CHƯƠNG 4 : BÁC TƯ ĐỀ
Măng giang nấu cá ngạng nguồn... (ca dao)
Bác Tư Đề làm nghề thợ mộc, là dân chiến khu suốt chín năm. Rừng gần, rừng sâu, khe điếc, suối hiểm từ dòng có tên đến vũng không tên, bác đều thuộc cháo. Ngoài phần chuyên môn đóng bàn ghế kệ giường ra, bác còn là tay "bắn nỏ, bỏ câu" tăm tiếng. "Thầy câu" - ý nói rằng bác không phải là một dân câu thường tình đâu!
Bọn tôi hồi đó vào khoảng đã 13, 14 tuổi, may được ở gần nhà bác tại chiến khu 2, nơi thỉnh thoảng đang còn nghe vẹt được lầm rầm máy bay cổ ngỗng xoẹt cánh tới. Nghe danh bác là: "ông thầy câu", chưa hiểu ngỗng ngan gì, tối đã mừng từ bụng lên óc. Cả thằng Chíp (nhiều đứa kêu nó là thằng Chiếp thì thật trật lất, nhưng mà mặc kệ chúng nó), và tôi đều muốn tới nhà, xin được... coi bác lúc đang câu. Cũng không ngờ nghe xong, bác cười xởi lởi, vào bếp đem ra cho hai đứa hai củ khoai lùi, loại mỗi củ bằng con chuột đồng, thơm rệu nước miếng, đặt trên cái đĩa gỗ:
- Ăn đi. Được rồi! Khi nào đi câu, bác cho đi theo coi. Bọn bây là... à, mày là thằng Đục, con anh Khớp đóng ghế mây, nhà có hai cây cau xiêm cao như cột điện chứ gì? Còn thằng này, mày là thằng Khịt hay thằng Quỵt gì tao quên mất rồi, con anh Sẻ thợ may, tao lạ gì... Để bác nói sơ qua vài mánh cho bọn con biết. Câu cá thì ai câu cũng được, giật được cá hết, chỉ chậm thôi. Người ta câu được dăm bảy, mình mới được một. Cái khó là phải hiểu nghề hiểu nghiệp, hiểu tính tình từng con cá. Biết rõ loại này nó thích ăn thức gì loại kia hám ăn mồi chi. Có con ở sâu, ăn sâu. Có con ở cạn, ăn cạn. Có con ăn chỉ thớn nhẹ phao rồi để nguyên vậy, như không ăn. Có con ăn kéo lút mất phao, không trả lại phao lên mặt nước. Có đứa tạp ăn, mồi gì cũng đớp. Có tên ăn lười, thật đói mới mum. Và cũng có con háu đớp vào đầu sáng sớm, nhưng cũng có tên tham ngốn lúc trời chạng vạng. Chung cuộc, đối với anh đi câu là phải thạo nghề: muốn câu loại cá gì, là sẽ câu được loại đó, không sai. Tối dạ thì hiểu chậm, sáng dạ thì biết nhanh hơn!
Tôi muốn hỏi bác Tư vậy khi nào thì bác đi câu, nhưng rồi vẫn không dám tỏ ý.
- Bọn con ăn đi. Khoai nhà bác trồng đó. Sắn khoai nhà tao cả rừng, ăn đâu hết... để coi coi, đây là những tháng cuối hạ sang thu, sông nước cũng đã gần gần thay đổi. Cá ngạnh nguồn rồi sẽ kéo nhau từng bầy, vừa đi vừa ăn vừa chuẩn bị sinh đẻ, đi từ nguồn này sang suối nọ. Cá ngạnh là một loại cá trê, nhưng có màu trắng xám, nhỏ con hơn, và thường đi ăn theo bầy, chứ không như cá trê, ăn riêng lẻ. Thịt nó rất thơm ngon, nấu cháo ăn thì tuyệt bổ. Biết cách hầm rục thì xương, vây, lườn, đầu, đều mềm nhũn. Còn cái chữ "ngạnh nguồn" là do loài cá này hay kéo nhau đi ăn vào khắp các nguồn sông, đầu suối. Cho nên mình câu rất dễ, vì chúng là loài tạp ăn. Nay mai, hễ thấy chúng về, tao ới bọn bây một tiếng là ta đi...
