như giã gạo. Giã cối gạo chân cứ đằm ở cối, còn giã sắn khô thì chân bị hất ra khỏi cần cối. Nhịp chày càng vội, càng nhanh thì cả thân người cũng như nhảy tâng tâng trên cần cối. Để cối đằm xuống, một người phải cầm đầu mỏ vít xuống. Người vít mỏ cối cũng mệt chẳng kém người dận cối. Vừa vít cần cối, vừa cầm đũa cả đảo sắn. Với những nhà mà mỏ cối chưa được bịt sắt thì công việc càng vất vả hơn.

Trước khi giã sắn phải rục rịch lo nồi thổi xôi, hành, đỗ, gạo nếp. Cơm tối xong, cả nhà ngồi nhào bột sắn, vo thành từng tấm bánh như bánh rán. Mỗi nắm thêm một thìa đỗ xanh làm nhân. Sau đó, đổ một ít gạo nếp đã được ngâm kỹ để lót chõ. Rồi lần lượt xếp từng chiếc bánh lên lớp gạo nếp. Chưa hết, lại phải rải một lớp gạo nếp tiếp lên mặt bánh. Lớp bánh đầu chõ cũng rải gạo nếp.

Gà gáy canh ba, nhà nhà dậy bắc chõ xôi bánh sắn. Người làm hàng chạy chợ còn dậy sớm hơn. Từ mờ sáng, mỗi người lót dạ vài chiếc bánh sắn dẻo, thơm, dai dai ở đầu chõ rồi hối hả đội bánh sắn đến chợ.

Phiên chợ Giá, chợ Cầu Dài, chợ Quỹ, chợ Ninh Cường... hàng bán bánh sắn đang nóng hổi đông nghịt người mua. Giá bánh rẻ. Có người mua về làm quà. Có người vừa thổi bánh sắn nóng vừa ăn ngon lành. Chợt nghĩ, chẳng phải người chạy chợ đã góp sức tạo nên một niềm vui nho nhỏ ở làng quê giữa những ngày chợ đợi hạt lúa chín ư?

Những người chạy chợ ấy là ai? Là mẹ tôi, là mẹ bạn tôi, là bà cụ hàng xóm. Và còn nhiều người khác mà tôi không biết tên nữa. Bao người đã khuất bóng. Nhưng dấu chân của họ như vẫn còn in trên con đường đến chợ trên quê hương tôi, để sớm sớm bán hết chõ bánh sắn này đến chõ bánh sắn khác.

SẮN ƠI!

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi...

Bữa đầu tiên ăn cơm độn sắn, 4 anh em tôi nhồm nhoàm, líu lo, căng bụng. Bảy phần sắn, ba phần cơm. Mẹ khéo nấu hay đói quá mà chẳng thấy mùi khê nồng của sắn.

Bữa sau, rồi bữa sau nữa, mẹ vẫn nấu như cũ. Sang bát thứ ba, tôi bắt đầu lấy đũa gổng từng sợi sắn lên nhìn. Trong cổ có cục gì cứ thế mà đầy ứ lên. Đã no? Không phải! Tôi vẫn còn có thể ăn được 3 bát nữa. Tôi gẩy gẩy bát cơm. Thật may, một cục cơm hiện ra. Tôi đưa tọt ngay vào miệng sợ các em nhìn thấy. Ngọt lừ, tôi tiếc không được nhồm nhoàm cho thật đã. Cái bát đựng cơm lại tràn ngập sắn. Tôi và mấy cái, vươn cổ nuốt, nước mắt tự nhiên giàn giụa.

Thấy tôi đứng dậy, mấy đứa em kêu lên: “Ăn sắn kinh lắm. Cổ cứ tắc lại, mẹ ơi!”. Mẹ đang đảo đảo nồi cơm, ngẩng lên bảo: “Thôi các con ạ, mai mẹ nấu cơm trắng cho một bữa”. Tôi reo lên: “A! Cơm trắng chúng mày ơi...”. Tiếng reo của tôi chợt tắt ngấm khi thấy mẹ lắc đầu một cái...

Bữa sau mẹ nấu cơm trắng thật. Một đấu gạo hẳn hoi. Không cần gọi, thấy mùi cơm, như có nam châm, anh em tôi ngay lập tức ngồi gọn xuống mâm. Mẹ ngồi đầu nồi xơi cho từng đứa. Nhồm nhoàm. Vèo vèo, hết... mẹ cứ thế mà xới. Mỗi đứa đến bát thứ ba thì nồi trơ đáy. Còn miếng cháy, tôi ngồi đầu nồi nhanh chóng đưa vào bát mình, nhai vội vàng. Cái Út không được thêm bát nữa khóc ré lên, lăn xuống đất giãy giụa. Mẹ nhìn tôi, ánh mắt không tỏ ra giận dữ nhưng cứ thăm thẳm...

Nhưng đến bữa sau lại sắn! Cảm giác ân hận về miếng cháy bữa trước khiến tôi im lặng. Tôi ngồi im, không chia bát đũa. Mẹ mở vung, trong làn khói nồng nồng, mờ mờ, mẹ tuyên bố: “Hôm nay tất cả để mẹ xới. Thằng Dũng cũng vậy”. Tôi ức! Hóa ra mẹ trị tội tôi? Nhưng chả sao, bữa nay toàn sắn, báu gì! Tôi giả vờ nhìn ra ngoài vườn nhưng vẫn liếc mắt nhìn mẹ. Đôi đũa cái như đang múa trong tay mẹ. Hớt nhẹ phần trên cùng mẹ cho vào cái đĩa, đặt ra bên cạnh. Tiếp phần dưới, mẹ xới đặt vào chỗ mình.

Tôi nhìn mẹ... Sao hôm nay khác lạ? Đứa út phải được xới đầu tiên cơ mà? Tiếp theo là đến phần tôi. Mẹ cẩn thận nhẹ nhàng gạt phần trên ra, xới đưa tôi... Cứ thế, đến phần đáy nồi thì đứa út được nhận. Lúc này, tôi nhòm hẳn vào bát đứa út: Cơm không, trắng tinh, nghi ngút khói. Tôi nhìn lại bát mình: Sắn, nhưng cơm vẫn nhiều. Tôi không nói gì, sợ mẹ bảo tị nạnh với em... Tôi ăn hết phần mình và nhìn mẹ. Mẹ ăn chậm thế. Tôi nhìn vào bát mẹ. Toàn sắn là sắn. Tôi hiểu ra...

Nồi cơm 4 tầng. Tầng đầu tiên toàn sắn cho chó. Tầng thứ hai sắn 8 phần, cơm 2 phần cho mẹ. Tầng thứ ba nửa cơm nửa sắn cho tôi và đứa thứ hai. Tầng cuối cùng cơm trắng dành hai đứa bé. Không hiểu mẹ nấu thế nào nhỉ? Nồi cơm 4 tầng yên ổn được chục ngày thì tôi ngán quá. Tôi không dám nói thẳng là con cũng muốn ăn cơm trắng như hai đứa bé, nhưng đến bữa cứ bậm bục, lủng bủng.

Mẹ đoán được ý tôi, nói: “Thôi cố ăn nốt đi, bữa sau mẹ sẽ làm bánh sắn”. Tiếng “bánh” quả có sức nặng, vừa nghe tôi đã nhẹ cả người. Hôm sau, bắc nồi cơm xong, mẹ nhào bột. Bột sắn trắng tinh, mịn màng, mẹ rót nước vào trộn đều. Chẳng mấy chốc đống bột đã thành quả bóng tròn tròn, ngon mắt. Rồi cứ thế mẹ véo bột nặn thành những quả bóng nhỏ. Cơm vừa cạn, mẹ đưa những quả bóng nhỏ ấy nhanh vào nồi, đậy vung lại. Anh em chúng tôi háo hức đợi. Bánh quả là ngon hơn sắn nạo. Tôi ăn liền 3 cái. 3 đứa em mỗi đứa cũng 2 cái. Tất cả đã lưng lửng dạ, mẹ xới mỗi đứa một bát cơm, ai cũng vừa vặn no.

Suốt cả tháng trời mẹ làm đủ các loại bánh sắn. Bánh dùng nấu với mật, bánh nõ chó nhân đũa, bánh khúc... Đến khi hết thùng sắn trong nhà thì mùa cũng vừa đến. Ôi! Nồi cơm gạo mới chả cần thức ăn cũng ngọt lừ.

...Đã hai chục năm hết đói rồi! Hai chục năm chưa ăn lại bánh sắn. Mẹ ơi, hôm nào chúng con về mẹ lại làm bánh sắn như ngày xưa nhé! Mẹ sẽ kể cho các cháu nghe bố mẹ chúng mày ngày xưa, ngày xưa... Ngày xưa bà có nồi cơm 4 tầng... Ngày xưa bà không sợ đói, chỉ lo các con đói...

Hà Lâu ngán sắn

HOÀNG ANH   -

Thứ Sáu, 07/05/2010, 14:15 (GMT+7)

Nằm giáp ranh giữa Tiên Yên và huyện Đình Lập (Lạng Sơn), xã Hà Lâu còn rất nhiều thôn bản ăn sắn thay cơm.

>> 

Tiên Yên - Cơm độn, nhà phên

Trưởng thôn cũng đói

Là xã vùng cao đặc biệt khó khăn và nằm xã nhất trung tâm huyện Tiên Yên nên đói nghèo ở Hà Lâu xem ra đã quá bình thường. Chủ tịch xã Hoàng Vĩnh Hải chua chát rằng Hà Lâu chắc chắn nằm trong diện ít nhà xây nhất cả nước bởi toàn xã có 410 hộ chủ yếu là người Dao và người Tày thì chỉ vỏn vẹn có chừng 80 ngôi nhà xây và 127 hộ có điện thắp sáng.

Trước khi vào Hà Lâu tôi nghe một điều lạ rằng dù nằm vào diện nghèo nhất Quảng Ninh nhưng số nhà được hỗ trợ theo Chương trình 167 ở Hà Lâu chỉ chừng vài chục, thấp hơn rất nhiều so với những xã khá khẩm. Chưa kịp thắc mắc ông Hải đã phàn nàn ngay: “Có hỗ trợ toàn bộ thì dân cũng chịu. Đa số các thôn bản ở Hà Lâu địa hình quá khó khăn, đi không vào đã rã hết cả người nên vật liệu không thể đưa vào được. Thôn này cách thôn kia có khi cả ngày trời đi bộ nên xã mới có “thành tích” như thế”.

Ở Hà Lâu đói nghèo chẳng trừ ai. Ngay cả những gia đình vốn được xem là “đi đầu mọi hoạt động” trong bản là các trưởng thôn cũng không phải là ngoại lệ. Các bản Khe Tao, Danh Nà Hác… dường như cái đói len lỏi vào nhà các trưởng thôn rồi mới lan toả ra các hộ dân. 

Bản người Dao Khe Tao quây mấy ngôi nhà trình tường nhếch nhác nối dài ở lưng chừng đồi chỉ duy nhất một thứ trông hơi sáng là bóng điện đèn cù. Nhà trưởng bản Chìu A Thanh nằm ngay con dốc nhầy nhụa bùn bởi nước thải từ chuồng lợn trước cửa. Tôi vào, đám trẻ con trần truồng ngồi trước bậc thềm nhà nhai sắn nướng, thấy khách lạ lấm lét bỏ chạy ra hồi. Góc bếp, gầm giường… nơi nào cũng sắn, hỏi người nhà gạo ai nấy đều lắc đầu. Ông Thanh sau chút ngượng ngùng vì gia cảnh mở đầu câu chuyện bằng một câu mà chẳng biết vì quá buồn sự nghèo khổ hay tự an ủi mình: “Cả thôn có 39 hộ, 266 khẩu nhưng chỉ được 3,7 ha ruộng. Nhà nào cũng thế này cả”.

Cả gia đình ông Thanh có 7 khẩu ăn nhưng chỉ được đám ruộng cỏn con ở ven đồi mà ông ví rộng bằng mười cái chuồng lợn cộng lại. Thành thử lúa gạo góp vui trong những bữa cơm đa phần là khoai sắn. Từ mấy năm nay, rút được kinh nghiệm từ những lần phải ăn sắn chay ròng rã khi hết gạo, nhà ông mỗi bữa chỉ bỏ chừng một lon, còn lại độn sắn vào. Vậy mà cũng chỉ rút ngắn thời gian ăn sắn chứ không thể có gạo ăn quanh năm. Đói nghèo là thế nhưng dân bản Khe Tao vẫn cảm thấy còn may mắn vì dù sao cũng gần trung tâm xã. Còn những bản như bản Danh, Nà Hác… muốn vào phải theo lối mòn đi bộ và thời gian thường ít nhất cũng nửa ngày. Đời sống dân bản cũng vì thế nên có phần bi đát hơn.

Quên cả họ

Mon men lội bộ theo con đường mòn như một vết sẹo ngoằn ngoèo của núi đồi Hà Lâu, anh cán bộ tên Phong dại miệng bảo rằng, đi con đường này lỡ sẩy chân thì không biết khi nào mới rơi đến đáy.

Quá trưa mới vào được đến bản thì Phong chợt nhớ là vào giờ này dân bản hầu như vào rừng đào hương mài, hoặc hái bông chít đem bán vì đây đang là thời điểm thiếu gạo trầm trọng. Bản Danh và Nà Hác xưa tách biệt nhưng bây giờ gộp lại thành thôn Danh Nà Hác, là nơi sinh sống của 40 hộ đồng bào Dao Thanh Y và Thanh Phán. Phong bảo rằng họ chỉ khác nhau về trang phục và cái mũ đội đầu nhưng đói nghèo thì y hệt. Địa hình trong bản đi lại khó khăn đến mức ngoài trưởng thôn nhà ở bản Danh còn phải lập thêm một phó thôn tại Nà Hác để mỗi lần họp dân còn có người về phổ biến.

Chúng tôi vào nhà trưởng thôn Tằng Cống Vểnh nhưng ông còn bận lên rừng đào hương mài. Cũng giống như Chìu A Thanh ở bản Khe Tao, nhà Tằng Cống Vểnh cũng là hộ nghèo và đây đang là thời điểm khẩu phần ăn sắn nhiều hơn cơm, ruộng lại chưa cấy được nên chỉ còn cách vào rừng tìm hương mài, bông chít về bán được bữa nào hay bữa đấy. Không gặp được ông Vểnh, Phong dẫn sang ngôi nhà của đôi vợ chồng Chỏng A Si, Chìu Sám Múi để minh chứng cho đói nghèo ở nơi xa nhất Hà Lâu. Si cũng bận lên nương tìm bông chít đổi gạo còn Múi sáng nay đi bón phân ruộng nhưng gặp người quen ở bản dưới uống rượu say nên gửi quang gánh rồi về. Thấy khách đến nhà Múi mang rượu khoai ra mời. Loay hoay một lúc chị mang ra đĩa măng rừng muối rồi dè dặt: “Cán bộ thông cảm, nhà chỉ còn mỗi măng rừng và sắn”. 

Con nhà võ

Ngày đăng:  24/06/2011 7:00:00 SA 

Lũ trẻ con Xóm Mới thường kết thúc tuổi thần tiên khi mới mười lăm, mười bảy. Xóm Mới có một miếng võ cungfu, đó là “ép cưới”. Đói kém, cho lập gia đình! Neo người, cho lập gia đình! Đông con, cho lập gia đình! Đòi đi học, đòi thoát ly… cũng bắt lập gia đình! Dựng vợ gả chồng cho con là “chiêu” duy nhất để các nhà giải quyết mọi mâu thuẫn.

Chín chị em tôi bị coi là “quái gở”. Lộc ngộc 18, 17, 16, 15… vẫn lôi nhau ra bãi cỏ may đá bóng bằng quả bòng nướng; vẫn cuộn chung đống chăn được bật dồn từ bốn năm cái mền bông vào một. Ngày nào cũng một phản người, cơm sắn, cơm mài… xới bằng xẻng mà vẫn không kịp. Phải cắt phiên mới chịu ngồi đầu nồi. Chưa được đặt đũa cơm vào miệng đã rộ lên tiếng “Xin bát!”. Bố thường nổi cơn lôi đình, đôi khi vô cớ.

Ngày ngày, các anh chị quần quật quanh những đống xác cây, thu vén trồng trỉa, vậy mà đôi khi vừa khiêng chảo cơm ra giữa nhà thì bố chửi. Chúng tôi mặt cắt không còn giọt máu. Thường bố đã nổi giận thì không thứ gì dám đi chệch ray, vì như thế là dốc dầu vào lửa. Một hành vi sai lạc sẽ dẫn đến hậu quả “dập cửa vỡ nhà”. Bố là thần sát, thần đòn. Mà đã đánh là đánh luôn cả nhà một thể. Đàn con chớp mắt đã thành tập hợp phạm nhân, lần lượt đứa 10 roi, đứa 9 roi, đứa 8 roi,… tôi là út bị ít nhất, 2 roi. Những lần như thế, sau lưng bố luôn là một cuộc điều khảo nảy lửa, nhằm tuốt xác kẻ nào gây nên cơn “vạ làng”.

Hôm nay không biết ai đã đánh mất con dao Mèo của bố? Nhưng lạ là bố không đánh, mà lệnh: “Ăn cơm!”. Chị cả lật cái vung chảo xuống nền đất. Cả nhà tròn mắt kinh ngạc: Bí đỏ nấu với hoa chuối rừng! Xiên mắt xuống tận đáy chảo mới thấy vài ba hạt cháo nở như hoa đỗ. Thường ngày, mẹ độn sắn nạo hay ngô mảnh quá tay một chút là cả nhà xị ra. Mấy đứa giở bài dỗi, lên giường giả ốm. Hôm nay khác. Bố hầm hầm xới “cơm”, vừa ăn vừa gườm gườm. Mẹ cảnh báo: “Ăn đi kẻo bố chúng mày điên lên…”. Bố lệnh như sơn, tất cả cùng vục bát vào chảo… “cháo thập cẩm”. Tôi đổ một thìa vào miệng,  đắng như nhựa đu đủ. Nhìn sang ai nấy tựa hồ nút rơm vào họng. Nước mắt tôi trào ra. Bố lệnh: “Tất cả nằm sấp lên phản”…

Vết lươn vừa lành miệng được vài hôm ông anh thứ hai không hiểu nghe ai, bỗng dưng mang bạn gái về xin cưới. Cả nhà lại trèo lên phản. Sau bữa ấy chị dâu tương lai mất tăm.

- Hôm nay đứa nào đi cầu không ném giấy vào sọt?

Chị cả rón rén bò lên phản, nằm chổng mông lên cho bố quất. Tưởng thế là thôi, bố vẫn lôi tôi lên:

- Hôm qua đi học đánh nhau thua là sao? Bụp…!

Chị cả đỡ đòn:

 - Chúng nó lớn hơn, em chả thua to còn gì!

- Tao dạy thế nào? Bụp…! Bụp…!

- Dạ, những kẻ cậy thế bắt nạt thì không được thua!

Tôi là đứa thoát ly cuối cùng, cũng đồng nghĩa với việc làm bị bông cho bố nhiều nhất. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi càng thấy lạ. Bao nhiêu lời an ủi ngọt như mía nướng của mẹ mà chị em tôi vẫn nhũn như con chi chi trước cơn đói lả do sức tàn phá của công việc. Tất cả sụp đổ trong nháy mắt, và cũng tức thì vùng lên trong chớp mắt nhờ những trận đòn vô cớ.

Mỗi lần bố nổi nóng là một lần chúng tôi vượt qua được bản thân mình, vươn lên như thân gỗ cứng cỏi, thách thức mọi gian nan. Đã có lần bố bảo, chẳng biết làm cách nào khi cả một bầu trời u ám, tối tăm trước mắt, may mà có người mách nước cho bố làm kinh tế bằng… đòn; định hướng tương lai con cái bằng… đòn. Cuối cùng thì, xin nghề cho con cũng bằng… đòn nốt - tức là không cố mà học, mà tự lập thì ăn đòn.

Ở Xóm Mới, ngoại trừ chị em tôi, không một đứa nào chịu nổi đòn bắt nạt suốt dọc 6 km đường tới trường, để học cho xong cái ngưỡng biết đọc biết viết. Đói khát, rét mướt, đá đấm và đường đất hậu thuẫn cho những cuộc đứt gánh bút nghiên, quay về xe tơ kết tóc từ lúc chưa sạch hỉ mũi. Nhà tôi “quái gở” vì bố tôi có… võ. Đòn thắng được tính khí hung hãn, bất cần, bất trị của anh hai. Đòn xốc cái ủy mị, tự ti, yếu đuối của chị bảy. Đòn kìm hãm ham muốn bất chấp của anh ba. Đòn động viên và vực chữa bệnh tự kỷ ám thị của anh năm, của tôi. Và đòn gọt giũa chị cả thành người chị đầy ắp ân thân và trách nhiệm…

Tết năm nay, chín chị em tôi về quây quần bên bố mẹ. Bốn anh sĩ quan quân đội đeo quân hàm cấp tá ngồi cùng mâm với hai ông anh rể công tác trong ngành dân vận và Hội đồng nhân dân tỉnh. Hai chị gái và một ông anh trai công tác trong ngành giáo dục chụm đầu trao đổi nghiệp vụ phổ cập trung học phổ thông trong tương lai không xa. Tôi làm báo, các anh chị sợ tôi ngồi cùng mâm hay phát biểu “mất quan điểm” nên đuổi ra mâm lũ cháu gồm cả công an, tư pháp, văn hóa, bác sĩ. Tôi không uống được rượu nên chúng nó bắt đọc thơ… “phóng sự” (tức là thơ đọc như một bài báo). Bọn trẻ con cười vỡ bụng.

Tôi không buồn vì chúng cười tôi không biết làm thơ nhưng vẫn cứ thẫn thờ như người mất sổ gạo. Số phận bi đát của chị em tôi một thời, một trường đoạn cuộc sống ăn rặt rọc khoai sọ mà vẫn xẻ núi bạt rừng, vẫn vượt qua tất cả bằng nghị lực… chịu đòn. Nhìn lũ trẻ vui tết, tôi bỗng lờ mờ hiểu ra một vài sự sắp đặt.

Bố đổ nước lã vào cái đèn măng-xông rồi nổi trận lôi đình? Bố cất con dao Mèo đi để tạo ra một vụ “xì-căng-đan”? Bố lập hiện trường giả cuộc mất tiền để mở tòa xét xử? Bố dạy con cái đánh nhau với bất kỳ đứa lớn hơn nào có hành vi cậy thịt đè người…? Bố không hề chợn tay khi phạng những đoạn cây vào người con cái? Bố không tỏ vẻ xúc động trước những nỗi oan đeo đẳng chín giọt máu của mình? Tất cả là nhằm để giáo dục trực quan. Có thực tế mới nhớ lâu, mới tránh trước được sai lầm, vận nạn…

Bước sang tuổi chín mươi, bố mới bắt đầu khóc. Giọt nước mắt khô cạn ngay trên khuôn mặt đầy hào rãnh.

Có một đôi lần tôi roi con gái mình. Con khóc, tôi khóc và một vài người thương tâm cũng khóc. Tôi bỗng thấy thương bố, vì cái quyền “thương con ra mặt” cũng phải chờ đến tận khi đã chín mươi tuổi bố mới được làm… 

Khi có những tiếng nổ liên tiếp ở sườn 800 Đông và ở phía trên Bản Đơ. Thằng Hà và thằng Phượng đang hái rau cũng hớt hải chạy về trận địa hỏi tôi:" Nó đánh ở đâu đó anh ", tôi chỉ tay về hướng Bản Đơ và sườn 800 Đông rồi bảo nó:" Đang bắn pháo sang Chốt 800 Đông kia kìa. Tôi liền giục 2 thằng chúng nó để rau vào gọn 1 chỗ vào lán mang khẩu Cối ra trận địa sẵn sàng đi, và mang 2 hòm đạn Cối ra chuẩn bị. Liên lạc B1 cũng truyền lệnh của Trung Đội Trưởng :" chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu " ( Vì khẩu Cối của tôi đánh phối thuộc với Trung Đội 1 ). Tôi vẫn ngồi quan sát điểm nổ của đạn quân TQ bắn tay vẫn làm cho xong cái điếu cày để còn hút thuốc lào. Dân bản bắt đầu gánh gồng và dắt díu nhau chạy loạn, gọi nhau í ới, thằng Khải cũng mang được 2 can nước đến trận địa, lúc đó tôi làm gần hoàn thành cái điếu cày thì quân TQ cũng dừng bắn ( TQ chỉ bắn pháo sang hướng của chúng tôi ngày 20-04-1984 có hơn 1 tiếng đồng hồ thôi ). Tôi chưa có kinh nghiệm phán đoán chúng bắn bằng pháo gì, nhưng tôi suy đoán hình như chúng bắn bằng Cối 82 thì phải. Vì điểm nổ rất gần với đường Biên Giới ( Ngay chiều hôm đấy Trung Đoàn tôi cũng cho C8 Cối 82 của Tiểu Đoàn 5 cơ động lên Lũng Pươi để bắn trả ( gọi là phản pháo) ). Tôi vừa làm xong cái điếu cày, hút thử 1 điếu thuốc lào đang say lơ mơ thì anh Hòa Đại Đội Trưởng cùng liên lạc Đại Đội lên đến trận địa Cối của tôi kiểm tra trận địa, và công tác sẵn sàng chiến đấu cùng hầm bảo quản đạn Cối, rồi khen khẩu đội Cối của tôi làm công tác chuẩn bị chiến đấu tốt. Và thông báo cho tôi biết TQ đã bắn pháo sang mình. Khiêu khích vào lúc 8 giờ sáng nay, tôi trả lời luôn:" Vâng em biết rồi, mắt em còn nhìn thấy điểm nổ của đạn pháo TQ mà". Nhân tiện tôi cũng kiến nghị luôn với anh Hòa C Trưởng, những khó khăn của khẩu đội Cối tôi. Nhất là về người vì theo biên chế chính thức khẩu đội Cối 60 của tôi đánh phối thuộc theo chiến thuật phòng ngự và phản công ( Nhưng lại là độc lập tác chiến phải có 6 người ) Rồi tôi muốn ứng phụ cấp để mua cho khẩu đội Cối mấy cái đèn pin và bật lửa để tiện cho sinh hoạt và phục vụ chiến đấu. Anh Hòa C trưởng hứa:" Khi có quân lên thì sẽ bổ xung ngay, còn ứng phụ cấp thì chiều về Đại Đội giao ban và nghe thông báo thời sự ở trên thì sẽ bảo quản lý ứng cho luôn". Khi anh Hòa C trưởng cùng liên lạc đi sang các Chốt của bộ phận khác tôi liền hô chúng nó khẩn trương thổi cơm ăn cái đã. Còn mọi việc tính sau. Ngay chiều hôm đó 20-04 tôi về ban chỉ huy Đại Đội ở Lũng Ngẳm hội ý thì đã thấy có lính mới rồi ( Lính tháng 3-84 Mê Linh huấn luyện ở Rẻ Gà đã giải tán và biên chế về cho các đơn vị. Và tôi được biết tình hình biên giới ở các phía Bắc TQ tiến công mạnh nhất ở 2 tỉnh Lạng Sơn và Hà Giang còn ở Hướng Cao Bằng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 246 ở Hà Quảng Cao Bằng có bị thiệt hại nhưng nhẹ thôi. Rồi Đại Đội trưởng nhắc chúng tôi cảnh giác không được chủ quan khinh địch và biên chế bổ sung cho khẩu đội cối của chúng thêm 2 lính nữa và quản lý ứng cho tôi phụ cấp tháng 4-1984. Tôi đưa lính mới về đến bản Keng Lòi liền rẽ vào mua 2 cái bật lửa, 3 cái đèn pin ( TQ ) Khi về đến trận địa tôi liền hô thằng Khải bắt đầu từ chiều nay thổi 6 xuất cơm. Tôi đưa 2 thằng lính mới - lính 3-1984 ( Mê Linh - Hà Nội ). Thằng Xá và Thược, hô thằng Khải lấy thêm gạo thổi cơm, tôi liền chọn thêm 1 cái hốc đá nữa, rồi hô chúng nó hỗ trợ làm thêm một cái lán nữa cho 2 thằng lính mới vì làm lán đơn giản chỉ 1 lúc là xong. Khi cái lán đã hoàn chỉnh tôi hướng dẫn chúng nó trải chiếu mắc màn luôn và cũng nói quy định sử dụng nước ở khẩu đội. Thế là giờ khẩu đội cối 60 của tôi có đủ 6 người nhưng vẫn chỉ có 20 lít nước 1 ngày và tôi cũng phân công quán triệt gác đêm cho đur thời gian, tránh tình trạng như đêm hôm trước chúng nó gác không đủ thời gian và tôi cũng hướng dẫn 2 thằng lính mới cách lắp liều phóng chính và liều phóng phụ cùng ngòi nổ của cối 60. Rồi tôi giới thiệu từng người tên tuổi, quê quán , năm nhập ngũ cho thằng Xá và thằng Thược biết lúc đó cơm canh thằng Khải đã nấu xong tôi liền hô tất cả chúng nó đi ăn cơm sớm cho sáng sủa để còn lấy ăng-gô và bát, tí pha trà uống nước.

- Ăn cơm xong đang ngồi uống nước trà tôi mới nhớ ra ở bản Keng Lòi nhà anh Háo mà lúc chiều tôi vào mua đèn pin và bật lửa, được biết nhà anh ấy có con chó hơn chục kg muốn bán. Tôi liền hỏi thằng Xá và thằng Thược ( lính mới ) còn tiền không ? cho khẩu đội vay tôi sẽ đứng lên có trách nhiệm hoàn trả lại chúng nó khi có phụ cấp. 2 thằng chúng nó bảo mỗi thằng còn hơn 100 đồng. Tôi nghĩ thế là có hơn 200 đồng rồi, quá đủ vì tôi đoán con chó chỉ hết 150 đồng là cùng còn rượu thì 10 đồng 1 lít, chè, thuốc lá, thuốc lào thì chúng tôi đã có sẵn rồi ( Hội Thanh Trố mua để lại ) chỉ thiếu có mì chính nữa thôi tôi liền cầm tiền và đèn pin mới mua vào bản. Trước khi đi tôi còn nhắc nhở chúng nó để ý đến súng ống và đạn dược cẩn thận. Tôi vào bản Keng Lòi hỏi anh Háo mua con chó thì anh ấy đòi 170 đồng, tôi liền chê đắt và còn nói để đánh vào tình cảm, lính làm gì có tiền mà anh đòi nhiều thế mà tôi lại nắm được tập quán dân tộc ở đây, không ăn thịt chó, thịt trâu và thịt bò. Mà thằng cha này đang sợ TQ đánh sang phải chạy loạn nên mới bán mặc cả cò kè mãi sau tôi vẫn phải mua với giá 150 đồng đúng như dự tính và đặt mua 5 lít rượu nữa ( rượu ở đây là rượu ngô chỉ 28 - 30 độ thôi ) mà tôi cũng còn hơn 10 đồng tiền ứng phụ cấp, mua đèn pin và bật lửa còn thừa. Tôi đặt và trả hết tiền mua chó và rượu luôn vẫn còn thừa tiền mua được 1 lạng mì chính nữa. Tôi liền mua thêm 1 bò đỗ tương nhờ gia đình anh Háo rang hộ luôn và lấy 1 lít rượu về trước để liên hoan đêm nay cái đã. Còn chó tôi bảo sáng mai tôi mới bắt chứ bắt về ngay bây giờ mà trói ghì cánh khỉ sợ sáng mai nó chết mất. Tôi vui vẻ ra về vì đã đạt được và thể hiện cái đèn pin mới mua luôn. 

Khi tôi thỏa thuận mua bán vơi anh Háo ở bản Keng Lòi xong tôi về đến trận địa cối thì mấy thăng chúng nó nhao nhao hỏi tôi có mua được chó không anh tôi liền bảo xong xuôi hết rồi,sáng mai vào bắt chó về thịt luôn,sẽ tìm tia đánh tiết canh tử tế,rồi tôi lấy nốt 2 cái đèn pin ra lắp nốt pin vào giao cho mỗi lán 1 cái,tôi còn nhắc nhở chúng nó,có đèn pin rồi mỗi lán 1 cái buổi tối có đi vệ sinh phải đi ở xa lán ra,vào tận khe núi kia kìa chứ đừng đi ở gần lán ở mất vệ sinh lắm và tôi phân công thằng Phượng ngày mai trực nhật và dặn nó đi lấy nước sớm để còn có nước thịt chó,và tôi cũng bảo luôn thằng Hà và thằng Thược mai cùng đi vào bản mới tôi để bát chó và lấy rượu về. Rồi tôi hô:" Còn bây giờ thì liên hoan trước cái đã mừng cho khẩu đội ta có thêm 2 lính mới.

- Khi 6 thằng đã tẩn hết 1 lít rượu cùng 1 bò đậu tương rang, trước khi đi ngủ tôi vẫn nhắc nhở chúng nó gác đêm cẩn thận. Tôi vẫn gác cuối cùng đêm thứ 2 ở Chốt lại có thêm người nên chúng nó gác và gọi đổi gác khá nghiêm chỉnh. Khi thằng Hà gọi tôi dậy đổi gác thì tôi cũng chỉ gác hơn 1 tiếng thì trời sáng. Khi trời sáng hẳn tôi liền khua hết chúng nó dậy hút thuốc lào, súc miệng xong tôi liền bảo ai vào việc ấy luôn theo nhiệm vụ đã phân công từ tối hôm trước. Tôi Hà và Thược vào bản bắt chó, Phượng xuống Cổng Trời lấy nước thằng Xá ở lại trông coi vũ khí và lán trại, thằng Khải đi đào giềng, hái lá mơ và mùi tàu ( Mùi tàu tiếng miền nam gọi là ngò gai ). Các thứ đó cũng ở gần lán thôi, mỗi người 1 việc, 3 chúng tôi vào đến bản Keng Lòi thì anh Háo đã buộc con chó vào cột gầm sàn rồi. Tôi leo lên sàn nhà chào hỏi qua loa rồi xin phép và bảo anh Háo xuống gầm sàn hỗ trợ cùng chúng tôi bắt chó. Qua vài động tác cơ bản và thành thạo lại được sự giúp sức của chủ nhà, chúng tôi bắt và trói con chó ( trói mõm, trói chân ) ngon lành rồi lấy khúc củi bằng cổ tay xỏ vào khe của 2 chân sau của con chó khiêng về còn rượu thì anh Háo cho mượn 1 cái bi đông bằng nhựa to đóng vào. Thằng Thược và thằng Hà khiêng con chó và cầm rượu về còn tôi đi liên hệ xin 1 bó cỏ ranh khô vác về để thui chó. Khi vác bó cỏ ranh về đến trận địa thì thằng Hà và Thược đã về trước tôi 1 lúc rồi. Thằng Khải đi đào riềng và hái rau cũng về rồi. Tôi ngồi xuống hút điếu thuốc lào lúc đó mới nhớ ra còn thiếu lá chuối để kê lót làm chó cho nó sạch. Tôi lại sai thằng Khải vào khe chặt mấy tàu lá chuối. Tôi thằng Hà và Thược treo ngược con chó lên để tìm tia hồng. Khi tôi cầm chiếc đũa đã được vót nhọn bới bới, chọc chọc để tìm tia thì lại nghe thấy tiếng:" Oành....Oành....Oành". ( TQ lại bắn pháo sang ). Thằng Hà và thằng Thược đang giữ con chó để tôi tìm tia rời ngay tay ra và bảo:" Nó lại bắn kìa anh ". Con chó đang bị giữ chặt được thả ra, nó giẫy dụa lung tung. Tôi liền quát:" Chúng mày giữ lấy con chó, giữ chặt vào, còn nó bắn thì kệ ch...a chúng nó". Cứ thịt chó ăn cái đã, mọi việc tính sau. Khi tôi tìm tia, cắt tiết xong con chó thì xoong nước đun đã nóng già. Tôi liền nhúng nước con chó để vặt lông. Ở sát đường biên chốt 800 Đông và Bản Đơ, TQ vẫn bắn pháo sang. Hôm nay Trung Đội 1 cũng chẳng cần bảo liên lạc nhắc nhở khẩu đội cối của chúng tôi nữa vì phương án tác chiến của khẩu đội Cối tôi đã có sẵn rồi. Còn phản pháo để bắn trả kịp thời thì đã có C8, Cối 82 của D5 làm nhiệm vụ đó còn Cối 60 của tôi chỉ khi nào quân TQ tiến vào đến Bản Trang ( Vị Quang ) thì mới được bắn, Bản Trang là tiếng dân tộc dịch ra tiếng Kinh gọi là Bản Giữa, nó nằm ở điểm giữa giao nhau của thung lũng Vị Quang cách trận địa Cối của chúng tôi trên đỉnh Cổng Trời khoảng 500m mà TQ nó cứ bắn vu vơ như thế. Chúng tôi kệ cứ vẫn yên tâm bình tĩnh làm thịt chó. Khi con chó đã được thui vàng tròn căng. Tôi rửa sạch rồi mổ bỏ lòng ra cho thằng Khải và Thằng Hà làm, Thằng Xá và Thược phụ giúp tôi pha và lọc thịt. Thằng Phượng tiếp tục đi lấy 1 chuyến nước nữa. Tôi còn dặn thằng Phượng khi đi qua chốt B1 bảo anh Sử Trung Đội Trưởng đến trưa lên khẩu đội uống rượu thịt chó. Khi việc sơ chế con chó đã xương ra xương, thịt ra thịt rồi. Tôi mới chọn miếng nào để băm tiết canh miếng nào hấp, miếng nào làm rựa mận thì tôi thấy mấy người lính xách cả súng hớt hải chạy qua chỗ chúng tôi dáng vẻ vội vã tôi liền quát hỏi:" Này ! chạy đi đâu mà như ma đuổi thế ở đơn vị nào?" Chúng nó bảo:" Ở 800 Đông ". Thì ra là lính K6 địa phương ( người bản địa ). Thấy TQ bắn sang Chốt ác quá 2 ngày rồi, thì xách súng bỏ chạy. Tôi liền bảo:" TQ nó đang bắn sang không ở lại mà giữ chốt lại bỏ chạy nhỡ nó cho quân sang cướp chốt thì sao". Chúng nó bảo:" Em không biết, sợ lắm, chạy về với gia đình thôi, nếu TQ nó đánh sang thì cùng với gia đình đi sơ tán". ( Lính địa phương,người dân tộc nhà ở gần đơn vị thường là như thế đấy các bạn ạ )

- Chính vì lính địa phương bỏ chạy như thế, chúng tôi lại lên nhận bàn giao tất cả các Chốt ở sát đường biên còn lính K6 địa phương chuyển đi đâu thì tôi không rõ. Về việc này tôi sẽ viết kĩ thứ tự ở hồi kí của tôi sau. Tôi không muốn viết nhảy cóc kể cả về thời gian, không gian và địa điểm các bạn ạ.

- TQ vẫn cứ bắn chúng tôi vẫn cứ làm thịt chó để tổ chức liên hoan mừng có thêm lính mới và cũng ăn mừng hội lính 80 ở đơn vị tôi và cả Tiểu Đoàn 4 chúng tôi không có thằng nào bị giữ lại cả. Vì chúng nó chạy trốn thoát hết còn ở Tiểu Đoàn 5 và 6 tôi nghe hình như có mấy thằng bị bắt giữ lại đơn vị, thu quyết định luôn. Có thằng còn bị vệ binh sư đoàn giữ lại ở tận Nước Hai thu quyết định lại và đuổi về đơn vị cũ

- Hôm nay ngày 21-4 TQ bắn pháo sang hướng của bọn tôi gần 2 tiếng. Nhưng điểm nổ còn cách Chốt của chúng tôi hơn 1000m tính theo đường chim bay. Khúc dồi chó được cuộn tròn vào cây trúc nước vàng óng, thơm phức. Những bát tiết canh đông đặc chúng tôi 6 thằng và mời thêm anh Sử B Trưởng B1 nữa, chén 1 bữa trưa không hết. Chiều tối còn bao nhiêu 6 thằng chúng tôi chiến tiếp, hết sạch. Ngày hôm đó từ trưa đến tối tôi lúc nào cũng trong trạng thái lơ mơ và lơ mơ vì rượu ( lính mà ) ; Trong những ngày thuộc hạ tuần tháng 4-1984 đó TQ  liên tục bắn pháo sang hướng của chúng tôi đóng quân nhưng chúng bắn có giờ giấc đàng hoàng lắm cứ 8 giờ sáng là chúng bắn, mỗi ngày chỉ hơn 1 tiếng hoặc gần 2 tiếng đồng hồ là cùng. Đầu tiên còn thấy lo và sợ sau vài ngày nó quen đi thành nhàm, tôi chẳng thèm quan tâm để ý đến nữa. Quân C8 Cối 82 của D5 chúng nó vẫn trực ở lũng Pươi và được C vận tải Trung Đoàn vận chuyển đạn Cối 82 lên tiếp viện liên tục để sẵn sàng bắn trả khi TQ bắn sang ta. Từ ngày 22-04-1984 thì kho thực phẩm dự trữ chiến đấu của Trung Đoàn mới cấp lên cho chúng tôi sử dụng ( Thịt lợn sấy, tương khô, mắm kem ). Đến sáng ngày 26-04 thì không thấy TQ bắn sang hướng của chúng tôi nữa, đến trưa hôm đó tôi nhận được lệnh cử người xuống Đại Đội ở Lũng Ngẳm lấy lương thực và thực phẩm, tôi nghĩ thịt lợn sấy cấp phát cho chúng tôi ăn vẫn còn, bây giờ  lại được cử người đi lấy nữa thì thích quá. Tôi liền cử thằng Khải và thằng Phượng về Đại Đội lấy gạo, thịt và còn dặn chúng nó rõ ràng:" 2 thằng mang 2 cái ba lô về lấy 10 ngày gạo là 42kg. 2 thằng xan đôi ra 2 ba lô là vừa đầy, hơi nặng một tí nhưng thôi, cố gắng". Khi 2 thằng chúng nó về Lũng Ngẳm rồi còn 3 thằng tôi giao việc luôn, đi hái rau ở xung quanh lán. Còn tôi cầm dao vào khe núi chặt lấy 1 cây mai vác về lán, chặt lấy mấy đoạn để đựng nước. Rồi tôi đẽo 1 cái đòn gánh đàng hoàng và cầm 2 cái can xuống mỏ nước tắm giặt và lấy nước luôn. Tắm giặt mát mẻ tôi gánh 2 can nước lên Cổng Trời, về đến trận địa Cối thì thằng Khải và thằng Phượng cũng lấy gạo và thịt về đến nơi. Tôi giật mình vì nhìn thấy 2 thằng chúng nó đã khoác mỗi thằng 1 ba lô gạo hơn 20 kg rồi lại còn khiêng cả 1 cái đùi lợn ( 1/4 con ). Tôi liền hô thằng Hà và Thược ra đỡ cho chúng nó, tôi cũng đang mệt vì vừa gánh nước leo Cổng Trời. Khải và Phượng cũng thở hổn hển, khi nghỉ ngơi cũng đỡ mệt rồi tôi mới hỏi tình hình thế nào sao nhiều thịt thế. Chúng nó bảo tiêu chuẩn mỗi người được 2,5 kg cả xương mà khẩu đội mình có 6 người được 15kg tất cả. Nhưng khổ cái thịt đã có mùi ôi ( thum thủm rồi ). Thì ra là thịt lợn của đồng bào tỉnh Hà Nam Ninh gửi tặng các chiến sĩ Biên Giới. Thịt lợn từ tỉnh rồi, cho vào xe đông lạnh chở thẳng lên Sư Đoàn 346. Rồi hôm sau Sư Đoàn, rồi nhập kho để qua đêm, sáng hôm sau cho chở vào E 677 bằng xe tải thì lợn đã hết lạnh rồi. Rồi từ E 677, ngày hôm sau C vận tải chuyển lên cho D4 chúng tôi hôm sau nữa D mới thông báo cho các C sang lấy đến chiều thì thịt lợn mới về được đến Chốt cho bộ đội dùng. Tôi ước tính từ khi thịt lợn cho đến khi lên đến Chốt mất khoảng 3 đến 4 ngày với số lượng nhiều như thế mà lại không bảo quản được kĩ mà không ôi thiu ( có mùi ) mới là chuyện lạ. Nhưng dù sao vẫn còn tốt chán các đồng chí và các bạn ạ. Vẫn còn có tí mỡ tí màng !

 

Khi thằng Khải và Phượng xuống Đại Đội lấy gạo và thịt lợn về ( 15 kg; 1/4 con lợn ) đã có mùi nhưng còn tốt chán. Tôi liền chỉ đạo chúng nó pha ít nước muối, rửa thật sạch rồi lọc hết mỡ ra để rán, còn thịt nạc cũng thái ra để rán cháy cạnh. Tôi liền chặt 2 cái ống mai ra để đựng mỡ, còn thịt đã rán cháy cạnh tôi cho ướp muối để ăn dần. Khi mỡ và thịt dự trữ đã nhiều ăn mãi cũng chán. Tôi liền đầu têu dẫn chuyện bàn với chúng nó ở khẩu đội, phải kiếm 1 bữa cá ăn, mà cá tươi hẳn hoi, khi chúng nó nghe thấy tôi nói đến cá tươi, mắt thằng nào cũng trợn lên lắc đầu. Có thằng còn bảo ở trốn thâm sơn cùng cốc thế này có cá mắm ăn là tốt lắm rồi, chứ lấy đâu ra cá tươi mà ăn, tôi liền bảo mỡ hiện giờ chúng ta đang có sẵn rồi, tôi sẽ kiếm cho chúng nó 1 bữa cá tươi rán ăn tử tế, nhưng bây giờ còn để tôi phải tính đã. Để hôm nào đẹp trời và thuận tiện thì mới thực hiện được chúng nó không tin. Tôi không nói trước cũng chẳng bàn nhiều làm gì mà tôi phải cho hội này tâm phục khẩu phục mới được. Vì tôi đã tăm tia được 1 cái ruộng ở gần Bản Cốc Cằng ( Đa số là người Hoa ). Có thả cá, toàn cá chép, chỉ to bằng 3; 4 ngón tay khoảng 2 đến 3 lạng 1 con mà nước ruộng ở đây rất nông chỉ khoảng 30cm là cùng mà nước chảy ra chảy vào liên tục chỉ cần đắp bờ phía trên không cho nước chảy vào ruộng nữa mà nước cứ chảy ra thì 1 tí là cạn chứ không phải tát đi đâu ( vì ruộng bậc thang tôi đã tính toán và lên phương án rất kĩ rồi).

Vào 1 buổi chiều, khi ăn cơm xong tôi liền bảo luôn đêm hôm nay trăng sẽ có muộn, phải tầm 1-2 giờ sáng thì trăng mới lên nhưng trăng yếu chỉ sáng lờ mờ rất thuận tiện chứ không sáng như trăng hôm rằm và sát rằm. Tôi liền bảo thằng Hà và Khải đêm nay sẽ đi cùng tôi còn Phượng, Thược, Xá ở nhà trông coi súng đạn và còn dặn chúng nó cẩn thận nếu có ai phát hiện ra chúng tôi không ở Chốt thì cứ bảo chúng tôi đi bản uống rượu từ tối chưa về. Còn thằng Hà và Khải phải nhất nhất theo lệnh của tôi mà phải bình tĩnh không sẽ hỏng hết việc. Tôi liền bảo chúng nó dồn gạo vào ba lô để lấy cái bao tải dứa để chuẩn bị đêm mang đi đựng cá tôi còn dặn kĩ là cá ở trong ruộng lúa đi bắt cẩn thận tránh dẫm nát lúa  vì lúa thời điểm này đã cao đến đầu gối rồi. Chúng nó nói tôi yên tâm đi, ở nhà chúng nó làm ruộng vẫn đi làm cỏ lúa đi vào ruộng quen rồi.

Qua 12 giờ đêm yên tĩnh, ánh trăng yếu ớt, vàng ệch lờ mờ những con đom đóm bay lượn lập lòe đêm vùng biên yên tĩnh quá. Tôi khoác 1 khẩu AK đầy hộp tiếp đạn. Đạn đã lên nòng khóa chốt an toàn lại hạ lệnh xuất phát xuống cổng trời vừa đi vừa dặn kĩ lại chúng nó lần cuối khi đi xuống đến ruộng thằng Hà sẽ đắp bờ trên không cho nước chảy vào ruộng nữa,thằng Khải sẽ tháo to bờ nước dưới để nước chảy ra nhanh. Khi bắt được cá thì ném lên bờ, tôi sẽ nhặt cá cho vào bao tải và tôi cảnh giới luôn. Khi có động ( Bị lộ ) tôi sẽ nổ súng để áp đảo và cản thì chúng nó sẽ chạy ngược Cổng Trời về Chốt cấm không được gọi tên nhau.

Khi xuống đến ruộng như phương án đã bàn chúng nó thoăn thoắt công việc rất gọn gàng, bình tĩnh, gần như không phát ra tiếng động chỉ một loáng, những con cá chép bằng 3-4 ngón tay đã được chúng nó ném lên bờ. Dưới ánh trăng lờ mờ những con cá dẫy nhẩy lên óng ánh nhìn như những thỏi bạc, trông thích mắt đáo để. Tôi nhặt liên tục cho vào bao tải, khi cảm thấy kha khá ( khoảng trên 30 con to nhỏ lớn bé ). Tôi liền bảo chúng nó thôi dừng lại, đủ rồi. Thằng Hà lại lên tháo bờ trên cho nước chảy vào ruộng. Khải đắp bờ ruộng dưới vợi vào quan sát xem có khóm lúa nào đổ thì vuốt dựng lại khóm lúa đó để xóa dấu vết. Rút ! 2 thằng chúng nó khiêng cá đi trước, tôi khoác súng đi sau để bảo vệ, qua mỏ nước Là Nìn tôi bảo chúng nó nhúng cả bao tải cá xuống nước để rửa cá cho sạch rồi mới mang về Chốt.

Nhớ ngày còn huấn luyện tại E36/F308 có nhiều chuyện bây giờ nghĩ lại vẫn cười...ra nước mắt.

Ngày đó ăn sáng thì mỗi thằng được phát một cục mì luộc to bằng cái nắp chuông xe đạp ngày xưa. Hôm nào anh nuôi nó làm cẩn thận thì còn dễ nuốt, hôm nào nó luộc vụng thì nhão be nhão bét, không thành cháo mà cũng chẳng thành cục. Không ăn thì đói mà ăn vào thì chỉ muốn ói ra. Đêm hôm trước anh nuôi nặn mì thành cục để thành hàng dãy trên giá cho nó nở. Ban đêm, lính tân bình gác thấy đói bụng liền mò xuống bếp dùng que tre vót nhọn xiên liền một lúc 78 cục về hí húi luộc cho nhau ăn. Không bắt được thằng nào nên hôm sau báo động toàn tiểu đoàn, đứng dưới nắng để nghe chính trị viên diễn thuyết suốt 2 tiếng đồng hồ về quân phong, quân kỷ của người quân nhân cách mạng. Cũng vì đói nên lính xuống nhà ăn là a la xô xuống mấy chảo nấu cơm để lượm cháy tranh của lợn. Mấy thằng anh nuôi tức quá nên cứ chia cơm xong là đổ nước vo gạo vào chảo để mấy con lợn của tiểu đoàn còn có cái ăn.

Để tránh phải ra thao trường, nhiều mánh dùng để cáo bệnh ra đời. Ông Thắng già cùng đi một đợt với tôi ( gọi là là già vì năm đó anh ấy đã 29/30 tuổi rồi - Vợ vừa đẻ con gái được 3 ngày thì lên đường ) cáo bệnh bằng cách bôi nhựa xương rồng vào bìu chim. Nó xưng to tướng lên phải đi QYV 103 mất mấy tháng, thế là thoát không phải đi chiến trường.

Cái nạn khoán nộp phân phục vụ tăng gia rau xanh cũng lắm chuyện cười. Ngày chủ nhật là ngày nghỉ nhưng đợn vị cũng không cho nghỉ hoàn toàn. Mỗi thằng muốn nghỉ phải nộp 30 kg phân bắc ( phân người ) hoặc 50 kg phân chuồng ( phân gia súc ) hoặc 100 kg phân xanh. Đứa nào xong sớm thì nghỉ sớm. Thế là xảy ra nạn ăn cắp....cứt. Nhiều đứa muốn nghỉ sớm nên đã đi xin, lấy trộm... từ chiều hôm trước để sáng mai chủ nhật cân sớm để nghỉ sớm. Dấu dấu diếm diếm không khéo bị lộ ra là đêm hôm ấy mất ngay lập tức. Hố xí của đại đội nào, đại đội ấy phải giữ như giữ nhà tổ. Hố xí lúc nào cũng sạch bong. Lắm khi đang ngồi ..dị hoá, nhìn xuống lỗ thấy có cái xẻng đang thò ra hứng. Những mẫu chuyện lính huấn luyện thời đó sao mà giống nhau thế ,F 308 ở bắc với F 5 ở Núi đất cũng ...y chang .Tiêu chuẩn thời đó cũa mình hình như là chỉ 5 lạng rưỡi ,sáng 01 cái bánh bột mì luộc ;trưa ,chiều 01 chén cơm và 01 cái bánh như thế ,nhiều khi là 02 cục bột mì luộc  ;cơm cháy trong chão thì dành cho heo nên cũng bị đổ nước vo gạo vào ngay sau khi lấy cơm xong ,lính nhà ta tranh thủ giựt được miếng nào hay miếng đó ,còn tăng gia thì

y như bác Thọ kể ,hình như toàn quân đều 01 cách ,nhiều khi trong chậu canh rau cải không người lái ,trên lá rau còn dính giấy báo ....do anh nuôi rửa rau không kỷ ,giấy báo dính vào rau trong quá trình tưới phân ...bắc còn tươi cũa lính  .Cũng nhưng trò dùng que thông nòng xiên qua cục bột luộc vào ban đêm lúc đi lấy nước cho B ( vì bị cấm xuống bếp ban đêm nên chỉ còn cách ...hai thằng khiêng thùng đi lấy nước uống kèm theo 01 thanh tre hay 01 cây thông nòng ). Những mẫu chuyện lính huấn luyện thời đó sao mà giống nhau thế ,F 308 ở bắc với F 5 ở Núi đất cũng ...y chang .Tiêu chuẩn thời đó cũa mình hình như là chỉ 5 lạng rưỡi ,sáng 01 cái bánh bột mì luộc ;trưa ,chiều 01 chén cơm và 01 cái bánh như thế ,nhiều khi là 02 cục bột mì luộc  ;cơm cháy trong chão thì dành cho heo nên cũng bị đổ nước vo gạo vào ngay sau khi lấy cơm xong ,lính nhà ta tranh thủ giựt được miếng nào hay miếng đó ,còn tăng gia thì

y như bác Thọ kể ,hình như toàn quân đều 01 cách ,nhiều khi trong chậu canh rau cải không người lái ,trên lá rau còn dính giấy báo ....do anh nuôi rửa rau không kỷ ,giấy báo dính vào rau trong quá trình tưới phân ...bắc còn tươi cũa lính  .Cũng nhưng trò dùng que thông nòng xiên qua cục bột luộc vào ban đêm lúc đi lấy nước cho B ( vì bị cấm xuống bếp ban đêm nên chỉ còn cách ...hai thằng khiêng thùng đi lấy nước uống kèm theo 01 thanh tre hay 01 cây thông nòng ).

