Nguyện vãng sanh
***VẠN KIẾP & MỘT PHÚT***
Trước đây, trong bài (***Kiêu Mạn & Tự Đắc***) thầy đã có kể qua câu chuyện của chính bản thân mình để nhắc nhở cùng tất cả mọi người rằng: CHỚ NÊN BIẾN THÀNH TỰU LÀM TỰ ĐẮC, CHỚ NÊN BIẾN HIỆN TẠI THÀNH MỤC TIÊU.
Vì nếu ta xem hôm nay là mục tiêu của ngày mai tức là ta đã đứng yên trong một ngày.
Nếu ta xem năm nay là mục tiêu của năm sau tức là ta đã đứng yên một năm.
Và nếu ta xem đời này là mục tiêu của đời sau thì ta sẽ đứng yên trong một kiếp.
Kiếp này sanh ra dù nghèo hèn đói rách, dù phú quý giàu sang thì ta vẫn may mắn có được thân người. Là điều kiện vạn lần trân quý để bước về bờ tỉnh thức. Như Thế Tôn từng ví (đó là khoảnh khắc rùa mù chui phải bọng cây). Nhưng người đời phần nhiều họ chỉ biết đặt mục tiêu cho ngày hôm sau, họ chỉ biết đặt mục tiêu cho năm sau, chứ không mấy ai đặt mục tiêu cho "đời sau" cả.
Cái khái niệm "đời sau" rất bao quát. Nó không chỉ nói đến con cháu đời sau của một người mà nó còn nói đến kiếp tái sanh tiếp theo sau của chính người đó.
Vì sao họ không đặt mục tiêu cho đời sau của ta?
Có rất nhiều nguyên do để khỏa lấp ánh sáng chân lý này!
Nhưng phần nhiều thì họ KHÔNG TIN hoặc CHƯA TIN rằng "Ta của đời này có phải là Ta của đời trước? Và Ta của đời sau không phải là Ta của bây giờ!"
Tức là họ phủ nhận sự luân hồi, không tin vào nhân quả.
Theo lý mà nói thì nếu ta biết ngày mai mình đi chợ sớm, hôm nay mình chuẩn bị giỏ xách, ngựa xe thì ngày mai khi thức dậy mọi thứ đã sẵn sàng cho ta dự phiên chợ sớm.
Cũng như vậy, nếu ta trồng một cái cây năm nay thì năm sau cây lớn ra hoa, cho quả là điều thuận thiên, trùng đạo.
Vậy thì sao ta còn chưa tin có nhân quả? Có luân hồi?
Ta đời này không phải là Ta của đời trước, nó là một thực thể cá biệt của Ta đời trước (vì những kiến thức dung nạp, những hành động tạo tác trong đời khác nhau cho nên sẽ đưa đến những kết quả khác nhau).
Nhưng những gì Ta của đời này có nhân duyên tao ngộ được, những chướng nghiệp Ta gặp phải, những may mắn ta có được, những tập tánh thiện ác, những ham thích thuần khiết hay u mê tất cả những thứ đó đều là sản phẩm được tạo ra từ một Ta của đời trước.
Cho nên Ta hôm nay tuy không phải là một kiếp nối dài của Ta đời trước nhưng nó là "sản phẩm" được tạo ra từ huân nghiệp thiện ác của Ta đời trước mà thành.
- Vì vậy nếu muốn đời sau ta trở nên Thông Thái thì đời này phải biết thường quán Chánh niệm (vì tâm chánh niệm sẽ là căn cơ của tất thẩy mọi kiến thức hữu thế và vô thế).