Sau hôm đó, chờ mãi đợi hoài, vẫn chẳng có tiếng ới nào của ai gọi to gọi nhỏ gì bọn tôi cả! Hai đứa quay sang món bắn ná giàn thun. Nói cho oai vậy, chứ toàn nghe rẹt rẹt, sáng hay chiều cũng chỉ có những giọng ná giàn thun rẹt rẹt, như múa gậy vườn hoang. Nhờ vậy mà chào mào, sáo sậu, chích chòe, hay cả bọn chim gì đó nhỏ chỉ bằng nửa con chim sẻ, à nhớ rồi: con chim hút mật, sau khi nghe cái rẹt rẹt (của tôi), hay rẹt rẹt (của thằng Chíp), thì chim ta mới biết rằng hình như có cái gì đó đang làm rầy mình, cho nên phải bay đi nơi khác, ta ăn tại chỗ này hay chỗ khác thì cũng vậy. Tôi bắn đã thuộc loại đại mèng, nhưng vẫn còn chỉ cách mình chim từ một tới nửa tấc. Chứ thằng Chíp bắn thì lại quá trời ba láp. Cho nên một sáng, nó nhìn thấy một đôi chào mào đang ăn sâu trên những quả đa chín vàng ruột, nó giương giàn thun lên ngắm. Rẹt một cái, cả đôi chào mào bay đi nhởn nhơ, nhưng không may cho một con vành khuyên đang treo cẳng tìm sâu gần đó đã bị hòn sỏi bắn vào. Một túm lông bụng và lông cánh tung lên lửng lơ: tên vành khuyên xấu số rơi ngay xuống đất. Tôi thấy thằng Chíp tái mặt vì bất ngờ. Tôi khen nó:
- Thiện xạ! Mày là thằng thiện xạ nhá! Quyết tâm là rồi sẽ thành công thôi. Tao phải học mày còn lâu may ra mới thành tài!
Nó chạy đến nhặt chim, cầm lên coi kỹ... Tôi cũng cầm chim coi. Chim rất ấm, cái đầu bị bép nát, máu còn rỉ in ít: máu cũng âm ấm. Tôi hơi sờ sợ, cũng chẳng hiểu sợ cái gì. Có lẽ là sợ vì đã làm chết một con gì đó.
Một buổi sáng sớm vừa dậy xong, tôi nghe một tiếng "Đục ơi!", tôi chạy ra thì là bác Tư. Bác nói vội vã: "Gọi thằng Khịt tới nhà bác, ta cùng đi. Tới ngay nhé!"
Sau tiếng "cùng đi", bác đã về ngay nhà. Bọn tôi đã lục tục tới nhà bác. Bác cầm một lần bốn cần câu. Giỏ đựng cá, mồi trùn đất, bác đưa cho bọn tôi cầm rồi bước đi ngay. Trên đường ra bến, bác đi rất nhanh. Bọn tôi chạy theo muốn hụt hơi. Vừa đi bác vừa dặn:
- Bọn bay cố nhớ cách "móc mồi" mà giúp bác một tay. Lúc câu là tao giật liên hồi. Được con nào, tao gỡ ra, cho vào giỏ. Bọn bay chưa biết cách gỡ cá đâu. Lớ ngớ cầm vào đầu con ngạnh, nó ngoặc lưng một cái là ngạnh đâm vào tay, nhức giống bò cạp chích!
Đã tới bến. Bác ngó vung một đường, nhìn ra con suối hẳm. Bỗng thấy mặt bác hơi vui lên, nó như nói một mình:
- Rồi...
Bác lấy một gói gì đó trong túi áo, mở ra. Cái gì như tro bếp, nhưng có mùi thơm. Bác vớt một vốc, nắm lại trong tay, nhúng tay xuống nước. Rồi chia nhỏ từng dúm ném xuống, ném từ phía mặt suối xa để rồi dần dần ném xích vào gần hơn, gần hơn nữa. Càng vào bên trong, ném càng nhiều.
- Nó vào đấy...
