CHƯƠNG 8 : LŨ TẠP ĂN

Mùa hè thì tha hồ chơi. Nhưng đá banh bằng trái bưởi lùi tro mài cũng chán. Bán ná giàn thun mãi cũng chán (tuần trước nhà bà Thốn mất con gà còi, bắn tiếng nghi hoặc là không khéo thằng Định thằng An "chớp" rồi cũng nên: thật là Quan âm Thị Kính cho hai đứa tôi!). Thả diều mãi, cùng chán... Tôi với thằng An quay sang môn câu cá.

Thằng An bảo:

- Nhưng mày đã định câu loại cá gì chưa? Hay cứ chờ bỏ mồi xuống nước, cá gì ăn, ta giật con đó? Theo tao, không chơi trò may rủi này. Phải quyết định trước...

Tôi đâm bí vì cũng chưa nghĩ đến việc này, nhưng vẫn nói trớ:

- Thì bởi vậy nên hôm nay ta mới phải bàn. Theo tao, ngày mai ta đi câu rô đi!

Thằng An đồng ý nhưng còn vặn vẹo:

- Câu rô thích đấy... nhưng câu ở đâu? Câu ở hói lách, cá vừa nhỏ vừa gầy đét. Ở ruộng ông Tạo thì mấy cánh đồng đều sắp cạn nước cả rồi. Ở đầm sen làng Phú Thuận thì, thấy mặt trẻ con cầm câu lăm le đi tới, dân làng họ đuổi ngay, dọa bẻ tư cần câu ném xuống hồ. Vậy thì... nên câu ở đâu?

Vừa rồi, nhờ câu nhắc nhở của thằng An về hói Lách, tôi nói ngay:

- Theo tao, câu hói Lách là tuyệt nhất. Rô ở đây nếu bảo là nhỏ và gầy đét là mấy tháng mưa gió lạnh lùng kia. Chứ mùa này thì bọn rô mập ú. Vì lũ này vốn ở các ruộng đồng, ăn lúa từ ruộng cạn theo xống ruộng sâu, rồi khi ruộng sâu cạn nước, chúng đi theo con lạch mà xuống hói hẳm. Mình tới đó buông cần thì số dách. Con nào con nấy mập thù lù... cho mày xem!

Thằng An coi bộ đã mê lắm lắm nhưng còn đá vớt một ý:

- Vậy gần đây mày đã ra câu ở đó chưa? Thôi được! Đồng ý. Mấy hôm nay má tao đang kêu dữ quá! Bà bảo: cá tôm đắt đo như vàng, hỏi xem giá cả mụ bán hàng vểnh râu... Tao cười đứt ruột vì mụ bán hàng không trả lời mà chỉ "vểnh râu". Sáng mai ta đi nhé?

Tôi hứa:

- Ừ, sáng mai.

Tôi trơ về nhà. Đầu tiên. xem lại cần câu: lâu nay không dùng. bây giờ coi lại xem có trục trặc gì không? Biết rõ là cần câu cũng chưa đến nỗi bị bọn nhện gia đình dăng lưới đánh bẫy lũ có cánh bé thân đâu, nhưng mỗi lần soạn sửa là phải coi lại tất. Vớ mảnh giẻ lau ghế hoặc cái lá khô gần đâu đó mà chùi chiếc cần câu từ gốc lên ngọn. Chỉ câu thế nào, à, còn tốt như ngày nào. Phao thế nào, thôi bậy rồi: chuột đói ngứa răng đã khới đứt một nửa cái phao chổi đót mất rồi. Tôi vào bếp, nhón một đoạn thân củ tỏi má tôi, thường treo trên đầu ba ông táo ra, thế là có được cái phao không kém gì lông công. Sang mẩu chì và lưỡi câu thì còn như mới nguyên.

Khi soát lại lần cuối về chiếc cần câu thì bỗng toé ra một chút bực mình còn lại: ở đuôi cán cần câu đang bị dập, nên cứ để vậy mà dùng thì cũng chẳng sao, nhưng mà thấy chướng con mắt, nên phải cắt đi một lóng cuối cần. Tôi vào lấy con dao nghề (loại dao cùn của ba tôi, vì loại "dao nhất" ông cụ đã cất vào ngăn tủ cùng với mọi thứ cưa đục búa kìm mất rồi). Dao đã quá cùn, phải đem ra giếng vì tấm đá mài nằm ngoài đó. Tìm mãi vẫn không thấy tấm đá ở đâu, lúc sau mới nhớ ra bà tôi vừa cho bác Quýnh mượn về nhà mài cả mớ dao bào, dao bầu, dao pha, dao rựa gì gì của nhà bác ấy. Tôi cầm con dao nghề vừa gì vừa cùn vừa long cán sang nhà bác Quýnh. Hoá ra bác cũng đang làm công việc xoèn xoẹt bên một giếng nước không xây bờ thành (nghe nói cốt để trồng các loại rau xanh quanh giếng).

- Gì đó cháu?

- Dạ, con định qua mài cái dao... Vì nó cùn quá rồi, thưa bác.

- Ừ, ngồi đó chơi, chờ bác mài xong con dao cái đã. Chờ một khắc, xong rồi là tao liếc dùm cho đôi ba trăm nhát, chứ mày mài thế nào được? Dao gì mà lưỡi khuyết như cổng làng thế... Nhưng mà thép tốt lắm đấy. Chờ bác tí nhá!

Tôi thật quá sốt ruột! Từ một việc không đâu rồi cứ phải dấn tới mãi. Bắt đầu là cái cán cần câu bị dập. Sang phải tìm con dao để cắt ngang lóng vỡ. Sang chuyện dao cùn. Sang tấm đá mài. Sang đến nhà bác Quýnh. Sang chờ bác ấy làm xong công việc của bác ấy đã. Thế là đi tới chuyện phải đứng chờ.

Bác Quýnh đang sờ rất khe khẽ, rất thoang thoáng đường mỏng manh của lưỡi dao của mình vừa mài xong. Mặt bác không thấy tỏ một thái độ gì, tôi hiểu bác đang bằng lòng về con dao mình.

-  Nào cháu bỏ dao xuống đây. Tao liếc cho một mẻ... Con dao xấu dáng vậy chứ thép còn tốt lắm. Mà mày định về róc mía hay mổ ruột cá cho mèo đây?

- Dạ con cắt bớt một đoạn gốc cần câu. Nó bị đập vỡ, rất khó cầm...

- Về lấy đem sang đây, tạo tiện cho một vòng là trơn tru ngay. Đi đi!

Tôi thật cám ơn bác nhiều nhưng không dám nói ra. Và chỉ một lúc, đã đưa cả chiếc cần câu gồm đủ chỉ, phao, chì, lưỡi câu sang cho bác. Với một đường tiện vòng bên ngọt, đoạn cần bị vỡ đã đứt lìa. Bác còn sửa thêm chỗ gốc cần tí chút tí chút...

Sáng sớm hôm sau, hai đứa lên đường với đầy đủ: cần câu, giỏ đựng cá, lon đựng mồi. Đặc biệt, hôm nay hai đứa còn đem theo mấy thứ đã bàn trước chiều qua. Tôi: hai bánh tráng có rắc chút ít vừng đen nếu lim dim con mắt là có thể đếm được bao nhiêu hột vừng. Và một cây mía của nhà do má tôi chặt cho... Thằng An: một gói khoai lang bọc lá chuối còn âm ấm như bụng gà mẹ đang ấp trứng. Và ít muối ớt giã dập, ngửi bên ngoài giấy cũng thấy ứa nước miếng rồi.

Bọn tôi đã tới hói hẳm. Chưa vội đào mồi. Đứng xem xét qua động tĩnh về cá chút đã. Con hói chạy dài giữa những cánh đồng phần nhiều đã gặt xong lúa mùa. Những cây cỏ lùm mọc chen những cỏ dại từ dưới nước đâm thân lên. Từng lúc, bọn rô choai, rô tép, rô mục lại nhoi mõm lên đớp tí khí trời. Xong, là quẫy đuôi tụp một cái. Tiếng quẫy quá sơ sài, không đủ để ai chú ý nếu có ai ở đây.

