truyen co tich

chhu voi voi nguoi quan tuong gia

Ngày xưa, vào đời nhà Lê, nhà vua có nuôi một con voi rất khôn, dùng để cỡi. Voi có 3 cái đai bằng vàng đeo chặt ở cổ. Đến thời Lê mạt vận, con voi không chịu ở với ai nữa. Voi bỏ vào núi ở Truông Đay Thùng. Người quản tượng (giữ voi) có tên là đội Mậu cũng về hưu. Năm 70 tuổi, ông đau yếu nghèo không tiền mua thuốc, phải lên núi kiếm rễ cây làm thuốc. Đang lúc ông lom khom đào rễ cây, thì con voi chạy đến, nhận diện ra người giữ mình khi xưa. Voi lấy vòi quấn ngang bụng đội Mậu, cắm ngà xuống đất, chảy nước mắt, tỏ tình thương nhớ. 

    Lúc đầu, đội Mậu hoảng hồn, không nhận ra voi, sợ voi vật mình chết. Đến khi thấy voi kéo tay mình để vào chỗ đai vàng đã phủ rêu mốc, tỏ ý bảo hãy lấy đi, thì ông mới nhớ ra con vật mình đã chăn giữ thương yêu ngày xưa. Ông nghĩ bụng: Nếu như cạy đai vàng ra, thì cổ voi sẽ đau đớn, sẽ chảy máu, tội nghiệp nó, nên ông xua tay, lắc đầu, tỏ ý từ chối không chịu làm vậy. 

    Nhưng voi không chịu, cứ lấy tay đội Mậu đặt vào chỗ 3 đai vàng ở cổ. Ông đành cố cạy, nhưng đến tối trời mà vẫn chưa cạy đai ra được. Ông cúi đầu lạy voi xin về, nhưng voi nhất định giữ ông lại. Đến gần canh hai, người quản tượng già vẫn không gỡ được đai vàng ở cổ voi. Ông khóc bảo voi: 

    - Ông quận ơi, chân tay tôi già yếu. Mà ở đây núi rừng tối tăm, nguy hiểm cho tôi lắm. Ông thương tôi với. 

    Con voi chừng như thông cảm, quỳ xuống cho đội Mậu leo lên lưng voi ngồi, rồi đưa ông về. 

    Khoảng chừng canh tư, thì về tới nhà. Vợ con đội Mậu thấy voi đi vào sân, sợ hãi toan bỏ chạy. Ông lên tiếng trấn an: 

    - Đừng sợ, Ông quận này thuở trước theo hầu Vua, tôi theo giữ ông. Hôm nay ông gặp tôi trên núi, ông thương, đưa về đó mà. 

    Trong vườn sẵn có mấy sào mía, đội Mậu bảo vợ con chặt hết, đem đãi cho voi ăn. Ông còn mua cả 3 quan tiền rượu mời voi uống nữa. Trời gần sáng, voi tỏ ý muốn đi, lấy vòi đưa hai cha con ông đội đặt lên lưng mình, rồi lại chở họ trở về núi. Đến nơi, thì trời sáng bạch. Voi lại bắt tay đội Mậu đặt vào chỗ có đai vàng, ý bảo phải lấy đai đi. 

    Ông Mậu bảo con: 

    - Ông quận đã cho, cha con mình phải nhận lấy. 

    Người quản tượng già bèn cùng con trai lấy dao cạy ra được 2 đai vàng. Máu chảy ướt đẫm cổ voi. Xót thương cho con vật có tình nghĩa, đội Mậu lạy voi xin thôi. Ông kiếm lá thuốc rịt vết thương cho cầm máu, rồi ông ôm chân voi, khóc từ giã. Đội Mậu đem số vàng voi cho về nhà. Từ đó, gia đình ông sống dư giã cho đến chết. 