Bọn tôi nhìn ra. Cả một bầy cá, theo như bác giảng mấy hôm trước thì: đây là một bầy cá ngạnh, cá ngạnh nguồn. Nó rất giống cá trê. Chỉ có nhỏ con chút ít, nhưng mà nhiều lắm! Bác vội móc mồi, ra dấu cho bọn tôi. "Coi đây mà làm, không dễ đâu...". Một tay hai ngón, cầm kiểu nhin nhín cái lưỡi câu, một tay khác cũng vậy, nắm con trùn đất đã được ngắt đôi. Mấy ngón tay bác khéo quá, mà lại không run run tí nào. Con trùn được ấn theo chiều cong chữ u của lưỡi câu, và bao giờ cũng còn lại một đoạn thân trùn hơi dài ở cuối phần ngạnh. Nói thì dài dòng nhưng sự việc thì thật nhanh và khéo giống như làm xiếc. Bốn cần câu tất cả đều đã được tra mồi. Bác Tư chỉ cầm lên một cần, giong mồi xuống vũng cá đang ăn cám rang (về sau, bọn tôi mới biết đó là cám rang để giữ cá). Trùn vừa chấm mặt nước, cả đám tranh nhau loạn xị loạn xạ đớp lấy. Nhưng làm gì có đủ trùn và lưỡi câu cho cả bọn chúng mày. Bác Tư giật trặc một cái nhẹ nhàng, nhưng có cái gì như thâm hiểm của bàn tay. Một tên ngạnh đã treo tòn ten ở đằng cuối chỉ câu. Bác bóc cá ra khỏi lưỡi câu rất tài tình, cho cá vào giỏ. Lấy ngay cần khác thả xuống. Lúc này tôi đã móc một đoạn trùn khác vào cần câu vừa rồi. Bác lại giật. Lại một trên khác, giống như con ngạnh đầu tiên, đúng kích thước, đúng màu sắc, như cá được đúc sẵn từ trong một khuôn mẫu nghìn đời từ khi trời đất sinh ra. Cả cái uốn éo lăng quăng của cá như cũng được đúc theo khuôn mẫu vừa rồi. Bác Tư lại bóc cá, ném vào giỏ. Lại lấy một cần câu khác, lại bỏ xuống suối. Lại giật. Lại lấy ra, bỏ giỏ. Lại cầm cần câu khác. Bỏ xuống. Giật. Cho vào giỏ. Lại buông cần. Và giật... Câu được con cá thì thật mừng. Nhưng câu mà cứ được mãi, được hoài, được suốt thấy cũng chán. Đến một độ tôi thấy cả tôi, cả thằng Chíp và cả bác Tư nữa, cũng đều uể oải về chuyện thành công.
Nhưng bác Tư vẫn đứng câu. Tôi cũng vẫn đứng xem và móc mồi vào từng lưỡi câu bác Tư vừa giật cá. Thằng Chíp cũng vậy... Cá đã đầy chật giỏ đến nỗi từng con ngạnh một, mặc dù có được thân thể trơn tuột, cũng không còn chỗ để luồn lách được nữa, cứng như nêm rồi! Những con cá được câu lên sau, bác Tư phải xọc qua mang bằng sợi chỉ mây đã đem theo...
- Bây giờ bọn con mỗi đứa một cần, đứng xa nhau ra không có giật cá vướng chỉ. Tập câu đi! Tao móc mồi, và bóc cá ra cho.
Tôi và thằng Chíp đứng xa nhau, buông mồi. Cái phao đã dựng thẳng xuống nước. Trên mặt suối, vẫn còn bầy cá đang quẫy đớp cám rang... mà chiếc phao vẫn cứ bình thường, dửng dưng.
Bỗng nhiên phao biến mất. Tôi giật ngay. Một con ngạnh tung lên theo chỉ và văng ra khỏi lưỡi câu. Cá rơi xuống lại mặt suối. Thằng Chíp cũng giật. Nhưng cá cũng sống mồi ngay từ dưới mặt nước.