- Nếu muốn đời sau giàu sang thì Ta của đời này nên biết Bố Thí, sẻ chia (điều này cũng chẳng khác việc ta để dành của cải, tài sản vậy), nhưng khác ở chỗ nếu của cải, tài sản ta để dành là tài vật hữu hình nó sẽ có nhiều thay đổi và mất đi, bởi khi luân hồi ta không còn sợi dây liên kết với quá khứ kiếp nữa nên tài sản đó trở thành vô ích với mình, mà nó sẽ trở thành "phúc báo" cho những ai biết tu hạnh Bố Thí trong kiếp này. Còn nếu ta mang tài sản đó ra làm phúc giúp người bệnh khổ, đói khát, u mê dù chỉ một đồng, một nén những công đức đó sẽ được nhân lên bội lần và khi tái sanh sang kiếp khác công đức đó lại trở thành phúc báo của chính bản thân ta.
- Nếu ta muốn đời sau được làm quan, làm tướng thì đời này nên tận sức hiến dân. Từ những chuyện làm cầu, đắp đường cho đến những việc cứu nạn, đắp đê. Công đức đó càng lớn nếu như số người được giúp đỡ càng nhiều? Điều này thì không phải như vậy! Trong bài (*** BỐ THÍ NHIỀU HAY ÍT***) thì thầy đã từng nói đến, ít hay nhiều không phải do đong đếm số lượng, mà được tính đếm bằng tâm lượng (tức phần tâm trí thuần khiết thiện tánh của ta khi ta làm việc đó). Có rất nhiều người làm những việc tưởng chừng là công đức ấy nhưng kỳ thực họ lại chẳng có chút công đức nào! Bởi tâm ý họ có những vọng tưởng không thuần khiết.
- Còn nếu muốn đời sau được gặp Chân sư, hiền thánh thì đời này phải biết "thí pháp độ sanh" . Vậy thí pháp độ sanh là gì? Có phải là phải trãi qua Trung cấp phật học, Cao Cấp Phật Học, có phải trở thành Đại Đức, Thượng Tọa, có phải trở thành Luận Sư, Pháp Sư thì mới có thể thí pháp độ sanh không?
Hoàn toàn không phải! Mà ngay cả một chú bé khi gặp người hoạn nạn mở lời an ủi, động viên đó cũng đã là "thí pháp độ sanh" .
Khi ta ngộ được chân lý chánh pháp ta mang nó đi truyền đến người còn mê thì đó chính là "thí pháp độ sanh".
Việc in kinh, ấn sách mang chân lý đến với người còn vô minh đó mới chính là "thí pháp độ sanh".
Nếu như phước đức tích tụ được từ những hành động tạo tác cần đến "lòng chân chánh" bao nhiêu thì việc tích tụ Công Hạnh này càng cần đến sự "thuần khiết chánh niệm" bấy nhiêu. Vì vậy cho nên dù cho người đó có là Thượng Tọa, là Hòa Thượng, là Luận Sư, là Pháp Sư đi chăng nữa, dù cho giáo lý ông ấy nói có vi diệu, hay ho bao nhiêu lần đi chăng nữa nếu như trong Tâm thức không được Thuần khiết Chân tánh mong muốn trọn vẹn mang giáo pháp để phá trừ u mê cho người kiến ngộ thì nó cũng chẳng khác những câu nói cửa miệng hằng ngày của ông ấy chỗ nào cả! Công hạnh không có, công đức cũng không, mà nếu có "sai lầm" nó còn là "tội nghiệp".
Nhiều người tự nhận mình là Phật tử, tự coi mình là Con Phật nên sanh tâm tự đắc, kiêu mạn, không muốn phấn đấu tiến lên trên con đường ngộ pháp!
Họ cảm thấy rằng "mình tu mấy năm nay rồi có thấy gì thay đổi so với trước kia đâu?" cho nên mục tiêu của họ chỉ là cái mà họ đang có! Và như vậy lại hoài công một kiếp tu hành, và như vậy lại uổng phí một đời ngộ pháp.
Rồi một ngày kia trên bước đường giác ngộ họ lại gặp ánh sáng hào nhoáng của ma vương, họ bị dẫn dụ vì ham thích ảo cảnh, ham thích cái mà ma vương ban tặng (có dụng ý) đến họ. Họ lại rơi vào ma đạo vạn kiếp không thể trở lại thân người, vạn kiếp không thể gặp lại chánh pháp!
Mọi người hẳn còn chưa quên rằng: "ngay cả THÍCH CA MÂU NI" đã chứng đến quả vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Sứ sắp chứng đến quả vị Tối thắng Triệt Ngộ toàn giác rồi, nhưng Ma Vương vẫn xuất hiện để dùng mọi huyễn xảo thần thông nhằm lung lạc chánh ý Thế Tôn, và dù Thế Tôn vẫn giữ được sự an định bất chuyển nhưng sự xuất hiện của Ma Vương rõ ràng rằng Thế Tôn vẫn ngộ kiến đến nó! thì hà huống chúng ta chỉ mới là người tập tành bước vào con đường tu đạo?
Chỉ cần tâm ta mông lung, tâm ta không kiên định, thì trong một "thời khắc" lầm lạc sẽ đẩy ta đi vào ma đạo vạn kiếp!
Cho nên hôm nay vì sao thầy lại so sánh giữa Vạn Kiếp & Một Phút?
Vì để ta được thân người như hôm nay, để ta gặp được chánh pháp như đời này, để ta cùng câu hội về đây như hiện tại thì đó là công đức được huân tập của chính bản thân ta trong HÀNG VẠN KIẾP!
Nhưng cũng chính ta, nếu chỉ cần ta lung lạc, ta không đủ kiên định, không đủ chánh niệm gìn giữ thì chỉ cần trong MỘT PHÚT tất cả sẽ tiêu tan, mà còn đẩy ta lầm vào mê muội, ma đạo đến vạn kiếp về sau không còn thấy được chánh pháp nữa!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
CHÚC TẤT CẢ TINH TẤN, GÌN GIỮ CHÁNH NIỆM THƯỜNG HẰNG!
St-
_((()))_ LÀ CHÍNH MÌNH_((()))_
Sống ở đời, dù bạn tốt đẹp thế nào cũng không thể nhận được sự yêu thích của tất cả.
Có người hâm mộ, sẽ có người ghét bỏ; có ai đó ganh tị, ắt có kẻ chẳng coi bạn ra gì.
Cuộc sống là như thế, bạn không thể làm hài lòng hết thảy. Đừng vì để vừa lòng người khác mà đánh mất bản chất của mình, vì ai cũng có những nguyên tắc và sự tự tôn riêng.
Chúng ta qua miệng người khác không phải là con người toàn diện, mà có rất nhiều phiên bản khác nhau, nên chỉ cần làm một bản chính tốt, là được.
Bởi người đời:
Ánh mắt giống nhau nhưng góc nhìn khác nhau
Miệng giống nhau nhưng mỗi người một cách nói
Trái tim cấu tạo tương đồng nhưng suy nghĩ lại rất dị biệt
Tiền của giống nhau nhưng cách chi tiêu mỗi người một cách.
Cũng là con người nhưng mỗi cá nhân có một cách sống, cần tự tin bước đi trên đôi chân của mình.
Đại bàng không có tiếng cổ vũ cũng tung cánh bay cao; Đám cỏ không cần người chăm sóc cũng biết tự vươn mình lớn lên; Hoa dại trong núi sâu dù không ai thưởng thức vẫn tỏa hương thơm ngát.
Làm việc, không cần người người đều thấu hiểu, chỉ cần dốc lòng hết sức; làm Người, không cần ai ai cũng yêu mến, chỉ cần thẳng thắn - rộng lượng.
Một đời người thật ra không dài lắm, dù sao mình cũng đã đến đây rồi, thì nên sống cho đẹp một chút vậy.
Tại Yến sào có một vị sư bà, pháp danh Ngộ Quang, bà từng đóng cửa hơn mười năm tu trì nghiêm túc. Bà có hai lời dạy nêu ra được tâm cảnh của bà, hết sức hay giản đơn mà sâu sắc, quả là một sự biểu lộ tín tâm, nguyện lực đầy đủ. Bà dùng âm thanh rất nhẹ nhàng, tự tại, rất ôn hòa nhu nhuyễn mà nói: "Không có việc nào gây ưu sầu, không có việc nào gây hối hả", đây là hoàn cảnh sinh hoạt rất tốt đẹp, nghe được thì cảm thấy thân và tâm rất mát
mẻ. Một người chân thành tin vào Phật lực, tin vào tự tính, tín tâm đầy đủ thì không có việc nào gây ưu sầu, mà đều vãng sanh Cực Lạc, ưu sầu mà làm gì? Đối mọi sự ở thế giới Ta Bà, không còn quái ngại chấp trước thì không bị áp lực bức bách, không bị chuyện gì gây hối hả, mà tất cả đều hết lòng hết sức để hoàn thành tốt đẹp thì tự nhiên công việc được hoàn thành tốt đẹp. Hối hả cũng không thể nhanh hơn, không hối hả cũng không thể chậm hơn. Không thể để cho tâm tư lãng phí vì hối hả thì mới có thể thực sự hết lòng hết sức mà làm việc, lại có thể nhanh nhất trọn vẹn nhất!
Có người hiểu nhầm rằng nguyện vãng sanh Cực Lạc không dính mắc gì với thế giới Ta Bà thì không cần phải làm việc gì cả. Thật ra thì trái ngược lại, không dính mắc là không dính mắc với danh lợi cá nhân, không dính mắc với lợi hại, được mất của chính mình, mà trái lại tâm tình vui sướng, tâm cảnh rộng rãi, làm cái gì thì toàn tâm toàn lực mà làm, không lãng phí tâm tư vì so đo, hoặc gấp rút âu lo, làm việc gì cũng đều vui vẻ hết lòng hết sức, lại cảm thấy trong lòng thanh thản không có việc gì, không mệt mỏi. Như thế cũng giống như Bồ Tát Quán Thế Âm do trong lòng vô vi mà khởi lên tâm từ bi thì mới có thể toàn tâm toàn lực giúp chúng sanh dứt khổ, ban vui.
Điều chủ yếu của nguyện sanh Cực Lạc là sự điều chỉnh phương hướng và tiêu điểm của nội tâm, hoàn toàn không phải có sự sinh hoạt hình thức nào đó, đầy đủ một biểu hiện bên ngoài nào đó, hoặc phải làm một số sự việc thì mới là nguyện vãng sanh Cực Lạc. Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu rõ: Có một vị sư trồng rất nhiều hoa lan. Một hôm khi ông có việc phải rời chùa, người đệ tử vô ý làm vỡ một chậu lan rất quí, rất đẹp, người đệ tử rất lo lắng sợ rằng khi sư phụ trở về sẽ quở mắng ông. Không ngờ, vị sư trở về chỉ mỉm cười, người đệ tử bèn hỏi: "Vì sao thầy không giận?" Vị sư đáp: "Ta vì muốn làm cho cảnh trí trở nên đẹp đẽ, khiến mọi người an vui mới trồng hoa lan, chứ không hề muốn nóng giận mà trồng hoa lan, cho nên chậu vỡ cũng không nóng giận!"
Câu chuyện trên gây cho chúng ta một ấn tượng thâm sâu. Một số người không những trồng hoa lan, mà có thể làm bất cứ việc gì cũng không tự chủ, lại bị dính mắc vào sự thành bại, được mất của sự việc, cảm thấy thành quả bị hư hoại, những mất mát không kể là hoa cỏ bị chết, hoặc đồ vật bị hư hoại, hoặc thi không đậu, hoặc con cái không nghe lời thì họ buồn bã phiền bực, đây cũng là uổng tử tại Ta Bà! Vị sư ấy nói đúng, "Ta hoàn toàn không muốn nóng giận mà trồng hoa lan", ngài hiểu rất rõ động cơ mục đích của mình, có thể nói nguyện của ngài là an vui cùng với mọi người, và nguyện đồng sanh Cực Lạc, không hề nóng giận mà uổng tử tại Ta Bà.
Ta tự phản tỉnh, cảm thấy rất hổ thẹn không được như ngài! Vì có lúc làm việc, nguyện ban đầu là vãng sanh Cực Lạc, nhưng đến nửa chừng thì gặp trở ngại, mà bỗng nhiên uổng tử tại Ta Bà, lại tạo ra năm loại rác rưởi lớn là tham (tham lam) sân (nóng giận), si (ngu muội), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ).Thực ra thì phải giống như ngài mới là cái nguyện chân chính, trước sau như một, vẫn giữ gìn sự an vui thanh tịnh, gặp phải hoàn cảnh thuận hay nghịch, tâm cũng không thoái chuyển, không để cho đây đó rơi vào cái địa ngục thâm sâu của sự nóng giận, khổ đau.
Nếu trong sinh hoạt hàng ngày, con cái bạn phụ giúp việc mà lỡ đánh vỡ chén, làm hư đồ dùng, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, chỉ ôn tồn dạy bảo chúng, không giận dỗi không la mắng.
Khi về nhà, phát hiện bị trộm, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc mà vui vẻ bố thí, không sợ hãi âu sầu.
Giả như chồng bạn có ngoại tình, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, mà không nóng giận lại đối với chồng càng tốt hơn; trong công việc bếp núc, bạn vẫn nguyện vãng sanh Cực Lạc, vui vẻ lau chùi nồi niêu sạch sẽ.
Bạn bè có hiểu lầm bạn, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc mà không đau buồn, vì đức Phật A Di Đà hiểu bạn.
Hôm nay ăn được món ăn ngon, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, không vì tham ăn mà uổng tử tại Ta Bà.
Bạn trai hay bạn gái có đối xử tốt với bạn, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, hiểu rằng Đức Phật A Di Đà đối với bạn tốt hơn, lại còn mãi mãi không thay lòng. Được như thế thì mới có thể ngay đây mà an lạc, nếu không thì khổ vẫn là khổ, giận vẫn là giận, ngoại trừ phải uổng tử ra thì không được gì cả. Sao bằng lấy uổng tử mà đổi thành vãng sanh!
Nếu trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta có thể luyện tập, nêu cao nguyện vãng sanh Cực Lạc mà niệm Phật, thì khi sắp chết, nguyện lực sẽ mạnh mẽ, không có chướng ngại.
Mong rằng mọi người đều thuộc bài "kệ phát nguyện" mà trong các khóa tụng tại chùa thường được tụng:
Nguyện khi lâm chung không chướng ngại
Di Đà Thánh chúng đến tương nghinh
Xa rời ngũ trược, sinh tịnh độ
Trở lại Ta Bà độ hữu tình.
_((()))_ ĐỪNG TRÁCH CHI _((()))_
Đừng trách chi, cuộc đời là thế đó
Nếu thanh cao, còn gì nghĩa cuộc đời
Phải nổi trôi, cho thấm những đầy vơi
Phải phong trần, cho đượm mùi gió bụi
Đừng trách chi, một kiếp người ngắn ngủi
Nếu bình yên, không uổng lắm hay sao
Không biển khơi, làm sao biết ba đào
Không hầm hố, cần chi đường bằng phẳng
Đừng trách chi, cuộc đời sao cay đắng
Nếu không mùi, có vô vị lắm không
Ta phải đón cái buốt của mùa đông
Ta phải nhận cái nồng trong nắng hạ
Đừng trách chi, tình người sao kỳ lạ
Một bức tranh phải đủ sắc đủ màu
Đã làm người phải thấm nghĩa thương đau
Mới hiểu được cõi trần gian lao khổ
Trăng vẫn đẹp, dù trăng ngà mấy độ
Hoa vẫn tươi, dù từ đá đơm bông
Ta nhận chân tất cả có hơn không
Người sung sướng chắc gì hơn ta được !
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top