    Khi quân Tây Sơn ra Bắc Hà, vua Quang Trung nghe dân chúng kể về con voi đời vua Lê đang ngự ở trên núi Đầu Tượng. Vua bèn sai quan quân vào núi tìm. Nhưng không ai thấy dấu vết của voi đâu nữa.

nang tien thu 9

Một bà cụ có một người con trai lớn, nhưng bà nghèo quá chẳng có tiền để hỏi vợ cho con. Ðêm nào thấy con trai nằm ngủ một mình bên bếp lửa, bà cũng ra đầu sàn ngồi nhìn trời mà khóc. Một đêm, sau khi khóc nhiều quá, bà ngã đầu vào cái vách ngủ mê đi lúc nào không biết. Một ánh chớp loé lên, bà cụ vội mở mắt thì thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo xanh, đi giầy xanh, chống gậy xanh, đứng trên ngọn cây mít. Hoảng quá, bà cụ định chạy vào bếp, thì thấy ông cụ già khoát tay, cất giọng hiền từ bảo: "Ta là tiên, biết bà đang khổ vì cảnh nghèo khó, không có tiền đi hỏi vợ cho con, nên ta giúp. Ngày mai bà bảo con trai bà đi theo hướng ta chỉ, cứ đi mãi đến ngọn núi có phiến đá trắng to như cái nhà kia, sẽ thấy chín nàng tiên xuống tắm. Con trai bà yêu cô nào, thì cứ lấy đôi cánh của nàng tiên ấy đem về nhà là được." 

    Nói xong Tiên ông biến mất. Mừng quá, bà cụ liền đẩy cửa, vào thổi bếp lửa cháy bùng lên, gọi con dậy, kể lại đầu đuôi câu chuyện vừ qua. 

    Tờ mờ sáng hôm sau, người con trai gói cơm, đeo ống nước, băng rừng, leo núi, leo hết núi này đến núi khác, đúng trưa mới đến chỗ tiên ông bảo. Một cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt. Hồ nước xanh biếc, trong vắt như gương, có đường xuống bến tắm, trên bờ hoa thơm, cỏ lạ đang đua nở khoe sắc cùng ong bướm, sỏi đá lấp lánh như kim cương. 

    Thấy nắng rung rinh, chàng đưa mắt ngó lên trời, bỗng từ trong đám mây hồng có chín nàng tiên mặc áo xiêm trắng, đang bay và hạ xuống dần. Chàng con trai nghèo liền nép vào bụi nhìn theo. Chín nàng tiên đã đứng trên các phiến đá ngọc, cởi cánh ra, lội xuống tắm. Nước trong, da các nàng tiên trắng ngần, nhìn cô nào cũng đẹp lộng lẫy như mặt trời mọc. Duy có nàng thứ chín là đẹp hiền hậu hơn cả. Tóc nàng đen mướt và dài như dòng suối, giọng cười trong và thanh như tiếng sáo ngân vang: miệng đẹp hơn hoa nở, mắt sáng như sao, khi nàng nhìn vào vật gì vật đó rực lên như có trăm ngàn ánh hào quang chói sáng. Chàng trai liền lẻn đến lấy trộm cặp cánh tiên của cô thứ chín, rồi trở về nhà. 

    Trống trên trời gióng bảy hồi khoan nhặt báo giờ các cô phải về tiên cung. Tám cô chị lên bờ, lắp cánh của mình và bay trước. Còn cô em mải đùa nghịch dưới làn nước mát, lên sau. Không thấy cánh tiên đâu nữa, nàng hoảng hốt cuống cuồng chạy quanh bờ. Trống trên trời vẫn giục giã, sắp đến giờ đóng cửa của thiên đình. Nàng tiên thứ chín lại chạy quanh bến nước chăm chú tìm lại, nhưng thông thấy. Nhìn dấu chân người còn in trên cát mịn, dấu chân trên đường xuống núi, biết có kẻ lấy đôi cánh của mình rồi, nàng vội vã cài lại áo xiêm, lần theo dấu chân đi mãi. Xế chiều nàng đến một ngôi nhà sàn nhỏ, dựng lẻ loi dưới chân núi. Nàng đang phân vân không biết đi ngả nào, thì một cụ đến bên nàng chào hỏi: "Cháu ơi! Ðường xa vắng vẻ, cháu đi một mình như thế này nguy hiểm lắm, cháu hãy vào nhà ta ăn cơm, uống nước rồi nghỉ lại đã." Nhìn nét mặt hiền hậu của bà cụ, nàng tiên gục đầu vào vai bà khóc, kể lại việc nàng bị mất đôi cánh tiên nên không về trời được. Bà cụ đưa nàng vào nhà. Chàng con trai sung sướng bước ra chào hỏi, rồi vào rừng bẻ măng, nhổ nấm đem về đưa mẹ nấu canh cho cô gái ăn. Tối chàng ngồi kéo đàn kơ ri - loại nhạc cụ réo rắt như đờn cò của người kinh - cho cô gái yên giấc. 