Bác Tư cười vui, nét mặt rất thông cảm cho bọn tôi:
- Câu tiếp đi! Thằng Đục giật hơi sớm. Cá chưa nuốt hết trọn con trùn mày đã giật rồi. Thằng Khịt (bác gọi sai: tên Chíp trở thành Khịt, thành ra thằng Khịt Mũi, tôi trong bụng cười muốn ngã lăn ra đất, nhưng không dám nói gì, chỉ cắn tí chéo lưỡi đến chảy máu), thằng Khịt cũng giật quá sớm. Lại không quen mẹo giật. Giật cá là phải "giật trặc". Bàn tay mình cầm chiếc cần câu, cá ăn, chờ một tí xíu, rồi mới giật... nhưng phải vừa giật vừa ngoáy chéo một cái cho mũi lưỡi câu móc ngay vào mang cá. Câu tiếp đi! Tôi buông mồi câu tiếp. Bọn cá cũng đã bớt quẫy mình rộn ràng như trước. Cái phao lại thụt, trả, thụt, trả, rồi đi đứng ngồng nghềnh như kẻ quá chén. Tôi giật! Và được một con... Thằng Chíp cũng giật. Nhưng vẫn bị hẫng tuột. Sợi chỉ loằng ngoằng vòng vèo như những nét hình vớ vẩn mấy người mua bút bị đang thử ngồi trên giấy cô bán hàng. Bác Tư lại đưa từng cần câu một cho mỗi đứa bọn tôi. Mặt vẫn giữ một nét vui thân mật và thông cảm, không có chút gì bực mình:
- Câu tiếp!
Phải thấy rõ một sự việc là hình như bọn cá cũng biết cảnh giác đối với từng cái phao mồi trùn. Chúng đã ít đớp mồi lại. Tuy nhiên, vẫn có đứa ngốc nghếch, và đã bặp ăn. Thế là tôi được thêm một con ngạnh nữa. Và thằng Chíp đã giật được con đầu tiên, điều này đã làm nó mừng tới run rẩy cả những ngón tay. Tôi cũng như thằng Chíp, buông mồi đã lâu, nhưng chẳng có cái mốc xơ gì nữa cả. Mà những tăm cá cũng không còn thấy vào đâu... Bác Tư nói:
- Ta về thôi!
Bọn tôi đã nghĩ như vậy từ lúc nãy, nên nghe theo ngay, chuẩn bị ra về. Bác Tư cầm bốn cần câu. Mỗi cần, chỉ câu đã được cuốn khéo lại quanh thân. Tôi xách giỏ cá nặng, thằng Chíp xách xâu cá đã được bác Tư buộc thành chuỗi, theo bác ra về.
Vừa tới cổng nhà, hai con chó đốm giống nhau đến tôi đoán chúng là anh em sinh tư, sinh năm gì đó: giống nhau như chỉ có mỗi một con ở trên đời mà thôi. Chỉ nghe một lời "Đốm, vào!" của bác Tư, đôi chó đã không còn dám mừng quýnh, nhảy chồm chồm sau chân bác đến muốn tập đi bằng hai chân. Tôi biết: chó nhà này rất dữ nhưng lại rất ngoan, rất sợ ông chủ bà chủ mình. Tôi nháy mắt thằng Chít để xin chào bác Tư ra về. Nhưng bác bảo:
- Chờ bác tí xíu!
Bác Tư gọi bác gái đưa lên cái rổ sưa. Bác đổ giỏ cá ra rổ. Ôi chao, quá nhiều! Lấy riêng một mớ chia làm hai phần: mỗi phần một chục con xâu vào từng sợi dây mây rất mảnh:
- Bọn con đem về cho gia đình, bảo bác biếu nhân mùa cá ngạnh nguồn vừa về...
Bác gái còn có mặt ở đó, hỏi bác trai:
- Đây là thằng còn anh Khớp phải? Ừ... còn đây là...
Bác Tư bảo:
- Đây là thằng Khịt, con anh Sẻ thợ may...
Thằng Chíp đỏ cả toàn mặt vì không dám cười! Tôi thì không làm sao nhịn được nữa, cười gập người xuống tới đau cả ruột, chảy cả nước mắt và nước mũi. Rồi lễ phép:
- Thưa hai bác, nó là thằng Chíp. "Chíp" bác ạ! Chứ không phải thằng "Khịt"!
Bây giờ đến lượt cả hai bác cùng cười. Có lẽ do vừa là chủ nhà, vừa là người lớn nên họ cười vang nhà...
(7/11/1992)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top