Thì của lính mà bác, nhưng phải thừa nhận lính trồng thứ rau gì cũng cứ gọi là mơn mởn như gái 18 ý, các bác nhỉ!  ;D . Cái món "Ngũ cốc luân hồi" thời đó có giá lắm, tranh nhau lấy như bác Thọ nói. Tụi em hồi đó cũng tranh thủ từng phút một để kiếm điểm với Đại đội! Cả tiểu đội xách xô, xách xẻng chậy ầm ầm để hốt cho nhanh, không thì tthằng khác dành mất! Giờ nghĩ lại thấy vui đáo để! nhớ ngày xưa bọn em ghét nhất là thằng anh nuôi , cơm bữa 3 chén B52 mà vẫn đói nên xuống bếp cạo cơm cháy , cả chục thằng bâu vào chảo cơm thằng anh nuôi đứng trên miệng chảo vung cây chèo dùng để đảo cơm như Quan Vân Trường múa đao bổ xuống đám lính không thương tiếc , thằng phụ bếp thì xáxh xô nước đổ vào chảo . Tụi nó nhất quyết không cho lính cướp cơm cháy . Sau này khi được được trực bếp thì mới biết lệnh của quân y D không cho lính ăn cơm cháy vì sợ ..đau bao tử . Đau bao tử đâu không biết nhưng thấy cơm cháy sau khi ngâm nước được chuyển hết qua chuồng heo của vợ ông D phó chính trị ngay sát bên bếp

chuyện quân trường nói hoài không hết, hồi tôi là tân binh huấn luyện ở núi Thị vải Bà rịa, có anh tân binh nói là đang tu ở chùa mà phải nhập ngủ (anh em chúng tôi đóan là ba xạo) nhất quyết không ăn cơm, ý quên ăn cao lương quan trường, chúng tôi thấy lạ và ngầm để ý thấy rỏ ràng hắn không ăn, thấy tội chúng tôi mang vềđộng viên hắn ăn nhưng hắn nhất quyết không ăn.Hắn còn nói hắn có căn tu chỉ uống nước không cũng sống khỏe, hắn còn phê phán chúng tôi là phàm phu tục tử, nhục vì miếng ăn, vì mấy miếng cháy vớ vấn mà để mấy thị mẹt chị nuôi chửi mà không biết nhục.Từ ngày nhập quân trường đã hơn 15 ngày mà vẩn như thế, bửa chủ nhật nọ có chút tiền chúng tôi kéo ra căng tin uống trà đá tán dóc bàn chuyện trên trời dưới đất và có bàn tán thắc mắc về tay nầy.Cô Loan bán căng tin nghe thế hỏi các em nói chú Sơn ở Tây ninh phải không, chúng tôi nhao nhao lên là phải, cô ấy cười nói chú ấy ăn mì tôm không hà, chú ấy mua 3 lần rồi mổi lần 6 gói, mới trưa hôm qua lúc nghỉ trưa chú nói hết tiền rồi mua không đủ 6 gói xin cho nợ lại 2 gói, tuần sau có tiếp tế sẽ trả, thì ra thế, trời phật ơi thằng cha nầy đểu thật.Chúng tôi kéo vào chẳng nói chẳng rằng lôi ba lô hắn ra đúng còn 4 gói, mặt cho hắn la oai oái,bẻ ăn khô hết.Thì ra lúc vắng người và ban đêm hắn len ăn mì khô rồi uống nước, mà mì tôm nửa, chứ trời phật nào độ hắn, hết tiền hết lương thự dự trử hè hè hắn phải đi ăn cao lương cùng chúng tôi, sau nầy qua k hắn xơi thịt chó thầy chạy luôn, chúng tôi gọi hắn là Sơn sư phụ.hơn 20năm rồi...bạn còn khỏe không? Đúng đấy bác Nam! Cá kho nồi đất thì ngon ngọt. Cơm nấu nồi đất thì khỏi chê, dẻo thơm! Miếng cháy vàng đều, giòn tan....Nếu nấu bằng lửa rơm thì lại càng tuyệt vời nữa! Giống như làm thịt xike thui bằng rơm vậy....

Cháy cơm (một số vùng còn gọi là xém) từ nồi đồng hay niêu đất mới ngon! Gạo mới, nhiều nhựa, đun bằng rơm hay trấu thóc, cạn nước lấy đũa cả gài vung niêu rồi vùi vào tro than còn nóng mới cho ra cháy cơm đúng cách. Miếng cháy hanh vàng, mỏng, giòn, mặt láng, ăn ngậy và không ghê răng.

Cháy chảo bộ đội cũng hút hàng vì lính đói. Loại cháy này miếng dày, vàng đậm, lỗ chỗ do gạo cũ, hạt gạo chưa kịp nở đã thành cháy trước khi xẻng kịp lia tới. Đói bụng thì tạm tranh ăn của trự chứ lính nhá miếng cháy cứng như thế rất ghê răng. Cháy thời đấy mà răng các bác ngày nay chắc ăn vào không chịu được

ừ ống bơ đến bơ bò

(Khám phá - TT&VH) -

Thuở nhỏ, bố mẹ tôi đi làm cả ngày, việc cơm nước trong nhà mẹ lo toan nhưng bà luôn cắt đặt cho mấy chị em tôi mỗi người một việc. Tôi được giao việc vo gạo , chẻ củi…các em thì nhặt rau, rửa bát…

Tùy theo bữa ăn trong ngày mà mẹ tôi dặn sáng sáng trước khi đi trực chiến giao thông ngoài cầu phao Sông Hồng. Mẹ dặn: “Hôm nay con đong cho mẹ hai bơ gạo nhé, lấy thêm mấy nắm mỳ đẻ sẵn để độn…”, “ Hôm nay có Bác Dung lớn về ăn cơm trưa, con đong hai bơ một gạt nhé”, "Con chịu khó đong cho mẹ ba bơ gạo rồi  đi xếp hàng đổi bún. Chiều đi làm về mẹ xếp hàng mua mấy lạng thịt nướng chả, nhà ta làm bữa cải thiện lâu rồi chẳng có tí mỡ nào”… Tôi cứ  theo lệnh mẹ mà làm. Mở cái thùng gạo vơi, lấy cái ống bơ cũ kỹ đong đã mòn sáng bóng làm theo lời mẹ dặn.

Cái ông bơ ấy nó nằm trong thùng gạo nhà tôi từ ngày nảo ngày nào tôi cũng chẳng biết. Chỉ biết là từ khi lớn lên đã thấy nó nằm ở đấy rồi.

Một hôm, tôi tò mò bỏi bố: “Bố ơi, tại sao lại gọi cái lon sắt tây ấy là ống bơ?”. Bố tôi là người rất quan tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói cho mấy chị em tôi. Nói gì sai là ông sửa. Chúng tôi đi học về đôi khi nói sai chữ L thành chữ N hay tr thành ch là ông bắt sửa cho bằng được. Thấy hỏi vậy,  ông lục trong thùng đồ nghề thợ nguội cũ của ông ra một cái hộp sắt tây đựng ốc vít. Cái hộp giống hệt như cái bơ đong gạo trong thùng gạo. Ông giải thích: “Đây là cái vỏ đồ hộp đựng bơ của lính Tây ngày xưa”. Cái vỏ ấy sơn màu cứt ngựa của lính dưới đáy còn in hằn những con số. Ông bảo đây chính là một trong hai cái hộp đựng bơ của lính Tây. Ăn xong người ta vứt đi. Bố lượm về sử dụng. Một cái để đong gạo, cái còn lại bố đựng ốc vít. Sở dĩ dùng cái lon này để đong gạo vì các bà ngoài chợ quen dùng nó để đong như một tiêu chuẩn đo lường.

Ông còn kể cho chúng tôi sự tích cái đồ hộp như sau: "Từ năm 1809, một nhà phát minh người Anh tên là Nicholas Appert đã nghĩ ra cách dùng sắt cán mỏng mạ thiếc tạo ra cái đồ hộp để đựng và bảo quản thực phẩm lâu dài. Phát minh này đã được nhượng quyền sản xuất cho hai nhà sản xuất người Anh khác là John Hall và Bryan Donkin. Họ là những người đầu tiên lập ra xưởng sản xuất đồ hộp vào năm 1813 tại Anh. Những hợp đồng làm đồ hộp đầu tiên được sản xuất nhằm cung cấp cho quân đội Hoàng Gia Anh thời ấy.

Thời ban đầu, các nắp hộp dược hàn với thân hộp bằng chì nóng chảy, bởi thế, có một vụ án ngộ độc thực phẩm đã gây chấn động một thời bởi vào năm 1845. Thủy thủ đoàn thám hiểm Bắc cực do ngài John Franklin lãnh đạo đã có nhiều người bị ngộ độc do ba năm liền ăn phải thực phẩm có chì của nắp hộp tan vào…

Cái hộp mà bố tôi dùng làm vật đong gạo là cái hộp đựng Bơ (tiếng pháp viết là Beurre, đọc gần như từ bơ của tiếng Việt)  do binh lính Pháp đem vào Hà Nội. Ông bảo nghe nói thứ bơ này được sản xuất từ vùng Bretagne, một vùng sản xuất bơ nổi tiếng ở Tây Bắc nước Pháp. Loại bơ này có pha muối và hương liệu đặc biệt nên rất được ưa chuộng tại Pháp. Chúng tôi nghe bố kể thì biết thế. Hồi ấy dân mình có mấy ai được ăn bơ đâu mà biết cái mùi vị bơ ra sao.

Tôi hỏi bố: "Tại sao người ta lại gọi cái hộp ấy là cái ống bơ?” tôi tra từ điển thì thấy “Ống là vật hình trụ, rỗng và dài”. Cái hộp ấy đâu phải cái ống? Ông suy nghĩ một lúc và bảo tôi lấy từ điển ra tra. Thì ra trong đồ đựng dồ đong của người Việt mình có mấy từ:

Cái cóng: Thứ đồ dựng bằng sành hình trụ, miệng rộng có nắp đậy, thân hơi phình, đáy lồi

Lon: thứ đồ đựng bằng kim loại hình trụ hay thứ vại nhỏ , chậu nhỏ bằng sành…

Bố con tôi ngờ rằng chữ ống bơ, là do người ta đọc chệch từ chữ cóng mà ra bởi có nơi người ta gọi cái vỏ hộp sữa bò là cái cóng bơ. Chẳng biết có đúng không. Còn người ta gọi cái lon sữa bò là có lí của nó. Thôi để các nhà ngôn ngữ học giải quyết.

Các bà bán hàng ngoài chợ khi đong gạo hay ngô, đỗ thuở xưa thường dùng các loại đấu, ca sắt… nay có thêm cái cóng bơ, cái ống bơ… cũng thuận tiện vì gần như nhà nào cũng dùng để đong gạo.

Người ta có hai lối đong. Lối đong có ngọn gọi là bơ đầy, đong ngang ống đong thì gọi là bơ gạt. Lắm anh đi chợ có máu tham khi đong cứ đòi tự đong lấy cho mình, hai tay be miệng cái ống bơ cho dôi ra. Thế là lại mè nheo mặc cả vui đáo để. 

Sau này, loại vỏ đồ hộp đựng bơ hình như hiếm dần và một loại vỏ đồ hộp khác phổ biến hơn là hộp đựng sữa bò đặc có đường xuất hiện. Thế là cái hộp đựng sữa bò dần dần trở nên thông dụng trong việc đong hàng ngoài chợ. Ra chợ mua chè khô trên chợ mạn ngược, người ta mặc cả mấy nghìn một bơ bò đậu, bơ bò chè… Thế là cái vỏ hộp dựng sữa bò, chẳng liên quan gì đến cái ông đựng bơ tự nhiên có một cái tên mới là “bơ bò”. Dễ đọc và đơn giản mà chẳng ai cần biết nó có nguồn gốc ra sao.

Thuở nhỏ, lũ trẻ con chúng tôi thích học đòi người lớn. Thấy mẹ nấu cơm, nấu cháo cũng muốn bắt chước nấu xem mình có làm dược không. Thế là mấy đứa rủ nhau kiếm cái ống bơ, nhặt mấy cành cây khô, mỗi đứa lẻn về nhà nhóm mấy nhúm gạo rồi ra đầu ngõ đặt ba cục gạch góp gạo thổi cơm chung… Cơm chẳng ra cơm, cháo chẳng ra cháo nhưng vui đáo để. Còn thú vị hơn là chơi mấy cái nồi cái bát làm bằng gỗ tiện mà chẳng nấu nướng gì được.

Tưởng cái trò chơi ấy chỉ dành cho con trẻ thế mà người lớn cũng có lúc phải dùng đến đấy. Tôi còn nhớ có lần được hầu rượu cụ Văn Cao khi cố nhạc sỹ đến thăm ông nhạc tôi. Hai cụ ngồi ôn với nhau chuyện thời kháng chiến chống Pháp trên Phú Thọ.

Thời ấy cán bộ kháng chiến ai cũng đói rét. Cụ bà Văn Cao thì kể ngày ấy bà cụ mẹ vợ tôi và bà Văn Cao đêm đến đóng cửa nằm trong nhà sàn với lũ trẻ vì nghe nói có hổ về. Cụ Văn Cao và ông Nhạc tôi kiếm đâu được chút đậu xanh và cục đường đỏ bèn cho vào cái ống bơ nhóm lửa bằng vách nứa rút từ lán trại trong rừng làm “nồi lục tào xá” nóng hổi trong đêm đông rừng Việt Bắc rồi đàm đạo văn chương thế sự.

Chuyện các cụ kể tưởng  như mới hôm qua mà hai cụ ra di cũng đã hơn chục năm rồi.

Cơm cháy quân trường .

Có lẻ hiếm ai được thưởng thức món cơm cháy quân trường nếu không phải là nam nữ quân nhân nhập ngũ. Tôi lớn lên từ quân trường có tên “Liên Trường Vỏ Khoa Trừ Bị Thủ Đức” trên đồi Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, Thủ Đức và tên gọi sau cùng là trường Bộ Binh Thủ Đức. Ba tôi là huấn luyện viên tại đây sau khi ông đã thụ huấn xong khóa 2. Năm 1962 ông đi du học ở Hoa Kỳ sáu tháng, cho đến vào khoãng năm 1972 ông thuyên chuyển về Lục Quân Công Xưởng ở Gò Vấp rồi nghỉ hưu được năm, sáu tháng trước ngày miền Nam VN rơi vào tay CS. Ông bị đày ra Bắc hơn năm năm.

Hảy cùng tôi trở về khung trời ấy vào giữa thập niên 50-60. Lúc đó tôi còn ở độ tuổi bậc tiểu học thích tìm tòi, sục sạo, mổi khi đến mùa bãi trường nếu má tôi không đưa mấy anh chị em tôi về gởi bên quê nội ở Mỷ Tho ba tháng hè thì đôi bàn chân bé nhỏ của tôi thời đó tha hồ tung tăng khắp nơi trong quân trường. Khó mà giữ tôi ngồi yên một chổ được lâu cứ xổng ra là tôi “rong chơi suốt ngày quên lãng”, mặc dù ba tôi hăm he dử lắm. Có lần tôi đang mon men tới gần phòng làm việc của ba tôi ở Khối Quân Huấn mà không biết, trời xui đất rủi vừa đúng lúc ông đi dạy từ ngoài bãi tập về bắt gặp thế là ông hốt tôi lên chiếc Lamretta hai bánh chở về nhà đét cho vài roi “ui da”. Vậy mà cũng chẵng chừa, khi thì lang thang một mình lúc thì cùng mấy đứa bạn nhỏ đồng trang lứa. Ngày xưa làm gì có computer để chơi game như bọn trẻ bây giờ mà hòng trói được chân tôi lại trong nhà. Tuy vậy, mổi khi ông đi đâu cũng đều hỏi tôi có muốn đi theo không? Dĩ nhiên là con bé chạy nhảy lăn xăn theo rồi.

Vừa vào cổng chánh của quân trường là con đường tráng bằng nhựa (dầu hắc) thẳng ra tới cổng sau. Ngay gần sát bên phải của cổng chánh có “lô cốt” cao kế đó là miếu Tiên Sư để cúng tế vào những ngày lễ lộc. Cách đó độ chừng hơn trăm thước có hai dãy nhà nối nhau cập theo con đường chính, mỗi dãy nhà có khoãng hai chục căn (không nhớ rỏ lắm) sát vách nhau, nối kết giữa hai dãy nhà là một bãi sân xi-măng rất rộng, buổi chiều người lớn hay đưa con cái ra đó cho chơi đùa, còn họ thì tán gẩu cùng nhau. Căn nhà đầu của dảy nhà đầu tiên là nơi gia đình tôi trú ngụ, vì là căn bìa nên bên hông nhà có hành lang rất rộng bề ngang bằng hai phần ba căn nhà ở cùng mái cao với dảy nhà cũng được lót gạch bông và lan can dài từ trước ra sau, thật là nơi lý tưởng cho bọn trẻ chúng tôi bày các trò chơi, còn buổi sáng sớm thì ba tôi ra đó với cái radio để tập thể dục theo chương trình của đài phát thanh. Sau lưng dảy nhà chúng tôi ở là bệnh xá. Dảy nhà thứ hai có nhà của tr/tá Vỉnh Lộc, còn dảy nhà bên kia đường thì có nhà của đ/tá Đỗ Cao Trí.

Thời đó quân trường chưa khai phá hết nhà cửa còn thưa thớt, đối diện với dảy nhà chúng tôi ở là khu rừng cây phía bên trái con đường chính. Thỉnh thoãng, sau khi ăn cơm chiều xong trời còn sáng mát, ba tôi cầm cây súng săn đi trước vào gần rừng cây, còn tôi xách chiếc lồng chạy lủn đủn theo sau. Ba tôi suỵt một tiếng bảo tôi đi nhè nhẹ, thế là tôi phải rón rén thật khó khăn. Má tôi mà làm chim rừng rô-ti thì khỏi chê được. Sau này, dân số, nhà cửa, phòng ốc từ từ bành trướng cùng với tôi lớn dần theo thời gian thì những cuộc đi săn ngắn cũng giãm dần rồi dứt hẳn lúc nào chẳng hay. Đi xuống chút nữa bên phải là khu nhà của các cố vấn Mỹ, mấy đứa con nít tụi tôi thường ghé lại ngoài sân bập bẹ vài tiếng chào “Hello” để được phát vài thỏi kẹo chocolate. Rồi đến dinh ông tướng chỉ huy trưởng quân trường, có một lần tôi mon men vào được chổ bà giúp việc đang ủi đồ tôi cứ nhìn dáo dác rồi tấm tắc nói: “Nhà rộng lớn thiệt có lầu nữa sang quá hả dì? Con cũng thích ở nhà lầu lắm đó”. Bà giúp việc phì cười: “Con gái con đứa gì mà long nhong hoài, không sợ bị đòn sao vậy?” “Dạ sợ chớ!” rồi chạy tuốt.

Qua khỏi dinh ông tướng cho tới cổng sau vòng đai của quân trường là khu vực của các sinh viên sỉ quan đang thụ huấn, tôi không có bén mãng đến khu vực này chỉ một lần. Từ chổ này là ngã tư đi về hướng đối diện dinh ông tướng là trường Truyền Tin bên trái, Khối Quân Huấn và trường Thiết Giáp (mở thêm sau này) bên phải. Xuống sâu hơn là rạp hát, hầu như cuối tuần mọi người đều kéo nhau đến đó vì chỉ có nơi đó để giải trí. Buổi trưa, có xe chạy vào các khu nhà phát loa rồi rải giấy quãng cáo cho phim mới đổi, đám con nít chạy theo cố lấy càng được nhiều tờ chương trình càng thích để đưa lại cho người lớn, có đứa để dành rất nhiều chương trình phim rồi khoe với nhau. Phim tình cảm Ấn Độ thời đó thu hút đàn bà con gái nhất, thậm chí các cô gái mặc hóa trang Ấn Độ để chụp hình trưng bày ngoài tủ kiếng của các tiệm chụp hình, Xa hơn đó là khu gia binh cho gia đình binh sỉ ở, có bán nhiều đồ ăn, buổi tối khu vực đó đông vui, nhộn nhịp, nhà tôi thỉnh thoãng đến đó mua về ăn, có món bún bò Huế tôi không ăn được nấu gì mà cay quá trời con nít làm sao ăn nổii??? Vậy mà người lớn cứ khen tấm tắc làm tôi phải nuốt nước miếng mà nhìn.

Nhớ có lần tôi ra Đà Nẵng thăm ông nhà tôi phục vụ ngoài đó. Ông đưa tôi và hai người phụ tá đến một quán Bún Bò Huế ở ngã năm (?) mà ông quảng cáo là ngon lắm. Trời lạnh, mưa phùn thành phố cao nguyên chập chùng đồi núi một cảm xúc bồi hồi tràn lên trong lòng của kẻ thích ngao du tìm tòi để được chứng kiến những điều mới lạ của quê hương. Lúc này có một tô bún nóng thì còn gì hấp dẩn hơn, vào quán giờ ăn trưa nên rất đông khách mọi người đang xì xụp với tô bún mùi nước súp thơm lừng trong quán làm dạ dày tôi cũng cồn cào hối thúc. Mấy tô bún được mang ra óng ánh vàng ngậy như màu ráng chiều cùng vài dĩa rau sống nhìn mà bắt thèm, mấy người phụ tá cho thêm ớt sa-tế vào tô. Tôi không ăn cay nên múc một muổng nước súp nếm trước. Trời đất quỉ thần ơi! Chưa kịp nuốt nước súp xuống cổ tôi đã sặc sụa ho, nước mắt nước mủi ràn rụa, hai lổ tai lùng bùng, còn lưởi tôi như bị bỏng. Mọi người ngạc nhiên ngừng ăn nhìn tôi vừa như khóc vừa mắc cở, tôi không ngờ sao mà cay quá trời vậy mà mọi người vẫn ăn bình thường thậm chí còn cho thêm tương ớt nữa. Thế là tôi đành để bụng đói trở về căn cứ ăn mì gói, mà lòng còn tiếc tô bún Bò Huế hùi hụi. Sau này, tôi học cách nấu bún Bò Huế để tự nêm nếm cho vừa mình ăn, bằng không thì đành ngồi “dòm miệng” sao? Sau lưng của Khối Quân Huấn và trường TG là những dãy nhà của hạ sỉ quan, tôi có mấy đứa bạn học chung lớp ở đó thì đố khỏi tôi không ghé qua. Thật ra phần đông quân nhân phục vụ trong quân trường thời điểm đó biết ba tôi cho nên họ cũng vui vẽ mổi khi bất chợt gặp tôi nghêu ngao đâu đó tạo cho tôi cảm giác thoải mái gần gủi thật là tự nhiên chẳng khác nào toàn bộ quân trường như là khuôn viên vườn nhà tôi và mọi người là họ hàng của tôi vậy.

Lần đó, tôi và một đứa bạn nữa lang thang đến gần nhà bếp của quân trường, gặp lúc giờ ăn trưa của SVSQ. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơm được nấu trong mấy cái chảo đụn thật to, còn to hơn cái thau mà má tôi dùng để hứng nước tắm cho mấy anh chị em tôi. Có mấy chú lính đang phân phát đồ ăn, họ xúc cơm ra bằng cái xẻng nhà binh giống ở nhà ba tôi dùng để xúc đất. Các sinh viên kẻ đứng người ngồi lao xao ăn uống, đùa giỡn. Cơm gạo lức đỏ còn bốc khói nóng, hai đứa tôi trố mắt ra nhìn các vật dụng rất ngạc nhiên, một chú thấy hai đứa tôi đứng lóng nhóng bèn hỏi:

Ê nhỏ! Có muốn ăn cơm cháy không? Rồi quay qua cười với mấy chú khác

Dạ! Cho con một miếng đi chú. Tôi trả lời, người lính ngừng cười quay lại nhìn tụi tôi có lẻ chỉ định giỡn cho vui, không dè con nhỏ muốn ăn cơm cháy thiệt. Cơm múc ra đã hết chỉ còn vành cơm cháy dưới đáy chảo được xủi tróc lên nghe giòn rụm. Chú lính bẻ một miếng cơm cháy bự hơn bàn tay người lớn đưa cho hai đứa tôi rồi nói:

Nè! Coi chừng gảy răng đó nghe. Dạ Hai đứa tôi chia nhau miếng cháy rồi cười tủm tỉm kéo nhau đi vừa líu lo vừa nhai cơm cháy còn ấm nóng thơm phức hòa lẫn tiếng cười của mấy chú lính đang vang phía sau lưng. Cơm cháy này dày hơn cơm cháy ở nhà tôi nấu. Vì vậy, tôi phải nhai lâu hơn do đó vị ngọt của cơm ứa ra trong miệng vừa thơm vừa giòn. Thật là thú vị lần đầu tiên được ăn cơm cháy của quân trường mà đâu phải ai ở trong quân trường đều có thưởng thức qua (!). Cái hương vị của cơm cháy quân trường khác hẳn với cơm cháy nhà tôi mặc dù thỉnh thoãng nhai trúng sạn (dễ bị gảy răng thiệt chứ) mà vẫn thấy ngon lạ. Mổi khi nhớ đến món cơm cháy của quân trường ngày xưa, tôi có nấu lại cơm gạo lức để cho có cháy nhưng ăn vẫn không tìm lại được cái cảm giác thú vị như miếng cơm cháy của quân trường Bộ Binh Thủ Đức ngày nào. Có lẻ do ở tuổi thơ vô tư, hồn nhiên và đang đói (!). Ôi! Tuổi thơ xinh đẹp và dể thương chỉ còn là dấu ấn trong tiềm thức…

Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường, chống giặc thù ngoài chiến trận trên khắp nẻo đường đất nước để bảo vệ Non Sông Tổ Quốc Việt Nam có khác nào vị ngọt có lẩn cát sạn của cơm cháy quân trường. Sau khi lập gia đình, tuy tôi theo chồng đi khắp bốn vùng chiến thuật nhưng các con tôi đều được chào đời tại Tăng Nhơn Phú, chợ Nhỏ, trường Bộ Binh Thủ Đức.

Nhớ năm Mậu Thân tôi đang có mang cháu đầu lòng về ở với gia đình chờ ngày sinh nở. Khi VC tấn công xung quanh vùng đó và pháo kích, ba tôi vội đưa cả nhà đến Khối Quân Huấn để tránh đạn, ở đó có đắp những hầm chất bằng bao cát. Ông cứ nơm nớp lo cho tôi. Vài tháng sau đó chị Hưởng con của bác tr/tá Hưng bạn cùng làm trong quân trường với ba tôi ghé qua thăm. Chị đang có mang sắp đến ngày sanh vừa nhìn thấy tôi chị bật khóc nức nở “Chồng chị bị tử trận trong đợt tấn công Mậu Thân rồi” tội cho đứa bé còn trong bụng mẹ chưa kịp biết mặt cha. Biết làm sao mà an ủi chị đây? Khi có chồng là trai thời loạn!!!

Cơn gió chuyển mùa đông ùa ập về như cố giủ cho sạch những chiếc lá nâu vàng bướng bỉnh còn sót lại cố bám víu một cách tiếc nuối trên cành khô rồi như tuyệt vọng trước sức mạnh không thể cưởng lại được (những chiếc lá) đành buông xuôi lơ lững theo chiều gió về một nơi xa xăm chẳng phải là cội nguồn của mình.

Hi các bác ! Cái vụ cơm cháy quân trường thời nào cũng có ! Mà cũng phải công nhận cơm cháy quân trường nấu bằng chảo gang ngon đáo để ! Tụi em nhập ngũ 80, huấn luyện ở Thị Vải tình cảnh cũng y chang ! Nhớ có lần đang học "9 điều - 5 không" ở hội trường để chuẩn bị đi làm NVQT, đến giờ giải lao, thằng Thành lính Tây Ninh tranh thủ dzọt xuống nhà bếp, nịnh nọt anh nuôi (nó có cái tài này) để xin cơm cháy. Vì nhiều thằng xin quá nên anh nuôi không cho đứa nào hết ! Kẻng hết giờ giải lao, thằng nào thằng nấy lo phóng như bay về lại hội trường ... riêng thằng Thành vẫn nán lại, sau cùng thì nó được anh nuôi cho lấy cơm cháy. Nó thộn mấy miếng cơm cháy nóng giòn đầy 2 túi quần bộ đội dài tới đầu gối, cầm thêm 2 miếng trên tay định đem về chia cho anh em, rồi cũng co giò phóng hết tốc lực về hội trường, định chui từ phía sau vào ngồi học tiếp thì bổng tiếng còi trực ban ré lên "toét toét" ! Thằng Thành được mời lên, 2 túi quần và trên 2 tay còn nguyên "vật chứng" không thể chối cải ! Nó bị phạt đứng luôn ngay cửa chính hội trường, 2 tay cầm 2 miếng cơm cháy dang ra chữ T cho đến hết giờ học, cứ mỏi quá hạ tay xuống là tay trực ban lại bắt giơ lên ! Anh em thấy nó đứng đổ mồ hôi cục mồ hôi hòn, vừa tức cười vừa thương ... Hết giờ, nó moi từ túi quần ra mấy miếng cơm cháy .... ướt mèm mồ hôi chia cho anh em ! Vậy mà cả bọn cùng ăn ngon lành và cười giòn tan ! Nó chết tên là Thành "cơm cháy" từ đó ! Qua K, tháng 7/1981 nó hy sinh ở Chơ-rui Nguôn cùng trận với thằng Điểu Chót người dân tộc Sê-tiêng .... Bây giờ cứ kể về cơm cháy quân trường là lại nhớ tới thằng Thành "cơm cháy". Kỷ niệm khó quên .... Chẳng biết cân đong, nấu nướng chia chác thế nào mà ở quân trường luôn bị đói, sau này về đơn vị có bao giờ thiếu cơm đâu dù tiêu chuẩn cũng chỉ nhiêu đó, có thiếu là thiếu thức ăn thôi. hồi đó tui cũng phải mò vô căng tin kiếm mua thêm đồ ăn ( hồi đó ở quân trường Quang Trung có căng tin )

Cũng cân đong tiêu chuẩn chứ bác, 7 lạng 8 chia 3 bữa, nhưng tân binh luôn thiếu ăn vì lí do : ( không biết quân trường khác có không ) trừ hao kho , tuy tỷ lệ hao kho đã được trừ trước , ( tân binh chỉ được biết có vậy ) có khách đột xuất hay không đột xuất thì vẫn phải cấp thêm cơm cho chỉ huy các đơn vị ( các vị rất hay báo cơm khách đột xuất thành ra lại bớt lại phần ăn để cung cấp suất ăn cho khách ) và sau những ngày đầu nhập trại tiền bạc rủng rỉnh, giờ chỉ có cơm nhà nước cộng thêm cái mệt nhọc thao trường vào tuổi đang ăn đang lớn nên thiếu cơm là điều tất nhiên vì nhiều lý do công lại, tân binh mà có quan hệ tốt với anh nuôi thì khi nhận cơm sẽ được nhận thau cơm đầy hơn 1 tý, chiến thuật 121 thì xảy ra khi 1 mâm cơm có chung những đồng chí xơi khỏe, bụp nhau hoài vì chuyện ăn hỗn, nhưng nếu chọn vài người luôn ăn chung với nhau thì không có chuyện đó, nhìn nhau mà xới thôi, khi kết thúc huấn luyện thì lại thừa cơm, vì ít thức ăn quá và công việc cũng ít nặng nhọc hơn nên ít hao năng lượng hơn mà . Dù đã chọn cho mình mâm 6 những đồng đội ăn uống đàng hoàng không ăn hỗn nhưng đôi khi cán bộ khung huấn luyện không hiểu vẫn cho rằng như vậy là chia bè kéo cánh gây mất đoàn kết chung trong đơn vị .

 Gì chứ chuyện này chúng tôi đã từng gặp .

 Ngày đó huấn luyện tân binh thiếu đói lắm , lính ăn bo bo với bột mỳ hấp là chuyện bình thường , lâu lâu có bữa cơm độn nào những bữa lương thực loại dùng cho gia súc nên lính tráng thằng nào mắt cũng sáng lên . ;D

 Sau tiết mục nghiêm nghỉ quán triệt nhiệm vụ huấn luyện bổ sung giữa ngày hoặc nhận xét chung của C D về buổi huấn luyện trong ngày rồi mới được vào nhà ăn ăn cơm , mỗi B có 3 A và mỗi A khoảng trên chục thằng , để cho đẹp đội hình nên sẽ chọn người đi vào nhà ăn sao cho đều số quân bên trong nhà ăn và bên ngoài còn lại cũng đều nhau , vì vậy sẽ 3 thằng B1 thì 3 thằng B2 trong một hàng ngang đi vào trước , sau đó 3 thằng B3 rồi 3 thằng B4 cứ thế thứ tự lần lượt vào và ngồi , đứng trong nhà ăn trật tự . Nếu ai ở cuối hàng thì có lẽ cũng phải mất 20 25 phút đồng hồ phơi nắng trước khi vào nhà ăn , đến là khổ về chuyện đi ăn .

 Thì vẫn lính trong 1 C nhưng khác B huấn luyện nên độ thân thiết cũng giảm đi vì vậy lính vào nhà ăn phải đổi chỗ cho nhau để B nào ăn về B đó , anh em chơi với nhau thì ăn với nhau vừa trật tự vừa đàng hoàng . Nhưng cán bộ khung thì họ cho rằng như vậy là chia rẽ mất đoàn kết nên cũng theo dõi và can thiệp rất vớ vẩn , chắc hết cái để ra oai nên lấy chuyện này ra oai và có cái để mà nói . Từ đây chuyện tưởng đơn giản hóa thành phức tạp bội phần .

 Thôi thì ăn hỗn , ăn láo , các chiến thuật về ăn uống sao cho hiểu quả nhất được mang ra thi thố , 1 bằng 2 vơi và tốc độ cao rồi 3 đầy phè có ngọn khiến thằng ăn chậm đến cuối thì chỉ còn mỗi cái xoong không , đồ ăn thì có gì đâu ngoài rau với mấy con cá khô nhỏ dim nước muối với kẹo đắng giả màu nước mắm , rau xanh thì toàn loại mới tưới phân tươi chiều hôm trước hoặc cách đó vài ngày luộc lên mà cái nước rau nó nhơn nhớt .

 Có vậy thôi mà cũng có thằng ăn hỗn , lần gắp đồ ăn đầu còn đều hàng , lần thứ 2 thì thôi rồi , thằng mất dạy nào đó nó ngoạm một đũa thì sạch gần như lau cá khô , rau muống nó gắp một phát là sạch bách và chẳng cần ngượng ngừng gì ráo, nó hềnh hệch cười như một thành công hay chiến thắng mà nó đã hạ gục đồng đội trong bữa ăn .

 Chỉ thế thôi , một lần còn nhịn còn bỏ qua , chẳng phải nhịn bởi sợ gì thằng kia mà nhịn để tỏ ra là người sống có văn hóa và quân tử chứ chỉ vì miếng ăn không thôi nói ra mình cũng thấy tự xấu hổ . Thế rồi lần sau thằng kia lại quen mui , vẫn chiến thuật đó , vẫn tính cách đó và cũng thật đen đủi cho nó là lại ngồi chung mâm . Cũng chỉ chờ có thế và một trận chiến gấp đôi quân số cũng như chất máu lửa cùng bản lĩnh chiến đấu , 4 đánh 2 với tinh thần chủ động tấn công cùng mục đích chính nghĩa của trận chiến .

 Tất nhiên , lẽ phải luôn thuộc về người chiến thắng và chiến thắng thì bao giờ cũng thuộc về phe chính nghĩa .

 Và cũng chỉ cần 1 trận là : Sạch sanh kình ngạc và cũng chỉ một trận là Tan tác chim muông . Từ đó vía bố mấy thằng ăn hỗn dám lại gần nhóm chúng tôi tới 10m .

 Sau này sang K cả 2 thằng ăn hỗn đó về E165 và cả 2 thằng đều hy sinh tại BGTN những ngày cuối năm 1978 và đầu 1979 . Nhiều lúc ngồi nhớ lại kỷ niệm về 2 thằng này những ngày tháng huấn luyện chung và thấy thương chúng nó quá . Giá như đừng có trận chiến đó giữa anh em và giá như mình nhẹ nhàng nói để anh em hiểu , ai cũng như nhau chia ngọt xẻ bùi cùng nhau thì hay hơn rất nhiều .

Miếng cháy

Thứ Hai 17, Tháng Mười 2011,

bởi

SV

Nhân lúc không ai để ý, tôi lao xẻng vào thành chảo, xúc ra một tảng

cháy

, hất xuống cái mũ cối để ngửa sẵn, ung dung đội lên đầu đi ra sau bếp. Chậm vài giây cậu phụ bếp đổ nước vào để ngâm chảo thì hỏng bét cả. Anh bạn tôi đã đợi sẵn ở đó, theo lệ. Anh thoáng thất vọng khi thấy tôi tay không. Bước đến trước mặt anh, tôi làm động tác chào, gập người, cái mũ rơi xuống, tôi đỡ bằng mu bàn chân rồi hất lên, anh ôm gọn cái mũ

cháy

, cười tươi, bẻ ngay một miếng nhai ngon lành. Tôi đang vội chạy về bếp để bê

cơm

lên nhà ăn cho kịp giờ đánh kẻng mà anh còn cố níu lại đùa một câu: “Kẻ địch tớ cũng chả sợ, chỉ sợ mỗi đói thôi”.

Những kỷ niệm lúc đói khổ thì sao lại nhớ dai và dễ làm người ta gắn bó đến thế?

Tôi ra

quân

trước anh, về đến nhà được phường gọi lên, ưu tiên cho đi xuất khẩu lao động ở Bulgari. Ba năm đánh vèo cái đã hết mà chả học được nghề gì cụ thể. Đủ sống và đủ tiền khi về mua ít bánh kẹo làm quà cho gia đình.

Thế là lại nhẩn nha kiếm

cơm

, kiếm cháo qua ngày. Phụ giúp mẹ làm nhang và in tiền âm phủ, phụ em làm kẹo lạc, bánh đậu xanh đi giao ở mấy

quán

trà xu vỉa hè.

Hôm đó là rằm tháng bảy, tôi khoác một bị tiền vàng, hương nhang, oản đi bán rong loanh

quanh

chùa

Quán

Sứ. Chừng hơn mười giờ đêm, khi đã vơi non nửa bị thì tôi vớ được một khách hàng đặc biệt, anh bạn cũ hồi bộ đội.

Mừng mừng tủi tủi, người bán không thiết bán mà người mua cũng chả buồn mua nữa. Anh lôi tôi vào một cái

quán

ở gần đó. Tha hương ngộ cố tri. Chúng tôi cạn chén mừng ngày gặp lại.

Sau khi tôi ra

quân

, anh chuyển đến một đơn vị khác trên Nghĩa Lộ. Vừa mau mồm, vừa láu lỉnh, anh là người

quan

hệ rộng. Anh kể: “Trước khi xuất ngũ, mình có chơi với một đám lục lâm thảo khấu ở vùng đó. Lũ này kiêm thêm chạy đá đỏ. Biết tin mình sắp hết hạn nghĩa vụ

quân

sự, tụi nó nhờ làm chân đại diện tại Hà Nội. Lúc đầu mình cũng chỉ định kiếm chút để đủ

cơm

ăn, học tiếp đại học thế mà không ngờ tiền vào lúc nào mà nhanh thế. Thực ra thì vốn liếng của mình chỉ là ở ba tấc lưỡi thôi. Chẳng có gì đắt, cũng chẳng có gì rẻ, dụng khẩu làm sao để khách thấy hợp lý là thắng”. Tôi đã hơi ngà ngà nhưng vẫn cố gắng nhập tâm câu này để ứng dụng vào việc bán hàng giúp mẹ. “Nói để cậu mừng, bây giờ mình đang làm chủ một cơ sở buôn bán, chế tác đá quý. Chẳng nhỏ mà cũng chẳng to. Việc lễ bái cầu xin là trách nhiệm của tay phó nhưng hôm nay cậu ta về quê đưa đám ông chú, mình đi thay hoá ra may mắn được gặp lại cậu”. Anh vừa bốc đồ nhắm, vừa nhắc lại chuyện miếng

cháy

rồi cười ngặt nghẽo, “bọn mình thật có lỗi với tổ chăn nuôi của trung đoàn”. Khi chia tay anh bảo: “Ngày mai cậu rẽ qua chỗ mình, nếu ưng thì ở lại làm”.

Thế là làm, công việc cũng chẳng có gì nặng nhọc, chỉ giao hàng rồi nhận tiền chứ chuyện chuyên môn thì quả là rối rắm. Tôi không thể phân biệt được đá nào màu máu bồ câu, thế nào là màu hoa mười giờ. Chưa kể một vài thao tác chuyên ngành khác.

Hôm nọ chúng tôi đi công vụ đặc biệt, khi anh nháy mắt ra hiệu cho khách xem hàng thì tôi mới giật mình. Đáng lẽ khi lấy hàng từ két, tôi phải nhét ngay mấy viên xanh xanh đỏ đỏ của nợ đó vào mồm, giấu dưới lưỡi chứ không phải để trong túi áo ngực, và khi được lệnh thì nhè ra. Đơn giản đến vậy mà tôi không thuộc. Loanh

quanh

vẫn chuyện miệng lưỡi. Tôi bắt đầu chán nghề đá quý. Thuyết phục mất tuần lễ anh mới để tôi nghỉ.

Cuối năm, bánh kẹo bán chạy, lúc nào chân cũng vắt lên cổ. Bẵng đi ba tháng không gặp nhau. Một hôm, tự nhiên thấy sốt ruột, tôi chạy lại thăm, hoá ra anh bị ốm. Anh thò đầu ra khỏi chăn thều thào: “Không hiểu mình bị bệnh gì. Mấy tay bác sĩ quen, khám xong lắc đầu quầy quậy, kê một đơn toàn thuốc bổ bảng A. Mình lên phố Lãn Ông bắt mạch, cụ lang Tuất phán: trong người có quá nhiều chất độc, thận hư, tâm hoả suy. Cụ ép mỗi ngày mình phải uống ba lít nước râu ngô luộc”. Tôi ngồi tào lao, động viên anh quá trưa mới về. Đi đến đầu phố, nghĩ thế nào, tôi quay ngoắt lại, nháy nháy mắt rồi nói: “Còn một loại thuốc nữa chưa dùng”.

Anh bạn tôi vốn là người vô thần nhưng nước cùng cũng đành tặc lưỡi theo tôi đi xem bói. Vị thầy bói này khá nổi tiếng cả trong giới bác học lẫn bình dân. Cánh bình dân thích vì thù lao tuỳ tâm, cánh bác học thích vì được kéo về đời sống. Chúng tôi đến nơi phải xếp hàng một lúc lâu mới tới lượt. Mỗi lượt là ba người vào, tuần tự, ai đến trước xem trước, không chen lấn xô đẩy. Lượt của bạn tôi gồm hai người nữa, một cô gái trẻ và một ông trung niên đội mũ bêrê màu tím than. Tôi ngồi chầu rìa nghe câu được câu chăng, cô gái hỏi dài dòng về chuyện tình duyên, ông trung niên sốt ruột chuyện tài lộc.

Đến lượt bệnh nhân của tôi, anh được chỉ dẫn nắm chặt ba đồng tiền Khải Định trong tay một lát rồi gieo sáu lần được quẻ Sơn lôi di, động hào sơ biến thành quẻ Sơn địa bác. Thầy trầm ngâm giây lát rồi phán: “Ngũ âm át nhất dương, khốn nhưng không tận. Ông đang kinh doanh tinh hoa của đất giời. Trời làm cho ốm nhẹ để cảnh báo. Nên chuyển sang gom đá trên mạn ngược về bán cho bọn nung vôi hoặc một nghề gì tương tự, bệnh sẽ tự rút”.

Bạn tôi rút một phong bì dày cộp trong túi áo vét ra đặt lên đĩa, cảm ơn thầy bói rối rít. Ông ta lẩm bẩm: Ơn huệ gì, phúc chủ lộc thầy thôi.

Lời phán của ông thầy bói đúng vào lúc thị

trường

đá quý xuống dốc. Những viên đẹp đã hết, còn lại toàn những viên xấu, vụn, nứt hoặc là hàng chế bằng đá rải đường nhuộm phẩm hồng, bán cho các cơ sở làm tranh đá quý. Loại tranh này chả biết xấu đẹp thế nào nhưng thấy mấy tay sành chơi ở trên phố rỉ tai nhau: “Quá cả giới hạn của chủ nghĩa suy đồi các ngài ạ”.

Hơn tháng sau, anh chạy đến khoe với tôi đã bán tống, bán tháo được toàn bộ cơ sở đá quý. Anh bảo: “Mua vải bán áo, cũng lỗ kha khá nhưng thôi của đi thay người”. Anh rủ tôi bát ngát vào Nam một chuyến, vừa nghỉ ngơi vừa học tập cách làm ăn của các doanh nhân trong đó. Tôi cáo bận vì còn phải lo hàng cho vụ đông xuân.

Thế là lại bẵng đi nửa năm không gặp. Một buổi chiều anh hớt hải chạy đến phân trần: “Công việc ngập đầu thở cả bằng tai, đã chọn ngày rồi, mai cậu qua khai trương

quán

của mình nhé”.

Anh kể: “Các khái niệm thị

trường

, cạnh tranh, độc quyền, gây dựng thương hiệu trước đây mình rất mù mờ nhưng sau khi đi Sài Gòn một chuyến thì nắm được ngay và quyết định mở cái

quán

này. Sáng ra chợ mua ít cá, ít tôm về luộc lên bán cho khách nhậu, kiếm tí lãi còm. Thực ra là lấy công làm lãi. Vơ bèo gạt tép, tích tiểu thành đại. Lớn bùi bé mềm. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Cò con nhưng an toàn. Vả lại nghỉ ngơi, chơi bời mãi cũng chán, chưa kể… miệng ăn núi lở”. Tôi nâng vại bia trào bọt lên chúc mừng anh. Ăn uống xong đứng dậy mà thức ăn vẫn còn già nửa. Tôi thấy mắt anh nhìn xa xăm. Bỗng anh quay lại toét miệng cười: “Mình nhớ miếng

cháy

”.

Một lần nữa anh rủ tôi ở lại làm cùng. Nhưng công việc của tôi cũng đã đều đặn hơn trước. Ngoài bánh đậu xanh, kẹo lạc, kẹo vừng, tôi làm thêm cả bánh quế, bánh chả. Đã thế tiền âm phủ in không kịp bán, tôi phải “cày” cả đêm lẫn ngày.

Thỉnh thoảng tranh thủ lúc đi giao hàng, tôi ghé vào thăm bạn. Mới có mấy tháng mà thấy thay đổi nhiều quá. Anh thuê thêm nhà bên cạnh, cơi nới

quán

gấp đôi, khách khứa chen chúc. Anh vừa chỉ huy

quân

cán vừa nói chuyện với tôi: “Kinh nghiệm hai năm làm tiểu đội trưởng hồi bộ đội và kinh nghiệm làm ăn học được ở chuyến đi thực tế Sài Gòn vừa rồi mình mang ra áp dụng triệt để. Tháng đầu mỗi ngày tiêu thụ hết một yến tôm, hai yến cá thế mà bây giờ tất cả đều phải tăng gấp mười mới đủ phục vụ bà con. Tôm hay cá đều phải tươi roi rói, nấu nướng gia giảm vừa miệng thực khách, lãi ít, số lượng lớn. Bí quyết chỉ có thế. Mình mới mở rộng thêm món ốc luộc với thuốc bắc cũng rất được các bà các cô đi theo chồng hưởng ứng”.

Quãng

độ sáu tháng sau tính từ bữa đó, một hôm cậu quản lý của anh đến đưa tôi lá thư, vẻn vẹn có mấy chữ: “Mình ốm…”

Bệnh của anh lần này có phần khó hiểu hơn lần trước. Không nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt, mắt vẫn sáng, răng vẫn chắc, đầu óc vẫn minh mẫn thậm chí không cả đau bụng đi ngoài. Chỉ có buồn nôn thôi, ngủ thì mơ thấy mình đang nôn, thức thì lúc nào cũng buồn nôn, phải nhổ nước bọt mới đỡ. Thế là anh nhổ nước bọt suốt ngày, phì phì như máy bơm. Lúc tôi mở cửa bước vào, anh đang ngồi xổm trên một cái ghế đẩu sơn đỏ, toàn bộ nền nhà nhầy nhụa, ngập ngụa, nhơ nhớp, lênh láng, nhoe nhoét nước bọt anh nhổ ra trong suốt tuần lễ vừa qua. Thương bạn nhưng lực bất tòng tâm. Bỗng dưng trong óc tôi loé lên hình ảnh mấy đồng tiền xấp ngửa. Tôi chạy ngược ra cửa, anh nói với theo: “Đừng mời bác sĩ nữa, chữa được bệnh chứ làm sao chữa được mệnh”.

Tôi đến nhà ông thầy bói dạo nọ, vẫn kẻ vào người ra như trẩy hội. Một tiếng sau mới tới lượt. Nhóm của tôi gồm ba người: một cậu thanh niên, tôi và một bà ngoài bốn chục. Bà ta thắc mắc gì đó về hạnh phúc gia đình, còn anh chàng trẻ tuổi hỏi về chuyện tiền bạc. Đến lượt tôi, ông cụ hỏi luôn, bạn cậu sao rồi. Tôi kể sơ qua bệnh tình, mới được vài câu, ông ta ngắt lời, xua tay Thôi thôi, bảo đi buôn đá bán cho bọn nung vôi không đi lại mở

quán

. Thế là quẻ bĩ chứ cần gì phải gieo nữa. Mỗi tháng tiêu thụ hết mấy chục yến cả tôm, cá, ốc, một năm là mấy tấn sinh linh bị chết oan, sát sinh nhiều thì ốm nặng, sát sinh ít thì chết. Theo kinh nghiệm của tôi thì những

trường

hợp như bạn anh sẽ gặp thuỷ hạn. Tôi rùng mình, nghĩ đến cảnh anh bạn thân bị chìm trong cái buồng đầy nước bọt của anh ấy.

Cho đến tận hôm nay, tôi cũng không lý giải nổi tại sao bạn tôi lại khỏi bệnh. Sau khi nghe tôi thuật lại câu chuyện xem bói. Anh thốt lên: Xong rồi. Biết cũng chết, không biết cũng chết. Mình vừa biết vừa không thì sẽ sống. Anh tức tốc gọi người quản lý đến, đề nghị thay biển hiệu của

quán

: “

Quán

Ăn” thành “

Quán

Uống”. Chỉ uống suông thôi, các loại rượu gạo nguyên chất, không đồ nhắm. Phải nói bạn tôi may đủ đường. Khỏi bệnh là một. Hai là

quán

uống không những không vãn khách mà lại có phần nhộn nhịp hơn. Cả Hà Nội có mỗi mình

quán

của anh chỉ bán đồ uống, tuyệt nhiên không có một chút gì để đưa cay cả, khỏi cạnh tranh, khỏi quảng cáo lôi thôi.

Chỉ có một điều phiền hà nho nhỏ là không thấy các cặp vợ chồng nắm tay nhau hoặc các đại gia đình rồng rắn kéo đến như thời trước, mà toàn khách đàn ông đã đứng tuổi và người già. Họ lại đi lẻ nên bàn ghế phải gọi thợ mộc tới cưa cắt cho nhỏ đi, chữa các ghế băng thành ghế đơn thấp, có tay vịn, mặt và lưng ghế có nệm, một bàn đi với một ghế và khoảng cách giữa các bàn khá xa nhau. Sẵn thợ, anh làm thêm cho tôi một cái giá góc nhiều ngăn để kết hợp bày bán vàng mã, hương nhang của tôi (anh muốn bắt chước mô hình nhượng quyền?) Anh thủ thỉ bảo: “Tuy không thanh khiết bằng nghề của cậu nhưng hình như có mỗi bọn mình là đang được làm cái nghề vừa kinh doanh, vừa đạo đức lại đủ sống”. Tôi ngần ngừ giây lát rồi mới nói: “Cũng chưa biết thế nào. Hôm qua khi mình đến lễ tạ ông thầy bói tốt bụng năm mươi thẻ hương trầm loại đặc biệt, ông ấy dặn: Đúng sai khó lắm. Mà này, hay là bọn mình đi thửa một cái chảo

quân

dụng để chuyên thổi

cơm

cháy

bán thêm cho tửu khách được không nhỉ?”

Lạnh!!

Đăng ngày: 02:47 30-09-2011

Thư mục:

Tổng hợp

Trên xe chở quân:

-                    

Mày được phân về đâu?

-                    

Tao về 113 – một chiến sỹ trẽ cười và nói

-                    

Còn thằng kia sao?

-                    

Tao về cảnh sát cơ động

-                    

Tao về trại giam

-                    

Còn mày sao im re vậy?

-                    

Uh. Tao về phòng cháy

-                    

….

6 tháng quân trường tại Minh lương, những ngày tháng có thể nói là cực khỗ nhất trong đời công an của tôi. Nhưng sự cực khổ đó cho tôi 1 món quà quan trọng: 39 anh em. Tôi củng không hiểu sao lúc đó 40 con người xa lạ lại thân với nhau như vậy - 

là vì có cùng 1 mục đích, cùng nỗi niềm….

Ngày đầu tiên ra thao trường, ai cũng sợ vì nghe nói là ai mà không chịu nổi thì xỉu tại chổ. Ra đến nơi, gặp ông trung úy (lúc đó mới biết 2 sao 1 gạch la trung úy, hehe) cái mặt hình sự, mắt hình viên đạn của ổng là mặt tôi tái xanh, người gì mà nhìn hung dự quá. Khởi động 45 phút, nhìn thằng nào thằng nấy mắt thì lờ mờ, miệng há hốc… nhớ lại mắc cười. Tập xong, trưa ăn cơm, thằng nào ăn cũng như trâu, hôm đó tôi cũng không ngờ là tôi ăn được nhiều cơm đến như vậy. Sáng 4 tiếng, chiều 3 tiếng cứ đều đều như vậy…. nhớ những lúc hết tiền ăn sáng, trong túi còn có 2 ngàn, nhưng gói xôi đến 3 ngàn @@, ko biết làm sao hết, tôi liến quay sang thằng cốt ( thằng Sơn):

-                    

Sao mày không đi ăn sáng?

-                    

Hết tiền – giọng buồn

-                    

Mày còn 1 ngàn không?

-                    

Tao còn 2 ngàn

-                    

Đưa tao – hí hững

Mua gói xôi 2 thằng chia ra ăn, xôi gì mà ngon quá (chỉ có xôi Minh Lương là ngon nhất thôi).

Sau 6 tháng, kết thúc khóa học sơ cấp nhất trong ngành công an, tôi được phân về PCCC. Trời ơi, sao buồn vậy? sao không qua 113??

 Mấy thằng kia nhận công tác xong cười khinh khỉnh nhìn gét quá… lúc trên xe chở quân thằng nào củng hí hửng vì sắp được mặc chiếc áo cảnh sát mơ ước.

-                    

rằm tháng 2 hàng năm anh em họp mặt nha, thằng nào không đi ba má nó xụi!!

-                    

oke!

(sốc ghê, không đi không được)

Về phòng cảnh sát PCCC, lúc đầu tôi rất hoang mang, nhưng sau 1 tháng thì khác – khoái rồi nha!!

Cảm giác nghe tiếng kẻng báo cháy liền hồi, ngồi trên xe chữa cháy kích thích tôi. Cảm giác khi thu hồi phương tiện như là mình vừa làm xong 1 nhiệm vụ cao cả. Cảm giác được khen ngợi: không biết mệt à? 

( ụ tàu Lâm Thành Phát, từ 21h đến 4 h sáng.@@)

Lúc là chiến sỹ nghĩa vụ, tôi luôn mong muốn được vào biên chế trong công an nên từ năm thứ 2 tôi quyết định thi đại học.

Tôi sinh vào ngày 20 tháng 5, tôi rất tự hào vì sinh vào ngày đó ( sau sinh nhật bác 1 ngày thôi, hehe). Tôi nhớ tôi nói với 1 cô bé (khánh Vân) “năm nay (2007) nếu có kỷ niệm quan trọng với anh thì chắc chắn anh đậu đại học..”.