    ở đây một tháng, hai tháng, lúc đầu nàng tiên thứ chín hết sức nhớ mẹ, nhớ cha, nhưng được sự chăm sóc, trìu mến của bà cụ và chàng trai hiền hậu, siêng năng, nên nàng khuây khoả dần. Buổi sáng nàng cũng đi lên rẫy, vào rừng, buổi chiều nàng cũng ra giếng đội nước với chị em. 

    Nửa năm sau người con trai bà cụ lấy nàng tiên. Hai vợ chồng sống bên nhau rất hoà thuận, vui vẻ. Dân làng ví họ là cặp vợ chồng chim sáo - vì họ vừa xinh đẹp, vừa chịu khó làm ăn. Người chồng chưa bao giờ mắng vợ nửa lời. Chiều nào lên rừng về, chàng cũng cố tìm cho mẹ và vợ một ống mực thơm, một bó rau ngót, một bó măng, hay lưng gùi ngô non thơm sữa. Hai mùa, ba mùa, đến một đêm trăng tròn vành vạnh, nàng tiên thứ chín sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Từ đó, trong nhà càng thêm đầm ấm, vui vẻ hơn. Nhưng một hôm trời đang yên lành, bỗng có tiếng sấm ầm ầm, giận dữ. Mây đen, mây xám kéo đầy trời. Lửa đỏ rực, chớp nhằng nhịt dữ tợn Người vợ vừa cõng con ra đứng đầu sàn phía tây, đột nhiên thấy thiên lôi từ trên trời cầm búa nhảy xuống sân. Mặt giận dữ, Thiên lôi bảo rằng, hắn vâng lệnh Trời, xuống bắt nàng tiên phải về ngay, nếu không sẽ giết chết con nàng, giết cả chồng và người mẹ chồng của nàng nữa. Thương con, thương chồng quá, nàng tiên ngã gục xuống khóc nức nở rồi chạy vào nhà rút ba ống nứa dài vắt đầy sữa, nhẹ nhàng đặt con lên chiếu, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo Thiên lôi về thiên đình. 

    Chiều bà cụ và người chồng về nhà, không thấy nàng tiên, chỉ thấy đứa con nằm ngủ bên nắm tóc thơm của mẹ nó. Nhìn cây cối ngả nghiêng, cháy xém, biết có điều hung dữ xảy ra, chàng cõng con trên lưng, bước xuống cầu thang đi vào rừng, nhìn trời khóc suốt chín ngày đêm. Tiếng khóc ai oán, ấm ức nghe nghẹn cả cổ, đau cả lòng. Ðược tin, dân làng thương quá, rủ nhau giúp sức, góp của. Nhờ bác thợ rèn chuyên nghề chim sắt biết bay, đúc cho hai cha con người xấu số ấy một con chim công sắt. 

    Ðược chim sắt rồi, hai cha con ngồi trên lưng công bay vút lên trời. Qua mây hồng, mây bạc, mây xanh, đến sông Hằng sắp tới triều đình, thì công sắt không tài nào bay qua được. Gió to, sóng gầm dữ dội. Năm bảy lần con công cất cánh đều lao đao muốn rớt. Hai cha con đành ở bên này sông. Một hôm, người vợ ra sông giặt áo, đứa con nhỏ thấy mẹ, liền gọi lên. "Mẹ ơi!" Người vợ quay sang, hai vợ chồng nhìn thấy nhau, nhưng không gần nhau được. Ðau khổ quá, họ bưng mặt khóc. 