Kỳ này thằng An đứng ra "xáp trận" về công việc đào trùn. Đồng ruộng đã bắt đầu khô nước từng vạt từng vùng, để lại từng gò đất bùn đầy những lỗ thông hơi của bọn trùn bên dưới. An cởi quần dài, mặc quần cụt bước xuống ruộng, và không ngờ ruộng quá sâu, lún tận quá đầu gói nó. Nó hơi bị hẫng, nửa muốn bước trở lên mặt đường, nửa... sợ tôi cười cho, mới khó khăn bằng cái chóp ngón út đã vội rụt cổ rùa lại rồi: xì, kém, tồi, hèn, thấp! Có lẽ nó nghĩ vậy.

Cái cẳng chân đang chưa cho xuống ruộng của An đã bước xuống nốt: vẫn sâu, lún tới tận bẹn. Rồi cả hai chân nó lội đi ào ào, bất chấp đến một nơi có bao nhiêu tăm trùn ở. Chỉ một khoảng thời gian người lớn hút xong hai điếu thuốc lá. An đã xách lon mồi trở lên: vừa bước nghiêng ngả trong bùn, vừa dùng cằm gãi vào vai, vào cánh tay. Không phải ngứa đâu, chỉ nhột vì mồ côi nó cù.

Tôi hoan hô nó bằng lời cùng với sự săn đón hết mình với nó, với lon trùn nặng vì bùn cộng với hàng trăm con trùn nước, đoán vậy.

- Vất vả! Vất vả thật!

Nó vừa cười méo, vừa không trả lời gì, đi rửa chân tay mày mặt ở con hói ngay đó.

Rồi, ở cách nhau mươi mười lăm mét bọn tôi bắt đầu buông câu. Rõ ràng thằng An được tổ đãi . Nó vừa buông cần xuống hói, đã giật lên ngay một rô giá trị rồi. Tôi bận công việc của mình, chỉ nhìn qua nó tí chút: nhưng cũng đã thấy rất rõ phần to nhỏ, gầy mập để đoán nặng nhẹ của cá. Và cũng để biết được rằng tại đoạn con hói này có nhiều cá không, có cá thuộc loại "ngon lành" không?

Cái phao cần tôi không thấy động đậy mà chỉ thụt lún xuống, rồi phao bị kéo sâu nữa. Tôi giật! Cũng một rô loại thằng An vừa tóm. Thứ rô động này thân không lớn như rô kềnh hay rô phi, chỉ gọn con nhưng được cái mình dày nhiều thịt, trông dáng mum múp như trái bàng khi chín. Nhìn lén thằng An, nó cũng đã giật thêm con nữa: đang loay hoay để bóc cá khỏi lưỡi câu. Tôi rất hiểu, thằng này câu nghề hơn tôi nhiều. Có lẽ từ cách nó móc con trùn sao đó cho ra điệu mời mọc. Có lẽ từ kiểu buông câu vào đúng giữa đôi ba bốn thân cây cỏ lùm, thân rong đuôi gà, rong lá lúa, vì đoán dò chính xác nơi đó đang có bọn rô háu ăn chực sẵn. Và có lẽ nó còn rất tinh tế đợi cho con cá đớp mồi xong, vẫn cha giật, vẫn chờ một tẹo (nhưng cũng không để cho cá cảm thấy trong mồi có tí gì đó cồm cộm nguy hiểm, đến phải nhà ngay...) là giật! Đó là chỗ tôi chịu bó tay so với nó.

Tôi lại giật, lại một tên rô giống hai con vừa rồi, chỉ có khác là con này đen thiu, làm tôi nhớ câu: "gần mực thì đen gần đèn thì rạng". Có lần tôi hỏi ba tôi, sao người ta không nói gần đèn thì... đỏ - lại bảo "rạng", rạng đâu phải cái màu? Ba tôi suy nghĩ một lúc rồi bảo:

- Rạng hay đỏ cũng như nhau. Đèn rạng, đèn sáng, đèn cháy, đèn đỏ, cũng như nhau...

- Định ơi! Tao bị mất lưỡi câu rồi!

Thằng An gọi tướng lên và báo cho tôi hiểu như vậy. Nhưng mặc! Cái phao cần tôi đang thụt, thả, rồi thụt, thả đến mức nằm ngang. Và tôi giật. Cũng lại rô nữa, và cũng to ngang cỡ những con vừa giật được vừa rồi. Vừa cầm cá tháo ra khỏi lưỡi câu, nó đã búng vội một cái, rơi vào phía ruộng đang có một rãnh nước hẹp. Thằng An chạy đến:

- Để tao!

Nó khéo léo vốc một mớ bùn đắp chặn ở giữa rãnh nước. Rồi lấy tay tát nước ra bên. Một lúc con rô đã rõ hình, vừa lách vừa vùng tránh. Nhưng thằng An đã chộp ngay một cục gôm cá với bùn, đem tống vào chiếc giỏ của tôi đặt gần đó.

- Tao xui quá! Cá ăn, tao giật chéo. Chỉ câu mắc vào đám rong đuôi gà. Tao giật manh, thế là mất cá, và mất cả lưỡi câu. Lúc nãy ở nhà đi, bọn mình quên không đem theo mỗi đứa hai cần. Bậy quá!

Tôi đưa sáng kiến:

- Giờ thế này... Mày lấy cần câu tao mà câu, trong lúc đó tao gặm mía. Mày vừa ăn bánh đa vừng vừa câu, chịu chưa?

- Tao nghĩ cách khác. Bây giờ máy cứ tiếp tục câu đi: thì giờ là vàng. Trong lúc mày...

Tôi giật cần vì phao bỗng lút xuống, lún thêm. Một con... không phải rô mà là diếc, to gấp đôi những tên rô vừa rồi. An đứng gần chụp lấy cá, gỡ khỏi lưỡi câu và cho vào giỏ giùm tôi.

- Được đấy! Chứ cứ rô mãi, vô ra thằng cha khi nãy, cũng buồn. Mà lại giá trị chứ đâu phải đồ tồi... Mày cứ tiếp tục đi, tao chạy về nhà lấy chiếc cần câu khác rồi ra ngay.

- Thế cũng hay. Nhưng ta gặm ít mía đã: mỗi đứa một khẩu. Chừa lại nửa cây, lát nữa tráng miệng sau khi xực hết bánh tráng, khoai lang.

Tôi đồng ý. Thằng An năm cây mía, chia ước lượng ra chừng bốn phần. Nó chặt mía bằng cách khuynh hai khuỷu tay, đưa đầu gối mình ra, ngắm chính xác vào chỗ mắt mía mà a-lê-hấp: cây mía gãy đôi. Lấy một khúc trong hai, cũng "chặt" theo cách vừa rồi.

Ăn xong đoạn mía (thật ra là nhai, hít, nhả bã chứ đâu có nuốt), thằng An nhón một củ khoai cầm theo:

- Mày tiếp tục đi! Nắng này là lũ rô thích quậy đá, thích săn đuổi lắm đấy. Tao ra ngay thôi!

Tôi cũng nhón một củ khoai, vừa ăn vừa thả câu. Khoai nhà thằng An là giống ngon. Khoai vỏ trắng, củ nhỏ, chứ không toàn bột, ăn dễ ngán... Tôi đã có kinh nghiệm, câu rô là phải đổi chỗ luôn. Chúng dù là loại tạp ăn, nhưng nếu thấy một số đồng loại bị giật rồi biến mất suốt đời, những tên còn lại sẽ cảnh giác, lần đi nơi khác. Và đồng thời, khi ta bỏ mồi xuống nước là cần phải nhắp liên tục: để cho nó trông thấy mẩu trùn động đậy, đến gần bắt gặp mùi tanh trùn hấp dẫn là bặp ngay...

Bỗng cái phao lúm nhúm rồi bị kéo thụt xuống sâu. Tôi giật. Cũng lại rô, nhưng con này nhỉnh hơn những tên vừa câu được. Phải rủ thằng An ngày mai đến câu chuyến nữa mới được...

Thằng An đã ra, cầm theo chiếc cần câu khác. Hai đứa vừa nhắm khoai chấm muối ớt vừa câu. Buông cần. Chờ một lúc (luôn luôn phải nhắp), là động đậy phao. Là giật...

Nắng đã chói chang ngay trên đỉnh đầu. Bọn tôi "làm" hết nhẵn cả ba thứ: bánh tráng, khoai, mía mà vẫn thấy như chưa ăn gì. Hai đứa còn hẹn nhau ngày mai ta đi chuyến nữa. Phải hết sức bí mật.

Rồi về...

(10/12/1992)


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top