Bất ngờ lớn, 20 tháng 5 năm 2007 ngày toàn Quốc bầu cử. há há. Khi vào đại học PCCC tôi lại ở phỏng 502 (205) mới ghê. Chắc là số phận.

Nhưng số phận này là sự nổ lực của tôi, tôi sẽ thay đổi cuộc sống. Tôi quan niệm, cuộc sống là 1 con đường dài không có đích, tình yêu là 1 con đường dài có đích (tri kỷ là đích đến của tình yêu). Tôi phải đi thật nhanh trên con đường “cuộc sống”, tôi không muốn bị bỏ lại, một mình tôi đi trên con đường đó thì rất nhanh nhưng không thể đi xa được, tôi cần 1 bờ vai dịu dàng của 1 người phụ nữ để cả 2 sẽ đi xa hơn 

trên con đường cuộc sống và tiến đến đích của tình yêu.

Lần đầu tiên tôi có bạn gái, tôi vụng về và ích kỷ. Không thể nói là do lần đầu hay do chưa có điều kiện mà chình là do tôi kém cỏi nên giờ là hối tiếc lớn trong tôi. Tôi xin lổi em. Tôi biết tôi đã mất em mãi mãi, nhưng tôi không quên những giây phút hạnh phúc. Cảm giác ngồi trên xe về miền nam, cảm giác ngồi chờ tại bên xe, cảm giác chở em đi chơi, đi mua sắm… hạnh phúc. Tôi đã lấy mất của em quá nhiều thứ, tôi đã nhận ra tôi không thể níu kéo được nữa, chúc em luôn manh khỏe, hạnh phúc và thành công. Và tôi cũng có nhiều bài học cho riêng mình, tôi sẽ không làm người phụ nữ tiếp theo của mình khóc nhiều như vậy.

Lạc đề rồi, e hèm!

-                    

mày leo thang thì leo sao mà bấm từng giây ghê vậy? – mấy thàng bạn hỏi

tôi củng cười cười chứ không nói làm gì. Nhanh 1 giây có thề làm cho nhịp tim của 1 người sắp xa rồi cuộc sống đập 1 nhip, có thể cứu được sinh mạng con người.

ai gặp tôi củng hỏi: mày đánh võ tới đâu rồi? – tôi trả lời: tôi không sợ ai hết vì tôi chạy rất nhanh. Nge xong tụi nó xí 1 cái mà nước miếng văng tùm lum.. sao không ai hỏi tôi buộc dây nhanh không? Nhảy rào, vượt tường thế nào?... buồn ghê.

Túm lại là tôi tự hào vì mình là cảnh sát PCCC!! Vậy thôi. Kết thúc hơi vô duyên, ai đọc thì thông cảm nha! Làm cho xong đồ án cái đã!

Chúc mọi người 1 buổi sáng tốt lành!!

Tết trong xà lim biệt giam Hoả Lò

Đoàn tử tù cả tiếng đồng hồ lúc đi, lúc bò, lúc cúi trong lòng cống ngầm tối om. Cuối cùng họ cũng đến đích và nhanh chóng chui lên khỏi miệng cống giữa phố Quán Sứ. Chúa ngục Michel Giovanielli được tin, bèn tung một lực lượng hỗn hợp cả mật thám, cảnh binh và hiến binh truy bắt khẩn cấp. Báo động thiết quân luật trong cả nội thành bị tạm chiếm. Kiệt sức và tay không, đoàn tử tù chống lại lực lượng vây bắt đông gấp bội và sự không cân sức chỉ giúp được 5 chiến sỹ thoát hiểm. Bọn mật thám đưa 12 chiến sĩ bị bắt lại trở về nhà lao. Phủ thủ hiến Bắc Việt ra thông báo trấn an dư luận, đe doạ nếu chứa chấp những người lẩn trốn sẽ bị coi là tòng phạm. Đoàn 12 chiến sỹ bị giải trở lại khu xà lim 1, sau đó thay thế bằng khu xà lim 2. Và sự doạ đầy cùng cực đã giáng xuống cả về thể xác lẫn tinh thần. Chúng cùm hai chân, khoá xích hai tay các chiến sỹ suốt ngày đêm. Thân thể trần truồng, trơ khấc trên nền sàn xi măng lạnh buốt. Chốc chốc lại một xô nước do thằng Voi, Phó ngục dội vào. Hai hôm đầu bị bỏ đói và rét lạnh, lại bị cấm không được nói. Lính bảo chính đoàn gác trong khu xà lim cũng bị cấm không được hỏi han. Từ ngày thứ ba trở đi, chúng mới cho mỗi người ăn một nắm cơm cháy nhỏ kèm mấy hạt muối và lưng lửng ca nước lã. Bị giam hãm như thế nhưng xà lim 2 vẫn có mối liên lạc với tổ chức tù nhân, cả đồng đội bên ngoài. Vụ vượt ngục của các chiến sĩ đã gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Rồi trại thành án tuyên bố tuyệt thực hôm trước, hôm sau trại phụ nữ và cả trại “trẻ con” cũng nhịn ăn. Toàn thể tù đề lao Trung ương Hà Nội cũng nhịn ăn để phản đối cách đối xử vô nhân đạo với xà lim 2 và bắt bớ tràn lan người tình nghi giúp đỡ cuộc vượt ngục. Rồi một buổi sáng, dân chúng nội ngoại thành từ nhiều ngả kéo đến trước cổng Hoả Lò, đòi Toà án binh Pháp và Chúa ngục phải trả lời cho biết chồng con mình hiện giờ sống chết ra sao? Ngần ấy nguồn hỗ trợ, bảo vệ khiến giặc phải nhượng bộ, nới lỏng dần với khu biệt giam; nắm cơm cháy thay bằng cơm rời đựng vào hộp tôn với vài ba cọng rau muống già, mấy miếng đậu phụ thái kiểu quân cờ kho với muối. Mỗi ngày có một ca nước vối loãng để uống. Hơn một tháng trôi qua, một buổi chiều, chúng mang vào cho mỗi người một bộ quần áo tù ngắn, tháo bỏ khoá tay số 8 và lần đầu được tắm rửa sau ngày bị bắt lại. Rồi suất cơm hộp tôn được thêm một phần tư cái bánh chưng. Như vậy là ngày mai đã đến tết. Phòng biệt giam cũng phải lo chương trình đón giao thừa theo hoàn cảnh riêng. Sau lễ chào cờ, anh em hát quốc ca, rồi hai người cùng buồng chúc lẫn nhau những điều tốt lành. Buồng nọ nói với sang buồng kia. Đầu dãy với cuối dãy. Tiếng cười nói vui vẻ, lạc quan, tin tưởng. Rồi trình diễn các tiết mục văn nghệ tự biên tự diễn. Diễn viên cũng như khán giả đều ở nguyên tại chỗ, chân vẫn trong cùm nên chỉ nghe tiếng mà không thấy người. Đặng Kỳ hát bài tủ Đoàn quân đi. Minh Việt ngâm bài thơ Em bé sông Lô. Hùng Hậu hát Tiếng hát người Hà Nội. Bình “còm” không quên nhắc Văn Đang: “Lát nữa, nhớ phải làm một ván cờ tướng mở hàng đấy nhé”.(Không có bàn và quân cờ, thế trận bầy ngầm trong óc, buồng này đánh với sang buồng kia). Hương vị ngày xuân lặng lẽ tràn vào các buồng giam theo khói pháo. Bỗng có tiếng thét lên: - Mùi pháo các anh ơi, bên anh có ngửi thấy không? - Thấy chứ, khói nó đang tràn vào đó. Người lính bảo chính đứng gác giữa hành lang cho biết: - Năm nay, pháo đốt nhiều gấp mấy lần năm ngoái. Trời mưa phùn, khói không bay lên được mới dạt vào đây. Chính một số đồng chí mới ra khỏi Hoả Lò mấy hôm trước đã đến đây đốt pháo với suy nghĩ đơn giản “các đồng chí ấy không hề lãng quên mình”. Chuông nhà thờ thánh Saint Marie buông rành rõ từng tiếng. Tiết mục cuối cùng trình làng xà lim 2 là độc tấu Đi theo Táo quân lên chầu Ngọc Hoàng của Phạm Vân (tức Vân “lùn”). Cả xà lim 2 ran lên tràng pháo tay tán thưởng. Người lính gác dựng cây tiểu liên vào vách tường, thả sức vỗ hai bàn tay vào nhau đôm đốp, reo lên: - Ở trong quân ngũ quốc gia, em chưa bao giờ được vui như thế này! Sáng mồng một tết, bỗng có tiếng lách cách mở khoá cửa to vào khu xà lim. Đi đầu là giám thị râu ngô Michel Giovannielli, đến thằng Voi (René Marty), Phó giám thị. Là phụ tá, thằng Voi khệ nệ hai tay xách làn mây đựng đồ tiếp tế. Thấy sự lạ, anh em tù chính trị lặng lẽ ngồi dõi theo. Tiếng một cửa buồng được mở. Rồi thằng Voi ra vào liên tục nhiều chuyến cho đến khi cả 8 buồng xà lim đều lần lượt được mở. Người nào cũng được kêu tên nhận quà. Bất luận người Hà Nội, Hà Đông hay ở tỉnh xa đều nhận được làn quà tiếp tế ngày tết, đúng tên và số tù, do có sự dàn dựng từ bên ngoài. Mặt trận Hà Nội đã nắm vững tình hình xà lim 2 qua các đồng chí mới thoát khỏi Hoả Lò mấy ngày giáp tết và gửi tiếp tế vào theo đúng nội quy. Lần này cũng có màu sắc xuân của hoa đào, hoa cúc, quất vàng. Có đủ thức ăn, thêm thuốc hút. Nhưng gửi vào trong đó nhiều nhất vẫn là nghĩa tình của hai bên nội ngoại, đồng đội gửi vào cho người tù khiến họ khắc sâu vào tâm trí suốt đời. Hơn nửa thế kỷ trôi qua. Đất nước đã thay da đổi thịt. Song, khắc sâu trong anh chị em cựu tù chính trị vẫn mãi mãi là lòng biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc của đồng bào, đồng chí. Tình cảm ấy thật thầm lặng mà mãnh liệt. Trong kiếp sống đó, vui có, buồn có, song tâm tình ấy không bao giờ phai.

Chuy

n ngày x

ư

a

.

Hồi đó , sức dài vai rộng nên lúc nào cũng thấy đói .

Đói kinh niên .

Về nhà tranh thủ thì thôi rồi ... như năm 1945 .  Gắp, và cơm, chan canh, húp xoàn xoạt ... 

Ăn cả cháy và " cào " nồi cơm với những âm thanh rất " nhiệt tình " .

Ăn xong , vẫn đói ... tiện tay làm cái bánh mỳ với nước chấm và canh . Tạm no ...

Cầm cái tăm xỉa lia lịa .

Mãn nguyện trước sự ngạc nhiên của cả nhà .

Bà già chu đáo đi pha thêm cốc sữa .

Nghĩ lại thấy mình lúc đó thèm ăn cực .

*** 

 Bây giờ " dừ " rồi . Ăn được hai chén cơm với chút rau và thịt cá ... thấy óc ách trong bụng .

Ăn ít thôi . Ăn lắm mả cũng không to hơn được .

***

Nhớ lại , hồi ở trường VHQĐ Lạng Sơn bọn mình chuyên đi câu cá trộm . Sau lưng nhà là ao . Đủ lớn và cũng đủ cá cho lũ câu trộm bọn mình .

Ban ngày không ốm thì đi học . Nhưng đêm đến là tiếng cá quẫy . Nó quẫy như mời mọc những cái bụng rỗng .

Bọn vệ binh đi lại suốt đêm để canh gác trường học .

Thằng em K9 kể : Ngồi trong màn còn giương cái cần câu vào ao cá . Câu được con nào lấy cái đũa xiên từ miệng tới đuôi và lấy sách vở của bạn ra nướng . Quá tươi . Bóc cá ăn luôn trong màn rồi lại câu tiếp . No thì ngủ .

Như thời nguyên thủy nhỉ .

Mà cái bọn cá nó cũng đói . Thả câu , mồi gì nó cũng chén . Cắm một cái cần câu với mồi ất ơ . Sáng ra thấy chú trê vàng óng . Như vậy cầm lòng sao được .

Không như bây giờ , thả thính và mồi rồi ngồi đến ngủ gật cũng chỉ có bọn đòng đong cân cấn đến phá mồi . Cả ngày , sát cá lắm cũng chỉ câu được mấy con bằng ngón tay .

Cá bây giờ hình như không thèm ăn (?) .

***

Câu mãi rồi cũng chán .

Rồi Lâm già ( bạn trong nhóm ) chuyển sang đánh ba tiêu . Ra hẳn chợ Kỳ Lừa mua dụng cụ .

Hôm đó cả trường đi xem phim . Bọn mình thấy giải quyết cái dạ dày hơn xem phim nên ngồi xem một lúc là bỏ về . Lâm già đánh ba tiêu rất hay . Mấy phút đã dính một con mà Lâm già phải dòng dòng mất 30 phút . Khi kéo vào bờ mình cũng phát hoảng vì con cá mè to quá . Cũng phải 4 kgs . Mình nhảy xuống phụ với Lâm già hất nó lên bờ .

Hôm sau , phân công một chú em K9 ra chợ mua thìa là , cà chua , hành , khế ... về nấu canh đầu cá . Một chú em K9 khác xuống bếp nịnh chị nuôi xin bát mỡ . Nấu nướng ở đằng sau bếp cời than .

Thế mà thành một bữa quá thịnh soạn . Anh em ăn , chan , húp ... hết lúc nào không hay .

***

Có những hôm không ngủ . Dưới ánh đèn điện bọn mình lấy giấy bạc trong bao thuốc lá bọc lên cái phao . Cá cắn nhiều phết.

Hôm sau lại đi chợ mua gia vị và nịnh xin mỡ của chị nuôi ...

***

Những ngày xưa thân ái đâu rồi .

Ngôi trường đó đã bị chia năm xẻ bảy để làm nhà cho những sỹ quan của tỉnh đội và công an biên phòng .

Nếu bạn đến thăm , tất cả đã khác xưa .

Trường VHQĐ LS chỉ còn lại một dãy tường thành ở cửa Nam với một khẩu súng thần công lẻ loi . Cái ao đã bị vùi lấp và cũng vùi lấp tất cả những kỷ niệm của chúng mình .

Bây giờ , mỗi khi nhớ về ngôi trường ấy ... Trong tâm trí mình , nó chỉ còn là một phế tích đơn côi .

Tet

Ai cũng mong Tết để về nhà để được gặp người thân, được hòa mình trong cái đầm ấm của mùa xuân trên quê hương mình. Còn với tôi thì mong tới Tết là còn để thỏa được cái sự “thèm” được ăn rau của mình

Mùa trăng cuối cùng vừa qua, hí hửng gọi về hỏi thăm gia đình, sau cùng cũng hỏi má một điều quan trọng: “Má trồng rau chưa, mai mốt con về ăn cho đã”. “Ừ, mới gieo hạt hôm qua, về sớm ăn rau nghe con”.

Từ thời sinh viên cho đến khi đi làm, cơm bụi cho đến cơm văn phòng, cảm giác thiếu rau vẫn cứ chực chờ trong mỗi người con xa quê. Dù bữa ăn có gọi thêm rau này rau nọ nhưng sao vẫn lạ và không “đã miệng” như những cọng rau do má tự tay trồng. Vậy nên cứ đợi chờ những mùa xuân về để được được về nhà và “ăn rau”.

Tôi từng được nghe kể những người lính đảo thèm rau đến mức khi được về nghỉ phép là bữa ăn chỉ toàn rau và rau. Với những đứa con xa quê như tôi thì không đến mức như vậy nhưng tới bữa ăn thì cũng nhờ má cho một rổ rau to đùng bên mâm cơm.

Bữa cơm tối nào má quên hái rau thì vẫn chẳng hề gì, bật điện rồi lọ mọ soi đèn pin ra vườn rau năm phút là bữa ăn đã có màu xanh. Hôm nào màu xanh cũng chiếm gần nửa mâm cơm, khiến có lần hàng xóm tới chơi phải ngạc nhiên, làm má phải giải thích: “Cái rổ rau này dành cho người thành phố đó”.

Rau của má trồng không một hạt phân hóa học hay một giọt thuốc trừ sâu. Má đã dồn hết công sức những buổi chiều đáng lẽ nghỉ ngơi để nhẫn nại đi bắt từng con sâu, nhổ từng cọng cỏ một, mong cho rau trông thật đẹp và tốt, để cho con ăn thỏa thích.

Mỗi khi về nhà trước hết là tôi chạy ngay ra vườn rau để nhìn, để hít cho thỏa hương thơm. Luống rau cải non xanh nõn, luống rau muống lún phún ngọn, rau thì là, rau ngò nhẹ êm bàn tay, xà lách thì từng búp từng búp tươi non. Đưa tay ngắt nghe từng cọng rau gãy giòn rụm, mát lạnh lòng bàn tay.

Rau má trồng là rau sạch, tươi non hơn cả khi bỏ trong tủ lạnh khiến tôi nhiều lần giũ sạch đất đưa vài cọng vào miệng ăn ngay cho đã. Cọng rau sao mà ngọt, mát lạnh đến tận cổ họng. Thích thú không sao tả hết được. Má thấy vậy hay la: “Không nhịn được tới lúc má rửa sạch hả”. Lúc đó chỉ cười hề hề: “Có dính đất cũng sạch hơn rau mua mà má”.

Khỏi phải nói có bao nhiêu món để có thể ăn kèm rau những ngày tết ở quê nhà. Bánh tráng cuốn măng khô kho thịt phải có rau, phở khô thịt bò hay lẩu gà thì càng phải có nhiều rau. Ngay cả những lúc ăn tạm mì gói đợi tới bữa chính cũng phải có rau đi cùng cọng mì. Bạn bè tới nhà tôi chơi, dọn cơm ra thì cái tôi tự hào quảng cáo trước tiên hẳn là rổ rau tuyệt vời của nhà mình.

Rau má trồng là dành cho thằng con lâu ngày “đói rau” nên dù sức “tiêu thụ” của tôi không kham được hết và rau lớn nhanh như thổi thì má cũng không nỡ đem ra chợ bán. Thấy uổng quá tôi lại hối má hái bán cho người ta. Má nói: “Bán có mấy đồng, để con ăn”. Sau rồi tôi cũng thuyết phục được má nhưng hái bán luống này chưa hết thì mồng 2 Tết má lại lọ mọ cuốc cuốc, xới xới gieo luống mới. Thấy con cái cằn nhằn, tết mà không nghỉ ngơi má lại cười: “Để trước khi vào Sài Gòn còn có rau cho con ăn một bữa nữa chứ”. Chợt thấy sống mũi cay cay, chạy ra giúp má xách nước.

Tết năm nay nghe quê nhà mình lạnh lắm, ai cũng mặc áo lạnh mà cứ run cầm cập. Chợt thấy mình thật là vô tâm khi nghĩ tới cảnh má phải cuốc đất, sớm chiều đã phải tưới nước cho rau. Thôi để tết này con ăn hết những luống rau má trồng nghen má.

Thế là tôi lĩnh trọn một nhát búa bổ củi vào gan bàn chân phải. Mấy ngày đầu tôi không đi lại được, mọi sinh hoạt cá nhân đều phải có đồng đội hỗ trợ. Nhất là thằng Thường Cối và Thanh Trố phải rửa vết thương và thay băng cho tôi. Nó còn khêu và lấy ra tất cả các hòn sỏi nhỏ li ti và cát ở bên trong vết thương. Còn y tá đại đội chỉ cấp phát băng cho tôi thôi chứ chẳng có thuốc men gì cả. Tôi nằm ở nhà khoảng 1 tuần, thấy chán quá tôi bảo anh em tiểu đội đóng cho tôi 1 cái lạng. Tôi bắt đầu tập đi lại, đầu tiên tôi co chân phải lên đi bằng chân trái ( như nhảy lò cò ). Nhưng chân phải co lên mãi thì mỏi, sau tôi hạ chân phải xuống và đi bằng gót chân, còn phần ngón chân không cho tiếp đất. Nhưng do cử động khi đi lại vết thương lại rỉ máu. Nhưng tôi vẫn kệ và đi lại cho khuây khỏa. Khổ nhất là lúc đi tắm, thằng Thanh Trố và Thường Cối đưa tôi ra suối ( Bản Lịch ). Tìm chỗ nước nông thôi. Chúng nó kê một hòn đá cuội để gối đầu và một hòn gác cái chân đau lên cho đỡ ướt. Tôi nằm ngửa xuống suối nước vừa ngập người, tha hồ tắm mát.

- Tới ngày 2-9-1982, đúng trùng với ngày rằm tháng 7, người dân tộc Tày và Nùng ăn rằm tháng 7 rất to. Gói cả bánh Nếp và bánh Ngô, thịt gà và thịt vịt rất nhiều còn rượu thì vô tư đi.  ;D Vì người dân tộc ở đây dùng rượu thay nước. Đơn vị tôi thịt một con Lợn và một con Bò. Thực phẩm được chia thẳng cho từng tiểu đội tự chế biến như thế nào thì tùy. Còn bếp đại đội chỉ thổi mỗi cơm thôi ( Đúng là thịt ấm chân răng )

-Vừa thịt lợn và Bò, mỗi đầu người được hơn 1kg mà tiểu đội tôi 2 khẩu Cối 60 có 9 người, được hơn 10kg thịt tất cả. Thế mà chúng tôi chén 1 ngày hết sạch còn rượu thì chủ nhà đãi. Ngày hôm sau lại cơm muối trộn với ớt chỉ thiên. Vết thương của tôi đến khoảng tháng 10-1982 thì đỡ. Tôi đi lại không phải dùng lạng nữa, chỉ khập khiễng thôi. Thì đơn vị tôi lại nhận thêm một đợt quân nữa đó là lính tháng 9-1982. Đến cuối tháng 10-1982 chúng tôi được lệnh rút quân ra khỏi Bản Lịch, lên sườn núi đá sát bản Rẻ Gà ( gần chợ Lương Thông ). Làm doanh trại, ở tập trung theo đội hình Tiểu Đoàn. Gồm có C1 C2 C4 và D Bộ, còn C3 vẫn đóng quân ở gần Bản Ái. Giai đoạn này chúng tôi tương đối vất vả vừa huấn luyện, phải lấy cây, que làm doanh trại, đào hào cơ động và chiến đấu. Luôn luôn sẵn sàng cơ động lên tuyến, trên chiến đấu ( Khi nâng cấp báo động ! ).

- Kỳ sau : Ôi ! Cái rét mùa đông năm 1982 gần như đi vào lịch sử của lính bảo vệ BGPB         Vì lúc đó dân vừa gặt lúa song lên rơm ở ruộng rất nhiều chúng tôi đi lấy về vừa gần lại nhanh. Chúng tôi đi làm cật lực và khẩn chương. Mà vào thời điểm đó bếp ăn Đại Đội chả có gì ăn cả chúng tôi ăn cơm muối 100%. Rất may vào lúc đó buổi chiều tôi mới thằng Thanh Trố đi lấy rơm về mỗi thằng 1 gánh nặng về, thì thấy ở trên đồi Trẩu có 1 con lợn (rừng  :)) lạc vào khu vực đơn vị đóng quân tôi liền nháy mắt với thằng Thanh Trố, hiểu ý nhau 2 thằng đặt 2 gánh rơm xuống tôi chạy về tiểu đội lấy súng. Thằng Thịnh voi ở A (Đại Liên ) cũng chạy ra theo thế là 3 thằng chúng tôi dồn con lợn rơi xuống hào chiến đấu thằng Thịnh voi với thằng Thanh Trố mỗi thằng 1 đâu dồn con lợn vào góc cua của đoạn hào thằng Thịnh voi vồ được cổ con lợn 2 tay bóp chặt rồi nhấc bổng con lợn lên tôi liền nhảy xuồng hào thúc cho nó mấy cái báng súng vào đầu nó quay cu đơ ra ngay không còn giẫy dụa gì nữa (con lợn khoảng 10kg ) thằng Thịnh voi cởi ngay cái lõi áo bông ra bọc lấy con lợn mang về. Chúng tôi trả làm lông gì cả, mổ bụng vứt (chôn) hết nội tạng rồi xuống nhà bếp mượn cái nồi 20b (bảo về đun nước tắm). Chúng tôi xả con lợn ra từng miếng nhỏ một cả lông lá thế cho vào luộc luôn. Khi ăn chỉ cắn phần nạc và mỡ thôi còn bì thì vứt đi (vì bì nó vẵn còn lông). Thế là A cối và A đại liên tự tăng ra một bữa ăn tươi ngon lành (khi ăn phải dấu) :) :) :) Chưa đến 10 ngày, A CỐI chúng tôi đã làm xong nhà tiểu đội ngon lành ( vì chúng tôi làm nhà tre ). Trong khi đó ở các B vẫn chưa lấy đủ cây que ( Họ lên rừng lấy gỗ ). Khi A CỐI chúng tôi xuống nhà mình tự làm ở riêng biệt rồi. Nó rất kín đáo, tôi, thằng Thanh Trố và Thường Cối hay rủ nhau đi xin thức ăn tươi của dân Bản lắm ( Gà, Vịt .... ) nhưng toàn xin vắng mặt thôi  ;D ;D

Tất cả chỉ vì cuộc sống thiếu thốn và khổ quá.

- Rồi có một tối liên lạc C tôi xuống từng B và A trực thuộc bảo điểm quân số bí mật, xem có thiếu ai không nếu vắng ai thì A và B trưởng phải báo cáo cụ thể. C1 chúng tôi thì chả thiếu ai cả  :D

- Hôm sau tôi mới biết vụ điểm quân số là do tin báo ở mỏ nước Bản Ruồm có một bộ đội bị chết ( Tại mỏ nước ). Nó là cái mỏ nước tôi đã nói đến khi chúng tôi hành quân lên đơn vị mới ấy. Vệ binh trung đoàn đã lên bảo vệ hiện trường và trung đoàn lệnh về cho từng đơn vị điểm danh quân số để tìm người. Hóa ra người chết đó là quân của tiểu đoàn Bộ ( D4 ) chúng tôi là đồng chí: "Lý Bá Việt, nhập ngũ tháng 8-1978, quê ở thôn La Đành xã Hóa Trung - Đồng Hỷ - Bắc Thái" là lính thông tin tiểu đoàn 4. Buổi sáng đồng chí Việt nhận nhiệm vụ xuống Trung Đoàn Bộ và C18 Thông tin để lấy thư báo và công văn ( Mật ). Khi đồng chí Việt đi có mang theo Ba lô và súng AK. Chắc khi về đến mỏ nước thì bị biệt kích ( Thám báo ) giết chết lấy đi toàn bộ thư báo, công văn và súng AK nữa. Nếu đồng chí nào hoặc thành viên quân sư ở gần địa chỉ anh Lý Bá Việt thì cho tôi gửi một nén nhang thắp cho anh ấy nhé =.=

- Tôi xin phép nói kĩ về trường hợp của anh Việt một chút. Thế nào cũng có đồng chí thắc mắc và hỏi lại tôi "tại sao anh Việt chỉ là lính thông tin tiểu đoàn thôi mà nhập ngũ tháng 8-1978 mà còn đến cuối năm 1982". Lính 78 được giải quyết ra quân đợt cuối cùng là hết lính 78. Nhưng vào thời điểm đó anh Việt đi viện nên không được ra quân. Khi ra viện về đơn vị thì lính 78 ra quân hết rồi. Nên anh Việt là lính 78 còn xót lại. Rồi sự việc xảy ra như thế đó. Thật là đau xót cho đồng chí Việt và gia đình đồng chí.

- Quay trở lại A CỐI chúng tôi ;D Khi nhà đã làm xong thì cái rét của mùa đông năm 1982 ập về. Ôi ! Rét kinh khủng. Chúng tôi dồn vào nằm chung, 2 thằng 1 sạp. Cũng may là chăn bông, chăn chiên, và màn chúng tôi đều được trang bị đầy đủ. Cả mũ bông và áo bông nữa. Nên chúng tôi cũng chống chọi được với cái rét nơi biên thùy. Lá rụng, cây cối chết khô, khẳng khưu. Nhất là cây chuối táp khô hết lá. Sáng ngủ dậy, những hạt tuyết li ti óng ánh bám trên những cành cây và ngọn cỏ. Một lớp băng mỏng ở trên mặt bất cứ vật dụng gì đựng nước qua đêm. Lại kèm thêm cả mưa đá và động đất nữa ( Động đất trên 6 độ richter ). Rét quá đâm ra bẩn, bọ chó rất nhiều, ghẻ khủng khiếp. Nhưng chúng tôi có bài thuốc chữa ghẻ rất tuyệt vời ^^. Tắm lá Cơi chưa là cái gì cả, phải ngắt Hoa hoặc quả cây thuốc phiện chấm vào chỗ con ghẻ đang đào bảo đảm 30 năm sau con ghẻ không dám bén bảng đến chỗ đó nữa. :)) Mà vào thời điểm đó Biệt kích ( Thám báo TQ ) hoạt động rất mạnh, tiểu đoàn 4 chúng tôi có 2 đồng chí nữa bị bắn và đâm chết . Cái Rét mùa Đông năm 1982.Ở Núi Rừng Biên Giới. Thật kinh khủng cho những Người Lính chúng tôi. Rồi ngày 22 tháng 12 sắp tới ( ngày thành lập Q Đ N D VN ). A Cối chúng tôi được giao nhiệm vụ cử 2 người xuống Trung Đoàn bộ để bắt lợn ( thực phẩm Tết Q Đ ). Tôi với thằng Thường cối được cử đi bắt lợn. Tôi dậy từ sáng sớm, xuống Quản Lý cắt Gạo. Rồi 2 thằng mang Ba Lô lộn và khoác súng AK về Trung Đoàn bộ. Khoảng 10 giờ, chúng tôi về đến Trung Đoàn bộ, nhận được con lợn khoảng hơn 60 kg. Thằng Thường Cối lấy dây thừng buộc vào một cái chân sau của nó. Rồi 2 thằng dong con lợn vào Bản Giàng nhờ nhà Dân thổi cơm ăn. Khi đang ăn cơm tôi bàn với thằng Thường cối phải tìm cách thịt con lợn đánh chén một bữa rồi mang thịt về đơn vị giả báo là lợn chết. Ăn cơm xong thì trời đã quá trưa, tôi với thằng Thường túc tắc dong con lợn về đơn vị. Lúc đầu con lợn cứ cun cút mà giống lợn ỉn cái ở dưới xuôi mang lên lúc nó đi cái mông lúc lắc, còn cái đuôi thì ngoe nguẩy, nó đi như vẻ hăng say lắm thỉnh thoảng tôi lại đá "bốp" 1 cái vào mông nó. Qua được đèo Bó Đin thì cu cậu đã thấm mệt và chây ì không đi nữa. Tôi liền bẻ một cành cây để cả lá phất phất vào mông nó thì nó lại lũn cũn đi. Được 1 lúc nữa thì nó dừng hẳn, không đi nữa, nó nằm ịch ra, thở hồng hộc. Tôi bắt đầu cáu, đá liên tục vào mông và vào bụng nó và mồm chửi thề :" Mày có đi không thì bảo, đúng là đồ con lợn ;D ". Tôi liền thúc cho nó mấy cái báng súng nó cũng chả thèm dậy. Lúc đó, may có mấy cô gái bản đi qua, tôi liền mượn 1 con dao quắm liền chặt 1 cái cây to bằng cổ tay để làm đòn và tìm dây. 2 thằng loay hoay buộc con lợn vào rồi xỏ đòn khiêng - thật là khổ sở vì con lợn !.

Rồi 2 thằng chúng tôi khiêng vào con lợn vào đến Bản Ruồm nhờ nhà dân thịt quách đi cho xong và mình còn được 1 bữa ăn tươi ngay tại trận và mình mang thịt về đơn vị cũng được. Đầu tiên thằng Thường Cối nghe tôi nói vậy nó sợ không dám. Tôi liền đả thông tư tưởng và nắm gân nó, tôi nói :" Mày không phải lo, tội vạ đâu tao chịu tất ". Vì lúc đó quân C2 C3 C4 và D Bộ nó dong lợn đi trước hết cả rồi, chúng nó cũng biết con lợn của C1 chúng tôi nó không chịu đi ( Lý do là mình đánh nó nhiều ). Tôi nói vậy, Thường Cối thấy có lý nên nó đã đồng ý cùng tôi thịt con lợn luôn.

- Hai thằng khiêng con lợn đến Bản Ruồm và vào nhà dân thịt con lợn, làm 1 lúc thì xong. 2 thằng chúng tôi cùng chủ nhà đánh chén lòng lợn tiết canh và một cái diềm bụng của con lợn. Ăn no, rượu say tôi liền cắt một khoanh cổ và dẻo thịt bụng nữa cho vào ba lô. Rồi xẻ con lợn ra làm 2, mỗi thằng một gánh. Gánh về đơn vị, Khi về gần đến đơn vị, tôi liền dấu cái ba lô vào bụi cây. Lúc về đến đơn vị thì đơn vị đang sinh hoạt đại đội. Anh Nghị C phó ( Hậu cần ) nhìn thấy chúng tôi gánh thịt lợn vào thì trợn tròn mắt lên. Tôi lên phân bua và trình bày rất bài bản và hợp lí nên đại đội chẳng làm được gì tôi cả. Liền gọi quản lý cất thịt vào kho. Rồi tôi về, bảo thằng Thanh Trố ra cái bụi cây tôi dấu ba lô lấy mang về. Đêm hôm đó, cả A CỐI chúng tôi được ăn tươi luôn ( rang ăn vã ). Còn toàn đơn vị thì ngày mai có bữa ăn tươi, coi như là ăn 22-12 sớm ( anh em trong đơn vị bàn tán như vậy  ;D ;D)

Bộ đội Tây nguyên ngửi mồm đồng bào

Nguyễn Trọng Luân

Biền biệt ở trong rừng năm này qua năm khác bom đạn mù trời khiến lính thèm đủ thứ , thích đủ thứ và sợ đủ thứ .

- Thích nhận được thư , thích đến ngày phát thuốc lá Miên , thích gặp đồng hương ( nhất là đồng hương làm hậu cần ) thích không phải vác B41 , đại liên . thích Gô tàu hơn gô LX , thích tất cao cổ , thích đi công tác lẻ ra phía sau …và  thích nhất là gặp gái … gái đồng bào cũng được .

 - Thèm được một thìa đường khi sốt rét , thèm thuốc lá , thèm được xem phim , thèm miếng thịt lợn , thèm cà muối , thèm rau , …thèm gái …

 - Sợ Sốt rét , sợ pháo kích , sợ mìn , sợ C130 , sợ B52 ,  sợ cấp trên , sợ rắn lục , sợ đi cõng gạo , sợ mất dép cao su … sợ vi phạm gái mú .

   Như vậy gái là thủ phạm của cả thích thèm sợ

Nhưng đã thích đã thèm thì sợ lính ta cũng vẫn chiến đấu .

MÙa mưa năm 73 . Mình sốt rét đi viện trung đoàn . Viện C24 ở bắc đường 19 . gần cái bản có tên Ngole. (play ngole ). ở trong bản có một cô gái tên Mít . Hồi ấy nàng mười tám mùa nương . Chẳng hiểu lai kinh hay lai thổ mà nó trắng phau phau . mắt long lanh , trong veo veo như suối yah’leo vậy . Chiến tranh thật trớ trêu , in ngay dấu vết lên thân thể cô gái xinh đẹp này . Nó làm hủy hoại nhan sắc trời cho của núi rừng vốn đã heo hắt và khiến đau lòng cho những người đàn ông đa cảm như bọn mình  . Mít có một chân còn chân kia cụt gần đầu gối . Dân bản bảo :

-   máy bay quốc gia nó làm bom đấy . làng chết nhiều nhiều . con Mít không theo giàng chớ , con Mít đẹp đẹp ở lại với đồng bào .

Mít phổng phao , Mít đi nương , chống cây nạng y hệt nạng thương binh của bộ đội ( chắc đơn vị nào đó làm cho ) mà mang vác không kém người nào . Chiều chiều , ngồi bên suối , Mít thả cái chân cụt trắng như khúc nõn chuối rừng khoắng ì oặc dưới nước . Mít tự hào ngắm khuôn mặt mình và bộ ngực hiên ngang thơm như hai đĩa sôi nếp được mùa dịp tháng mười . Hôm nào mưa không đi nương , Mít ngồi dệt ở trên sàn . Cái chân cụt khoanh lên cái chân lành , khúc thịt trắng ngoay ngoáy theo nhịp ném suốt . Kì lạ , nhìn cái chân cụt của Mít cũng thấy nôn nao lòng lính . Đã bao đơn vị quân giải phóng  đi qua đây . Đã bao nhiêu lần lính quốc gia trú quân lại đây . Làng Ngo le này đã bao lần chịu pháo và những trận tập kích từ hai phía .  “ Dân làng quen chớ , Mít cũng quen chớ . Bom đạn không  có mắt , đồng bào có mắt đồng bào chạy vô rừng chớ “ . Lí thuyết đơn giản của đồng bào như thế . Cây rừng vẫn mọc , hoa Quì cứ vàng , đồng bào cứ sống cứ ăn củ mì uống nước suôi Ya leo mà tồn tại . Vì đẹp nên Mít không có ai bắt làm vợ . Mấy du kích đen nhẻm đóng khố vác sung AR15 gặp bọn mình cười nhe hàm răng sún : “ Bồ đồi bắt con Mít là bắt con ma đó . Nó cho ăn lá độc , nó làm bồ đồi không biết đường về đâu .” Nghe cũng sợ , nhưng cứ muốn nhìn , cứ muốn gặp Mít .

Nằm ở viện , từ thằng thương binh mới lành vết thương đến thằng sốt rét vừa cắt cơn  là rủ nhau ra bản . Có cái khăn Musoa hay cuộn chỉ thêu xanh đỏ là khoe khoe sau đít đi đổi rau đổi gà và sẵn sàng cho Mít . Thằng này dấu thằng kia , không thằng nào lộ ý định của mình  . Đi đổi thức ăn thì ít mà đi để nhìn cô Mít thì nhiều . Gặp Mít rồi về đêm nằm trong viện thằng nào cũng tê lê mê cứ hệt như đã được nắm tay , được người đẹp cụt chân ban phát cho nụ cười , chứ chưa nói là đến nụ hôn .

Mà Mít thì với ai Mít chả cười . Gặp mấy thằng tù binh ở liên đoàn biệt động quân 82 bị D8 E64 bắt hồi đánh Chi Bồ Thánh Giáo chúng nó còn nói là Mít hay cười với chúng nó  .

Gặp Mít ở bản khó có bề bầy tỏ tình cảm quân dân . Khó cơ hội nắm bàn tay Mít . Vì thế một hôm mấy chú lính bàn nhau , Phải gặp Mít ngoài suối , khi Mít đi nương về . Ba thằng , trốn bệnh viện cùng ra đi từ lúc mặt trời còn lấp ló đỉnh Phượng Hoàng phía Play Me . Trong ba thằng một  thằng bị thương ở đồi mắt ngỗng , một thằng bị thám báo lẳng lựu đạn vào kiềng và mình bị sốt rét . Chiều xuống ngồi đợi ở bờ suối lối đi vào bản bàn nhau , ba thằng phải đoàn kết phải trung thành với nhau nhé . Đây là tội Hữu khuynh đấy . Phải quán triệt sâu sắc tinh thần đồng đội , sống chết có nhau .  Ba thằng hạ quyết tâm dù chết không khai .

Mít về kìa . Nàng đeo một gùi bắp đầy . Ngực căng rướn lên , hai cái quai gùi kéo vênh cái núm ngực lòi lên như hai hạt gắm , cái chân cụt gấp khúc như cái mỏ rìu ngúc ngắc , ngúc ngắc . Tựa cái chân cụt vào nạng gỗ Mít hạ gùi xuống bờ suối . Những giọt mồ hôi bết mớ tóc mai trên cặp má hồng rực nắng chiều . cái áo cổ vuông của gái tây nguyên bao giờ cũng ngắn , nó phơi cái bụng khi Mít đưa tay vuốt tóc . Sáu tia mắt lính đồng qui vào lỗ rún . Mít biết chớ . Mít cười cười .

-   Bồ đội giúp đỡ đồng bào chớ ?

Thằng bạn bị thương ở đồi mắt ngỗng líu giọng :

   - Giúp giúp đồng bào cái chi ?

-   Cõng mình sang suối với mà . Mít vừa nói vừa xoắn lại cạp váy .

Cả ba thằng nhìn nhau sướng bất ngờ . Thằng bị lựu đạn lẳng vào kiềng định lội sang bị ngay thằng “ đồi mắt ngỗng’’ túm lại . Tao chứ , mày còn đau cẳng thế cõng quái nào được nó .

Thế là thằng “ đồi mắt ngỗng ‘’ ào sang . Mít nhoài lên lưng , tay lê cái nạng . Thằng bị lựu dạn quăng vào kiềng ì ạch bê cái gùi bắp . Thằng bê gùi sang bờ rồi mà thằng cõng Mít ì ạch mãi vẫn ở giữa suối  . Mít đập đập cái nạng :

-   Bồ đội đi chậm như con heo à . Hai thằng tôi bấm bụng cười . Nó thả mít xuống bờ suối sắn  lại ống tay áo bị tụt rồi rất nghiêm chỉnh nó nói :

-   Đồng bào trả công mình chớ . Mít tròn mắt :

-   Trả công gì bồ đội ? bắp hà ? Thằng “ đồi mắt ngỗng “ lắc đầu : không được mình không lấy bắp  , mình thơm má chớ . Mít rẫy nẩy lên :

-    không được lớ , bồ đội không tột chớ .

Ngay lập tức thằng “ đồi mắt ngỗng “ xốc Mít lên lưng :

-   đồng bào không ưng thì lại cõng trả về bên kia .

Nói rồi nó cõng cô gái sang bờ bên kia . thằng bị lựu đạn thả vào kiềng cũng lại ì ạch bê gùi bắp sang trả vào chỗ cũ . Mít bần thần .  Con mắt đã chừng như dịu xuống . “ Bồ đồi , bồ đồi cõng mình mình ưng ngừi má rồi mà “. Chỉ chờ có thế thằng “ đồi mắt ngỗng “ òa nước lội sang . Lần này thằng bị lựu đạn quăng vào kiềng quyết không sang bê gùi nữa mà tôi đành phải sang vậy . Để chắc ăn Thằng “ đồi mắt ngỗng “ ngửi má trước khi đưa hiện vật lên vai . Nó hôn Mít có lẽ đến hút xong nửa điếu thuốc . Đồng bào thì rướn lên , tay giữ cái nạng mà cái nạng cứ lung lay giật giật . Xong việc , ba thằng phóng ngay về viện . Dọc đường thằng đồi mắt ngỗng hổn hển , cặp vú nó áp trên lưng nóng ơi là nóng , mà con bé này không thấy mùi khen khét của đồng bào mày ạ . Thằng bị lựu đạn quẳng vào hầm thì tiu nghỉu , vẻ giận lắm . Sáng hôm sau ba thằng tôi xin ra viện ngay về đơn vị chiến đấu . Cái viện C24 ấy lùi sau chúng tôi tới 20 cây số

 Vài tháng sau ở chốt phía trước trên dãy Chư rông rang chúng tôi nghe các cán bộ phổ biến một vấn đề tư tưởng  như sau :

Có một tổ trinh sát đi qua bản Ngo Le lợi dụng trời xắp tối cõng đồng bào qua suối và đòi ngửi mồm đồng bào . Cô đồng bào Mít  sau đó vào viện trung đoàn trình bầy

 : Bồ đồi cõng mình chớ , nó đòi ngửi mồm mình . Mình không ưng chớ , nó quán triệt mình  ,mình phải ưng chớ . nó ngửi mồm mình miết miết  chớ , nó làm cái má mình phấn khởi , cái má nó động viên cái vú mình , cái vú mình nó tưng bừng rồi …mình..mình  đổ nác chứ . ( …Mình … đổ nước chứ )

Trời đất ơi , nó tìm khắp viện không thấy cái thằng nào là thằng bồ đội ngửi mồm .  Nó không bắt đền được ai đành ra về và từ đó rất cảnh giác với những chú bồ đội nào hay đứng tần ngần bên bờ suối .

Mấy chục năm rồi vẫn hú hồn . Bạn nào không tin gọi điện hỏi Mạnh Tiêu K4 ĐH Cơ điện . ( Giám đốc sở Công nghiệp Thái Nguyên mới nghỉ hưu ) Tiêu cũng biết chuyện này đấy . Nhưng đừng bảo là tôi nói nhé.

Chuyện bò ăn gạch, chó “bắt tay” ở Trường Sa

Chó đùa giỡn với chiến sĩ Trường Sa

Hanoinet - Bò ăn bìa các tông, ăn gạch, lợn chở lính đi dạo, chó biết bắt tay, tạm biệt…Những gì tôi chứng kiến về các loài vật nuôi ở quần đảo Trường Sa đều hết sức thú vị, thậm chí khó tin.

Hanoinet - Bò ăn bìa các tông, ăn gạch,  lợn chở lính đi dạo, chó biết bắt tay, tạm biệt…Những gì tôi chứng kiến về các loài vật nuôi ở quần đảo Trường Sa đều hết sức thú vị, thậm chí khó tin.

Bò nghiện ăn bìa các tông, quần áo…

Thật bất ngờ, trên hòn đảo nhỏ giữa trùng khơi, tôi đã nhìn thấy một đàn bò ung dung gặm... bìa các tông. Ở quần đảo Trường Sa, chỉ duy nhất đảo Song Tử Tây  nuôi được bò và sự có mặt của loài gia súc này cũng đã đưa đến nhiều giai thoại. Đưa bò từ đất liền ra Trường Sa là cả một đại vấn đề, ngay cả khi chỉ  làm thịt chứ chẳng phải để nuôi.

Còn nhớ  cách đây hơn mười năm, một chuyến tàu chở hàng có “cõng” theo một chú bò để lính đảo Trường Sa ăn Tết đã gặp bão nên đi lệch hướng khiến cho hải trình phải kéo dài ngoài dự kiến. Cỏ khô dự trữ đã hết, bò có nguy cơ chết đói. Bí quá, thủy thủ thử đưa giấy gói hàng cho bò ăn. Mới đầu bò còn chê, nhưng sau đói quá cũng phải nhá.

Rồi giấy cũng hết, bộ phận hậu cần của tàu bàn nhau: Cho bò ăn cơm. Thế là, trên tàu thêm một suất cơm. Nhưng bò chưa kịp ăn cơm thì đã khuỵu xuống chết  lúc tàu vẫn còn lênh đênh trên biển...

Câu chuyện ấy đã khiến tôi giật mình khi nhìn thấy đàn bò vàng béo mẫm ở đảo Song Tử Tây. Những con bò đầu tiên đặt chân lên đảo đã phải chịu đựng những cơn say sóng, đói cỏ tươi để rồi bắt đầu một cuộc sống mới vắng màu xanh của đồng ruộng mà thừa thãi màu xanh ngút ngát của đại dương.

Đảo nhỏ thiếu cỏ tươi, “cái khó ló cái khôn”, đàn bò đành tập ăn bìa các tông. Dần dần, thứ bìa giấy cứng đó cũng bị bò xơi hết. Bò lại chuyển sang chén thùng gỗ. Nhưng khi thùng gỗ bị giấu đi, bò ăn cả gạch khiến cho anh em công binh mấy phen toát mồ hôi. Rồi khi hết những món “khoái khẩu”, bò còn “đột nhập” vào doanh trại chén cả quần áo, giày dép của bộ đội... “Bần cùng” như vậy nhưng đàn bò trên đảo Song Tử Tây vẫn sinh con đẻ cái ngày càng đông đúc.

Đàn bò có một không hai này trở thành niềm tự hào của lính đảo Song Tử Tây. Đây cũng là đảo duy nhất ở Trường Sa mà trong khẩu phần của lính có 0,6/kg thịt bò/ quý. Thứ thịt của những con bò ăn bìa các-tông, lá bàng vuông...ngon đến khó tả. Chẳng ở đâu có được thứ thịt bò đặc biệt như hòn đảo nhỏ giữa trùng khơi này.

Cưỡi lợn đi dạo

Nếu như bò ở Trường Sa vẫn là “của hiếm” thì lợn đã được nuôi đại trà từ lâu. Hôm ở đảo Nam Yết, lợn nhiều quá khiến tôi không đếm nổi. Tiến Dũng – anh nuôi của đảo cười bảo: “Anh đừng đếm mất công, Nam Yết có khoảng  200 con lợn”.

Lợn thả rông, chạy trên đảo kiếm ăn. Không cần chuồng trại gì nhưng chẳng bao giờ sợ mất lợn cả vì bốn bề có biển bao bọc. Lợn cứ thế “tuỳ nghi di tản”, ngủ ở bụi cây, góc công sự hay  dưới gầm giường của lính, nói chung là tuỳ thích.

Tuy vậy, nhưng lợn được các chiến sỹ huấn luyện  để sống có nền nếp, biết “phục tùng tổ chức”. Chỉ cần một hồi kẻng, tất cả các chú lợn ở khắp nơi trên đảo lại lũ lượt kéo về nơi “tập trung”. Đó thực sự là một cảnh tượng sinh động, vui mắt.

Những chú lợn choai đang kỳ sung sức, bụng thon chân khỏe chạy vun vút. Mấy chị lợn sề lê cái bụng chạm đất, chậm chạp từng bước, một đàn con lon ton chạy theo sau. Lợn ỉn õng ẹo, vừa bước vừa vẫy đuôi vẻ điệu đà... Lợn trắng, lợn đen, lợn khoang, to nhỏ lớn bé chen chúc dưới gốc cây bàng, chờ “lệnh”.

Lợn ở Trường Sa sinh đẻ một cách hoang dã. Sắp đến ngày sinh, “chị” lợn tự tìm cho mình một nơi để lót ổ. Có “chị” đột nhiên vắng mặt trên đảo mất mấy hôm, thế rồi ngày nọ dẫn về cả một đàn con đẹp như tranh khiến lính phải ngỡ ngàng. Cũng có những “chị” lợn được các chiến sỹ lấy quần áo cũ, bao tải rách lót cho cái ổ êm ái để “mẹ tròn con vuông”.

Sau khi sinh, lợn nái được hưởng chế độ đặc biệt, lính đảo nấu cháo bưng đến tận ổ. Sau hai tuần, lợn mẹ bắt đầu dẫn con tự đi kiếm ăn. Nhưng có lúc, trong đàn có nhiều lợn con của đàn khác lẫn vào để “bú hôi”. Lợn mẹ có khi không nhận ra những kẻ “bú hôi” đó ở đàn khác. Vì thế, nhiều khi lính ta phải canh chừng cho “lợn em” khỏi mất chỗ bú mẹ.

Ở Trường Sa, lợn không đơn thuần là  loài vật nuôi lấy thịt, mà chúng trở thành  bạn của lính đảo và được chiều chuộng. Có những lúc lợn ốm, lính nhường cả thuốc của mình. Lợn được ăn thịt hộp, được ưu tiên tắm nước ngọt, có bác sỹ khám bệnh và làm bà đỡ. Nhiều chú lợn đáng yêu đã được lính đặt cho những cái tên rất kêu như: Hoàng Oanh, Quỳnh Mai...

Chẳng biết những chú lợn đầu tiên đặt chân lên quần đảo Trường Sa năm nào, nhưng giờ đây “dân số” họ nhà Trư Bát Giới đã lên tới trên 500 con và sinh sôi nảy nở rất nhanh.

Trên đảo Nam Yết, tôi đã thấy một “cụ” lợn giống, to như một con bò nằm bên gốc cây bàng vuông. “Cụ” lợn này là cha đẻ của hầu hết lợn trên đảo. “Cụ” phải nặng cỡ ba tạ, có nhiều anh lính đã cưỡi “cụ” đi dạo trên đảo như người ta cưỡi ngựa vậy. 

Những chú chó mang tên “người đẹp”

Hôm xuồng cập đảo chìm Colin, tôi đã “choáng” vì thấy vây quanh mình rất nhiều chó. Chó mực, chó vàng, chó khoang, chó đốm, chó trắng...con vẫy đuôi, con sủa ăng ẳng, con nhảy chồm lên. Hòn đảo nhỏ như bàn tay mà có mấy chục con chó, mật độ quá đông nhưng điều đó đem lại niềm vui cho lính đảo.

Giữa mênh mông sóng nước, anh em chiến sỹ ở đảo Colin chỉ có chó làm bạn. Những đêm bồng súng đứng gác, chỉ có biển một bên và chó một bên.  Đêm khuya gió lạnh thổi rét tê tái, chú chó đứng cạnh, liếm cái lưỡi ấm áp vào bàn tay run vì lạnh của anh lính. Anh lính bỗng cảm thấy ấm áp, bỗng cảm thấy được chia sẻ rất nhiều.

Chó ở đảo đã rèn luyện được nhiều khả năng đặc biệt như bắt cá, bơi trên sóng, đứng hai chân để “bắt tay”  hay “tạm biệt” khách. Chó ở đây được quý  đến mức các chiến sỹ lấy tên những ca sỹ mình hâm mộ để đặt tên cho chó.

Nhưng không phải ca sỹ nào cũng được đặt tên cho chó. Tên được đặt phải là ca sỹ tên tuổi, đang được yêu mến. Vậy nên tên chó Trường Sa cũng thay đổi theo thị trường ca nhạc trong nước  và ca sĩ nào đang hot nhất cũng đồng nghĩa với việc tần suất được dùng đặt tên cho chó nhiều nhất.

Về sau, có người góp ý không nên đặt tên như thế, sợ các ca sĩ hiểu nhầm, lính đảo lại lấy những tên thông thường để đặt cho chó như Vàng, Vện, Mực, Míc. Thế nhưng chó sinh ra ngày một nhiều, những tên ấy đã hết, lại dễ trùng lặp, nên có đảo lại chuyển sang đặt tên cho chó theo con số: 1,2,3,4...

Có đảo,  các chiến sỹ lại lấy tên những người con gái mình thương nhớ để đặt tên cho chó như Hoa, Hồng, Huệ, Cúc... Lại có đảo vì lính nhớ rau đất liền nên tên chó được khoác tên các loài sau: Muống, Húng, Quế, Hành...

Những Muống, Húng, Mực, Vện chẳng mấy khi bị giết thịt cho dù nhiều khi anh em lính đảo thiếu chất tươi, thèm món “mộc tồn” và cũng trồng được cả lá mơ, riềng sả. Vì thế những chú chó đã trở thành bạn của lính đảo ấy sinh sôi ngày một nhiều.

Ai đó đến Trường Sa đã từng nói chó ở đây nhiều như cộng lại nỗi cô đơn của người lính đảo…Và chẳng biết có phải chó cũng yêu đảo đến mức không thể rời xa hay không mà bất cứ một con nào được đưa từ Trường Sa về đất liền nuôi đều ốm yếu, gầy mòn mà chết…

Đối với các chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa, những vật nuôi đó như một loại biệt dược chữa bệnh nhớ nhà, nhớ quê hương. Nếu Trường Sa chỉ có sắt thép, những hầm hào công sự mà vắng đi tiếng gà gáy, chó sủa…thì chắc sẽ đơn điệu biết nhường nào.

Một ngày ở Trường Sa, nhìn thấy mấy con bò thủng thẳng đi lại, đàn lợn ủi đất bên gốc cây bàng vuông, vài chú chó chạy dọc bờ biển, nghe tiếng gà gáy ran trên đảo, tôi cứ ngỡ như mình đang ở một làng quê nào đó.