    Dân làng nhà trời thấy vậy vô cùng thương xót. Họ vào xin thiên đình cho hai vợ chồng được gặp nhau. Nhưng thiên đình không cho, viện cớ sắp gả nàng tiên thứ chín cho chàng trai thuộc dòng họ quyền quý. Không quản ngại, dân làng liên tiếp cử người đến gõ cửa, buộc thiên đình phải xử. Cuối cùng Ngọc Hoàng phải xuống lệnh nếu chồng cô thứ chín làm được mấy việc sau này mới lấy được con gái nhà trời. Thứ nhất là trong một ngày phải nhặt hết số vừng rơi trong khu rẫy dài bằng một khoảng chim bay mỏi cánh. Thứ hai là phải ăn hết những ớt gió đã chín trong một khu rừng ớt. Thứ ba là phải làm một cái nhà bằng kim cương thật đẹp giữa sông Hằng. Thương con, thương vợ người chồng phải nhận. Sáng hôm sau, hai cha con dậy thật sớm để nhặt vừng, nhưng mãi cho tới trưa, khi mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu mà vẫn chưa nhặt được bao nhiêu. Thấy thế, Tiên ông liền đọc phù chú, gọi một bầy chim sẻ đông nghịt, bay xuống nhặt hộ, chẳng mấy chốc đã hết nhẵn. 

    Nhưng còn rừng ớt chín đỏ kia làm sao hái hết cho được. Người chồng cố hái ăn , bụng nóng như lửa đốt, mắt đỏ xè, thế mà mới ăn được mấy quả. Tiên ông thấy vậy , liền niệm thần chú hoá ra một đàn chim chào mào bay xuống ăn giúp. Trong giây lát cả rừng ớt chỉ còn trơ lại cành lá. (Ðến nay người Hê- rê giải thích chim chào mào đỏ đít là do ngày xưa nó ăn ớt cứu người). 

    Ðã đến lúc phải xây nhà kim cương giữa sông Hằng chảy xiết. Chàng trai và dân làng đổ rất nhiều công đẵn gỗ thả xuống sông, nhưng gỗ dù nặng dù to mấy đều bị nước cuốn phăng đi như cuốn một cái lá. Một ngày không được, một tháng không được, một mùa không được, một năm không xong, hết phương kế, chàng trai ôm con ngồi bên bờ sông than khóc thảm thiết. 

    Thần cá liền ra lệnh cho cá chình, cá sấp, cá chép, lươn chạch, cua, rùa, cá lóc, cá nghạnh... đều bơi lại giúp. Một con chình to lớn quẫy mạnh, nhô đầu lên bảo: "Anh đừng lo, ngày mai anh sẽ có nhà đẹp và sẽ được gặp vợ. Hãy vui lên, đừng khóc nữa!" Quả đúng như vậy, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa thức giấc, bỗng có một ngôi nhà lấp lánh bằng kim cương hiện lên đồ sộ giữa sông. Chung quanh sóng vỗ rạt rào. Chiếc nhà do các loài cá xây nên, cá chình nhận làm cột, cá lóc làm sạp, cá sấp, cá chép làm mái nhà. Cá nghạnh làm xà, rùa làm bếp, cua làm móc chiêng, lươn, chình thì nối đuôi nhau thành một cái cầu tuyệt đẹp từ bờ ra đến giữa sông. 

    Ngọc Hoàng cùng thần hung ác thấy nhà đẹp mới chịu đem thuyền cho anh chàng nghèo sang sông gặp vợ. Còn bọn chúng thì hí hửng khiêng lúa, gạo, chiêng, ché ra nhà kim cương ở, chúng lao nhao tổ chức lễ ăn mừng. Nhưng khi vừa nhóm lửa nấu thịt thì rùa làm bếp bị nóng lưng quá lăn ngay xuống nước. Cùng lúc cá chình, cá lóc, cá sấp, cá trê... cũng lăn theo. Nhà đổ sập làm chìm cả lũ gian thần xuống dòng sông xẩy xiết đầy cá sấu, cá măng. Trời cao vòi vọi, sóng nước mênh mông trắng xoá. 

    Từ đó nàng tiên thứ chín và chồng được cai quản thiên đình, làm cho mưa rơi xuống, mát mẻ trần gian. Làm cho nắng chiếu xuống để cây cỏ xanh tươi, bốn mùa hoa nở. Lâu lâu họ chắp cánh bay xuống tắm ở suối ngọc rồi về thăm mẹ già và bà con quê cũ. 

nguu lang truc nu

Thuở xưa, vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ tên là Chức Nữ nên bỏ phế việc chăn trâu, để trâu đi nghinh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. 

     Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang, Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào tháng Bảy. Và khi tiễn nhau, Ngưu Lang Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được dương thế đặt tên là mưa ngâu. 

     Thời bấy giờ, sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả Ngọc Hoàng mới ra lịnh cho làm cầu để Ngưu Lang Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. 

     Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội mấy phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. 

     Bị hóa làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ họp lại sửa soạn lên trời bắc cầu Ô Thước. Và gặp nhau, nhớ lại chuyện cũ nên chúng cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. 

     Ngưu Lang Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen ngòi lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lịnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng lông xói xọi. 

    su tich hoa quynh va hoa mau don

Theo truyền thuyết, ngày xưa vào thời nhà Tùy (Dương Quảng 605 - 617) ở Dương Châu, Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy một cây trổ hoa đẹp... Cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh. 

    Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo: "Ai vẽ được loại hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng saụ.. có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh cực kỳ xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh. 

    Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châụ Hàng chục triệu ngày công lao động phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (cụm từ "dặm liễu" xuất phát từ đó, điển hình câu thơ: Dặm liễu sương sa khách bước dồn của Bà Huyện Thanh Quan). Kênh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đị Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui rồng uống rượu nghe đàn hát ca sang ngắm cảnh Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân. Vua thấy nàng nào thích ý cho vời vào hầu ngaỵ Chuyến tuần du của bạo chúa Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châụ Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên phương danh là Lý Thế Dân cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông vầy lớp trẻ khó chen chân lọt vào vườn hoạ Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627 - 649) nên giống hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngàọ Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Xem xong, một cơn mưa to rụng hết. 

    Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy trơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác!... Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa, ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi! Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". 

    Qua cuộc tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơị Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường. 

    ... Đến đời Đường Cao Tông, say đắm Võ Hậu, lúc Vua băng hà con còn nhỏ, Võ Hậu chuyên quyền nhiếp chánh hãm hại công thần, tự xưng vương, đổi nhà Đường thành nhà Đại Châu, xưng hiệu Võ Tắc Thiên hoàng đế. Một hôm, Võ Tắc Thiên ngự du vườn thượng uyển nhìn cỏ cây xác xơ trơ trọi liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn: 

    Lai triều du thượng uyển - Hỏa tốc báo xuân trị 

    Bách hoa liên dạ phát - Mạc đãi hiểu phong xuỵ 

    Dịch: (Bãi triều du thượng uyển - Gấp gấp báo xuân haỵ 

    Hoa nở hết đêm nay - Đừng chờ môn gió sớm). 

    Linh ứng thay! Trăm hoa phụng mệnh, chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian! Rạng sáng hôm sau, Võ Tắc Thiên dạo vườn trông muôn hồng ngàn tía ngoan ngoãn đua chen nở rộ, lấy làm tự mãn cho rằng quyền uy tột đỉnh. Bất giác, bà Chúa bạo dâm Võ Tắc Thiên nhìn đóa Mẫu Đơn bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa lá. Giận thay cho loài hoa ngoan cố, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày Mẫu Đơn xuống tận Giang Nam. Do đó, vùng Giang Bắc thiếu vắng loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương nhằm ám chỉ tuyệt sắc giai nhân. Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh caọ 

    Đó là truyền thuyết hoa Quỳnh và hoa Mẫu Đơn được đời sau dệt thành giai thoại đầy hấp dẫn qua thuyết Đường của Trung Quốc biểu thị cho người đời suy gẫm Hoa và Người: Ai là người xứng đáng thưởng hoa và hoa phải thế nào cho con người thưởng ngoạn.

ba lao chan ngong

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi Hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh Có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào Rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng Khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay Với, vác cả lên lưng về nhà. 

     Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, Nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp Ai cũng chào hỏi niềm nở: 

     - Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi Tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh Nặng của mình trên lưng. 

     Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường Vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông Khẽ bảo con: 

     - Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là Một mụ phù thủy đấy. 

     Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời Nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng Lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà Phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ Nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại. 

     Chàng nói: 

     - Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được? 

     Bà già đáp: 

     - Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà Giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng Ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng." Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo: 

     - Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn Thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần Đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì Đến ngay đấy mà. 

     Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời: 

     - Quả cha tôi không phải là nông dân, mà là một v? bá tước Giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia. Bà già nói: 

     - Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng Phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé! Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, Nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng Chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói: 

     - Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà! 

     Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó: 

     - Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng Nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa! 

     Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà Nói mỉa: 

     - Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu Mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói Hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn Thôi. 

     Bà nói tiếp: - Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc Chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu. 

     Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, Phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống Thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng Ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát Sống lưng. Chàng nói: 

     - Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí. Bà già đáp: 

     - Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi Đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng. Bá tước nói: 

     - Mụ già kia, mụ thật hỗn xược. Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất Công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ Lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra Được. 

     Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách Khoái trá. Bà nói: 

     - Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên Như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ Thưởng cho xứng công. 

     Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, Nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn Chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà Nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói. 

     Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một Mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng Không chịu đi thì bà lây roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu Xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn Cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh Khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta Bảo bà lão: 

     - Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế? 

     Bà lão đáp: 

     - Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại Mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng Mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ Và luôn luôn đùa giỡn với nhau. 

     Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng Chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo: 

     - Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà Nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất Định là có thôi. 

     Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng: - Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng Trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có Thể mê con đấy. 

     Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ Của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho Mình rung động được. 

     Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ Con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở Gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một Đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ Hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy Ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới Nước. Chàng nghĩ bụng: 

     - Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp Lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào Thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất Rồi. 

     Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo: - Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già Đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không Cần đến, để ta cho thứ khác. 

     Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một Viên ngọc xanh nguyên khối và dặn: - Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho Chàng. Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, Cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh Đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn Nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại. 

     Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra Được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết Chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã Ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra Để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng Cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất Tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống Ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi Mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng. 

     Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết Và bà nói: 

     - Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức Dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp Nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó Hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, Không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai Vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế Nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn Quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con Đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được Hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu Được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt Nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của Con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta Như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của Mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai Bược lên lưng cô đi một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô Vào rừng hoang. 

     Hoàng hậu nói tiếp: 

     - Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi Giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ Bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa Con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ Nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với Hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay Nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng Được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, Ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng Hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho Ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng. 

     Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của Một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù Thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy Nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở Đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó. 

     Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc Giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo Lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu Quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn Bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu Nữ. hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau Có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm Nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên Nhìn một tí rồi bảo: 

     - Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ. Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua Đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên Bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên Quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác Bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác Nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho Bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy Một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc Vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo Khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng Hồng mịn dịu như hoa táo. 

     Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, Nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi Cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào. Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi Săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô Lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió Thổi tắt. 

     Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo: - Mẹ biết hết cả rồi. 

     Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng Bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch Sẽ. 

     Bà bảo cô: 

     - Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ. 

     Cô bảo: 

     - Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ Định làm gì? 

     Bà già hỏi: 

     - Thế con không biết mấy giờ rồi à? 

     Cô đáp: 

     - Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi. Bà nói tiếp: 

     - Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, Con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không Thể cùng ở với nhau nữa. 

     Cô gái sợ hãi hỏi: 

     - Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây Giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa Vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý Mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi! 

     Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra. 

     Bà bảo cô: 

     - Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì Nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc Của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có Thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con. Cô gái lại hỏi: 

     - Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra. - Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận Làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che Mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến Với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra. 

     Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu Cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá Tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi Đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc Đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có Một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không Cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà Chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên: 

     - Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ Kia cũng không thoát được đâu. 

     Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che Mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng Chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá Nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại Duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc Đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy Nàng nữa. 

     Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi Trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại Những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh Ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc Tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào Cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi Yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa. 

     Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần Tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con Gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ Cửa sổ. 

     Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm Nở: - Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi. 

     Khi họ vào buồng rồi bà lão nói: 

     - Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan Ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường Dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn Ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ Được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì Đã sống trong lo sợ. 

     Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi: 

     - Con ơi ra đi con. 

     Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi Người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi Nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính Nàng cũng không biết tại sao. 

     Vua bảo: 

     - Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, Cha đã cho đi hết rồi. 

     Bà lão nói: - Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ Đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới Bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của Nàng, già để cho nàng căn nhà con của già. 

     Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, Họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài Rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy Lại tới tấp. 

     Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém Quá nên quên mất đỗån sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa Đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như Tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai Mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện Nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi. 

     Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù Thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là Bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ Không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra Nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu Có. 

     Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa Đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà Không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các Bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có Thể đỗán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: