mo dau
Trong ngành công nghiệp dầu khí công tác khoan
giếng là một trong những khâu rất quan trọng không
thể thiếu, thông qua giếng khoan để tiến hành việc
tìm kiếm thăm dò và khai thác sản phẩm và làm nhiều
công tác nghiên cứu tiếp theo.
Giếng khoan được xem là một công trình hình trụ
được thi công trong vỏ trái đất có chiều sâu lớn gấp
nhiều lần đường kính của nó.
Để tạo thành giếng khoan hiện nay hầu như chỉ
còn được thực hiện bằng phương pháp khoan xoay có
rửa. Để phá huỷ đất đá tạo thành lỗ khoan người ta
sử dụng choòng khoan. Căn cứ vào đặc điểm phá huỷ
của choòng trên đáy mà thân giếng khoan được tạo
thành bằng 2 kiểu sau:
- Khoan phá toàn đáy: Toàn bộ bề mặt đáy được
phá huỷ thành mùn khoan và được đưa lên mặt bởi dòng
tuần hoàn (chủ yếu là chất lỏng) được bơm xuống đáy
từ trên mặt.
- Khoan lấy mẫu: Chỉ một phần đất đá ở thành lỗ
khoan bị phá huỷ thành mùn theo hình vành khăn, còn
lõi đá ở giữa được lấy lên nguyên dạng (bằng ống
mẫu) gọi là mẫu lõi để nghiên cứu cấu trúc địa chất,
tính chất cơ lý và thành phần thạch học v.v...
Căn cứ vào công dụng của giếng khoan trong công
nghiệp dầu khí người ta chia giếng khoan thành 5
loại chính như sau:
1, Giếng khoang tìm kiến cấu tạo: Để nghiên cứu
kiến tạo, địa tầng, thạch học cũng như độ chứa sản
phẩm của một tầng nào đó.
2, Gếng khoan chuẩn: Để nghiên cứu điều kiện địa
chất và phương hướng tìm kiếm dầu khí ở những vùng
chưa được nghiên cứu kỹ.
3, Giếng khoan thăm dò: Để nghiên cứu tầng sản
phẩm cũng như giá trị công nghiệp của chúng. Để
khoanh giới hạn tầng dầu, khí, nước ở các vỉa khai
thác.
4, Giếng khoan khai thác: Dùng để lấy sản phẩm
dầu khí lên.
5. Giếng bơm ép: Được dùng để bơm nước, khí hoặc
không khí nhằm duy trì áp lực vỉa với mục đích kéo
dài thời gian khai thác tự phun.
+ Các phương pháp khoan trong khoan dầu khí:
Trước đây (khoảng củaối thế kỷ XIX) tồn tại hai
phương pháp khoan đó là khoan đập (chủ yếu là đập
cáp) và khoan xoay. Chiều sâu kỷ lục của phương pháp
khoan đập đạt được năm 1918 tại bang Techzat Mỹ là
2250m. Phương pháp khoan đập bên cạnh những ưu điểm
cũng bộc lộ nhiều hạn chế không thể khắc phục được,
trong đó chủ yếu bị hạn chế bởi chiều sâu giếng
khoan do cấu trúc quá phức tạp cho nên đã phải
nhường chỗ cho phương pháp khoan xoay có rửa. Ngày
nay do những ưu việt vốn có, phương pháp khoan đập
vẫn được sử dụng để thi công các giếng khoan khai
thác nước, thăm dò sa khoáng hoặc các giếng khoan
phục vụ công tác nổ mìn. Ngay cả ở Việt Nam đã, đang
và sẽ còn được sử dụng.
Như đã nói ở trên trong công tác khoan các giếng
khoan thăm dò và khai thác dầu khí duy nhất chỉ tồn
tại phương pháp khoan xoay.
Trong phương pháp khoan xoay, căn cứ vào vị trí
đặt động cơ lại chia ra 2 loại chính là:
- Phương pháp khoan Roto (hoặc đầu quay di
động): Có động cơ đặt trên mặt đất và truyền chuyển
động quay cho choòng khoan thông qua cột cần khoan.
- Phương pháp khoan bằng động cơ chìm (chủ yếu
là động cơ tuabin hoặc động cơ trục vit): Động cơ
đặt ngầm trong lỗ khoan bên trên choòng khoan.
+ Các quá trình chính của công tác khoan bao
gồm:
- Công tác xây lắp và chuẩn bị mọi mặt cho công
tác thi công.
- Công tác khoan thuần tuý. Choòng trực tiếp phá
huỷ đất đá ở đáy và tuần hoàn dung dịch. Đây là thao
tác cơ bản tạo ra giếng khoan nhưng nó lại cần ít
người tham gia nhất. Chỉ có kíp trưởng khoan trực
tiếp điều khiển thông qua tời, bàn quay Roto và dẫn
động bộ dụng cụ phá huỷ nhờ cột cần khoan và cần chủ
đạo.
- Tiếp cần khoan: Khi khoan hết chiều dài làm
việc của cần chủ đạo ta cần phải nối dài thêm bộ
khoan cụ bằng cách gắn thêm đoạn cần khác (có chiều
dài £ chiều dài làm việc của cần chủ đạo) dưới cần
chủ đạo và được lắp vào cột cần khoan phía dưới. Cứ
tiếp điều khiển thông qua tời, bàn quay Roto và dẫn
động bộ dụng cụ phá huỷ nhờ cột cần khoan và cần chủ
đạo.
- Tiếp cần khoan: Khi khoan hết chiều dài làm
việc của cần chủ đạo ta cần phải nối dài thêm bộ
khoan cụ bằng cách gắn thêm đoạn cần khác (có chiều
dài £ chiều dài làm việc của cần chủ đạo) dưới cần
chủ đạo và được lắp vào cột cần khoan phía dưới. Cứ
khi lắp đặt cần kiểm tra độ an toàn của giá treo
ống, đối áp và áp suất làm việc của đầu ống chống.
- Công tác hoàn thiện giếng khoan: Đây là công
đoạn cuối cùng (sau khi đã thả cột ống chống khai
thác) gồm có công việc thả vào giếng các thiết bị
cần thiết theo thiết kế như Pake, ống khai thác, van
an toàn v.v... thông giếng với tầng sản phẩm bằng
bắn vỉa, thông tầng bằng các phương pháp xử lý
axit, vỡ vỉa bằng phương pháp thuỷ lực v.v... Sau đó
là bàn giao giếng khoan cho các công ty khai thác
quản lý.
Bước tiếp theo là thu dọn khoan trường và
chuyển đến địa điểm mới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top