Tiếng gà gáy dường như cũng mang “hồn phách” của một ngôi làng quê nước Việt thì phải. Tất cả dường như có giá trị như một thứ bia chủ quyền.

Tôi xin được tiếp tục kể về chuyện ăn uống của lính trong thời kỳ đó ở đơn vị tôi:

Khi nhắc đến vấn đề này, chúng ta sẽ có rất nhiều kỷ niệm liên quan đến cơm cháy, bát B52, lính đi cứu, lệnh "cắt cơm" ...và nhiều chuyện khác nữa... Tôi biết nó không mới đối với các bác ở các đơn vị khác trong toàn quân tại thời điểm đó và tôi cũng đã đọc được những dòng tương tự trên chủ đề của lính F 302...tuy nhiên vẫn xin phép các bác được hồi tưởng và nếu như có tình tiết nào giông giống thì cũng xin lượng thứ cho, tôi xin thề trước cờ rằng không có tình tiết nào là copy cả...

Nhắc đến cơm cháy của lính, đến giờ này tôi vẫn còn thèm ( mặc dù răng cọ đã sệu sạo, không cho phép nhai tất cả mọi thứ như hồi trai trẻ...). Những mảng cơm cháy thành chảo vàng rộm, dòn tan...đặc biệt được róc khi cơm còn được ủ trên bếp cho chín, một nhát sẻng lướt vào thành chảo, một miếng cơm cháy lộ ra, phải chi thời đó có hải sản để tạo thành món cơm cháy hải sản - đặc sản tại các nhà hàng hiện nay - thì tuyệt. Nhưng thời đó, chỉ cần cơm cháy thôi cũng đã thèm nhỏ rãi rồi. Tất nhiên tôi đang nói đến đặc ân của B nhọ đít chúng tôi (cánh lính hay mắng là ăn trên ngồi chốc mà...) còn lính tráng thì làm gì có đặc ân đó. Ngày đó, cơm chia trên mâm cũng chỉ đủ 2 lưng chén cho mỗi chú là hết, lính đói nhìn đống cơm cháy để trong chảo sao không phát thèm, nhưng khổ nỗi cơm cháy theo lệnh trên để giành cho các chú ỉn, tổ chăn nuôi của bác Nhẫn già lính 78 Hải Phòng phải căng quân ( thực tế có 2 người ) để bảo vệ cơm cháy. Nhiều lúc cơm cháy quá nhiều ( do than cháy không đượm hoặc củi ướt nên phải đốt nhiều cho cơm chín, B anh nuôi bị tiểu đoàn chửi sối sả vì đã góp phần cắt giảm khẩu phần lính và những lúc đó cơm cháy thành chảo phải được chia thêm lên mâm, ngoại trừ cơm cháy đít chảo thường lắm sạn sẽ được để dành cho những chú ỉn. Nhiều lúc cả chỗ khẩu phần cho các chú ỉn lính ta cũng không tha, nên bác Nhẫn cũng không loại trừ biện pháp đổ nước gạo vào cơm cháy...

Còn chuyện liên quan đến bát B 52, chắc các chú lính trẻ bây giờ không thể biết sự tích của nó...chẳng là khi nói đến B 52 chúng ta thường liên tưởng đến một cái gì đó rất vĩ đại, to lớn, pháo đài bay mà, vậy là chiếc bát sắt của Trung Quốc trang bị cho lính ta trong KCCM được gán tên B52 vì độ khủng của nó...tôi đoán dung lượng của nó chắc cũng gấp rưỡi loại bát sắt của ta trang bị cho lính thời đó. Các chú lính sở hữu loại bát B52 này ngồi chung mâm nào, lính tráng mâm đó vãi linh hồn...các chú đánh thật nhanh chén đầu, sau đó lèn chén thứ hai, vậy là đủ tiêu chuẩn 2 chén...các chú khác chỉ còn cách lắc đầu thất vọng. Vậy là bắt đầu có các cuộc bài xích bát B52 ngấm ngầm trong lính ta, tất cả các bát B52 trên giá bát đều lần lượt biến mất, hoặc đập móp mép.

Chuyện bếp và vua Bếp

Trần Đăng Khoa

I

 

Đã là Vua, mà lại làm Vua bếp thì có gì sang trọng, hay ho mà cũng đem ra kể, và lại kể vào đúng dịp Tết? Nhầm. Truyện có thể dở òm, nhưng Vua thì vẫn oai lắm. Vua nào chả là Vua, cho dù Ngài chỉ ngự giữa cung đình gio trấu và nồi niêu xoong chảo và trông mặt mũi ngài lúc nào cũng đen nhẻm. Thuở tôi còn bé, mẹ tôi cứ dặn: "Chớ vội tin cái mẽ bên ngoài. Có người tàn tật, xấu xí, nhưng ẩn trong cái hình dáng méo mó ấy có khi lại là một bà Tiên, ông Phật. Còn khối kẻ trông cứ sáng choang, nhưng biết đâu lại là những tên đồ tể trá hình".

Nhà tôi ở thôn quê. Những căn bếp quê quanh năm thường đen đúa màu bồ hóng, nhưng nó lại là đời sống thật của một gia đình. Người ta bảo, muốn hiểu chủ nhà ra sao, muốn biết họ hạnh phúc hay bất hạnh, sung túc hay nghèo đói, chỉ cần bước vào căn bếp của họ.

Đối với người Việt, cái bếp rất quan trọng. Vì thế mà bếp cũng có Vua đấy. Vua bếp không ngự trị một cách vô hình. Như thế thì có khác gì con ma xó. Chẳng đàng hoàng chút nào. Vương triều của Ngài đã thật thà hiện hình ngay trong cái đám Đầu rau. Mà Đầu rau thì giống nhau lắm. Ông nào cũng gù lưng và đen nhẻm vì cả đời đội nồi, đội xoong chảo và chịu lửa than. Đấy là các ông quan trong triều đình gio trấu. Trông các ngài lủn đủn thế mà thiêng lắm đấy. Chớ có sàm sỡ. Mẹ tôi còn cấm tôi khi nấu cơm, không được lấy que cời gõ lên tấm lưng còng của các Ngài, kẻo các Ngài vật chết.

Vua cũng chung số phận với các quần thần. Ngài gù gù ngồi giữa đám gio trấu, trông xù xì như một con cóc già, nhưng hồn vía lại gửi hết vào hạt cơm, miếng rau, khúc cá, nên bữa cơm quê ngon đến lạ lùng, dù chẳng có sơn hào hải vị gì cả. Vì thế mà người đời luôn nhớ đến Ngài, luôn tôn thờ Ngài. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi năm, Ngài có cả một ngày Tết riêng. Đó là ngày 23 tháng Chạp. Ngày ấy Ngài diện mũ áo, cưỡi cá lên Thiên đình. Nhưng số Ngài là số vất vả. Làm đến Vua mà vẫn nhem nhuốc. Bởi thế, ngay trong ngày Tết Ông Táo của mình, Ngài vẫn còn phải đội xoong chảo, đội cả nồi ...cám lợn. Rồi Ngài cưỡi cá thăng thiên. Người đời sắm cho Ngài cả cá sống lẫn cá chết. Cá sống bơi trong bát nước, đặt trên bàn thờ. Còn cá chết là những con cá giấy, được nhuộm phẩm vàng. Cúng xong rồi hoá. Thế là chúng thành phương tiện, thành Xa Giá đưa Ngài đi. Vua mà. Người đời kể cúng khéo kén chọn. Để Ngài lên Thiên đình mà cưỡi trâu, cưỡi bò hay cưỡi lợn thì thô tục quá. Cưỡi cá vẫn là trang nhã nhất, sang trọng nhất. Bởi cá có thể vượt Vũ Môn mà hoá rồng. Ngài đi mây về gió. Vua chứ có mèng đâu.

 

II

 

Người Việt Nam ta khi rời Tổ quốc, ra sinh sống hoặc kinh doanh ở nước ngoài thì họ mang theo nhiều thứ lắm. Trong trăm thứ hành trang, thế nào cũng có Bàn thờ để cúng tổ tiên. Rồi cùng với bàn thờ là ông Vua bếp. Vua bếp khi xuất ngoại cũng siêu thoát lắm. Ngài không hiện hình một cách phàm tục mà nương náu trong tâm trí, trong khẩu vị của những người ra đi. Chỉ tiếc những căn bếp nước ngoài chẳng có gio trấu cho Ngài trị vì. Thế là Ngài hoá thân vào các món ăn. Bởi thế, người Việt xuất hiện ở đâu, ở đấy sẽ có những cửa hàng bán thức ăn Việt. Chủ cửa hàng có khi còn trương lên những tấm biển rất to, mang tính

Hội nhập với khu vực:

Siêu thị Đông Nam Á. Ta có thể thấy những "siêu thị" như thế ở Nga, ở Đức, ở Pháp, ở Mỹ. Trong đó, thượng vàng, hạ cám, thôi thì chẳng còn thiếu thứ gì: Gạo tám Hải Hậu, cốm Làng Vòng, bánh cuốn Thanh Trì, bưởi Năm roi. Rồi bún, bánh cuốn, rau muống, húng láng, rau thơm, rồi cả thịt chó Nhật Tân. Thời thị trường quả là hay thật. Bữa cơm Việt vẫn toả riêng mùi hương vị quê nhà. Ông bạn Nga Ivan Novichxki, người ở cùng buồng với tôi cứ tròn mắt kinh ngạc: "Sao các cậu cầu kỳ thế. Chỉ có mỗi bữa ăn mà rục rịch chuẩn bị đến hàng mấy tiếng đồng hồ. Thời gian của một ngày giành cho công việc chẳng còn được bao nhiêu". Thế hoá ra nấu nướng, bếp núc, chẳng phải là công việc đáng quan tâm ư? Tôi còn biết nói sao với ông bạn vàng mắt xanh mũi lõ? Mà có giải thích cặn kẽ thế nào thì ông bạn ấy cũng không thể hiểu được. Người nước ngoài ăn uống đơn giản. Trừ súp, còn hầu hết đều là món ăn nguội. Những thức ăn gói giấy, mua sẵn ở các cửa hiệu. Dọc đường, còn có những

buffet, đó là những quán ăn nhanh, chỉ có bàn ăn, không có ghế. Khách có thể đứng ăn trong chớp nhoáng. Có người chẳng kịp vào

buffet, cứ tranh thủ vừa đi vừa ăn. Đối với người nước ngoài, hình như ăn uống chỉ đơn giản như một biện pháp nạp thêm năng lượng để có sức làm việc. Còn với người Việt thì không phải thế. Ăn uống có khi còn như một nghi lễ. Người ta nhấm nháp món ăn, khoái cảm như thưởng thức nghệ thuật. Chả thế, những học giả từng bỏ ra bao nhiêu tâm sức nghiên cứu, rồi viết những cuốn sách rất dày về các món ăn. Họ gọi đó là

Nghệ thuật ẩm thực. Khi miếng ăn, cái uống đã trở thành nghệ thuật thì món ăn không còn là vật chất thô tục nữa. Nó đã hoá vẻ đẹp cao khiết của cõi tinh thần rồi.

Bởi thế, bữa ăn của người Việt thường rất cầu kỳ. Có khi thức ăn đơn giản chỉ có rau và trứng, nhưng vẫn được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Người Việt quen ăn nóng. Mọi thứ phải nóng sốt. Mâm cơm cứ bốc hơi ngùn ngụt. Anh bạn Nga Ivan Novichxki có vẻ khoái lắm. Với vẻ tò mò, anh bày bánh mỳ, mấy khoanh giò và vài lát dưa chuột muối lên bàn cùng ăn tối với tôi. Mâm cơm thành cuộc hội ngộ quốc tế. "Cậu trông cái bàn ăn có sinh động không? Đúng là hai quốc gia riêng biệt nhé. - Ivan Novichxki cười tủm tỉm - Tớ thì đĩa và dao rĩa. Còn cậu thì bát và đũa. Này, - Anh bạn bỗng nhỏ giọng, gần như là thầm thì - Có phải đũa là biểu tượng của cái gậy chọc lỗ gieo hạt không? Tớ có xem một bộ phim tư liệu khoa học của người Thuỵ Điển về Việt Nam. Trong phim có một anh chàng vừa hát, vừa chọc gậy!". "Không phải chỉ có người Việt dùng đũa - Tôi cười - Đấy chẳng qua cũng chỉ là lối suy luận tầm phào của mấy anh có học!". "Không phải suy luận đâu. Mọi cái tồn tại đều có lý của nó. Cái rĩa trên đĩa tớ kia cậu có biết không? Nó mang dáng của mũi lao phóng thú đấy. Người Nga thích săn bắn lắm. Mà nói chung, người phương Tây đều thích săn bắn cả. Họ vốn quen ăn thịt. Còn các cậu lại thích ăn rau. Đũa thích hợp với việc cặp rau. Chẳng ai dùng dao, rĩa để xiên cắt rau cả".

Ivan nhờ tôi bày cho cậu ta cách cầm đũa. Loắng ngoắng thế nào mà thức ăn tung toé đầy bàn. Thế mà rồi, chỉ hơn tháng sau, cậu ta đã bỏ dao, rĩa. Thay vào đó là đôi đũa gỗ to xù do cậu ta tự chế. Rồi Ivan lần mò đến siêu thị Đông Nam Á. Cậu lễ mễ khuân về bao nhiêu món ăn Việt bắt tôi nấu. Rồi thì chính cậu xông vào bếp. "Món ăn Việt rất ngon. Nó như một thứ nha phiến có khả năng gây nghiện. Bây giờ, tớ không ăn được món ăn của Nga nữa. Nhạt lắm. Sau này tớ sẽ mở cửa hàng, bán toàn thức ăn Việt. Hoá ra người Việt rất cuồng nhiệt. Họ luôn thích những cảm giác mạnh. Ngày Tết, ngày cưới thì đốt pháo, tạo những âm thanh vang động, chát chúa. Còn nấu nướng, ăn uống thì cứ phải chế những món ăn có mùi gắt. Khu nhà nào có người Việt là biết ngay. Chỉ đi ngoài hành lang cũng đã ngửi thấy mùi Việt. Đấy, cậu thấy chưa? Mùi Việt nó ở ngay đây này!"

Ivan lấy đầu đũa, gõ coong coong vào chai nước mắm.

Khi tôi trở về tổ quốc, trong bữa cơm thuần Việt chia tay, Ivan Novichxki ngậm ngùi bảo: "Thế là ngày mai mày về rồi. Mày về, nhưng vẫn còn một thằng Việt Nam ở lại". Nói rồi, Ivan chọc một ngón tay cái vào bộ ngực đầy lông của mình. Còn một tay, cậu khua đôi đũa lên không khí.

Thế mới biết Vua bếp ghê thật. Bờ cõi của Ngài thật rộng lớn. Thần dân của Ngài còn có cả những ông Tây, bà đầm mắt xanh mũi lõ. Thế thì ai dám bảo Ngài chỉ ngự trong gio trấu và triều đình của Ngài toàn những gio trấu?

CÁ KHOAI THUỞ NHÀ NGHÈO

Bà tôi thường kể: “Cá khoai hồi đó ở xứ Cái Đôi này gọi là cá nhà nghèo. Cá nhỏ chừng hai ngón tay người ta bỏ lại bến hoặc hốt về cho heo. Cá lớn thì về xúc vài rổ chia cho chòm xóm ăn lấy thảo. Giờ cá khoai có giá rồi thì nhà nghèo lại ít được ăn cá khoai.”

Bà nấu cá khoai ngon lắm, lũ trẻ chúng tôi ngày ấy có lẽ bởi nồi cháo cá khoai bà nấu mà lớn lên tươi da thắm thịt. Bà vò nắm gạo thả vào nồi bắc lên lò than hầm nhừ. Nồi cháo trắng pha thêm màu đỏ của tôm biển bằm nhỏ trộn với ít con mực còn trong màu nước cho tăng phần vị biển cùng màu xanh ngăn ngắt và hương thơm bắt mắt, bắt mũi của hành, ngò, cần tàu đậm màu đồng ruộng, sau cùng cá khoai được thả vào nồi chừng 5 phút bắc ra là đã có nồi cháo cá khoai ngon lành.

Không có bất kỳ loại thịt cá nào giống như thịt cá khoai, bởi khi cho thịt vào miệng thì tựa như thịt cá tự tan ra mà không cần nhai để cảm nhận hương vị ngọt da diết của nó. Đến cả đám xương dọc xương ngang cũng mền rụm như cọng miến rong xứ Bắc. Ăn kèm có giá sống, chén nước mắm mặn tự nấu màu nâu sánh thả thêm vài lát ớt đỏ xắt mỏng.

Bà múc cháo cá khoai “đúng điệu dân làm bếp”, vá mỏng chao nghiêng nhẹ nhàng hớt thân cá trắng ngần. Chừng hai vá là lưng chén cháo. Ăn cháo cá khoai cũng phải ăn đúng điệu, nghĩa là không có cái kiểu “cháo nóng húp quanh” mà phải ăn liền khi nóng còn tê rần rần đầu lưỡi... Sáu người tròn mâm vừa ăn vừa lau mồ hôi, vừa trò chuyện. Bà nhìn chúng tôi ăn, âu yếm nói: “Cá đầu mùa tươi, trong. Trên bến, cá còn nhiều lắm. Mai bà nấu canh mẳn, kho trái giác, chiên giòn cho các con ăn. Cá ngon như vầy mà sao không biết quý...”

Nồi cháo đầy mới đó đã cạn. Tình thiệt, bụng tôi đã no nhưng cảm giác vẫn còn muốn ăn thêm. Cháo cá khoai là món không để cho người ta kịp khách sáo đã quen thân. Cháo cá khoai đâu chỉ có vị ngọt “nhứt hạng” quyện với vị bùi thơm gạo mới nở xòe hoa dính nhựa mà dường như đâu đây mùi biển khơi hòa vào tô cháo để khi ta thưởng thức như đang uống mật quê hương xứ sở. Và rồi, mười mấy năm sau, thứ cá thịt thơm ngon lạ lùng này giờ đã lên ngôi. Từ một góc biển, cá khoai đã được đem đi khắp nơi, vào nhà hàng, chế biến ra đủ món thơm ngon dành cho thực khách.

Lũ trẻ lớn lên bên nồi cháo cá khoai thuở nhà nghèo ngày ấy giờ đã lớn, có việc làm, được ăn những món đặc sản hấp dẫn khác nhưng chẳng thể nào quên nồi cháo bà nấu. Trong nồi cá khoai bà tôi nấu có cả gió nồng nàn biển cả, niềm vui ngày cập bến, vị thanh tao, ngọt ngào của cá là món ăn trong kí ức tuổi thơ tôi thuở cá khoai nhà còn nghèo.

Về Bình Thuận săn đặc sản diêu biển

Ở Tuy Phong, dân đi bắt diêu biển (hải sản giống cua), năm nào cũng đợi mùa gió nồm. Từ tháng giêng âm lịch, gió nồm tràn về mũi La Gàn (xã Bình Thạnh), cũng là lúc những con diêu biển to tròn, chắc nịch theo nước biển tấp vào rạn san hô, len lỏi trong gành đá. Mùa diêu kéo dài đến tháng 3 mới ngớt...

Những ngày này, 5 giờ sáng trời vẫn còn dày sương. Sớm mai ở vùng biển La Gàn không chỉ sương dày mà còn khá lạnh. Vậy mà ông Võ Lượm, người xã Chí Công đã thức dậy từ lâu, chuẩn bị xong những thứ mang theo như nước uống, cơm trưa… cho một ngày đi bắt diêu biển và chờ tôi cùng xuất phát.

Chúng tôi đi về phía biển khi sương vừa tan, nhìn rõ lối đi xuống bãi.  Ông Lượm vừa đi  vừa nói: “Năm nay diêu rộ vào trước và sau tết. Người ta đi chơi đây đó, còn tôi cứ bám lấy biển mà làm ăn. Thấy ham lắm, bắt chừng vài ba kg, có gần 500 ngàn đồng ngon ơ”. Là một trong những người tìm bắt diêu biển hơn chục năm nay, ông Lượm khá rành về tập tính con vật. Ông bảo loài này thích sống ở những vùng có rạn san hô,  ăn sinh vật và  thực vật biển.

Không như  một số loài sinh vật biển khác thường có sự ngụy trang để tránh kẻ thù, con diêu  dường như chẳng sợ điều gì. Mỗi con  trung bình to gần bằng nắm tay, mai màu nâu tím bóng bẩy, phần bụng dưới màu vàng ươm. Diêu rất khỏe, chạy nhanh, và thường  ẩn nấp trong các hốc  san hô.

Từ tháng chạp đến tháng 3 hằng năm, chúng kéo nhau vào rạn san hô gần bờ, sâu gần một sải nước (hơn 1m) để sinh sản. Thế nhưng, để bắt được diêu không dễ dàng, phải canh con nước lớn, nước ròng, phải dầm mình trong nước biển lạnh đến tê người. Với những người sống bằng nghề biển, mùa diêu về là mùa hy vọng, bởi khoản tiền bán diêu có thể sắm sửa được nhiều thứ.

Đặc sản diêu biển

Trước đây, diêu biển được coi là thức ăn của nhà nghèo. Nay dân lắm tiền cũng lùng sục tìm mua vì thịt diêu ngọt, ăn một lần là nhớ mãi. Thứ này thuộc hàng “hiếm” nên chẳng có nhiều để đưa vào nhà hàng, quán nhậu. Theo lời của ông Lượm thì 1 kg càng diêu giá phải đến 200 ngàn đồng”.

Tôi quơ vội cành dương khô, đốt lên đóng lửa, bắt con “tám cẳng hai càng” đưa ngay vào đống lửa đỏ rực. Độc chiêu nhất khi thưởng thức con diêu, đó là giở ngược cái mai, túm mấy cái chân xé toạc một đường trước khi đưa vào miệng.

Con diêu mới nướng còn hơi nóng thơm kỳ lạ, có chút the the, cay cay  bay lên mũi. Bỏ miếng thịt diêu vào miệng, vị ngọt lịm lan nhanh đến mát lòng. “Thứ này đạm cao. “Sung” lắm đấy chú em ạ” - ông Lượm cười hà hà, nói.

Dân biển nhiều người nói: con diêu có vị thuốc, hỏi kỹ thuốc gì thì… họ đều bảo ăn vào tinh thần sảng khoái, đặc biệt cái khoản “chinh chiến” thì cứ dài ra, hơn cả “Minh Mạng thang”. Tôi không biết điều ấy đúng sai, nhưng cô hàng xóm của tôi khi nói tới con diêu biển thì mặt cứ đỏ bừng! Diêu biển Tuy Phong là  vậy đó!

Ăn cơm đặc sản nhớ nồi canh mộc mạc của má

24.11.2010

POSTED IN:

 

BLOG HAY

Nhà nghèo lại nhiều miệng ăn, bữa ăn thường chỉ có một trứng hột vịt luộc duy nhất xắt làm tám, đĩa rau luộc và chén nước tương dầm ớt. Anh em nhường qua nhường lại ăn mãi vẫn không hết một trứng vịt…

Tôi sinh ra và lớn lên trên một vùng quê sông

nước

, mùa nắng đất nứt nẻ, mùa mưa lầy lội. Cha đi cách mạng, má một nách 5 con nhỏ, trong căn nhà nhỏ ọp ẹp bên bờ một nhánh sông Vàm Cỏ.

Khi anh em tôi còn quá nhỏ, má không thể đi làm xa. Nhà nghèo lại nhiều miệng ăn, bữa ăn thường chỉ có một trứng hột vịt

luộc

duy nhất xắt làm tám, đĩa rau luộc và chén nước tương dầm ớt. Anh em nhường qua nhường lại ăn mãi vẫn không hết một trứng vịt. Mùa lũ tôm cá đổ về, má cùng anh em tôi đi lưới cá. Cá trê, cá lóc, cá lăng má đem ra chợ bán đổi gạo, còn cá nhỏ

bằng

ngón tay, cá rô, cá sặc, cá linh, má làm mắm ăn dần. Sau mùa lũ, cây cối chết hết, thường

gia đình

tôi chỉ ăn 2 món, mắm và đĩa rau luộc, vài trái ới hiểm hườm chín vậy mà… má ngồi bên nồi cơm xúc muốn mỏi tay. Hạnh phúc gia đình đơn sơ, mộc mạc nhưng thật ấm áp!

Tháng mười một tháng chạp ta, gió chướng thổi về, cây so đũa sau nhà

bắt đầu

trổ

trắng

bông, gia đình tôi quây quần bên nồi canh chua bông so đũa bốc

khó

i nấu với cá

chốt

, có cặp trứng vàng ló ra ngoài bụng cá, hương thơm ngào ngạt. Canh má nêm ớt xắt khoanh, rau om, ngò gai xắt nhuyễn ăn với nước mắm trong dầm ớt đỏ, kèm theo một món mặn thường là tép ram hay cá rô kho tộ, anh em tôi ăn liền năm chén, vét láng sạch nồi kêu kôm kôm, mà vẫn còn thấy đói…

Thời đại

công nghiệp

, vợ làm ca, con đi học, hiếm khi có một bữa cơm chung. Chiều thứ bảy, tôi cùng gia đình bên nồi lẩu hải sản, dĩa ếch xào xả ớt, dĩa tôm rang me, ly

rượu

chát đỏ sóng sánh trên tay… mà sao lòng tôi chùng xuống, miệng thấy như đăng đắng. Ăn cơm mà không có con chó, con gà quanh quẩn bên chân, không nghe tiếng chim chiều về tổ.

Lòng tôi bùi ngùi thấy nhớ má, nhớ anh em, nhớ mâm cơm nghèo buổi chiều trên bộ ván với ngọn đèn dầu leo lét… Nhớ con tôm đất nằm trong rổ còn kêu ro re, nhớ tô canh chua rau nhúc, nhớ ly nước mưa mát lạnh thời thơ ấu…

Tô canh dưa hồng

BT- Dưa non xanh sao gọi là dưa hồng? Cho tới giờ này tôi vẫn chưa trả lời được câu hỏi này nhưng những tô canh dưa hồng của má tôi ngày xưa đã trở thành hương vị kí ức, mỗi khi nhớ đến, tâm hồn tôi như được tắm táp trong mùi thơm mát lành rẫy bái quê nhà, trong ngọt ngào, sâu thẳm yêu thương của từng nụ cười ánh mắt má tôi.

Ra giêng. Lộc cây đã lên xong, xanh um, mướt mát. Những nắng trong đắm say, những đèn màu chúc tụng qua rồi, lại đối diện với vòng quay nắng táp mưa sa, lại cuộc người mưu sinh bận bịu trần ai. Đôi khi quệt mồ hôi trán ngồi lặng một mình, tôi lại nhớ…

Ra giêng. Mùa rẫy. Khi vạt dưa hấu đã khoác chiếc áo mởn xanh, bông dưa như cánh mai muộn e ấp vàng dưới những chiếc lá xòe hình bàn tay, má tôi thường đi quanh rẫy lom khom nâng niu, sửa sang, thỉnh thoảng miệng lại cười. Hồi nhỏ đi theo má, tôi thường thắc mắc những nụ cười ấy nhưng rồi việc má chuẩn bị cho tô canh dưa hồng đầu mùa đã nhanh chóng cuốn hút cả hai má con.

Làm rẫy ăn dưa đèo, má thường nói vậy mỗi khi nhặt nhạnh những trái dưa đầu mùa đèo đọt, ong chích. Sao phải ăn dưa đèo hả má? Tôi định bụng sẽ hỏi má nhưng rồi những chiếc cạm dông đang bung cần đã kéo tôi chạy đi. Tôi hồi nhỏ có tật hay hỏi, hay thắc mắc, có khi tôi hỏi tới hàng chục câu và bao giờ má tôi cũng “chạy làng”: Khi nào lớn con sẽ biết. Ba tôi mất khi tôi còn đỏ hỏn trên tay má nên khắp nẻo rẫy bái, cửa vạn, sân chùa, tôi thường lẽo đẽo theo chân má. Ở rẫy, tôi chỉ làm được mỗi việc là đi đặt cạm dông. Dông hương trên rẫy không to con như mấy anh chàng dông thềm bãi biển, màu sắc trên da cũng hiền lành, có khi bắt được tôi còn buộc dây cho chúng kéo xe rồi cười nắc nẻ suốt buổi với chúng. Những trưa đứng bóng, ngồi trong chòi rẫy, má giúp tôi vót cạm, giúp tôi vót những con nhạy trơn bóng sao cho bẫy dễ sập nhất. Có lúc đứt tay, má đưa ngón tay lên miệng mút, mặt quay đi. Tôi lo lắng nhìn đôi mắt rớm đỏ của má. “Có sao hông má?” Má thường vuốt tóc tôi: “Còn ba con thì mấy chuyện này đâu tới tay má”. Má xin đâu đó cho tôi bó cạm ống ám khói đẹp không chê vào đâu được, nhưng tôi bắt chước mấy đứa bạn bày đặt cạy cục làm thêm cạm tam giác nên mới làm má đứt tay. “Con nói rồi, má đừng làm nữa mà!” Tôi đứng dậy vác bó cạm ống hờn dỗi chạy đi.

Một xâu ba bốn con dông hương là thành tích thường ngày của tôi. Thấy tôi ưỡn ngực tay vác bó cạm, tay xách xâu dông là má lại cười, những giọt nước mắt không cánh mà bay sạch. Mắt má lại trong veo. Tôi thích nhìn đôi mắt má tôi trong veo. Má băm nhuyễn thịt dông, gọt vỏ mấy trái dưa đèo, đợi thịt dông chín, băm dưa thẳng vào nồi thịt tao, khỏi phải cho nước, nước dưa hồng ngon hơn. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng sao tô canh dưa hồng của má còn ngọt đến tận bây giờ.

Thế rồi má đi bước nữa. Tôi ở rẫy một mình. Sáng, tôi đi học, trên vai luôn có gánh rau lang hoặc mấy trái dưa để đổi túm gạo, chai nước mắm, xị dầu đèn. Trưa, học về, tôi cũng bắt chước má nấu canh dưa hồng. Cũng mấy trái dưa ong chích, cũng mấy con dông hương có màu da hiền lành mà sao tô canh dưa hồng của tôi không ngon ngọt mát thanh như ngày xưa, có lẽ do tôi đã nêm vào tô canh của mình những giọt nước mắt buồn tủi, những giọt nước mắt bơ vơ, lạc loài… cay đắng.

Tôi không dám nhắc nhiều đến đoạn đời này bởi má tôi đã đi xa hơn hai mươi năm rồi. Không biết nơi chín suối, má có nhớ đến vị ngọt ngào, mát thanh của những tô canh dưa hồng ngày nào, có nhớ đến những lần quở mắng tôi cứ húp canh roạt roạt nghe sao chẳng chút thanh tao, có nhớ đến tiếng hít hà chép chép thèm thuồng của tôi khi đáy nồi canh không còn một giọt. Những lúc ấy má thường nghiêng nồi sang tôi và nói: Dưa năm nay trái to bằng này này… Hai má con lại ôm bụng mà cười, bò ra mà cười tưởng không dừng lại được.

Tản mạn bánh canh!

Bao giờ những nồi bánh canh nóng hôi hổi tỏa khói thơm lừng cũng nhắc nhớ cho tôi về các kỷ niệm đã rất xa…

Thuở nhỏ, mẹ tôi có thói quen thỉnh thoảng thết cả nhà bằng một nồi bánh canh ăn thỏa thích thay cơm. Sợi bánh của nồi bánh canh thì luôn làm bằng bột gạo, nhưng những chất tạo vị ngọt ngon cho nó thì luôn thay đổi, khi thì tôm cá lúc là các loại thịt. Không hiểu sao lúc ấy bọn trẻ chúng tôi lại mê cái món bánh canh nấu bằng thịt vịt bầm vò viên của mẹ. Nhà nghèo nên thịt vịt mẹ dùng thường là vịt hảng- một loại vịt rẻ tiền nhất... Mỗi lần mẹ nấu bánh cả nhà rất vui, bọn trẻ chúng tôi quây quần bên mẹ giúp làm các việc lặt vặt vừa nghêu ngao thêm bớt bài thiệu nấu thịt chó không nhớ đã học lóm của ai: “… Đứa nào xấu xấu xắt sả, nạo dừa/ Đứa nào không ưa thì đi chỗ khác…” rồi cười ngắt nghẻo với mấy câu vừa “chế” ra có thêm cái tên của đứa nào đó trong nhà. Hát vậy chứ ai được mẹ bảo làm một phần việc nào đó thì mừng lắm, chị Hai lớn nhất thì được làm cái việc khó nhất

là băm thịt vịt cho thật nhuyễn. Con vịt hảng ít thịt nhưng xương lại mềm, chừa lại đầu và hai chân tất cả các phần còn lại dần cho nát xương rồi bầm thập kỹ, sau đó thêm chút muối, dặm chút đường cùng các loại gia vị khác thì khối thịt băm này trong bàn tay khéo léo của mẹ tôi sẽ làm cho nồi bánh canh ngọt tê đầu lưỡi. Mỗi đứa “xấu xấu” như tôi được mẹ tặng cho một cục bột, mẹ bảo đứa nào nhồi kỹ bột thì sợi bánh sẽ dẻo nên ai cũng cố sức. Việc này dễ ợt, vì c

húng tôi có dư kinh nghiệm nhồi đất sét để nắn tu na mà. Bột nhồi xong phần nào mẹ liền lấy nắn quanh thành một cái chai rồi dùng dao cắt thành từng sợi nhỏ trên miệng một nồi nước đang sôi sùng sục. Bánh can

h nấu như thế phần nước không thể trong, nên nó được chúng tôi đặt cho một cái tên rất lạ là “bánh canh lền”. Nồi bánh canh lền của mẹ bao giờ cũng ăn nóng, càng nóng và thêm tiêu thậ

t nhiều vào thì ăn càng ngon. Chúng tôi tranh nhau vừa thổi vừa húp vừa quẹt nước mũi. Ăn xong thè cái lưỡi đỏ tươi ran rát, thiệt là đã!

Lớn lên một chút được mẹ cho ra tỉnh học, mỗi lần có chút tiền thì gánh bánh canh cá trước cổng trường của bà Sáu lại thu hút tôi. Gánh hàng của bà luôn đặt bên cạnh gánh bánh canh tôm của bà Út. Hai gánh hàng đặt cạnh nhau có cùng tên bánh canh nhưng lại rất khác nhau. Nồi bánh canh cá của bà Sáu nấu với cá lóc, cọng bánh được làm sẵn mua ở chợ nên nước rất trong, khiến tô bánh canh của bà luôn hấp dẫn bởi lớp váng mỡ heo nổi trên mặt cùng với các đoạn hành lá xanh xanh chen lẫn

với cọng bánh dài tròn trĩnh và các miếng cá đã gỡ xương trắng muốt. Đặc biệt là tô bánh của bà múc ra cho khách bao giờ cũng có một váng trứng cá vàng óng nổi trên mặt tô, tuy chưa chắc ai ăn có thể thưởng thức được vì chúng quá nhỏ và ít, nhưng nếu thiếu thì chắc là sẽ bớt ngon... Còn nồi bánh canh tôm của bà Út thì khác hẳn, có lẽ cách làm cọng bánh của bà tương tự cách làm của mẹ tôi nên nồi bánh trông có vẻ lền lền. Bà cũng không nêm nồi bánh bằng mỡ nước mà bằng

nước cốt dừa đặc, thấp thoáng bên các cọng bánh đùng đục là các viên tôm được băm nhỏ trộn lẫn với gia vị. Đặc biệt, gạch tôm khi nấu được để riêng, bà chỉ cho vào nồi khi cọng bánh đã chín nên cả nồi bánh canh trên mặt có phả một lớp váng mỡ màu

vàng gạch trông rất bắt mắt và góp phần tạo ra một hương vị rất riêng. Có điều lúc đó tôi không bao giờ chọn món bánh canh của bà Út– chỉ riêng của bà Út thôi– không phải tôi không mến bà, cũng không phải không thích món bánh canh tôm, mà chỉ vì bà vừa bán vừa nhai trầu bỏm bẻm đã kích thích trí tưởng tượng khá phong phú của tôi về màu gạch của tô bánh từ tay bà…

Lớn lên đi kháng chiến, một lần cơ quan chúng tôi về đóng ở xã Mỹ Lộc (Tam Bình), sau lần đi công tác ở cơ sở một đồng chí trong cơ quan mang về một túm bột gạo khô. Thời ấy cá tôm trên đồng Mỹ Lộc rất dồi dào nên ai đó gợi ý làm một bữa “rửa ruột” mọi người bằng bánh canh tôm và cá. Do thiếu phương tiện nhà bếp, các con bánh được chế biến theo cách giông giống cách làm của mẹ tôi nhưng thay cái chai bằng những tờ lá chuối xiêm vốn rất nhiều ở đây. Bột sau khi đã nhồi kỹ được nắn một

lớp dày vừa phải trên các tấm lá chuối, sau đó dùng dao lê xẻ thành những cọng bánh nhỏ như nhau trước khi thả chúng vào một nồi nước đang sôi. Chỉ ít phút sau cọng bánh và lá chuối tự tách rời cũng là lúc lá chuối được vớt ra, sau đó một lúc khi cọng bánh đã săn cứng, chúng được vớt ra cho vào nồi nước lèo được làm ngọt bằng thịt cá lóc và tôm đợi sẵn. Chuyện sẽ không có gì đáng nhớ nếu như không có chuyện rắn mắc của Út Mảnh- một nhân viên nhỏ tuổi nhất của cơ quan- cùng sự có mặt của một cô khách nữ xinh đẹp chưa chồng của cơ quan bạn trong bữa tiệc bánh canh ấy. Thừa lúc mọi người không chú ý, Út Mảnh dùng bột nắn một “vật lạ” lén thả vào nồi bánh canh. Xui xẻo thế nào khi múc bánh ra, vật lạ ấy lại đúng vào chén của cô khách. Đang ngậm đầy một họng bánh bỗng thấy cô gái tần ngần ngắm cục bột bánh không ra hình thù gì trong muỗng của mình, anh Bảy Sơn quay sang hỏi Út Mảnh ngồi kế bên bằng mắt. Nó kề tai anh nói nhỏ: “Tui nắn cây súng cà nông đó”(bà con ta quen gọi súng đại bác là cà nông): Nghe đến đó, anh Bảy không nhịn được bật cười làm tung tóe nước và mấy cọng bánh trong miệng ra chung quanh. Chuyện bất ngờ nhưng ai cũng đều cười cho cái sự cố do anh Bảy Sơn gây ra. Một người trong nhóm nhân đó chuyển thể sang câu chuyện vui có cái đầu đề là “Chàng rể khờ”, nội dung câu chuyện cũng có cảnh ông già vợ đang ăn bún với chàng rể tương lai. Đang lúc miệng ông đang ngậm đầy bún bỗng phát hiện các cử chỉ khù khờ của chàng rể đã không nhịn được cười làm bún văng tung tóe và thò ra cả lỗ mũi… Cái kết của câu chuyện giông giống cái sự cố của anh Bảy Sơn khiến ai nấy đều cười hể hả đến nỗi không ai biết cô khách đã xử lý cục bột lạ lùng ấy như thế nào…

Hồi cuối năm con Mèo vừa qua, cùng với các bạn trẻ đi xem Hội hoa Xuân ở vườn Tao Đàn (TP Hồ Chí Minh) chuẩn bị mừng tết con Rồng 2012. Cuối buổi, ai nấy đói meo bàn nhau ghé vào nơi bán thức ăn trong khu vực tổ chức hội hoa. Thực đơn của quán dài thoòng nhưng cũng có món bánh canh thịt heo. Cả nhóm nhất trí chọn món này vì giá rẻ. Hương vị của tô bánh canh này dĩ nhiên không giống tô bánh canh cá của bà Sáu, cũng không đậm đà như tô bánh canh trong khu căn cứ Tam Bình ngày nào, lại càng không

ngon như các tô bánh canh của mẹ ngày xưa, nhưng nhìn các bạn trẻ xì xụp ăn tôi vẫn cảm thấy tô bánh canh của mình cũng ngon lạ. Có lẽ cái không khí vui tươi êm ấm của một đất nước hòa bình đang từng ngày đi lên đã làm cho nó thêm hương vị…

Cũng có lẽ dù đi đâu về đâu, mối tình quê hương ẩn giấu trong hương vị của bánh canh sẽ đeo đẳng tôi suốt cuộc đời...

Nghề cắm câu

Sau giải phóng khoảng non một thập niên, người làm nghế cắm câu có thể nuôi sống cả gia đình, nó cũng là “nghề tay trái” của nhiều nông dân sau vụ cấy để có thêm thu nhập...

Hồi ấy, vào mùa cắm câu nước trên các cánh đồng đã dâng đầy tràn, lúa bắt đầu bén rễ vươn lên xanh mượt. Những tháng tiếp đó, phù sa theo con “nước nổi” tràn về khắp các cánh đồng, cá tôm sinh sôi, thiên nhiên hào phóng ban tặng cho con người ở đồng bằng một nguồn lợi tưởng chừng như vô tận… Để khai thác nguồn cá tôm, người đồng bằng có nhiều cách đánh bắt từ đơn giản đến phải dùng công sức của nhiều người, trong đó có một cách bắt cá chỉ cần một người thực hiện trông có vẻ rất tài tử được người địa phương ưa thích là cắm câu. Hồi ấy, trong hàng cán bộ kháng chiến lúc vui vẻ bên bàn rượu khi nói về bước... “về vườn” thường biểu hiện bằng câu hát nhại theo điệu ca tài tử “Trăng thu dạ khúc” với phần chấm hết là “… anh về quê, anh… cắm câu!”

Muốn cắm câu, công việc đầu tiên tất nhiên là phải sắm cần câu, không phải một mà rất nhiều cần tùy theo mục đích. Nếu để cải thiện bữa ăn hàng ngày cho gia đình thì vài chục cần câu, nhưng với một thanh niên muốn có tiền riêng để dành… cưới vợ thì phải từ một trăm cần đổ lên mới đủ. Để làm cần câu phải cố công tìm cho được loại tre gai giao lóng đủ già để có thể sử dụng nhiều năm. Cây tre sau khi hạ xuống được cắt thành từng đoạn dài khoảng 1,2m, đây là độ dài của chiếc cần câu tương lai. Người khéo tay khi cắt đoạn luôn cố ý làm thế nào để bất cứ đoạn tre nào cũng bắt đầu tại một mắt tre, để khi chúng được chẻ thành những thanh nhỏ làm cần câu thì chút mắt tre ở đầu cần đó sẽ được vót thành một cái mấu chặn tự nhiên rất chắc chắn cho sợi nhợ câu. Nhưng trong việc vót cần câu cắm khâu quan trọng nhất vẫn là việc vót phần dưới cái mấu đó được gọi là “lá lúa”. Đây là đoạn dài khoảng 30cm được vót bỏ phần ruột tre từ từ mỏng dần về phía cái mấu và gần như hầu hết đoạn này chỉ còn lại phần cật tre. Lúc đó cả đoạn trở nên rất linh hoạt có thể xoay qua lại cả hai phía với một góc tổng cộng gần 180 độ so với trục của cần câu. Về mặt kỹ thuật, nó góp phần quan trọng trong việc làm con cá bị mắc lưỡi câu khi đớp mồi của cần câu. Phần còn lại của cần câu được vót tròn như vót đũa và phía cuối của nó được vót nhọn để người sử dụng dễ dàng cắm cần câu vào đất khi đã móc mồi vào lưỡi câu, chính vì vậy nó mới được gọi là cần câu cắm. Việc cuối cùng là làm một cái móc, nó có thể làm bằng dây kẽm hay nhợ câu buộc vào thân câu ở đoạn hơn nửa dưới cần câu, để khi đoạn gân làm dây câu một đầu đã buộc chặt vào dưới mấu câu thì đầu còn lại có lưỡi câu sẽ móc vào đây khi không sử dụng, tạo cho cần câu có hình dạng như chữ “f ” rất đẹp và rất gọn gàng khi bó chúng thành một bó để di chuyển.

Nói đến nghề cắm câu là nhắc đến những người chuyên đi cắm câu để nuôi sống gia đình theo mùa lúa. Thời ấy, trên các trục giao thông thỉnh thoảng người ta hay gặp họ đáp xe lam đi những đoạn đường ngắn để hành nghề, nơi họ đến là những cánh đồng có nhiều cá tôm quen thuộc. Họ đi một mình, có khi thành nhóm 2-3 người cho có bầu bạn. Đồ nghề của họ khá lỉnh kỉnh, tuy không nặng và được sắp xếp rất hợp lý nhưng cũng đủ kín cả hai đầu của chiếc đòn gánh. Đó là các cần câu, gáo đựng mồi câu, một cây đèn rọi sử dụng dầu lửa, một cái vợt lưới nhỏ; cái võng hay nóp để ngủ tạm qua đêm và chống muỗi, vải mủ che mưa, cái hăng- gô dựng cơm và hai cái giỏ đựng cá một lớn một nhỏ… Dĩ nhiên trong túi họ không thể thiếu một ít tiền lẻ để đi xe, thuốc hút để giết thời gian giữa hai lần thăm câu còn có tác dụng chống lạnh và đuổi muỗi, đặc biệt là không thể thiếu một vài liều thuốc thông thường và thuốc chống nọc rắn để đề phòng bất trắc. Người viết có làm quen một vài người có tay nghề cắm câu ở huyện Vũng Liêm, những lúc vui vẻ họ tâm sự: Đã là nghề thì có nghiệp- nói theo người nhà Phật là nghiệp chướng đó mà- cái nghiệp của họ có từ chuyện mê nghe tiếng cá quẫy trên đồng, mê cái cảm giác khi nắm chặt được con cá vừa dính câu trên tay… để rồi phải bì bõm trên đồng thâu đêm vì cái nghiệp cắm câu khó bỏ! Nơi mà nhóm thợ câu này thường đến là các cánh đồng hai bên lộ Hàng Me, các đồng thuộc các xã Trung Hiếu, Hiếu Phụng của huyện Vũng Liêm và vùng chung quanh Bưng Sẩm của huyện Trà Ôn… Ông Mạc Văn Môn ở xã Trung Hiếu, một cán bộ có nhiều năm lăn lộn với nghề cắm câu ở các vùng vừa kể để nuôi sống gia đình vừa làm tấm bình phong để hoạt động cách mạng trong thập niên 1960 cho biết: Nghề nào cũng có bí quyết của nó, bí quyết của nghề cắm câu thì nhiều, nhưng chủ yếu tập trung ở 3 khâu: Mồi, cách cắm câu và nơi câu. Tùy nơi câu mà quyết định 2 khâu, còn lại thì khó mà nói hết. Với ông việc cắm câu là quá dễ, ông hay cười sảng khoái: “Cứ cắm câu thì chắc có cá ăn, cá đói thì phải ăn mồi rồi dính câu, nơi không còn cá thì Thần Câu cũng phải chịu…” Ông truyền cho người viết một số mánh nhỏ: lưỡi câu cắm phải luôn bén ngót mới không sẩy cá; đừng lội vô giữa ruộng cắm câu chủ ruộng không thích vì đạp hư lúa, cứ cắm quanh ruộng kết quả cũng vậy; khi cần câu dính cá lớn đừng hấp tấp nếu không có vợt thì… cởi quần làm vợt. Ông đã từng làm thế trên cách đồng Hiếu Phụng để bắt được cả một cặp cá trê dừa đang dọn ổ, mỗi con nặng cả ký lô. Ông cũng truyền cách bắt các con rắn lớn ăn cá dính câu… Có nhiều chuyện khá lý thú quanh cái mồi câu, như câu mồi chạy bằng con nhái thì phải là nhái đồng xa để chúng lạ nước luôn nhảy choi choi mới nhạy… Cũng lắm chuyện về mồi thuốc, có lần người viết hỏi một tay chuyên sát cá trê bằng câu cắm, bạn bè đồn ông ta có bài thuốc gia truyền vò viên với đất sét làm mồi câu là bá cháy! Còn ông ta cười hề hề vì sự tò mó này: “Có gì đâu, tao quết đất sét với… cứt rồi vò viên lại…” Người viết kể chuyện này với các láng giềng của ông thì họ cười lăn ra…

Theo tập quán của người đồng bằng “chim trời, cá nước”, cá trên mọi cánh đồng là của trời cho, người bắt không cần phải xin ai... Người làm nghề câu cắm thường kết nhau thành nhóm, tranh thủ đến cánh đồng đã thỏa thuận trước vào buổi chiều để chia hướng hành nghề và xác định điểm hẹn sau các lần thăm câu. Chạng vạng tối là thời điểm bắt đầu mẻ câu quan trọng nhất trong ngày, để cắm cả trăm cần câu mà không bị thất lạc mỗi người có cách riêng của mình, thường là cắm cách khoảng đếm bước chân… Khi cắm xong hết các cần câu, những lần thấy trúng cá họ trở lại thăm ngay các cần câu vừa cắm. Kết quả của lần thăm câu đầu tiên này thường dự báo chuyến đi có thành công hay không. Khi thăm câu, người câu bao giờ cũng mang theo một mớ lưỡi câu đã tóm sẵn với đoạn dây gân được tính toán trước để sẵn sàng thay cho cần câu khi gặp trường hợp con cá tham mồi mắc lưỡi câu quá sâu, thay vì cố gỡ thì họ cắt dây câu để nguyên lưỡi câu như vậy để tránh con cá bị chết làm giảm giá trị. Sau mỗi lần thăm câu, cá được cho vào một chiếc giỏ lớn hơn, rộng lại để bán cho các bạn hàng ngay vào sáng sớm hôm sau tại các chợ gần đó. Để có thể rộng đủ các loại cá trong một cái giỏ mà chúng không làm hại nhau được, họ hay chú ý đến các con cá trê- là loại cá hay mút nhớt đồng loại gây chết cá rộng chung- miệng chúng đều bị họ bẻ lật cái mép trên để vô hiệu hóa cái tật này.

Đi cắm câu theo nhóm, khoảng thời gian chờ đợi lần thăm mẻ câu đầu tiên là thời gian khá thú vị. Ngủ thì còn sớm nên họ thường tụ lại trên một nền chòi vịt hay chuồng trâu nào đó nổi lửa lên nấu nước pha trà bằng cái hăng gô đựng cơm, sang hơn một tí là làm một mẻ “cà phê kho”. Thôi thì đủ chuyện trên đời, từ thả cửa chuyện tiếu lâm thuộc loại “mặn” đến các chuyện vụn vặt đủ loại lúc xa nhà sau khi đã được “thêm mắm dặm muối” cho đã cái… miệng! Những chuyến đi cắm câu xa nhà như thế của họ thường kết thúc trong một ngày đêm, nhưng có khi gặp cánh đồng nhiều cá mà xa nhà thì họ “cắm” lại thêm 2-3 ngày nữa. Cơm chợ, nước sông nên trong số họ có lắm chuyện vui buồn theo các chuyến đi: Có người đi cắm câu 2-3 ngày trở về nhà không mang theo con cá nào mà là một mớ tiền cho vợ, cái áo mới cho con, cân thịt heo cho gia đình, nhưng cũng có người bỏ lại phía sau những chuyện tình dai dẳng với người đàn bà nào đó… Vui nhất có lẽ là mấy anh thanh niên sắp trưởng thành khi anh ta nhẹ nhàng dúi vào tay mẹ mấy đồng tiền bán cá để nhận lại lời mắng yêu của mẹ là sẽ dành riêng tiền này để cưới cho một cô vợ xinh đẹp! Nên có người đã nhại lại câu ca dao “Con cá làm nên con mắm…” là “Con cá làm nên con… khô- Cưới được em rồi (cũng) cực khổ lắm em ơi!”.

by 

tvduc

Bây giờ, nếu bạn đi ăn bún ốc quán Thanh Hải (12/14 Kỳ Đồng, Q.3, TP. HCM) vào các buổi tối thứ bảy, chủ nhật, dù không phải xếp hàng như phở 49 Bát Đàn, Hà Nội, nhưng bạn cần phải kiên nhẫn vì sẽ có đông người chờ đợi trước bạn. Và, nếu 26 năm trước, bạn đã một lần ăn tô bún gánh lề đường ở đầu con hẻm này, bạn sẽ gặp lại y nguyên hương vị cũ ấy trong tô bún của quán Thanh Hải hôm nay

hị Hải cho biết, trước khi rời quê (Thái Bình), chị là một cô gái nhà quê, không hề biết buôn bán là gì. Năm 1973, vừa cưới nhau xong, anh Phạm Văn Khánh, chồng chị, phải theo đơn vị đi B ngay. Sau 30.4.1975, trong khi mọi người sống trong niềm vui ngập tràn kết thúc chiến tranh, với chị Hải đó là những ngày, những đêm dài vô tận mong ngóng tin chồng. Mãi đến đầu năm 1976 chị mới trút được gánh nặng quá sức khi anh có tin về là mình vẫn còn sống. Nhưng đến 1977 anh Khánh vẫn chưa thể thu xếp được một lần về phép. Cho đến lúc đó, Hà Nội chỉ cách quê hơn trăm cây số mà chị còn chưa lần đặt chân tới, nói chi Sài Gòn dịu vợi cả ngàn cây số tận miền Nam. Thế nhưng, chị vẫn khăn gói một mình vào Nam tìm chồng. Hơn chín tháng sau chuyến phiêu lưu ấy, cậu con trai đầu lòng ra đời. Anh chị đặt cho con cái tên Nam để ghi dấu chuyến đi xa nhất của đời chị.

ừ đó, đất miền Nam trở thành quê hương thứ hai của chị. Con trai lớn mới lên ba, con gái nhỏ mới mười tháng tuổi, chồng lại tiếp tục theo đơn vị biền biệt trên miền biên giới Tây Ninh. Ba năm đầu, cả ngày trên tay xấp vé số lang thang khắp thành phố, ban đêm ôm con ngồi bên tủ thuốc lá và tủ đu đủ gọt đầu hẻm đường Kỳ Đồng. Rồi một ngày khi nấu cho chồng món bún ốc mà anh ưa thích khi anh về thăm nhà, chị chợt tự hỏi, vì sao mình không làm món ăn này để bán.

Thế là từ 1984, bên tủ thuốc lá đầu hẻm của chị Hải có thêm gánh bún ốc nhỏ tí teo. Ngày trước nấu cho bố mẹ ăn thế nào, bây giờ nấu cho chồng ăn thế nào, gánh bún ốc của chị Hải vẫn nấu y nguyên như thế. Chị Hải còn nhớ, giá bán ngày đó là 1 đồng/tô. Điều làm chị Hải vừa mừng vừa ngạc nhiên là món bún của chị bán đắt ngay từ ngày đầu, khiến chị bỏ luôn nghề bán vé số. Ban đầu là dân Bắc, không lâu sau đó, thực khách lại có rất nhiều dân Nam. Quãng năm 1995 hay 1996 gì đó, có chủ trương dẹp buôn bán lòng lề đường, chị Hải dời luôn gánh bún vào căn nhà nhỏ trong hẻm, thế mà khách quen vẫn tìm vào đông đúc.

Theo anh Khánh, cả một đời bộ đội lang thang khắp nơi, anh chưa thấy con ốc đồng ở đâu nhiều như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhất là vùng ngập lũ hàng năm. Nhiều nhất là con ốc bươu, nó chính là con ốc nhồi của đồng bằng Thái Bình, loại ốc ngon nhất để làm món bún ốc. Thế nhưng, đi khắp ĐBSCL, chỉ thấy món bún ốc bán ở hai nơi, đó là ven lộ Cái Sắn (quốc lộ 80 đi Kiên Giang) và vùng Bình An, huyện Kiên Lương, cũng thuộc tỉnh Kiên Giang, là hai khu vực từ sau năm 1954 có đông người Bắc di cư vào sinh sống.

Sau này về quê, nhiều lần vợ chồng chị Hải lại tìm ra Hà Nội, đến ăn thử ở nhiều hàng bún ốc trứ danh. Chị Hải cũng thừa nhận, bún ốc đích thị là món ăn của người Bắc và phong phú nhất vẫn là bún ốc đất Hà thành. Mỗi hàng bún ở Hà Nội, có khi cách nhau chỉ vài con phố, nhưng cách thức chế biến rất khác nhau, rất tỉ mỉ, cầu kỳ, trong tô bún ngoài ốc là chính, còn có thêm nhiều thứ thực phẩm khác từ huyết heo, đậu hũ chiên, chân giò, giò chả, cả thịt bò nữa. Nhưng chị Hải nghiệm ra, lý do để những tô bún ốc khác nhau ấy đều bán được, đều được ưa chuộng có lẽ là do người đi ăn, họ luôn tìm đến với tô bún ốc “ngày xưa” của họ. Vì thế, dù đã ăn nhiều thứ bún ốc, học được nhiều cách chế biến khác nhau, nhận được nhiều lời khuyên h là phải thêm thắt thứ này, món kia cho nó “sang” hơn… nhưng tô bún ốc của quán Thanh Hải bây giờ vẫn cứ y nguyên, mộc mạc như tô bún mà chị Hải từng nấu cho bố mẹ mình ăn ngày chị hãy còn là một cô bé.

Canh cá nục dầm khế xanh

Thứ sáu, 29 Tháng 2 2008 17:12

“Làng quê xa cách bao năm

Nhớ hoài canh cá nục dầm khế  xanh"

Khoảng cuối xuân, đầu hạ, ở vùng biển Quảng Nam rộ lên mùa đánh bắt cá nục. Cá nục thường là cá biển ngang, đánh bắt gần bờ. Theo chân những người buôn bán, cá nục có mặt ở khắp các chợ quê và là món ăn tươi chủ yếu của những gia đình  ở nông thôn vì giá rẻ và đặc biệt bất kỳ người nội trợ nào cũng có thể chế biến thành những món ngon như: cá nục nấu canh chua lá bứa (hoặc lá dang),  cá nục chiên vàng dầm nước mắm ớt tỏi, cá nục kho khô, cá nục sốt cà chua, cá nục hấp gừng cuốn với rau muống bánh tráng sắn... hoặc đem ủ làm mắm để dành ăn dần trong những ngày mưa gió. Tuy nhiên, trong những món chế biến từ cá nục do mẹ nấu, tôi chỉ ghiền độc nhất món canh cá nục dầm khế xanh…

Ngày xưa, mỗi khi tiết trời dịu mát chuyển dần sang nóng nực thì thể nào mẹ tôi cũng mua về một rổ cá nục tươi dong. Chợ ở xa nhà nên dăm bảy bữa mẹ tôi mới đi chợ một lần. Mỗi lần mẹ đi chợ cả nhà được một bữa cá nục tươi ăn đã đời. Số cá còn lại, mẹ tôi lựa ra một ít để ủ mắm, còn lại ướp gia vị cho thật thấm rồi cho vào nồi đất kho khô cho đến khi con cá săn cứng và để dành ăn dần cho đến lần đi chợ sau. Và cũng từ món cá nục kho khô này, mẹ tôi đã "sáng tạo" ra một món "canh ăn liền" rất độc đáo, đó là canh cá nục dầm khế xanh. Không những cả nhà tôi đều thích mà gặp bữa nhà có khách đến chơi  ở lại ăn cơm cũng khen tới khen lui món canh dân dã, giản dị này.

Canh cá nục dầm khế xanh chế biến rất đơn giản, không phải mất công nấu như các loại canh khác mà chỉ cần "chế” như chế mì ăn liền, đợi khoảng dăm ba phút là có thể ăn được ngay. Khi cơm vừa chín tới, mẹ tôi hâm lại nồi cá nục kho khô rồi tiện tay bắt lên bếp ấm nước sôi. Còn tôi có nhiệm vụ trèo lên cây khế bên hiên nhà hái cho mẹ vài quả. Mẹ tôi luôn dặn không nên hái trái xanh quá vì khi dầm sẽ rất chát và cũng không nên hái trái chín vàng vì dễ mủn nát; phải chọn những quả khế xanh vừa chín tới có màu vàng hườm mới ngon. Khế hái vào, mẹ rửa sạch rồi dùng dao hai lưỡi xắt từng lát mỏng. Tới bữa cơm, mẹ cho khế và 2-3  con cá nục kho vào tô rồi nhấc ấm nước đang sôi trên bếp chế vào, vừa chế vừa dùng đũa dầm cho cá nục nát tơi ra, thêm một ít rau ngổ điếc hay ngò gai, một ít lát ớt xắt nhỏ, đợi 3-5 phút là đã có một tô canh nóng hôi hổi, thơm ngon chẳng kém cạnh món canh chua nào. Đơn giản vậy thôi, nhưng hòa  quyện cái vị chua thanh của khế, vị mặn đậm đà của cá nục kho, mùi thơm của rau ngổ điếc, ngò gai và vị cay nồng của ớt. Bới cơm, chan canh rồi xì xụp thổi vừa và cơm cho mau hết để còn bới chén khác. Bát canh cứ vơi dần cho đến khi hết thì đã có sẵn khế xanh xắt lát trong rổ, cá nục kho trong nồi, nước sôi trên bếp lại chế tiếp bát canh khác:"Cá nục dầm với khế xanh/ Cơm ăn mươi bát vẫn không đã thèm... "

Chao ôi là nhớ thời thơ bé nơi quê nghèo có căn nhà mái lá đơn sơ với cây khế trĩu quả bên hiên, lại nhớ tô canh cá nục dầm khế xanh đến thế!...

Món cơm chiên của con nhà nghèo, sáng ăn cơm chiên cho chắc bụng, no lâu

. Ngày xưa, sáng làm gì được ăn hủ tiếu, phở, mì gà… như bây giờ, được ăn sáng với cơm chiên là sướng lắm rồi, thậm chí có nhà không có tóp mỡ để chiên. Nhà nào không có con đi học hay ba mẹ đi làm thì nhịn luôn bữa sáng, đến khoản 8 – 9 giờ ăn bữa chính luôn, 2 giờ trưa chuẩn bị nấu cơm chiều. Mỗi ngày người ta chỉ ăn có 2 bữa, tối 7 giờ là tắt đèn tối thui, lên giường ngủ.

Nhà Mình ngày đó thuộc dạng “sướng” nên được ăn ngày 3 bữa, và không phải đi ngủ sớm vì còn học bài. Món ăn sáng quen thuộc là cơm chiên, hôm nào Mẹ bận thì có khoai mì khoai lang bán dạo. Mỗi đứa vài 3 củ khoai là cái bụng ngủ yên đến trưa.

Hôm rồi qua nhà chị Cá thấy bài

Làm gì với mỡ

, chợt nhớ món cơm chiên Mẹ làm ngày xưa. Chẳng cần tôm, thịt, chỉ có tóp mỡ + tỏi phi vàng, cho cơm vào chiên, nêm gia vị vừa ăn, cho hành ngò tiêu tắt bếp, thế là xong món cơm chiên. Sáng mang vào cty chụp hình mà tay rung, bụng sôi ục ục, chụp xong là xử liền

. Tóp mỡ giòn rụm, hành tỏi thơm phức, ấm nồng của tiêu, mặn mặn của muối, cơm dẻo béo béo, tất cả tạo nên 1 ký ức tuổi thơ mà dù có đi xa đến nơi nào cũng không quên được.

Có bầu có cái sướng của bầu, tự cho mình cái quyền ăn uống xa xỉ, thừa calories, thừa luôn cholesterol. Lâu thật là lâu, mình không dụng đến mỡ, có chăng chỉ mua 1 ít làm mỡ hành mỗi khi nướng Hàu, nướng Ốc. Lần này thả cửa, sinh xong mình sẽ diet toàn tập

class=wp-smiley v:shapes="_x0000_i1028">

 Phở và cơm nguội...

    Ngày gửi: 25 Feb 2008 lúc 1:37pm

Chiều mùa đông, tiết trời đang chuyển mùa đón nhận một đợt gió mùa đông bắc mới. Chỉ nay mai thôi là cả Hà Nội lại bao phủ bởi gió đông buốt giá. Bát phở nóng nghi ngút khói, mùi thịt bò và rau thơm ngào ngạt…Bỗng chứa chan một kí ức trong tôi…

Khu phố nhỏ nơi tôi ở ngày xưa có một quán phở nằm bên phố Tạ Hiện tên là phở Thắng, chủ quán chừng 40 tuổi to béo tay thoăn thoắt bốc bánh phở, bốc thịt và nói rất to. Sáng sớm hai chị em được mẹ phân công đi mua phở về cho cả nhà ăn, mang theo chiếc cặp lồng nhôm to đùng và lúc nào cũng mua thêm 500đ nước để chan cùng cơm nguội. Người bán hàng có vẻ không hài lòng lắm nhưng vẫn múc thêm cho một muôi nước đầy. Bốn mẹ con quây quần, bốn cái bát con, mẹ gắp phở và chia thịt cho ba chi em nhưng lúc nào bát của mẹ cũng chỉ có một chút bánh và thịt vụn còn toàn cơm nguội. Hình như cơm nguội chan với nước phở còn ngon hơn cả ăn phở nữa. Lại nhớ mỗi lần bị ốm thấy thích thích để được mẹ mua phở cho ăn. Lúc bé răng bị sún nhiều nên không tự nhổ ở nhà được mẹ phải dẫn ra Phùng Hưng để nhổ , trước khi vào nhổ răng mẹ còn mua cho một bát phở to nên tuy sắp bị đau nhưng lai được ăn phở nên vui lắm! trẻ con đúng là thật ngốc, dễ vui vì những điều nhỏi nhoi quá!

Quán phở Thắng xưa giờ đã thành phòng vé và đại lý du lịch. Bây giờ cả phố có hai quán phở một nằm ngay đầu ngõ Trung Yên và quán thứ hai trên dãy phố đối diện sáng nào cũng tấp nập thực khách. Tôi không còn phải xách cặp lồng đi mua phở cho cả nhà nữa

vì gia đình không còn đông người như xưa

và cũng ít ăn phở với cơm vì thường ăn luôn ở ngoài quán. Mẹ cũng đã đi rất xa rồi…

Đã năm hôm nay đau chân nằm nhà, bưng chiếc cặp lồng phở màu xanh mọi khi vẫn dùng mua cơm cho mẹ hồi ở viện chợt thấy miên man, cay cay nơi sống mũi. Phở và cả cơm nguội bây giờ đều không ngon bằng ngày xưa…

Nước Cơm - Đặc Sản Của Dân Nghèo

ói đại như vậy không biết có đúng không.

  Tự "lý luận" như thế này:

  - Dân nghèo không có tiền mua nồi cơm điện, nấu cơm bằng lửa than, khi chắt nước mới có "nước cơm".

  - Dân nghèo không có tiền mua sữa cho con uống nên nấu cơm bằng lửa than, cố tình đổ nước nhiều nhiều một chút để khi "chắt nước" ra được 1 tô, pha đường vô cho con uống đỡ đói và thay sữa, nước có màu trắng đục cũng gần giống sữa. :)

  - Dân nghèo, thường thì con đông (vì sao thì ai cũng biết rồi nha!), nấu bằng lò củi cho rẻ, không hao điện như cái nồi 1000W, nhà đông người nấu cơm mỗi lần gần hai ký gạo, điện nào chịu nổi!

  - Dân nghèo mua gạo rẻ tiền nên thường thì gạo "đen thui", gạo "nội địa", lượng cám trong vỏ hạt lúa còn nhiều, nhờ vậy mà còn chất dinh dưỡng và sinh tố (vitamin khỉ gì đó, quên rồi) trong nước cơm; nhà giàu mua gạo ...đẹp, trắng tinh do người ta "chuốt" gạo để xuất khẩu, thường giá cao. 

  Còn nhớ, hồi nhỏ xíu đâu chừng 9 tuổi là tui đã biết nấu cơm, nấu cơm không khó bằng lúc nhóm lửa, dùng cái gì dễ cháy như: Vỏ cây tràm, lá dừa phơi khô, ruột cây bố (đai)...mồi lửa cho nó cháy qua củi từ từ, công đoạn này khó nhất vì buổi sáng củi rất khó cháy.

  Muốn có nước cơm nhiều hay ít thì canh nước mà đổ, cơm sôi một hồi cho hạt gạo nở ra, dùng đũa bếp (người Bắc gọi là đũa cả hay gì đó) vớt vài hột gạo lên xem, nếy thấy hạt gạo nở đục đục thì dùng nắp vung đậy lại để chắt nước. Xong nghiêng cái nồi ngược lại cho cơm trở về "cân bằng" bên trong nồi và tránh nước dồn về một phía ...thành một bên khô một bên nhão nhẹt. Bớt lửa, đùa thang ra xung quanh bếp lò cho cơm đừng bị khét (người Bắc gọi là "khê"), muốn có cơm cháy nhiều hay ít thì "canh" than cho vừa.

  Còn nữa, nước cơm nhà nghèo cũng không ngon bằng nước cơm của nhà giàu đâu, vì nhà nghèo mua gạo cũ rẻ tiền mà nấu cơm nó nở nhiều hơn gạo mới, vì vậy chất lượng nước cơm "loãng" hơn, thậm chí nếu gạo cũ quá thì nó có mùi chua chua và màu hơi vàng vàng. Vậy mà mấy anh em tranh giành nhau uống, bây giờ nghĩ lại thấy cũng mắc cười...

  Ngày nay "nước cơm" đã trở thành..."dĩ vãng", do cuộc sống công nghiệp, thời gian hạn hẹp nên từ người giàu cho đến công nhân hay nông dân thì cũng cố sắm cái nồi cơm điện phù hợp để nấu cơm tự động. Con cái lớn lên sau này có lẽ không biết "nước cơm" là cái gì, biết đâu sẽ có doanh nghiệp nào đó (như...công ty Lê Gia của tui chẳng hạn! hihi) đầu tư dây chuyền sản xuất "nước cơm đóng hộp" với đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho người già và trẻ em rồi tung vào siêu thị bán. Hốt bạc! :))

Mấy hôm trước mẹ đọc được một bài báo giới thiệu món Kho quẹt (miền Bắc mình gọi là mắm chưng), mẹ chợt nhớ đến món mắm tôm chưng của ông ngoại, món mà đến bây giờ thi thoảng mẹ nhớ lại, vẫn còn như thấy mùi thơm của mắm tôm chưng với chút mỡ và đường, thơm và ngon đến thế.

Tuổi thơ của mẹ và rất nhiều bạn bè của mẹ, lớn lên khi đất nước vừa qua chiến tranh, cơm cũng không có nhiều mà ăn, mẹ vẫn nhớ thi thoảng có bữa cơm gạo quê gửi lên, hạt gạo trắng ngần, thơm phức (khác hẳn với cơm gạo đỏ vỡ vụn được ăn hàng ngày), mẹ và các cậu vô tư ăn hết bát này đến bát khác, chẳng cần phải có thức ăn, chỉ cơm không thôi mà thấy cơm ngọt lừ đến thế, ngon đến thế.

Bây giờ có các con, nuôi các con, mẹ chợt nghĩ lại ngày ông bà còn trẻ, hàng ngày lo cho 3 đứa con đủ cơm ăn áo mặc vất vả thế nào, thi thoảng có những đêm mất điện, mẹ ngồi quạt cho hai con, lại chạnh lòng nhớ đến những ngày mẹ còn bé, đêm hè nào ông ngoại cũng thức chong chong quạt cho mẹ và các cậu được giấc ngủ ngon, rồi nửa đêm có nước lại vác thau đi giặt giũ, và rồi sáng sớm hôm sau lại dậy đi làm.

Bây giờ mỗi lúc mẹ cảm thấy bất lực, cảm thấy hoang mang vì cuộc sống, vì những cơm áo gạo tiền, mẹ lại chợt nhớ đến thời mẹ còn bé, để mà thấy những khó khăn của mẹ ngày hôm nay, chẳng thể thấm tháp gì so với những gì mà bố mẹ của mẹ đã trải qua, để mẹ lại thêm cố gắng.

Chiều tối qua, bố thấy mẹ hì hụi thái mỡ phần thành những miếng hạt lựu nho nhỏ, bố cũng nhắc đến món mắm chưng của bà nội làm cho bố ăn ngày bé. Bà nội không làm mắm tôm chưng, mà chưng nước mắm với tóp mỡ, đó chẳng phải là món kho quẹt mà mẹ được đọc đến hay sao! Món mắm chưng có lẽ đi vào tuổi thơ khốn khó của rất nhiều người, mà đến hôm nay, vị ngòn ngọt mằn mặn đã đi sâu vào ký ức.

Ký ức Tết

Một giám đốc tôi quen khoe Tết này có thịt lợn gửi nuôi ở quê với cách thức cám gạo rau chuối. Muốn có thịt sạch chỉ còn cách ấy. Thì ra bao nhiêu sự phát triển về khoa học tăng trọng đủ mánh mung rồi, bây giờ với người khá giả, miếng thịt ngày Tết lại trên đường quay về lối nuôi cám bèo ngày xưa.

Ngày xưa, với tôi ngày Tết khoái nhất được xem bố ướp thịt muối. Cả năm nuôi được con lợn gần tạ, ngày Tết đem mổ. Bữa đầu tiên có lòng, tiết canh. Đầu đuôi để cúng rồi pha ra làm giò tai giò thủ. Năm nuôi được con lợn to thì bóc thăn giã lấy cặp giò lụa, cân thịt vai ướp nhân bánh chưng. Còn lại ba chỉ mông vai pha theo từng thớ dài rửa qua rượu rồi ướp muối cùng chút hương liệu như hạt dổi.

Một phần trong số đó xâu lạt treo gác bếp hong khói. Vài tuần sau thịt bắt khói ám bồ hóng rồi se dần. Bữa ăn bố thường lấy xuống một hai thỏi rửa qua thái nhỏ rồi đem xào hành. Phần mông vai còn lại nhiều hơn thì thái miếng ướp vào cái chum to. Cứ lượt muối lượt thịt rồi đem bịt kín để gần bếp gio làm thức ăn dự trữ cả năm. Thịt muối lúc đem ra rang chỉ phần mỡ là ngon. Mỡ ngậm muối trong vắt, ăn giòn sần sật mà không quá mặn. Còn thịt thì muối làm cho sắt lại, cứng như gỗ, lại mặn chát. Nhưng dù sao có thịt ăn vẫn hơn ăn mãi rau dưa.

Cho nên ngày Tết của lứa tuổi ngoài sáu mươi như chúng tôi khi còn ở nông thôn thực sự ấn tượng về cái ăn. Hỏi đám cháu bây giờ thì ấn tượng Tết thành phố của chúng là xem đứa nào thu nhập tiền mừng tuổi nhiều nhất trong ba ngày Tết. Còn chè lam bánh khảo bỏng mứt, kẹo bột kẹo lạc tự chế hấp dẫn nhất với tuổi thơ một thời đã lùi vào tiềm thức của lớp người già.

Không ai mong trở lại những cái Tết như thế, nhưng không thể quên, vì nhớ lại thấy thương thế hệ đi trước mà để sống cho tử tế hôm nay.

Đi lùng cá trắm đen ăn Tết

Năm mèo mà ăn cá thì rất hợp. Vì mèo là chúa ăn vụng cá mà…

Nghe đồn anh Hội ở Tức Mặc (ngoại thành Nam Định) chuyên nuôi trắm đen để cung ứng đi các nơi, tôi đánh đường tìm về. Hội ngoài bốn chục tuổi, thầu được gần chục mẫu ao với thời hạn 5 năm một. Từ ba năm nay, mỗi năm anh xuất đi chừng 2 tấn trắm đen và gấp 3 lần thế các loại cá khác. Năm nay, anh bảo ước thu được hơn thế một chút…

Trắm đen là loại cá quý nhất trong các loại cá nước ngọt, chỉ sống ở đáy các ao hồ, ăn tôm tép, cua con và cá nhỏ… nhưng món khoái khẩu nhất của chúng là ốc. Ao nào đã có cá trắm đen thì một con ốc cũng không còn. Bộ nghiền của giống này cực khỏe, vỏ ốc, dẫu là ốc đá (tên một loại ốc có vỏ đá vôi dầy, rất cứng) cũng không là cái gì đối với chúng. Gặp ốc, chúng cắn vỡ vỏ ốc ra, nuốt tất vào bụng, ruột ốc được tiêu hóa còn vỏ lại thải ra ngoài. Chẳng khác gì loài trăn, gặp con mồi lớn thì cuốn mình quanh mồi, xiết mạnh cho gẫy hết xương cốt rồi nuốt tất cả vào bụng. Thịt con mồi thì được tiêu hóa còn xương, sau đó được con trăn há miệng nhả dần ra ngoài. Trắm đen có hình thuôn dài, da màu xanh đen, phơn phớt trắng hồng dưới bụng, mình lẳn chắc, gọn ghẽ. Phụ nữ nào được người đời khen là có cái “mình cá trắm” thì cứ gọi là thích đến mê người. Quý, vì ngoài hương vị thơm ngon, trắm đen còn là một vị thuốc. Đông y cho biết thịt trắm đen “vị ngọt tính bình; bổ thận khí; mạnh tỳ dưỡng vị; bình can sáng mắt; hóa thấp; khử phong; lợi thủy, rất tốt cho người tỳ vị hư nhược, mất sức, phù nề,viêm gan, thận, tê thấp”. Đặc biệt, món cá trắm đen xào với một lượng thích hợp lòng trắng trứng gà, phục linh, sơn dược và gừng, vẫn là một món mà xưa nay “chồng ăn vợ sướng”. Cái gì quý thì thường hiếm. Trong các ao hồ nhỏ lẻ, thường chỉ có một vài con trắm đen, do chủ ao hồ bắt được trong thiên nhiên mang về thả. Anh Hội cho biết:

- Ở ta, hiện chưa có nơi nào sản xuất được giống cá trắm đen. Muốn nuôi với số lượng lớn, phải mua giống của Trung Quốc.

Ao nào có con trắm đen, thì chủ ao rất yên tâm, bởi là cá nhưng nó lại là “trợ thủ” giữ cá rất tốt cho chủ ao, cũng như trong khu chăn nuôi gia cầm có mấy con ngỗng vậy. Chỉ một tiếng động rất khẽ, đàn ngỗng đã kêu ầm lên. Còn trắm đen dưới ao? Đụng phải nó, nó quẫy lộn ầm ầm khiến cho chủ ao đang đêm phải thức giấc. Đã có anh ban đêm vào ao mò trộm cá, đụng phải trắm đen, nó lao thẳng lên, thúc mõm vào mặt khiến kẻ trộm tối tăm mặt mũi, kêu cha kêu mẹ. Cất vó trộm ư? Vó cỡ đại hai sải tay mỗi chiều chẳng là gì. Cất cá lên rồi, nếu là trắm đen, thì con trắm trắn mình đi rồi bật mình một cái là ra khỏi vó ngay. Còn lưới? Con trắm đen bốn năm cân chỉ cần thúc mạnh một cái thì lưới nào cũng thủng. Ở dưới nước, con trắm đen năm sáu cân khỏe ngang với một lực điền. Trong những sông lớn hay hồ lớn, có con trắm đen nặng đến cả tạ. Loại vài ba chục kg, thậm chí năm sáu chục kg không hiếm.

Anh Nguyễn Văn Huy đã từng bắt được con trắm đen 48 kg ở đập Thủy Tinh (Phả Lại, Hải Dương), gần đây nhất, ngày 11/11/2010, anh Phạm Văn Quang câu được con trắm đen 34 kg ở hồ Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương). Anh Trần Văn Hiếu bắt được con trắm đen 38 kg ở đập Cổ Thành cũng thuộc huyện Chí Linh. Tại hồ đảo Cò xã Chi Lăng (huyện Nam Sách, Hải Dương), những người thầu hồ cũng có lần bắt được con trắm đen 29,5 kg. Hồ Tây (Hà Nội) cũng là nơi có nhiều cá trắm đen rất lớn, có con nặng tới hơn 50 kg. Tất nhiên, đó là những “cụ trắm” đã sống lưu cữu nhiều năm dưới hồ. Còn trắm nuôi, thu hoạch mỗi năm một lần, thì chỉ đạt trọng lường 3 đến 4 kg mỗi con, thỉnh thoảng mới có con nặng được 5 đến 6 kg. Loại cá nặng 7-8 kg mỗi con thường là cá cũ từ năm trước còn sót lại.

Chủ ao Nguyễn Văn Hội bảo: Trắm đen không thể nuôi dầy và thường được nuôi ghép với nhiều loài cá khác như mè, trôi, trắm trắng (trắm cỏ)… Nếu là nuôi ghép quảng canh, thì với 10 mét vuông diện tích mặt nước chỉ thả được 1 con trắm đen. Nuôi thâm canh, cũng ghép với các loài cá khác, thì với 10 mét vuông diện tích mặt ao, người ta thả từ 3 đến 4 con trắm đen. Thức ăn của trắm đen, ngoài những thứ đã kể trên, còn là ngô và thóc…

Các loại cá khác xuất quanh năm theo kiểu “đánh tỉa thả bù”; trắm đen, đầu tháng Chạp mới bắt đầu xuất nhưng lẻ tẻ. Ngày ông Táo lên trời trở đi mới xuất dồn dập. Chỉ riêng dân Nhân Hậu (Lý Nhân, Hà Nam) đến mua cá về kho bán Tết đã vợi hơn nửa rồi, còn thì bán cất cho các thương lái có quầy bán cá ở các chợ lớn trên Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định, một phần bán cho những người đến mua lẻ một, hai con ngay khi cá vừa đánh ở ao lên… Giá cá trắm đen vào tuần giáp Tết này, ở những chợ Hà Nội đã có giá 150 ngàn/kg nếu là bán cả con. Còn nếu mua khúc thì 180 ngàn mỗi cân, mà bán rất chạy…

Ngày Tết, bên cạnh những món ăn truyền thống, nếu có thêm nồi cá trắm đen kho theo kiểu Nhân Hậu hay món cá trắm đen hấp, sốt, rán hay làm lẩu… thì thật tuyệt, mà mâm cỗ Tết nhìn cũng thấy phong phú, sang trọng hơn.

Ký ức buồn ngày xuân…

10:06, 19/1/2012 (GMT+7)

Blog Family

Vậy là chỉ còn mấy ngày nữa là tết, ngoài đường khi tất cả mọi người đang nô nức chuẩn bị cho một cái Tết đủ đầy thì trong lòng tôi lại càng buồn hơn… kí ức buồn đau của ba năm về trước lại ùa về, nó như một cuốn phim quay chậm khiến tim tôi nhói đau.

Sáng hôm đó là 29 tết, cha cùng tôi rủ nhau đi thịt lợn nhà hàng xóm, trong lúc mọi người đang thịt lợn thì tôi làm bữa trưa, tôi cũng không thể ngờ được rằng đó là bữa cơm cuối cùng tôi nấu cho cha. Buổi chiều cha nói đi mua cà phê, thế là cha đạp xe đi đến gần 7h vẫn không thấy cha về. Tưởng đâu cha hay chơi nhà anh chị họ, nhưng trong lòng tôi không yên nên tôi cả đứa bạn thân vội vàng đi ra đường cái tìm. Đi được một đoạn không xa chúng tôi thấy cha nằm ngất ở lề đường, ai đó đã đâm vào cha và bỏ chạy… Biết bao người đi qua nhưng người ta cứ đi bỏ mặc một ông già 70 tuổi ở đường như thế. Sao quá nhẫn tâm, sao xã hội càng phát triển thì lòng tốt con người ta thui chuột hết cả rồi.

Chúng tôi mang cha đến bệnh viện nhưng đến 3h sáng cha đã lặng lẽ rời bỏ ba mẹ con tôi không một lời từ biệt khi mà chị em chúng tôi vẫn chưa ai thành gia thất, vẫn còn đang học.

Vậy đấy, ở chiến trường ác liệt cha đã từng bị bom rơi đạn vùi, sự sống chết tưởng chừng trong gang tấc, vậy mà cha vẫn bình yên trở về… những tưởng cha sẽ được sống những năm tháng tuổi già bên gia đình vậy mà… Tôi đã rất sốc trước sự ra đi đột ngột của cha, đêm giao thừa mọi người quây quần bên nồi bánh trưng nghi ngút khói, còn mấy mẹ con tôi ngồi cạnh quan tài của cha, cảm giác đớn đau ấy luôn theo tôi đến hết cuộc đời.

Trong 6 ngày tết mọi người vui vẻ đi chúc tết còn gia đình tôi chỉ khóc, khi thực sự mất đi người mình yêu thương ta mới biết quý trọng những phút giây đã được ở bên, mới biết hối hận khi làm những việc không phải hay nói những câu khó nghe, tôi rất hối hận nhưng đa không kịp rồi, hơn 20 năm sống với cha mà tôi vẫn chưa một lần được ôm cha vào lòng, chưa một lần cám ơn cha... Giờ đây những lúc nhớ cha tôi chỉ muốn khóc một mình.

Một mùa xuân mới lại về.lòng tôi vẫn không thể nào quên được những gì đã qua,trái tim vẫn đau khi nghĩ rằng mình không bao giờ có được một cái tết trọn vẹn bên những người mình yêu thương. Cầu mong mọi người hãy trân trong và yêu quý bố mẹ của mình.

Bất ngờ với vị mì Quảng Phan Thiết trước năm 1975

Không ít thực khách sẽ ngạc nhiên khi phát hiện màu đỏ trong tô mì hay vị ngọt đọng lại trên đầu lưỡi là kết quả của một quy trình xử lý nghiêm ngặt loại ớt sừng cay xé lưỡi.

ốn là một tín đồ của món Quảng, tôi mê tất cả các món ăn của vùng đất nắng gió này, từ những miếng mít non trộn gỏi béo mềm, đến món lấy sản vật từ sông là những con hến, và những món vừa làm thuốc vừa chữa bệnh như lòng xào nghệ… Tất nhiên trong danh sách món ăn chẳng bao giờ thiếu những cọng mì to bản nhưng thanh mảnh, dùng chung với hàng loạt nguyên liệu khác như cá lóc, thịt heo, tôm, thịt bò… Đó là món mà trong ký ức một thời của những người lớn tuổi nó được tổng hợp từ vô số đồ thừa đám giỗ hay bữa tiệc ngày hôm trước – mì Quảng.

Mê món Quảng và cảm nhận rõ vị Quảng như thế nên khi được mời đến Bông Chua, quán chuyên nấu món đúng vị của Phan Thiết trước những năm 1975 với đầu bếp là một người đam mê chế biến món ngon cho con cháu thưởng thức, tôi bất ngờ khi phát hiện trong thực đơn cũng có mì Quảng. Nó khiến tôi khá tò mò vì không biết vào đến vùng trong, món mì được biến tấu thế nào và vị Phan Thiết ra sao. Vì thế việc gọi thử một tô là tất yếu.

Ngắm tới, ngắm lui, tôi vẫn không tìm thấy sự khác nhau trong ngoại hình của mì Quảng Phan Thiết với mì chính gốc Quảng với phần sườn kho sắc cạnh, con tôm vừa vừa, cả kích thước, hình dáng, màu sắc của sợi mì cũng y hệt. Khách chăng chỉ là màu của tô mì trước mặt tôi đậm đà hơn và đĩa rau dùng chung không có sự hiện diện của thân chuối bào mà chỉ gồm xà lách và bạc hà.

hông chần chừ lâu hơn, tôi nếm thử nước dùng và chợt nhận ra sự khác biệt. Nước dùng của món mì này đậm đà hơn, tươi hơn, nhất là vị ngọt khá lạ cùng vị đọng lại hơi chua, khác hẳn với hương vị của nước dùng thường gặp. Nó khiến tôi ngờ ngờ về sự có mặt của món cải chua.

Tò mò, tôi xin phép được nói chuyện đầu bếp và biết một bí mật khá lạ về món ăn. Đó là nếu mì Quảng của Quảng dùng củ nén làm bật nên cái ngon của nguyên liệu, thì mì Quảng Phan Thiết có vị chủ đạo là ớt sừng và tỏi. Song để ớt không cay phải luộc và xả ít nhất 5-6 lần. Quy trình xào ớt, tỏi cũng phải canh lửa, canh thời gian để ớt lên màu đẹp. Vị chủ yếu là ớt sừng và tỏi nên khi thưởng thức, nước dùng vừa có vị ngọt của ớt, song cũng có cái hậu chua nhẹ của hai loại nguyên liệu nóng này.

Truyện ngắn, Miền Lợn

Văn Cầm Hải

Top of Form

Rất vô tình. Giờ Hợi. Đêm Đại Hàn gió bấc mưa phùn hơn 30 năm về trước, tôi sinh ra thiếu ngày bên chuồng lợn, mà như lời Mẹ kể, may nhờ hơi ấm ổ rơm đàn lợn con, hài nhi tôi đã được cứu sống.

Tuổi thơ tôi lớn dậy trong ngôi nhà xưa của Cố nội để lại cho Cha Mẹ, cùng bao nhiêu lứa lợn ra đi, bao nhiêu lứa lợn tìm về, đều hóa thân thành tiền thành bạc cho tôi ăn học thành người. Và trong ký ức chen chúc những đôi mắt ủn ỉn ấy, tôi không thể nào quên con Hoa, một con lợn có thân hình lốm đốm như những bông hoa trắng đen, lạ kỳ mọc lên từ lớp lông mịn màng. Ngày theo Mẹ sang sông lên chợ Cổ Hiền bán đàn lợn con, tôi ngồi bên Mẹ, buồn bã nhìn từng con lợn theo nhau về với tay người cho đến khi người ta ngã giá con Hoa thì tôi đòi mẹ 

mang lợn Hoa trở về nhà, dù biết rằng làm như thế Mẹ sẽ vơi một chút tiền ăn học gửi cho các anh tôi.

Chẳng những xin Mẹ mang lợn Hoa qua sông quay lại nhà, tôi còn được tự mình chăm sóc nó trong một chuồng riêng. Lợn quê nghèo, chỉ có cám, chuối và rau cỏ qua ngày, nên hàng ngày học về, tôi phải ngồi nhẫn nha cắt từng lát chuối cây, vằm nhỏ, trộn với cám gạo, nấu thành nồi cháo dành ngày ba bữa cho lợn Hoa. Bằng sự chăm sóc hồn nhiên, nhưng chu đáo của tôi, lợn Hoạ lớn nhannh cho đến ngày thân hình bé bỏng của tôi cưỡi lên lưng, đi quanh vườn rau khoai ăn lá. Thay vì ở trong chuồng chật chội hôi hám, tôi dần tập cho lợn Hoa sống tự do trong vườn, đến lúc ăn thì tìm máng, đến khi ngũ thì tìm ổ rơm tôi lót sẵn dưới gốc chuối già. Người ta bảo lợn ngu si, lợn phàm ăn, tham ăn vô độ, không quấn quýt bên chủ như loài chó, nhưng trong mắt tôi, lợn Hoa là con vật đầy mẫn cảm. 

tôi một lòng xem như bạn thân trong chuổi ngày tuổi thơ cô độc, không bè bạn, không anh em vì tất cả đều xa ngái học hành.

Lợn Hoa biết đón tôi vào giờ đi học về, biết buồn bã khi không tôi, như đã có lúc, biếng ăn nhác uống gần hai ngày khi tôi vắng nhà. Và ngược lại, tôi sợ ngày chia tay, tôi sợ bàn cân của những tay lái lợn sục sạo khắp làng quê tìm mua lợn có thể mang lợn Hoa về một lò mổ nào đó. Trong tháng ngày chăm bẵm lợn Hoa, tôi không dám ăn thịt lợn, dù một miếng thịt lợn của những năm 80 không phải là quá dễ dàng tìm thấy trên mâm cơm hàng ngày. Thịt lợn ngày đó, là sản vật chỉ xuất hiện trong dịp giỗ chạp lễ lạc. Đầu đuôi cúng mâm thượng, thân lợn biến thành các vị món chủ đạo của mâm hạ, nào thịt phay ba chỉ, nào giò hầm, thịt nướng lá chanh đủ cả. Mỗi khi Tết đến, chiều 30 cả làng râm ran tiếng lợn, tiếng người dành giật chia nhau vài ba cân thịt. Những cái Tết buồn thương quê nhà, đượm mùi vị heo lợn ấy, đã mang lại những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt dân làng. Nhưng với tôi, mỗi khi nghe tiếng lợn đớn đau vàng lên, mỗi khi nhìn thấy lợn bất lực nằm dưới đòn khiêng người làng mang đi trên đường, 

lại rùng mình chạnh lòng nghĩ đến thân phận của lợn Hoa bởi một ngày tăng cân mập béo là một ngày lợn Hoa đến gần với hư không! Lợn Hoa của tôi, đẹp như lợn vẽ, những đốm hoa bé nhỏ trên lưng nay đã nở thành những đóa hoa chạy dài từ mõm đến đuôi. Được gội tắm hàng kỹ càng hàng ngày, nên lợn Hoa thơm tho lắm lúc trở thành chiếc gối mềm dịu ru tôi ngũ.

Và tự hào thay, trong một lần cùng lợn Hoa rong ruỗi qua vạt khoai vườn nhà, lợn Hoa đã lọt vào mắt ông Đồng- Chủ nhiệm hợp tác xã làng tôi. Sau một hồi trò chuyện với Cha Mẹ, ông Đồng muốn đưa lợn Hoa dự thi một cuộc thi lợn đẹp toàn xã.

Vận trời khó lường, tôi đâu ngờ ngày khấp khởi mang lợn Hoa đi khoe thiên hạ cũng là ngày tôi và lợn Hoa chia tay nhau. Tôi cùng Cha Mẹ, đưa lợn Hoa xuống xã, trước đêm thi, người ta nhốt nó vào chuồng như bao con lợn của làng khác. Lợn Hoa của tôi, vốn đã quen thả rong, làm sao chịu được cảnh chật chội và tiếng hò hét doạ nạt của mấy tay dân quân trực đêm. Buồn bã hóa giận hờn, lợn Hoa đã phá chuồng, ra đi trong đêm mà không cần đợi sáng mai lên tham dự cuộc thi, bất chấp ước vọng của ông Chủ nhiệm hợp tác xã, lợn Hoa sẽ mang danh thành tích “ lợn khoẻ, lợp đẹp” trong phòng trào chăn nuôi xã phát động khắp mươi hai làng.

Oh lợn Hoa! nếu thính mũi như loài chó, chắc lợn đã nhận biết được về nhà nhưng đằng này, chậm chạp thật thà từng bước đi như vậy, có lẽ nó đã bị bắt hay lưu lạc nơi nào. Nếu thông minh chờ đợi tôi đến, lợn Hoa đâu phải bơ vơ đâu đó trong ánh mắt săn tìm của kẻ lạ. Lợn, vẫn là một con vật ngu si trong các con vật, chẳng nên buồn, hợp tác xã sẽ đền bù mấy chục cân lúa là tốt rồi. Ông Đồng chủ nhiệm hợp tác xã an ủi tôi như vậy.

Tôi câm lặng tự trách mình, yêu quý lợn nhưng lại ngã lòng trước chút danh lợi, đã làm cho lợn Hoa không còn nữa. Có lẽ, đó là bài học đầu tiên trong đời tôi về sự sinh tử, về lợi danh và tình yêu thương nhân thế, vừa nghịch cảm vừa tương kính bên nhau. Ngu si là lợn vậy, nhưng không biết bao người, bao gia đình tựa vào lợn mà đứng lên., tựa vào lợn mà bày tỏ lòng mình. Tôi đã xót xa nhìn Cha Mẹ, trong đêm khuya bàn bạc, quyết định làm thịt một con lợn nhỏ chừng 30 kg, chỉ vì trong nhà chẳng còn gì cả để cho tôi mang quà vào tặng nhà người mình ở trọ ở phố. Tiếng lợn kêu, bóng người Cha già lụi cụi, bóng người Mẹ bắc nước luộc lợn đêm ấy, càng buồn thương hơn, tủi hận hơn như giấc mơ thấm vào da thịt, không rứt ra được khi tôi nghe bà chủ nhà mĩa mai sao con lợn làm quà này nhỏ thế!

Không chậm chạp như lợn Hoa, thời gian bao nhiêu năm trôi qua nhanh như gió thooir qua sông Nhật Lệ kể từ ngày lợn Hoa phá chuồng biệt tích ra đi. Tưởng chừng tôi đã quên lợn Hoa nhưng vào một ngày thu bên dòng Mississippi, tôi gặp lại hình ảnh lợn Hoa qua một đàn lợn chạy lang thang dưới rừng lá phong muôn màu rực rỡ miền trung nuớc Mỹ. Ngỡ là đàn lợn hoang, nhưng không phải, đó là bầy lợn của một người đàn ông da đỏ thuộc bộ lạc Người Miền Đất Vàng còn sót lại ở tiểu bang IOWA, một miền đất có nhiều làng quê lấy lợn làm biểu tượng cho sự sung túc giàu có và hoang dại.

-Đàn lợn của tôi rất tự do trong cánh rừng này- Fox, tên người đàn ông da đỏ mộc mạc nói với tôi sau khi nghe câu chuyện về lợn Hoa- bởi anh biết không, cái gì trên trát đất, trong bầu trời này cũng có linh hồn cả. Cây có thần cây. Gió có thần gió. Mưa có thần mưa. Lợn cũng có thần lợn. Mọi vị thần đều yêu tự do và 

tự do thật sự mới là vị thần! Con lợn của Anh vì yêu tự do, vì quen tự do 

nên bất chấp tất cả, kể cả cái chết, sẵn sàng ra đi đấy!

Lợn Hoa! bất giác tôi gọi tên người bạn xưa giữa rừng chiều Mississippi. Sau bao nhiêu năm khuất bóng, lợn Hoa bỗng nhiên hiện ra dịu dàng, những đốm hoa mờ ảo quanh mình, lợn Hoa từ đâu đó trong ký ức xanh thẳm một đời non trẻ, đến với tôi qua lời của người dân da đỏ. Lợn Hoa của tuổi thơ tôi, dù không siêu linh như hiện thân của nữ thần Nout trong tâm linh Ai Cập cổ đại, hằng đêm nằm thênh thang trên bầu trời cho bầy lợn con, là những tinh tú giang hồ bú sữa. Nhưng lợn Hoa của tôi đã cho 

tôi hay, 

rằng trên đời này chẳng có gì ngu ngốc cả, hạt bụi cọng cỏ còn biết bay lên, huống gì lợn, một con vật biết kêu khi đói, biết đau lúc xẻ thịt, biết vượt qua danh lợi chật hẹp chuồng trạ, để vươn đến tự do, dù cho đó là miền tự do hoang dại

.

Bottom of Form

Ký ức tết quê

Thứ ba, 31 Tháng 1 2012 07:32

Nó thường gỡ lịch và tính từng ngày mong tết đến. Lúc đó, không khí tết đến sớm hơn bây giờ. Thời tiết ở quê vào mùa giáp tết thường mưa và lạnh, rất ít những ngày nắng ráo. Người làng nó mang gạo gửi người ta tráng bánh từ đầu tháng chạp. Những ngày giáp tết, các cơ sở xay xát gạo làm việc hết công suất. Đường làng có thêm mấy chỗ rang nếp bung để làm bánh nổ. Bọn nhỏ thường túm tụm quanh mấy cái chảo rang để lượm mót những hạt nếp sót…

Mẹ đi chợ mua củ kiệu, củ cải, cà rốt, hành tím về làm dưa món; mua môn sáp để dành hầm với xương heo. Ba nó thường phân công mấy anh chị em mỗi ngày về việc lau dọn nhà cửa và chùi cọ lư hương. Nó thích nhất là được phụ mẹ ôm mùng mền chiếu gối ra bờ sông giặt rồi mang về trải lên mái nhà phơi phóng cho khô. Chỉ những dịp như vậy nó mới được tắm sông thật lâu mà không bị la mắng. Ngày đó chưa có điện, người làng dùng nước giếng. Mỗi sáng, mỗi chiều giếng làng là nơi tụ họp vui vẻ của những đôi trai gái. Hằng ngày nhà ai cũng phải đi gánh nước đổ đầy các ảng để dùng cho nhu cầu sinh hoạt.

Mỗi năm sắp đến tết, chị em nó đều rạo rực vì sắp có đồ mới. Nhà nó đông anh chị em nên mẹ nó mua vải may cho cả nhà vừa tiết kiệm vải, vừa tiết kiệm tiền. Không riêng gì nhà nó, hầu như ở quê lúc đó nhà nào cũng có người biết may vá. Mẹ nó may không khéo nên có khi may coi cũng được, có khi mặc coi không giống ai. Vậy là nó chê, không mặc thì bị đánh đòn, bị khép vào tội đua đòi… nên đành phải mặc. Những ngày giáp tết, nó được phụ làm bánh in, làm mứt dừa, mứt gừng, hạt sen. Ở quê nó gọi là bánh hạt sen nhưng thực chất chỉ là loại bánh làm bằng đậu xanh bóc vỏ, hấp chín, cà nhuyễn và viên thành những viên nhỏ bằng viên vi ve rồi bọc trong những tấm giấy kiếng hoặc giấy pơluya mỏng, hai đầu được cắt tưa ra cho đẹp mắt. Chị em nhà nó còn tranh thủ giờ ra chơi ở trường ngồi cắt giấy để gói bánh hạt sen hoặc cắt những dây băng rôn, hoa giấy, kết hoa vải bằng những mảnh vải vụn ở các tiệm may trong xóm để trang trí nhà cửa.

Hồi nhỏ, bọn nó thèm ngọt lắm, bánh kẹo hầu như chỉ có tết mới được ăn thỏa thích. Anh nó thấy làm bánh viên nhỏ quá, nên ước gì “khỏi gói, để nguyên một cục to ăn cho đã”. Có lần tết đến, bọn bạn nó cùng nhau đến chúc tết thầy, người nhà mang đĩa mứt ra, một loáng bọn nó đã nhặt hết, đến nỗi chỉ còn một ít bột đường sót lại bạn nó cũng trút hết cho vào mồm…

Nó nhớ, ở quê nó ngày 30 tết là ngày bận rộn và nhộn nhịp nhất trong năm. Trong làng nhiều nhà mổ heo ăn tết. Lúc đó chưa có điện nên chẳng có nhà nào có tủ lạnh, thịt phải chế biến ngay trong ngày. Người ở quê nó thường luộc, xào hoặc kho thịt nếu để ăn trong vài bữa, số thịt còn lại thì muối chua hoặc muối nước mắm. Trong gia đình, mẹ nó là người vất vả nhất vào ngày cuối năm. Buổi sáng, bà dậy thật sớm đi chợ mua rau và đồ dùng cho những ngày tết. Ba nó cùng mấy người họ hàng mổ heo. Đi chợ về, mẹ nó và mấy người hàng xóm gói bánh tét. Trưa chiều đến khuya, bà vừa lo nấu bánh và chế biến thịt heo. Mấy chị em cùng nhau làm mứt, làm bánh in dưới sự hướng dẫn của mẹ. Lúc đó quê nó làm bánh in bằng đường tán nên mất nhiều thời gian lắm. Đường tán phải lấy dao cạo mỏng hoặc thắng cho tới rồi trộn với bột nếp, chà cho đường và nếp quyện đều vào nhau rồi bỏ vào khuôn ấn chặt. Chị em nó ấn đến đau cả hai đầu ngón tay cái, khi lấy ra phải dùng đầu cán dao khỏ cho khéo mới lấy ra được nguyên vẹn, sắc nét. Nó nhớ, ở quê nó khuôn bánh bánh thuẫn, bánh in mỗi khi làm phải chạy đi mượn quanh xóm mới có.

Dù bận đến mấy nhưng chiều tối 30 tết, ba nó cũng tranh thủ ra vườn hoặc đi quanh xóm chọn nhành mai thật đẹp cắm vào độc bình… Làm gì thì đến lúc giao thừa mọi việc phải đâu vào đấy. Cả nhà cùng nhau bày mâm cỗ cúng giao thừa. Lúc đó nước trong các ảng, các chum phải đầy, nhà cửa phải sạch sẽ gọn gàng, bếp phải luôn luôn đỏ lửa. Quan niệm của người làng nó là thế, tết đến cái gì cũng phải đủ đầy, tươm tất như mong ước một năm đầy may mắn, sung túc. Đêm giao thừa, cả nhà quây quần bên nhau ăn lát mứt gừng cho ấm bụng, chị em nó ngồi ngoan nghe ba mẹ tổng kết những ưu khuyết điểm của từng thành viên trong nhà, được chúc những điều tốt đẹp và lì xì mừng tuổi.

Ngày đầu năm, ba nó dắt mấy anh em trai lên thắp nhang nhà thờ tộc họ rồi về cùng cả nhà đi viếng mộ ông bà. Sau đó ai muốn đi chùa hay thăm viếng bà con, bạn bè thì tự do thoải mái. Ba mẹ nó thường phân công nhau trực ở nhà để tiếp khách và nấu cơm cúng ông bà.

Gia đình nó cùng Nam tiến theo sự nghiệp học hành, làm ăn của chị em nó rồi định cư hẳn ở thành phố, rất hiếm có thời gian về quê ăn tết và thăm họ hàng. Hằng năm, cả nhà nó chuẩn bị tết rất nhanh vì mọi thứ đều có sẵn. Ngày cuối năm được nghỉ làm, nó lượn qua siêu thị mua những thứ cần thiết, mẹ nó cũng đỡ vất vả hơn vì không phải chế biến nhiều. Có năm nó cũng tranh thủ đi chợ tự làm mứt dừa, dưa món, củ kiệu, thịt heo ngâm nước mắm, tai heo ngâm dấm, đầu heo làm giò thủ, … để đỡ nhớ quê vừa đảm bảo an toàn thực phẩm, cũng để dạy cho con biết quy trình làm những món này và cũng vừa có không khí tết.

Đã lâu chưa về thăm nhưng nó vẫn nghe ngóng tin tức ở quê qua họ hàng, bạn bè và báo chí. Bây giờ ở quê cũng tiện nghi không thua gì thành phố nhưng nó vẫn thích về quê đón tết, để được gặp họ hàng, bạn bè, viếng mộ ông bà, được nhìn thấy nơi mảnh đất nó sinh ra và lớn lên đổi thay từng ngày. Dù tuổi thơ nó có khó khăn nhưng đã tạo nên vốn sống và nghị lực cho nó. Bây giờ ở phố, mặc dù tiện nghi đủ đầy, song nó vẫn rất nhớ quê, nhớ hương vị tết ấm cúng và nhiều ý nghĩa thiêng liêng.

Có những điều diệu kỳ đang biến mất

Cập nhật lúc 09:27, Thứ Năm, 26/01/2012 (GMT+7)

Ngày ấy đám trẻ con quê tôi đứa nào cũng chỉ mong đến Tết thật nhanh để không phải học bài, không phải chăn trâu… Tết về chúng tôi được mặc quần áo đẹp, được mừng tuổi, được ăn uống no nê và vui chơi thỏa thích.

Mỗi khi thời tiết se lạnh tôi lại miên man nhớ về ngày Tết của tuổi thơ rồi ngồi lại chắp nhặt những ký ức ngọt ngào, những hình ảnh quen thuộc đã từng làm nên không khí Tết quê hương đầy ấm cúng và sinh động.

Làng tôi nhỏ bé khiêm tốn thu mình bên bờ sông Đáy rất hiền hòa. Ngày ấy người dân làng tôi còn nghèo lắm, cái nghèo ấy đặc trưng của một miền quê Bắc Bộ quanh năm chỉ biết làm bạn với ruộng vườn cây cỏ. Dẫu cuộc sống còn gặp rất nhiều thiếu thốn, những bữa ăn ngày thường là các thanh đậu phụ luộc, hay sang lắm thì những bữa xuất hiện những con cá rô đồng bắt được mỗi khi theo chúng bạn đi tát bờ mương.

Dẫu vậy mỗi độ Tết về ai ai cũng hồ hởi phấn chấn. Cả một năm họ bươn chải, lo toan chỉ để làm nên mấy ngày Tết no đủ cho người thân của mình. Những người con xa quê cũng chỉ mong Tết đến để về quây quần bên nồi bánh chưng thơm lừng cùng con cháu, thưởng thức những món ăn mang đậm hương vị quê nhà.

Tôi còn nhớ, ngày 29 Tết mọi người trong làng tôi gọi nhau đi lấy phần thịt Tết. Nhà ai cũng mang 2 chiếc thúng to để đựng phần thịt lợn và thịt cá của mình. Những đống cá to đủ loại nào là cá mè, cá chép, trôi… được cho chung vào một chỗ. Những tảng thịt to cũng được chia theo từng nóc nhà. Cứ bao nhiêu hộ dân là bấy nhiêu phần chia. Đám trẻ con chúng tôi vui sướng khi được nhìn thấy những con cá to tròn béo ngậy, những tảng thịt ngon đến là ngon. Đứa nào mắt cũng tròn xoe mừng rỡ vì sắp được mang phần của mình về nhà để ăn thỏa thích, no nê.

Hình ảnh in dấu Tết xưa trong tôi là nồi bánh chưng, vì chỉ có Tết nhà tôi mới gói và làm bánh to đến vậy. Cái nồi đun bánh to cứ phải hai người ôm mới xuể được đun trên một cái bếp khổng lồ mà bố mẹ tôi vừa mới đắp. Buổi tối hôm đó anh chị em tôi ngồi quây quần bên nồi bánh chưng, ai cũng tranh sẽ thức thâu đêm để trông nồi bánh, nhưng cố lắm chị em tôi cũng chỉ ngồi đến quá 12h đêm là buồn ngủ và người ngồi trông bánh bao năm vẫn không ai khác là mẹ tôi.

Ngày 30 Tết là ngày cuối cùng một năm mới, cũng là một ngày bận rộn vất vả nhất của mẹ tôi. Mẹ lau dọn nhà cửa sạch sẽ để đón một năm mới. Đến chiều 30 Tết mẹ không quên đun một nồi nước thơm thật to để cho mọi người trong gia đình tắm. Mẹ bảo đó là cách trút bỏ đi những vất vả, lo âu của năm cũ để cầu mong một năm mới may mắn và hạnh phúc cho mọi người.

Trên bàn thờ gia tiên mẹ tôi lựa những quả ngon nhất, đẹp nhất, những chiếc bánh trưng to vuông vắn cùng gói mứt Tết, bánh kẹo để bày. Dĩ nhiên là không thể thiếu một vài bánh pháo mẹ mua để đốt vào lúc giao thừa và 3 ngày Tết. Tôi nhìn mà ngưỡng mộ mẹ, hàng ngày nơi đó trống vắng vậy mà đến ngày hôm nay cái gì cũng có. Mẹ tôi thật vĩ đại, đôi bàn tay mẹ gân guốc là thế, cuộc đời mẹ lam lũ là thế mà mẹ làm lên được mọi thứ cho chúng tôi.

Trước thời khắc giao thừa, mẹ tôi thường làm một mâm cỗ cúng. Mẹ tôi bảo đó là mâm cỗ cúng quan trọng nhất trong năm. Nó khởi đầu một ngày mới, một năm mới và một cuộc sống mới. Vì thế mẹ muốn chính tay mình làm mâm cỗ đầy đủ chu đáo để cúng tổ tiên. Không biết mẹ tôi nói vậy là để giành hết mọi công việc về mình (Mẹ tôi vẫn là người như vậy mà) hay mẹ muốn thể hiện tấm lòng thảo hiền của mình với người đã khuất.

Đêm giao thừa với gia đình tôi là một đêm ý nghĩa và ấm cúng. Mẹ tôi luôn chuẩn bị một mâm ăn nhẹ cho cả gia đình để chào đón Giao thừa. Khi kim đồng hồ vừa chỉ đến số 12 thì cũng là lúc bố tôi mang bánh pháo ra đốt lên để báo hiệu và chào đón năm mới đã đến. Tiếng pháo nổ vang giòn giã, cũng lúc ấy mọi gia đình trong làng tôi cũng đốt pháo theo làm nên một dàn âm thanh ngân vang như bản nhạc đồng ca vui chào đón một năm mới tràn đầy may mắn và hạnh phúc. Khi quả pháo cuối cùng nổ thì gia đình tôi quây quần bên mâm cơm đã dọn sẵn.

Đầu tiên là ông bà tôi mừng tuổi cho tất cả mọi người, mỗi người một tờ 200 đồng mới nguyên với lời chúc phúc cho một năm mới cả gia đình đều được khỏe mạnh và vui vẻ. Tiếp đó là bố mẹ tôi mừng tuổi cho ông bà tôi sống lâu trăm tuổi. Chỉ có anh chị em tôi là thích nhất vì được cả ông bà và bố mẹ mừng tuổi cho. Lúc đó thì không thể diễn tả nổi niềm vui sướng của chị em tôi như thế nào khi được cầm những đồng tiền mừng tuổi đầu tiên. Cái cảm giác ấy cho tới tận bây giờ tôi cũng không tìm lại được cho dù mỗi độ Tết về.

Nhưng điều làm cho tôi nhớ da diết nhất đó là không khí của ngày mùng 1 Tết. Cả nhà tôi ai cũng dậy từ sớm và mặc bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất để chuẩn bị đón khách. Bọn trẻ con chúng tôi thì đua nhau chạy ra đường để khoe quần áo mới. Những bộ quần áo mang nhiều màu sắc sặc sỡ tạo nên một bức tranh quê sống động, đủ màu sắc nhưng rất đỗi hiền hòa.

Mẹ thường dặn anh em chúng tôi, sáng mùng 1 không nên "xông đất" nhà người khác. Nếu lỡ năm ấy, nhà người ta xảy ra chuyện gì thì họ sẽ cho mình đem điều không tốt đến gia đình họ. Chúng tôi lắng nghe lời mẹ, nhưng rồi mải đùa vui cùng bạn bè, nhiều khi lại quên mất.

Sáng mùng 1 Tết năm nào mẹ tôi cũng dậy sớm để chuẩn bị mâm cỗ với các món ăn dân dã đặc trưng của quê tôi như món cá kho giềng, bánh đỏ, bánh tẻ, chè lam, thịt gà, bánh chưng để cúng tổ tiên. Đó cũng là mâm cỗ to nhất, ngon nhất đầy đủ các món mà tôi được thấy trong cả một năm. Mẹ tôi bảo ngày mùng 1 Tết cúng tổ tiên món gì thì sang năm mới sẽ được phù hộ có cái đó.

Ngoài ra, nhà tôi còn có một tục lệ từ xưa để lại, đó là: cứ bất kỳ ai đến nhà ngày mùng 1 Tết đều mời ăn cỗ và đốt một bánh pháo để chào đón với ý nghĩa mong muốn cả năm đó gia đình tôi luôn vui vẻ và no đủ. Chính vì thế trong ngày này nhà tôi ít cũng phải làm từ 8 đến 10 mâm cỗ chuẩn bị sẵn. Bố mẹ tôi nói rằng đó là một nét đẹp từ ngàn xưa mà các cụ nhà tôi đã để lại với ý nghĩa muốn được chia sẻ niềm vui của một năm mới với tất cả mọi người. Bởi vậy công việc đó có làm cho bố mẹ tôi vất vả hơn, mệt nhọc hơn nhưng nó lại mang lại niềm vui, niềm tự hào hiện rõ trên khuôn mặt già nua của bố mẹ tôi mỗi khi bố tôi bưng mâm cỗ mời khách.

Và mỗi khi khách đến nhà phải thật vui vẻ, hồ hởi, mời thật chân tình, bởi nếu họ từ chối ăn cỗ nhà tôi thì nhà tôi sẽ bị "Rông cả năm". Với ý nghĩa đó nên trong ngày mùng 1 Tết mọi người trong làng tôi gặp nhau ai cũng vui vẻ hồ hởi và không quên dành cho nhau những lời chúc Tết chân thành. Những con người ấy ngày thường thì lam lũ chân quê, chạy ngược xuôi, bon chen để lo cho cuộc sống của mình, vậy mà hôm nay họ như những con người khác hẳn. Mọi người gần gũi nhau hơn, thân thiết với nhau hơn, họ dành cho nhau những lời chúc phát tài phát lộc.

Không chỉ riêng đám trẻ con chúng tôi mong đến ngày Tết để mặc quần áo đẹp mà ngay cả người lớn làng tôi cũng không quên diện những bộ trang phục đẹp nhất của mình để đi chúc Tết. Tình người quê tôi thật giản dị, đơn sơ nhưng hiền hòa chân thật. Họ cùng nhau ngồi quây quần bên mâm cỗ Tết, hương vị thơm lừng của món bánh chưng được làm từ gạo nếp và đậu xanh, cùng món cá kho gừng cay cay làm ấm lên không khí lạnh của ngày đầu năm.

Và mỗi khi trong làng tôi có tiếng pháo nổ ngày Tết, đám trẻ con quê tôi lại rủ nhau tìm đếm để có thể nhặt được những quả pháo còn sót lại rồi chụm đầu châm lửa đốt. Và trong túi quần, túi áo của chúng tôi dày lên những đồng tiền mừng tuổi của ông bà, các bác, các cô mỗi khi theo bố mẹ đi chúc Tết họ hàng nội ngoại.

Bước sang đến ngày mùng 2 và mùng 3 không khí Tết quê tôi rộn ràng hơn cùng các trò chơi như đẩy đu hay kéo co và vui nhất là cuộc thi hát dân ca. Không phân biệt tuổi tác hay nam nữ, tất cả người dân quê tôi đều tham gia trổ tài giọng hát của mình. Không còn sự e thẹn hay ngượng ngùng mà cứ như thế những làn điệu dân ca được cất lên thật sâu lắng, mượt mà.

Rồi không khí Tết cũng qua đi, mọi người ngỡ ngàng như muốn Tết dài thêm nữa, nhưng họ hiểu rằng một cuộc mới lại bắt đầu với những lo toan thường nhật nhưng của một năm mới mà họ tin rằng sẽ may mắn hơn năm cũ. Đám trẻ con chúng tôi thì nuối tiếc chỉ mong Tết lâu hơn để được vui chơi. Những bộ quần áo đẹp lại được giặt sạch và là cho phẳng phiu rồi cất vào tủ chỉ khi nào có lễ hội hay một sự kiện quan trọng đặc biệt thì họ mới đem ra mặc lại.

Đám trẻ con quê tôi cũng vậy, như hiểu được đó là một nét riêng của phong tục Tết quê mình, sau ngày Tết cũng chẳng có đứa nào còn được diện quần áo mới hay đi đôi dép mới. Chỉ có một vài nhà giàu thì con cái họ sau những ngày Tết vẫn được mặc quần áo mới mà thôi. Những chiếc áo cũ, những cái quần vá mông của đám trẻ con quê tôi lại được đem ra trưng diện với đôi chân trần chạy đất.

Những phong tục của ngày Tết ấy giờ thì xa lắm rồi, chỉ xuất hiện trong mỗi ký ức người dân quê tôi mà thôi. Quê tôi giờ đổi mới khang trang lên rất nhiều. Những hàng rào cây quanh nhà bây giờ là tường gạch, đường xóm quê tôi đã đổ bêtông vào tận cổng. Tết đến dăm ba nhà chung nhau thịt một lợn, hay mua vài ba kg cá chứ không còn cảnh người dân mang thúng xếp hàng đứng đợi chia theo phần nhân khẩu của nhà mình.

Những tiếng pháo trong đêm giao thừa không còn nữa mà thanh niên quê tôi lại rủ nhau đi hái lộc đầu năm (Vì cuộc sống làng tôi đã thay đổi lắm, tục hái lộc được thanh niên du nhập về làng từ bao giờ tôi cũng không hay). Họ thi nhau đi hái lộc là những cành cây nhỏ quanh làng, đôi khi họ không chỉ hái mà chặt cả cây đang mơn mởn chồi non của đất trời đem về làm lộc riêng của nhà mình. Những đồng tiền mừng tuổi không còn được trân trọng đưa bằng hai tay cho nhau mà nó được giấu trong một gói giấy màu đỏ nho nhỏ mà giờ đây họ gọi đó là bao lì xì…

Giờ đây mỗi độ Tết về trong lòng tôi có một cảm giác buồn vu vơ. Bởi tôi nhớ về cảm giác được mặc áo mới trong ngày đầu năm, nhớ tiếng pháo nổ rộn rã lòng người đã chìm vào quên lãng. Những phong tục của Tết quê xưa giờ đã

Ký Ức Tuổi Thơ

Phan Quang Thi

Tôi sinh ra vào thời gian hiệp định Paris được ký kết, tức khoảng đầu năm 1973. Ba tôi sau này hay nói: “Cứ tưởng sinh ra con là đất nước không còn chiến tranh nữa…”. Câu nói thường hay bị bỏ lửng giữa chừng, có lẽ vì cái hy vọng hòa bình của ba tôi đã chẳng bao giờ được như ông mong muốn.

30 tháng 4, 1975, Sài Gòn mất vào tay Cộng Sản. Tôi còn quá nhỏ nên không nhớ được sự kiện này. Tôi không nhớ được đã có hàng đoàn xe tăng mang cờ Việt Cộng chạy ngang qua đầu con hẻm nhà tôi. Tôi không nhớ đã có những anh chị du kích, tay mang băng đỏ, cầm súng AK đi từng nhà kêu gọi bà con ra đường đón mừng quân giải phóng. Tôi càng không nhớ được đã có một trái đạn pháo rơi xuống con rạch nhỏ ngay phía sau nhà, giết chết một số người trong xóm “nhà sàn”. Do đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975 đối với tôi cũng như bao ngày khác, nó không có một ý nghĩa đặc biệt gì, như nó chưa từng hiện hữu…Duy chỉ có những hệ quả của nó đã theo đuổi gia đình tôi, và nhiều gia đình khác nữa, như một bóng ma trong suốt thời gian sống trong chế độ Cộng Sản.

Sự kiện đầu tiên mà tôi nhớ được là lần gia đình tôi bị chia đôi: Má tôi, chị tôi 7 tuổi, tôi 3 tuổi, và em gái tôi 6 tháng bị đưa đi “vùng kinh tế mới”. Ba và 3 anh lớn, tuổi từ 9 tới 16 ở lại Sài Gòn. Sau này có lần tôi hỏi tại sao lại để đàn bà con nít đi tới nơi rừng thiêng nước độc, còn đàn ông con trai lại ở thành phố, Ba tôi trả lời :

”Lúc đó ba đang làm cho Xí Nghiệp In Tập Thể Thanh Niên, một hình thức đoái công chuộc tội theo lời ông chủ tịch phường. Tuy nhiên lại có lịnh đi kinh tế mới. Nhà in không đồng ý cho ba đi vì ba đang huấn luyện một số người về kỹ thuật in ấn và báo chí. Chính quyền cho ba ở lại Sài Gòn, nhưng phần còn lại của gia đình phải đi. Sau khi bàn với má, ba xin cho các anh con ở lại để đi học, để má và các con nhỏ đi vì đàn bà con nít dễ được cho phép trở lại Sài Gòn hơn.” Thế là gia đình tôi ly tán.

Đầu năm 1976, bốn mẹ con đùm túm lên xe. Sau nửa ngày xe đò, 1 giờ xe lam, rồi 2 giờ xe trâu, chúng tôi được bỏ xuống một bãi đất trống cạnh con đường mòn. Theo như lời má nói, nơi này thuộc quận Võ Đắc, tỉnh Bình Tuy.

Chung quanh mảnh đất cỏ tranh mọc cao ngập đầu. Bên kia con đường mòn là một giếng nước cỏ cây um tùm bao quanh. Trời chập choạng tối.

Má tôi chỉ kịp lấy từ trong hành lý vài gói cơm sấy, tàn dư Mỹ Ngụy còn sót lại, cho vào tí nước mang theo rồi bốn mẹ con ngồi quay quần bên ngọn đèn bão hiu hắt ăn uống ngon lành ngay giữa nơi đồng không hiu quạnh.

Tối hôm đó mẹ con tôi lần đầu tiên trong đời biết được ý nghĩa của câu “màn trời chiếu đất”.

Hai tấm nylon, một trải dưới đất, một giăng trên nóc mùng để tránh sương, bốn tấm thân mệt nhoài ôm nhau cố dỗ giấc ngủ chập chờn qua đêm trong tiếng gió rít và tiếng côn trùng kêu ray rứt. Tội nghiệp đứa em gái tôi, chỉ mới sáu tháng tuổi đã phải chia xẽ nổi nhọc nhằn thời cuộc của gia đình, của đất nước. Em tôi không khóc nhiều. Em mệt lã không khóc được hay em thông cảm với hoàn cảnh ngặt nghèo mà nín lặng để mẹ được rảnh trí tìm lời giải đáp cho bài toán sinh tồn của bốn mạng người?

Mờ sáng hôm sau chúng tôi có khách. Khách là những người nông dân trong vùng, nghe có người từ thành phố lên lập nghiệp nên kéo nhau đến thăm. Họ tỏ vẻ chua xót khi biết mẹ con tôi ngủ đêm hôm qua trên cánh đồng trống. Ông Luật, người to lớn có râu quai nón, cùng vợ và anh con trai vạm vỡ giúp mang mớ hành lý lỉnh kỉnh về nhà ông. Ông mời mẹ con tôi ở lại nhà trong thời gian bà con hàng xóm giúp dựng căn nhà cho chúng tôi.

Nhà ông Luật thật lớn, nằm bên kia con đường mòn sau cái giếng hoang. Trước nhà có một hàng cây cao làm hàng rào. Hàng cây cành lá sum xuê che khuất nên từ con đường không nhìn thấy được căn nhà. Trong sân có mấy chiếc xe cộ, một chuồng trâu với một đàn trâu lớn nhỏ nhung nhúc. Ông Luật vô nam theo chính sách Dinh Điền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhờ chịu khó làm ăn nên ông có được cơ ngơi như vậy. Nghe đồn ông Luật đã ở đây mười mấy năm và là người giàu nhứt vùng này. Mọi người trong gia đình ông đều hiền lành dễ thương. Ông thường cho chị em tôi ăn đường phèn, những cục đường trắng trong, ngọt thanh lúc nào cũng có sẵn trong chiếc dĩa nhỏ trên cái bàn ông thường ngồi uống nước trà.

Về sau ông nhận ra được má tôi là người cùng quê, cùng làng ngoài miền trung. Có lần ông kể cho hai chị em tôi nghe là lúc còn thanh niên ông ở coi nhà và cày ruộng cho ông ngoại tôi. Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Ông Cố tôi đem về nuôi giúp việc trong nhà và cưới vợ cho. Mổi lần tới mùa gặt, ông thường dắt ngựa chở má hay mấy dì tôi đi coi gặt. Một lần ông nói mà tôi vẩn còn nhớ tới bây giờ: ” Ông không ngờ gặp lại má con trong tình cảnh như vầy.

Ông Xã Triều (ông ngoại tôi) hiền lành đạo đức lắm, vậy mà vẫn bị người ta bắt vô núi giết.” Sau này lớn lên tôi mới biết “người ta” đó là ai.

Từ lúc đó, tôi không nghe ông kêu má tôi là “cháu Hưng” nữa, mà ông đổi lại, kêu bằng “cô Sáu”. Một lần khác khi có Ba tôi lên từ Sài Gòn, ông sang nhà chơi và sai cô con dâu coi dùm em tôi để ba má tôi có chút thì giờ trò chuyện. Cô con dâu hát ru:

Chim quyên xuống đất ăn trùn

Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than!

Đốt than thì phải sàng than,

Làm sao đừng để lấm gan anh hùng.

Ông Luật mắng cô con dâu ngay tại chổ, cấm cô không được hát mấy câu này khi có ba hoặc má tôi ở gần. Có lẽ ông sợ ba má tôi buồn. Buồn thật đó, nhưng ba má tôi làm sao buồn bằng bao nhiêu người khác, những người vợ mất chồng, con mất cha, những bà mẹ già đầu mang khăn tang vì có con trai đi chinh chiến không về? Dù sao đi nửa thì gia đình tôi vẫn còn nguyên vẹn. Chúng tôi còn đòi hỏi gì hơn trong hoàn cảnh đất nước tang thương như thế này?

Căn nhà của mẹ con tôi được dựng lên thật nhanh, hình như chỉ trong 2 hay 3 ngày. Những tấm tôn được xe trâu chở tới từ một trại lính cũ gần đó. Vách nhà đắp bằng đất lấy từ các gò mối. Căn nhà vuông vức, nền đất, một cánh cửa ra vào bằng gỗ, vài ba cửa sổ có cánh bện bằng lá tranh khô. Vài tuần sau, những người hàng xóm tốt bụng đào cho một cái giếng bên hông nhà. Nhờ cái giếng này mà má tôi không phải cong lưng gánh nước từ nhà ông Luật về mổi ngày. Lúc đầu, ông Luật sai người nhà gánh dùm, nhưng sau đó Má tôi từ chối và tự mình gánh nước lấy.

Lúc căn nhà mới dựng xong, đêm đêm thường nghe tiếng động như có ai chọi đá trên mái tôn. Nghĩ là có người quậy phá, má tôi hay cầm đèn dầu ra ngoài dòm ngó. Sau đó có người cho biết rằng chổ nhà tôi lúc trước có giao tranh rất lớn giữa lính Quốc Gia và lính Cộng Sản, có đâu tới mấy trăm người chết. Phải chăng oan hồn những người lính đó không thích sự hiện diện của căn nhà trên nấm mồ chung của họ? Tôi thấy má tôi lập một bàn thờ nhỏ sau nhà, lúc nào cũng có ít trái cây

hay nải chuối. Từ đó chúng tôi không còn nghe tiếng động trên mái tôn nữa.

Những người dân quê chất phát nơi đây có tấm lòng vô cùng nhân hậu. Họ giúp đỡ gia đình tôi thật nhiều trong suốt thời gian mẹ con tôi ở Võ Đắc. Ba má tôi rất cảm động. Để cảm ơn họ, mổi lần từ Sài Gòn lên, ba tôi hay đem cá Linh khô phân phát cho mổi gia đình một ít. Ngoài ra, ông còn đem thùng đồ nghề kềm búa, tới trại lính cũ tháo kẽm gai về làm hàng rào cho họ.

Từ khi đám cỏ tranh bị dẹp sạch để làm nhà, tôi phát hiện ra thêm một nhà hàng xóm. Không xa nhà tôi mấy, bên kia đám cỏ tranh là nhà dì Mười. Dì Mười có chồng đi lính Quốc Gia chết. Dì có 8 người con trai, không có con gái. Từ khi biết dì, tôi chỉ thấy dì toàn mặc đồ đen. Anh Thức, con trai lớn của dì 16 tuổi. Anh cao ốm trắng trẻo như học sinh thành phố. Anh thường cho chị em tôi ngồi ké xe cộ mổi khi anh đi kéo xe đâu đó về. Anh Lập, con trai út, hay dụ tôi leo lên xe cộ ngồi chơi rồi kêu chó ra sủa dưới chân. Tôi sợ lắm. Mổi lần như vậy, anh bắt tôi phải ăn mấy trứng thằn lằn rồi mới chịu đuổi chó đi cho tôi xuống. Có lẽ nhờ ăn trứng thằn lằn mà tôi khoẻ mạnh vô cùng. Má tôi nhớ lại là trong thời gian ở đó tôi không hề bịnh và thịt da chắc nịch mặc dù chỉ ăn cơm với cá Linh khô và rau lang luộc.

Chiều chiều chị tôi và tôi hay qua nhà ông Luật chơi với chị Thắm, cháu nội ông Luật. Chị Thắm cỡ 6-7 tuổi và có lẽ là đứa con gái điệu nhứt trên đời. Chị Thắm hay bắt chị tôi thắt bím và hái bông gài lên tóc cho chị, rồi đi khắp nhà khoe là chị đẹp hơn chị tôi! Một lần từ nhà ông Luật về, tôi vấp phải một cái sọ người. Hai chị em sợ quá vừa chạy vừa khóc. Từ đó chúng tôi không dám qua nhà ông Luật chơi nữa. Chị Thắm chắc buồn lắm vì không có ai để so sánh sắc đẹp. Thỉnh thoảng chị chạy qua nhà tôi, nhưng không dám khoe với má tôi là chị đẹp hơn chị tôi.

Tôi bắt đầu mon men qua nhà dì Mười vì không còn chổ để đi. Các anh con dì không có vẻ gì là thích chơi với thằng con nít 4 tuổi như tôi. Tôi sợ nhứt là mấy con chó nhà dì. Sau một lần bị chó cắn vào bắp chân, tôi không qua đó nữa. Tôi về nhà chơi với con thỏ bằng nhựa màu đỏ mà ba tôi đem lên trong một lần lên thăm. Chiếc ghế bố trở thành xe cộ, con thỏ nhựa trở thành con trâu kéo. Có khi con thỏ nhỏ được lên chức làm voi trận, còn tôi thì làm Tướng Quân Trần Hưng Đạo như trong câu chuyện anh tôi thường hay kể cùng với bài hát “Đây Bạch Đằng giang sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng…”

Má tôi được chính quyền giao cho một miếng đất ruộng để trồng lúa. Nhà không đàn ông, không trâu cày, còn má tôi dù là con địa chủ nhưng chưa bao giờ đụng tay tới việc đồng áng nên không biết sẽ làm gì với miếng đất đó. May thay, nhờ một lần băng bó dùm vết thương cho bác nông dân đạp phải mảnh bom lúc cày ruộng với túi cứu thương đem theo từ Sài Gòn, má tôi được cử làm y tá bất đắc dĩ cho cả xã. Nhận thêm công tác dạy học cho trẻ con trong vùng, gia đình tôi hoàn toàn không phải cày cấy gì. Những người trong vùng thay nhau canh tác dùm trên miếng đất, cày cấy, đập gặt rồi chở gạo thẳng về nhà cho chúng tôi khi tới mùa.

Sống trong sự đùm bọc yêu thương của người dân Võ Đắc gần một năm thì mẹ con tôi nhận được giấy cho phép trở lại Sài Gòn. Chúng tôi được về không phải như ba tôi tính trước là đàn bà con gái dễ được cho về.

Lý do họ cho má tôi về Sài Gòn là để lo cho đám con sau khi chính quyền bắt ba tôi bỏ tù. Không ai biết tại sao ba tôi bị bắt. Có người nói ông bị gán tội làm CIA vì khi xét nhà họ tìm thấy nhiều sách báo, giấy tờ bằng ngoại ngữ cùng chiếc radio giống điện đài. Người khác thì cho rằng sau khi đã dùng ba tôi để huấn luyện xong số người ở nhà máy in, họ không cần ông nữa nên bắt ông bỏ tù vì tội làm phụ tá Bộ Trưởng Thông Tin trước kia. Vì lý do gì đi nữa, tôi chỉ biết rằng trong mấy năm sau đó tôi không được gặp ba tôi nữa.

Buổi chia tay vói người dân Võ Đắc thật xúc động. Ông bà Luật gởi cho mấy con gà cùng một bao gạo lớn. Dì Mười kho cho một nồi thịt heo. Người cho chồng bánh tráng, kẻ tặng gói khô nai. Chị Thắm ôm chị tôi khóc nức nở. Anh Lập con dì Mười cho tôi chiếc lồng có con chim sáo. Tất cả đồ đạc, tài sản của mẹ con tôi chất đầy chiếc xe trâu do anh Thức đánh ra tận bến xe lam. Ông chủ tịch xã mua lại cái nhà. Khi giao tiền ông còn dặn dò: “ Chị cầm tiền về lo cho các cháu. Nhớ khuyên chồng chị học tập tốt Đảng và Nhà Nước sẽ khoan hồng…”.

Thời gian đầu trở lại Sài Gòn, má tôi thật sự không biết làm gì để nuôi con. Cũng may nhờ có mấy bao gạo ân tình đem về từ Võ Đắc, má tôi đổ ra thúng để trước nhà bán lấy tiền mua thức ăn. Một đồng nghiệp cũ của Ba tôi là bác Thùy nhà bán quán ở đầu ngõ thỉnh thoảng vào thăm, lúc đem theo chai nước mắm, khi đem tặng bó rau. Anh hai tôi, thay vì giúp đỡ má lo cho các em, lại đi theo đám du kích, cũng tay đeo băng đỏ, tay cầm AK dọa nạt kẻ thất thế. Chắc anh quên rằng chính gia đình mình cũng là kẻ thất thế, hay anh cố tình chạy trốn sự thật? Đây là điều ô nhục lớn nhất trong gia đình tôi. Cũng vì đó mà khi cải tạo về có một thời gian thật lâu Ba tôi không thèm nhìn mặt anh hai.

Cũng vào khoảng thời gian này có nhiều câu ca dao mới được truyền miệng trong giới bình dân. Câu được nghe nhiều nhất là:

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa

Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau

Ăn cơm thì ăn với rau

Đừng ăn thịt cá mà đau dạ dày

Má tôi chưa tới nổi phải bán nhà,

nhưng phải bán một số quần áo để có tiền xoay xở. Cơm cũng không có mà ăn vì hợp tác xã chỉ bán mì vắt hoặc khoai mì khô. Lâu lâu lại bán bánh mì ổ dài cả thước, cứng như cái ống nước phải hấp lên mới ăn được

.

Rau muống được ăn triền miên, thỉnh thoảng trong giấc mơ chúng tôi được ăn thêm thịt cá.

Tôi rất khâm phục má tôi là dù khó khăn tới mức nào đi nữa bà vẫn bắt anh em tôi đi học. Anh ba tôi đã có lần xin má cho nghỉ học đi bán cà rem ở cổng trường, bị má la cho một trận tơi bời. La xong má quay mặt đi, nước mắt chảy dài.

Còn một ít thuốc Tây trong tủ thuốc gia đình, má tôi đem thử ra lề đường chợ Bà Chiểu đứng bán. Không ngờ đó là món hàng quý hiếm vì nhiều người tìm mua để gởi cho thân nhân trong các trại cải tạo. Cũng nơi lề đường chợ Bà Chiểu má tôi gặp lại nhiều người bạn cũ. Dì Thanh cung cấp thuốc Tây cho má tôi đứng bán. Từ khi có Dì Thanh giao thuốc cho má tôi bán, cuộc sống gia đình có phần dễ thở hơn. Trong vòng 1 năm, má tôi sắm được cái tủ lạnh để anh em tôi ở nhà bán nước đá. Má cũng sắm được vài cây vàng để dành sau này cho mấy anh tôi đi vượt biên.

“Nghề” bán thuốc Tây của má tôi chấm dứt khi bà bị công an bắt vì đây là hàng quốc cấm. Không chịu khai ai là người cung cấp thuốc, bà bị nhốt ở đồn công an quận Bình Thạnh hết mấy ngày vì tội ngoan cố. Nhờ có bà Út bồng em gái tôi lên đồn công an năng nỉ họ thả má tôi về để nuôi con nhỏ nên má tôi được tha, nhưng toàn bộ số thuốc bị tịch thu. Bà Út là cô ruột của má tôi. Bà có chồng là dân biểu thời Việt Nam Cộng Hòa, có hai con và làm chủ một tiệm may nổi tiếng ở Sài Gòn. Chồng con bà chết vì tai nạn xe cộ trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975.

Nhà và tiệm may bị tịch thu không lâu sau khi quân giải phóng vào.

Bà sống ở đâu không ai biết, chỉ biết là bà luôn xuất hiện khi má tôi gặp cảnh khó khăn nhất để giúp đỡ. Bà là thần hộ mệnh của má tôi. Anh em chúng tôi thương bà lắm. Hiện nay má tôi là người hàng tháng gởi tiền về Việt

Nam để mướn người chăm sóc cho bà.

Một ngạc nhiên lớn xảy ra cho gia đình: ba tôi được tha về. Tôi không nhớ là ba tôi được tha vào năm nào, nhưng lý do được tha thì rất rõ ràng. Nhà máy in bị hư máy, bao nhiêu thợ cũng không sửa được. Họ liền nghĩ tới ba tôi, người đã giúp làm cho nhà máy in hoạt động trở lại mấy năm về trước.

Ba tôi lại tiếp tục làm cho nhà máy in. Hàng ngày ông đạp chiếc xe sườn ngang màu đen, phía trước và sau đều có cột cái poọc-ba-ga, sáng đi chiều về. Mổi chiều đi làm về ba tôi thường cho tôi ngồi yên sau, em gái tôi ngồi yên trước rồi chở anh em tôi chạy một vòng trong xóm.

Bên cạnh nhà tôi là nhà dì Bảy con ông Mười. Dì Bảy có chồng đi lính chết, có hai đứa con là thằng Cu và con Bé. Nhà dì Bảy nghèo như không thể nào nghèo hơn. Tôi ít khi thấy dì ở nhà.

Thằng Cu bằng tuổi tôi, còn con Bé bằng tuổi em tôi, nhưng vì đói ăn triền miên nên tụi nó bé tí teo. Tôi nhớ thằng Cu thường hay đứng dòm miệng người khác ăn. Khi tôi ăn chuối nó thường đứng đợi tôi ăn xong để xin cái vỏ. Nó ăn cái vỏ chuối ngon lành như người ta ăn sơn hào hải vị. Tôi ân hận vì đã chưa bao giờ chia cho nó trái chuối đang ăn, chỉ dù một miếng nhỏ.

Ông Mười tối ngày say sưa và chưởi rủa um sùm. Ông chưởi ai tôi không biết, chỉ biết có lần một đám công an tràn vô nhà khi ông đang chưởi, đánh cho ông một trận thừa sống thiếu chết. Họ bịt miệng rồi trói ông đem ra đường phơi nắng.

Má tôi sang được một sạp bán chạp phô trong chợ Bà Chiểu. Vì không đủ tiền sang nguyên sạp nên phải chia đôi một sạp lớn với bà người Tàu. Bà này không biết nói tiếng Việt nhiều. Tôi chỉ nghe bà “Nị, Ngộ” suốt ngày, ngoài ra không hiểu gì khác. Bà bán hàng không bao giờ bớt giá, còn má tôi hay bớt chút ít nên có nhiều khách hơn bà. Hình như bà không ưa má tôi lắm.

Nhà còn chiếc xe Honda Dame cũng có gắn cái yên nhỏ đằng trước cho em tôi ngồi. Lâu lâu vào cuối tuần, ba chở má, tôi, và em tôi đi thăm bà con. Đôi khi ba chở anh em tôi ra sạp hàng của má, ghé hàng ăn cho ăn tô bún bò rồi chở về. Đây có lẽ là thời gian hạnh phúc nhất trong những năm tuổi thơ của tôi.

Cuối năm 1979 nhà tôi dọn đi xóm khác. Ba tôi cho rằng dọn tới chổ mà không ai biết mình sẽ dễ sống hơn. Ba tôi lầm.

Đây là một xóm lao động nghèo, sâu trong một con hẻm có nhiều ngóc ngách. Hầu hết các gia đình trong xóm làm nghề buôn bán lặt vặt hay đạp xe ba gác, xích lô.

Khi dọn về, thấy nhà tôi có tivi, tủ lạnh, xe Honda nên ai cũng cho là nhà tôi giàu lắm. Ngày đầu tiên trong căn nhà mới chúng tôi lần lượt có khách tới thăm: ông tổ trưởng tổ dân phố, ông tổ phó an ninh, bà trưởng hội phụ nữ, cuối cùng là chú công an khu vực. Tôi không nghĩ là họ tới để chào mừng gia đình tôi. Họ tới để hỏi lý lịch ba má tôi, để cảnh cáo ba má tôi rằng mọi người trong xóm đều là tai mắt của nhà nước

nên đừng âm mưu làm chuyện gì mờ ám chống phá Cách Mạng.

Rồi anh hai tôi đi vượt biên bị bắt. Ba má tôi chạy chọt rất nhiều mới được tha về. Công an khu vực tới nhà dòm ngó hàng ngày. Anh ba tôi bị kêu đi nghĩa vụ quân sự nên ba má tôi tìm đường cho anh vượt biên mặc dù anh bị cha con ông tổ phó an ninh theo dỏi từng bước. Ngày đi chủ tàu còn 2 chổ. Ba tôi đi tìm anh hai tôi cả ngày không ra vì anh đi chơi đâu đó với bạn bè. Đành quyết định cho anh tư đi chung với anh ba. Vài ngày sau lại có chuyến vượt biên khác. Ba má sắp xếp cho anh hai dắt tôi đi.

Khi ra đến bến xe má tôi đổi ý dắt tôi về, để anh hai đi một mình. Chuyến đó tàu ra biển bị chìm. Hơn nửa số người trên tàu chết đuối. Anh hai lại bị bắt.

Rồi công an ập tới nhà bắt ba tôi đi. Lần này họ xét nhà, lấy đi hết mọi thứ từ vàng vòng, tivi, xe Honda… Họ đập bể các chậu bông tìm kiếm vàng bạc. Họ moi từng túi quần, túi áo tìm kiếm tiền. Họ rạch nát mấy tấm nệm giường, ngay cả bóp tiền má tôi cầm trên tay hớt hải từ chợ chạy về khi nghe tin công an xét nhà cũng bị họ lấy đi mất.

Nhà tôi trở lại chỉ còn 4 mẹ con như lúc trên Võ Đắc. Chỉ khác là những người hàng xóm bây giờ không có nhiều tình người, hay tính người, như người dân quê mà chúng tôi đã gặp.

Điển hình là ông tổ phó an ninh và bà hội trưởng hội phụ nữ. Hai người này thường xuyên rình rập nhà tôi. Bất cứ lúc nào nhà có khách thì y như rằng vài phút sau có công an khu vực xuất hiện. Cậu út tôi lúc đó là sinh viên Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. Mổi khi đạp xe về Sài Gòn cậu hay ghé nhà thăm má tôi, sẵn tiện uống ly nước đá rồi đi tiếp. Một lần cậu đang ngồi uống nước trong nhà thì ông tổ phó an ninh cùng anh con trai làm phường đội ập vô nhà, bắt cậu trình giấy tờ và hạch hỏi cậu tôi ghé nhà có mưu đồ gì. Còn bà hội trưởng phụ nữ rất nhiều lần cảnh cáo là nhà tôi có tủ lạnh, bán nước đá cho hàng xóm mà không đóng thuế!

Trong vòng không đầy một tháng mà có quá nhiều chuyện xãy ra cho gia đình tôi. Anh hai vượt biên bị bắt. Anh ba, anh tư ra đi chưa biết tin tức. Ba tôi bị bắt không biết đang bị giam giữ nơi nào. Cha con ông tổ phó an ninh thường xuyên tới nhà hỏi anh ba và anh tư tôi ở đâu, phải kêu về gấp để đi nghĩa vụ. Ban đêm nhà bị trộm rình. Mái nhà tự dưng bị dột. Khi mưa lớn, nước chảy từ mái nhà xuống sàn như thác đổ. Má tôi lại bị công an kêu lên kêu xuống nhiều lần để thẩm vấn. Mổi lần như vậy phải gởi sạp hàng cho người khác coi dùm. Tội cho tấm thân đàn bà yếu đuối bị khổ từ tâm tới xác. Tôi không hiểu làm sao mà Má tôi không phát điên lên trong hoàn cảnh như vậy.

Một ngày mùa hè, sở công an báo là đang giam Ba tôi ở số 4 Phan Đăng Lưu. Má lật đật tìm cách đi thăm nuôi. Sau khi xin được giấy, tìm tới nơi thì họ nói đã chuyển đi Chí Hòa. Chạy tới Chí Hòa, họ lại bảo đã chuyển đi trại Đồng Phú, Sông Bé. Nóng lòng muốn thăm chồng, má tôi đã nhờ dượng Bảy, chồng cô ruột tôi, sáng sớm chở bằng Honda lên trại Đồng Phú. Khi tới trại Đồng Phú 2, họ nói ba tôi ở Đồng Phú 1. Tìm tới Đồng Phú 1, họ lại nói ba tôi ở Đồng Phú 2. Trở lại Đồng Phú 2 thì hết giờ thăm nuôi. Má tôi biểu dượng Bảy chạy xe về rồi một mình ở lại qua đêm để hôm sau được thăm chồng. Hôm sau tới giờ thăm nuôi thì quản trại lại không cho gặp vì giấy phép thăm nuôi đã hết hạn! Mệt mỏi, uất hận tới tận cùng, khi về được tới nhà tối hôm đó má tôi chắc có lẽ đã ngã quỵ nếu không có tin hai anh tôi đã vượt biên đến được Thái Lan.

Không lâu sau hai anh tôi tới Mỹ. Vừa làm vừa học, các anh thường xuyên gởi tiền về nuôi gia đình. Những thùng đồ Mỹ như một phép lạ thay đổi cuộc sống gia đình tôi thật nhanh. Bọn trẻ con trong xóm được tôi phân phát kẹo Mỹ, nho khô nên không ghét chị em tôi như trước nữa. Ông tổ phó an ninh, bà hội trưởng hội phụ nữ thỉnh thoảng cũng được má tôi biếu ống kem đánh răng hay cục xà bông thơm do các anh gởi về. Chú công an khu vực thì phải biếu những món lớn hơn như hộp thuốc bổ hay sấp vải xoa. Một điều lạ là những khi nhà tôi nhận đồ Mỹ, chỉ trong vài tiếng đồng hồ là những người này xuất hiện “tới thăm chị và mấy cháu”.

Họ chẳng khác nào một đám ruồi nhặng nghe mùi tanh hôi mà ập đến. Tư cách con người sao quá rẻ mạt.

Mổi tháng một lần má dắt chị tôi hoặc tôi đi thăm nuôi ba và anh hai. Đường đi xa và lầy lội, mình mẩy ê ẩm vì phải ngồi trên sàn xe. Có khi xe bị lún sình, tất cả hành khách phải xuống lội sình đẩy xe lên. Có lần chiếc xe bị lật ngay giữa vũng sình, may là không ai bị thương nặng. Một buổi thăm nuôi thường chỉ dài một hai tiếng. Nơi đây tôi được ăn các món thịt rừng do ba tôi mua từ những cán bộ trại đi săn về bán lại. Thịt heo rừng nhiều nạc và mềm. Thịt nai càng nấu càng dai. Tôi không dám ăn thịt trăn, nhưng đem về hủ mỡ trăn làm thuốc xứt phỏng rất hữu hiệu.

Ba năm sau ba và anh hai tôi được tha về

. Ba không cho má tôi đi bán ngoài chợ nữa. Cuộc sống gia đình bắt đầu nhàn nhã hơn. Anh em tôi được đi học đàng hoàng. Chị tôi trở thành cô giáo. Tôi vừa học xong lớp 12 và đứa em gái đang học lóp 11 thì gia đình được ra đi đoàn tụ với hai anh bên Mỹ. Anh Hai tôi ở lại vì đã có vợ con, thừa hưởng căn nhà.

Vài điều nực cười là ông tổ phó an ninh có qua nhà, nhờ ba má tôi biểu hai anh ở Mỹ bảo lảnh dùm con trai của ông từ Tây Đức qua Mỹ. Đây là anh con trai làm phường đội lúc trước hay rình rập nhà tôi, đòi bắt hai anh tôi đi nghĩa vụ. Anh này đi “hợp tác lao động” qua Đông Đức, trốn qua Tây Đức nhưng không chứng minh được tư cách tỵ nạn và không có người bảo lãnh nên bị trả về Việt Nam. Còn bà hội trưởng hội phụ nữ dặn tới dặn lui là qua Mỹ nhớ kiếm dùm Việt Kiều về cưới hai cô con gái của bà.

Trước khi rời Việt Nam đi Mỹ năm đầu 1992, ba má tôi có ra Võ Đắc thăm lại các ân nhân cũ. Cảnh vật đổi thay, người xưa cũng không còn.

Ông Luật ngã bịnh chết vì quá uất ức khi chính quyền lấy hết trâu bò ruộng đất của ông đưa vào hợp tác xã. Vợ con ông dọn đi đâu không ai biết. Dì Mười đi làm ruộng đạp phải mìn bị nổ chết không toàn thây. Anh Thức và hai người em đi nghĩa vụ bên Campuchia không về. Các anh còn lại tản mát khắp nơi.

Ông chủ tịch xã bị mấy người từ ngoài Bắc vô thay thế. Nghe nói ông chán nản, dắt gia đình đi vượt biên chết mất xác ngoài biển Đông.

Tuổi thơ của tôi là như vậy đó. Nó chẳng khác một cơn ác mộng. Có khác chăng là cơn ác mộng không thể để lại những ký ức hằn sâu trong tâm trí một đứa trẻ con từ khi nó mới 3 tuổi.

Trong cơn ác mộng này tôi học được chính chủ nghĩa Cộng Sản đã gieo biết bao nhiêu tang thương cho gia đình, cho đồng bào, cho đất nước tôi.

Tôi học được sự khác nhau giữa cái tốt và cái xấu. Tôi học được giữa cảnh khốn cùng vẫn có những tấm lòng rộng mở. Tôi học phải biết thương yêu anh em, cha mẹ, thương yêu đồng loại. Tôi học được sự tráo trở của lòng dạ con người. Và có lẽ quý hơn hết, cơn ác mộng đã cho tôi bài học làm người.

Raleigh

RỞ VỀ KÍ ỨC VỚI ĐỌT NHÃN LỒNG

(AmThuc365.vn) - Chế biến món đọt nhãn lồng luộc rất gọn nhẹ, nhưng để món luộc hấp dẫn là cả một nghệ thuật. Ta cứ tưởng rằng đọt nhãn lồng khi hái vào, lựa những phần non rửa sạch, rồi cho vào nồi nước luộc là xong.

Chim quyên ăn trái nhãn lồng. Thia thia quen chậu vợ chồng quen hơi…”. Câu hát ru của má ngày xưa đã đưa tuổi thơ tôi vào giấc ngủ nồng say, và cho đến ngày hôm nay như vẫn còn vang vọng đâu đây mỗi khi tôi được nhìn thấy và thưởng thức món ăn dân dã, đong đầy ký ức, đó là: đọt nhãn lồng.

Đối với những người sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long chắc hẳn không ai không biết đến hương vị ngọt thơm, thanh mát của đọt nhãn lồng (còn có tên gọi là: lạc tiên, lồng đèn, chùm bao…). Đây là loại dây leo thường mọc nơi các bờ bụi, bãi hoang. Thân cây mềm, có nhiều lông, lá hình trái tim, mép lá có lông mịn, nơi nách lá có tua cuốn hình lò xo bám vào các thân cây khác để phát triển. Hoa ra vào tháng 4 – 5, quả vào tháng 5 -7. Quả nhãn lồng có hình tròn cỡ đầu ngón tay cái, chín có màu vàng cam (đến đỏ nhạt), hạt màu đen phủ bên ngoài một lớp cơm trắng nhờn (giống như hột é ngâm nước), vị chua ngọt, trẻ con rất ưa thích. 

Nhắc đến đọt nhãn lồng, tôi còn nhớ lúc còn nhỏ ở dưới quê, đôi khi má sai tôi ra sau vườn hái đọt nhãn lồng về chế biến món ăn. Tôi vô cùng thích thú vì sẵn dịp đó được hái những trái nhãn lồng chín để ăn. Nhìn những trái nhãn lồng chín vàng được bao phủ bên ngoài bởi màng lưới trắng xinh, nõn nà, tôi vội giơ tay hái và bóc nhẹ lớp vỏ mỏng mềm bên ngoài đưa lên miệng nhai ngon lành. Vị chua chua, ngọt ngọt và mùi thơm thoảng đặc trưng của trái nhãn lồng thật hấp dẫn!

Theo y học dân gian, lá, đọt và dây nhãn lồng là thuốc an thần, chữa trị chứng mất ngủ, và  khi phối hợp với những vị thuốc khác chữa trị được các bệnh như: kiết lỵ, thần kinh suy nhược, viêm da, mụn mũ, ghẽ ngứa.… Ngoài là vị thuốc,  đọt nhãn lồng còn là thức ăn dân dã được các bà nội trợ miệt vườn ưa chuộng để chế biến món ăn ngon, nhưng ấn tượng nhất trong tôi vẫn là: đọt nhãn lồng luộc và nấu canh tép.

Chế biến món đọt nhãn lồng luộc rất gọn nhẹ, nhưng để món luộc hấp dẫn là cả một nghệ thuật. Ta cứ tưởng rằng đọt nhãn lồng khi hái vào, lựa những phần non rửa sạch, rồi cho vào nồi nước luộc là xong. Nhưng để đọt nhãn lồng luộc có màu xanh bắt mắt, ăn không dai cần có một bí quyết nhỏ khác là: nước luộc phải có ít muối và nấu thật sôi, sau đó mới thả đọt nhãn lồng vào. Đợi đọt nhãn lồng chín (khoảng 10 phút), vớt ra ngay cho vào thau nước lạnh. Cuối cùng, đổ ra rổ cho ráo, và xếp ra dĩa. Món này chấm với nước cá chiên hay thịt kho rất ngon.

Riêng món canh đọt nhãn lồng nấu tép bạc đất thật tuyệt vời và trong ký ức tôi đến nay vẫn còn nhớ rõ vị ngọt và mùi thơm của nó lẩn khuất đâu đây. Trước hết, tép bạc đất má mua ở chợ lựa tép còn nhảy tanh tách, đem về cắt đầu đuôi, lột vỏ rửa sạch, để ráo. Tiếp đến, má lặt những đọt non, lá non nhãn lồng rửa sạch, để ra rổ cho ráo, và bắc nồi nước lên bếp nấu sôi, bỏ tép đã làm sạch vào. Nêm nếm gia vị (bột nêm + muối) cho vừa khẩu vị. Chờ nước sôi bùng lên, thả đọt nhãn lồng vào (khoảng 10 phút). Sau cùng, má dùng vá dìm những phần đọt nhãn lồng ngập trong nước sôi. Khi thấy đọt nhãn lồng chín, má nêm nếm gia vị lần cuối và nhắc xuống ngay. Thuận tay, má cho vào một ít hành lá xắt nhuyễn, rót một dĩa nước mắm hòn nguyên chất, trong có vàì trái ớt hiểm là xong.

Thật đầm ấm và hạnh phúc khi cả nhà quây quần bên mâm cơm đạm bạc đã được dọn lên, trong đó có tô canh đọt nhãn lồng cùng dĩa thịt heo kho. Cầm đũa gắp một miếng thịt kho cho vào miệng nhai chậm rãi. Chan một muỗng canh cùng đọt nhãn lồng vào chén đưa lên miệng “lùa một hơi”.Vị ngọt của nước canh hòa quyện vị nhân nhẩn và mùi thơm đặc trưng của đọt nhãn lồng như đánh thức mọi giác quan khiến lòng tôi bâng khuâng luyến nhớ về vùng quê nghèo thân thương.

Ký ức Tết trên đảo Hoàng Sa

Chiều cuối năm, ông Phạm Khôi, 73 tuổi, trú đường Quang Trung (Hải Châu, TP Đà Nẵng) lại cẩn thận lấy ra tấm bản đồ phác họa quần đảo Hoàng Sa do ông tự tay vẽ bằng trí nhớ về quãng thời gian hơn 3 tháng làm lính địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam ra làm nhiệm vụ giữ đảo.

Lấy tay chỉ từng địa danh trên tấm bản đồ, ông Khôi bảo hình ảnh Hoàng Sa luôn thường trực trong tâm trí. Năm 2006 khi vấn đề Hoàng Sa được đặc biệt quan tâm trên nghị trường, nỗi nhớ Hoàng Sa đã thôi thúc ông vẽ tấm bản đồ phác họa về hòn đảo này. Trong dịp UBND huyện đảo Hoàng Sa (TP Đà Nẵng) ra mắt “Kỷ yếu Hoàng Sa” mới đây, ông đã tặng một bản tấm bản đồ cho huyện đảo để có thêm tư liệu, chứng cứ về chủ quyền Hoàng Sa.

Ông Khôi kể lại: “Đúng ngày cúng ông Táo năm 1969, chúng tôi lên tàu và ngày hôm sau có mặt tại đảo. Trước khi ra, tôi và khoảng 30 người ghé Hội An (Quảng Nam) mua sắm đồ đạc, trong đó có hai thứ không thể thiếu là đường và sữa”.

Theo ông Khôi, khi ra đảo ngoài gạo mang từ đất liền ra, những người lính phải tự túc thức ăn bằng cách đánh cá ở những bãi san hô ven bờ. Ngày 30, không khí đón Tết rạo rực nhưng không được gói bánh chưng, bánh tét hay bó giò như ở đất liền. Một vài người lính trẻ đứng nhìn về phía đất liền, có người ngồi khóc tu tu như một đứa trẻ. Còn ông thì ngồi thu mình nơi bờ biển vắng nhớ người vợ trẻ đang mang thai tháng thứ sáu đứa con đầu lòng.

Đêm giao thừa, ông Khôi và những người lính nhắc nhau đi thắp nén hương cho ông bà tổ tiên. Một đống lửa nhỏ được nhóm lên giữa đảo rồi từng tốp lính trẻ ngồi quây quần hát nghêu ngao, xen lẫn lời chúc Tết mộc mạc của người lính.

Sáng mùng 1, ông Khôi tự thưởng cho mình một cốc sữa rồi rủ anh em đi bắt cá về làm cơm. “Tôm cá ở Hoàng Sa nhiều vô kể, tôi cùng mọi người bắt được mực dài cả một mét, phải hai người mới khiêng được chiến lợi phẩm từ bờ biển về trại lính ở. Trưa hôm đó, cả tiểu đội ăn một bữa no nê”, ông Khôi nhớ lại.

Với ông Trần Văn Sơn, 65 tuổi, phường Mỹ Khê (Sơn Trà, TP Đà Nẵng), Tết cổ truyền năm Sửu (1973) trên vùng biển trời Hoàng Sa lại gắn với biết bao kỷ niệm. Ông kể: “Chiều 30 Tết tôi nhận lệnh cùng 35 người lính khác ra đảo Hoàng Sa. Ăn vội bữa cơm ngày cuối năm trong đất liền, cả tiểu đội lên chiến hạm Trần Khánh Dư của Hải quân Việt Nam cộng hòa rẽ sóng ra khơi, nhằm thẳng hướng đảo”.

Trước khi đi, ai cũng được gia đình chuẩn bị đầy đủ bánh chưng, mứt Tết… Đi được nửa đường từ đất liền ra Hoàng Sa cũng là lúc đồng hồ đổ chuông báo hiệu thời khắc giao thừa. Ba tiếng đại bác của Hải quân được bắn lên trời mừng năm mới, cả tiểu đội chạy ùa lên mui thuyền hò hét, bao nhiêu bánh kẹo được bỏ lên một cái bàn để mọi người cùng nhau ăn cỗ.

“Lần đầu tiên đi đảo nên không biết ra đến nơi cực khổ, nguy hiểm thế nào nhưng cái cảm giác đón giao thừa ngay trên vùng trời, vùng biển của đất nước thấy thật thú vị”, ông Sơn hào hứng kể.

10h ngày mùng 1 Tết hạm đội cập đảo, anh em ai cũng háo hức đặt chân lên đảo. Hơn 30 binh lính đang làm nhiệm vụ canh giữ đảo ra đón, tay bắt mặt mừng vì sắp được trở về đất liền ăn Tết, cảm xúc mừng vui lẫn lộn. Bữa cơm đầu tiên trên đảo đạm bạc nhưng đầm ấm.

Sang ngày mùng 2, tiểu đội làm thịt một con heo để cúng đảo. Lấy đầu và đuôi heo làm lễ và phần lòng để ăn tiệc, còn thịt heo được chia cho 6 tổ dự trữ ăn dần trong thời gian 3 tháng làm nhiệm vụ. Tiệc tùng xong, từng tốp lính lại tụ tập đàn hát.

Ông Sơn tâm sự rằng khi chưa ra đến đảo, ông cứ tưởng tượng rằng Hoàng Sa cũng giống như bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng, có đá núi, cây cối mọc um tùm nhưng khi đến nơi ông mới té ngửa vì Hoàng Sa chỉ là một dải cát vàng giữa mênh mông sóng nước

Chỗ cao nhất của đảo cũng chỉ khoảng 5 m so với mực nước biển, nhưng có cái lạ là sóng biển không bao giờ tạt vào được bởi bị những dải san hô cản lại. Ngọn sóng có cao đến mấy nhưng khi xô bờ cũng bị chặn lại, tiếng sóng vỗ bờ êm đến lạ”, ông Sơn hồi tưởng.

Vốn là dân biển nên khi đặt chân lên đảo, ông Sơn và nhiều người lính không thể bỏ qua thú vui đi câu cá. Đợi khi nước to, cứ hai người một mang lưới ra bờ biển thả nhưng trước khi buông lưới phải dùng một cây gậy lớn đập mạnh xuống nước để xua đuổi cá mập.

Tối về lệ khệ mang theo những lưới đầy cá, ai cũng vui và vơi đi nỗi nhớ nhà. Màn đêm buông, ngoài những người lính làm nhiệm vụ ở bốn vọng gác, anh em lại quây quần chơi bài búng lỗ tai hoặc uống nước, tuyệt đối không ai được đánh bài ăn tiền. Và đó là những thú vui được anh em duy trì trong suốt những ngày giữ đảo.

Sau này, khi làm nghề trục vớt cứu hộ tàu thuyền ở đảo Phú Quốc (Kiên Giang), hay đảo Hòn Mê (Thanh Hóa)…, mỗi dịp Tết đến ông Sơn lại kể về những kỷ niệm Tết ở Hoàng Sa cho bạn bè cùng nghe.

Anh

Sơn tâm sự rằng ông thật không ngờ Tết năm 1973 là cái Tết cuối cùng của những người lính Hoàng Sa lúc bấy giờ. Mỗi lần nhắc lại chuyện cũ, ai cũng muốn một lần đặt chân lên hòn đảo xinh đẹp này, được câu cá, thả lưới, ngắm hoàng hôn trên lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.

Lạ miệng với món thịt heo hai đầu da ở Sài Thành

Nhà hàng Thủy Mộc tại TP.HCM chính là một trong những địa chỉ hiếm hoi mà những người yêu thích các món ăn miền Trung thường tìm đến. 

Chắc hẳn những ai đã từng đi du lịch hay công tác ở các tỉnh Miền Trung như Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Huế… sẽ không bỏ lỡ cơ hội để thưởng thức các món đặc sản như bùn bò Huế, tré, bánh bèo hay lạ miệng hơn nữa là món thịt heo hai đầu da… 

Với món thịt heo hai đầu da, nguyên liệu chế biến món này được lấy từ phần thịt ngon nhất, đắt nhất của con heo là thịt mông. Ước tính mỗi con heo chỉ có khoảng 5kg thịt mông có thể xắt lát thành miếng thịt hai đầu da như thế. Sau đó, thịt được luộc và dùng với mắm nêm cùng các loại rau dân giã, mang phong vị của đất và người Miền Trung.

Tại các thành phố lớn như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, ngày càng có nhiều nhà hàng, quán ăn đặc sản Miền Trung mọc lên, song rất ít quán giữ được đúng hương vị đặc trưng, nhất là với món thịt heo hai đầu da. Nhà hàng Thủy Mộc tại Thành phố Hồ Chí Minh chính là một trong những địa chỉ hiếm hoi mà những người yêu thích các món ăn miền Trung thường tìm đến.

Với cách bài trí giản đơn theo phong cách đúng như tên gọi của quán (gỗ và nước), thực khách vừa được thư giãn, lại vừa được thưởng thức các món đặc sản Miền Trung thuần chất.

Khác hẳn với nhiều quán ăn khác, thịt heo hai đầu da ở Thủy Mộc mới đúng là…hai đầu da, không bị tách nát. 

Để có được một đĩa thịt heo hai đầu da “chuẩn mực” thì thịt phải được xắt dọc thớ, thay vì xắt ngang. Thêm vào đó, bí quyết để có món thịt heo hai đầu da ngon miệng nằm ở cách luộc, lửa phải vừa vặn, thời gian phải canh cho đủ. Nếu chưa tới hoặc quá lửa thì miếng thịt sẽ bị khô, bã hoặc sẽ nhão và hai lớp da bị nát. 

Một yếu tố không kém phần quan trọng khác là nước chấm (mắm), điểm cốt tử của các món ăn Miền Trung. Miếng thịt ngon sẽ càng trở nên hấp dẫn nếu như được dùng với loại mắm phù hợp, qua bàn tay pha chế của người đầu bếp lành nghề.

Tại Thủy Mộc, món thịt heo hai đầu da được biến tấu dùng với mắm cá thay vì mắm nêm. Mắm cá có vị thanh cao mà vẫn đậm đà, thơm lừng lựng mà lại không lấn khuất mùi khó chịu sau khi dùng./. 

Nick Jensen, blogger người Australia đã chia sẻ những trải nghiệm khó quên của mình về những gì được chứng kiến trong các khu chợ Hà Nội.

Dưới đây là bài viết được anh đăng tải trên trang blog cá nhân của mình:

Thịt chó - đó chính là điều hãi hùng đầu tiên. Tôi đã thấy chúng vào ngày đầu tiên tại Hà Nội, trong một khu chợ thực phẩm mà người địa phương gọi là chợ Hàng Bè.

Tôi biết, thịt chó là món ăn tương đối phổ biến ở Việt Nam, Hàn Quốc, Philippines, Đông Timor, một số vùng của Trung Quốc và Thụy Sĩ. Tôi đã đón nhận việc mình sẽ nhìn thấy món ăn này tại Việt Nam, nhưng vẫn không khỏi bị sốc khi điều đó xảy ra. Và chắc chắn là tôi sẽ không nếm thử món này!

Ăn thịt chó là điều không thể chấp nhận được đối với đại đa số người phương Tây, trong đó có tôi. Nhưng rõ ràng tôi không có quyền gì để phê phán điều này, bởi mỗi một nền văn hóa lại có những điều cầm kỵ riêng và chúng ta cần phải có hiểu biết về điều đó.

Ký ức vụn vặt</b>

Mấy hôm nay muốn ngủ sớm mà chả hôm nào ngủ được. Cứ trằn trọc, lăn qua lăn lại. Thế là những hình ảnh ngày xưa lại ùa về, chan chứa. Người ta thường nói ký ức là tài sản quý giá nhất của con con người. Câu này chí phải!

Đối với tôi, không có khái niệm quê nội, quê ngoại. Đơn giản là vì nhà nội cách nhà ngoại tôi chỉ có một căn nhà. Tôi vẫn thường trêu ông tôi: "Ông, hồi trước ba má cháu rước dâu làm sao?". Ông tôi là một người gia trưởng, đứng đắn nhưng lúc nào cũng vui vẻ và vô cùng yêu thương con cháu. Ông cười khì: "Thì từ nhà cô dâu đi lùi lại tới bến đò, rồi từ bến đò đó mà rước lại". Từ nhỏ tôi đã quấn quýt với bà. Mỗi lần tôi nghịch bẩn, bà lại tắm rửa cho tôi. Cả cuộc đời tôi không bao giờ quên cách bà rửa tay cho tôi, rất lạ và không thể diễn tả được. Còn nhớ có lần tôi phải làm một bài văn, đề tài: "Miêu tả người em yêu thương nhất". Hình như tôi là người duy nhất trong lớp viết về bà ngoại.

Ngày xưa, khi còn chưa có điện, tối tối nhà ngoại lại quây quần bên bàn ăn. Trên đời này, tôi ghét nhất là ăn cá bởi tôi thấy nó tanh và nhiều xương. Mẹ biết nên ngày nào cũng kho riêng cho tôi một nồi thịt. Ăn thịt hoài không biết chán. Nói vậy thôi chứ có khi nhà tôi toàn là cá. Thế là tôi lại mò sang nhà ngoại. Thịt bà kho rất rất rất là ngon. Tôi hỏi thịt gì, ông trả lời tỉnh bơ: "thịt chuột". Hồi đó còn nhỏ, ngu nhốc lắm, tin sái cổ. Lớn lên thấy thịt chuột người ta làm mới biết là ông xạo!

2 dì của tôi cũng là những người đã chăm sóc tôi nhiều lắm. Dì Hường khéo tay nên mỗi lần có bài thủ công nào tôi lại nhờ dì làm. Dấu tích lớn nhất còn sót lại trên thân thể tôi đến giờ là cái ngôi tóc ngược của tôi. Thay vì bên trái như mọi người, ngôi của tôi lại nằm bên phải. Đơn giản là hai dì chải tóc cho tôi, thuận tay nên thay vì ngôi rẽ trái lại trở nên rẽ phải! Giờ, mỗi dì một nơi. Nhà ngoại trống vắng!

Ngày xưa, tối tối, mọi người lại trải chiếu ra sân ngồi. Bà cầm chiếc quạt nan, phe phẩy. Những cơn gió mát đưa tôi vào những giấc ngủ thật say. Ánh trăng sáng ngời. Lung linh, tuyệt diệu, bởi đó là thứ ánh sáng tinh khiết. Hồi đó chưa có điện. Càng lớn, hình ảnh đó càng ít đi và đến giờ có thể khẳng định một điều: nó đã bị tuyệt diệt. Người ta thích coi ti vi mỗi tối hơn là quây quần nói chuyện với nhau!

Ngày xưa, có những chuyện tôi không thể lý giải được. Mỗi lần tôi bị hóc xương, tưởng chết đi được, nuốt cơm hay ăn chuối cũng chả hết. Thế mà cứ qua nhà bà hàng xóm, chỉ cần bà nói, "Ừ, cháu về nhà đi, chốc nữa sẽ khỏi" là y như rằng, cái xương biến đi đâu mất tích! Người dân ở đây nói bà làm chuyện này được là do hồi đó bà đẻ ngược. Vài năm trước, về quê mới viết là bà mất rồi. Ký ức chỉ còn là ký ức!

Ngày xưa, bọn con nít dưới quê tôi khoái nhất là trò tắm sông và đu xà lan. Bất kể con trai hay con gái cũng đều biết bơi và chuyện biết bơi không có khái niệm "học". Nó đến một cách tự nhiên như việc biết nói, biết đi của con người vậy, vì: sau nhà tôi là một con sông! Hồi đó, cứ bơi qua sông, vào vườn trái cây của người ta hái trộm, có những lần bị rượt chạy tóe khói...

Ngày xưa, có những cánh diều được thả dưới ánh nắng chói chang, nhưng những cơn gió thì mát lắm. Cánh đồng lúa mới cắt xong, phủ một màu vàng của những ụ rơm, rạ, màu vàng của những con kênh, màu vàng của những ngày đầu hạ. Đẹp! Cánh diều bay thật cao, vun vút. Có những con diều có cả tiếng sáo vi vu. Đến đây, dẫu biết ai cũng rồi phải lớn, nhưng cứ làm trẻ con như thế không phải tốt hơn sao?

GIÒ MO CAU ƠI, THƯƠNG LẮM!

POSTED BY

ADMIN

ON FEB 01, 2012 |

LEAVE A COMMENT

Ngày bé, mỗi lần về quê, tôi chỉ trông ngóng được nhặt tàu cau rơi, hồ hởi đưa cho ngoại. Khi lá cau ngả vàng, tàu cau dần dần rơi khỏi thân, rồi ngày rơi bịch xuống sân vô tình làm giật mình chú mèo lười phơi nắng.

Cứ vào khoảng ngày  ông Táo chầu trời, ngoại lại cầm cây que rào có  đầu móc, lấy từng chiếc mo cau đó cắt gọt hai đầu gác lên mái bếp, rồi cọ cửa phơi cho ráo, chờ  ngày bó giò.

Đẹp như tranh

Chiếc mo cau cả năm trời nằm yên trên mái phủ đen bồ  hóng, đã ngả sang màu nâu sậm, và đong đầy mùi hương: Hương lá chuối khô dìu dịu, hương rơm rạ nồng nồng, hương lá mít ngai ngái ngoại quét sân ngõ, vun vào góc vườn phơi khô, mùi nước mưa ngọt ngọt bốc hơi từ những ấm nước ngoại đun…đã  thấm đủ vào chiếc mo cau khum khum như chiếc võng nhỏ.

Cách tết chừng ba bốn tháng, ngoại đã dấm sẵn một chú  lợn con, nuôi chờ ngày tết ngả thịt, đón con cháu nơi xa trở về.

Nia thịt lợn sờ tay còn ấm hôi hổi, cậu tôi nhanh tay pha thịt thành từng miếng chữ nhật, vừa đều tăm tắp. Thịt làm giò mo cau ngon nhất là chân giò. Chạnh long nghĩ lại tuổi ngây thơ, thắc mắc khi chỉ thấy một chiếc giò mo cau gói loại thịt  ấy. Hóa ra, ngoại để dành riêng cho chị em tôi. Những người ở nhà, chỉ ăn chiếc giò mo cau gói bằng thịt thủ.

Thịt pha xong cho vào chiếc nồi gang rộng lòng, ngoại cầm  đôi đũa tre dài, nhanh tay vừa đảo thịt, vừa nêm cho đủ gia vị mắm muối.

Thứ  mộc nhĩ bỏ vào loại giò xào này ngoại không mua ở chợ. Những thân cây mục xếp một góc vườn, qua một đợt mưa là chị em tôi tha hồ  mang rổ ra lấy, đem về cả chùm mộc nhĩ  để ngoại đặt phơi trên mặt bể nước mưa. Khi khô, ngoại đóng vào túi nylon buộc kín, chờ  ngày cuối năm.

Hạt  tiêu rang sẵn, xay nhỏ, ngoại bắc nồi thịt xào ra, rắc vào rồi đưa lên bếp lửa đảo lại. Nồi thịt xào ngoại đun bằng bếp rơm, thơm đến lạ. Tôi nhớ đến lúc ăn miếng thịt ngoại kho màu cánh gián, cứ xuýt xoa ngoại nấu ngon vì thịt có  mùi khói.

Nồi thịt xào bắc ra, màu đẹp như tranh: miếng thịt  đều, bì trong như thạch, mỡ trắng ngồn ngộn, nạc hồng phớt như cánh đào, sợi mộc nhĩ đen xắt nhỏ mịn, hạt tiêu lấm tấm như chấm mưa…

Cậu tôi nhanh tay xúc thịt vào chiếc mo cau trải sẵn.Dùng lạt buộc dọc thân mo thật chặt. chiếc giò bó xong đã nần nẫn, tròn đầy. Cậu bện hai sợi lạt vào nhau, buộc ở hai đầu mo cau được thắt như  chiếc kẹo làm dây xách.

Giò  khi ăn thái từng khoanh cả vỏ bọc, gỡ vỏ  mo cau rồi mới bày lên đĩa. Khối thịt bó chặt khi còn nóng, đã kết dính chặt vào nhau, đượm mùi mo cau cho dư vị khó tả.

Tôi  đã từng được thưởng thức loại giò xào gói trong lá chuối, trong túi nylon, hay trong khuôn giò bằng kim loại, nhưng không thứ nào sánh nổi với giò  mo cau mà ngoại tôi dày công chuẩn bị cả  năm trời.

Miếng giò ăn giòn sần sật, không bao giờ thấy ngán. Ra tới tận tháng giêng, khi đã chán mâm cao cỗ đầy, mẹ tôi cắt một khoanh giò mo cau đem ra xào với khoai tây, hay nấu món canh khoai lẫn su hào, cà rốt cũng đủ khiến cả nhà một bữa hao cơm.

Bóng ngoại vẫn  đầy

Ngoại  đã đi xa, nhưng cây cau duy nhất trong vườn nhà dì vẫn giữ. Và, trong những mùa trôi qua, cuối năm nhớ tới chiếc giò mo cau, vội vàng gọi điện hỏi dì: “Dì ơi, con thèm giò mo cau, nhưng năm nay, ngoại đi rồi, mo cau rụng ai lấy, ai phơi gác bếp”. Mắt cay xè, nghẹn ngào. Còn dì thì vỗ về như lòng mẹ: “Con yên tâm, rồi sẽ có cho con”.

Dì  tôi, người đàn bà luống tuổi không hề nghĩ  tới xây dựng một gia đình riêng cho mình ấy, vẫn lụi cụi nhặt từng tàu mo cau rụng, cắt gọt, dội rửa, phơi phóng rồi gác lên mái bếp phủ đầy bồ hóng, chỉ chờ tiếng cháu thao thiết hỏi han là  lòng như nhen nhóm một niềm vui vì được chăm sóc mọi người.

Thay bà, dì lại đón tôi nơi đầu ngõ, lại cho tôi đong đầy tình yêu thương từ mảnh đất trĩu nặng cây trái. Từ ngôi nhà cổ năm gian với những cột đá xanh khắc hàng câu đối, hàng cửa ra vào với những tấm gỗ lim to bản, đen thẫm theo thời gian để mỗi sáng mở ra đón nắng sớm, cánh cửa cọt kẹt như thức dậy cả một không gian yên bình. Từ chiếc lưng áo hằn rõ những vạch trắng mồ hôi đọng thành muối trên đường làng đầy nắng…

Nhẹ  nhàng thủ thỉ nhưng chất chứa nỗi niềm, dì  dặn tôi: “Mảnh đất này, ngôi nhà này, dì gắng giữ nguyên vẹn cho các con. Sau này, chị em con hãy giữ gìn nó, lấy nơi tìm về của con cháu, để nếp nhà theo thời gian vẫn còn mãi, để con của con, cháu chắt của con vẫn có hình ảnh một quê hương, của những thứ khó định hình như lòng yêu  “mùi ma chưng mắm”, yêu chiếc giò mo cau, yêu mảnh vườn mát lịm chỉ thích đi chân trần… con nhé!”

Thịt kho tiêu và rau muống thấu

Ngày 15 - 11 - 2011

Đôi khi nhớ đến quay quắt những món ăn thời thiếu thốn, tôi tất tả vào bếp cố tìm lại hương vị của những năm xưa. Nhưng không bao giờ bắt gặp.

Hương vị “xưa” nhất mà tôi có thể nhớ là món thịt heo kho tiêu đầu thập niên 1980. Hồi ấy, má tôi sinh đứa em út. Hai chị gái kế tôi hằng ngày thay phiên nhau nấu cơm và đem xuống nhà thương cho má. “Thực đơn bà đẻ” rất đơn giản, mỗi bữa chỉ có 2 món. Bữa nào cũng có món thịt nạc kho tiêu.

Thời thiếu thốn, mỗi ngày má chỉ được chừng nửa lạng thịt. Vì thế phải xắt không mỏng nhưng rất nhỏ, chỉ như cái đầu ngón tay út. Thời thiếu thốn, bột ngọt hầu như không có; đường, dầu mỡ rất hiếm. Thịt chỉ kho khô queo với nước mắm và hạt tiêu. Nhưng cái mùi của nó rất bắt mũi. Mỗi bữa nấu cơm xong, các chị tôi xúc cơm vào cà mèn, múc canh vào lon ri gô, gắp thịt vào cái chén đặt lên mặt cơm, rồi bỏ tất vào giỏ, xách xuống nhà thương.

Nhưng trước khi đi, các chị tôi bao giờ cũng tận hưởng “chiến lợi phẩm” đã. Đó là cái nồi kho thịt còn dính chút gia vị và mùi thịt. Chúng tôi múc những muỗng cơm nóng, bỏ vào nồi, trộn tứ tung cho những gì còn dính trong nồi bám vào cơm, rồi chia nhau xúc ăn. Ngon không chịu nổi.

Cũng những năm tháng ấy, nhà tôi có một món ăn khác, gọi là rau muống thấu. Rau muống bò mặt ao, mập núc ních, tia tía đỏ, một rổ to đùng, đem luộc chín, vớt ra cái rổ tre, để ráo nước. Rồi ớt, tỏi, muối hột giã nhuyễn, thêm nước cốt chanh, trộn đều. Bỏ rau luộc vào một cái nồi, tưới cái hỗn hợp gia vị kia lên mặt, trộn đều và bóp cho gia vị ngấm vào rau. Vậy thôi mà ngon bá cháy!

Năm tháng trôi qua, kinh tế khấm khá lên, thực phẩm dồi dào, món rau muống thấu trở nên ít gặp, còn bà đẻ cũng không chỉ ăn mỗi món thịt kho tiêu khô khan nữa. Nhưng ký ức về hai món ăn này thì chưa bao giờ mất đi trong tôi. Tôi còn nhớ rất rõ những lúc ngồi giã muối hột cho má thấu rau muống. Đôi khi nhớ đến mức không chịu nổi, tôi lao xuống bếp. Thịt heo, rau muống, chanh, ớt, nước mắm... có đủ. Nhưng cố bằng mấy thì “sản phẩm” vẫn cứ ngang ngang, vô duyên.

Có thể do thịt heo bây giờ không được chắc như ngày xưa; nước mắm nhiều hương liệu hóa học hơn là tinh túy cá; rau muống hột xơ cứng thay vì rau muống bò mặt ao mềm múp; ớt hiểm khác trái ớt sim bé xíu thơm tho...

Mà cũng biết đâu, hạnh phúc và sự ngon miệng có khi chỉ tìm thấy trong những bữa ăn đạm bạc mà ấm áp, sum họp gia đình.

Thời gian trôi nhanh thật!

Nhoáng một cái mà năm cũ đã sắp qua, năm mới sắp đến!

Nhoáng một cái mà mính đã trở thành thành viên QSVN được gần 1 năm!

Nhoáng một cái mà Những mảnh rời ký ức đã đi hết phần 2!

Nhoáng một cái thấy mình đã... già

Mà đã già thì hay hồi tưởng!

Những ngày này mình lại nhớ nhiều về cái Tết 1973- Tết đầu tiên ở chiến trường:

Tết Quý Sửu- 1973 là cái Tết thứ hai của tôi trong quân ngũ và là cái Tết đầu tiên trong chiến trường.

Tết năm Nhâm Tý- 1972 tôi đang huấn luyện lái xe ở VP. Cùng học lái xe với tôi có 6 thằng cùng huyện. Những ngày trước Tết là những ngày 6 thằng “hội ý” liên tục để cùng nhau thảo luận trả lời câu hỏi: “Tút hay không tút? Và nếu tút thì đi bằng đường nào cho an toàn?”. Kết quả biểu quyết thì đa số thuộc về phe “Tút”: tỷ lệ 4/2. Mặc dù vậy, mọi nội dung hội ý vẫn được giữ bí mật tuyệt đối và sau đó 4 thằng trốn về ăn Tết, chỉ có tôi và thằng Thu xã Văn An ở lại. Nhưng cũng khốn nạn, 4 thằng tút thì 2 thằng bị vệ binh về tận quê áp giải lên hôm 30 Tết.

Tết năm nay, đang ở giữa chiến trường rồi. Quân CL tôi vẫn có 5 tên: tôi và Đức lái xe, Ái, Thà, Ngà là lính thông tin trên d bộ. Xa xôi vậy, lại đã trưởng thành hơn nên chẳng thằng nào nghĩ đến chuyện “tút” về nhà ăn Tết nữa. Tuy nhiên, cũng như tất cả mọi người mỗi khi Tết đến, Xuân về lại phải ở xa nhà bao giờ chẳng man mác buồn. Nhất là những lúc đêm khuya, khi trong căn hầm lạnh lẽo chỉ có 2- 3 thằng nằm kể cho nhau nghe những câu chuyện về Tết ở quê mình. Nối nhớ gia đình, bố mẹ, người thân và quê hương hầu như chiếm trọn tâm hồn lũ lính trẻ chúng tôi trong những ngày giáp Tết.

Biết vậy nên các anh chỉ huy của bọn tôi cũng hết sức cố gắng để lo cho cái Tết được chu đáo, qua đó làm vơi đi nỗi nhớ nhà và vực dạy tinh thần cho bộ đội. Để chuẩn bị cho đêm đón giao thừa, bọn tôi phải làm 3 cái hội trường: 2 cái cho 2 b và 1 cái cho toàn c. Nói là hội trường cho oai chứ thực ra đó là một cái hầm thùng. Chỗ đó là chân đồi nên chúng tôi đào áp ngay vào sườn đồi, phía bên trong là ta- luy cao phải hơn 2 mét, phía bên ngoài nông hơn nhưng đắp đất lên đảm bảo ngập đầu người. Bên trên lợp tranh. Vách hầm thì lót bao gạo và tăng. Bên trong thì ken lồ ô làm một bàn dài ở giữa và hai dãy ghế băng hai bên. Cũng may, đại đội xe tăng ít người nên căn hầm cũng chỉ rộng độ hơn 20 m2 là đủ. Một đầu HT được trang trí bàn thờ Tổ Quốc, cũng đủ cả quốc kỳ, ảnh Bác và khẩu hiệu trông cũng ấm cúng ra phết.

Cúng nghĩ rằng giữa chiến trường thế này chắc có gì thì ăn nấy thôi, vả lại chịu đựng gian khổ cũng quen rồi nên về mặt vật chất bọn tôi cũng không quan tâm lắm. Chính trị viên phó Chu thì rất chịu khó đi săn nhưng không hiểu vì sao nai, hoẵng trốn sạch đi đâu ấy nên toàn về không

Đùng một cái thấy thông báo của đại đội về tiêu chuẩn Tết năm đó của bọn tôi được quân khu cấp như sau: tính theo đầu người, mỗi người được 3 lạng thịt, 1 kg lương khô, 2 điếu thuốc lá Điện Biên (sát Tết được tăng thêm 10 điếu), 10 cái kẹo Hải Châu (chảy nước gần hết, số này để dùng chung trong đón giao thừa của đại đội), 2 bánh chưng (cấp gạo nếp, đỗ, thịt), 2 lạng đường. Nói chung là “hẻo” nhưng ai cũng phấn khởi. Giữa chiến trường mà cấp trên lo cho bộ đội như thế là quý lắm rồi

. Vì hồi trước còn tích trữ được một ít TP nên tiểu đoàn quyết định xuất ra 50 kg muối và 50 kg gạo đi đổi một con lợn về để tăng cường cho anh em ăn Tết. Tuy nhiên, để đổi được cũng không đơn giản vì bà con Pa- Ko ở các bản gần đó cũng rất nghèo. Muốn đổi được phải đi đến những bản xa ở tít sâu trong dãy A Bia mới có.

Hôm ấy, quãng độ 20 tháng Chạp, 5 anh em tôi gùi gạo, muối theo chân 1 bác thổ công vốn là lính quân khu này đi đổi lợn. Cho đến giờ tôi cũng chẳng nhớ nổi cái bản mà mình đến tên là bản gì, cũng chẳng hiểu là đia ra bắc hay vào nam, bên đất ta hay đất Lào mà chỉ nhớ rằng chúng tôi phải đi ròng rã từ sáng đến gần tối mới tới nơi. Đúng là bản này khá hơn những bản mà chúng tôi đã từng đến thật. Nhà sàn của bà con cũng cao ráo, chắc chắn và sạch sẽ hơn nhiều. Chúng tôi vào nhà trưởng bản và nghỉ ở đó. Tối hôm ấy, bộ đội và nhà trưởng bản góp gạo thổi cơm chung.

Chắc là thấy có khách nên trưởng bản đi ra rừng một lúc rồi thấy xách về 2 con chuột bằng nửa cổ tay(!). Chỉ với 1 bát nước sôi nho nhỏ đã thấy ông ta làm sạch lông và mổ xong. 2 con chuột được chặt ra và đem rang với muối. Còn món canh rau cải thì khi nấu sắp xong, ông với tay lên cái giàn treo trên bếp lấy xuống 2 con cá khô cỡ bằng 3 ngón tay đen màu bồ hóng, chắc là để đã lâu nên nó khô giòn và ông chỉ cần bóp nhẹ một cái là nó vụn ra cho vào nồi canh. Vừa làm ông vừa cười, để lộ hàm răng cà móm: “Mì chính đấy”- ý nói cho cái này vào nồi canh cho nó ngọt như cho mì chính. Cơm canh đã xong, ông bảo bà vợ chuẩn bị bát đũa. Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy bà cẩn thận đun một xoong nước sôi rồi đem nhúng toàn bộ số bát (vẫn là B52 của bộ đội ta cả) và bó đũa vào đó. Nhưng rồi bọn tôi còn ngạc nhiên hơn là sau khi nhúng xong, bà cầm nghiêng cái bát hơ bên bếp than hồng cho đến khô cong (!). Chắc bản này bộ đội ta qua lại cũng đã nhiều. Tuy vậy, nói thực lòng lúc ăn cơm tôi chỉ ăn với dúm muối ớt mang theo mà không hề dám đụng đến món thịt chuột và món canh có vẻ rất hấp dẫn ấy

.

Buổi tối, một số bà con nhà bên sang chơi. Ông chủ chắc là phấn khởi vì có món hời nên xuất ra một ống bơ ngô và ít sắn tươi để liên hoan. Chúng tôi rang ngô và ngồi quanh đống lửa vừa ăn ngô, vừa nói chuyện rất vui vẻ. Tôi thấy một bà cụ già cứ ngồi lui ra và không ăn nên hỏi: “Sao a- ma (mẹ) không ăn đi?”. Bà bảo: “Tại không có chỗ ăn”. Nghe bà bảo vậy, cứ tưởng bà bào không có chỗ ngồi nên mấy anh em chúng tôi dạt hẳn ra nhường cho bà một chỗ rõ rộng. Thấy vậy bà há hoác cái miệng đen ngòm ra cười và chỉ vào đó. Thì ra ý bà bảo là không có răng để nhai ngô. Nhân đây cũng xin nói luôn: bác NKĐ hồi đó công tác ở khu ủy nhưng chắc không chịu học tiếng đồng bào cho lắm thì phải. Bài thơ về “em a- kay ngủ trên lưng mẹ” bác ấy viết “A- Kay” như tên riêng của em bé là không đúng. Thực ra, “a- kay” trong tiếng Pa- Ko là “con”

.

Sau tiết mục ngô là sắn nướng. Phải nói rằng bà con Pa- Ko có một kỹ thuật nướng sắn tuyệt hảo. Củ sắn bóc ra, rửa sach, để ráo nước rồi dựng nghiêng bên cạnh bếp than hồng nhưng không được gần quá. Khi mặt trong của củ sắn đã se đi thì xoay cho mặt kia vào. Cứ thế, thỉnh thoảng lại xoay. Củ sắn chín từ từ từ ngoài vào trong. Cho đến khi nó chín vào tận trong thì lớp ngoài cùng đã ngả màu vàng, ăn hơi dai dai như vỏ bánh mì và thơm điếc mũi. Quả thật là ngon nhưng phải kiên trì lắm mới làm được như vậy- nướng một củ sắn chắc phải mất 2 tiếng đồng hồ. Sau này, khi về đơn vị chúng tôi cũng hay nướng sắn nhưng không lần nào áp dụng được vì sốt ruột lắm

.

Sáng hôm sau chúng tôi hành quân về với chiến lợi phẩm đổi được là một con lợn cỡ hơn 40 kg. Thật hay là giống lợn này nó rất ngoan và đi rất khỏe. Chỉ cần buộc một cái dây vào cổ nó rồi dong đi như dong trâu. Nó cứ lon ton chạy trước và đi rất nhanh làm chúng tôi cũng phải rảo bước. Vừa phấn khởi, vừa không phải đeo nặng, lại phải rảo bước đi theo con lợn nên chỉ nửa chiều chúng tôi đã về đến nhà.

 Cũng may, gần Tết năm đó thì Hiệp định Pa- ri có hiệu lực. Nó như một liều thuốc bổ tinh thần làm cho không khí trong đơn vị sôi nổi hẳn lên. Mặc dù biết rằng chiến tranh chưa hoàn toàn kết thúc nhưng cái hy vọng sống sót trở về đã le lói hơn nhiều. Cái gì chứ trước hết là không còn tọa độ B52, không còn pháo bầy, không phải chui rúc suốt ngày trong hầm như mấy con chuột chũi nữa rồi. Chính vì vậy, ai cũng tự giác tham gia rất tích cực vào công việc chuẩn bị đón Tết. Và qua những vụ này mới thấy bộ đội ta có lắm tài. Chỉ với những thứ vật dụng, vật liệu tối thiểu chúng tôi đã chuẩn bị cho mình một cái Tết khá đầy đủ và đậm đà hương vị Tết cổ truyền.

Để chuẩn bị cho đêm giao thừa, một trong những nội dung quan trọng nhất là nấu kẹo. Anh Hòa Râu vẫn chứng tỏ là một tay đầu bếp đại tài, chẳng biết bác ấy học hay xem ở đâu mà nói cứ vanh vách. Tuy nhiên, bọn tôi vẫn bán tín, bán nghi và yêu cầu bác ấy thực hành ngay để anh em kiểm định.

 Năm đó, bọn tôi nấu 2 món kẹo là kẹo lương khô và kẹo kê. Kẹo lương khô thì vật liệu gồm có lương khô giã nhỏ- không giã vụn ra mà vẫn để lổn nhổn như hạt lạc. Còn kẹo kê thì vật liệu là hạt kê đổi được trong dân, đem về rang lên trông gần giống như hạt vừng. Công thức và quy trình nấu 2 loại kẹo này cũng tương đối giống nhau. Đường trắng, sau khi đun cho chảy và chuyển màu vàng, giọt đường thả vào bát nước vo tròn ngay lại thì bắt đầu cho lương khô hoặc kê rang sẵn vào. Đảo thật kỹ cho đường và các loại vật liệu kia quện vào nhau thì đổ ra cái thớt hoặc cái gì đó cứng mà có mặt phẳng là được. Khi hỗn hợp đó còn dẻo phải nhanh tay dàn mỏng ra. Lúc nó đã hơi rắn lại rồi thì dùng dao găm xắt ra thành từng miếng nhỏ. Thế là thành kẹo. Vấn đề quan trọng nhất trong quá trình nấu kẹo là xác định thời điểm cho vật liệu vào. Nếu đường non quá thì cái hỗn hợp ấy cứ nhão nhoẹt và không thành kẹo. Còn nếu đường già quá kẹo sẽ bị đắng và đặc biệt là cứng lắm, dẫu có hàm răng sắt cũng chịu không nhai nổi. Sau mẻ thử nghiệm đầu tiên bị già đường thì từ mẻ thứ hai trở đi anh Hòa đã thành công. Với số lương khô và đường được cấp chúng tôi có đủ kẹo để ăn và đãi khách một cách thoải mái trong mấy ngày Tết.

Về thức uống hình như chỉ có BCH/c là có chè gói, còn các b phải tự túc. Về khoản này thì chúng tôi cũng đã có giải pháp. Trong các cánh rừng xung quanh chỗ ở có khá nhiều cây sâm cau. Không biết nó có bổ như sâm không nhưng củ nó đem về thái nhỏ, phơi khô, sao vàng đem nấu nước rồi cho thêm tý đường uống rất thích. Nó vừa ngòn ngọt lại man mát rất dịu nên uống rất vào.

Cũng lại từ một lần đi rừng tôi nhìn thấy cây hương bài- CL quê tôi vốn là huyện miền núi nên tôi biết nó. Thế là gần Tết tôi vào nhổ về một đống. Rễ hương bài phơi khô, tán vụn rồi cuốn vào giấy pơ- luya đem đốt thơm lừng làm cho những căn hầm vốn lạnh lẽo của bọn tôi thêm ấm cúng và đặc biệt là mang lại cái hương vị Tết rất đặc trưng của VN.

Còn ở hội trường 2 b và đặc biệt là hội trường c cũng được chuẩn bị khá cầu kỳ. Ngoài bàn thờ Tổ quốc, ảnh Bác và khẩu hiệu HT nào cũng có một cành đào giả được làm rất công phu. Để làm cành đào giả trước hết phải chọn một cành cây rừng có dáng giống như cây đào rồi vặt trụi hết lá đi. Tiếp đó là huy động giấy pơ- luya viết thư để làm hoa giả. Giấy được nhuộm hồng bằng… thuốc đỏ của quân y và nhuộm xanh bằng mực viết pha loãng ra. Sau khi phơi khô mới làm hoa và lá rồi gắn lên cây. Các công đoạn này phải rất khéo tay và tỷ mỷ. Bác ctv phó- thiện xạ Phạm Ngọc Chu là người đáp ứng được đủ các tiêu chuẩn này nên cây đào ở hội trường c tôi đẹp lắm, giống y như thật. Ở b tôi thì thằng Phan lái xe người Kim Động cũng khá khéo tay nên cây đào giả nhìn cũng tương đối đẹp. Ngoài ra, tôi không nhớ các hắn kiếm được những loại quả gì để bày nhưng thấy ở đâu cũng có một mâm ngũ quả.

Về chương trình Tết thì được ăn tăng cường hai bữa: bữa tất niên chiều 30, bữa trưa ngày Mồng Một- đó cũng là bữa chấm điểm thi nấu ăn ngày Tết. Buổi tối 30 đón giao thừa ở các b đến 10 giờ, sau đó tập trung đón giao thừa toàn đại đội. Ngày Mồng Một có các trò chơi: đấu cờ tướng, vật tay… Công việc chuẩn bị và không khí sôi nổi của những ngày áp Tết dường như cũng làm chúng tôi vợi đi nỗi nhớ nhà

Tối 30. Sau khi ăn bữa cơm tất niên có cả lòng lợn, tiết canh (của con lợn mới đổi về, mỗi b được khoảng 2 bát) thì chúng tôi đón giao thừa ở b. Mặc dù ngày nào cũng ở bên nhau nhưng trong giờ phút đó ai cũng thấy hình như có một cái gì đó thật mới lạ và cũng rất thân thương ở mỗi người đồng đội của mình. Tên nào tên ấy xúng xính trong bộ quân phục mới nhất, có tên còn lôi cả quân hàm ra đeo. Ngồi bên nhau, vừa ăn kẹo, vừa uống chè sâm chúng tôi vừa kể cho nhau nghe về phong tục Tết ở quê mình trong khói hương bài thơm ngát. Rồi thì chòng ghẹo, trêu chọc lẫn nhau. Thôi thì đủ thứ chuyện. Chuyện vui, chuyện buồn, chuyện tếu táo, bậy bạ được lôi ra hết. Thì sàn sàn nhau cả mà. Ngoài anh Thanh “ghì” bt gần 30 đã có vợ ra, còn lại toàn bọn chíp chíp 18- 20 tuổi và chưa có gì cả. Ngay anh Hòa bp cũng chỉ hơn bọn tôi 1-2 tuổi thôi mà.

Đúng 10 giờ đêm, trừ những người gác còn lại tất cả đại đội tập trung về Hội trường đại đội đón giao thừa. So với ở dưới các b thì ở đại đội có hơn món kẹo Hải Châu chính cống. Sau mấy bài đồng ca “Vì nhân dân quên mình”. “Bước chân trên dải Trường Sơn”… là tiết mục “hái hoa dân chủ”. Không hiểu tiết mục này có xuất xứ từ đâu nhưng có thể nói rằng nó là một sinh hoạt văn hóa, văn nghệ rất hay, rất quần chúng và khá thích hợp với đời sống tập thể quân đội. Cho đến tận bây giờ nó vẫn còn tồn tại trong quân đội ta chứng tỏ nó có một sức sống rất mãnh liệt. Trên một cành cây xum xuê lá đặt giữa dãy bàn dài thấp thoáng những cái quả giả, hoa giả được bọc bằng giấy mầu. Bên trong mỗi cái quả giả, hoa giả ấy chứa đựng một bí mật nho nhỏ. Đó có thể là một cái kẹo, một câu đố hóc búa hoặc một yêu cầu gì đó: giải một câu đố, hát một bài hát, đọc một đoạn thơ, hay kể một câu chuyện tiếu lâm… Suốt dọc đường hành quân xe nào biết xe ấy, về đến đây thì sinh hoạt theo b, chỉ đến lúc này mới có dịp ngồi lại cả đại đội và rất nhiều bất ngờ được phát lộ. Về ca hát, ngoài danh ca Hòa Râu trưởng xe 724 còn có thể kể thêm những ca sĩ khác như KTV Bốn, lái xe Thìn đen… Vì c tôi khá đông lính Thái Bình, Hải hưng nên một số hát chèo rất hay như Hải xoăn Thái Bình, pháo hai Di Kinh môn… Tuy nhiên, có những tên chỉ biết hát độc mỗi bài “Vì nhân dân quên mình” như thằng Xiển pháo hai, thằng Thanh Vâu lái xe. Đã thế, lúc bị “xì” (chỉ định), đứng lên rồi cứ lúng ba lúng búng không hát được, anh em cho đọc thì đọc cũng không ra hơi thành ra cả đại đội cứ bò ra mà cười

. Còn kể chuyện tiếu lâm thì cũng không thiếu nhân tài. Có điều lạ là khi hái hoa thì những yêu cầu lại thường trái với sở trường của khổ chủ nên không khí càng vui. Hội trường lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười, tiếng hát

.

Gần đến 12 giờ đêm thì hoa quả trên cái cây ấy cũng đã được “hái” gần hết, chúng tôi chuyển sang nghe chương trình ca nhạc đón giao thừa của Đài TNVN. Chiếc đài Li- do được mở hết cỡ âm lượng. Những ca khúc đón xuân hồi ấy thật hay và đi vào lòng người. Có một bài hát được hát nhiều nhất ngày ấy là bài “Việt Nam trên đường chúng ta đi”- đặc biệt là sau ngày HĐ Pa- ri được ký chính thức. Cả ca từ và giai điệu của nó đã làm say lòng biết bao người lính. Lúc này, đã nghe thấy xung quanh những tiếng nổ của đủ thứ đạn và bộc phá. Nhìn ra ngoài bầu trời đêm 30 đen kịt thấy hàng tràng đạn lửa bắn lên. Tuy nhiên, khu vực đại đội tôi thì tuyệt đối im ắng. Đại đội đã nhắc nhở nhiều lần rồi nên anh em cũng đã thông. Với lại tập trung toàn đại đội lại một chỗ thế này, tên nào có “máu’ lắm cũng chịu không bắn được

.

Đúng 12 giờ, Đài TNVN phát lại Lời chúc Tết năm 1969 của Bác Hồ. Giờ phút đó thật thiêng liêng. Chúng tôi ngồi im lặng lắng nghe như nuốt lấy từng lời của vị Cha Già dân tộc. Có thể, bây giờ nói lại chuyện này mọi người cho là “sáo” nhưng đó là sự thật. Vâng! Với thế hệ chúng tôi, những giây phút đó thiêng liêng lắm.

Sau khi nghe Bác Hồ chúc Tết xong thì đến lượt chúng tôi chúc Tết lẫn nhau. Đầu tiên là ctv Nguyễn Thế Cương chúc Tết toàn đại đội. Tiếp đó là các trung đội chúc Tết BCHc và chúc Tết các b khác. Chúng tôi còn nán lại đến gần 1 giờ mới giải tán nhưng trong các căn hầm hay trong buồng chiến đấu các xe thì những tiếng rì rầm còn kéo dài cho đến gần sáng.

Còn ở hậu cứ 108 của cT3 năm đó thì:

Những ngày Tết sôi nổi trôi qua nhanh chóng, hậu cứ 108 lại trở lại vẻ trầm lặng thường thấy của nó. Đúng lúc này bác Chu lại bắn được con nai rõ to. Đúng là, lúc cần thì chả có, lúc không cần lắm nó lại cứ đến

.

Dạo này, buổi tối chúng tôi cũng hay hóng chuyện thời sự chứ không nằm tán chuyện gẫu như trước nữa bởi cũng muốn xem tình hình HĐ Pa- ri được thực hiện thế nào. Nói thẳng ra là cũng mơ hồ một niềm hy vọng sớm được trở về quê hương mà thôi. Tuy nhiên, càng nghe lại càng thấy chán vì sau vài ngày Tết yên ổn thì đài hai bên lại liên tục tố cáo nhau vi phạm hiệp định. Hết chỗ này lại đến chỗ khác đánh nhau, lấn chiếm rồi chống lấn chiếm. Lính tráng nghe rồi thì thào với nhau: “Kiểu này rồi chẳng biết còn đánh nhau đến bao giờ?” mà không có câu trả lời

.

Đùng một cái chúng tôi nhận lệnh: đưa 01 trung đội ra sân bay A Lưới trực chiến, trung đội còn lại vẫn nằm tại 108 nhưng có nhiệm vụ bảo vệ sân bay A Sho (A Sầu). Đại đội quyết định cử bT2 ra A Lưới, tôi cũng được chuyển sang đó và ở xe 746 (hay 764 nay quên mất). Nhiệm vụ của chúng tôi là sẵn sàng đánh địch đổ bộ đường không ở đó. Sở dĩ cấp trên quyết định như vậy chắc bởi vì vị trí chiến lược quan trọng của thung lũng A Sầu- A Lưới và cấp trên có lý do để đề phòng địch đổ bộ xuống đây.

   Trích “HT đến dinh ĐL”:

“Nằm kẹp giữa dãy Động Ngài ở phía Đông với độ cao trung bình trên một ngàn mét và dãy A Bia ở phía Tây với độ cao trung bình gần hai ngàn mét, thung lũng A- Lưới có độ cao trung bình khoảng tám trăm mét so với mực nước biển. Nó kéo dài gần ba mươi ki-lô-mét, chỗ rộng nhất tới bốn ki-lô-mét, còn chỗ hẹp cũng vài trăm mét. Nhờ bức trường thành phía Tây chắn luồng hơi nước theo gió Đông Nam từ biển thổi vào đã làm cho A- Lưới trở thành một địa danh có lượng mưa trung bình hàng năm rất cao. Khí hậu mát mẻ, lượng mưa dồi dào, thổ nhưỡng màu mỡ đã biến A- Lưới thành khu rừng nhiệt đới điển hình với nhiều loại động, thực vật quý hiếm.

A- Lưới cũng là quê hương của bà con các dân tộc Pa- kô, Tà- ôi- những tộc người tuy còn rất nghèo, cho đến giờ vẫn “chọc lỗ, bỏ hạt” nhưng một lòng một dạ theo cách mạng, họ đã chọn cho dân tộc mình họ của Người Cha già dân tộc và đã sản sinh ra biết bao anh hùng không tên và có tên như Kan Lịch, Hồ Vai...

Nằm cách Huế chưa đầy 60 ki- lô- mét, trấn giữ con đường huyết mạch Đông Trường Sơn từ Bắc vào Nam,  A- Lưới có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng nên đã được các nhà quân sự Mỹ để mắt đến. Trong những năm 60 của thế kỷ Hai mươi Ngô Đình Diệm đã cho mở đường 12 từ Huế lên A- Lưới và tuyên bố sẽ Bắc tiến từ đây. Trên thung lũng này hai sân bay quân sự đã được xây dựng là sân bay A- Lưới và sân bay A- So. Thung lũng này cũng đã trở thành địa bàn giành giật của hai bên trong nhiều năm và đã trở thành vùng giải phóng từ năm 1966. Bị mất quyền kiểm soát quân đội Mỹ đã biến A- Lưới thành một trọng điểm đánh phá ác liệt bằng bom đạn và chất độc hoá học. Hàng nghìn tấn  chất độc hoá học được rải xuống cái thung lũng hiền hoà này đã biến những cánh rừng đại ngàn ở đây thành rừng chết. Đi qua A Lưới giờ chỉ thấy những cây cổ thụ vài trăm năm tuổi vẫn đang vươn những cành cây trụi lá lên trời cao như những cánh tay cầu cứu. Những trận B52 rải thảm cùng những trận không kích của F, của A đã biến thung lũng này thành “thung lũng tử thần” đối với mọi sinh vật. Và những hoá chất gây mưa nhân tạo cũng đã được rải xuống nơi đây để biến nơi có lượng mưa lớn nhất Việt Nam thành một nơi có lượng mưa trung bình hàng năm vào loại cao trên thế giới hòng mang sức nước để cản bước chân của đối phương”.

Trích BT T2- nhận xét của đài Sài Gòn:

“thung lũng A Sầu, địa dư chí tỉnh Thừa Thiên ghi là An Hậu cách biên giới Việt Lào không quá 10 km, cách thành phố Huế hơn 40 km về phía tây. Địa thế tại vùng này rất hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, hạn chế tầm quan sát của phi cơ khi muốn thám sát trục lộ chuyển quân và vũ khí của Cộng quân. Năm 1966, Bắc Việt đã đánh chiếm thung lũng này sau khi tấn công tiền đồn biên phòng của Lực lượng đặc biệt Việt-Mỹ tại đây. Do không đủ quân số để chiếm lại đồn này, nên Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ tại Vùng 1 và Bộ Tư lệnh Quân Ðoàn 1 Việt Nam Cộng Hòa đã cho các đơn vị trú phòng triệt thoái. Sau đó, Cộng quân đã khởi sự xây dựng căn cứ địa để tập trung các đơn vị Cộng Sản từ Bắc xâm nhập vào khu vực phía tây tỉnh Thừa Thiên”.

Chắc vì tầm quan trọng như vậy nên cấp trên lo địch sẽ đổ bộ đường không ra đây.

Đám cưới Hà Nội xưa

14/08/2009 | 09:59:00

Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo được làng (xã) dùng vào việc đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Tuy nhiên, hơn nửa thế kỷ nay, lệ này bị bãi bỏ. Nhưng, những nghi lễ, nghi thức đám cưới thì vẫn gợi lại nhiều kỷ niệm.

Kể về đám cưới thời chiến, đạo diễn Nguyễn Việt Thanh - người đã tổ chức đám cưới tập thể 50 đôi đầu tiên tại Hà Nội năm 2003 - nói: Ký ức của tôi về đám cưới thời chiến ấy, rất đơn sơ, mộc mạc và dung dị. Đám cưới thời chiến mang tính chất nghi thức nhiều hơn là nghi lễ.

Đám cưới thời chiến không có những nghi lễ rình rang như ăn hỏi, đưa dâu, rước dâu, thậm chí cũng còn không có cả sự chứng kiến của cha mẹ, ông bà, chỉ có sự góp mặt của tổ chức, chỉ huy, đồng đội, bạn bè. Tiệc cưới là bánh kẹo, trà xanh, thuốc lá, thậm chí ngô rang.

Dán lên phông cưới hồi đó không phải là chữ hỷ mà là những khẩu hiệu: “Tổ quốc trên hết, tiền tuyến trước hết”, “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Tất cả cho tiền tuyến”… Gian hạnh phúc của cô dâu, chú rể là những căn lều nho nhỏ, không có giường cưới chỉ có 2 cánh võng mắc song song. Để rồi ngày mai đôi vợ chồng trẻ chia tay nhau: Người đi tiền tuyến, người ra chiến trường với nỗi niềm khắc khoải và nhớ mong khôn nguôi.

Nếu như đám cưới tổ chức ngoài chiến trường đơn sơ, mộc mạc thì đám cưới ở Hà Nội hết sức đơn giản, gọn nhẹ. Chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động, trong đó có đám cưới, phải diễn ra thật đơn giản, nhanh gọn, thế nhưng hạnh phúc của những đám cưới ấy không hề mong manh, ngắn ngủi.

Đám cưới “thời bao cấp”

Chiến tranh kết thúc, hoà bình lập lại năm 1975, cả nước hân hoan trong niềm vui chiến thắng, đám cưới cũng được thổi luồng gió mát với phong trào đám cưới mới. Nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội cũng thay đổi theo tiến bộ của xã hội. Từ 6 nghi lễ giảm xuống 3 nghi lễ: Chạm ngõ, ăn hỏi và lễ cưới...

Tuy nhiên, sự phát triển cực thịnh của phong trào đám cưới mới chỉ được ghi nhận bằng việc thành lập các ban nhạc “đánh” cho đám cưới vào những năm 1980.

Những ban nhạc nổi tiếng hồi đó có Sắn Lùng (người Hoa), Toán “Xồm”, Hiếu “văn hoá”, Vân “Hàng Bông”... Những bản nhạc được ưa chuộng có: “Tình ca trên Thảo Nguyên”, “Đôi bờ”, “Chiều Matxcơva” (Nga) hay ca khúc cách mạng như: “Trường Sơn đông, Trường Sơn Tây”, “Anh là người lái xe”... Lúc đầu, ban nhạc chỉ “đánh” ở Hà Nội, sau lan về những vùng nông thôn, ngoại thành.

Do ảnh hưởng của du học sinh từ Nga về nên một số đám cưới ở Hà Nội bắt đầu có khiêu vũ. Đám cưới xong, mọi người đóng cửa, bật nhạc và ôm nhau nhảy. Điệu nhảy chủ đạo là tuýp “Sông Hồng”, dựa trên nền nhạc của đĩa hát “Cây xương rồng”.

Không chỉ rút gọn phần nghi thức, nghi lễ, đám cưới mới còn cách tân cả trong trang trí phông màn, phong cách ăn mặc, đồ mừng cho cô dâu chú rể và những bức ảnh lưu niệm.

Có thời gian trang trí đám cưới không chỉ là cái mốt, mà còn là thú vui. Thời kỳ này đánh dấu sự sáng tạo những phong cách chuẩn, lưu giữ đến ngày nay. Đó là cắt, dán, trổ, xé hình trang trí và đặc biết là hình người, chữ lồng dán trên tường và trên phông cưới...

N

ếu như trang trí đám cưới là thú vui, thì chọn đồ mừng thể hiện sự thực tế. Ông Nguyên Cầu - nhà nhiếp ảnh đám cưới nổi tiếng Hà Nội thích thú nhớ lại: “Đồ mừng toàn là chậu thau, bếp dầu, lốp xe đạp, ruột phích nước, vỏ phích, bát sứ Hải Dương...

Nét đọng lại trong ký ức người có mặt cũng như người tổ chức đám cưới hồi những năm 80 là tính cộng đồng sâu sắc. Tính cộng đồng thể hiện trong công tác chuẩn bị, diễn ra và kết thúc.

Để có một đám cưới, công tác chuẩn bị diễn ra trước đó vài tháng. Sự kiện đó được đánh dấu bằng việc cha mẹ đi vay, đi mượn phiếu thịt, tem vải, để dành mua bột mì, trứng, đường làm bánh quy gai, quy xốp, vòng vừng, xin tiêu chuẩn mua thuốc lá Điện Biên bao bạc, Thủ Đô bao bạc, Sông Cầu, rượu cam, chanh, mơ, táo.

Đôi trẻ thì ra tiểu khu đăng ký kết hôn. Sau khi có giấy đăng ký, đem ra cửa hàng ở Tràng Tiền sẽ được mua vải (đủ may 1 cái chăn hoặc 1 cái màn), ra phố Bạch Đằng sẽ được mua 1 cái chiếu và 1 cái giường giẻ quạt với giá ưu đãi...

Vui nhất sau lễ ăn hỏi là chị em nhà gái xúm xít đóng gói cau, lá trầu, mứt sen, chè, rồi cười đùa, tròng ghẹo, trêu chọc nhau. Tính cộng đồng còn thể hiện ở việc các anh, các chị, các cô, các bác ở quê lên ăn trầu, têm trầu và làm cỗ…

Hồi đó không có tủ lạnh nên phải làm ban đêm. Đêm hôm trước bao giờ cũng là đêm làm cỗ, huy động tất cả nào là thái su hào, làm nộm, làm gà, chân giò, ngâm măng, đãi đỗ, đồ xôi… cùng các loại bếp từ mun cưa, củi lửa, than dầu đều được huy động.

Mặt tiền, sân bãi không có hầu hết phải mượn, hoặc nhờ hàng xóm. Nồi niêu, xoong chảo, bát đĩa, ấm chén… tất tật đều của họ hàng, bạn bè, còn phông bạt, bàn ghế, khăn trải bàn là của nhà trẻ, trường học, hay hội trường cơ quan… Có lẽ cũng vì cái sự nhờ, sự mượn này nên tình hàng xóm, láng giềng cũng thân mật, khăng khít: “Hàng xóm tắt lửa, tối đèn có nhau”.

Trang phục cưới theo định nghĩa của thanh niên thời đó là diện hơn, phẳng phiu hơn, khác hơn so với ngày thường: Cô dâu áo dài, chú rể comple. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện để may đo, bởi giá thành may áo dài, comple khoảng 70 - 100 đồng, trong khi lương tháng 50 đồng. Hầu hết là mượn lẫn của nhau.

N

gười may đầu tiên sẽ may lớn hơn 1 - 2 size để sau này còn cho bạn mượn. Nổi tiếng về áo dài thời đó có hiệu Phúc Trạch ở Lương Văn Can, comple có nhà may Tiến Thành ở Lê Thái Tổ, đóng giày có hiệu Chi Ta ở Đào Duy Từ, ảnh cưới có Lê Linh, Nguyên Cầu…

Nét đẹp không thể thiếu của đám cưới thời xưa là có phù dâu, phù rể. Phù dâu, phù rể được coi như đại diện cho cô dâu, chú rể. Nhà trai chọn phù rể, nhà gái chọn phù dâu, với mục đích ngầm ý tác thành cho nhau. Khi đám cưới kết thúc, tất cả ăn uống, dọn dẹp xong nhất định phù rể phải đưa phù dâu về nhà. Có rất nhiều đôi phù dâu, phù rể qua đám cưới của bạn mình đã quen và cưới nhau./.

Ký ức mùa nhót quê hương

Mỗi độ xuân về, trong màn mưa bụi những cây nhót ở quê tôi lại bắt đầu ra hoa. Những chùm hoa nhỏ li ti, màu trắng phủ kín cành cây như báo hiệu một mùa nhót xum xuê đang đến gần. 

Khi những cánh hoa mong manh bị những cơn gió xuân thổi rụng rơi cũng là lúc từ bên trong nhụy hoa bắt đầu xuất hiện những trái nhót nhỏ xíu. Trái nhót ban đầu chỉ như hạt đỗ, mươi ngày sau đã bằng đốt ngón tay người và lớn dần lên, bắt đầu nhú thịt. Những thớ thịt căng mọng nằm bên trong lớp vỏ màu xanh và được bao phủ bởi một lớp phấn trắng.

Đến cuối tháng 3, gió thổi đung đưa vòm lá, trên những cành nhót đã bắt đầu xuất hiện những quả nhót chín đỏ chót. Trong màu nắng vàng nhạt, những quả nhót hiện lên càng sinh động hơn. Màu nắng chiếu vào lớp phấn trắng phủ bên ngoài làm nó ánh lên như sắc kim tuyến.

Hồi nhỏ, nhà tôi không trồng nhót nhưng tôi lại rất thích ăn nhót vì cái vị chua chua, ngọt ngọt, chan chát của nó làm cho tôi không sao cầm lòng được. Nhiều hôm, tôi cùng mấy đứa bạn rủ nhau “đột kích” vườn nhót nhà hàng xóm. Mấy đứa tranh thủ vặt nhót nhét đầy túi quần, túi áo rồi về chia nhau. Cả lũ hí hửng cầm nhót lau vào gấu quần, gấu áo để lớp phấn ngoài bay đi và lộ ra lớp vỏ ngoài căng mịn, đỏ chót. Cắn một miếng, vị chua, chát của nó làm cho đứa nào mặt cũng nhăn nhó nhưng lạ thay càng ăn càng thấy ngọt. Vị ngọt đọng lại nơi đầu lưỡi làm cho đứa nào ăn rồi cũng muốn ăn nữa. Nhót chín chấm với muối ớt thì đúng là ngon tuyệt mà không loại quả nào ngon bằng.

Còn nhớ nhiều hôm đi học, lũ bạn tôi mang đầy một cặp sách nhót chín. Thế là đến lớp cả lũ chúi đầu vào ăn mà quên mất đang trong giờ truy bài nên bị cô giáo mắng nhưng tất cả đều thấy rất hào hứng.

Có lẽ ở quê tôi, nhót không phải là thứ quả đặc sản nhưng khi nhót đã chín rộ, các bà, các mẹ vẫn bứt xuống xếp đầy thúng và mang quang gánh ra chợ bán. Từng thúng, từng thúng được xếp đầy. Nhìn cả thúng nhót chín đỏ mà lũ học trò chúng tôi ứa nước bọt.

Nhót chín rất nhanh, chỉ độ trong vòng một tháng là hết mùa. Có lẽ chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, nhót sẽ được bày bán khắp những con đường Hà Nội. Từng gánh hàng rong sẽ nhuộm màu đỏ của những trái nhót to và chín mọng. Thế nhưng, với tôi, những trái nhót quê hương cùng với những kỉ niệm thời thơ ấu khó có thể nào quên.

Những nghề 'hot' thời bao cấp

Do hàng hoá luôn khan hiếm nên để mua được theo tiêu chuẩn là vô cùng khó khăn. Nhiều khi xếp đến nơi thì lại hết giờ, hết hàng. Do vậy một số nghề khi mua không bao giờ phải xếp hàng và được nhiều gia đình mong ước.

>

Phim thời nay thua xa phim bao cấp

/

Phim thời bao cấp

Nhân dịp đài truyền hình bắt đầu chiếu phim "Bí thư tỉnh ủy", tôi xin nêu góc nhìn riêng của mình về một số nghề "hot" của thời bao cấp.

Thời đó nhu cầu của hầu hết mỗi gia đình đều không nhiều ngoại trừ lo bữa ăn hằng ngày và có đời sống vật chất tối thiểu. Những thứ đó hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ tem phiếu (mua lương thực như gạo, mỳ, ngô, lúa mạch... thì có sổ gạo; mua dầu hoả, củi, mùn cưa... có sổ mua chất đốt; mua thực phẩm, đường sữa, vải vóc, xoong, nồi có tem, phiếu...).

Tuy nhiên do hàng hoá luôn khan hiếm nên để mua được theo tiêu chẩn là vô cùng khó khăn. Tất cả gia đình đều cố gắng xếp hàng sớm nhất có thể để mua được hàng, nhiều khi xếp đến nơi thì lại hết giờ, hết hàng phải chuyển sang buổi khác..

Do những đặc điểm như vậy nên một số nghề khi mua không bao giờ phải xếp hàng và được nhiều người, nhiều gia đình mong ước, đó là các nghề sau:

- Nghề bán lương thực: Luôn mua được 100% gạo và gạo ngon (có thời kỳ dài do thiếu gạo nên mọi người phải mua mỳ, ngô, bột mỳ, lúa mạch... để thay thế và do thói quen ăn gạo vì vậy ăn lương thực thay thế dài kỳ lại một nỗi nhọc vô cùng).

- Nghề bán thực phẩm: Chủ động mua được những loại thực phẩm tươi nhất, ngon nhất. (Có lần do cá về cửa hàng muộn nên khu phố tôi 23h còn phải ra xếp hàng mua cá, hoặc lần khác cả khu phố bị Tào Tháo đuổi khi ăn sữa bột... và những chuyện tương tự như vậy thường diễn ra dài dài...).

- Nghề bán hàng chất đốt: Không phải xếp hàng và luôn chủ động được chất đốt (với nhiều gia đình việc lo chất đốt cũng vô cùng vất vả).

- Nghề bán hàng bách hoá: Có cuộc sống vật chất tốt hơn mọi người vì dễ mua được những hàng hoá thiết yếu như vải vóc, phích nước, xoong, nồi...

- Ngoài ra một số nghề khác cũng dễ kiếm tiền như nghề bán vé tàu, vé xe, vé xem phim...

Tuy nhiên, ăn theo các nghề trên còn có một loại nghề mà đem lại cho họ cuộc sống tương đối sung túc, nhưng mọi người lại không thiện cảm gọi là "con phe". Phe sổ gạo, phe tem phiếu, phe vé...

Ngày nay, những nghề này không con là "hot", nhưng có một thời nó là mơ ước, là niềm tự hào của nhiều gia đình.

Phim thời bao cấp

Nếu bạn nào thế hệ 7x thì không thể quên bộ phim truyền hình dài tập của Bungari là " Trên từng cây số" với 2 nhân vật chính là Dianop và Bombop! Trời ơi Dianop thì đẹp trai, hào hoa tài giỏi. Có rất nhiều cô gái Hà Nội gửi thư lên chị Thanh Tâm ở báo phụ nữ xin được làm vợ Dianop.

Chào các bạn,

Tôi đọc các bài viết của các bạn và tự nhiên dòng hồi tưởng thời gian như đang quay trở lại với những ký ức tuổi thơ thật đẹp ngày xưa. Tôi nhớ nhất là về phần xem vô tuyến. Quả thực những năm 78, 79 cả trong xóm tôi ở chỉ có đúng 2 nhà có tivi đen trắng là nhà bác Vũ Tú Nam ở tầng 2 và nhà bác Được nữa.

Tôi nhớ không nhầm thì thời đó cả tuần chỉ chiếu vô tuyến đúng 2 ngày thứ tư và chủ nhật vào buổi tối từ 7g đến 9g. Đúng là đến các tối đó thì vui như ngày hội. Thật sự là ngày hội các bạn ạ. Mẹ tôi dẫn tôi đi cầu thang lên nhà bác Được ở tầng 2 xem tivi.

Mà ngày đó các phim của Liên Xô đánh nhau với phát xít Đức cực hay. Nếu bạn nào thế hệ 7x thì không thể quên bộ phim truyền hình dài tập của Bungari là " Trên từng cây số" với 2 nhân vật chính là Dianop va Bombop! Trời ơi Dianop thì đẹp trai, hào hoa tài giỏi như Alanh Delon của Pháp ( thật sự là có rất nhiều cô gái Hà Nội gửi thư lên chị Thanh Tâm ở báo phụ nữ Việt Nam xin được làm vợ Dianop! ). Còn anh chàng Bombop thì tinh ranh, tốt bụng hềnh hệch. Họ là một đôi diễn viên tuyệt vời. Nhạc phim thì cực hay. Nội dung phim cũng hay. Thật sự nếu như bây giờ đài truyền hình Việt Nam cho chiếu lại bộ phim đó thì quá giá trị và xúc động! Nó sẽ gợi nhớ lại cho thế hệ 7x chúng tôi những cảm xúc tuyệt vời 30 năm trước.

Tôi còn nhớ sau đó là các bộ phim chống phát xít khác như " Thiếu tá Zeman và 30 vụ án" của Tiệp Khắc ( Giờ chia tách thành Sec và Slovakia), " Họng súng vô hình" của CHDC Đức chiếu những năm 1982. Rồi sau đó đến năm 1987 thì loạt phim gây náo loạn Hà Nội là "Một mình chống lại Mafia" của Italy. Trời ơi phim đã hay mà diễn viên lại đẹp trai, xinh gái. Cả Hà Nội mê mệt vì loạt phim đó với Thanh tra Catania và cô gái Titti. Thật là một cặp trời sinh trai tài, gái sắc.

Thế đấy, Hà nội ngày ấy của chúng ta là vậy qua một phần nhỏ của cuộc sống là tivi và phim ảnh. Ngày đó thật tình cảm, hàng xóm chơi với nhau rất vui, hay sang nhà nhau chơi khi rảnh rỗi. Còn giờ thì đã khác qua nhiều rồi. Cuộc sống xã hội tất bật và quan niệm sống cũng đã thay đổi. Chẳng mấy ai sang nhà nhau chơi nữa. Cũng chẳng xấu mà đơn giản đó chỉ là sự đổi thay phù hợp với cuộc sống hiện tại thôi.

Trên đây là vài chia sẻ góp chung cùng các bạn 7x về cuộc sống Hà Nội của chúng ta thời xa xưa đó.

Chúc Hà Nội của chúng ta luôn tươi đẹp và trong sạch hơn.

Ký ức Hà Nội 1987

Tôi sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, thành phố biển hiền hòa của dải đất miền Trung. Cho đến năm 1987 tôi chưa một lần đi ra Bắc, đi xa lắm cũng chỉ về Huế quê nội, ngoại thăm anh em bà con. Mong ước một lần ra Hà Nội đối với tôi thời đó thật là khó mong với cuộc sống còn bao khó khăn vất vả.

Cuối năm cấp 3 tôi thi đại học xong tháng 7, nhận được kết quả thật là buồn: rớt đại học. Chưa biết làm gì giữa lúc gia đình gặp không ít trở ngại, ba mới nghỉ việc, tập tành buôn chuyến Đà Nẵng – Hà Nội, tôi quá rảnh nên xin ba cho đi Hà Nội giúp ba việc buôn bán. Thật ra là xin đi Hà Nội cho biết chứ buôn bán gì, thế là lần đầu tiên đến với Hà Nội như vậy đó.

Tôi đến Hà Nội sau 3 ngày đi xe tải Kamaz trên chuyến đường QL1A đau khổ, Hà Nội đón tôi bằng một cánh cửa của một bờ đê, sau này tôi mới biết đó là đê Sông Hồng. Càng lạ lẫm hơn là trong bờ đê thì nhà cửa vẫn san sát nhau, đứng trên nhà trọ tôi nhìn lên thì hiện ra cảnh cầu Thăng Long trước mặt lòng bồi hồi không biết bằng cánh nào lên chiếc cầu mà theo tôi hồi đó là lớn nhất.

Thế là lang thang một mình tìm đường đi lên cầu, tôi vẫn nhớ là phía dưới chân cầu có rất nhiều hàng sửa chữa xe máy, phía trước treo rất nhiều thùng xăng xanh, đỏ, tím, vàng ... màu gì cũng có thích thật. Khám phá của tôi trong những ngày sau đó là Hồ Gươm bằng cách cuốc bộ từ ngoài bờ đê vào tới Hồ Gươm rồi lang thang quanh Bờ Hồ, vào đền Ngọc Sơn chụp hình với bộ đồ xanh gabadin ( đến giờ tôi vẫn còn giữ bức ảnh đó), ấn tượng nhất là được uống thứ nước giải khát ngon vô cùng ở quán nước nho ven Bờ Hồ mà sau này tôi mới đó là nước sấu dầm chua, cho đến bây giờ có dịp ra Hà Nội tôi vẫn thích dùng.

Ngày cuối cùng ở Hà Nội tôi được Ba dẫn đi thăm ông Bác họ ở quê tập kết ra Bắc năm 54, nhà ở sau lưng Lăng Bác, tôi nhớ hình như gần Phố Ngọc Hà, Đội Cấn bây giờ thì phải. Mong ước của tôi đi lăng Bác không thành vì phải về lại Đà Nẵng trong buổi chiều.

Hà Nội trong mắt một thằng mới ra đời thật lạ lẫm, thân thương với nhiều cảm xúc, mãi sau này khi có nhiều dịp ra Hà Nội công tác tôi vẫn hay có thói quen là tìm lại chỗ mà mình đã trọ ở ngoài đê sông Hồng ngày đó nhưng bây giờ đã không còn.

Nguyễn Xuân Đào

Món ăn thời bao cấp nay là đặc sản

Một thời gà công nghiệp là món không thể thiếu trong bữa tiệc cưới hỏi, hành tây , tỏi tây, dâu tây, khoai tây cái gì đặc sản cũng là của Tây. Ngày nay thì "gà ta, tỏi Lý Sơn, mận hậu, cua đồng, ốc đồng, lợn mọi... cái gì của "thời bao cấp cho là thấp hèn thì nay là đặc sản dành cho các vị lắm của nhiều tiền. Dân lao động lấy đâu ra tiền mà ăn.

>

Bữa cơm thời bao cấp

Tôi còn nhớ cách đây vài năm cháu ruột của một tỷ phủ nổi tiếng đất Sài Gòn theo cô giáo đến nhà tôi chơi. Tôi bảo hôm nay bác đãi cháu món ăn thời bao cấp. Tôi tự tay làm. Tôi lấy một ít mỡ lợn chung với nước cà chua, hành ta, cho một ít mỳ chính, nước. Nhân dịp gần Tết có ít xà lách ở ngoài quê gửi vào tôi cho cháu chấm ăn. Cháu chấm đến bạc trắng nước ra, còn ít chan ăn nốt.

Cháu bảo tôi chắc thời bao cấp nhà bác giàu lắm ...làm vợ tôi và cô giáo bật cười. Tôi bảo thời đó món này toàn dân đều ăn...! Rồi cháu nói tiếp: sao các món bố cháu cho ăn ở nhà hàng sang trọng nhất Sài Gòn, kể cả súp yến sào cháu cứ thấy nhạt thếch. Bác nhớ Tết năm sau bác cho cháu ăn "Món bao cấp".

Thời đó ăn khổ nhưng món gì cũng ngon miệng vì không ai sống so đo bon chen luôn yêu thương lẫn nhau, không ai phải lo sợ khi đi ra đường, không ai lo con mất đạo đức, nghiện hút, tiêu cực, tham nhũng gần như không có từ đó trong "TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT".

Thuở ấy

Thuở ấy, người già, người trẻ, sinh viên gặp nhau là chỉ nói đến mỗi một chuyện là "ăn".

>

Bữa cơm thời bao cấp

Nhớ sao những ngày nghỉ về quê, bắt cá rô đồng, lươn chạch là một bữa cải thiện. Chiều thu mát nhẹ, cả nhà quây quần bên mâm cơm có canh rau tập tàng, cơm trộn mỳ sợi và đĩa cá rô rán - sao mà ngon, mà thơm lừng lựng đến tận bây giờ... Nhưng cũng thuở ấy, đi học xa hơn 10 km mà cứ cuốc bộ suốt, chứ đâu có xe máy, ôtô như bây giờ.

Thuở ấy, không thấy có người bị bệnh gút, béo phì, máu - gan nhiễm mỡ vì mọi người đều thiếu ăn - mọi người đều gầy guộc. Còn bây giờ, người ta hỏi nhau mua gạo nào ngon, ở đâu - chứ không như ngày xưa họ hỏi nhau: Đong gạo ở đâu có nở không? (vì gạo xấu, nở thì ít gạo được nhiều cơm!!!). Và thuở ấy, sinh viên chúng tôi biết vá "píc - kê" mông quần và đầu gối (vì chỉ có 5m phiếu vải/năm, quần sờn rách mông và đầu gối được lót một tấm vải dày bên trong và khâu chần lại để gia cố, tăng thời gian sử dụng).

Thuở ấy, khổ nhất là mùa rét và mùa mưa. Mùa rét thì thiếu chăn đắp ấm phải mặc thêm trong người vài cái áo cũ rách cho đủ ấm đi ngủ và đắp thêm chiếu; còn khi trời mưa, nhà thì dột, đi đường có cái áo lành ướt mất rồi, choàng một tấm vải ni lông hình chữ nhật tránh mưa, gió thổi tứ bề, mặt mày tái xám... người dân đi làm đồng càng khổ - chứ đâu có nhà tầng, đệm Hàn Quốc và quần áo rét lỗi thời nhét đầy tủ mà không dùng đến như bây giờ.

Thuở ấy "vời vợi tuổi thơ một cỗ bánh đa vừng", cái kẹo lạc - chứ đâu có nhiều bánh trái xếp đầy tủ mà trẻ không thèm ngó ngàng đến như bây giờ...

Chỉ có điều: Những cánh đồng quê bát ngát ngào ngạt hương lúa thơm khi làm đòng và ngào ngạt rơm thơm vào mùa gặt thì, bây giờ đang mọc lên những khu công nghiệp với bê tông, bụi khói và tiếng ồn. Đi ra đường bây giờ như đang đi ở Nhật Bản vào những thế kỷ 17-18 vì gặp toàn "ninja" (áo chống nắng, khẩu trang, găng tay, đội mũ kín mít đến vợ chồng gặp nhau ngoài đường cũng đố có nhận ra nhau???). Nhưng, ngày xưa toàn trồng lúa mà vẫn quanh năm thiếu ăn, ngày nay diện tích trồng bị thu hẹp lại mà vẫn thừa ăn, được xuất khẩu lúa gạo. Chỉ có điều lẽ ra, cùng với sự phát triển chung của kinh tế xã hội thì phải có sự phát triển đồng bộ về môi sinh, môi trường và ý thức của con người, đằng này ở mình có sự phát triển đấy nhưng lôm côm, vô tội vạ, thiếu quy hoạch...

Tuổi thơ 7X ở Hà Nội

Năm 1979, bố đi công tác Sài Gòn, mua được cái tivi cũ đen trắng Sanyo 14” quả là chuyện kinh thiên động địa. Lúc đó đã có mấy nhà trong xóm có tivi đâu. Ăn cơm chiều xong, tôi tự ngồi vào học bài thật nhanh để 7h được ngồi trước tivi thưởng thức chương trình Những bông hoa nhỏ.

Gia đình tôi là một gia đình công chức như bao gia đình thời đó. Bố mẹ mải mê đi làm cũng chỉ đủ nuôi chúng tôi ăn học chứ đừng mơ những thứ xa xỉ như đồ chơi hay quần áo đẹp.

Nhà có 3 anh chị em, tôi là con út nên phần nào cũng được ưu tiên hơn. Nhưng tôi cũng hiểu và thương bố mẹ tranh thủ giờ nghỉ hoặc tan làm phải xếp hàng mua chút thịt cải thiện cho bữa ăn gia đình, xếp hàng mua mớ rau, phần ngọn người ăn, còn phần già băm cho lợn, thương anh trai khi anh phải dậy thật sớm để ra máy nước công cộng xếp hàng lấy từng xô nước rồi sau giờ học lại tất tả xếp hàng mua dầu hỏa, nước mắm, chị gái dậy từ 3 giờ sáng để ra cửa hàng gạo xếp hàng mua gạo, trong khi giờ đó tôi còn ngon giấc. Từ “ xếp hàng” là từ xuất hiện nhiều nhất trong từ điển thông dụng, hoặc nếu thời đó có Google, chắc nó sẽ có đứng đầu trong cái công cụ tìm kiếm.

Chỉ đôi ba lần tôi phải đi mua thực phẩm bằng bìa C của bố. Nơi bán cho cán bộ có bìa C là chùa Kim Sơn ở góc phố Kim Mã - Giang Văn Minh bây giờ. Cửa hàng thực phẩm đó dành cho tiêu chuẩn ưu tiên, không cần phải xếp hàng nên tôi có thể đi bất kỳ lúc nào. Ra đó rồi chìa cái giấy mà bố mẹ đã cẩn thận gói trong túi ni lông cho tôi, đưa cho cô mậu dịch viên rồi cầm thịt về. Đơn giản vậy thôi nhưng với tôi lúc đó như là một chiến tích vậy. Còn những loại tem phiếu khác, với tôi, chúng là một bảng màu đủ sắc hồng, vàng, xanh, đỏ. Mẹ thường nói vui với tôi rằng bảng màu đó là sự sống của cả gia đình. Đấy thực sự mới là cuộc sống muôn màu.

Nhà nuôi lợn, đó là nỗi vất vả của cả nhà nhưng lại là niềm vui của tôi. Anh chị phải sang hồ Hào Nam vớt bèo cho lợn ăn, bố mẹ tranh thủ giờ nghỉ trưa đi mua cám, còn tôi, tôi chăm sóc lợn bằng cách lấy nước dội chuồng, tắm cho nó và lấy lược chải lông. Con lợn vì thế rất thích tôi, mỗi khi thấy tôi là nó lại nằm uỵch ra sàn để chờ tôi chải lông cho nó. Nó là bạn mỗi khi cả nhà đi làm và đi học.

Buổi sáng, bố mẹ đi làm, anh chị đi học nên tôi thường xuyên ở nhà một mình, với cái khóa cửa to lù và chìa khóa treo lủng lẳng ở cổ.

Đến giờ vẫn không hiểu tại sao phải khóa cửa khi mà trong nhà chả có vật gì gọi là đáng giá. Nhà chỉ có giường tủ, bàn ghế, 1 cái đài được treo trên tường giữa 2 phòng của căn nhà và tài sản lưu động là con lợn. Ờ, hay là sợ bị trộm bắt lợn ???

Đến trưa anh chị đi học về, nấu cơm cho tôi ăn, cho tôi ngủ rồi đến chiều, tôi tự đi học. Thời đó, kể cả là lớp 1 thì cũng tự đi bộ đi học chứ đâu có xe đón xe đưa như giờ.

Phương tiện thông tin giải trí duy nhất của cả nhà lúc đó là cái đài phát thanh to bằng quyển từ điển Anh Việt loại dày. Vì thế nên đến giờ tôi vẫn nhớ như in giờ các chương trình như 6h30 sáng thứ Bảy và Chủ nhật là có chương trình Chuyện kể ở đại đội, 7h tối thứ 7 là chương trình kể chuyện cảnh giác, 4h30 chiều hàng ngày là chương trình dân ca và nhạc cổ truyền, 10h tối là kể chuyện đêm khuya hoặc tiếng thơ…

Đến năm 79, bố đi công tác Sài Gòn, mua được cái tivi cũ đen trắng Sanyo 14”. Trời, quả là chuyện kinh thiên động địa. Lúc đó đã có mấy nhà trong xóm có tivi đâu. Ăn cơm chiều xong, tự ngồi vào học bài thật nhanh để 7h được ngồi trước tivi thưởng thức chương trình Những bông hoa nhỏ. Từ 7h đến 9 – 10h tối, nhà tôi lúc nào cũng chật ních người, trong căn phòng 12m2 có cái tivi để ở vị trí thật là trang trọng. Hàng xóm từ lớn đến bé, ngồi trật tự, chăm chú như nuốt từng lời của phát thanh viên truyền hình hoặc lời thoại của nhân vật trong bộ phim hay vở kịch được trình chiếu. Cả xóm lúc đó hình như có 3 cái tivi, mà ngồi trước nó, bao giờ cũng là đám đông ngưỡng mộ như vậy. Thật lạ là chủ của mấy cái phương tiện truyền thông đó không bao giờ cảm thấy phiền hà gì khi nhà mình tối nào cũng chật ních như vậy. Tình người thời đó thật đáng ngưỡng mộ gấp nghìn lần cái máy phát hình.

Xóm tôi ngày xưa bé tí và ngắn, không dài miên man như bây giờ. Mọi người trong xóm biết hết nhau, tên của nhau cũng thuộc kể cả đứa trẻ bé tí. Nhà nhà cách nhau cái giậu dâm bụt, cổng tự chế bằng những thanh tre được buộc vào nhau bằng những sợi dây thép. Cây cỏ hoa lá vô kể. Ngày đó buổi tối hay mất điện. Bọn trẻ chúng tôi chỉ chờ ánh điện tắt phụt là xông ra đường với bao trò chơi thú vị: ném ống bơ, bịt mắt bắt dê, trốn tìm… Hôm nào đúng tuần rằm có trăng thì đúng là thiên đường với chúng tôi.

Rằm Trung Thu, mẹ thường làm cho tôi bông hoa sen bằng quả bưởi để đi góp cỗ cùng các bạn trong xóm, để rồi thật tự hào với bọn bạn khi bọn chúng khen mẹ mình khéo tay quá. Đèn ông sao chơi hết năm này qua năm khác, hết Trung thu, bố lại lấy ni lông bọc vào rồi cất lên gác xép cho tôi. Trung thu năm sau lại mang ra chơi tiếp, vẫn mới như thường.

Tết là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm. Bố mẹ luôn chắt chiu để các con có bộ quần áo mới. Rục rịch mua lá dong, gạo nếp, đỗ xanh và thịt để chuẩn bị nồi bánh chưng. Mẹ chuẩn bị bột mỳ, đường, trứng để chị mang đến hiệu làm bánh quy gai của nhà bác ở phố Huế. Chiều 30 Tết, nhà lúc nào cũng đông vui vì các bạn của anh trai tập trung ở nhà tôi thành thông lệ. Sáng mùng 1 Tết, thò cổ ra ngoài cửa hít hà cái mùi của bánh pháo mọi nhà vừa đốt và không khí lành lạnh của Năm mới, thấy cuộc sống thật đáng yêu. Được xúng xính quần áo mới và đi chúc Tết nhà các bác, cô chú, nhận chút tiền mừng tuổi rồi cất thật kỹ. Thế mới là Tết chứ.

Cứ thế, tuổi thơ của tôi đồng hành với những câu chuyện nhỏ nhặt như thế, nhưng chẳng bao giờ quên được. Nhưng thực lòng tôi không hề oán trách gì cuộc sống lúc đó. Nhờ có nó mà anh chị em chúng tôi lớn lên và trưởng thành với tình yêu thương vô bờ của bố mẹ. Ai đó đã nói một câu thật chí lý: có được mọi thứ hiện tại, là nhờ quá khứ.

Nhưng cuộc sống vẫn đơn thuần là cuộc sống. Đến giờ đã là vợ, là mẹ, tôi cũng phải tuân theo cái quy luật và dòng chảy của hiện tại. Đi chệch ra khỏi cái quy luật đấy, mình sẽ trở thành người đến từ Sao Hỏa trong mắt mọi người xung quanh.

Thôi thì đành hoài niệm trong tâm thức vậy. Vâng, tôi là người luôn hoài niệm với quá khứ, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù sung túc hay khốn khó, nhưng nó vẫn luôn là một miền ký ức đẹp trong tôi.

Hà Nội một thời có thể nào quên

Mỗi khi xa Hà Nội, khi ở Sài Gòn ồn ào, náo nhiệt, ở Sydney, Roma, Paris vẫn không thể nào nguôi ngoai nỗi nhớ về những con phố xao xác lá, quán cà phê bé xíu đầy ắp ghế, những con mưa phùn rả rích, và cả nơi mình từng ngồi uống bia hơi với người bạn vắn số....

>

Tuổi thơ 7X ở Hà Nội

Mình cũng là một người thế hệ 7X như bạn Bình, quả là khi đọc bài của bạn mình chỉ muốn "cho tôi xin một vé đi tuổi thơ" luôn. :D. Đúng là thế hệ của chúng mình ở HN những năm tháng ấy có nhiều thứ để nhớ về, để bâng khuâng, để man mác, như một mảnh hồn "quê" không bao giờ phai nhạt giữa một Hà Nội đang thay đổi đến chóng mặt.

Những năm 80 ấy sao mà nhiều cây cối thế, nhiều trò chơi dân gian, trò chơi tự chế thế (tự làm pháo hoa, tự hóa trang, vẽ mặt chơi bắn bùm, tự làm đồ chơi đồ hàng...), quá nhiều nhà nuôi lợn trong toilet (mà như Giáo sư Văn Như Cương thì lợn nuôi thì đúng hơn!), cả tháng may ra được bát phở, con ăn đến thìa nước dùng cuối cùng để bố mẹ phát xấu hổ; chuyện ăn ca ba (bột mỳ rán, khoai lang, sắn luộc...) buổi đêm thường xuyên, liên tục; tivi thì đã toàn đen trắng, lúc có hình lúc không, vỗ đau cả tay; bố mẹ công chức thi nhau dạy thêm, làm thêm, làm thuê chỉ mong đủ ăn cho con mà không xong; nhà nào có người đi nước ngoài về thì như đã được đổi đời, hàng xóm lác mắt; được vào Bách Hóa Tràng Tiền thì chắc còn mắt tròn mắt dẹt hơn nhiều dân nhà mình sang shopping ở Anh, Pháp, Ý, Hongkong...;

Trẻ con mong Tết đến vì được mặc quần áo mới (vì nhiều lúc có không được mặc, đợi đến Tết), được ăn ngon (có thêm thịt trong khẩu phần quá nhiều tinh bột hàng ngày), được đốt pháo, được mừng tuổi...

Bây giờ Hà Nội còn quá ít cây, không còn tàu điện leng keng, đồ chơi Trung thu truyền thống sắp đi vào dĩ vãng, hàng phở mọc lên như nấm mà chán nhiều hơn ngon, đường phố đông như nêm, khét lẹt từ sáng sớm đến tối.... nhưng sao mỗi khi xa Hà Nội, khi ở Sài Gòn ồn ào, náo nhiệt, ở Sydney, Roma, Paris vẫn không thể nào nguôi ngoai nỗi nhớ về những con phố xao xác lá, đường Phan Đình Phùng lá rơi đầy, quán cà phê Nhĩ bé xíu đầy ắp ghế, những con mưa phùn rả rích, nhớ Tháp Rùa mờ ảo trong làn sương mù trong những ngày đông, nhớ Hồ Tây óng ánh trong nắng chiều, nhớ phố Ngõ Gạch, nhớ Ô Quan Chưởng cổ kính và trầm mặc mình từng ngồi uống bia hơi với người bạn vắn số....

Tất cả kỷ niệm ấy sẽ khiến tôi chẳng thể định cư đâu xa Hà Nội được!

Đám cưới xưa và nay

Thời bố mẹ tôi (thập niên 60-70) chỉ gửi thiệp báo hỉ cho mọi người, chỉ có gia đình và bạn bè thực sự thân mới mời dự tiệc ở nhà hàng.

>Sợ đám cưới

Những người nhận được thiệp báo hỉ nhưng không được mời tiệc thường đăng báo chúc mừng nội dung đại khái là: Được tin ông bà... làm lễ thành hôn cho... , chúng tôi xin chúc mừng và chúc tân lang tân nương trăm năm hạnh phúc". Còn gia đình họ hàng thì gửi quà mừng, luôn luôn là trước ngày cưới. Tôi nhớ có bà bác, chị ruột mẹ tôi mừng mấy cái nồi nhôm mẹ tôi vẫn dùng mãi. Tới thời của tôi thì cũng phải lựa chọn khách mời.

Bây giờ thì không biết thực sự người ta có thật lòng muốn dự đám cưới không, ai cũng nói với bạn bè, người quen, đối tác... là khi nào cưới nhớ mời. Còn mình thì đi đâu cũng được hỏi địa chỉ hay cách liên lạc để mời cưới. Chị bạn vừa chuyển cơ quan còn chưa quen biết hết đã được gửi thiệp ngay cả từ người chưa gặp bao giờ, mà mỗi ngày tốt thì tới 4, 5 cái. Gia đình thấy thế nói: Ai bảo trông bà sang thế, chắc là sẽ đi sộp nên người ta mới mời đấy.

Khổ nỗi thời nay không đi tiệc cũng phải gửi tiền mừng, ít ra cũng 70- 80 % nếu đi dự. Gặp ai làm cơ quan có đông nhân viên thì không phải sợ nữa mà là hãi hùng. Mời nhiều nên không biết ai đi ai không, cô dâu chú rể vừa chào bàn vừa tính xem có lỗ không nếu nhiều bàn trống. Nhưng theo cách tính ngày nay thì thường chỉ hòa đến lời, trường hợp cha mẹ đương chức đương quyền thì càng lời to. Chỉ có người được mời tính thế nào cũng lỗ. Đó là nói về chi phí đãi tiệc thôi, còn nếu tính chung cả các chi phí áo cưới, ảnh , xe cộ..., nếu thích hoành tráng thì phải tính toán, sao lại tính vào người được mời chứ?

Có câu "Phú quý sinh lễ nghĩa" nhưng thiết nghĩ ngày nay phải nói "Sĩ diện sinh thực dụng" thì đúng hơn. Nói thật, tôi chẳng thấy mất mặt hay buồn phiền khi không nhận được lời mời của những họ hàng "đại bác bắn không tới" và những bạn bè, người quen mời mình chỉ để nhắc sự tồn tại của họ tí nào.

Tấm lòng người Hà Nội

Ngày ấy, cứ sáng ra là chúng tôi hẹn nhau ở Hồ Thiền Quang rồi đi nhờ xe đạp của những người đi đường để đến trường. "Cô ơi, chú ơi... có đi thẳng không cho chúng cháu đi nhờ với!". Thế nào cũng có mấy người dừng xe đạp lại cho chúng tôi đi cùng.

Đó là những năm đầu thập niên 70. Thời đó chúng tôi là những đứa trẻ sống trong những con phố xung quanh hồ Thiền Quang và Công viên Thống Nhất. Chúng tôi cùng học ở một trường năng khiếu ở Ô Chợ Dừa, ngày ngày phương tiện đến trường của chúng tôi là cuốc bộ, nhưng không mấy khi chúng tôi phải đi bộ cả quãng đường Khâm Thiên dài đến vậy vì luôn có những tấm lòng cho chúng tôi đi cùng xe đạp.

Ngày ấy, cứ sáng ra là chúng tôi hẹn nhau ở Hồ Thiền Quang rồi đi nhờ xe đạp của những người đi đường để đến trường. "Cô ơi, chú ơi... có đi thẳng không cho chúng cháu đi nhờ với!". Thế nào cũng có mấy người dừng xe đạp lại cho chúng tôi đi cùng, mặc dù họ không quen biết nhau nhưng vẫn cố gắng đi gần nhau để cho lũ trẻ chúng tôi buôn chuyện nữa chứ.

Ôi, những ngày ấy sao lại in đậm trong tôi đến vậy! Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả, tôi cũng đã xa Hà Nội hơn 20 năm rồi, nhưng những ký ức đẹp về Hà Nội luôn là hành trang để tôi đi tiếp suốt cuộc đời này.

Nhớ quá Hà Nội ơi.....

Mong đến Tết để về quê Hà Nội

Thời bao cấp việc đi từ Hải Phòng về Hà Nội cả là sự vất vả, thông thường phải xếp hàng từ 3 hoặc 4 giờ sáng để xếp hàng mua vé (nếu vào dịp ngày Tết cổ truyền thì phải thức cả đêm). Việc đi lại rất vất vả, ấy vậy mà tôi lúc nào cũng háo hức, chỉ muốn nhanh đến Tết để lại được về quê.

Bố mẹ (Thày U) tôi sinh ra ở Hà Nội: Làng Yên Thái, Bưởi, do những biến cố xã hội nên năm 1955 cả gia đình tôi di cư xuống Hải Phòng và từ đó đến nay chúng tôi đã là người Hải Phòng.

Ngày bé tôi hay được U cho về quê chơi thăm bà nội ngoại, họ hàng. Bây giờ nghĩ về U, về Hà Nội xưa mà cảm xúc trong tôi buồn vui khó tả...

Thời bao cấp việc đi từ Hải Phòng về Hà Nội cả là sự vất vả, thông thường phải xếp hàng từ 3 hoặc 4 giờ sáng để xếp hàng mua vé (nếu vào dịp ngày Tết cổ truyền thì phải thức cả đêm). Lên được tàu hỏa (hoặc xe ô tô) là tốt lắm rồi! chẳng bao giờ tôi (mà có lẽ tất cả mọi người ngày ấy) đều có suy nghĩ là mình phải đi phương tiện đẹp, tiện nghi và an toàn. Chẳng thế mà có những lần U con tôi phải ngồi toa chở hàng (toa đen), không có ghế, không có cửa (chỉ là một đoạn xích sắt chắn ngang), đoàn tàu mười mấy toa được kéo bởi đầu máy hơi nước mà khi kết thúc hành trình thì mặt ai cũng đen kịt vì bụi than.

Thời gian chạy tàu có thể là 6 tiếng, 10 tiếng hoặc lâu hơn thế tùy thuộc và việc tránh tàu ở các ga lẻ. Xe ôtô cũng vậy, phương tiện chủ yếu là xe ca hoán cải từ xe tải IFA W50 của Đông Đức, vì vậy xe nào cũng xập xệ và thiếu an toàn, thời gian chạy được cái nhanh hơn tàu hỏa, song cũng không biết chắc được là bao lâu, bởi phụ thuộc vào việc qua các cây cầu Lai Vu, Phú Lương hay cầu Long Biên có thông nhanh hay không. .. Nói chung việc đi lại là rất vất vả. Ấy vậy mà tôi lúc nào cũng háo hức, chỉ muốn nhanh đến Tết để lại được về quê.

Mỗi lần đặt chân lên đất Hà Nội là một lần cảm xúc vừa quen, vừa lạ đan xen

cứ ùa về trong ký ức... khi hàng dài xe nối đuôi qua cầu Long Biên một cách chậm chạp, uể oải và rồi mãi cũng đến được bến Bến xe Long Biên nay là bến xe Buýt. Rảo bước một đoạn là đến Vườn hoa Hàng đậu với tháp nước cổ xưa (có lẽ Hà Nội bây giờ chỉ có Vườn hòa Hàng đậu là ít thay đổi ngoại trừ thiếu một bến đỗ tàu điện và người đi lại đông đúc hơn). Từ đây U con tôi bắt tàu điện để về Bưởi, suốt dọc đường vẫn là tiếng leng keng của tàu điện, tiếng nói cười của các bà, các chị người Làng Cổ nhuế, Trích Sài... sau buổi chợ đắt hàng với những quang, những gánh treo lủng lẳng nơi cửa sau của tàu điện, dưới đường thư thoảng có người đi xe đạp, đi bộ, kẻ quang gánh bán hàng... phản ánh sự yên ả, thư thái của Hà Nội xưa.

Các bến tránh tàu như Đền Quan Thánh (mà tiệm bán báo xưa nay vẫn còn đó), Vườn ươm, La pho (chả biết viết có đúng không nhưng tôi thấy mọi người hay gọi thế), công ty xe điện... mà các bến tránh này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian tôi được về đến nhà, không ít lần U con tôi phải chờ hàng tiếng tránh tàu. Về gần đến nhà là những bể ngâm vỏ cây dó nồng nồng bên dòng sông Tô Lịch hoang dại.

Ngày đó đoạn đường cạnh sông Tô Lịch từ cuối Thụy Khuê về đến là Đông, Làng Hồ còn ít nhà lắm, cỏ dại mọc lúp súp, nay thay vào đó là những nhà, những phố khang trang mất rồi. Làng Yên Thái quê tôi có nghề làm giấy bản, thời tôi còn nhỏ thấy giấy đó người ta làm tã lót cho trẻ em rất nhiều. Thư thoảng U tôi lại cho ra chợ Đồng xuân chơi và quà về Hải Phòng không thể thiếu một bánh pháo Trúc Bạch mỗi khi Tết đến xuân về.

Với tôi kỷ niệm về Hà Nội xưa thật khác, khác thể như bất kỳ một cái gì bây giờ người ta muốn phục dựng lại cũng không giống, không được như những gì tôi đã thấy ngày bé. Biết làm sao được khi vì sự phát triển tự nhiên Hà Nội không thể và không bao giờ có thể mãi giữ nguyên một hình ảnh yên ả, cổ xưa...

Thời mặc quần thủng đít đi học

Cả tuổi thơ chúng tôi học ở trường làng, cùng với đám bạn đi đất hoặc mặc quần thủng đít đi học. Cứ giờ ra chơi, cả lũ lại hò nhau lội ra Hồ Tây để bắt ốc và bắt chuồn chuồn.

Nhà tôi ở phố Thuỵ Khuê, ngay gần Hồ Tây. Ký ức tuổi thơ của tôi là tiếng tàu điện leng keng, làm tôi không thể ngủ lâu được và luôn bị mẹ cấm không được chạy ra ngoài đường vì sợ tàu điện chẹt.

Cả tuổi thơ chúng tôi học ở trường làng, cùng với đám bạn đi đất hoặc mặc quần thủng đít đi học. Cứ giờ ra chơi, cả lũ lại hò nhau lội ra Hồ Tây để bắt ốc và bắt chuồn chuồn. Nhiều chuồn chuồn lắm, chuồn chuồn lột xác và đậu ở đầu ngọn cỏ loại gì đó, rất to và nhiều chẽ, những con chuồn chuồn ngô to màu vàng và có sọc ngang làm bọn tôi mê tít.

Ốc và hến chúng tôi mò hoặc nhặt được khi mà chúng đang bám chặt vào các viên đá dưới nước, chúng tôi gom lại để cuối ngày mang cho một bạn trong lớp có bố mẹ chuyên đi mò ốc.

Cha mẹ tôi là công chức nên tôi may mắn hơn các bạn khác vì không phải mặc quần áo rách đít nhưng không phải vì thế mà có khoảng cách, lũ chúng tôi chuyên chui bờ rào vào nhà chùa để ăn trộm nhãn vì chùa ở gần trường, hay lội Hồ Tây để bắt ốc hoặc bơi xuồng để hái rau muống cho bà.

Lũ chúng tôi cũng không có ấn tượng về bầy sâm cầm nhỏ nhưng chỉ hay bảo nhau hôm nay sao nhiều vịt trời thế nhỉ, vì chúng ở tít mãi giữa hồ, mờ mờ xa tít, chỉ thấy thấp thoáng cái gì vụt lên, vụt xuống, nhất là những ngày cuối thu đầu đông vịt trời hay sâm cầm bay đi trú đông thành từng vệt màu thẫm, như những chấm nhỏ nhỏ trên nền trời...

Hà Nội những ngày thơ ấu giờ không còn nữa, cứ mỗi chiều không rõ người ở đâu ra mà nhiều thế, như kiến vậy.

Tôi chỉ còn biết nhớ mãi một tuổi thơ tôi ngày nào, một Hà Nội đơn sơ mộc mạc và yêu dấu...

Hà Nội ơi...

20/11 hồi xưa, cả lớp tôi rủ nhau đi kiếm tiền

Bọn con trai thì chia làm hai nhóm, một thì mang bơm xe rải từ Giáp Bát đến tận công viên Lê Nin để bơm xe đạp (thời ấy xe đạp là chủ đạo, bơm xe cũng kiếm được kha khá tiền), nhóm còn lại đi dọc bờ sông chảy từ trường đại học kinh tế quốc dân bây giờ đến tận làng Tám để cuốc lươn.

Nhà tôi ở phố Đại La, gần phố Minh Khai (Hà Nội). Thủa còn đi học phổ thông, bọn tôi cũng hay ra chợ Mơ mua cá chọi. Có lẽ thời ấy, lũ trẻ chúng tôi cũng chả có nhiều trò để chơi nên những trò chơi thường gắn với những gì có quanh mình. Đúng như

bạn Vinhtran nói

, chúng tôi cũng nghĩ cá chọi chợ Mơ không chiến bằng cá chọi chợ Đồng Xuân, thế nên, có những hôm bọn tôi trốn học thêm, đạp xe lên tận chợ Đồng Xuân, Nghi Tàm để mua cá, có khi là cá chọi, có khi là cá cảnh. Mất công lên phải mua được con cá chọi được "om" kỹ, vẩy dày, đuôi dày, để khi đánh nhau không bị bong vẩy, "xù" mới đẹp.

Tàu điện bánh sắt chỉ còn một thời gian ngắn, sau đó người ta thay bằng tầu điện bánh hơi, đi nhanh hơn, êm hơn, rộng hơn nhưng khó trốn vé hơn... Nhưng thủa ấy, khi kinh tế thị trường chưa mở, mỗi khi mùa đông về, phố xá phủ đúng mầu như trong bài hát Hà Nội phố của nhạc sĩ Phú Quang, một mầu xanh xám, ảm đạm nhưng rất đẹp, giờ ánh đèn của các loại biển quảng cáo đã làm mất đi cái vẻ đẹp ảm đạm đó. Hai bên đường Đại La mỗi giờ đi học về, hàng cây bằng lăng đứng trơ trụi những cảnh đã rụng hết lá, giờ chắc cũng không còn nhiều. Bây giờ không còn ở đó, nhưng mỗi lần đi qua phố Đại La, lại thấy đâu đây mình và các bạn đang đi học, đầu đội mũ nan, chân đi giầy ba ta, bát kết.

Hè thì sơ mi, đông về bện đủ các loại áo mà vẫn rét, nhiều khi phải làm một cái hỏa lò nhỏ bằng ống bơ sữa bò để đốt than trong đó để thỉnh thoảng hơ tay cho đỡ lạnh. Rồi thì mỗi khi gần Tết, lại trốn học, đạp xe vào Bình Đà mua thuốc pháo. Biết là nguy hiểm, nhưng việc chuẩn bị làm pháo phải từ rất sớm. Góp nhặt từng tờ báo, vót que tre cho tròn, trơn để quấn vỏ pháo. Bọn tôi làm đủ loại pháo, từ pháo tép, pháo đùng, pháo cối, pháo nhị thanh và cả pháo ném. Giờ nghĩ lại thấy nguy hiểm, nhưng lại vui. Giờ bạn bè, mỗi đứa một nơi, có người thì không còn nữa.

Nhớ ngày 20/11, cả lớp lại rủ nhau đi kiếm tiền. Bọn con trai thì chia làm hai nhóm, một thì mang bơm xe rải từ Giáp Bát đến tận công viên Lê Nin để bơm xe đạp (thời ấy xe đạp là chủ đạo, bơm xe cũng kiếm được kha khá tiền), nhóm còn lại đi dọc bờ sông chảy từ trường đại học kinh tế quốc dân bây giờ đến tận làng Tám để cuốc lươn, sông bẩn nhưng không bẩn như bây giờ, cuốc nửa ngày được đầy một xô lươn đem bán cũng có tiền. Bọn con gái thì lo mua sắm, chuẩn bị quà đến mừng cô. Quà cũng chả có nhiều, vì cũng chả có gì để mua. Mua được một bánh pháo, năm cân cam, một bó hoa chỉ có thược dược, đồng tiền và violét, một quyển sổ ghi chép, thế thôi. Thế nhưng khi mang đến nhà cô, cô còn mất công cắt cả năm cân cam cho cả lớp ăn, vui lắm. Giờ thì cô không còn nữa.

Thoáng đã hai, ba chục năm sắp đi qua rồi, nhanh thật.

Nhớ quá ngày xưa

Bọn trẻ chúng tôi, ngoài giờ học thì đi bêu nắng, mỗi đứa lủng lẳng một cái chìa khoá nhà đeo dưới cổ, dính chuồn chuồn bằng nhựa kếp, chơi khăng, đánh quay, đá bóng ngoài vỉa hè bằng quả bóng nhựa.

Nhà tôi ở cuối đường Trương Định, con đường vắng vẻ, hàng cây cơm nguội hai bên, đến xe đạp qua lại cũng thưa thớt.

Bọn trẻ chúng tôi, ngoài giờ học thì đi bêu nắng, mỗi đứa lủng lẳng một cái chìa khoá nhà đeo dưới cổ, dính chuồn chuồn bằng nhựa kếp, chơi khăng, đánh quay, đá bóng ngoài vỉa hè bằng quả bóng nhựa.

ối đến thì điện đóm lờ mờ, có lúc chỉ nhòm thấy mỗi cái sợi tóc đèn 75W sáng, nhà nào cũng dùng Sút-măng-tơ tăng số cao nhất, mất điện thì thường xuyên... tivi thì nhà đài chỉ chiếu 1 kênh duy nhất vào tối thứ tư, bảy, chủ nhật (chủ nhật thì có thêm buổi chiếu lúc 2 giờ chiều ).... và nhiều thứ nữa...

Nhớ quá, bao giờ cho đến ngày xưa...

Xóm nghèo ở Hà Nội của tôi

Tôi sinh ra trong một khu phố nghèo ở Hà Nội với những gia đình công nhân viên chức. Ông bà nội ngoại của tôi không phải gốc Hà Nội, nhiều người bạn trong xóm của tôi cũng phải là gốc Hà Nội nhưng chúng tôi từ nhỏ đã được dạy dỗ cách sống sao cho phải đạo, kính trên, nhường dưới.

>

Ký ức Hà Nội xưa

Lũ trẻ trong xóm tôi ra khỏi nhà thấy người lớn là lễ phép chào hỏi. Tôi còn nhớ hồi xưa cả xóm chung nhau một cái máy nước công cộng, con trai xách nước giúp con gái luồn xô vào đòn gánh. Trẻ con thì giúp người lớn múc nước hứng từ chậu vào xô. Xóm có một cụ già nghèo bị mù sống đơn độc, mỗi ngày một gia đình gánh nước giúp cụ đổ vào thùng phuya.

Cả cái xóm nghèo yêu thương, đùm bọc nhau như vậy đấy. Đến bây giờ lũ trẻ chúng tôi đã lớn, có nhiều đứa đã xa Hà Nội giống tôi, nhiều người già cũng đã mất. Nhưng mỗi lần quay trở lại xóm nhỏ ấy, tôi vẫn cúi chào những người lớn tuổi mà tôi không còn nhớ, hoặc không hề biết tên.

Mọi người cứ chê Hà Nội, tôi nghĩ chỉ đâu đó những hình ảnh không đẹp, mà nó không chỉ có ở riêng Hà Nội. Đối với tôi Hà Nội vẫn có những khu phố, những xóm nhỏ đầy tình người, lễ nghĩa như cái xóm nhỏ thân yêu của tôi.

Ký ức Hà Nội xưa

Tôi ở miền nam, cảm xúc về Hà Nội của tôi thật lãng mạn và ít ỏi qua những tác phẩm văn học thời còn học trung học. Hà Nội có Hồ Gươm, có 36 phố phường, Hà Nội với trai thanh gái lịch...

>

Thời tôi học Đại học, đi tàu điện thì phải biết nhường chỗ

Năm 1986, lần đầu tiên tôi có dịp đi công tác ra Hà Nội với bao cảm xúc. Tôi nhớ như in và đầy ấn tượng về người Hà Nội cho đến bây giờ, xin kể lại chuyện thứ nhất: Tôi và một người bạn xếp hàng rồng rắn mua kem ở phố Tràng Tiền, chờ đợi hồi lâu thì những người xếp hàng phía trước bảo: "các bác là người miền Nam ra à, xin mời các bác lên phía trước, không phải xếp hàng" và dắt chúng tôi lên quầy kem, chúng tôi mua mỗi người hai cây kem và đi bộ xuống bờ hồ, lòng thấy vui vui.

Chuyện thứ hai: Ngay buổi tối hôm đó, chúng tôi rủ nhau đi xem một vở chèo diễn ở TT Hữu nghị Việt Xô, tất cả mọi người đều xếp hàng mua vé và những người đang xếp hàng phía trước lại "mời các bác miền Nam" lên trước lấy vé.

Tôi kể ra hai chuyện này không thật văn vẻ lắm nhưng nó làm cho tôi ấn tượng và luôn nhớ về cách ứng xử quá đẹp của người Hà Nội cho đến bây giờ.

Tôi mong người Hà Nội luôn "quá đẹp" như vậy.

Thời tôi học Đại học, đi tàu điện thì phải biết nhường chỗ

Lên tàu thì một chuẩn đạo đức là phải biết nhường chỗ cho các cụ già, phụ nữ, thậm chí cả bạn nữ. Bạn sẽ được nhìn bằng con mắt không thiện cảm thậm chí khinh thường nếu không biết làm việc đó.

> Ứng xử của một số 'trí thức' trẻ trên xe buýt

Trong những năm 60 thế kỷ trước, Hà Nội còn dùng tàu điện, và tôi đi học suốt những năm đó thường dùng tàu điện để đi lại. Lên tàu thì một chuẩn đạo đức là phải biết nhường chỗ cho các cụ già, phụ nữ, thậm chí cả bạn nữ. Bạn sẽ được nhìn bằng con mắt không thiện cảm thậm chí khinh thường nếu không biết làm việc đó.

Nếp sống đó tồn tại khá lâu, trong suốt một chiều dài của lịch sử Hà Nội. Rồi chúng tôi phải lên đuờng xa Hà Nội, khi quay về thì nay đã già. Thấy cuộc sống khác xưa nhiều khi thấy buồn.

Nhưng trên báo chí thấy nhiều người vẫn bức xúc với những hiện tượng không tốt thì hy vọng là chúng ta vẫn có thể vãn hồi cái văn hoá ứng xử tốt đẹp nơi công cộng mà nhiều thế hệ đã mất bao công sức xây đắp. Người ta khi làm việc tốt thấy trong lòng vui suớng, đấy là tín hiệu của văn minh, còn cứ trơ ra như gỗ đá, không thấy xấu hổ thì đó là tín hiệu của sự sụp đổ.

MÓT KHOAI NGÀY THƠ BÉ

POSTED BY

ADMIN

ON FEB 22, 2012 |

LEAVE A COMMENT

Giữa chiều đông giá lạnh, đứa bé quê nghèo đưa mắt tìm những mầm khoai tím tím xinh xinh trên đám ruộng khoai lang nhà ai vừa thu hoạch…

Đã xa lắm rồi hình ảnh những đứa trẻ quê nghèo, tay xách cuốc, tay cầm bị đi mót khoai trên những ruộng khoai lang sau mỗi mùa thu hoạch. Nhưng cho đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác lâng lâng, sung sướng khi vác trên vai một bị khoai đầy, háo hức chạy về khoe với mẹ trong những chiều đông lạnh giá.

Sau khi thu hoạch vụ hè thu, người quê tôi trồng những ruộng khoai lang xanh tím cả triền đê. Vào cuối vụ đông là mùa thu hoạch khoai lang ở quê tôi. Đấy cũng là thời điểm tôi và mấy đứa bạn trong làng “ hành nghề” mót khoai. Khi những bác nông dân hoàn thành công việc bới khoai của mình là lúc chúng tôi dùng cuốc ban từng luống đất, tìm những củ khoai lang còn sót lại.

Mót khoai trên những đám đất vừa thu hoạch xong hơi vất vả, nhưng nếu đợi một tuần sau thì công việc sẽ dễ hơn nhiều. Những củ khoai ủ mình trong đất mẹ, nảy mầm vươn lên khỏi mặt đất . Lũ trẻ chúng tôi đưa mắt tìm những mầm khoai ấy rồi dùng cuốc đào nhẹ củ khoai lên, nhặt cho vào bị. Chỉ khoảng một tiếng đồng hồ đi mót khoai là có một bị khoai đầy mang về cho mẹ. Bố mẹ tôi là công chức, không có đất trồng khoai, nên với tôi, những củ khoai mót được thật là đáng quý. Nồi khoai mẹ nấu đãi cả nhà sao mà ngon thế, bốc khói nghi ngút, thơm ngát giữa chiều đông. Còn tôi, tự hào lắm bởi đó là thành quả lao động của mình. Món khoai luộc đã ngon vì thế lại càng ngon hơn nữa.

Có những chiều đông bờ đê rộn rã tiếng cười đùa trẻ thơ. Khi những chú bò nhởn nhơ gặm cỏ là lúc chúng tôi chia nhau đi tìm khoai, tìm củi về nhóm lửa nướng khoai. Chẳng mấy chốc, những củ khoai đã vùi mình trong đống lửa. Lũ trẻ chúng tôi chụm lại chờ đợi, hơ hơ những đôi bàn tay bé nhỏ trên lửa tìm hơi ấm, thỉnh thoảng phồng mồm thổi cho lửa bùng lên rồi lăn ra cười khi thấy mặt đứa nào cũng lấm lem củi lửa.

Những củ khoai được bóc lớp vỏ ngoài cháy đen, lộ ra lớp bột trắng tinh bên trong bốc mùi thơm ngát. Mấy đứa trẻ chia nhau từng miếng khoai nướng giữa chiều đông gió lạnh. Đứa nào cũng vừa thổi, vừa hít hà: “thơm quá!”. Nhiều khi nóng lòng muốn ăn, không kìm chế được, con Ti, thằng Tũn khều những củ khoai chưa chín, còn sượng, ra ăn.

Khoai nướng thơm, ngon, ngọt và bùi. Trong cái rét giữa chiều đông, ngồi trên triền đê gió lạnh, cắn từng miếng khoai nướng, cảm nhận hương vị ngọt ngào, thơm ngát, nóng hổi lan từng thớ thịt, ấm cả chiều đông.

Những mùa mót khoai ngày thơ bé dần đi qua. Những đứa trẻ quê nghèo ngày xưa ấy giờ đã khôn lớn, trưởng thành và đi khắp mọi miền đất nước. Nhưng những kỷ niệm ngọt ngào dệt nên tuổi thơ ngày ấy đã trở thành một phần quê hương in đậm dấu ấn trong tâm hồn mỗi người con xứ Quảng chúng tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: