mmtt10c

Đội của hắn

vốn có mười hai người, về sau đã bị chia tách ra, tưởng rằng khi cửa mở lại, những ngưởi khác

có thể theo kịp, kết quả mới phát hiện hóa ra không phải. Những chiến hữu kia của hắn như thể

bốc hơi vào không khí vậy. Tiếp sau đấy, bọn hắn lại gặp phải cạm bẫy. Đám lính đánh thuê

bọn hắn, nếu bảo đánh trận giết người thì tên nào cũng là cao thủ, nhưng đụng phải cơ quan

cạm bẫy, đặc biệt là loại yêu cầu phải động não, thì kết cục chỉ có...

Tóm lại, cuối cùng chỉ còn lại một mình Boris. Hắn ta thấy đồng bọn hết tên này đến tên

khác ngã xuống, tinh thần lúc nào cùng nơm nớp lo âu, hơn một tuần nay, hắn chỉ biết cắm đầu

cắm cổ chạy từ gian phòng này sang gian phòng khác. Hắn cũng phát hiện được một số quy

luật, nên chỉ dám chui vào những gian phòng có bệ co quan treo ngược ở góc trên. Mỗỉ lần

Cửu Cung biến hóa, hắn đều cực kỳ khủng hoảng, chỉ sợ bệ cơ quan kia sẽ xoay xuống góc

dưới. Chẳng những vậy, hắn lại chỉ có một thân một mình, mức độ căng thẳng và sự sợ hãi vì

thế cũng tăng thêm một bậc nữa. Ngày nào Boris cũng khẩn cầu Thượng đế, cầu xin Thượng

đế cho hắn gặp một người nào đó, dù là kẻ địch cũng được.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin im lặng lắng nghe, Boris kể một mạch, không giấu giếm

chuyện gì. Sau khi lấy lại bình tĩnh, hắn đã có thể nói một thứ tiếng Anh đơn giản, ba người có

thể đồng thời trao đổi. Hắn nói, hồi nhỏ đi học hắn cũng khá môn Toán, vì vậy mới mấy lần

thoát hiểm, rồi hắn lại kể bà nội hắn rất hiền, bố mẹ hắn quen nhau như thế nào, tên ở nhà của

hắn là Popo, Merkin và Trác Mộc Cường Ba có thể gọi hắn là Popo cho tiện.

Nghe Popo nói năng lung tung, Merkin bảo hắn trấn định lại, rồi dò hỏi xem kẻ nào là chủ

sự của đội ngũ này, tướng mạo thân hình kẻ ấy như thế nào. Popo nói, vóc dáng người đó

không hề nổi bật, trên mặt lại bôi dầu đen hóa trang rất đậm nên không nhìn rõ được tướng

mạo. Bọn hắn chỉ biết gọi y là ngài Thomas. Merkin chau mày, y không biết có người nào như

vậy! Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói, âm thầm đưa ra một số suy đoán.

Trác Mộc Cường Ba cũng hỏi về tình hình của Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn.

Popo nhất nhất trả lời đầy đủ. Lúc trước gã đã hỏi mấy tên lính đánh thuê ở gian phòng toàn

bánh răng rồi, những gì Popo nói cũng gần như tương tự. Hắn chỉ biết Lữ Cánh Nam, pháp sư

Á la và Mẫn Mẫn đều đi theo kẻ thủ lĩnh kia. Popo cứ trả lời được mấy câu là lại bắt đầu lảm

nhảm, kẻ nào chết rồi, chết như thế nào, hắn sợ, thực sự rất sợ, rồi bắt đầu nói cả những chuyện

hoàn toàn không liên quan.

Popo bắt đầu kể về lịch sử di cư của tổ tiên dòng họ nhà hắn, Trác Mộc Cường Ba và

Merkin để mặc cho hắn nói một mình, ngấm ngầm bàn xem nên xử lý tên lính đánh thuê này

thế nào. Merkin đánh mắt ra hiệu: "Chúng ta tước hết vũ khí trang bị, để hắn ở lại đây tự sinh

tự diệt, không cho đi theo."

Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Popo, cao lớn, khoảng chừng một mét chín tám đến hai

mét, lông mày rậm, mắt to, môi dày, khuôn mặt vuông vắn, bộ dạng ngốc nghếch. Gã lộ vẻ bất

nhẫn: "Vậy có tàn nhẫn quá không?"

Khóe miệng Merkin hơi nhếch lên, y trợn trừng mắt: "Anh điên rồi, hắn là kẻ địch, cho dù

hiện giờ hắn hoàn toàn không có khả năng uy hiếp chúng ta, nhưng vậy thì sao chứ? Ai đi

đường nấy, chúng ta không hạ sát thủ đã là tử tế với hắn lắm rồi."

Trác Mộc Cường Ba nhíu mày cúi mặt, lừ mắt nhìn Merkin: "Không, quan niệm của người

Trung Quốc chúng tôi khác với các ông, dù là kẻ địch cũng không nhất định phải đuổi tận giết

tuyệt, có lúc địch cũng có thể hóa thành bạn được."

Merkin ngoảnh mặt đi, ngón tay út khẽ nhếch 1ên chỉ về phía Popo: "Nhưng hắn là người

nước ngoài, không hiểu quan niệm của người Trung Quốc các anh là cái quái gì đâu. Người

Trung Quốc các anh, chẳng phải cũng có câu chuyện kiểu như ‘Người nông dân và con rắn’,

‘Đông Quách tiên sinh và con sói’(30) đấy sao?”

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba trở nên kiên nghị: “Tôi đã quyết định rồi, dẫn theo hắn, trong

chốn tuyệt cảnh này, người với người phải dựa vào nhau mới sống sót được, hiện giờ chúng ta

và hắn không có xung đột về lợi ích, mọi người đều chỉ muốn sống sót ra khỏi đây mà thôi.

Ông cứ một mực bài xích kẻ khác, đến cuối cùng, kẻ bị cô lập lại chính là bản thân ông đấy.”

Merkin thoáng lộ vẻ giận dữ, nghiến răng: "Anh nghĩ vậy thì tôi cũng chẳng còn cách nào,

đây là dẫn sói vào nhà, anh tự làm tự chịu đấy nhé."

Hai người lặng lẽ trao đổi bằng ánh mắt và động tác, Popo hoàn toàn không hề hay biết, y

vẫn cúi đầu lẩm bẩm như đếm đồ quý trong nhà: “bấy giờ, bọn họ dẫn theo mười con trâu, ba

cỗ xe ngựa, đi hơn một nghìn cây số...”

“Được rồi, Popo,” Trác Mộc Cường Ba vỗ vai hắn nói, “vừa đi vừa kể tiếp, chúng ta phải đi

rồi.”

“Đi?” Popo ngẩng đầu lên, nét mặt hoảng hốt, điều hắn sợ nhất chính là bị Trác Mộc Cường

Ba và Merkỉn bỏ lại đây, thà rằng bọn họ giết gã tại chỗ còn đỡ hơn là bỏ hắn lại đây một

mình. Hắn không đủ dũng khí để tự sát, mà cũng không thể nào chịu đựng cuộc sống cả ngày

phải lo âu nơm nớp thế này nữa.

Câu nói tiếp theo của Trác Mộc Cường Ba khiến quả tim đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực

của hắn bình tĩnh trở lại: "Chúng ta cùng đi, vừa đi vừa kể lại xem các anh đã gặp phải những

cơ quan cạm bẫy gì."

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đi trước, Popo theo sát phía sau. Hắn bắt đầu tả lại những cơ

quan mình gặp phải từ lúc tiến vào Cửu Cung biến. Nơi này có đủ loại cơ quan cạm bẫy khác

nhau, có những sợi tơ kim loại mỏng mảnh mắt thường không thể nhìn thấy chạy từ tường bên

này sang tường bên kia; có những lưỡi dao mỏng dính bắn ra từ cả sáu mặt trên dưới trái phải

trước sau; có lúc toàn bộ mặt sàn xoay tròn ba trăm sáu mươi độ; cũng có gian phòng lại có

nuôi dưỡng những động vật đáng sợ...

“Động vật?” Trác Mộc Cường Ba đang đi phía trước bỗng dừng lại, gã chưa bao giờ nghĩ,

trong Cửu Cung biến này lại còn nuôi dưỡng động vật.

"Thật đấy," Popo vội nói, "tôi chưa từng gặp thứ nào đáng sợ như vậy, bọn chúng rất nhỏ,

màu đen, trên trần nhà đột nhiên toác ra một cái lỗ, chúng nó giống như hạt thóc vãi ra trong

kho, thằng Kiev không cẩn thận bị chúng bám vào, chỉ trong chớp mắt đã phủ kín toàn thân, cả

người đen kịt... sau đó... sau đó... sau đó... những thứ đen đen ấy liền tách ra làm hai ngả, bò

trở lại cái lỗ kia, còn thằng Kiev thì hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại mỗi khẩu súng của nó

thôi!”

“Phu quét đường!” Merkin từ từ chui ra khỏi thông đạo, nghiêm mặt nói với Trác Mộc

Cường Ba.

"Phu quét đường?"

"Phu quét đường là thứ mà người xưa dùng để giữ sạch các mộ táng hoặc công trình kiến

trúc, chúng có thể là động vật, thực vật hoặc vi sinh vật gì đó. Đặc điểm của thứ này là số

lượng nhiều, năng lực sinh sản mạnh mẽ; tốc độ ăn như gió cuốn mây tan, chúng có thể ăn mọi

loại vật chất hữu cơ, kinh khủng hơn kiến sư tử hay cá hổ piranha nhiều. Anh đã nghe nói đến

cát ác quỷ ở Inca bao giờ chưa? Những người Tây Ban Nha gặp phải thứ này kể lại rằng, chúng

giống như những hạt cát lưu động, người hay động vật bị chúng cuốn vào hay phủ lên thì đến

khúc xương cũng chẳng còn, toàn bộ đều bị phân giải trong chớp mắt. Về sau, các nhà khoa

học nghiên cứu mới phát hiện được, đó là một loại vi sinh vật cực kỳ phàm ăn đồng thời có khả

năng sinh sôi nảy nở cực mạnh. Còn nữa, vùng lưu vực Lưỡng Hà có một loại dây leo, bộ rễ

của chúng tạo thành hình dạng như cái túi lưới, đồng thời khiến đất đai xung quanh trở nên xốp

mềm. Chỉ cần con mồi lọt vào trong túi lưới đó, rễ cây sẽ tiết ra một loại axit còn mạnh gấp

mười lần axit sunfuric, bất kể động thực vật gì, thậm chí cả kim loại cũng bị oxy hóa, biến

thành dưỡng chất cung cấp cho thân cây."

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi tưởng trong kết cấu kiến trúc kiểu này, ngoại trừ cơ quan

cạm bẫy ra, không thể có vật thể sống tồn tại được.”

Merkin cười khẩy nói: "Cơ thể người mà thiếu nước ắt sẽ chết trong bảy hai tiếng đồng hồ,

anh hỏi Popo thử xem, hắn làm sao cầm cự được những mười lăm ngày vậy?"

Popo vội nói: “Có nước, một số gian phòng có nước.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Merkin, y xòe hai tay ra nói: "Tôi cũng không biết bọn

họ làm cách nào, nhưng đúng là cổ nhân có thể dẫn nước vào trong Cửu Cung biến. Có điều,

không phải mỗi phòng đều có nước. Nước là nguồn gốc của sinh mệnh, chỉ cần có nước, bọn

họ có thể nuôi dưỡng các sinh vật đơn giản rồi." Ba người lại xuyên qua mấy gian phòng nữa,

đến một gian phòng nọ, Mcrkin và Trác Mộc Cường Ba đã nhảy xuống trước, Popo chỉ ở trong

thông đạo thò đầu ra, không chịu xuống. Hắn chỉ vào góc phòng kêu lên: "Có cạm bẫy, có cạm

bẫy!”

Merkin ói: “Đúng vậy, chúng tao biết rồi, mày xuống đây đi.”

“Choeng!” một tiếng, thông đạo sau lưng đã bị tấm kim loại bật ra ngăn cách, Popo không

còn cách nào khác, đành chui ra, ánh mắt hoảng sợ đảo tròn, rồi lại bần thần nhìn sang phía

Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Merkin bắt đầu: “Qua đây, chúng ta xem đây rốt cuộc là cơ

quan gì.”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng trước bệ cơ quan nhỏ ấy xem xét một hồi, Merkin cũng ngó

đầu vào quan sát, chỉ thấy mặt trên của bệ cơ quan là một bàn cờ giống hệt như bệ cơ quan có

bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ. Chỉ có điều, số lượng các ô vuông nhiều hơn rất nhiều, mé

bên trái và phía dưới bàn cờ dường như có chữ chú giải. Ngoài ra, mé bên phải và phía trên bàn

cờ lại có rất nhiều những lỗ nhỏ hình dạng như chiếc lược be bé, phía trên một nét ngang, bên

dưới bốn nét dọc song song, thoạt nhìn như những chữ “nhi”(31) xếp hàng ngang dọc. Chỉ là, những lỗ nhỏ này đẫ bị lấp kín, còn có thứ gì đó gồ lên. Merkin tò mò hỏi: “Đây là gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp loại cơ quan kiểu này, nhưng đã nghe nói đến. Gã trả lời

Merkin: “Không phải ông từng nhắc đến bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ đại sao? Tôi

nghĩ chính là thứ này đấy."

"Vậy à?" Merkin xem chừng rất hứng thú với kiểu cơ quan chưa từng gặp này, vội hỏi tiếp:

“Những chữ này nghĩa là gì?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Những hình ở phía trên và mé phải này, 1à tổ hợp số biểu đạt

bằng các toán tử cổ đại, mỗi tổ hợp số ứng với các ô vuông ở hàng dọc hoặc hàng ngang trên

bàn cờ."

Nói đoạn, gã vẽ một hình chữ nhật dưới sàn nhà, vạch thêm mấy nét nữa, chia hình đó

thành sau ô vuông nhỏ, giải thích: “Ông xem, chính là như vậy.” Chỉ thấy gã gạch ba đường

chéo ở ô thứ nhất, thứ bà, thứ sáu, rồi nói: “Nếu là trạng thái này, bên cạnh sẽ chú thích là 1, 1,

1.” (xem H1) Tiếp đấy, gã lại gạch một đường chéo ở ô vuông thứ 4, và nói: "Nếu là trạng thái

này, bên cạnh sẽ chú thích là 1, 2, 1, (Xem H2) ông hiểu chưa?"

(H1)

(H2)

Merkin nói: "Tôi hiểu rồi, phải đồng thời thỏa mãn các số ở hàng dọc và hàng ngang, đáp án

là duy nhất, xem ra cũng không phức tạp lắm."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu chỉ có sáu ô thì đúng là rất đơn giản, nhưng bàn cờ bên kia,

hàng ngang hàng dọc đều có mười ô vuông đấy."

Merkin đứng dậy, liếc nhìn các tổ hợp số, chỉ thấy các tọa độ hàng ngang lần lượt là ”2, 4,

22, 212, 2112, 2221, 232, 22, 22, 3”, còn tọa độ hàng dọc là “2, 4, 22, 222, 2122, 2111, 222,

42, 22, 2”, y ngẫm nghĩ giây lát, rồi lập tức chữa lại: “Đúng là phải phân tích logic.”

Popo ở bên cạnh đã cuống quít cả lên, thấy hai người vẫn còn tâm trạng ngồi thụp xuống

thảo luận về nguyên lý hoạt của cơ quan, liền rối rít thúc giục: "Khởi động rồi, cơ quan đã khởi

động rồi kìa."

Trác Mộc Cường Ba an ủi hắn: "Không cần căng thẳng, chúng ta có cái này." Dứt lời gã liền

lấy máy tính ra, nhanh nhẹn nhập số liệu, đồng thời sử dụng phần mềm phân tích. Chỉ trong

giây lát, máy tính đã đưa ra đáp án. Merkin để ý thấy, trong mắt Popo thoáng lộ ra một tia nhìn

kỳ lạ, ánh mắt này hết sức quen thuộc. Không biết cơ quan trong gian phòng này rốt cuộc là gì,

bởi nó còn chưa kịp thể hiện uy lực thì câu đố trên bệ cơ quan đã được giải đáp, ba người lại

tiếp tục tiến lên. Dọc đường, Merkin vẫn luôn nghĩ về bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ

đại này, càng nghĩ càng cảm thấy cao thâm, nếu số lượng ô vuông càng lớn, tổ hợp số được

cho biết càng ít, vậy thì sẽ có càng nhiều biến hóa có khả năng xuất hiện.

Dọc đường, ba người còn gặp phải nhiều câu đố khó, chẳng hạn như bài toán chia ruộng của

Trung Quốc, bài toán chia bò của Ấn Độ, vấn đề thiên văn và ảnh chiếu hình học của Ai Cập,

đề toán Hy Lạp cổ đại..., nhưng với trợ thủ đắc lực là chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân,

họ cũng không gặp quá nhiều khó khăn. Có điều, vấn đề lớn nhất của Cửu Cung biến chính là,

bọn họ không thể nghỉ ngơi đầy đủ, mặc dù ánh sáng rất yếu, nhưng chỉ ngủ được vài phút, căn

phòng đã bắt đầu chuyển động. Cứ như vậy, đến cả Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng rơi

vào trạng thái gà gật lơ mơ. Đây cũng chính là một nguyên nhân quan trọng khiến người tiến

vào Cửu Cung biến này rất dễ hóa điên.

Ba ngày sau, Trác Mộc Cường Ba gắng gượng ngăn không cho hai mí mắt díp tịt lại, sát khí

tỏa ra hừng hực, thứ quái quỷ này đã khiến gã gần như phát điên đến nơi rồi. Thần sắc Merkin

cũng ảm đạm, trên mặt như trát lên một lớp tro xám ngoét, còn Popo thì càng lúc càng lắm lời,

cứ lẩm bà lẩm bẩm mãi không thôi, thực chẳng khác nào một đàn ruồi nhặng, khó chịu vô

cùng.

Bọn họ đang chuẩn bị chui vào gian phòng cuối cùng trong khoảng thời gian giữa hai lần

Cửu Cung biến hóa, Merkin chọn thông đạo đi xuống. Vì thang treo không rộng lắm, nên

không thể cùng lúc để hai người đi qua giống như thông đạo nằm ngang, họ chỉ có thể lần lượt

xuống từng người một.

Merkin mới xuống được một nửa, đầu vẫn còn ló ra bên ngoài, đột nhiên hướng về phía

Trác Mộc Cường Ba nở một nụ cười thần bí. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn ra, nụ cười này

là thế nào?

Lúc này, lại chợt nghe Popo nói: “Ông... ông xuống trước, tôi đi sau cho."

Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn người, trước giờ Popo luôn sợ bị bọn gã bỏ lại, dù lên trên hay

xuống dưới, luôn đòi đi giữa gã và Merkin, lần này rốt cuộc là sao vậy? Liên tưởng đến nụ

cười thần bí của Merkin, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi: “Lẽ nào, hai người bọn

hắn đã đạt được thỏa thuận gì đó? Tấn công mình? Ở nơi này sao, Merkin có ngu đến mức ấy

không?” Gã là người thứ hai bám thang leo xuống thông đạo thẳng đứng, hầu như đang dồn

toàn bộ sự chú ý vào Merkin, đột nhiên thấy trên lưng nhẹ hẫng, có người giật mạnh cái ba lô

của gã. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên quát: “Popo! Anh làm trò gì vậy?”

Popo đứng bên ngoài thông đạo, căn bản không hề có ý định leo xuống. Lúc này, cặp mắt

hắn trừng lên hung tợn, hai tay chộp lấy ba lô trên lưng Trác Mộc Cường Ba, miệng không

ngừng gào thét: "Đưa máy tính đây! Đưa máy tính đây!"

Trác Mộc Cường Ba vươn tay hất mạnh khiến Popo ngã bổ chửng, gã đang định bò lên chất

vấn hắn, chợt nghe thấy tiếng người nói chuyện, liền lập tức hiểu ra. Popo nghe thấy tiếng của

đồng bọn, phỏng chừng đã quyết định không đi theo hai người bọn gã nữa, nhưng hắn cũng

biết chiếc máy tính trong ba lô Trác Mộc Cường Ba là mấu chốt để hóa giải cơ quan cạm bẫy

trong các gian phòng, bởi vậy nên mới xảy ra màn vừa rồi.

Trác Mộc Cường Ba không khỏi lấy làm thất vọng, đúng lúc này, gã lại cảm thấy tay nắm

cầu

thang treo hơi rung nhè nhẹ, đây là dấu hiệu Cửu Cung sắp sửa biến hóa. Merkin đã

xuống gian phòng bên dưới rồi, Trác Mộc Cường Ba liền bỏ mặc Popo, buông người trượt

nhanh, chớp mắt đã xuống được phòng bên dưới. Lúc người gã vừa lướt qua đoạn giữa thông

đạo, liền nghe "choeng" một tiếng, tấm kim loại đã bật ra ngăn cách hai gian phòng, Popo ở

phòng phía trên tuyệt vọng kêu gào: "Đừng mà!" Đồng thời, gã cũng nghe thấy tiếng hô hoán

của một nhóm người khác từ đâu đó vẳng đến.

Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống, cùng Merkin đợi Cửu Cung biến hóa. Hành vi bất thường

của Popo khiến gã hết sức ủ ê chán nản, chẳng buồn nói câu nào nữa. Merkin ở bên cạnh chợt

lên tiếng: “Tôi đã nói rồi, bọn lính đánh thuê này không thể tin được đâu!"

Gã lạnh lùng đáp trả: "Nếu không phải ông cười với hắn một cái, hắn làm sao lại đột nhiên

giở quẻ như vậy chứ?" Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, lúc Merkin chui vào thông

đạo, tiếng nói chuyện của bọn lính đánh thuê kia đã lọt vào tai y rồi. Nụ cười thần bí ấy không

phải dành cho gã, mà là cười với Popo. Nụ cười ẩn chứa sự nghi kỵ và sát khí ấy, Trác Mộc

Cường Ba nhìn còn thấy gai người, huống hồ là Popo. Mấy ngày nay, bản thân hắn đã như con

chim sợ cành cong, lúc nào cũng lo lắng Trác Mộc Cường Ba và Merkin sẽ bất thình lình ra tay

với hắn, lại càng sợ bọn họ bỏ hắn lại một mình. Nụ cười của Merkin khiến Popo cho rằng

mạng hắn đến đây là chấm dứt. Đúng lúc đó, hắn lại nghe thấy tiếng nói của đồng bọn, bản

năng cầu sinh bèn thúc giục hắn tìm kiếm cơ hội sống sót mới... Nhưng tại sao Merkin nhất

định phải xua đuổi Popo đi như thế? Y sợ Popo nhớ lại những thông tin bất lợi với mình sao?

Lời cảnh cáo trước lúc chết của Nhạc Dương, gã thủy chung vẫn ghi nhớ trong lòng: "Merkin...

hắn không tin tưởng ai cả... những lời hắn nói, tuyệt đối không thể tin được...”

Cửu Cung biến bắt đầu chuyển động, hai người vẫn trầm mặc, trong lòng đều có suy tính

riêng, tựa như hai người xa lạ gặp nhau trong thang máy, lại như đang ở trong một khoang

thuyền lắc lư tròng trành giữa cơn mưa bão.

CHƯƠNG 78: BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT

.

BÀN CỜ CHÍ MẠNG

.

Cửu Cung biến đã dừng, nhưng tấm kim loại ngăn cách thông đạo vẫn không mở ra, bệ cơ

quan đã bị xoay chuyển xuống góc bên dưới.

Merkin sải chân bước tới trước, lấy làm lạ nói: “Đây là cái gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba cũng bước tới theo, chỉ thấy trên bệ cơ quan lại là một bàn cờ mỗi bề

hai mươi lăm ô vuông, ở những chỗ hai đường thẳng ngang dọc cắt nhau xuất hiện nút ấn hình

tròn, một số nằm ngang với bề mặt bàn cờ, một số gồ hẳn lên, song cũng có một số nút lõm

xuống, thoạt trông rất giống một cuộc cờ.

“Mật mang?” Trác Mộc Cường Ba đọc chữ viết trên bệ cơ quan, sau khi hiểu được đại

khái, gã liền giải thích với Merkin: “Đây là cờ Mig mang, được du nhập vào Thổ Phồn từ trước

đời Đường. Lạ thật, tôi chưa từng thấy bàn cờ nào như vậy… Á, chết rồi!” Gã bật máy tính của

giáo sư Phương Tân lên, chỉ thấy màn hình toàn một màu đen kịt. Gã cuống quýt khởi động lại

thấy màn hình nhấp nháy một chút, rốt cuộc cũng lên hình, chắc là do va đập khi tranh giành

với Popo ban nãy.

Merkin cũng bị một phen hú hồn, giờ đây chiếc máy tính này gần như đã trở thành pháp

bảo giúp họ sinh tồn trong mê cung Cửu Cung biến, pháp bảo mà mất linh, Cáo Lửa y có giảo

quyệt đến mấy cũng chẳng làm gì được.

Đợi khoảng hai ba phút đồng hồ, mãi vẫn không thấy Trác Mộc Cường Ba làm gì, Merkin

lại thắc mắc: “Vẫn chưa được à?” Nói đoạn, liền ngó đầu qua xem, chỉ thấy Trác Mộc Cường

Ba đã nhập bố cục bàn cờ vào máy tính, phần mềm đang phân tích tính toán, những con số bên

cạnh không ngừng nhảy lên, đã tính mấy triệu nước đi rồi mà vẫn chưa ra đáp án. Nếu những

câu đố logic đơn giản như trước, máy tính sớm đã hoàn thành công việc từ lâu rồi.

Merkin lại quay sang nhìn bàn cờ, y vẫn có cảm giác cách sắp xếp loại cờ này dường như

rất quen thuộc, bèn hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cờ Mig mang này, rốt cuộc là trò gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chính là cờ vây của Trung Quốc đó, có điều, xưa nay tôi chỉ

thấy bàn cờ mười chín ô giảm xuống còn mười bảy ô, chứ loại bàn cờ lớn, kích cỡ mỗi chiều

lên đến hai mưới lăm ô thế này thì chưa gặp bao giờ.”

Merkin sực hiểu ra, chẳng trách hình dáng bàn cờ này lại trông quen mắt đến vậy, thì ra

chính là cờ vây. Nói vậy thì, đây chính là một tàn cuộc. Sự chú ý của Merkin giờ đã hoàn toàn

tập trung lên bàn cờ. Lịch sử phát triển của cờ vây từng trải qua mười mấy lần biến hóa, từ bàn

cờ 9x9 đến bàn cờ 13x13 rồi 17x17, cuối cùng mới hình thành bàn cờ 19x19. Số lẻ thỏa mãn

được điều kiện hai bên thi đấu nhất thiết phải có một bên giành phần thắng, 19 lại là số đại diễn

trong triết học cổ đại Trung Quốc, khi phát triển đến bàn cờ mười chín ô này, năng lực tư duy

của con người đã đạt đến cực hạn, vì vậy mới không tiếp tục phát triển nữa. Nhưng giờ đây, ở

trước mắt Merkin lại là một bàn cờ cỡ 25x25, lớn hơn rất nhiều. Nếu coi những nút ấn lõm

xuống là quân đen, nút gồ lên là quân trắng, vậy thì cuộc cờ này tựa như hai con rồng khổng lồ

đang quấn chặt vào nhau, ác đấu không phân thắng bại vậy.

Kỳ lạ là, cuộc cờ này thoạt nhìn tưởng rằng hạ cờ xuống đâu cũng được, những nghĩ kỹ lại,

thì dù đi nước nào đối phương cũng có cách ứng phó, giống như hai cao thủ võ lâm đang đối

đầu vậy, dù ai ra tay trước, xuất chiêu thức gì chăng nữa, đối phương cũng có thể lập tức nghĩ

ra chiêu thức phá giải, chỉ có không xuất chiêu mới là cảnh giới cao nhất, một dạng cảnh giới

vô chiêu thắng hữu chiêu!

Merkin tiếp tục chăm chú quan sát, chỉ thấy hai loại cờ dần dần biến ảo thành hai đạo quân

đối đầu. Hai cánh quân đen trắng, quân tiên phong lao vào nhau, binh sĩ chia từng cặp chém

giết điên cuồng, tiểu đội trưởng phối hợp hài hòa, đại đội trưởng bày mưu lập kế… bên tai y

phảng phất vang lên tiếng gươm giáo khua nhau, trống trận rầm rầm như sấm dậy, mặt đất rung

lên, người nghiêng ngựa ngả, tiếng chém giết, tiếng gào thét quện vào nhau. Merkin chợt thấy

trước mắt tối sầm, suýt chút nữa là ngất xỉu tại chỗ. Y vội vàng nhắm chặt mắt, lùi lại một

bước, cảm giác như thể bị người ta dùng búa tạ đập cho một cú vào ngực vậy, lùi một bước, rồi

lại loạng choạng lùi thêm nửa bước nữa mới đứng vững.

Lúc này, máy tính của giáo sư Phương Tân vẫn đang chạy tính toán, Merkin liếc mắt nhìn

thử, thấy đã tính đến bước thứ hai trăm triệu hơn rồi, vậy mà những con số bên cạnh vẫn đang

nhảy với tốc độ mắt thường không thể nào phân biệt được. Y ủ rủ lắc đầu nói: “Vô dụng thôi,

không tính ra được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao?”

Merkin cười rầu rĩ: “Đây là một chân các.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không hiểu, y lại giải

thích thêm: “Chân các, là giai đoạn gần như kết thúc trung bàn, nhưng chưa thâu quan(32) trong một ván cờ vây, cục diện đột nhiên xuất hiện sự hài hòa tột độ, tiếp sau trừ phi xuất hiện một

nước cờ cực diệu, bằng không một bên nhất định sẽ giành phần thắng. Tình huống như vậy,

được gọi là chân các. Chân các trong phức tạp hơn, vì nước cờ của nó nhiều hơn, biến số cũng

lớn hơn gấp bội. Tôi từng gặp qua một chân các giống như thế này, sau khi quân đen đi, quân

trắng chỉ có một cách đối phó duy nhất, chỉ cần đặt sai là ắt sẽ đại bại; nhưng sau khi quân

trắng hạ cờ, quân đen lại cũng chỉ có một cách ứng phó duy nhất, chỉ cần đặt sai chỗ sẽ thua

chắc. Tiếp sau đó, cứ lặp đi lặp lại như vậy, một trăm hai mươi tám nước, nước nào cũng thế,

chỉ có một cách ứng đối duy nhất, nhưng chưa một ai có thể nghĩ ra tình huống sau nước thứ

một trăm hai tám, kể cả máy tính cũng không…”

Trác Mộc Cường Ba nhíu chặt hai hàng lông mày. Merkin tiếp tục nói: “Số lượng phép tính

phải thực hiện quá lớn, mặc dù bộ nhớ máy tính này không tệ, bộ vi xử lý cũng khá mạnh,

nhưng anh đừng quên, đây là bàn cờ lớn 25x25, tổng cộng có tới 625 điểm. Máy tính không thể

tiến hành xử lý mơ hồ, vì vậy, để phá giải thế cờ, nó chỉ có thể dùng một trong hai cách: so

sánh với các thế cờ có sẵn trong bộ nhớ, hoặc dùng phép thử thô bạo(33). Loại bàn cờ lớn này, cổ kim đều chưa từng gặp, máy tính của anh chắc chắn không thể có sẵn thế cờ trong bộ nhớ,

vậy thì chỉ có thể dùng cách thử lần lượt để tính toán nước đi chính xác, cũng có nghĩa là liệt

kê ra mọi khả năng có thể xảy ra trong cuộc cờ. Anh có biết, với một bàn cờ như thế này, sẽ có

bao nhiêu khả năng không? Số lượng những khả năng này sẽ tăng lên theo cấp số mũ, là một

con số cực kỳ khổng lồ. Chỉ nói bàn cờ mười chín ô, nếu dùng siêu máy tính có tốc độ tính

toán 100.000.000.000.000 phép tính một giây để phân tích thì cũng phải mất mười nghìn năm

mới xong, nếu đổi thành bàn cờ 25x25 này …” Merkin lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt nhìn vào màn hình, trị số đã lên đến 12 con số. Vậy mà

máy tính vẫn chưa đưa ra được nước cờ tiếp theo. Gã đành nói: “Vậy phải làm sao bây giờ?”

Merkin hít sâu một hơi, thở dài nói: “Chúng ta đành tự làm lấy vậy, cũng may vẫn chưa

thấy cơ quan nào khởi động.”

“Không,” Trác Mộc Cường Ba nói, “Tôi thấy không ổn, tuy chưa biết là chuyện gì, nhưng

tôi có cảm giác cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra thôi.”

“Cơ quan vô hình à?” Merkin nói: “Tôi chưa từng gặp qua thứ cơ quan cạm bẫy nào như

vậy, trừ phi là sương độc hay khói độc?” Nói đoạn, y ghé mặt sát vào phía tường, phỏng chừng

muốn nhìn rõ xem có làn khói sương mờ mịt nào lan ra không. Nhìn thì không thấy gì, nhưng

Merkin dường như đột nhiên phát hiện được thứ gì đó, vội áp tay vào kẽ tường, kế đó chửi

toáng lên: “Chết tiệt! Chó má thật!”

“Gì thế?” Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay lại chỗ mép tường đó, cảm thấy có lực hút, hút

ngón tay gã dính lên tường.

Mặt Merkin xám như chì, y nói: “Áp suất âm, anh nói đúng, cơ quan đã khởi động rồi, chỉ

là chúng ta không nhìn thấy thôi. Nó sẽ hút sạch không khí, biến gian phòng này thành môi

trường chân không.”

“Nhưng máy tính không thể tìm ra nước đi chính xác, tôi cũng không biết chơi loại cờ này,

làm sao bây giờ?”

Merkin nghiến răng nói: “Không ngại, để tôi thử!”

“Ông?...”

“Cờ vây rốt cuộc là gì?” Merkin đột nhiên hỏi một câu, nhìn vẻ mặt ngơ ngơ của Trác Mộc

Cường Ba, rồi tiếp: “Đây là vấn đề đầu tiên ông nội hỏi tôi khi dạy tôi chơi cờ vây. Ông bảo

tôi, cờ vây không chỉ là một trò chơi đơn giản, cũng không chỉ là đấu trí đấu lực giữa hai kỳ

thủ. Hai loại quân cờ đen trắng, đại diện cho ánh sáng và bóng tối, chính và phụ, có và không,

đây là tư tưởng triết học đơn giản nhất, đồng thời cũng cao siêu nhất. Nó biểu thị khởi nguyên

và cấu thành của vạn vật, hết thảy biến hóa của sự vật trên đời đều không thoát ly khỏi tư

tưởng này.”

Ngón tay Merkin bắt đầu đặt lên điểm nút đầu tiên. Ngay sau nút này bị ấn thụt xuống, liền

có một nút khác tương ứng bật lên. Người xưa đã chuẩn bị sẵn nước cờ để đối phó, nếu y chọn

sai, chắc hẳn gian phòng này sẽ không mở ra nữa, cho đến khi hai người chết mục, bị phu quét

đường dọn dẹp sạch sẽ.

“Cảnh giới tối cao của cờ vây là sự hài hòa,” Merkin lại đi nước cờ tiếp theo, chậm rãi nói,

“người mới học, thường hay tính toán sự được mất của một hai quân cờ phía góc; người hơi

hiểu cờ vây một chút, liền học được cách phán đoán tình thế và thực địa; còn cao thủ đấu với

nhau, lại là cuộc đọ sức về sự hài hòa.”

Mỗi khi đi một bước, Merkin đều hết sức dè dặt, tránh để bị mất đất. Y giống như người

đang chơi cờ với chính mình, dần dần tiến vào trạng thái vong ngã, quên luôn cả sự tồn tại của

Trác Mộc Cường Ba. Y không ngừng lẩm bẩm, chừng như trước mặt có một cao thủ cờ vây

đang ngồi chễm chệ, bọn họ không chỉ so đấu sức cờ, mà còn đang sửa chữa lý thuyết chơi cờ

của nhau nữa. “Thời xưa đánh giá kỳ thủ, toàn dựa vào việc người đó có thể nhìn được bao

nhiêu nước đi phía sau, ai nhìn được chừng bảy bước đã là cao thủ đẳng cấp quốc gia rồi.

Nhưng cách thức đánh giá này, lại hoàn toàn không thích hợp với môn cờ vây. Con người sở dĩ

là con người, là bởi lẽ, ngoại trừ những tính toán và suy đoán lý trí ra, con người vẫn luôn có

một thứ trực giác siêu lý tính, cũng chính là cảm tính. Cảm tính khiến chúng ta có thể đưa ra

những phán đoán mơ hồ, cảm tính cũng là công cụ để chúng ta phân biệt giữa đẹp và xấu.”

Merkin lại đi thêm một nước cờ, nút ấn hình tròn gồ lên liền trở lại vị trí ngang bằng với

mặt bàn.

“Chúng ta lên đỉnh núi cao, chỉ để ngắm nhìn phong cảnh trải dài vô tận dưới chân; chúng

ta đối mặt với biển lớn, chỉ để cảm nhận sóng biển cuồn cuộn dâng trào; chúng ta ngưỡng mộ

lũ chim trời, bởi chúng ta thấy được tự do trong đôi cánh chao liệng của chúng. Thứ con người

theo đuổi, thực ra là một sự cân bằng giữa cảm tính và lý tính. Vì sự theo đuổi này, mà cờ vây

được sáng tạo ra, nó không đại diện cho việc vây sát chém giết, mà là sự cân bằng ở bên trong

mâu thuẫn!”

Merkin hạ cờ mỗi lúc một chậm hơn, năng lực tính toán của y bắt đầu không theo kịp,

những nước đi của bệ cơ quan liên tiếp dồn ép, sát cơ ẩn hiện, mỗi bước như một liều chất xúc

tác, khiến hai con rồng đen trắng càng thêm cừu hận, sát khí nồng đậm. Còn Merkin lại như

một vị chuyên gia đàm phán hòa giải, mỗi nước cờ đều ẩn nhẫn nhẹ nhàng, cơ hồ muốn làm

nguôi lửa giận của hai con rồng, chuyển từ cục diện đang quấn lấy nhau không chết không thôi

sang hòa bình yên ả.

Hai con rồng lúc thì nhe nanh múa vuốt hung tàn, lúc lại quấn chặt lấy nhau, dịu dàng nhu

thuận, mà thứ khiến chúng nảy sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất như vậy, chỉ là những nút

Merkin bấm xuống và bàn cờ tự động bật lên đối ứng. Đi được khoảng hơn ba mươi nước cờ,

không khí trong phòng không biết đã bị hút mất bao nhiêu, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa cảm

thấy có gì bất thường, nhưng đầu Merkin đã bắt đầu xuất hiện những cơn đau nhói. Y hiểu rất

rõ, đó ra do máu và ôxy không được cung cấp đầy đủ, đồng thời bộ não y lại đang tiêu hao một

lượng lớn chất đường và ôxy trong cơ thể. Merkin không thể không day day chỗ giữa hai chân

mày, cố gắng làm bộ não đang nóng bừng lên vì hoạt động quá độ bình tĩnh trở lại. Cũng có

lúc, y nhắm mắt, diễn dịch lại toàn bộ quá trình chinh chiến sát phạt trên bàn cờ.

Thời gian trôi đi từng giây, Trác Mộc Cường Ba cũng tiến vào trạng thái minh tưởng, ngồi

xếp bằng dưới đất. Gã cần phải giữ bình tĩnh cho Merkin, đồng thời cũng cố gắng giảm nhịp

thở xuống, để Merkin hít được nhiều ôxy hơn. Hai người cứ vậy lặng lẽ phối hợp, nỗ lực giành

mảnh giấy thông hành đến cõi người sống từ trong tay thần Chết.

“Khụ khụ …” Merkin đột nhiên cảm thấy nôn nao bất an, y đẩy khẽ vào Trác Mộc Cường

Ba đang ngồi bên cạnh. Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, chỉ thấy khóe miệng Merkin rỉ máu,

giọng nói cũng trở nên thều thào vô lực, “nhanh… tôi không xong rồi, dùng máy tính, mau

lên!”

Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhìn thấy, trên bàn cờ vẫn còn khoảng bốn năm chục ô

trống, vội vàng nhập vào máy tính, bắt đầu tính toán lại. Khi bắt tay thực hiện, gã mới nhận ra

bàn tay mình đang run lên nhè nhẹ, rõ ràng là do không đủ ôxy, hệ thần kinh của gã cũng bắt

đầu tê liệt rồi.

Máy tính phân tích sắp xếp lại hơn năm mươi ô trống, rồi bắt đầu một lượt tính toán mới.

Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở để giữ cho ý thức tỉnh táo, nhìn bộ dạng Merkin,

chắc hẳn thần trí y đã rơi vào trạng thái mơ hồ, nếu cả gã cũng ngã gục ở đây, thì hai người chỉ

có thể ở lại nơi này mãi mãi mà thôi.

Lại mấy phút nữa trôi qua, bàn tay Trác Mộc Cường Ba run run, ấn một nút nữa xuống.

Sau đấy, tốc độ tính toán của máy tính mỗi lúc một nhanh hơn, cuối cùng, chỉ nghe “xì” một

tiếng, tựa như một cái túi lớn bị xì hơi. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm, gã biết, mình

lại có thể há miệng hít thở không khí một cách bình thường được rồi. Thần kinh đang căng như

dây đàn được buông lỏng, Trác Mộc Cường Ba cũng không gắng gượng nổi nữa, mí mắt sụp

xuống, loạng choạng ngã vật ra đất. Trong lúc thần trí vẫn đang mơ hồ, gã lờ mờ cảm thấy sàn

nhà được nâng lên, gạch lát cuồn cuộn như sóng biển đưa gã đến một nơi khác. “Cửu Cung

biến, lại chuyển động rồi sao?” Trác Mộc Cường Ba mang theo ý nghĩ ấy thiếp đi, hoàn toàn

không còn tri giác.

Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, gã thấy mình đang ở trong một đại điện rộng rãi, trần

vòm có tranh vẽ thiên thần. Gã gắng sức ngẩng đầu lên, thấy chính giữa đại điện có bốn cây cột

chống, hai bên là tượng Phật, phía trước là một hồ nước, ba dòng nước trong mắt phun ra từ

miệng ba chiếc đầu thú kỳ dị mà gã không biết tên đổ xuống hồ. Merkin đang ngồi trên bên bờ

hồ, trầm tư nhìn xuống mặt nước, hơi nước mù mịt, không khí nóng bức dị thường.

Trác Mộc Cường Ba vươn mình ngồi dậy, cảm thấy gân cốt toàn thân mềm nhũn, nhưng lại

hết sức dễ chịu, như vừa được ngủ một giấc sau khi massage vậy.

“Đây là nơi nào? Chúng ta đã thoát rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh.

Merkin nói: “Ừm, chắc là đã ra khỏi Cửu Cung biến rồi, tôi nghe nói, trong hơn một vạn

gian phòng, có một gian được bố trí cơ quan phức tạp nhất, sau khi phá giải cơ quan, căn

phòng ấy sẽ tự động dịch chuyển đến lối ra. Phỏng chừng, bàn cờ hai mươi lăm ô kia chính là

cơ quan phức tạp nhất rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nhổm người đứng dậy bước đến gần Merkin, chỉ thấy hai bên trái phải

đại điện này đều có cửa mở, nhìn qua khung cửa cỏ thể thấy hai gian bên cạnh cũng có hai hồ

nước. Gã ngờ vực hỏi: “Đây chính là trung tâm thần miếu mà người Qua Ba cổ đại muốn bảo

vệ sao?”

Gương mặt Merkin cũng lộ ra vẻ nghi hoặc, y nói: “Tôi cũng lấy làm lạ, nơi này giống như

một phần của Cửu Cung biến hơn. Tôi đi xem thử rồi, những gian phòng này cũng có cùng kết

cấu, chẳng qua chúng không di chuyển thôi. Có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung

biến dưới một hình thức khác.”

“Dưới đáy của Cửu Cung biến?” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên. “Chúng ta rơi từ bên

trên xuống hả?” Merkin chỉ chỉ ngón tay, trong bức tranh trên trần đại điện có một lỗ hình

vuông, khi phiến đá khép lại, đường rãnh ẩn vào trong tranh, nhìn thoáng qua không dễ phát

hiện. Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ông đã tìm được lối ra chưa?”

Merkin lắc đầu: “Tôi đi xem hết một lượt rồi, những gian đại điện này bố trí thành hình chữ

hồi(34), đi một vòng liền trở lại chỗ cũ. Vừa nãy tôi đang nghĩ, không biết liệu dưới hồ nước này có cơ quan gì không nữa.”

Trác Mộc Cường Ba thò tay xuống nước, giật mình thốt lên: “Nóng quá!”

Merkin nói: “Nhiệt độ ở đây rất cao. Chắc chúng ta đã ở rất gần mắt núi lửa toàn nham

thạch nóng chảy rồi.” Tuy bọn họ mặc đồ liền thân, nhưng cũng không cảm thấy nóng bức gì,

có điều phần đầu mặt lộ ra ngoài đã đầm đìa những hạt mồ hôi to như hạt đậu.

“Đi, tôi dẫn anh đi xem thứ này.” Merkin đi trước, dẫn Trác Mộc Cường Ba vòng sang một

gian điện khác, chỉ thấy kết cấu gian đại điện này không khác gì những gian xung quanh, ở góc

cũng có một hồ nước, hai bên là tượng Phật. Chỉ khác một điều là, diện tích gian điện này lớn

hơn một chút, dài chừng hai mươi mét, rộng mười mét, đối diện với hồ nước là một hàng rào

lớn, bên trong hàng rào dường như đặt mấy bức tượng Phật.

Merkin dẫn Trác Mộc Cường Ba tới trước hàng rào, bây giờ gã mới nhận ra, thứ xếp sát

tường bên trong hàng rào kia không phải là tượng Phật, mà hình như là những bộ áo giáp, tạo

hình giống võ sĩ thời cổ đại.

Gã hỏi: “Đây là cái gì vậy? Áo Giáp à?”

Merkin đáp: “Không giống, tôi chưa từng thấy áo giáp nào như vậy. Anh nhìn kỹ chỗ tiếp

giáp ở phần đầu mà xem, bên trong không rỗng đâu. Tôi thấy chúng không giống áo giáp, mà

giống những cỗ máy hơn. Còn cả hàng rào này nữa, cái lỗ dưới đất này chắc là do vật nặng rơi

xuống khoét ra, tôi có cảm giác hàng rào này có thể nâng lên được, chỉ là chúng ta không đủ

sức nâng nó lên mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh: “Có lẽ cơ quan ở ngay gian đại

điện này đấy.”

Merkin lắc đầu nói: “Tôi đã thử tìm rồi, không phát hiện gì cả.”

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tìm lại lần nữa, chúng ta cùng tìm xem.”

Tìm kiếm thêm một lượt khắp đại điện, không thấy có cơ quan nào, nhưng Trác Mộc

Cường Ba và Merkin lại phát hiện một số dấu vết khác, có người đã đi qua nơi này! Đám

người ấy không chỉ đã tới đây, mà còn xóa sạch mọi dấu vết. Có điều, chắc do người đông quá,

chúng vẫn để sót lại một số đầu mối mờ nhạt.

Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm khẳng định: “Cơ quan chắc chắn là ở đây, chỉ là

đã bị che dấu đi thôi. Bọn chúng không muốn chúng ta phát hiện ra cơ quan, ừm …” Nghĩ tới

đây, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến những món vũ khí từng bị người khác dịch chuyển ở

Địa ngục nước và lửa trong Địa cung Ahezt. Gã lập tức nói: “Cơ quan ở trên tượng Phật kia.”

Hai người liền leo lên các tượng Phật, kiểm tra những thứ trên tay, đeo ở lưng các bức

tượng, quả nhiên không ngoài dự đoán, họ phát hiện ra sự bất thường trên hai bức tượng gần hồ

nước. Hai tượng Phật này có tạo hình phẫn nộ, nhưng trên tay mỗi bức tượng đều có một vật

chứa. Một bức cầm bát nước lớn, giơ cao quá đầu, bộ dạng như đang chuẩn bị ném ra, trên bốn

cánh tay khác đều có vũ khí; bức tượng còn lại ôm một vò rượu, áp sát vào ngực, như muốn

nâng lên đổ vào miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin không tốn sức mấy đã nhẹ nhàng lấy được hai vật chứa đó

ra khỏi tượng Phật.

.

.

XUYẾT THUẬT(35), XẠ PHÚC(36), GIẢI ĐỐ

.

Trác Mộc Cường Ba phát hiện, trong bát nước có khắc một hàng chữ nhỏ: “Khi cái Một

phủ khắp cái Nhiều, cái Nhiều có thể chứa đựng cái Một; khi cái Nhiều phủ khắp cái Một, cái

Một có thể chứa đựng cái Nhiều.”(37) Trác Mộc Cường Ba không hiểu câu thiền ngữ này cho lắm, dịch thế nào cũng thấy không ổn, bật máy tính ra xem thì chỉ thấy màn hình đen kịt,

không thể khởi động được nữa. Merkin nói đùa: “Máy tính hoạt động quá độ, nên bãi công

phản đối rồi.”

Không có sự trợ giúp của máy tính, hai người nhất thời cũng không biết phải làm sao.

Merkin chợt phát hiện bên trong bầu rượu y đang ôm cũng có chữ, hai người liền cúi đầu vào

xem xét thật kỹ. Sau một hồi vừa dịch vừa đoán, suy đi tính lại, hai người đại khái cũng hiểu

được ý đồ của cổ nhân. Hai vật chứa này, một cái đáy nông miệng rộng, một cái cổ cao thân

hẹp, trọng lượng và dung tích cũng hoàn toàn khác nhau, nếu muốn cơ quan khởi động, thì hai

pho tượng này phải ôm vật chứa có trọng lượng bằng nhau mới được. Ngoài ra, cổ nhân còn

cung cấp một con số cụ thể, yêu cầu hai vật chứa này đều phải nặng bằng đúng chín cân.

Nhìn yêu cầu nghiêm ngặt trong vật chứa, hai người cùng nhăn mặt không biết giải quyết

thế nào. Trên tay họ lúc này không có công cụ cân đo đong đếm, vì vậy họ hoàn toàn không

biết hai vật chứa này nguyên bản nặng bao nhiêu, làm sao có thể đong ra được trọng lượng

chín cân một cách chuẩn xác chứ? Cổ nhân đã cho sẵn một loạt các con số, như đường kính

miệng và đáy vật chứa, chu vi vòng lớn nhất, độ cong mặt gấp… hiển nhiên là yêu cầu họ phải

tính toán một hồi. Khốn nổi, kiến thức toán học của cả hai đều có hạn, có một đống số liệu ấy

rồi mà vẫn chẳng biết làm thế nào.

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ một hồi, đột nhiên buột miệng thốt lên: “Xuyết thuật!”

“Cái gì cơ?” Merkin không hiểu.

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Tương truyền nhà toán học lớn của Trung Quốc thời cổ đại là

Tổ Xung Chi cùng với con trai ông ta đã soạn ra một bộ sách toán học, tên là Xuyết thuật,

trong sách nhắc đến các phương pháp tính toán khác nhau, tất nhiên có cả công thức tính thể

tích của những khối hình học bất quy tắc, như hình cầu, hình bán cầu… chỉ có điều, nội dung

bộ sách này quá sâu sắc, nên đến thời Tống thì đã thất truyền. Dụng ý của hai vật chứa này,

hiển nhiên là muốn chúng ta sử dụng Xuyết thuật để tính toán thể tích của chúng, sau đó mới

tính ra lượng nước cần thiết để nó đạt được trọng lượng chín cân.”

Merkin chưng hửng: “Thất truyền rồi? Vậy thì anh đừng nói còn hơn, giờ chúng ta phải

nghĩ cách để hai cái thứ này đều nặng đúng chín cân đi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta có thước đo khảng cách bằng laser, có thể đo được độ

dài chuẩn xác. Chúng ta có cọc tiêu, dây thừng, có palăng định hướng, có thể làm thành một

cái cân, nhưng vấn đề là phải có vật tham chiếu trọng lượng làm quả cân…”

“Gượm đã, anh nói vật tham chiếu trọng lượng hả?” Merkin nói, “tôi…tôi biết trọng lượng

của từng cây súng, chuẩn xác đến đơn vị gram!”

Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai Merkin nói: “Vậy là được rồi! Bắt tay làm thôi!”

Sau mấy phen thử đi thử lại, rốt cuộc họ cũng khiến hai vật chứa ấy đạt được cân bằng, sau

đó lại đổ thêm vào mỗi bên mấy giọt nước, đặt về chỗ cũ, kiên nhẫn đợi cho nước sôi sùng sục

bên trong bay hơi bớt đi.

Đầu tiên, cột nước phun ra từ ba cái đầu thú nhỏ dần, rồi biến mất. Kế đó, lại nghe một loạt

tiếng “ào ào”, nước nóng trong hồ cuồn cuộn đổ ra, phần đáy hồ không ngờ lại nghiêng đi tạo

thành một con dốc thoai thoải. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, gã bất giác

thốt lên: “Lại phải đi xuống nữa hả? Rốt cuộc là xuống đến tận đâu đây?”

Merkin nói: “Chúng ta từ lúc vào trong thần miếu này, toàn là đi xuống, e rằng đã xuống

đến tầng bình đài thứ nhất rồi cũng nên?”

“Không.” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói. Khác với bọn Merkin, nửa chừng mới nhảy dù

xuống, nhóm người của gã leo lên đây từ tầng thấp nhất, nên hiểu được rất rõ ba tầng bình đài

này rốt cuộc cao chừng nào. Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Chúng ta đang ở trong lòng

núi, áng chừng đã xuống đến độ cao ngang với tầng bình đài thứ hai rồi, tiến lên thôi!”

Hai người giữ thăng bằng, trượt xuống con dốc vẫn còn ướt nước, rơi vào gian phòng phía

dưới. “A!” Vừa chạm đất, Trác Mộc Cường Ba đã nhíu mày. Gian phòng này không có gì đặc

biệt, giống hệt như gian phòng phía trên nó, cũng có hồ nước như thế, cũng những bước tượng

như thế, chỉ là ở đầu phía bên kia không có hàng rào và những bộ áo giáp bên trong mà thôi.

Merkin nói: “Tôi nói không sai đúng không? Chúng ta vẫn đang ở trong Cửu Cung biến,

chẳng qua chỉ đổi sang một dạng thức khác thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu công nhận: “Ông nói đúng, có lẽ chúng

ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến thật. Tôi nghĩ, tôi đoán được kết cấu của Cửu Cung biến

này là như thế nào rồi.”

“Hả?” Merkin tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông xem, chúng ta rơi xuống giữa gian phòng nhỏ này, mà phía

bên trên lại là hồ nước ở sát tường. Những gian phòng này cũng quây lại thành hình chữ “hồi”,

vậy có nghĩa là, các phòng bên dưới nhỏ hơn phòng bên trên một cỡ.”

Merkin nói: “Vậy thì sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cửu Cung biến không phải một khối lập phương vuông vắn, ông

có thể nói nó như một khối rubic khổng lồ, chỉ là, khối rubic này lại cắm một góc nhọn xuống,

giống như con thoi vậy.”

Merkin hiểu được ý Trác Mộc Cường Ba, nhíu mày nói: “Ý anh là, giống như hai cái kim

tự tháp một xuôi một ngược chập vào nhau?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Merkin lại biến sắc

mặt tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, chúng ta càng đi xuống, hành lang càng nhỏ, đến gian phòng

cuối cùng, tức là đến được lối ra cuối cùng rồi.” Hai người đều không biết, không chỉ Cửu

Cung biến này, mà toàn bộ Bạc Ba La thần miếu đều có kết cấu như vậy.

Sau khi biết được phương hướng đi tiếp, tinh thần hai người đều phấn chấn hẳn lên. Họ bắt

đầu lần lượt tìm kiếm trong các gian phòng nhỏ xếp thành hình chữ “hồi” này, gian nào lớn

hơn đồng thời có hàng rào sắt, chắc chắn là có cơ quan thông xuống tầng bên dưới.

Đi được nửa vòng, hai người đã tìm thấy căn phòng lớn hơn kia. Chỉ thấy phía trước hồ

nước trong phòng có bày một bàn đá dài, nói liền hai bức tường. Mặt bàn phía bên bọn Trác

Mộc Cường Ba có sáu đường rãnh, trên mỗi đường rãnh có một khối cầu bằng đá tròn nhẵn.

Phía trước những đường rãnh này là bốn lỗ tròn, kích cỡ vừa khít với khối cầu đá. Phía bên hồ

nước lại chỉ thấy có tám lỗ nhỏ. Bất thình lình trông thấy một thứ cổ quái như vậy, Merkin

buột miệng hỏi: “Hả, đây là cái gì?”

Trác Mộc Cường Ba cẩn thận xem xét hàng chữ ở mé bên chiếc bàn đá, rồi giải thích: “Tôi

hiểu rồi, cơ quan này tương tự với trò chơi xạ phúc rất thịnh hành thời Hán Đường, cũng là một

dạng trò chơi giải đố. Quy tắc thời bấy giờ là giấu thứ gì đó dưới cái bát, đồng thời cung cấp

một số gợi ý nhất định, người chơi sẽ dựa theo những manh mối đó mà suy đoán xem thứ giấu

bên dưới cái bát là gì.”

“Vậy cái này thì sao?” Merkin hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu đá này kích cỡ giống hệt nhau, nhưng trọng lượng

thì khác, chỉ có bốn quả là phù hợp quy tắc, chúng ta có bốn lần cơ hội, mỗi lỗ chỉ có thể bỏ

một quả cầu vào, sau đó tám cái lỗ nhỏ ở phía trên kia sẽ cho chúng ta gợi ý. Trong tám lỗ ấy

sẽ xuất hiện tám cọc báo hiệu, bốn đen bốn trắng, nếu anh chọn được quả cầu có trọng lượng

phù hợp thì sẽ xuất hiện một cọc báo hiệu màu trắng. Nếu quả cầu có trọng lượng phù hợp ấy

lại được bỏ vào đúng lỗ, thì sẽ xuất hiện một cây cọc báo hiệu màu đen. Chỉ khi chọn được quả

cầu có trọng lượng phù hợp đồng thời bỏ nó vào đúng lỗ, cơ quan mới mở ra.”

Merkin nói: “Tổng cộng chỉ có sáu quả cầu đá, lấy đâu ra bốn lần cơ hội?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, dựa theo những gì khắc trên đó mà dịch ra thì là

như vậy.”

Merkin chăm chú quan sát hai bên đường rãnh, nói: “Ồ, tôi hiểu rồi, hai đầu đường rãnh

này có cửa chập, sau khi bỏ bốn quả cầu đá vào lỗ, cửa chập sẽ mở để bốn quả cầu ấy lăn ra.

Sáu quả cầu chọn bốn quả, sau đó lại phải xác định được thứ tự bốn quả cầu ấy, vậy mà chỉ có

bốn lần cơ hội, có lẽ chúng ta phải dựa vào vận may rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu chọn ra bốn quả chính xác, ít nhất cũng phải mất

hai lần, thứ tự của bốn quả cầu này, lại có hai mươi bốn loại tổ hợp…” gã gập ngón tay lại tính

toán, hai hàng lông mày bắt đầu nhíu lại.

Merkin xua tay can: “Đừng tính nữa, tính thế nào cũng không được đâu, giờ máy tính cũng

không dùng được, vậy thì cứ làm như tôi nói đi, dựa vào vận may vậy, may mắn thì bốn lần cơ

hội cũng đủ rồi, không may thì khó nói lắm.” Dứt lời, ý liền cầm một quả cầu đá lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi đã, loại cơ quan này có thể phá giải được, không cần phải

đối chiếu từng cách một. Chúng ta chia sáu quả cầu này ra làm hai nhóm, mỗi nhóm ba quả, rồi

chọn ra hai quả từ mỗi nhóm.”

Merkin và Trác Mộc Cường Ba lần lượt cầm quả cầu ở đường rãnh thứ nhất thứ hai và thứ

tư thứ năm lên, bỏ vào các lỗ từ một đến bốn. Các lỗ nhỏ phía bên kia bàn hiện lên hai cọc báo

hiệu màu đen. Hai người cả mừng, cảm thấy vận may của mình cũng không tệ lắm. Hai cọc

màu đen có nghĩa là trong bốn quả cầu họ chọn có hai quả là chính xác, vả lại cũng đã được bỏ

vào đúng lỗ của nó.

Chỉ nghe “cách” một tiếng, cửa chập bên mé phải đường rãnh mở ra, hai quả cầu còn lại

lăn vào. Tiếp đó, cửa chập bên trái cũng mở ra, lại có đủ sáu quả cầu xếp ngay ngắn. Lúc này,

Trác Mộc Cường Ba và Merkin có thể khẳng định, hai quả cầu còn lại nhất định là có trọng

lượng phù hợp, chỉ là không biết bỏ vào lỗ nào mới đúng. Tiếp sau đấy, họ chọn quả số một và

số hai trong bốn quả cầu ban đầu, vị trí cũng không thay đổi, cộng với quả số ba và số sáu. Lần

này, cọc báo hiệu hiển thị hai trắng một đen. Trác Mộc Cường Ba chau mày, cũng có nghĩa là,

trong quả số một và số hai chỉ có một quả phù hợp cả hai điều kiện, còn quả số ba và số sáu

đều sai vị trí. Lần tiếp theo, bọn họ để lại quả cầu số một, chọn quả số năm, số ba và số sáu thì

cho vào lỗ số hai và số ba.

Lần này xuất hiện hai cọc màu trắng, Merkin trầm ngâm giây lát rồi hoan hỉ nói: “Tôi biết

cách phá giải rồi.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, gã cũng đã biết. Hai người bỏ các quả cầu đá vào lỗ, cơ quan

chầm chậm mở ra, lại là một con dốc thoai thoải khác. Hai người xuống tầng dưới, cứ lặp đi

lặp lại như vậy, cuối cùng chỉ còn bốn gian phòng, xuống thêm một tầng nữa thì chỉ còn một

gian phòng duy nhất.

Diện tích căn phòng này lớn hơn gian phòng có cơ quan ở tầng trên nhiều. Trác Mộc

Cường Ba dùng mắt áng chừng, cảm giác cả bốn gian phòng ở tầng trên cộng lại cũng không

lớn hơn gian phòng này là mấy.

Trong phòng không có tượng thần Phật, cũng không có hồ nước, dưới đất chỉ có một vũng

nước đọng, nhưng vẫn còn hàng rào sắt và những bộ giáp bên trong. Bệ cơ quan được đặt ngay

chính giữa phòng, cao chừng hơn một mét, trông rất giống bục diễn giảng. Trên bệ cơ quan

khắc một câu đố logic: “Thần Hiệp Ốc Ương Cách nhìn thấy cây thần, dự kiến sau khi chiến

tranh kết thúc sẽ đến Ngạn quốc, hy vọng có thể ngăn chặn được cuộc phân tranh giữa Ngạn

quốc và Gia quốc. Ở cửa Ngạn quốc có bốn vị Đốn (một loại ma quỷ trong Bản giáo) và bốn

Quán Ba (một loại ma quỷ chuyên rải bệnh dịch trong Bản giáo), nghe Hiệp Ốc Ương Cách

trình bày ý định xong, bọn họ liền đưa ra một câu đố nhằm khảo nghiệm trí tuệ của Hiệp Ốc

Ương Cách…

Vị Đốn thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ hai nói: “Trong chúng ta có ít nhất ba kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ ba nói: “Trong chúng ta có ít nhất năm kẻ nói thật.”

Vị Đốn thứ tư nói: “Trong chúng ta có ít nhất bảy kẻ nói thật.”

Vị Quán Ba thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ hai nói: “Trong chúng ta ít nhất có hai kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ ba nói: “Trong chúng ta ít nhất có bốn kẻ nói dối.”

Vị Quán Ba thứ tư nói: “Trong chúng ta ít nhất có sáu kẻ nói dối.”

Hỏi: “Có mấy kẻ nói dối.”

Bên dưới đề mục là một hàng nút bấm hình dạng giống như chiếc lược nhỏ, hiển nhiên là

yêu cầu phải chọn con số đúng. Các con số trong đề mục cũng là nút bấm, có thể biến động.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin nghĩ ngợi một lúc lâu, càng nghĩ lại càng thấy hồ đồ.

Merkin thậm chí còn chất vấn Trác Mộc Cường Ba xem gã dịch có chuẩn xác không, Trác Mộc

Cường Ba khẳng định như đinh đóng cột: “Chữ này nghĩa là ‘ít nhất’ thì đúng rồi, không thể

sai được, còn lại toàn là số và những chữ đơn giản, không thể nhầm được.”

Merkin lẩm bẩm nói: “Thêm một chữ ‘ít nhất’ là cả đề mục hoàn toàn thay đổi đấy, một

người nói thật và ít nhất một người nói thật, là hai ý nghĩa khác hẳn nhau.”

Đối với các câu đố mang tính logic kiểu này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin trước giờ đều

dựa vào máy tính giúp sức, giờ máy tính đã hỏng, hai người nhất thời cũng chỉ biết gãi đầu gãi

tai. Thêm vào đó, Merkin lấy làm đau đầu với thứ tiếng Trung mà Trác Mộc Cường Ba dịch ra,

y bèn dứt khoát không nghĩ nữa, để một mình gã tự tính toán. Trác Mộc Cường Ba phân tích đi

phân tích lại một hồi lâu, cuối cùng khẳng định, chắn chắn có bốn người nói dối.

Bốn nút gồ lên được nhấn xuống, một thoáng sau không thấy động tĩnh gì, không có cánh

cửa nào mở ra, cũng không rung chuyển gì, Merkin bắt đầu có một dự cảm chẳng lành, y căng

thẳng nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Này…”

“Cạch cạch…” Sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cơ quan chuyển động, hai người ngoảnh

đầu lại nhìn, chỉ thấy hàng rào sắt kia đang từ từ dâng lên, đồng thời mấy “cỗ áo giáp” bên

trong dường như cũng bắt đầu động đậy. Đúng lúc hai người quay đi đó, bệ cơ quan trước mặt

bất thình lình “bùng” một tiếng, phun khói mù mịt. Hai người vội dùng một tay che kín mũi

miệng, tay kia khua loạn xạ.

Khói mù tan đi, Merkin đẩy mạnh Trác Mộc Cường Ba một cái: “Anh ấn sai rồi! Trời ạ!

Đã đến gian phòng cuối cùng rồi, mà anh lại ấn sai! Ở đây chúng ta biết chạy đi đâu bây giờ!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ không phải là lúc oán trách, tôi không hiểu, những bộ giáp

kia sao lại chuyển động được, nhân lúc bọn chúng còn chưa ra, mau nghĩ cách khác đi.”

Merkin xòe hai bàn tay ra nói: “Tôi còn cách gì nữa đây? Phải xem thứ kia là gì rồi tính

tiếp!” Cả căn phòng rung lên một chập, cảm giác như chiếc thang máy bị kẹt giữa lưng chừng,

đang rơi xuống từng chút từng chút một, tốc độ không nhanh lắm, cứ thụt một cái rồi lại dừng.

Mấy bộ áo giáp kia giống như những người máy đã được bật công tắc khởi động, đứng

thẳng dậy. Thoạt nhìn gai góc gồ lên lởm chởm, những mảnh giáp sáng lấp lánh toát lên sát khí

ngùn ngụt là biết chúng chẳng phải thứ tử tế gì.

“Nhanh lên, nhân lúc bọn chúng còn chưa hoàn toàn khởi động!” Merkin rút súng ra, gí

họng súng vào khe hở trên hàng rào, bắn quét một loạt đạn. Chỉ nghe “tinh tinh tinh tinh…”

như thể những hạt trân châu rơi xuống khay ngọc, ánh lửa bắn tóe khắp phòng, đạn bắn vào

đều bị bật tung ra, sém chút nữa chính bản thân y cũng bị thương.

Bị hai viên đạn sượt qua mặt, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy má mình bỏng rát, gã vội kêu

lên: “Giáp dày quá, không thủng đâu, đừng phí đạn nữa.” Dứt lời, gã rút hai quả lừu đạn cuối

cùng, ném vào trong hàng rào.

Sau tiếng nổ, chỉ thấy ba bộ áo giáp ở mé bên phải đã bị hất ngã ngửa, bụi đất mù mịt,

nhưng tay chân vẫn không ngừng chuyển động, hiển nhiên không bị tổn thương gì lớn lắm.

Trác Mộc Cường Ba hất tay xua bụi xung quanh mình, vừa ho sặc sụa vừa nói: “Đây là cái thứ

gì vậy chứ, khục khục …”

Lúc này, hàng rào sắt cũng hoàn toàn mở ra, ba bộ áo giáp bên trái đã đứng thẳng lên bước

tới. Chúng dường như cảm ứng được sự có mặt của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chầm

chậm ngoảnh đầu lại phía hai người, phỏng chừng phần đầu bộ áo giáp là một khối đặc ruột,

không có khe hở nào, cũng không có lỗ mở cho mắt mũi tai miệng. Sau khi hướng mặt về phía

Trác Mộc Cường Ba và Merkin, ở bên dưới vị trí vốn là cái miệng đột nhiên bắn ra mấy cây

đinh dài, nhằm thẳng vào chỗ hai người. Lúc này, Merkin không hiểu đã phát hiện ra điều gì,

vẫn đứng bần thần ra đó.

“Tránh ra!” Trác Mộc Cường Ba bổ tới, đè Merkin ngã lăn ra đất.

Mấy cái đinh bắn xuống sàn, hoa lửa bắn tóe. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đần thối mặt

ra đó nghĩ cái gì vậy?”

Merkin chỉ tay vào chỗ gã vừa ném lựu đạn nói: “Hình như có đường ra!”

Trác Mộc Cường Ba vội nhìn theo hướng ấy, bức tường sau lưng mấy bộ áo giáp bị hất ngã

ngửa ấy đã lung lay, trong các kẽ hở dường như có ánh sáng chiếu vào. Trác Mộc Cường ba

ngạc nhiên thốt lên: “Bức tường này chỉ có một lớp mỏng thôi à!”

Hai người nhanh chóng tính toán, nếu ném một quả lựu đạn đã trông thấy ánh sáng chiếu

vào, vậy chỉ cần ném thêm một hai quả nữa, nói không chừng có thể nổ ra một lối thoát. Trác

Mộc Cường Ba vội nói: “Nhanh lên!”

Merkin lấy lựu đạn ra, ngần ngừ nói: “Chỉ còn lại một quả cuối cùng thôi.” Lúc này mấy bộ

áo giáp bên trái dường như đã khóa chặt vị trí của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đang sải

chân đi thẳng tới, đồng thời, mấy bộ bị ngã ngửa ra dưới đất cũng đã ngồi dậy được.

Merkin nhắm vách tường có ánh sáng hắt ra, ném quả lựu đạn vào đó, lại một tiếng nổ nữa,

bức tường đã bị phá ra một lỗ thủng đường kính chừng một mét. Ánh lửa đỏ rực từ bên ngoài

chiếu vào gian phòng, mấy bộ áo giáp đã ngồi dậy được kia lại bị vụ nổ làm cho ngã lăn ra đất

lần nữa.

“Nhanh lên!” Merkin xông thẳng lên, nhân lúc thân thể nặng nề của bộ giáp còn chưa kịp

phản ứng, nhẹ nhàng lướt qua bên cạnh mấy bộ giáp ở mé trái, rồi lại nhảy luôn qua bộ giáp

nằm ngang dưới đất, lao thẳng ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba theo sát sau lưng y.

Vừa đến mép lỗ, Merkin chợt hét lên: “A!” Y không kịp dừng lại, vội quay người tóm lấy

Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chạy phía sau, tốc độ hơi chậm, vừa nghe Merkin

kêu lên cũng vội vàng phanh két lại. Liền ngay sau đó, chỉ thấy chỗ áo trước ngực bị thắt lại,

thì ra đã bị Merkin tóm vào rồi.

.

.

CON RỐI THÚ

.

Hai cánh tay Trác Mộc Cường Ba dang rộng, bàn tay vặn ngược bám vào mép lỗ hổng trên

tường, Merkin bám vào vạt áo Trác Mộc Cường Ba, cả người lơ lửng giữa không trung. Bên

ngoài lỗ hổng do lựu đạn phá ấy không phải là đất bằng, mà là vách núi cheo leo, chẳng những

vậy… bên dưới vách núi đó còn là dung nham đang sôi sùng sục!

Nham thạch nóng trông như chất keo chảy chầm chậm, ánh lửa đỏ rực cả không gian xung

quanh, những tiếng “ùng ục ùng ục” vang lên liên hồi kỳ trận, thoạt nhìn như thể chỉ cách trong

gang tấc, cũng không biết khoảng cách thực sự giữa hố lửa và chỗ bọn họ là bao nhiêu nữa,

Merkin có cảm giác như mình bị ném vào một lò lửa rực cháy.

Trác Mộc Cường Ba vừa trụ vững được thân hình, còn chưa kịp kéo Merkin lên, thì bộ giáp

phía sau gã dường như đã lấy được đà, hùng hục lao thẳng tới. Trác Mộc Cường Ba đang

chuẩn bị dồn sức ngả về phía sau, chợt liếc thấy bộ áo giáp đó, gã liền vội vàng buông một tay

ra, lách người né tránh.

Bộ giáp đó không hãm được đà lao, cứ thế húc thẳng vào tường, làm sụt ra một mảng lớn

nữa rồi rơi thẳng xuống dưới, một lúc lâu sau mới hóa thành một chấm nhỏ, chìm trong dòng

dung nham nóng bỏng, không còn tăm tích. Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhận ra, hố dung

nham bên dưới kỳ thực còn cách họ rất xa, chỉ là nhiệt độ ở trên này thôi cũng đã vượt quá sức

chịu đựng của da người rồi.

Không để Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều thời gian để suy tính ba bộ giáp ở mé bên trái

đều lần lượt chạy tới. Gã đã buông một tay ra, mà bờ tường chỗ tay còn lại đang bám vào cũng

bắt đầu lung lay, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trước ngực lại đeo thêm Merkin, khiến gã

phải hơi khom người ra phía trước. Gã có thể tránh được bộ giáp thứ nhất, nhưng hai bộ phía

sau e rằng khó lòng thoát nổi.

Cũng may, đúng lúc này Merkin chợt buông tay thả mình rơi xuống, kế đó bám chặt vào

mép vách đá cheo leo. Y đeo mình phía ngoài, nhìn rõ được tình huống xung quanh hơn Trác

Mộc Cường Ba. Vách đá này hình dạng như cái lưỡi, đỉnh vòm phía trên cách bọn họ chừng

bốn năm mét, cao bằng gian phòng kia. Vách núi đen đúa lơ lửng phía trên đỉnh đầu như thể

Thái Sơn áp đỉnh, khiến người ta có cảm giác nặng nề khó tả. Ở vị trí này, Merkin có thể nhìn

rõ bốn mặt của gian phòng kia kỳ thực đều chỉ có một lớp tường mỏng. Cả gian phòng này

giống như được đẽo từ khối đá buông phía trên xuống, vừa khéo nằm ngay mép bình đài hình

dạng như cái lưỡi thè ra này. Bọn họ đã nổ nhầm bức tường, nếu cho nổ bức tường phía sau,

hai người có thể trực tiếp ra ngoài bề mặt bình đài rồi. Lúc này, họ chỉ có thể bám vào mép

bình đài, vòng qua vị trí của gian phòng đá.

Bên trong gian phòng, Trác Mộc Cường Ba thấy trước ngực nhẹ bẫng, áp lực giảm đi đáng

kể, lập tức lộn người sang một bên, tránh được bộ giáp nặng nề ục ịch. Bộ giáp kia chừng như

cũng muốn giành lại, nhưng cơ hồ không thể vặn người, đành cứ thế bật người lên đè vào Trác

Mộc Cường Ba dưới đất. Đã thấy bộ giáp đầu tiên tông đổ tường lao ra vách đá bên ngoài,

Trác Mộc Cường Ba cũng biết thứ này cực kỳ nặng nề, liền lăn một vòng dưới đất tránh né, bộ

giáp đập thẳng xuống, mặt đất rung lên bần bật.

Merkin ở bên ngoài hét lên: “Nhanh lên, xuống đây, vòng qua chỗ này là có thể leo lên

được!”

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang đối mặt với bộ giáp thứ ba. Gã cũng là kẻ tài cao gan

lớn, bật người lên theo thế “Lý Ngư đả đỉnh”, kế đó chống tay lấy đà nhảy qua đầu bộ giáp thứ

ba, lúc ở trên không lại xoay người mượn lực, đạp một cái lên vai bộ giáp, rồi thả người trầm

xuống, bám vào mép bình đài.

Những bộ giáp kia hình như rất sợ ánh lửa, không dám đến gần miệng lỗ, cứ chạy vòng

vòng lung tung trong gian phòng như lũ nhặng cụt đầu. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn

thận treo mình bên ngoài vách đá, từ từ dịch chuyển vào mé bên trong của bình đài hình cái

lưỡi.

Bên dưới chính là hố dung nham nóng chảy hai người không dám lơ là.

Nhìn từ dưới lên, Trác Mộc Cường Ba phát hiện, ở mé bên ngoài bức tường có mấy lỗ hình

vuông nhỏ, mỗi bề chừng mười xăng ti mét. Vị trí của mấy lỗ vuông này hình như chính là chỗ

các bộ giáp ngồi lúc đầu. Chẳng lẽ những lỗ hình vuông này và mấy bộ giáp trên kia có mối

liên hệ gì đó?

Gã cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, hai người vòng qua gian phòng đá, leo lên bề

mặt bình đài. Merkin chỉ vào bức tường trước mặt, nói: “Nếu chúng ta cho nổ bức tường này

thì có thể thoát ra luôn rồi. Nếu anh không đoán sai số, bức tường này chắc cũng đã mở ra rồi.”

Y ngẩng ngẩng đầu lên nhìn khe hở giữa bức tường và tầng nham thạch phía trên, hiển nhiên,

bức tường này cũng giống như hàng rào sắt kia, có thể nâng lên trên.

Trác Mộc Cường Ba lại ngoảnh đầu nhìn ra sau lưng, rốt cuộc bọn họ cũng thoát khỏi Cửu

Cung biến, ở đầu kia của bình đài hình chiếc lưỡi này là một hang động, dưới ánh lửa hắt lên,

chỉ thấy hai bên đều có một bức tượng, trông cổ phác mà trang nghiêm. Trác Mộc Cường Ba

thoạt nhìn đã nhận ra, hai bức tượng này chính là Diệu thần giám thị công đức và tội ác trên thế

gian, cùng với Trát Lạp, Thần bảo vệ của các chiến sĩ. Sâu bên trong hang động, thấp thoáng

ánh lên những tia sáng màu vàng kim.

Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nhìn lướt qua, Merkin đã ở đằng sau huých nhẹ vào cánh tay

gã. Gã ngoảnh đầu lại, chỉ thấy y nói nhanh: “Này, không ổn lắm, đi thôi.”

“Ầm!” một tiếng, bức tường sau lưng hai người rung lên, bột phấn rơi lả tả, hiển nhiên là

năm bộ giáp bên trong đang húc vào. Gã và Merkin đều cho rằng những bộ giáp ấy chỉ là cỗ

máy vô tri, chẳng ngờ bọn chúng lại có thể khóa được vị trí của hai người ở cách một bức

tường, còn biết phá tường xông ra. Cả hai tròn mắt ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng

quay người, chạy về phía hang động ở đầu bên kia bình đài hình cái lưỡi.

Vừa vào trong hang, hai người cùng lúc hít sâu một hơi, bầu không khí bên ngoài kia nóng

bỏng mà vào đến trong này thì lạnh toát. Chỉ thấy đại điện điển nhã không màu mè này trông

giống như La Hán đường ở những ngôi chùa bình thường vậy, trên bệ đá dài cao chừng một

mét có vô số tượng kim thân La Hán ngồi dựa lưng vào nhau. Những vị La Hán này lớn hơn

người thường một chút, dáng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, dung mạo hoàn toàn không

khác gì người thật, đồng thời tướng mạo mỗi bức mỗi khác nhau.

Cổ nhân đã dùng cách tương tự trên hành lang có các cột sáng ở tầng trên cùng để lấy ánh

sáng. Họ dựng vô số tấm gương đồng trong đại điện, ánh sáng đỏ rực của nham thạch nóng

chảy được gương đồng phản xạ, biến thành những tia sáng vàng kim chói lọi. Những cột sáng

đan nhau tạo thành một tấm lưới, bao phủ lên vô số tượng Phật tựa như một chiếc lồng chụp

khổng lồ. Những bức tượng kia vốn đã dát vàng dát bạc, được ánh sáng chiếu vào lại càng toát

lên thần thái trang nghiêm, sống động như thật, tựa hồ như La Hán hạ phàm, Tôn Giả giáng

thế.

Merkin ngước mắt quan sát, thấy những bệ đá dài ấy nối tiếp nhau san sát, bên trên toàn là

tượng kim thân La Hán, số lượng phải lên đến hàng vạn, không khỏi tắc lưỡi nói: “Đây toàn là

vàng ròng sao? Nhiều như vậy! Haha… chúng ta tìm được rồi! Chúng ta đến trước! Chúng ta

đến trước rồi!”

Trước khi Merkin kịp hưng phấn đến nỗi ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba nhảy cẫng lên,

gã đã dội cho y một chậu nước lạnh vào đầu: “Sợ là ông phải thất vọng rồi, đây không phải

tượng Phật bằng vàng ròng, mà chỉ là tượng dát vàng thôi, xem đi…” Gã chỉ mấy pho tượng

La Hán ở đằng xa, lớp vàng trên bề mặt đã bong tróc, lộ ra mầu nâu của bùn đất bên trong.

Trác Mộc Cường Ba bước lại gần, trên bức tượng ấy, không ngờ lại phát hiện đồ dệt may.

Một ý nghĩ đáng kinh ngạc lóe lên trong đầu, gã vội vàng dùng ngón tay nhè nhẹ phẩy lên lướp

bùn đất, quả nhiên, bên dưới lớp vải dệt đó, là một tầng vật chất dạng sừng khô cứng. Có thể

khẳng định, đây là da người đã khô kiệt. Nhìn xa hơn một chút nữa, không sai, cả vạn pho

tượng La Hán ở đây, kích cỡ tương đương nhau, đều chỉ lớn hơn người thật một chút. Trác

Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng khẳng định lại ý nghĩ trong đầu mình, gã kính cẩn đứng lên, nói

với Merkin: “Tuy không phải tượng Phật bằng vàng ròng, nhưng còn quý giá gấp bội phần,

những La Hán này, toàn bộ đều là nhục thân kim tượng đó!”

“Nhục thân kim tượng?” Merkin cũng chạy tới.

“Đúng thế,” Trác Mộc Cường Ba nhìn những bức tượng dát vàng đang ngồi xếp bằng trên

bệ đá, thần thái nghiêm trang kính cẩn, chậm rãi tiếp lời, “không chỉ trong Mật giáo có ghi

chép lại, mà cả Đại Thừa Hiển giáo cũng có cách làm tương tự. Một số vị cao tăng đại đức có

tu vị Phật học đạt đến cảnh giới Đại Trí Tuệ, sau khi tọa hóa, nhục thân không bị thối rữa.

Người đời sau kính ngưỡng, liền mang thân thể không thối rữa ấy làm phôi, bên ngoài trét

thêm bùn đất, rồi sơn son thếp vàng để cúng tế.”

Merkin biến sắc thốt lên: “Ý anh là, mỗi bức tượng ở đây …”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng, mỗi bức tượng La Hán kim thân ở đây, đều là nhục thân

của một vị tiền bối đại sư sau khi tọa hóa.” Gã chợt nhớ lại những tượng nhục thân trong tư thế

đứng ở Đảo Huyền Không tự, hiển nhiên, đây là mật pháp truyền thừa của các Mật tu giả.

Hai người xuyên qua đại điện xếp đầy kim thân La Hán, đi thẳng về phía trước, thấy một

cánh cửa đá chặn ngang đường. Trên cửa có vẽ một con rắn được trừu tượng hóa, Merkin bảo

nó giống rồng, còn Trác Mộc Cường Ba lại cho rằng đây là Na Tháp, con rắn vô biên, Đa Cát ở

thôn Công Bố cũng từng nhắc đến một truyền thuyết tương tự. Merkin lại bảo chưa chắc, đây

đã là con rắn vô biên gì đó, cũng có thể là rắn thần trong tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba. Gần

như trong tất cả mọi tôn giáo, hình tượng rắn đều có địa vị rất quan trọng. Trong tín ngưỡng

cổ, rắn tượng trưng cho tính dục, vương quyền, trường sinh và những mối nguy không thể dự

báo.

Cho dù thế nào, khi đối diện với cánh cửa đá cong tựa như màn hình chiếu phim cỡ lớn

này, hai người cũng hiểu rõ, chỉ dựa vào sức trâu hoặc chất nổ thì không thể nào mở nó ra

được, cần phải xem cơ quan chốt lẫy ở đâu.

“Này, Cường Ba, lại đây mà xem!” Merkin chỉ vào miệng rắn đang ngoác rộng, ở chỗ

chiếc răng sắc nhọn có một vết máu lờ mờ, lan dần lên phía trên rồi biến mất. Ở chỗ mắt rắn,

những sợi tơ máu mờ mờ lại tản ra theo hình mắt lưới, khiến con mắt tròn ấy trở nên hung hăn

dữ tợn lạ thường.

Trác Mộc Cường Ba đưa tay sờ vào mắt rắn, ở trung tâm nhãn cầu, một hình thoi dài hẹp

có khe hở rất nhỏ với những bộ phận xung quanh. Những khe hở này khớp với đường nét trên

bức phù điêu, không rờ tay vào thì khó lòng nhận ra được.

Merkin dùng ngón tay phác một nét trên vị trí của mắt rắn, đoạn nói: “Anh xem, cấu tạo

này có giống một cái huyết trì cỡ nhỏ không?”

Nét mặt Trác Mộc Cường Ba đổi sắc, gã khe khẽ gật đầu. Merkin nói đúng, hút máu ở chỗ

răng rắn, lan dần đến mắt rắn, đích thực rất giống một huyết trì. Bên này, Merkin bắt đầu hành

động, ý rút dao ra, nhấn đầu mũi dao lên ngón tay mình, lẩm bẩm nói: “Có khi máu của tôi lại

dùng được.”

Mũi dao đâm nhẹ vào, một giọt máu nhểu ra, Merkin đặt ngón tay vào chỗ răng rắn. Giọt

máu chảy ra khỏi đầu ngón tay liền bị ống hút bên trong răn rắn chầm chậm hút vào. Huyết trì

cỡ nhỏ này không cần nhiều máu lắm, Merkin chỉ khẽ nhấn ngón tay một cái, răn rắn đã không

hút thêm máu nữa. Không lâu sau, từng sợi từng sợi tơ máu bắt đầu lan đến gần mắt rắn, rồi

men theo vòng ngoài vươn dần vào bên trong, khi những sợi tơ máu rẽ nhánh chạm vào con

ngươi hình thoi bên trong nhãn cầu, chỉ nghe “tách” một tiếng rất nhẹ, con ngươi ấy liền thụt

vào bên trong. Đồng thời, dường như một lớp màng được mở ra, chính giữa con mắt lộ ra một

cái lỗ nhỏ hình thoi màu đen, chỉ lớn hơn đầu ngón tay một chút, ngoài ra, toàn bộ đại điện đều

không có gì thay đổi.

“Đây là cái gì vậy?” Nhìn cái lỗ nhỏ hình thoi ấy, hai chân mày Trác Mộc Cường Ba nhíu

lại, hiển nhiên tác dụng của huyết trì này chỉ là mở ra một cái lỗ nhỏ. Từ độ sâu của cái lỗ nhỏ

này, có thể thấy cần phải cắm thứ gì đó vào, họa may mới khởi động được cơ quan.

Merkin thấy cái lỗ nhỏ hình thoi ấy thì mừng ra mặt, cười cười nói: “Đây là lỗ khóa, cần có

khìa khóa mới mở được, chúng ta có chìa khóa!” Y thấy Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra,

hoang mang không hiểu gì, liền lặp lại lần nữa: “Chỉ chúng ta mới có chìa khóa.”

“Chìa khóa?” Trác Mộc Cường Ba càng thêm ngờ vực, gã chưa bao giờ nhớ là mình có

chìa khóa gì, rốt cuộc Merkin đang nói đến thứ gì vậy?

Ngay sau đó, Merkin liền giải đáp mối nghi hoặc của gã. Y thò tay vào sâu trong áo, lấy ra

một thanh kiếm đồng nhỏ, gần như giống hệt với thanh kiếm gia truyền của Trác Mộc Cường

Ba.

Vừa nhìn thấy kiểu dáng và hoa văn khắc trên thanh kiếm, Trác Mộc Cường Ba cả kinh

thốt lên: “Đây là…” Đồng thời, phản ứng đầu tiên của gã cũng chính là lần tìm thanh kiếm

đồng trên người mình.

.

BÍ MẬT CỦA CHÌA KHÒA

.

Merkin cầm thanh kiếm đồng nhỏ trông như chiếc thập tự giá sáng lấp loáng, nhìn thẳng

vào mắt Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây chính là chìa khóa! Đây là thứ gia tộc nhà anh truyền

qua không biết bao nhiêu đời, thứ mà dù trong trường hợp nguy hiểm nhất cũng tuyệt đối

không thể đánh rơi, vậy mà anh lại không biết nó dùng để làm gì ư?”

Trác Mộc Cường Ba cũng lấy ra thanh kiếm đồng nhỏ giấu ở túi áo trong của gã ra. Hai

thanh kiếm gần như giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ, chuôi kiếm của Trác Mộc Cường Ba là

con Tỳ hưu ba sừng, bên dưới là bốn con thú sư tử, rồng, hổ, đại bàng, còn chuôi kiếm của

Merkin lại khắc thành hình Kỳ lân, bên dưới là bốn con quỷ Si, Mị, Võng, Lượng.

Hai thanh kiếm đồng đặt cạnh nhau, kích cỡ giống hệt, chất liệu giống hệt, công nghệ giống

hệt, chỉ cần nhìn lướt qua, bất cứ ai cũng có thể khẳng định hai thanh kiếm đồng này được làm

ra ở cùng một nơi, cùng một thời điểm, thậm chí là bởi cùng một người thợ. Trác Mộc Cường

Ba nhìn chằm chằm vào chúng, cơ hồ vẫn không dám tin vào mắt mình: “Đây là chìa khóa ư?

Ông lấy ở đâu ra vậy?”

Merkin nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Giống anh thôi, đều là các tiền bối trong

gia tộc truyền thừa xuống, chẳng lẽ anh thật sự không biết? Mặc dù anh không nói gì với

những người trong nhóm của mình, nhưng tôi thấy anh coi trọng nó như vậy, cứ tưởng anh đã

biết thanh kiếm đồng này là gì rồi chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi coi trọng nó, chỉ vì nó là vật truyền thừa của gia tộc thôi.

Trước nay tôi vẫn luôn nghĩ rằng, nó chỉ là một vật có ý nghĩa lịch sử đối với gia tộc mình.”

Merkin nghiêm nét mặt lại nói: “Đã vậy thì để tôi nói cho anh biết, chiếc chìa khóa này

không chỉ là tượng trưng cho truyền thừa lịch sử, quan trọng hơn, nó là một sự chứng nhận đối

với huyết thống và thân phận, mà quan trọng nhất, nó là một chiếc chìa khóa! Bao đời nay, gia

tộc chúng tôi vẫn truyền lại cho đời sau rằng, không có chìa khóa này, cho dù có tìm được thần

miếu cũng không thể mở được kho báu cuối cùng. Có điều, theo như truyền thừa của gia tộc

chúng tôi, lẽ ra chỉ có một chiếc chìa khóa mới đúng. Tôi cũng lấy làm lạ, không hiểu tại sao

anh cũng có một chiếc? Vả lại, hai chiếc chìa khóa này tuy rằng hình dạng tương tự, kỹ thuật

chế tác cũng giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt.”

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba lúc này đang cuộn lên những đợt sóng lớn, vô số ý nghĩ cũng

dâng trào lên trong óc gã. Trong gia tộc không hề lưu lại bất cứ ghi chép nào liên quan đến

chiếc chìa khóa này, cha gã cũng không nhắc nhở gì đặc biệt, nhưng các trưởng lão thôn Công

Bố lại nhận định gã là Thánh Sứ… Merkin là hậu nhân của Tây Thánh Sứ, vậy còn bản thân

gã…? Rốt cuộc chuyện này ẩn chứa bí mật gì? Truyền thừa nghìn năm, rốt cuộc bị đứt đoạn từ

khi nào? Đoạn lịch sử thất lạc ấy sao lại bị vùi chôn trong dòng chảy hỗn loạn của thời không?

Thân phận của gã rốt cuộc là gì? Gia tộc của gã khởi nguồn từ đâu? Gã và Bạc Ba La thần

miếu này có quan hệ như thế nào? Các trưởng lão thôn Công Bố nói gã sẽ thức tỉnh? Gã vốn

chỉ muốn tìm Tử Kỳ Lân thôi mà, sau lại biến thành như vậy?

Merkin không phát hiện ra tâm trí Trác Mộc Cường Ba lúc này đang rối tơ vò, chỉ thấy ánh

mắt gã hơi đờ đẫn, liền khẳng định: “Nếu vậy, chắc chắn anh cũng không biết phải mở cái chìa

khóa này ra như thế nào rồi, đúng không?” Dứt lời, y liền ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba,

cầm chuôi thanh kiếm đồng ấy vặn vẹo mấy cái, cũng không biết là ấn vào những chỗ nào,

thoắt cái chuôi kiếm đã mở ra. Bên trong chuôi kiếm là một ống kim loại, miệng ống xòe rộng

ra như cái bát. Chỗ miệng bát tuy đã được chà xát cho sạch, nhưng vẫn còn vương lại vết máu,

một hai vệt đã chuyển thành màu xanh lục, không biết đã có từ mấy trăm năm trước. Nhìn

chuôi kiếm đã mở hẳn ra, Merkin mới nói: “Tôi có thể khẳng định với anh, đây là một chiếc

chìa khóa không thể phục chế, anh nhìn những ký hiệu totem chạm trổ trên thân kiếm đi, chúng

không chỉ là những biểu tượng, mà thực ra là lò xo có thể co duỗi được. Bên trong chiếc chìa

khóa này, cũng là một huyết trì cỡ nhỏ, chỉ cần một giọt máu… một giọt thuần huyết!”

Trước cặp mắt chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, Merkin bóp nhẹ vết thương vẫn chưa

khép miệng trên đầu ngón tay, lại một giọt máu nữa nhỏ vào cái lỗ nhỏ hình miệng bát. Một

loạt tiếng “tách tách tách” rất nhẹ như sâu phá kén vang lên. Cùng với những âm thanh ấy,

những hình chạm nổi trên thân kiếm lại bật ra những hình trụ tròn, to thì bằng đầu đũa, nhỏ thì

như tăm xỉa răng. Không chỉ thế, xung quanh những hình trụ tròn ấy, lại bật ra những mũi gai

nhọn li ti, trên thân mũi gai lại bật ra tiếp rất nhiều những răng nhọn nhỏ như sợi lông, hai bên

răng nhọn ấy dường như cũng bật ra những sợi nhỏ hơn nữa, mắt thường không thể nào phân

biệt nổi, đại khái chỉ có thể trông thấy trên bề mặt răng nhọn phủ một lớp màng như tơ nấm

mốc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh ngạc thốt lên: “Đây là…?”

Merkin nói: “Không cần nhìn kỹ thế đâu, chỗ nhỏ nhất phải dùng đến kính hiển vi phóng

đại một trăm lần mới phân biệt được cơ. Chúng tôi có lý do để tin rằng, những sợi lông nhỏ li ti

này đều là răng cưa của chìa khóa, nó là chìa khóa duy nhất ứng với những lỗ nhỏ ở vách bên

trong cái lỗ hình thoi này.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, đoạn nói: “Cho dù là vậy, với công nghệ ngày

nay, muốn phục chế một chiếc chìa khóa như vậy chắc cũng không phải quá khó chứ?”

Merkin cười khẩy, nói: “Anh nghĩ đơn giản quá rồi, đầu tiên phải dồn nén vô số răng chìa

khóa thành một vật thể hình thoi, đồng thời lợi dụng một lực nào đó để khiến những răng chìa

khóa này hoàn toàn bật ra. Chẳng những vậy, còn giữ được cả nghìn năm không hề hư hao tổn

hại chút nào. Theo tôi được biết, trình độ khoa học công nghệ hiện nay vẫn chưa làm được điều

đó đâu. Gia tộc chúng tôi đã làm thống kê, phần bật ra này chiếm một nửa thể tích chiếc chìa

khóa, nhưng diện tích bề mặt lại bằng một trăm ba mươi lần diện tích bề mặt chiếc chìa khóa

ban đầu.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Bọn họ làm cách nào vậy?”

Merkin đáp: “Sinh vật, giống như huyết trì vậy. Chúng ta có thể nói thế này, toàn bộ chiếc

chìa khóa giống như một thể sống có vỏ ngoài bằng kim loại. Bên trong chìa khóa này có dấu

vết của sự sống, tổ tiên của tôi đoán đó là một loại khuẩn niêm hợp hoặc chân khuẩn gì đó,

phạm vi sinh tồn của chúng giới hạn ở bên trong chiếc chìa khóa này. Quan hệ của chúng và

chìa khóa, cũng giống như san hô với rặng đá san hô vậy. Đồng thời, khi được máu tươi kích

hoạt, chúng sẽ sinh ra lực hướng ngoại rất mạnh, làm các răng chìa khóa bật ra ngoài.”

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Trác Mộc Cường Ba, Merkin lại mỉm cười nói tiếp: “Không

chỉ có vậy, loại sinh vật này kén chọn máu nữa, cũng giống như bộ phận kết hợp của thụ thể (38)

trong hệ thống miễn dịch ở cơ thể người vậy. Tôi đoán, có lẽ đã đi sâu vào phạm trù gene rồi.”

Trác Mộc Cường Ba không hiểu đống thuật ngữ chuyên ngành Merkin vừa xổ ra, lại thắc

mắc: “Thế nghĩa là sao?”

Merkin giải thích: “Tức là, ngoại trừ tôi và những người mang huyết thống trực hệ trong

gia tộc, máu của người khác hoàn toàn không có tác dụng gì với nó.”

Thấy hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại trợn tròn lên, Merkin nghiêm túc nói: “Chúng tôi đã

thực nghiệm rất nhiều lần, sự thực chứng minh, ngoài máu của những thành viên nam còn sống

trong gia tộc, máu hay chất lỏng nào khác trên cơ thể của bất cứ ai cũng hoàn toàn không có

chút hiệu quả nào.” Y thoáng ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục giải thích: “Sở dĩ tôi nói đã liên

quan đến phạm trù gene, là vì cho dù thành viên nam giới trực hệ trong gia tộc chúng tôi,

không phải người nào cũng có thể làm chiếc chìa khóa này bật ra được. Cha tôi là một ví dụ,

ông ấy không thể làm chìa khóa bật ra, đến đời tôi, máu của tôi lại làm được, vì vậy…”

“Di truyền cách đời!” Trác Mộc Cường Ba lại biến sắc mặt.

“Đúng vậy,” Merkin gật đầu nói: “Chúng tôi cũng nghĩ thế, thông qua việc kết hợp với cá

thể khác giới, một số gene di truyền có thể lặn hoặc trội, khiến cho trong gia tộc tôi cũng có

người này người nọ, nhiều trường hợp dù là huyết thống trực hệ cũng không thể làm chìa khóa

này bật mở ra được.”

Trác Mộc Cường Ba nén cảm giác ớn lạnh trong lòng xuống, lẩm bẩm: “Di truyền, cổ độc,

Đông Tây y kết hợp…”

Merkin gật đầu lia lịa nói: “Đúng, đúng, tôi cũng cho rằng đây là một phương thức vận

dụng cổ độc của người Qua Ba. Thật khó tin là trình độ sử dụng cổ độc của họ đã đến giai đoạn

nghiên cứu lợi dụng gene di truyền rồi.” Y vừa dứt lời, chợt vang lên tiếng “xẹt xẹt xẹt xẹt”,

sau đó những răng chìa khóa bật ra lại rụt trở về, tốc độ cực nhanh, chỉ chớp mắt vài cái chìa

khóa đã trở lại hình dạng thanh kiếm đồng như lúc ban đầu.

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, đưa mắt liếc nhìn y. Merkin lại nói: “Chúng tôi cho

rằng, trong máu của những thành viên nam có gene trội trong gia tộc mình có một loại hoạt

chất đặc biệt. Đối với thứ sinh vật bên trong chìa khóa, loại hoạt chất này giống như thuốc kích

thích vậy. Hoạt chất trong máu có thể khiến sức lực của chúng tăng lên gấp bội, đủ để làm bật

ra các răng chìa khóa. Sau khi hoạt chất này tiêu hao hết, chúng sẽ tự động rút trở về.” Không

lâu sau đó, lại nghe “tách” một tiếng, lỗ nhỏ hình thoi bên trong mắt rắn lại đóng lại, con ngươi

cũng bật trở ra, mọi thứ đều khôi phục trạng thái ban đầu.

“Hả?” Merkin quay sang chỗ mắt rắn, hân hoan kêu lên: “Xem ra nguyên lý của lỗ khóa

này cũng giống như chìa khóa, lợi dụng hoạt chất trong máu của tôi làm nguồn động lực.”

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nôn nóng, gã giục giã: “Đừng nói nhiều nữa, cho chìa khóa

vào rồi thử xem sao, để xem sau cánh cửa này rốt cuộc có thứ gì?”

Máu ở đầu ngón tay Merkin đã khô, y bèn chọn một ngón khác, luôn miệng nói: “Được rồi,

được rồi.” Răng rắn hút máu, mắt rắn mở ra lỗ nhỏ hình thoi, Merkin cắm thanh kiếm đồng vào

trong. Trác Mộc Cường Ba bây giờ mới phát hiện, lỗ mở hình miệng bát ở chuôi kiếm có thể

uốn cong. Merkin hướng miệng bát lên phía trên, nhểu vào một giọt máu, sau đó chăm chú

lắng nghe động tĩnh bên trong lỗ khóa. Sau một loạt tiếng “tách tách”, y cho rằng đã được rồi,

liền bắt đầu chuyển động phần chuôi của chiếc chìa khóa hình thập tự giá.

Dần dần, sắc mặt Merkin bắt đầu biến đổi, từ hân hoan trở nên nghiêm trọng, từ nghiêm

trọng trở nên nặng nề, cuối cùng thì nhăn mặt cười khổ với Trác Mộc Cường Ba: “Không

đúng, không xoay được.”

Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Liệu có phải cắm ngược không?” Dù sao thì cả bốn mặt

của chiếc chìa khóa đều có thể hướng lên trên.

Merkin khẳng định: “Không đâu, anh xem…” Y chỉ vào thanh ngang trên chuôi kiếm, nói:

“Theo như tổ tiên tôi truyền lại, chỗ này hướng lên trên là đúng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng gật đầu, thanh ngang đúng là đã hạn chế chìa khóa chỉ có

thể cắm vào theo hướng này. Gã lại nói: “Hay là, để tôi thử xem?”

Merkin đành ủ rũ gật đầu: “Cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba cầm thanh kiếm đồng gia truyền trên tay, nghĩ mãi không hiểu nổi, tại

sao thứ này lại thành ra một chiếc chìa khóa? Gã cẩn thận quan sát vị trí Merkin vặn ra ở chuôi

kiếm, rồi lại nhìn thanh kiếm trên tay mình, chẳng thấy kẽ hở nào, căn bản không nhìn ra chỗ

nào có thể vặn mở được. Gã thử vặn qua vặn lại một hồi, song đều vô hiệu. Merkin đứng bên

cạnh thấy vậy liền lên tiếng: “Không đúng, không phải làm vậy.” Nói đoạn, y giật lấy thanh

kiếm nhỏ trên tay Trác Mộc Cường Ba, bảo gã: “Có mấy chỗ này, yêu cầu thủ pháp phải khéo

léo.” Chỉ thấy y ấn ấn, xoay xoay lên đầu, mình và chân con Tỳ hưu, không hiểu làm cách nào

mà đã mở ra được. Cũng giống như chìa khóa của Merkin, chuôi kiếm mở ra xong, bên trong

là một ống kim loại, miệng ống loe ra như miệng bát, cũng có vết máu, đã chuyển sang sắc

xanh lục.

Nhìn những vết máu ấy, ánh mắt Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba càng thêm nghi hoặc, ý

tứ rất rõ ràng, rành rành tổ tiên nhà anh cũng biết cách sử dụng chiếc chìa khóa này, tại sao đến

đời anh lại quên hoàn toàn như vậy? Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ biết lắc đầu, tỏ ý mình

chẳng biết gì cả. Merkin kéo kéo chiếc chìa khóa của y, thời gian chưa hết nên vẫn chưa rút ra

được. Y đưa con dao cho Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã thử xem máu gã có thể làm chìa khóa

bật ra hay không.

Trác Mộc Cường Ba có chút thấp thỏm bất an, lúc mũi dao rạch vào đầu ngón tay, tay gã

hơi run lên, một giọt máu nhểu xuống. Gã cơ hồ không dám tin vào mắt mình, chiếc chìa khóa

trong tay gã cũng “tách tách tách” biến đổi, thân kiếm bật ra những gai nhọn tua tủa, trên

những gai nhọn ấy lại bật ra những mũi gai nhỏ hơn, hình dạng cuối cùng trông như một cây

thông Noel.

Merkin mỉm cười quan sát quá trình biến đổi, lẩm bẩm nói: “Tôi bảo rồi mà.”

Trác Mộc Cường Ba chỉ khe khẽ lắc đầu, sao lại thế này nhỉ? Cha có biết hay không? Ông

biết nhưng không nói với mình, hay là bản thân ông cũng không biết? Không, cha cũng không

biết, từ thái độ của ông lúc giao chiếc chìa khóa này cho mình chắc chắn là cha không biết gì

cả. Gia tộc nhà mình, đã để sự việc này chìm vào quên lãng từ khi nào vậy? Hậu nhân của

Thánh sứ, không ngờ mình cũng là hậu nhận của Thánh sứ!

Một lát sau, Merkin rút chiếc chìa khóa của y ra, trong khi hai người chờ chiếc chìa khóa

của Trác Mộc Cường Ba hoàn nguyên trạng thái ban đầu, mắt rắn cũng đã đóng lại.

Cuối cùng, chìa khóa trong tay Trác Mộc Cường Ba cũng đã thu vào, gã thầm hít sâu một

hơi, dùng máu mình mở mắt rắn ra, rồi cắm chìa khóa vào, nhỏ một giọt máu, sau đó chầm

chậm xoay chuyển chuôi kiếm trong ánh mắt chăm chú và đầy kỳ vọng của Merkin. Một lần,

hai lần… ánh mắt nóng bỏng của Merkin từ từ trở nên ảm đạm, Trác Mộc Cường Ba ủ rũ

ngoảnh lại, lắc đầu, tỏ ý vẫn không xoay được. “Không thể nào!” Merkin cuống lên. “Không

thể nào! Sao cả hai chiếc chìa khóa đều không mở ra được?”

So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba còn bình tĩnh hơn, gã giải thích: “Nếu tôi không lầm,

chắc hẳn còn một chiếc chìa khóa nữa, đừng quên, bấy giờ sứ giả đã mang ra ba món tín vật,

chia ra đưa cho ba người khác nhau. Nếu tôi và ông mỗi người đều có một chiếc chìa khóa, vậy

hẳn phải còn một chiếc chìa khóa thứ ba nữa.”

Merkin thất vọng nói: “Ý anh là… chỉ có chiếc chìa khóa thứ ba kia mới mở được cánh cửa

này?”

Merkin không cam tâm chút nào, nghe thấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba thu trở về

trạng thái ban đầu, y lại nói: “Thử lại lần nữa, thử lại lần nữa xem sao!”

Đáp ứng yêu cầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba lại thử thêm lần nữa, sau đó Merkin

cũng thử lại một lần, nhưng rất rõ ràng, chìa khóa của họ đều không mở được cánh cửa đá dày

nặng này. Merkin lại rút chìa khóa ra, nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt gần như tuyệt

vọng, nói bằng giọng van lơn: “Anh thử lại lần nữa xem sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có lẽ số mệnh đã định sẵn chúng ta không thể đến được nơi sâu

nhất của Bạc Ba La thần miếu, ông hà tất phải cưỡng cầu làm gì?”

“Vậy bây giờ tính sao đây? Chúng ta bị kẹt ở đây rồi? Không thấy gì cả, không tìm được gì

cả, chỉ bị kẹt cứng ở đây chờ chết? Không! Tôi tuyệt đối không chấp nhận!” Merkin vung tay

giằng lấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba, nhét vào lỗ khóa rồi tóm ngón tay gã nặn máu ra,

hai người nhìn giọt máu từ từ biến mất trong miệng ống loe ra.

Vốn dĩ hai người cũng không ôm nhiều hy vọng lắm, nhưng đúng lần này, giọt máu vừa

nhểu xuống, sau một loạt tiếng “tách tách tách”, đột nhiên có thêm một âm thanh khác, nghe

như tiếng đàn đứt dây hay bảo kiếm rời vỏ, nhẹ mà rất rõ. Liền ngay sau đó, lại vang lên tiếng

vật nặng rơi xuống đất, tiếng bánh răng, tiếng trục quay, tiếng ma sát kèn kẹt hòa trộn vào

nhau. Không cần chuyển động gì thêm, mắt rắn đã tự xoay tròn, lỗ khóa xoay cùng với chìa

khóa, cả con rắn khổng lồ chạm trổ trên cánh cửa như thể sắp sống dậy, một vài đường vân

thụt vào, một số đường vân khác lại nổi gồ lên. Tiếp đó, cả gian đại điện bắt đầu thay đổi, bệ

đá bên dưới kim thân của các vị tiền bối bắt đầu chuyển dịch vị trí, tiến trước lùi sau, hoặc sang

trái hoặc sang phải, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp. Trong đại điện này, duy chỉ có hai

người đàn ông đang trợn tròn mắt há hốc miệng trước cánh cửa đá là không phát ra bất cứ âm

thanh nào.

.

.

BÁU VẬT NHÀ PHẬT

.

Trong đầu hai người đều đang thắc mắc cùng một vấn đề, tại sao hai lần trước không được,

mà lần này lại thành công như thế? Ngay sau đó, cả hai đều hiểu ra. Hai lần trước, họ dùng

máu của một người để mở lỗ khóa và nhỏ vào chìa khóa, còn lần này, lại dùng máu của Merkin

khiến mắt rắn mở ra, sau đó cắm chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba vào, trong chìa khóa lại

nhỏ máu của Trác Mộc Cường Ba. Phỏng chừng, phải đồng thời sử dụng máu của cả hai người,

mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.

Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ xa hơn, mấu chốt không phải ở chìa khóa, cả hai chiếc chìa

khóa ấy chỉ là vật dẫn, máu của hai người mới là thứ có tác dụng thực sự. Hai dòng máu thuần

chủng đã truyền thừa hơn nghìn năm của các vị Thánh sứ. Bấy giờ, họ mới ngộ ra được ý nghĩa

thực sự của hàng chữ “một người có huyết thống thuần chủng” được khắc nổi bật trên cánh cửa

lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ thoáng sau, bố cục của gian đại điện đã hoàn toàn biến đổi, đồng thời thân rắn trên

cánh cửa cũng gồ lên vô số vảy, dưới bụng mọc thêm chân có móng vuốt, trông không còn

giống rắn nữa … mà hơi giống … một con rồng?

Chỉ có điều, sau màn chấn động ấy, cánh cửa trước mặt họ vẫn đóng chặt. Trác Mộc Cường

Ba khẽ lay nhẹ, rút chìa khóa ra. Vẫn là Merkin nhanh mắt hơn, y chỉ tay vào cây cột mới xuất

hiện ở chính giữa đại điện, hỏi: “Đó là cái gì vậy?”

Hai người đến gần cây cột, chỉ thấy bốn mặt cây cột hình vuông mỗi cạnh dài chừng hai

mét này đều có bậc thang, trên đỉnh hình như khoét rỗng, không gian có thể chứa được người.

Hai người quyết định leo lên xem sao.

Cây cột đá này được thả từ đỉnh vòm của đại điện xuống, Merkin lên trước, phát hiện ở

giữa cây cột là một trụ kim loại đường kính khoảng nửa mét. Một vòng xung quanh trụ kim

loại ấy có thể đứng được năm sáu người. Sau đấy, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, Merkin

cười lớn nói: “Ha ha, thì ra cánh cửa kia chỉ là vật che mắt, ai mà ngờ được lối vào thực sự lại

ở chính giữa đại điện chứ, nếu không rõ chân tướng, cứ cố cho nổ hoặc phá hoại cánh cửa đá

kia, nói không chừng phía sau chỉ là toàn là đá núi mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba vừa đứng vững, chưa kịp nói gì, cột đá đã được trụ kim loại ở giữa

dẫn động, chầm chậm dâng lên. Thấy cột đá vẫn tiếp tục dâng cao, Trác Mộc Cường Ba thầm

nhủ, chỉ sợ khi cột đá này trở lại vị trí ban đầu, dù là ai đến được đây, cũng sẽ chỉ nghĩ cách

phá hoại cánh cửa kia hoặc đào sâu xuống dưới mà thôi. Có kẻ nào nghĩ ra được việc đào lên

phía trên mấy chục mét chứ?

Dọc đường, có một quãng hoàn toàn tối đen, tuy rằng khoảng cách rất ngắn, nhưng trong

không gian tối đen kín mít ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy ngạt thở. Không gian nhỏ

hẹp này rõ ràng không đủ dưỡng khí cho hai người, đúng vào lúc cảm giác hoảng loạn manh

nha xuất hiện, thì bọn họ đến được tầng trên. Thứ đầu tiên đập vào mắt hai người, là ánh sáng!

Ánh sáng này khác với thứ ánh sáng ở bên dưới, không phải sắc đỏ của dung nham và màu

vàng cam của những pho tượng dát vàng, mà là một thứ ánh sáng mạnh đến chói mắt. Ánh

sáng xuất hiện quá bất ngờ, quá mạnh mẽ, đến nỗi Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa ra khỏi

vùng tối tăm không thể không giơ tay chắn trước mắt, quan sát hoàn cảnh xung quanh qua

những kẽ ngón tay.

Qua kẽ ngón tay, tròng mắt họ dần dần mở to, không phải vì bị ánh sáng mạnh kích thích

như lẽ thường… Trước mắt họ lúc này đây, toàn là những thứ đủ khiến những người bình

thường phát điên phát rồ… Báu vật!

Cột đá càng lúc càng dâng cao, số lượng báu vật đập vào mắt họ cũng tăng lên theo cấp số

nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ thấy vô số quầng sáng rực rỡ chói mắt, tựa như cầu vồng

tan vào dòng nước cuồn cuộn, cơ hồ muốn vươn mình thoát ra khỏi những báu vật kia, chảy

tràn đi khắp chốn.

Không gian rộng mở, lượng ôxy trong không khí cũng tăng lên, Trác Mộc Cường Ba hít

vào một hơi, cả người liền nhẹ bẫng như thể muốn bay lên. Gã cũng từng nghe truyền thuyết

về châu quang bảo khí, tương truyền trên bền mặt những món châu báu thực sự quý hiếm đều

có một tầng linh khí, dù bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, những món báu vật ấy vẫn phát ra ánh

sáng rực rỡ, nhưng gã chưa từng gặp báu vật nào như thế. Cho dù trước đây, cũng từng có

người nhờ gã cầm hộ những viên bảo thạch trị giá hàng chục triệu, nhưng trong mắt gã, đó

chẳng qua cũng chỉ là mấy viên đá có màu sắc đặc biệt một chút mà thôi. Nhưng mỗi một món

báu vật ở đây đều tỏa ra thứ ánh sáng lóa mắt, khiến Trác Mộc Cường Ba thậm chí không biết

nên hình dung những gì gã đã nhìn thấy như thế nào nữa, cảm tưởng như trên bề mặt mỗi món

phẩm vật ở nơi này đều phủ một lớp chân khuẩn có thể phát ra ánh sáng huỳnh quang, hoặc

trên bề mặt kim loại mọc chi chít những sợi lông mao phát quang vậy. Thứ ánh sáng đó mới

đầu thì hơi chói mắt, nhưng chỉ thoáng sau gã đã phát hiện ra nó rất dịu dàng, chập chờn rung

động, khiến ánh mắt người ta bất giác bị hút chặt không rời.

Merkin há miệng, hít thở từng ngụm không khí lớn. Đứng trước cả một kho báu mênh

mông, y đột nhiên không biết mình nên cười hay nên rơi nước mắt, chỉ đờ người ra, cặp mắt đã

bị ánh sáng các loại báu vật chiếm giữ, đầu óc hoàn toàn rỗng không. Đây mới thực sự là một

gian đại điện huy hoàng rực rỡ. Ở nơi này, mặt sàn không biết được dát lên một lớp vàng

mỏng, hay là những viên gạch bằng vàng ròng dày nặng nữa. Mỗi cây cột trong đại điện đều

bọc một lớp áo vàng, điêu khắc hình trồng hình phượng giữa mây lành, ngay cả bốn bức tường

và đỉnh vòm, cũng được bao phủ trong sắc vàng kim chói lóa.

Trước mắt hai người, là một hàng Phật tháp được xây bằng gạch xương, rất đậm đà bàn sắc

dân tộc Tạng, mỗi tháp cao chừng một mét, bệ tháp và đỉnh tháp đều đúc bằng vàng ròng, thân

tháp còn có một vành đai bằng vàng, đỉnh tháp khảm các loại bảo thạch, mỗi viên to như mắt

rồng. Gạch xương màu trắng điểm xuyết trên ánh sáng màu vàng, trông như một hàng vệ binh

hiên ngang chỉnh tề. Thân tháp đều mở ra, tạo thành một am thờ nhỏ, bên trong đặt các tượng

Phật vàng lớn nhỏ, tạo hình khác nhau. Đằng sau nhưng Phật pháp này là một số đồ trang trí

bằng vàng. Họ có thể thấy tượng vàng của thập đại niên thần, một thứ trông như cái giường lớn

kiểu cổ của Trung Quốc, cũng bằng vàng ròng, chất đầy ngọc ngà châu báu. Ngoài ra, còn một

cái tủ bằng vàng trông như quan tài, điêu khắc thành hình một động vật họ chó. Xa hơn chút

nữa, là những tượng Phật kích cỡ lớn hơn. Đáng chú ý nhất, phải kể đến hai bức tượng cỡ đại

cao ít nhất cũng tầm bốn mét ở chính giữa đại điện, thoạt nhìn không giống tượng Phật, mà là

một nam một nữ. Người nam tướng mạo trang nghiêm oai vệ, toát lên khí thế của kẻ ngạo thị

thiên hạ, còn người nữ lại đoan trang từ ái, bờ môi hơi nhếch lên tựa như nụ cười của nàng

Monalisa.

Trác Mộc Cường Ba lập tức bị hai pho tượng vàng lớn nhất này thu hút, đây nhất định là

tượng vàng cao ba trượng của Tạng vương Tùng Tán Can Bố và công chúa Văn Thành mà

sách sử ghi chép. Đơn vị đo lường thời đó và ngày nay có sự sai biệt nhất định, nhưng hai bức

tượng này cũng xứng danh là những bức tượng vàng ròng lớn nhất thế giới rồi.

Ánh mắt Merkin lại hoàn toàn bị hút vào đống báu vật đặt trên thứ vật dụng giống như

chiếc giường. Y thậm chí còn không dám chắc rốt cuộc nên gọi thứ đó là gì nữa, chỉ biết nó

được chạm trổ bằng kỹ thuật chạm rỗng, bên trên có hình mây trôi và hoa lá, toàn bộ những

viên bảo thạch đính xung quanh đều không tầm thường. Có điều, những thứ bày trên giường

kia mới thực sự khiến tâm thần Merkin đắm say ngây ngất. Báu vật vô giá, mỗi một món trên

giường đều là báu vật vô giá.

Không biết bao lâu sau, tâm trí hai người mới bình tĩnh trở lại. Họ chầm chậm đặt chân lên

sàn đại điện màu vàng kim, men theo hàng Phật tháp tiến về phía trước.

Dọc đường, bất giác Merkin cứ không ngừng so sánh những thứ ở trước mắt với những thứ

y lưu trữ trong ký ức, những món báu vật được phát hiện từ thuở nhân loại bắt đầu có lịch sử.

Chế phẩm bằng vàng ròng lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Kia là kim cương lam, không ngờ… không ngờ lại có viên kim cương màu lam lớn đến

vậy!

Viên kim cương lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên hồng ngọc lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên ngọc mắt mèo lớn nhất thế giới, cũng phải đổi lại…

Kia là phỉ thúy sao? Sao lại có thứ phỉ thúy xanh mướt đẹp đến thế…

Viên phỉ thúy đẹp nhất lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Vương tọa, vương trượng, mũ miện khảm nạm nhiều châu báu nhất thế giới, đều phải đổi

lại…

Sau mỗi bước chân, hơi thở của Merkin càng lúc càng thêm gấp gáp. Y đã không kiểm soát

nổi cơ thể mình nữa, toàn thân run lên bần bật. Dọc đường bước tới, y gần như tuyệt vọng nhận

ra, phàm là những món châu báu thiên nhiên hoặc nhân tạo được cho là nhất trong lịch sử mà y

nhớ được, chỉ trong một chớp mắt, toàn bộ đều đã bị soán ngôi! Liếc mắt nhìn ngang, bên trái

có một cái cây bằng vàng ròng, cao chừng mét bảy mét tám, cành cây chĩa nhánh, buông xuống

những chuỗi bảo thạch long lanh như giọt lệ, không có gió cũng tự đung đưa. Không phải

những chuỗi bảo thạch ấy đung đưa, mà là ánh sáng tỏa ra từ chúng.

Hơi dịch ánh mắt đi một chút, lại sẽ thấy một chiếc kim luân lớn, ở đầu mỗi tia hào quang

chiếu ra đều gắn một viên bảo thạch tròn nhẵn trong nhờ nhờ giống như ngọc trai, nhìn kỹ hơn

sẽ kinh ngạc phát hiện ra, những viên bảo thạch ấy, hóa ra chính là Ngọc thời gian trong truyền

thuyết. Cứ cách một quảng thời gian nhất định, một trong các hạt châu này sẽ phát ra ánh sáng,

kéo dài đến khi hạt châu tiếp theo sáng lên, lặp đi lặp lại như vậy, nghìn năm cũng không sai

lệch.

Không cần dịch chuyển ánh mắt, chỉ cần nhìn xa hơn chút nữa, phía sau kim pháp luân ấy

là một khay Mantra(39) cao hơn một mét rưỡi, do những viên trân châu to tướng ghép lại mà thành, từ trên xuống dưới tổng cộng có năm tầng, không biết rốt cuộc phải dùng đến mấy nghìn

mấy vạn viên. Đặc biệt nhất là, mỗi viên đều to nhỏ bằng nhau, trắng ngần không tỳ vết.

Phóng tầm mắt ra chút nữa, trên bức tường màu vàng phía xa sừng sững một tấm vách màu

ngọc bích, còn cao hơn cả Merkin, trông như một vầng trăng tròn màu xanh ngọc. Nhìn sắc

xanh biêng biếc đặc biệt ấy, lẽ nào, đó lại là phỉ thúy? Một miếng phỉ thúy đường kính hơn hai

mét, hoàn toàn không tỳ vết? Miếng phỉ thúy ấy có màu xanh như lá cỏ mới nhú lúc đầu xuân,

lại thấp thoáng có thể nhìn xuyên qua, trông thấy phù điêu chạm nổi trên bức tường vàng phía

sau nó. Phẩm chất của miếng phỉ thúy này thế nào, thiết tưởng không cần phải nói nữa. Thứ

này còn thuộc về nhân gian nữa hay sao? Miếng phỉ thúy lớn thế, rõ ràng có thể dùng làm bình

phong, thậm chí làm tường ngăn cũng được, đúng là lấy ngọc làm tường, lấy ngọc làm tường!

Cuối cùng, hai chân Merkin cũng không đỡ nổi trọng lượng của cơ thể nữa, y ngã nhào lên

một bức tượng Phật vàng ròng ngồi trên đài sen. Bức tượng này kể cả đài sen bên dưới thì cao

gần hai mét, gần bằng người thật, một chân khoanh lại, một chân hơi duỗi ra, bốn tay đều cầm

pháp khí. Bộ cà sa khoác trên thân tượng Phật không phải được chạm nổi, mà đúng là một bộ

áo Phật dệt bằng tơ vàng. Những sợ tơ vàng được se ra còn mảnh hơn sợi tóc, chạm tay vào,

cảm giác mềm mại trơn bóng như lụa. Cả tấm áo cà sa lớn như vậy mà cầm trên tay cảm giác

nhẹ như lông hồng, áng chừng tổng trọng lượng cũng không quá một trăm gam, thực xứng là

một tác phẩm thần kỳ. Những bảo thạch khảm nạm trên các pháp khí óng ánh rực rỡ, ánh sáng

xuyên thấu, chiết xạ qua các pháp khí, Trác Mộc Cường Ba còn nhìn rõ được sự biến ảo của

màu sắc và quỹ tích của chùm sáng. Bảo thạch trên các pháp khí kết hợp với những viên bảo

thạch ở trán, ngực và bụng tượng phật, lợi dụng chùm sáng bảy màu, vạch ra trên không trung

một ký hiệu tựa như hình Lục Mang tinh(40).

Merkin ngã bổ nhào lên tượng Phật, không nhúc nhích nữa, cục yết hầu không ngừng cuộn

lên cuộn xuống, hít hà một cách tham lam, tựa như hít được mùi tỏa ra từ những món báu vật

này có thể khiến y thư thái, sảng khoái lâng lâng toàn thân vậy. Cuối cùng, Merkin cũng hít đủ

linh khí của báu vật, trông y lúc này như thể tên nghiện vừa được thỏa mãn, người mềm nhũn,

mặt ngửa tựa vào lòng pho tượng, tay chân dang rộng, tạo thành một chữ “đại” lớn, cơ hồ bao

nhiêu sức lực đã bị rút kiệt, chỉ còn lồng ngực phập phồng lên xuống không dứt. Hai mắt trợn

trừng nhìn lên trần, thân thể như đang đắm chìm ngụp lặn trong ảo giác, miệng y lẩm bẩm nói

mớ: “Ha ha… ta phát hiện ra rồi… toàn bộ đều của ta… báu vật vô giá… toàn bộ đều là báu

vật vô giá… ông nội, cháu tìm được rồi! Ha ha ha… khục khục…”

Không biết bao lâu sau, Merkin mới sực nhớ ra vẫn còn một kẻ tên Trác Mộc Cường Ba ở

bên cạnh mình, lý trí rốt cuộc cũng hồi phục phần nào, y khó nhọc ngẩng đầu lên, lập tức trông

thấy Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba đang đứng cách đài sen nơi Merkin ngả ngốn

chừng năm mét, lạnh lùng nhìn y chằm chằm. Merkin lại nằm xuống, cười lớn nói: “Anh đã

thấy chưa, Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi!”

“Không!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững trả lời, “Những thứ này, không phải của ông.”

“Cái gì!” Merkin giật bắn mình, nhảy dựng lên như một con báo hung hãn, trừng mắt nhìn

Trác Mộc Cường Ba quát: “Ngươi … Nói cái gì?”

Sát khí! Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm nhận được sát khí ngùn ngụt tỏa ra từ Merkin,

trông y lúc này chẳng khác nào một con dã thú đang liều mạng bảo vệ lãnh địa, trợn mắt nhìn

kẻ ngoại lai xâm nhập, sát khí cuộn trào mãnh liệt.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó hiểu, cùng một con người, tại sao chỉ trong nháy mắt có

thể thay đổi nhiều đến vậy. Những thứ châu báu này, thực sự có thể thay đổi linh hồn của một

con người hay sao? Hay đây mới là bộ mặt thật của Merkin?

Nếu là trước khi vào thần miếu, Trác Mộc Cường Ba hẳn còn e dè khi đối mặt với sát khí

ngùn ngụt ấy, có điều lúc này, gã thấy rất rõ, tâm lý của Merkin vừa trải qua một trận đại chiến

dữ dội, cho dù về mặt thể lực y vẫn còn sung sức, nhưng tinh thần của y lại đang ở trong trạng

thái cực độ yếu ớt. Bởi vậy, trước câu hỏi của Merkin, gã vẫn chậm rãi trả lời, nhấn từng chữ

một: “Tôi nói, những thứ này, không thuộc về… ông…”

Chữ cuối cùng vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin đã hung hăng nhào tới, cặp mắt trần trụi

hệt như dã thú săn mồi, thậm chí vẻ giảo hoạt như rắn vốn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong đôi

mắt ấy cũng biến mất. Trác Mộc Cường Ba không nhân nhượng, ngược lại còn xông thẳng tới

nghênh đón…

Trước những cú đấm như trời giáng của Cường Ba thiếu gia, lí trí của Merkin dần dần hồi

phục, y đau đớn phát hiện ra, gã đàn ông này đã mạnh lên rất nhiều so với lúc mới tiến vào Bạc

Ba La thần miếu… Merkin vùng vẫy, y không can tâm. Y không hiểu nổi, suốt mấy tháng lang

thang trong thần miếu, y và Trác Mộc Cường Ba ăn cùng một thứ, làm những việc giống nhau,

nhưng tại sao đối phương dường như mỗi ngày một mạnh lên, càng lúc càng mạnh. Bản thân y

lúc này đã không thể duy trì được cục diện cân bằng với gã nữa rồi! Đương nhiên, Merkin

cũng hiểu, y đã phải gắng hết sức trong trận chiến với Khafu, thương thế vẫn chưa hoàn toàn

hồi phục, thêm nữa, lúc này y không thể điều chỉnh để tinh thần có trạng thái tốt nhất. Nhưng

cho dù là vậy, y cũng không thể kém cỏi tới mức này chứ! Mỗi chiêu thức của Trác Mộc

Cường Ba đều có xu thế chèn ép y, khiến y không thở nổi. Đối với sự thay đổi này, Trác Mộc

Cường Ba cũng không hiểu rõ lắm, gã chỉ lờ mờ cảm thấy giữa hai chân mình có một vật thể

hình bánh xe đang chầm chậm chuyển động, thân thể mình dường như mỗi ngày đều có biến

hóa. Gã không biết dùng ngôn từ như thế nào để hình dung sự biến hóa này, chỉ khi đang quan

sát, tiếp xúc, cảm tri môi trường xung quanh, gã mới phát hiện ra những điểm khác biệt rất

nhỏ.

Merkin lại dính thêm mấy đòn nặng, bắt đầu không giữ vững được trọng tâm, y vẫn còn vũ

khí, nhưng một thứ bản năng nguyên thủy lại ghìm y lại, không cho y sử dụng, một tiếng nói

cứ liên tục lặp đi lặp lại trong tiềm thức: “Đừng rút súng, rút súng là ngươi sẽ chết chắc!”

Cuối cùng, khi Merkin bị đánh cho ngã nhào vào một bức tượng Phật, loạng choạng mấy

bước liền vẫn chưa đứng vững, y mới tỉnh hẳn, cuống quýt nói: “Đừng… đừng đánh nữa,

Cường Ba… Cường Ba thiếu gia… tôi, tôi là Merkin đây!”

“Hả? Ông tỉnh lại rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, tước vũ khí của Merkin.

Lúc này, Merkin vẫn đang ở trong trạng thái cuồng bạo, có trời mới biết y sẽ làm ra những

chuyện gì. Merkin không phản kháng, chỉ gật đầu lia lịa nói: “Tôi, tôi tỉnh lại rồi. Vừa nãy, vừa

nãy không hiểu làm sao… giống như bị ma ám vậy. Ừm, chết tiệt, thậm chí tôi còn không biết

rốt cuộc mình đã làm những gì nữa!”

Nghe câu trả lời của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt. “Đừng tin bất cứ chữ nào,

câu nào của y,” gã vẫn còn nhớ rõ lời cảnh cáo cuối cùng của Nhạc Dương. Merkin chậm rãi

bước đến, y đã sáng tỏ tình huống lúc này, chỉ cần y không ra tay, Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ

không tấn công. Y ngập ngừng giây lát, rồi mở miệng: “Nhìn đi, Cường Ba thiếu gia, đây mới

là kho báu thật sự, mỗi một món đồ ở đây, chỉ cần mang ra ngoài kia, chắc chắn sẽ làm cả thế

giới chấn động. Những thứ này do chúng ta phát hiện, chúng là của chúng ta đấy!”

“Chúng ta?” Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Merkin.

“Đúng vậy.” Ánh mắt Merkin đầy kích động. “Chúng ta, mỗi người một nửa…” y vừa nói,

vừa nhìn Trác Mộc Cường Ba. Thoáng sau, y chợt biến sắc mặt: “Chẳng lẽ.. chẳng lẽ anh

muốn… một mình… độc chiếm!” Mấy chữ cuối cùng, Merkin nói có vẻ rất khó nhọc, giờ đây

vũ khí cũng bị đối phương đoạt mất rồi, sắc mặt y trở nên hết sức khó coi. “Anh… anh không

thể mang hết đi được! Những thứ này, một mình anh, liệu, liệu có thể mang đi được bao nhiêu?

Những món châu báu này, chỉ cần tiện tay vơ một nắm, cũng đủ khiến chúng ta trở thành người

giàu nhất thế giới rồi, không phải anh muốn độc chiếm tất cả đấy chứ?”

“Không.” Nghe thấy câu nói này, Merkin mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tiếp đó, Trác

Mộc Cường Ba lại nói: “Những thứ này không thuộc về chúng ta, chúng thuộc về nhà nước.”

(Ôi! mẹ ơi! Cường Bà ơi là Cường Ba!!!)

CHƯƠNG 79: SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

.

CÁNH CỬA THỨ HAI

.

“Nhà nước!” Giọng Merkin lạc đi, y nhìn Trác Mộc Cường Ba như nhìn một tên ngốc, rồi

lập tức hỏi vặn lại: “Chúng thuộc về nhà nước nào chứ? Trung Quốc? Ấn Độ? Nepal? Buhtan?

Chính chúng ta còn không biết mình đang đứng trên lãnh thổ đất nước nào, vậy anh định giao

trả những thứ này cho chính phủ nước nào đây?”

Trác Mộc Cường Ba không trả lời câu hỏi của Merkin, gã đang nghĩ đến một vấn đề khác,

liền hỏi: “Vừa nãy ông nói gì? Ông cũng không biết mình đang ở địa giới của nước nào?

Nhưng hẳn ông phải rõ, các ông từ đâu tiến vào đây chứ?”

Merkin nói: “Phải, chúng tôi từ nước N, băng qua biên giới, sau đó tiến vào khu vực không

người, xuyên qua hành lang gió Tây. Suốt dọc đường, chúng tôi cũng không thấy cột mốc biên

giới nào của Trung Quốc, cũng không phát hiện cột mốc hay bộ đội biên phòng của bất cứ

quốc gia nào. Toàn bộ tuyến đường của chúng tôi đều là khu vực không người, đi suốt mười

lăm ngày trong vùng bị sương mù dày đặc bao phủ. Vì vậy, tôi cũng không biết chúng ta đang

ở trong địa giới của nước nào nữa. Những thứ này, kỳ thực đều là vật vô chủ, không thuộc về

quốc gia nào cả, theo công ước và quán lệ quốc tế, những thứ này, toàn bộ đều thuộc về người

phát hiện ra chúng.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, vẫn lắc đầu nói: “Không được, đây không phải vật

tàng trữ tư nhân, mà là tài sản thuộc về toàn bộ nhân loại. Năm đó, tổ tiên người Tạng chúng

tôi vì không muốn những báu vật này bị hủy hoại trong khói lửa chiến tranh, đã trải qua không

biết bao nhiêu khó khăn giản khổ mới đưa được chúng đến nơi này, bảo tồn hoàn hảo cho đến

hôm nay. Những báu vật này phải thuộc về đất nước chúng tôi, phải trả về cho toàn nhân

loại…”

“Trả về cho toàn nhân loại?” Merkin cười khinh bỉ, “Cũng được, vậy ai sẽ quản lý chúng?

Ai sẽ đứng ra phân phối chúng? Ai cho ai cái quyền đó? Tổ tiên người Tạng… tôi hỏi anh, đây

là cái gì, đây là cái gì?” Merkin xắn tay áo lên, cầm chặt chiếc chìa khóa tổ truyền trong tay,

bức vấn Trác Mộc Cường Ba: “Tại sao Bạc Ba La thần miếu này lại bí mật như thế? Tại sao

hơn nghìn năm nay không ai tìm được nơi này? Tại sao không phải ai cũng có thể tiến vào, ai

cũng có thể mang những thứ ở đây đi? Tại sao chìa khóa lại ở trong tay tôi? Tại sao chỉ có máu

của tôi mới có thể khiến chìa khóa phát huy được tác dụng thực sự? Tổ tiên người Tạng! Đây

là tài sản tổ tiên của gia tộc tôi, còn cả tổ tiên gia tộc anh nữa, để lại cho chúng ta! Đây là tài

sản của chúng ta, của gia tộc chúng ta!”

Không đợi Trác Mộc Cường Ba kịp phản bác, Merkin lại vội vã bổ sung: “Anh nghĩ thế

nào thì mặc kệ anh, nhưng phần của tôi, phải để lại đấy. Hãy nhìn xem, nhìn những thứ ở đây

mà xem, chưa nói gì khác, chỉ tính riêng vàng thôi, chỉ cần anh thích, muốn tổng trữ lượng

vàng của Trung Quốc tăng gấp đôi, gấp ba, cũng không phải chuyện khó khăn gì, chỉ cần anh

thích là được. Nhưng cũng đừng quên, gia tộc chúng tôi cũng đã khổ sở tìm kiếm những thứ

này suốt một nghìn năm nay, anh không thể gạt bỏ sạch trơn nỗ lực của chúng tôi được. Tôi

cần phải nhận được phần thuộc về gia tộc mình, trừ phi anh giết tôi. Anh muốn giết tôi sao?

Muốn giết một người tay không tấc sắt, lại từng nhiều lần cứu mạng anh hay sao? Đến đi, tôi

không còn sức phản kháng, tôi là kẻ yếu, anh giết tôi đi.” Nói đoạn, Merkin liền trưng ra bộ

mặt lợn chết không sợ nước sôi.

Trác Mộc Cường Ba nhìn bộ dạng ấy của Merkin, cũng cảm thấy không nhẫn nhịn được

nữa, phỏng chừng, cả đời Merkin chắc chưa từng biểu lộ ra vẻ mặt này trước bất cứ ai. Những

thứ báu vật ở đây, rõ ràng đã khiến chỉ số thông minh của y hạ xuống chỉ còn ngang với một

đứa bé. Trác Mộc Cường Ba nhất thời không kìm được, bật cười thành tiếng, sau đó nói: “Xin

lỗi, tôi nghĩ, ông và cả gia tộc của ông, hiển nhiên đều đã hiểu lầm rồi. Tôi không biết gia tộc

của ông nhận được truyền thừa như thế nào. Tuy rằng vị tiền bối trong gia tộc tôi đã hoàn toàn

không còn nhớ gì về sự kiện này nữa, nhưng tôi nghĩ, chúng ta có chìa khóa mở kho tàng,

không có nghĩa ta là người sở hữu những thứ báu vật này, chúng ta chẳng qua chỉ là người

canh giữ chúng mà thôi. Đây không phải thứ một hai vương triều có thể sở hữu, càng không

thể thuộc về một hai gia tộc nào đó, ông có hiểu không? Ông hiểu được đạo lý này, phải

không?”

Merkin nhảy dựng lên như mèo bị giẫm phải đuôi: “Anh cũng biết… anh cũng biết đây

không phải những thứ một hai vương triều có thể sở hữu, hãy nhìn mà xem…”

Ngón tay y chỉ về phía một tác phẩm điều khắc từ ngà voi. Ngà voi trắng ngần như ngọc,

mỗi chiếc dài hơn hai mét, bức điêu khắc ghép từ mấy trăm chiếc như vậy. Những người thợ

khéo léo thời xưa đã dùng thứ ngà voi quý giá này để chạm trổ ra nhà cửa cung điện, đình đài

lầu các, sau đó dùng kết cấu mộng để ghép thành một vương đô mang phong cách Ấn Độ cổ

đại. Thậm chí, trong tác phẩm điêu khắc này còn có cả hồ nước và sông ngòi, có điều hiện giờ

đều đã khô cạn. Phỏng chừng, người xưa đã dùng ngà voi để phỏng chế lại kinh đô của một

vương triều Ấn Độ cổ đại nào đó. Trong những nhà cửa thuyền xe kia, còn có vô số người

vàng lớn bằng ngón tay cái, cửa sổ và cửa ra vào có thể đóng mở, xe ngựa có thể chuyển động,

thậm chí cuốn sách vàng đặt trên án thư của những người vàng tí hon kia cũng khắc chi chít

chữ.

“Hãy nhìn những thứ này xem…” Merkin lại chỉ sang một chỗ khác, thứ ấy trông giống

như một tòa cung điện bằng vàng cao chừng hơn một mét, chia làm hai tầng. Trước cửa tầng

dưới của cung điện có hai vật trông như cái bàn đạp bằng vàng. Tầng trên có cửa mở ra ở cả

bốn mặt, nhỏ hơn tầng dưới một vòng, dường như còn có thể độc lập chuyển động. Thứ này thì

Trác Mộc Cường Ba biết, gã từng đọc trong các thư tịch cổ, tương truyền món đồ này do xảo

tượng thời Đường tên là Mã Thị Phon chế tác, khi có người đặt hai chân lên bàn đạp, tầng dưới

sẽ có người tí hon cầm dùi trống đi ra, xoa bóp các huyệt vị ở gan bàn chân và mu bàn chân

người đó. Đồng thời, bốn cánh cửa trên tầng hai cũng mở ra. Cánh cửa thứ nhất, sẽ có người tí

hon mang gương, mang lược, mang trâm cài tóc ra giúp người chỉnh trang; cánh cửa thứ hai

mở ra, sẽ có người tí hon mang bầu rượu, tự động rót đầy ly; cánh cửa thứ ba mở ra, sẽ có

người tí hon bước ra nhẹ nhàng ca múa, kèm theo tiếng đàn ca sênh sáo; cánh cửa thứ tư mở ra,

sẽ có thần quan báo giờ, đến tối lại có người tí hon cầm đèn bước ra. Đây có thể nói là món đồ

tự động hóa phức tạp nhất, tiên tiến nhất của Trung Quốc cổ đại, về sau đã được Đường Huyền

Tông đem tặng cho Thổ Phồn như một món quốc lễ, rồi biến mất trong giai đoạn Lãng Đạt diệt

Phật.

Merkin vung hai tay, lớn tiếng nói: “Đây là những gì? Là tích lũy tài sản gần ba trăm năm

của hai vương triều mạnh nhất thời bấy giờ, không chỉ do họ tự sản xuất được, mà còn có cả tài

sản cướp đoạt từ các quốc gia xung quanh, và cả những đồ tiến cống của các quốc gia xa xôi

khác nữa. Tất cả mọi thứ ở đây, phần của Đông Thổ Đại Đường, chỉ chiếm một phần năm, của

Thổ Phồn, cũng không thể nhiều hơn một phần năm, mười tám nước Tây Vực cộng thêm Ấn

Độ, đại khái cũng chiếm một phần năm, ngoài ra còn có tài sản của những nước nhỏ ở Nam

Dương, hay xa hơn nữa, đến tận Tây Âu, anh có thể đại diện cho ai, anh có thể giao hoàn

những báu vật ở đây cho ai? Anh chỉ có thể đại diện cho chính mình, anh không thể đem ý chí

của mình áp đặt cho tôi được. Nếu những báu vật này thuộc về toàn nhân loại, vậy thì phải đưa

chúng đến đâu? Liên Hợp Quốc à? Thật đúng là thứ logic nực cười. Nếu nói, tổ tiên tôi đã đảm

nhận trách nhiệm bảo vệ báu vật, vậy thì, tôi sẽ tiếp tục bảo vệ những của báu này theo cách

của mình. Vào lúc cần thiết, bán đi một số báu vật, dùng để làm chi phí duy trì việc bảo vệ

cũng như khai thác kho tàng, như vậy mới là cách bảo vệ phù hợp với quy luật kinh tế.”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên không kìm được cảm giác tức cười, những điều Merkin vừa

nói, cũng là logic điển hình của một tên cường đạo. Gã cười khẩy, đặt ra cho đối phương một

câu hỏi: “Ông cho rằng, chúng ta có thể sống sót rời khỏi nơi này sao?”

Merkin lập tức ngẩn người, từ lúc đặt chân vào kho báu này, đầu óc y chỉ còn một vùng

trống rỗng, sau đó y mới nhớ ra sự tồn tại của mình cũng như sứ mệnh của gia tộc, sau nữa,

mới nhớ ra còn có sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba, về sau vì không đánh lại gã, mới chuyển

sang tranh chấp lý lẽ, còn những vấn đề khác, nhất thời y chưa hề nghĩ đến. Nếu như hai người

không thể sống sót rời khỏi đây, vậy thì vừa nãy chuyện bọn họ cãi nhau đỏ mặt tía tai thật

đúng là vừa hoang đường vừa tức cười. Mà ngay cả khi họ có thể may mắn rời khỏi chốn này,

rốt cuộc y có thể mang theo bao nhiêu báu vật chứ?

Đây cũng là điểm Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tức cười nhất. Gã nhớ lại một câu chuyện

rất nổi tiếng, ba thanh niên nhàn rỗi đi lang thang trên phố, vừa đi vừa bàn xem nếu một ngày

nào đó, một trong ba người nhặt được một triệu đồng thì sẽ chia chác thế nào. Hai người còn

lại yêu cầu chia đều, còn người nhặt được tiền trong giả thiết ngay từ đầu đã nhất quyết không

chịu. Vì chuyện này mà ba người bắt đầu cãi nhau to, cuối cùng còn lao vào ẩu đả. Đến khi

cảnh sát đến kéo họ ra, hỏi xem chuyện gì, hai người trong bọn mới chỉ kẻ thứ ba kia nói: “Hắn

nhặt được một triệu, nhưng nhất quyết không chịu chia cho chúng tôi!”

Cảnh sát giật mình, lại đòi người thứ ba mang tiền ra nộp, người thứ ba kia đần thối mặt

một lúc lâu, rồi mới lầm bầm nói: “Chúng tôi giả sử như vậy thôi, đã nhặt được tiền đâu.”

Lúc này, tình cảnh của hai người rất giống ba thanh niên kia, bọn họ cùng lắm chỉ có thể

tuyên bố, họ đã tới đích, họ đã trông thấy, những báu vật trong truyền thuyết kia đều thực sự

tồn tại, kho báu này đích thực có thể thay đổi diện mạo của một hoặc thậm chí là mấy quốc gia

lớn thuộc vào hàng siêu cấp.

Nhưng liệu bọn họ mang đi được bao nhiêu trong số những pho tượng Phật vàng nặng đến

mấy tấn này? Rồi ở chốn cơ quan cạm bẫy trùng trùng điệp điệp, nguy cơ ẩn hiện khắp nơi

này, liệu họ có thể sống sót trở ra thế giới bên ngoài hay không? Nếu không thể sống rời khỏi

đây, thảo luận những chuyện ấy phỏng còn ý nghĩa gì nữa? Giả như có thể thoát ra ngoài, Trác

Mộc Cường Ba nhất định sẽ báo cáo cụ thể tình hình lên trên, còn việc các quốc gia tranh giành

hay hợp tác khai thác khối tài sản khổng lồ này thì không phải là chuyện bọn họ có thể chõ

miệng vào thảo luận nữa.

Bấy giờ, Trác Mộc Cường Ba mới lên tiếng khuyên bảo Merkin: “Ông đã hiểu chưa?

Chúng ta nãy giờ đang tranh luận những vấn đề vô nghĩa.”

Merkin bị đả kích nặng nề, sắc mặt tái nhợt đi, chỉ nghe y lẩm bẩm nói một mình:

“Không… không phải vậy… không phải vậy!” Lúc này những trải nghiệm trong Bạc Ba La

thần miếu lần lượt hiện lên trong tâm trí y, những cơ quan cạm bẫy, những loài sinh vật quái dị

hung tàn đều hiện lên một cách rõ nét, mà đường lui của họ đã bị cắt đứt, thậm chí còn không

thể trở về trong Cửu Cung biến, bốn bề chỉ có dung nham sôi trào nóng bỏng. Trong hoàn cảnh

này, hai người muốn sống rời khỏi Bạc Ba La thần miếu, có thể nói là cơ hội gần như bằng

không. Trong lòng Merkin đầy những tạp niệm rối bời: “Lẽ nào tôi phát hiện ra kho báu chỉ để

chết ở đây?” “Không! Không!” Y gầm liên điên loạn: “Nhất định là có lối thoát, vẫn còn lối

thoát khác!” Vừa gào thét, y vừa guồng chân chạy giữa những đống vàng bạc châu báu chất

cao ngút. Trác Mộc Cường Ba không yên tâm, vội chạy theo sau y, hét gọi: “Này, ông chạy

đâu đấy?” Gã loáng thoáng cảm thấy dường như mình đã để sót điều gì đó, nhưng Merkin

khiến gã lòng dạ rối bời, đống châu báu lấp lánh lại làm gã hoa mắt chóng mặt, nhất thời không

có cách nào tập trung suy nghĩ được.

Sau khi hai người dời đi, ở một góc bọn họ không thể phát giác, bên trong một bức tường

vàng, cách mặt đất chừng năm sáu mét có một lỗ rất nhỏ, mắt thường gần như không nhận ra

nổi. Trong lỗ nhỏ ấy, có một đầu dò đang chầm chậm rụt về.

Phía bên kia bức tường, không ngờ lại là một đường hầm nhân tạo được khoét ra bằng chất

nổ, cao khoảng một mét, bên trong có hai hàng lính đánh thuê nửa ngồi nửa quỳ. Lữ Cánh

Nam, pháp sư Á La, Mẫn Mẫn bị trói gô lại, miệng nhét đầy chặt thứ gì đó, khiến ba người

không thể phát ra bất cứ âm thanh nào. Bọn họ đã đến đây trước cả Trác Mộc Cường Ba và

Merkin, chỉ là người trẻ tuổi không cho phép họ tiến vào gian đại điện bày kim thân của các vị

đại sư tiền bối, ngược lại còn bắt leo vách đá lên phía trên, khoét ra một đường hầm như vậy.

Không ai biết ý đồ của y rốt cuộc là gì.

Người trẻ tuổi thu đầu dò hình mắt rắn đó lại, khẽ nói: “Chúng giữ được lý tính hơn là tao

dự đoán, người không bị châu báu làm cho dao động như vậy trên đời này thực sự rất ít, chạy

đi, chạy đi, chạy nhanh thêm chút nữa, tao đang đợi chúng mày đây.”

Hai người một trước một sau, chạy hùng hục giữa những tia sáng đủ sắc màu, đập vào mắt

họ là từng đống từng đống ngọc ngà châu báu. Đống bên này là kim cương chử, nhân hình chử,

tháp chử, bảo chử, yết ma chử, kim cương quyết, kim cương bàn, kim liên hoa, kim pháp luân,

dù vàng, trướng vàng, bình vàng, chén vàng, roi vàng, áo trân châu, niệm châu mắt mèo, ngọc

như ý, cây như ý, sa châu, chuột vàng phun báu, bát cáp ba la(41) … mang đậm phong cách dân tộc Tạng.

Đống bên này, là dây lưng khảm đầy bảo ngọc, dây đeo kiếm, vòng cổ, vòng tay, vòng

cánh tay, xuyến tay, nhẫn, hoa tai, vòng tay hình rắn hổ mang thần, vòng chân, linga, tượng

thần Brahma, Shiva, Visnu bằng vàng … theo phong cách Ấn Độ cổ.

Giữa những đống châu báu này, là các pho tượng Phật đúc bằng vàng ròng. Có trời mới

biết ở đây rốt cuộc có bao nhiêu pho tượng Phật vàng như thế, lớn có, nhỏ có, cộng thêm sàn

nhà và các bức tường, rồi cả cột trụ … nơi đây đã gần như một mỏ vàng khổng lồ rồi. Trong

đại điện này rốt cuộc chứa bao nhiêu vàng? Mười nghìn tấn? Một trăm nghìn tấn? Hay còn

nhiều hơn nữa? Merkin nói có thể khiến tổng trữ lượng vàng của Trung Quốc tăng lên gấp đôi,

hoàn toàn không phải chỉ thuận miệng nói bừa, nếu thực sự có cách vận chuyển số vàng ở đây

ra, giá vàng trên thế giới ít nhất cũng phải giảm đi một nửa chứ chẳng chơi. Đặc biệt khi chạy

đến gần những pho tượng lớn cao đến bốn năm mét, Trác Mộc Cường Ba cũng xây xẩm mặt

mày. Thật không ngờ, lại có người dùng vàng ròng đúc thành pho tượng lớn như vậy. Trước

đây gã vốn tưởng rằng, vàng mà cổ nhân nói đến, kỳ thực chính là đồng vàng, nhưng lúc này,

nhìn màu sắc, nhìn chất liệu, đây rõ rành rành là vàng ròng trăm phần trăm! Trác Mộc Cường

Ba còn để ý thấy, trên bề mặt bức tượng có vết tích nung chảy. Rõ ràng người xưa cũng không

thể nào vận chuyển được pho tượng lớn như vậy đến đây, họ phải cắt ra thành các mảnh nhỏ,

sau đó mới nung chảy rồi ghép lại.

Không lâu sau, họ đã chạy từ đầu bên này tới đầu bên kia đại điện, Merkin ở phía trước gào

rú lên như kẻ điên dại: “Này! Ở đây có một cánh cửa! Mau lên! Ở đây có cửa! Cường Ba!”

Chạy đến gần, Merkin mới thất vọng nhận ra, đây không phải một cánh cửa, mà chỉ là một

bức tường chắn, có điều, trên bức tường màu vàng kim này có chữ, những hàng chữ dọc đặt

bên cạnh nhau, rất giống với mấy hàng chữ ở cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ có điều, bây giờ Merkin không có hứng thú với mấy thứ cổ văn loằng ngoằng này.

Hùng hục chạy một mạch từ nãy đến giờ, y đã bắt đầu thở không ra hơi, hai tay chống xuống

đầu gối, oằn mình thở dốc: “Tại sao, tại sao không phải là cửa chứ?”

Trác Mộc Cường Ba cũng dừng lại nghỉ chân bên dưới mấy hàng chữ lớn đó, một lúc sau,

gã mới cất tiếng nói: “Tôi nghĩ, đây là một cánh cửa.”

“Cái gì?” Merkin lập tức phấn chấn tinh thần, truy vấn gã: “Bên trên đó viết gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba lần lượt dịch từng chữ một: “ Nơi tập trung của cải chân chính, phải

dùng trí tuệ mới mở ra được, cánh cửa … dẫn đến … tự do…”

Merkin bổ nhào lại gần bức tường, lần mò khắp một lượt từ trên xuống dưới: “Là cửa hả?

Cửa ở đâu? Cửa ở đâu?” Hai mắt y đột nhiên sáng bừng, nét mặt lỗ rõ vẻ hân hoan: “Không

sai, đúng là cửa rồi, tôi thấy khe cửa rồi!”

Giữa bức tường và sàn nhà có khe hở, Merkin lần tìm men theo khe hẹp ấy, rốt cuộc cũng

thấy được đường nét của một cánh cửa trên bức tường màu vàng kim. Khe hở giữa cửa và bức

tường được giấu rất kỹ, Merkin nhíu mày, bởi chỉ có loại cửa thụt vào mới không lộ ra dấu vết

thế này. Y và Trác Mộc Cường Ba không trông thấy quá trình cửa lớn Bạc Ba La thần miếu mở

ra, vì vậy cũng không biết người xưa có thể chế tạo ra những cánh cửa dày tới chừng nào,

nhưng y biết, loại cửa này là khó phá hoại nhất. Sau đó, y lại lần mò tìm kiếm trên mặt tường

một hồi: “Làm sao mở ra được? Phải có cơ quan để mở cửa ra mới đúng.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn đang tiếp tục đọc: “Cái… vỏ kiên cố nhất? Bảo vệ tất thảy mọi

thứ ở đây? Gã gõ gõ mấy cái lên chỗ cánh cửa, rồi lại gõ gõ vào cạnh đó, cũng không biết kiên

cố đến mức nào. Trác Mộc Cường Ba lùi lại hai bước, ngẩng đầu lên đọc hàng cuối cùng:

“Máu của Bản Ba, là chìa khóa duy nhất để mở cửa.” Phía sau lại có thêm một câu nữa: “Các

ngươi, thật sự đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?”

“Thế là ý gì nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm, dường như gã dịch vẫn chưa được

chuẩn xác lắm, ừm, nếu có giáo sư Phương Tân ở đây, hoặc giả máy tính chưa hỏng thì tốt rồi.

Đang nghĩ ngợi, gã chợt nghe Merkin reo lên mừng rỡ: “Tìm thấy rồi, ở chỗ này!”

Trác Mộc Cường Ba bước tới, chỉ thấy Merkin đang đứng cách cánh cửa chừng hơn chục

mét, chăm chăm nhìn vào một cái bồn kim loại, cao khoảng ngang lưng người, hơi giống như

một cái đỉnh thời xưa.

Thấy Trác Mộc Cường Ba đi tới, Merkin hân hoan nói: “Tôi biết ngay mà, cơ quan để mở

cánh cửa này chẳng ở đâu xa, bọn họ phải chôn dây ngầm, phải dùng huyết trì, khoảng cách xa

quá sẽ tiêu hao rất lớn. Anh xem, đây là huyết trì, đây là hố trữ máu, đây là hố rửa máu, đây là

rãnh chia, đây là bồn hoạt hóa, đây… đây là lỗ khóa!”

Trác Mộc Cường Ba bước đến gần quan sát kỹ hơn, cái đỉnh này giống như một cái chậu

lớn mỏng dẹt đặt trên giá đỡ ba chân, đáy chậu chia làm ba khu vực, có những đường vân xoắn

phức tạp, hoặc có thể nói đó là các ống dẫn, cuối cùng thông qua lỗ nhỏ ở rìa chậu dẫn xuống

chân đỡ bên dưới. Thứ này rõ ràng được gắn liền với sàn đại điện, cũng may Merkin tinh mắt,

chứ nếu không để ý sẽ rất dễ lầm tưởng nó là một món báu vật gì đó. Thân chậu có chạm trổ ba

loại thú được trừu tượng hóa. Trác Mộc Cường Ba loáng thoáng nhận ra, một trong ba loại thú

đó rất giống con thú lành khắc trên thanh kiếm đồng của gã, Tỳ hưu.

Merkin không chờ nổi nữa, bèn cắm chìa khóa của y vào khu vực có totem Kỳ lân, nhỏ

máu vào, rồi vòng tay đo thử kích cỡ của hố trữ máu, lẩm bẩm nói: “Chắc cần khoảng mười mi

li lít máu.” Y nghiến răng, tay cầm lưỡi dao rạch nhẹ, máu liền đổ tràn vào trong huyết trì.

Không ai biết chìa khóa của y và máu trong huyết trì đã xảy ra phản ứng như thế nào, chỉ

thấy máu trong chậu chảy theo các đường ống chầm chậm lan đi, rồi một tách thành hai, hay

hai hợp làm một, cuối cùng biến mất ở chỗ mở chảy xuống chân đỡ bên dưới, trong bồn vàng

không còn lại chút dấu vết nào của máu tươi. Một lúc sau, đột nhiên cả đại điện rung chuyển,

mặt đất dường như có thứ gì đó to lớn bị kéo đi, tiếng chuyển động của những bánh răng khổng

lồ vang lên. Những bánh răng chỉ “cách cách cách” được mấy tiếng, rồi như bị thứ gì đó làm

kẹt lại, phát ra một loạt tiếng “két két két” đay đi đay lại.

HIỆN THÂN

.“Máu của một mình tôi không đủ.” Merkin lập tức có phản ứng, y nói với Trác Mộc

Cường Ba: “Còn cần cả máu của anh nữa.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, anh không thấy hả? Tuy là một bồn chứa,

nhưng đây là tổ hợp của ba huyết trì, cần có ba chiếc chìa khóa. Chỉ với hai người chúng ta,

không thể mở được cánh cửa này đâu.” Gã ngoảnh đầu nhìn hàng chữ trên cửa “Các người,

thật sự đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?” Gã có cảm giác câu này như một sự

cảnh báo, hoặc một lời nhắc nhở, để người có năng lực mở cánh cửa này phải suy nghĩ cho kỹ

càng, chớ nên đưa ra quyết định một cách mù quáng.

Merkin nói: “Anh không thử thì làm sao biết được? Cánh cửa đầu tiên đó, không phải cũng

dùng máu của hai chúng ta mà mở ra được đó sao? Nói không chừng, có hai trong ba là đã đủ

chiếm đa số phiếu, xin anh đấy, thử một lần xem sao.” Ánh mắt y nhìn chằm chằm vào hàng

chữ thứ nhất và thứ hai: “Cánh cửa dẫn đến tự do, rất có thể, đây chính là lối ra duy nhất dành

cho chúng ta, anh không nghĩ đến chuyện… ra khỏi đây sao?” Kỳ thực, Merkin muốn nói:

“Anh không nghĩ đến việc mang những thứ ở đây ra ngoài hay sao?” Có điều, khi cất tiếng y

đã kịp thời ghìm lại, y thực không muốn nhắc đến chủ đề nhạy cảm này trước mặt Trác Mộc

Cường Ba vào thời điểm hiện tại.

“Cánh cửa dẫn đến tự do”, cụm từ này là do Trác Mộc Cường Ba dịch ra, gã cũng biết

mình dịch không chuẩn xác, nhưng sâu trong tiềm thức, gã vẫn hi vọng ý của cụm từ đó đúng

là như vậy. Nhìn huyết trì ở trước mắt, Trác Mộc Cường Ba cũng hơi động tâm, gã không phải

chiến sĩ vệ đạo một lòng kiền thành, đồng thời cũng âm thầm ôm mối hi vọng có thể mang

những thứ báu vật ở đây ra thế giới bên ngoài. Tuy mục đích của gã khác với Merkin, gã không

muốn chiếm làm của riêng, nhưng nếu để những kết tinh của trí tuệ nhân loại này phải vùi chôn

trong lòng núi thì cũng thật là đáng tiếc.

“Được rồi, để tôi thử xem.” Trác Mộc Cường Ba cũng cắm chìa khóa của gã vào, cắt tay

nhỏ máu, hỗ trữ máu trong huyết trì dần dần đầy lên. Nhìn từng giọt máu nhỏ xuống, trong đầu

Trác Mộc Cường Ba không ngừng xuất hiện đi xuất hiện lại một câu hỏi: “Đã quyết định chưa?

Các người đã quyết định chưa? Các người… đã quyết định chưa?” Có gì đó không ổn, nhất

định có gì đó không ổn, nhưng theo lý mà nói, thì chẳng có gì không ổn cả. Ở đây chỉ có gã và

Merkin, những người khác căn bản không thể mở được cánh cửa bên ngoài kia, phải chăng gã

vẫn chưa yên tâm về Merkin? Tại sao cảm giác bất an trong lòng mỗi lúc một mạnh mẽ hơn

vậy?

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng đè được cảm giác thấp thỏm không yên đó xuống.

Gã ngẫm nghĩ lại một lượt, rồi dễ dàng nhận ra, cảm giác bất an này không phải là biểu hiện

của sự nghi hoặc đối với hoàn cảnh xung quanh, mà dường như phát xuất tự bản năng của gã,

giống như khi thỏ nhìn thấy chim ưng, chuột gặp phải rắn vậy. Nỗi bất an ấy đã khắc sâu vào

trong gene di truyền. Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Merkin, sắc mặt y cũng rất căng thẳng,

gã liền hỏi: “Có phải anh cũng cảm thấy điều gì đó không ổn? Lo lắng nhiều hơn là hưng

phấn?”

“Không có gì!” Merkin dối dòng phủ định: “Tôi muốn ra ngoài đến sắp phát điên lên được

ấy chứ, có gì không ổn đâu!” Trong lúc nói, y lại dùng một tay nắm chặt lấy tay kia, gắng sức

che giấu những run rẩy rất khẽ. Trác Mộc Cường Ba gần như có thể khẳng định, cảm giác bất

an của Merkin thậm chí còn mạnh mẽ hơn gã. Gã lập tức ngừng nhỏ máu, băng ngón tay lại.

Có điều, máu trong huyết trì đã bắt đầu phản ứng với chìa khóa, chảy tràn qua các ống dẫn

với tốc độ kinh người, một phần đã biến mất ở lỗ mở chỗ chân đế. Hai người mang theo tâm

trạng thấp thỏm, kính sợ nhìn cánh cửa màu vàng kim phía trước. Không ai biết đằng sau cánh

cửa đó là gì, cũng không biết tới đây sẽ xảy ra chuyện gì. Gần như giống hệt quá trình sau khi

Merkin nhỏ máu, đại điện cũng chấn động, như thể có vật thể khổng lồ gì đó bị hút đi, sau đó

bánh răng khổng lồ bắt đầu chuyển động, lần này thì được lâu hơn, nhưng rốt cuộc vẫn bị kẹt

lại. Cánh cửa lớn chừng như có dấu hiệu được nâng lên, có điều mỗi lần chỉ nhích động được

chưa đầy một xăng ti mét lại đã nặng nề rơi xuống.

Không hiểu tại sao, nhìn thấy cánh cửa đó không thể mở ra, Trác Mộc Cường Ba lại có

cảm giác nhẹ nhõm, tảng đá lớn đè nặng trong tim rơi xuống, nỗi căng thẳng và lo âu cũng biến

mất.

“Vẫn không được, cần thêm chiếc chìa khóa thứ ba nữa.” Trác Mộc Cường Ba nói như thể

vừa trút được gánh nặng.

“Chiếc chìa khóa thứ ba! Sao có thể được? Hơn một nghìn năm rồi, có trời mới biết Thánh

sứ năm đó chết toi ở xó xỉnh nào! Hai người chúng ta gặp nhau, đã là kỳ tích trong kỳ tích rồi!

Tôi không dám mơ có kỳ tích lớn hơn nữa xuất hiện đâu!” Merkin hằn học nhìn chằm chằm

vào huyết trì, cơ hồ muốn phá tung vật thể bằng kim loại này ra.

Câu nói của Merkin chợt gợi lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba một ý nghĩ, tại sao hai

người đều là hậu nhân của Thánh sứ, đều có chìa khóa, vừa khéo lại có thể mở được cánh cửa

đầu tiên, thế này chẳng phải quá trùng hợp hay sao? Không, không thể dùng “trùng hợp” để

giải thích được. Nhất thời, vô số suy nghĩ dội lên trong tâm trí gã.

Thoạt đầu, giáo sư Phương Tân nói gã có thể tham gia đoàn khảo sát của nhà nước, vì nơi

gã muốn đến, vừa khéo cũng là nơi đoàn khảo sát muốn đến; sau đó, ở thành bang Maya, trong

cả một khu vực rộng lớn, bọn gã lại tìm được đúng Bạch thành; càng trùng hợp hơn nữa là bọn

gã lại có trong tay chìa khóa cuối cùng của địa cung Ahezt; rồi qua Merkin gã biết được,

Soares phát hiện ra bản đồ trong địa cung, bản thân Soares cũng nói, y tìm thấy tấm bản đồ đó

bên trong cánh cửa cuối cùng của địa cung; lần theo dấu vết tấm bản đồ đó, bọn họ lại bất ngờ

phát hiện được một tấm bản đồ khác ở Đảo Huyền Không tự, đó là lúc gã lần đầu biết được

thân phận Thánh sứ của mình, gã còn tưởng ông trời muốn trêu cợt mình một phen nữa; rồi khi

bọn họ gặp khó khăn trên núi tuyết, cuối cùng không tìm được đường đi tiếp, Vương Hựu lại

mang theo Hương Ba La mật quang bảo giám anh ta tìm được trong địa cung Maya xuất

hiện…. Trùng hợp, trùng hợp, trùng hợp, toàn bộ đều là trùng hợp sao? Trác Mộc Cường Ba

bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, sao mình lại có những trải nghiệm như một nhân vật trong tiểu

thuyết truyền kỳ vậy chứ? Tất cả mọi thứ, đều giống như một vở kịch, mọi người cầm kịch bản

diễn theo vậy. Vấn đề là, ai đang đạo diễn tất cả? Trong vở kịch này, gã đóng vai gì? Còn

Merkin, y được phân cho vai gì?

Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba lại không khỏi nhớ đến những gì xảy ra trong thần miếu,

Merkin bị Max và Khafu bắt tay bán đứng. Hai kẻ này nghe lệnh ai? Tại sao Max đột nhiên

mất mạng? Rốt cuộc đối phương muốn làm gì?

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên buột miệng thốt lên: “Không ổn! không thể mở cánh cửa đó

ra được!” Gã muốn phá hủy huyết trì bằng kim loại này đi, hiềm nỗi vật này lại quá kiên cố.

Trác Mộc Cường Ba kéo ba lô, định lấy ra tất cả mọi thứ có thể nổ được, đúng lúc này,

chợt nghe ‘oành’ một tiếng lớn, bức tường màu vàng kim sau lưng vỡ một lỗ toang hoác. Mười

mấy tên lính đánh thuê tay cầm sung lần lượt bước ra, mấy người cuối cùng là Lữ Cánh Nam,

pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đang bị khống chế.

Merkin còn đang kinh ngạc trước hành vi khác thường và đột ngột của Trác Mộc Cường

Ba, chợt tiếng nổ lớn vang lên khiến y giật bắn mình kinh hãi thêm một phen nữa. Trác Mộc

Cường Ba vừa nghe thấy tiếng nổ, đã gắng sức rút chìa khóa ra. Không ngờ, chìa khóa cắm vào

huyết trì lại bị ghim chặt, Trác Mộc Cường Ba làm biến dạng cả chuôi chìa khóa mà vẫn không

sao rút ra được.

Bọn lính đánh thuê vừa tiến vào đại điện lập tức khống chế Trác Mộc Cường Ba và

Merkin. Trác Mộc Cường Ba vốn định phản kháng, nhưng khi thấy pháp sư Á La, Lữ Cánh

Nam, gã liền bỏ cuộc. Merkin không có vũ khí trong tay, nên cũng không phản kháng, đồng

thời y cũng muốn xem kẻ đứng sau lưng Max và Khafu rốt cuộc là người như thế nào.

Quả nhiên, một người thân hình không nổi bật lắm bước ra khỏi đám lính đánh thuê, y

dường như đang mỉm cười, nói: “Merkin, Cường Ba thiếu gia, chúng ta lại gặp nhau rồi.” Y

nói bằng một thứ tiếng Trung chuẩn mực.

Merkin nhíu mày, giọng nói này nghe sao mà quen vậy? Ngón tay út của y khẽ giật một

cái, thế là phản ứng gì?

Trác Mộc Cường Ba chăm chú quan sát dáng điệu và đặc trưng hình thể của người này,

cuối cùng nhìn chằm chằm vào gương mặt y, nhưng dưới lớp màu ngụy trang, không thể nhìn

rõ được mặt mũi ra sao. Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn

Mẫn, trong lòng dường như đã đưa ra phán đoán.

Thomas không để bọn họ đợi lâu, y đón lấy một chiếc khăn bông đã thấm cồn từ tay lính

đánh thuê đứng cạnh, nhẹ nhàng lau chùi. Một gương mặt trẻ tuổi góc cạnh xuất hiện trước mặt

chúng nhân.

Đến thời điểm này, cuối cùng y cũng có thể xuất hiện với gương mặt thật của mình rồi.

Toàn thân Merkin bất giác run rẩy cả lên, y sợ hãi nhìn chằm chằm vào người trẻ tuổi ấy:

“Người … quyết sách!”

Trác Mộc Cường Ba cũng lạnh lùng nói: “Quả nhiên là anh, Đường Thọ!”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên đúng như họ nghĩ, làm gì có

ngài Thomas nào? Phải là ngài Đường(42) mới đúng.

Merkin vô cùng chấn động, y trố mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, hoàn toàn không thể

ngờ đội trưởng của bọn y, kẻ được gọi là Người quyết sách, lại chính là Đường Thọ, anh trai

của Đường Mẫn, đồng thời cũng là tên điên mà y ra lệnh bắt cóc.

Đường Thọ nhe răng cười, dường như có vẻ ngượng ngùng. Y đảo mắt nhìn bọn lính đánh

thuê, mấy tên này sớm đã đỏ mắt thèm thuồng, hết nghiêng bên này lai ngó bên kia, khẩu súng

cầm trong tay cũng đang run lên nhè nhẹ, cơ hồ có thể nhả đạn bất cứ lúc nào. Đường Thọ

điềm đạm nói: “Này, tao biết chúng mày rất kích động, nhưng cần phải kiềm chế. Những thứ

đã hứa với chúng mày, tao nhất định sẽ trả đủ, chỉ là lúc này vẫn chưa được. Ít nhất, chúng ta

cũng phải mở cánh cửa sau cùng này ra đã, chúng mày biết trên kia viết gì không? Bên trong

cánh cửa này mới là báu vật thực sự, những thứ bên ngoài không thể so sánh được. Huống hồ,

muốn sở hữu những báu vật này, điều kiện tiên quyết là phải sống sót rời khỏi đây mới được.”

Câu nói cuối cùng dường như có chút tác dụng, một vài tên đã lấy lại bình tĩnh, nhiều báu vật

đến mấy thì cũng phải còn mạng, sống sót mới có thể hưởng thụ được; có điều, vẫn còn một

vài tên không nghe lọt được chữ nào vào đầu.

“Bây giờ là lúc ta hoàn thành sứ mạng rồi.” Dứt lời, Đường Thọ để mặc đám lính đánh thuê

ấy, chầm chậm lại gần huyết trì, lấy trong vạt áo ra một thanh kiếm đồng nhỏ, lại là một thanh

kiếm đồng cùng chất liệu, cùng kiểu dáng với hai thanh của Trác Mộc Cường Ba và Merkin.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều kinh ngạc ngẩn người.

Trác Mộc Cường Ba ở gần hơn, loáng thoáng trông thấy trên chuôi kiếm là hình một con

chim được trừu tượng hóa, thân kiếm có chạm khắc bốn hình thú kỳ quái, một cái giống con

tằm, một cái nữa giống như cá, nhưng vây cá lại giống như tay chân của trẻ con chưa hoàn toàn

phát triển thành hình, hai hình còn lại thì Trác Mộc Cường Ba không thể hiểu nổi.

Pháp sư Á La đứng sau lưng Đường Thọ, nhưng vẫn nhìn được thanh kiếm đồng qua khe

hở, ông biết đó là Lục đạo tứ sinh, tượng trưng cho luân hồi, còn thanh kiếm đồng của Trác

Mộc Cường Ba thì chạm khắc hình Tứ phương thụy thú, tượng trưng cho sự bảo vệ, nhưng ông

không hề biết mấy thanh kiếm đồng này còn là chìa khóa, nên cũng hết sức chấn động.

Lữ Cánh Nam lại lấy làm kinh ngạc trước sự ung dung điềm tĩnh của Đường Thọ. Ở giữa

đại điện vàng rực này, trước mặt là vô số châu báu lấp lánh hào quang, ngay cả pháp sư Á La

và bản thân cô cũng không khỏi rung động, càng không cần phải nói đến những kẻ bị tài vật

làm mê đắm đánh mất chính mình kia. Nhưng riêng Đường Thọ, vẫn giữ nguyên bộ dạng hờ

hững như không đó, dường như tất cả mọi thứ ở đây đều chẳng liên quan gì đến y, ánh mắt y

nhìn những người khác vẫn u uất như thế, tựa hồ đang trách trời thương dân vậy. Đường Thọ

vừa cắm chìa khóa vào, vừa nói: “Như các ngươi đã thấy, chiếc chìa khóa thứ ba nằm trong tay

ta, vì vậy cũng đừng kinh ngạc làm gì.”

Merkin không dám tin vào sự thực hiển nhiên trước mắt: “Anh… anh cũng là Thánh sứ?”

“Thánh sứ? Ừm, coi là vậy đi,” Đường Thọ khinh khỉnh trả lời: “Ta và ngươi giống nhau,

đều là hậu duệ của Vu vương.”

Merkin bị câu trả lời này làm cho chấn động, loạng choạng lùi lại một bước, trong lòng

thầm nhủ: “Hắn biết, hắn biết tất cả!”

Đường Thọ bắt đầu trích máu, mỉm cười nói: “Nói ra thì còn phải cảm ơn các ngươi nữa,

không có hai người tương trợ, ta cũng không nghĩ được cách nào mở cánh cửa này ra.” Nói tới

đây, y liếc thấy chiếc chìa khóa đã biến dạng của Trác Mộc Cường ba, liền quay sang nhìn gã

nói: “Ngươi thông minh hơn ta nghĩ đấy.”

“Bên trong cánh cửa ấy rốt cuộc có gì?” Trác Mộc Cường Ba một mặt cố gắng chấn tĩnh,

mặt khác bắt đầu xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện lại với nhau.

“Kho báu!” Đường Thọ khẳng định chắc nịch. “Ta đảm bảo với các ngươi, bên trong nhất

định là kho báu thực sự, chắc chắn có thứ các ngươi muốn.” Lúc nói câu này, ánh mắt y chầm

chậm chuyển sang phía pháp sư Á La: “Trên cửa này viết gì, pháp sư đại nhân hẳn là hiểu rất

rõ.”

Pháp sư Á La bấy giờ mới chú ý và bắt đầu xem xét mấy hàng chữ trên cửa, đồng thời dịch

lại: “Kho báu đầy ắp trí tuệ, con đường mở ra bí ẩn của đại tự nhiên bên trong tòa tháp hình

trứng kiên cố nhất này, hủy diệt hay tồn tại là do các ngươi quyết định.” Trác Mộc Cường Ba

nghe ông dịch mà thẹn mướt mồ hôi, tuy chỉ sai có mấy chữ, nhưng ý nghĩa dịch ra lại thay đổi

rất lớn.

“Câu này dành cho ba người chúng ta đấy.” Đường Thọ cười cười với Trác Mộc Cường

Ba, bộ dạng có vẻ rất thân thiện. Y trích máu xong , băng bó qua loa lại vết thương, rồi nhìn

phản ứng máu của mình bên trong huyết trì. Đường Thọ chợt hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Tranh

thủ còn chút thời gian, sao không nói cho mọi người biết vì cớ gì mà ngươi lại nghĩ ta là kẻ

đứng sau mọi người mọi việc vậy Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba không đáp mà hỏi ngược lại: “Tại sao anh không nói cho chúng tôi

nghe trước, anh đã sắp đặt mọi thứ như thế nào, để tôi và Merkin biến thành quân cờ của anh?”

Merkin lại trợn tròn mắt lên, đến thời điểm này, y vẫn không dám tin mình lại trở thành

quân cờ của kẻ khác. Đường Thọ đánh mắt ra phía sau một cái, lập tức có hai tên lính đánh

thuê dùng mũi súng thúc mạnh vào Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn. Bấy giờ, Đường Thọ mới

chậm rãi quay người lại, nở một nụ cười hết sức thân thiện: “Tình thế nghiêng về phía ta mà,

Cường Ba thiếu gia.”

“Được rồi,” Trác Mộc Cường Ba để tâm trạng mình lắng xuống, liếc nhìn Mẫn Mẫn đang

bị áp giải, Mẫn Mẫn cũng hướng ánh mắt đau khổ nhìn về phía gã. Trác Mộc Cường Ba cố dằn

lòng, chầm chậm nói: “Là vì Mẫn Mẫn.” Sắc mặt Đường Mẫn lập tức tái mét.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Toàn bộ sự việc này, bắt đầu từ khi tôi tìm kiếm Tử kỳ lân cho

tới lúc đặt chân đến Shangri-la, mỗi một sự việc xảy ra trong quá trình này dường như đều có

một lời giải thích có vẻ rất hợp lý, nhưng trong đó lại nảy ra mấy vấn đề mà tôi thủy chung vẫn

không sao hiểu nổi. Một trong số đó là Nhạc Dương.” Đường Thọ lộ vẻ mặt trầm ngâm, cơ hồ

đã sắp nghĩ thông, nhưng những người còn lại phỏng chừng vẫn chưa thể hiểu được.

Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin, rồi lại nhìn Lữ Cánh Nam, nói: “Lúc đó, chúng tôi mới

chỉ đề phòng Merkin và những thế lực khác đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, căn bản

không hề nghĩ tới anh, mà uy hiếp lớn nhất đối với chúng tôi, lại chính là Merkin. Những trải

nghiệm trước đó của chúng tôi, khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều tin chắc rằng, trong

đội ngũ của chúng tôi có kẻ nằm vùng của Merkin. Đối tượng bị nghi ngờ nhiều nhất chính là

Ba Tang, đồng thời sự thực cũng đã chứng minh nghi ngờ của họ là chuẩn xác.”

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều ngầm gật đầu, Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Để

moi ra được kẻ nằm vùng của Merkin, đồng thời cũng để thăm dò xem Merkin rốt cuột nắm

được bao nhiêu tư liệu, Cánh Nam đã quyết định dùng kế phản gián. Người được chọn cho vai

trò gián điệp hai mang này chính là Nhạc Dương. Nhạc Dương là lính trinh sát xuất sắc do một

tay Cánh Nam huấn luyện, hơn nữa cậu ta từng có kinh nghiệm làm gián điệp. Cậu ta cũng là

một trong số ít người mà Cánh Nam có thể tin tưởng được. Nhưng khi thực hiện kế hoạch,

Cánh Nam và pháp sư sợ tôi hành sự theo cảm tính hoặc quá manh động, không thể phối hợp

tốt với Nhạc Dương, thậm chí còn làm lộ thân phận của cậu ấy. Vì vậy, họ đã giấu không cho

tôi biết hành động này. Có lẽ, Cánh Nam và Nhạc Dương cũng chỉ giữ liên hệ một chiều.”

Lữ Cánh Nam gật đầu, rồi lại lập tức khe khẽ lắc đầu, vẫn còn một người nữa biết chuyện

này.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam, nhanh chóng hiểu ra người còn lại kia là

ai, gã lại tiếp tục nói: “Quá trình Nhạc Dương xâm nhập vào nội bộ tổ chức của Merkin như

thế nào, Merkin đã nói với tôi rồi. Tôi có thể lý giải được. Nhưng có một điểm duy nhất mà tôi

không sao hiểu nổi, đó là khi chúng tôi trải qua muôn vàn gian khổ, khó khăn lắm mới đến

được Shangri-la, chỉ cần Nhạc Dương không kích hoạt thiết bị phát xạ tín hiệu bằng tia laser,

thì dù Merkin có nắm được bao nhiêu tư liệu chăng nữa cũng chẳng ích gì. Nếu Nhạc Dương là

một gián điệp phản gián, tại sao cậu ta lại hành động như vậy?”

Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba ngưng lại giây lát, đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam. Cô hẳn

cũng biết nguyên ủy của sự việc này, chỉ thấy trong mắt cô thoáng lộ ra vẻ hân hoan, cổ vũ

Trác Mộc Cường Ba nói tiếp.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một khả năng, đó là trước lúc Nhạc

Dương kích hoạt thiết bị phát tín hiệu laser thì đã có người khác phát tín hiệu đi rồi. Nhóm

người nhảy dù đầu tiên không phải do Nhạc Dương dẫn đến. Merkin không chỉ có một kẻ nằm

vùng trong đội ngũ của chúng tôi, mà Nhạc Dương lại không thể phát hiện kẻ này là ai, vì vậy,

cậu ta mới thay đổi sách lược. Nếu đã có người phát tín hiệu trước rồi, vậy thì tại sao cậu ta

không làm, như vậy có thể tranh thủ tín nhiệm của Merkin, đồng thời cũng có thể kéo được

nhóm người của Merkin vào khu vực chúng tôi đã thăm dò khảo sát. Đây chính là suy tính của

Nhạc Dương.”

Lúc này, máu của Đường Thọ đã phát huy tác dụng, mặt sàn dưới chân rung lên nhè nhẹ,

rồi mạnh dần lên, vật chặn cuối cùng đã bị rút ra, không còn gì ngăn cản bánh răng khổng lồ

chuyển động nữa, trung tâm thần miếu say ngủ nghìn năm bắt đầu sống dậy, phát ra những âm

thanh như núi long đất lở.

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

.Đường Thọ cảnh cáo tất cả mọi người có mặt trong đại điện: “Đứng xa cánh cửa ra một

chút, tốt nhất nên tìm một vật nặng để bám vào, cần thận kẻo bị hút vào trong đó đấy.”

Cánh cửa khổng lồ chầm chậm nâng lên, đại điện rung lắc, vô số hạt bụi vàng nhỏ li ti rải

xuống từ trần điện khiến toàn bộ đại điện đều ánh lên sắc vàng lấp lánh. Gương mặt u uất của

Đường Thọ rốt cuộc cũng thoáng hiện lên vẻ hân hoan. Merkin vẫn nhìn chằm chằm vào

Đường Thọ không chớp mắt, không hiểu đang nghĩ điều gì. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn

pháp sư Á La, hai người khẽ gật đầu, gã lại ngoảnh sang phía Lữ Cánh Nam, nhoẻn miệng

mỉm cười. Ánh mắt Mẫn Mẫn từ đầu đến giờ vẫn không rời khỏi Trác Mộc Cường Ba.

Merkin rốt cuộc cũng quay đầu lại, nhìn về phía cánh cửa, bấy giờ mới phát hiện ra, cánh

cửa này không thể dùng tính từ “dày nặng” để hình dung được. Lực kéo khổng lồ từ bánh răng

kéo cánh cửa lên phía trên, ít nhất cũng đã nâng được mười mét rồi, vậy mà cánh cửa vẫn kẹt

bên trong khung cửa. Đến khi giữa cửa và khung cửa hé ra một khe hở, đột nhiên xuất hiện một

lực hút khổng lồ. Tất cả mọi người đều thấy rõ, lớp bụi vàng đang lơ lửng trên không trung

chẳng khác nào một màn sương mù mịt phảng phất như bị một cái miệng khổng lồ há ra hút

sạch. Gần như một nửa không khí trong đại điện cũng bị hút vào trong, đồng thời cánh cửa

phát ra một tiếng “ầm” lớn. Không biết là cánh cửa đang chuyển động, hay cả bốn bức tường

của đại điện này đều đang bị nâng lên nữa. Lực hút mạnh mẽ quấn lấy chân mỗi người, nếu

Đường Thọ không nhắc nhở, chắc hẳn phần lớn đã đứng không vững mà bị hút vào trong đó

rồi. May mà, bọn họ đều ôm chặt một bức tượng vàng lớn, mặc dù vậy, cả người lẫn tượng

Phật cũng bị kéo trượt đi một quãng. May thay, lực hút này xuất hiện bất ngờ, biến mất cũng

rất đột ngột, chỉ sau khoảng thời gian chừng một hơi thở là tan biến, cả bọn đều cảm thấy áp

lực nhẽ bẫng, hai chân lại hạ xuống mặt sàn.

Cánh cửa khổng lồ rốt cuộc cũng được mở ra, bên dưới là một rãnh dài chừng hai chục

mét, sâu bảy tám mét, Merkin thầm tính toán, cánh cửa này có lẽ là một khối lập phương

khổng lồ mỗi bề dài khoảng hai chục mét, nhưng phần lộ ra phía ngoài mỗi bề chỉ chưa đến

năm mét mà thôi, cũng không biết được làm từ chất liệu gì nữa.

Trác Mộc Cường Ba lại đang nhìn bức tường ở mé bên, giờ đây kim loại đã bị hút hết, để

lộ ra vách đá. Ở chính giữa hai bức tường đá hai mé bên cánh cửa, đều có một cầu thang dẫn

lên trên, ở cuối cầu thang, dường như lại có một gian phòng khác. Sau lưng gã là vô số những

lỗ thông khí to bằng đầu ngón tay, phía trước là bức tường có cánh cửa khổng lồ, vạch ra một

đường ranh giới rất rõ ràng với vách đá ở hai bên, hiển nhiên là một kiến trúc khổng lồ khác,

do một loại chất liệu khác xây nên.

Pháp sư Á La lại tập trung chú ý vào phía sau rãnh sâu, bên trong cánh cửa khổng lồ kia.

Phỏng chừng ông muốn nhìn rõ xem bên trong đó rốt cuộc có thứ gì. Lúc này, cánh cửa đã

được nâng lên, ánh sáng hắt ra từ mấy tấm gương đồng vốn dùng để thu sáng cho đại điện liền

chiếu thẳng vào bên trong đó. Phía trong đã có sẵn những tấm gương khác, bột vàng vẫn lơ

lửng trên không trung, khiến người ở bên ngoài có thể nhìn rõ được quỹ tích phản chiếu của

những cột sáng ấy.

“Tháp hình trứng!” pháp sư Á La khẽ thốt lên. Pháp sư Á La biết rõ kết cấu của tháp hình

trứng. Đó là một dạng Phật tháp không có đường nối, hình dạng giống như quả trứng chim vậy.

Lúc này, dưới ánh sáng hắt vào từ các tấm gương đồng, kết cấu ttrong tháp hiện lên rõ mồn

một trước mắt. Bán kính của tòa tháp này khoảng hai mươi mét, chính giữa có một cây trụ đặc

đường kính khoảng ba mét, thân trụ có đường rãnh hình xoắn ốc, dường như có thể đưa thứ gì

đó trong tháp nâng lên hoặc hạ xuống. Trong tháp vẳng ra tiếng bánh răng và băng chuyền

chuyển động, kèm theo tiếng “u u u” , tựa như có vật thể khổng lồ nào đó đang khuấy động

không khí. Những hạt bụi vàng li ti xoay chuyển trong quầng sáng, như ngàn vạn ngôi sao

trong dải Ngân hà. Đường Thọ đưa mắt nhìn đám người vẫn đang ngây ngẩn chưa biết phải

làm gì tiếp theo, giải thích: “Vừa nãy là áp suất âm, người Qua Ba cổ đại đã biết, vật phẩm có

thể bảo tồn lâu hơn trong môi trường chân không, vì vậy, bên trong tòa tháp hình trứng này đã

bị hút sạch không khí.”

Sau đó, y lại lệnh cho bọn lính đánh thuê áp giải mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba

xuống cái rãnh sâu mà cánh cửa nâng lên để lại. Hai bên rãnh sâu này có cầu thang xoắn ốc,

sau khi cả bọn chầm chậm leo xuống, Đường Thọ nói: “Đây không phải đá, tuy nhìn giống đá,

nhưng thực ra lại là một thứ có thể gọi là kim loại do cổ nhân nung luyện ra. Cụ thể nó là thứ gì

thì đến giờ vẫn chưa phân tích ra được, nhưng thứ này chính là vật liệu xây dựng tuyệt hảo mà

các nhà khoa học hiện đại bấy lâu nay vẫn không ngừng tìm kiếm. Nó nhẹ hơn nhôm, nhưng

lại kiên cố hơn thép tinh luyện, dùng thuốc nổ mạnh cũng hầu như không bị ảnh hưởng gì,

ngay cả nhiệt độ cao mấy nghìn độ cũng không có hiệu quả. Tốc độ dẫn nhiệt của loại chất liệu

này nhanh nhất trong các loại kim loại đã được biết đến ngày nay. Trừ phi nung chảy toàn bộ

tòa tháp hình trứng này, bằng không cách duy nhất để gây phá hoại cho nó là dùng nhiệt độ

siêu đẳng, chẳng hạn như tia laser. Chỉ có điều, các loại máy bắn tia laser hiện giờ đều quá lớn,

ta vẫn chưa đủ năng lực để mang loại máy móc cỡ lớn ấy đến đây.”

“Vì vậy, anh lợi dụng tôi và Merkin mở cánh cửa này, phải không?” Trác Mộc Cường Ba

thẫn thờ hỏi.

“À, không.” Đường Thọ cố tình làm ra vẻ kinh ngạc: “Cánh cửa này chỉ mở ra khi ý chí

các ngươi mong muốn một cách mãnh liệt.” Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, rồi lại

tiếp lời: “Chẳng nhẽ các ngươi không biết? Cho dù là máu của các ngươi, nhưng nếu khi nhỏ

máu các ngươi có tâm trạng sợ hãi, co rút, đau đớn, thì cũng không thể khiến chìa khóa nảy

sinh phản ứng được. Cơ thể con người là thứ hết sức kỳ quái, các ngươi bị tình cảm chi phối.

Vui vẻ, kích động, sợ hãi, hoảng loạn, hân hoan… mỗi loại tình cảm đều sẽ khiến cơ thể sản

sinh ra những vật chất khác nhau, được gọi là hormone. Những hormone này có thể nhanh

chóng lan tỏa đi khắp toàn thân, khiến máu của các ngươi có những thay đổi hết sức lạ lùng. Ta

thực sự khâm phục những người Qua Ba đó, không biết bọn họ đã nghiên cứu về cơ thể người

đến trình độ nào mới có thể tạo ra được chìa khóa thần kỳ như vậy.”

Lúc này, bọn họ đã đi qua được rãnh sâu, leo lên rìa bên kia. Ở đây có một bình đài rộng

khoảng năm mét, dài mười mét. Đứng bên trong toà tháp hình trứng này, cả bọn chỉ biết trợn

tròn mắt lên nhìn.

Tháp hình trứng là một tòa tháp, cũng có thể nói là hình dạng tương đối giống một tòa tháp,

trên nhỏ dưới to. Phía trên còn chừng mười mét nữa là đến trần, bên dưới e rằng phải sâu đến

cả trăm mét, bọn họ đang đứng ở phần đỉnh tháp, phía dưới là một bệ hình chữ T. Một đầu hình

chữ T gắn với trục ở chính giữa, còn nét ngang trên đầu chữ T thì hơi cong cong, vừa khéo ăn

khớp với thân tháp. Cả bệ này đang quay xung quanh những đường rãnh xoắn ốc trên thân trục,

từ từ nâng lên. Kết cấu chỗ tiếp giáp giữa cái bệ hình chữ T và trục giữa giống như kết cấu của

thang cứu hỏa, mấy tầng chồng lên nhau, có thể kéo dài hoặc thu gọn lại, như vậy có thể đảm

bảo dù là ở phần đáy đường kính lớn nhất hay ở phần đỉnh tháp đường kính nhỏ nhất, đoạn

cong trên đầu vẫn bám sát vào thân tháp.

Trác Mộc Cường Ba vốn tưởng rằng, tòa tháp mà Đường Thọ tốn bao công sức sắp đặt mới

mở được này, hẳn phải có thứ gì đó đặc biệt dị thường, nhưng trước mắt gã đây, bên trong tòa

tháp lại hoàn toàn trống rỗng. Chẳng lẽ, người xưa đã chuyển hết những thứ bên trong tháp đi

rồi hay sao? Suy nghĩ của những người còn lại phỏng chừng cũng không khác Trác Mộc

Cường Ba là mấy, bên trong tòa tháp này ngoại trừ bệ hình chữ “T” có thể chuyển động ra,

chẳng còn gì khác nữa, làm sao hấp dẫn bằng đại điện lấp lánh ánh vàng bạc châu báu ngoài

kia! Duy chỉ có pháp sư Á La là nhìn ra được manh mối gì đó. Thị lực của ông vốn tốt hơn

những người khác một bậc. Ông nhận ra, mặt tường đằng sau những cột sáng đan xen kia

không hề trơn nhẵn, mà có những đường nét do khe hở hình thành, chia thân tháp thành những

ô nhỏ, trông giống như tủ đựng thuốc trong hiệu thuốc Bắc vậy. Toàn bộ đều là những ngăn

kéo, tòa tháp này không ngờ lại do hàng nghìn hàng vạn cái ngăn kéo như vậy hợp thành, mà

chiếc bệ hình chữ “T” có thể xoay chuyển này, chính là để những người đứng trên đó có thể dễ

dàng tiện lợi đến bên cạnh và mở ra bất cứ ngăn kéo nào. Bên trong những ngăn kéo ấy rốt

cuộc có thứ gì? Đường Thọ nói, vách tường của tòa tháp này dày đến hai mươi mét, vậy thì

mỗi ngăn kéo phải lớn chừng nào? Có thể chứa được bao nhiêu thứ?

Đường Thọ cũng nhìn ra vẻ nghi hoặc trong ánh mắt những người còn lại, nhưng y không

giải thích, mà lại quay về chủ đề lúc nãy: “Cường Ba thiếu gia, ngươi xem, chúng ta vẫn còn

rất nhiều thời gian, tại sao không tiếp tục câu chuyện lúc nãy nhỉ? Ngươi nghi ngờ Merkin gài

thêm một tên nằm vùng khác vào đội ngũ của mình, nhưng trong đội các ngươi còn rất nhiều

người kia mà? Tại sao chỉ nghi ngờ có mình Mẫn Mẫn thôi?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ bằng ánh mắt chán ghét, tên này không ngờ lại bảo

em gái ruột của mình làm ra những chuyện như vậy, so với Đường Mẫn, y càng không thể tha

thứ hơn. Đường Thọ vẫn trưng ra bộ mặt hờ hững thản nhiên, giống như một thanh niên hiếu

học khát cầu tri thức, khiến người khác không thể nào biết được trong lòng y rốt cuộc đang

nghĩ điều gì?

“Đúng vậy, thoạt đầu tôi cũng không nghĩ đó là Mẫn Mẫn.” Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ

nói: “Nhưng khi mạng của tôi và Nhạc Dương như ngàn cân treo sợi tóc, cậu ta đã nói với tôi

rất nhiều vấn đề cần chú ý, chẳng hạn như quan hệ giữa Merkin và Soares sẽ xấu đi, trong bộ

quần áo liền thân của Merkin chế tạo có thuốc nổ, Cánh Nam vẫn còn sống,… nhưng cậu ta lại

không hề nhắc đến sự việc trong đội ngũ của chúng tôi còn một tên nội gián khác. Như vậy, chỉ

có hai trường hợp, một là tên nội gián này đã chết, tất nhiên không cần phải nói ra nữa,

trường… trường… trường hợp thứ hai, tên nội gián này có quan hệ đặc biệt với tôi, cậu ta

không nỡ nhắc đến mà hi vọng tôi có thể tự phát hiện.” Nói tới đây, giọng Trác Mộc Cường Ba

càng lúc càng thấp xuống, Mẫn Mẫn cúi gằm mặt, nước mắt chảy dọc theo gò má, rơi xuống

bình đài dưới chân.

“Dù vậy, đó cũng chỉ là nghi ngờ của ngươi thôi, không có chứng cứ nào, đúng không?”

Đường Thọ truy vấn.

Trác Mộc Cường Ba im lặng không đáp, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Nghi ngờ, chỉ là bước

khởi đầu. Một khi đã xé rách lớp màng bọc đầu tiên, rất nhiều vấn đề anh không muốn nghĩ,

không muốn đối diện đều bày ra trước mặt. Vả lại, tất cả những vấn đề không thể giải thích

được, đều chỉ về cùng một hướng. Nói thực, tự trong đáy lòng tôi không hề muốn nghi ngờ

Mẫn Mẫn, cô ấy là một cô bé thuần khiết nhường ấy, nếu đúng cô ấy đã làm ra những chuyện

thế này, thì tôi quả thực quá thất vọng với nhân tính của con người rồi.”

“Ừm, nói cho ta nghe xem, có những vấn đề nào không thể giải thích được?” Đường Thọ lại

hỏi.

“Vẫn bắt đầu từ tên nội gián mà Merkin cài cắm kia, sau này tôi gặp Merkin, có hỏi y rốt

cuộc y đã gài những người nào vào đội ngũ của tôi. Merkin thừa nhận, có Ba Tang, và cả một

người khác nữa, chỉ là người này đã chết trong quá trình vượt Minh hà. Mà trước lúc chết, Ba

Tang đã nói với tôi, Merkin có tìm đến anh ta, nhưng sau lần từ rừng rậm châu Mỹ trở về, anh

ta không giúp Merkin làm bất cứ việc gì nữa. Tôi tin Ba Tang, trong tình cảnh đó, anh ta không

cần phải giấu giếm tôi điều gì nữa cả. Tên nội gián còn lại kia, đã chết trước khi đến Shangri-

la, vì vậy kẻ phát tín hiệu nhất định là người khác. Thêm nữa, Lữ Cánh Nam đã ra lệnh cho

Nhạc Dương phụ trách giám sát tất cả mọi người, khi không thể tìm ra người phát tín hiệu là ai,

cậu ta mới tự mình phát tín hiệu. Tôi biết rõ năng lực của Nhạc Dương, vì vậy sau này lại rà

soát thêm một lượt toàn bộ quá trình cho đến khi nhóm người nhảy dù đầu tiên xuất hiện. Thu

nhận tín hiệu, leo lên đỉnh núi tuyết đều cần thời gian, theo suy đoán của tôi, có lẽ người đó đã

phát tín hiệu lúc chúng tôi leo từ tầng bình đài thứ nhất lên tầng bình đài thứ hai. Nhưng lúc ấy,

toàn bộ nhóm chúng tôi đều đang ở trên một khung treo lắp tạm lơ lửng giữa lưng chừng vách

núi, muốn lắp đặt thiết bị phát tín hiệu trong hoàn cảnh đó mà không bị phát hiện là một việc

rất khó khăn.”

Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, nhìn thẳng vào Mẫn Mẫn, chậm rãi tiếp lời: “Thế

nhưng, tôi vẫn còn nhớ, hôm chúng tôi leo vách đá ấy, Mẫn Mẫn có đánh rơi một món đồ,

đánh rơi trước mặt tất cả mọi người, vì vậy không ai sinh lòng ngờ vực gì cả. Dù là vô tình hay

cố ý, đó cơ hồ là cơ hội duy nhất, đồng thời cũng nhạy bén nắm bắt được khoảng trống trong

suy nghĩ của chúng tôi, ai bảo rằng kích hoạt thiết bị phát tín hiệu nhất định phải lén lén lút lút

mới làm được chứ?” Mẫn Mẫn nãy giờ vẫn cúi gằm mặt, nước mắt lã chã tuôn rơi, không dám

ngước lên nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Âm mũi của Trác Mộc Cường Ba trở nên nghèn nghẹt, giọng gã hơi run run: “Đây chỉ là

một trong số các vấn đề. Ngoài ra còn một việc mà tôi mãi không hiểu được, đó chính là lúc

trước khi chúng tôi tiến vào địa cung Ahezt ở Maya. Giếng tế ở đó là một cái hang lớn đồ sộ

trên mặt đất, lúc đó chỉ có Mẫn Mẫn và giáo sư Phương Tân ở đấy. Tôi được kể lại rằng, Mẫn

Mẫn nghe thấy tiếng của tôi, liên đến đó tìm kiếm, bất cẩn rơi vào trong hang, nhưng cái hang

đó lớn như vậy, nổi bật như vậy, thậm chí tôi còn nghi ngờ thầy giáo của mình, có điều về sau

khi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, tôi đột nhiên nghĩ đến một kết quả đáng sợ… nếu Mẫn Mẫn

không rơi xuống cái hang đó, tôi cũng sẽ không nhảy xuống. Nếu chúng tôi không xuống, tất

cả những gì đã diễn ra trong địa cung cũng sẽ không xảy ra, chúng tôi sẽ không mở cửa đá cứu

được Vương Hựu, Soases cũng sẽ không phát hiện được tấm bản đồ bên trong cánh cửa đá ấy!

Nếu tất cả mọi chuyện ấy đều do Mẫn Mẫn gây ra…”

Tới đây, Trác Mộc Cường Ba không thể nói tiếp được nữa, Đường Thọ liền trả lời giúp gã:

“Không sai, là nó cố ý ngã xuống.”

Mẫn Mẫn càng cúi đầu thấp hơn nữa.

Trác Mộc Cường Ba, tiếp tục nói nhanh hơn: “Còn nữa, khi chúng tôi ở Đảo Huyền Không

tự, trong tế đàn Mạn Đà La cuối cùng, Merkin đã phát hiện ra một tấm bản đồ đó dưới đất.

Đồng thời, Merkin cũng chính miệng chứng thực, tấm bản đồ ấy do y phát hiện ra trong lúc

chiến đấu. Thế nhưng điều này hoàn toàn không phù hợp với những gì pháp sư Á La nói, bọn

họ đến tế đàn Mạn Đà La đó trước, vả lại mục đích chính cũng là để tìm kiếm, đương nhiên đã

lật tung từng tấc đất trong tế đàn lên rồi mới phải. Vậy mà họ lại không tìm được gì, đây cũng

là một điểm khiến tôi nghi hoặc, tấm bản đồ ấy rốt cuộc ở đâu ra?”

Đường Thọ trả lời: “Đúng thế, bản đồ là do Mẫn Mẫn mang theo, bỏ dưới đất.” Y vẫn giữ

nguyên nét mặt cười cười ấy, nhưng hoàn toàn không nhìn ra được dù chỉ một chút vẻ đắc ý

nào cả. Lúc này, y lại giống như một vị giáo sư trẻ đang giải đáp các thắc mắc cho sinh viên.

Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ một hỏi một

đáp, đều không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, có một số vấn đề ngay chính bản thân họ cũng

chưa từng nghĩ đến. Mấy câu hỏi đơn giản này, không ngờ đã phủ định toàn bộ những giả thiết

của họ trước đây.

Đúng lúc này, “đang…” một tiếng, sau đó là một tràng những tiếng “cách cách cách, cách

cách…” cái bệ hình chữ T bên dưới rốt cuộc cũng xoay tới trước mặt cả bọn, chầm chậm dừng

lại. Khi nó đến gần, họ mới nhận ra cái bệ này rộng hơn lúc nhìn từ xa khá nhiều, ở hai bên còn

có lan can chắn. Hơn chục người lần lượt bước lên trên, cái bệ phát ra tiếng ma sát nặng nề, bắt

đầu chầm chậm chuyển động xuống phía dưới.

Đứng ở một đầu bệ hình chữ T, Đường Thọ lại gần Trác Mộc Cường Ba nói: “Tiếp tục chủ

đề câu chuyện nào, đúng thế, ngươi phát hiện được rất nhiều điểm nghi vấn ở Mẫn Mẫn, có

điều từ những điểm đáng ngờ này đâu thể trực tiếp xâu chuỗi đến ta? Ngươi không nghi ngờ

Merkin sao?”

Trác Mộc Cường Ba cười gằn nói: “Như anh nói, thoạt đầu, quả thực tôi nghi ngờ Merkin,

bởi vì anh đã bố trí một màn kịch: hình như anh trai của Mẫn Mẫn, Đường Thọ, đã bị Merkin

bắt cóc khỏi bệnh viện. Mà trước sự kiện này, Merkin từng bắt cóc người điên ở Mông Hà, đã

có tiền lệ, y có bắt thêm anh nữa cũng không có gì là lạ. Merkin làm vậy, một là có thể moi từ

miệng anh một số thông tin về Shangri-la, hai là có thể lợi dụng anh để uy hiếp Mẫn Mẫn, buộc

cô ấy phải làm việc cho y. Chuyện này dường như rất hợp tình hợp lý. Thế nhưng, sau khi tôi

bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, màn kịch mà anh bố trí, lại khiến tôi phát hiện rất nhiều điểm bất

hợp lý khác.”

Đường Thọ lấy làm hứng thú: “Ừm, nói nghe xem nào.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ba người, người điên ở Mông Hà, Ba Tang, còn cả anh nữa, ba

người các anh đã đến nơi này, nếu như chân tướng sự thực chỉ có một, vậy thì lời nói của ba

người phải khớp nhau mới đúng. Nhưng vấn đề ở chỗ, trải nghiệm của anh, Ba Tang, và người

điên ở Mông Hà kia lại không giống nhau. Về sau chúng tôi biết được, người điên ở Mông Hà

có lẽ ra khỏi đây theo đường sông ngầm, vậy thì chỉ còn anh và Ba Tang, hai người chắc hẳn

đều đi đường núi tuyết. Nhưng như những gì Ba Tang nói và những gì chúng tôi đã trải qua,

con đường ấy cực kỳ khó khăn, muốn tiến lên một bước cũng gian nan vô cùng, dù đầy đủ

dưỡng khí thì cũng cần phải có thể năng vượt trên mức cực hạn của người bình thường. Nhưng

lúc đó, Mẫn Mẫn lại kể với chúng tôi là, anh lái xe việt dã phóng từ trong này ra! Vả lại, còn

chạy một mạch đến Khả Khả Tây Lý, chuyện này thật khó tin! Trước đây tôi luôn nghĩ rằng,

cách giải thích duy nhất chính là, vùng đất anh và Ba Tang nói đến, không phải là một. Nhưng

nếu thế, thì những sự việc khác lại không thể giải thích nổi. Hai đội viên đội khảo sát khoa học

Khả Khả Tây Lý nhặt được cuốn nhật ký của anh, cuối cùng thi thể lại xuất hiện trên núi tuyết

mà chúng tôi đi qua; còn ở Khả Khả Tây Lý nơi anh bị lật xe, chúng tôi gặp phải ba anh em sói

xám, chúng chính là lũ sói sinh sống ở đây, chuyện này không phải trùng hợp. Như vậy thì

không thể giải thích được làm cách nào anh lái xe từ đây đến tận Khả Khả Tây Lý được.”

Nét mặt Đường Thọ dãn ra, chỉ nghe y nói: “Chuyện này xảy ra cũng hai ba năm rồi, người

vẫn còn nhớ sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu cách giải thích duy nhất không chính xác, vậy thì nhất định

còn cách giải thích khác. Tôi nhớ trước đây, có người từng hỏi tôi một vấn đề thế này: ba con

sâu róm, đầu đuôi nối nhau xếp thành hàng một bò về phía trước. Một con nói: ‘Trước mặt tôi

chẳng có con sâu róm nào hết’, một con khác lại nói, ‘Trước mặt tôi có hai con sâu róm’, con

cuối cùng cũng nói, ‘trước mặt tôi có hai con sâu róm’, hỏi thế là như thế nào? Đáp án của câu

hỏi này là, trong ba con sâu róm có một con nói dối! Tương tự như vậy, trong ba người điên

thoát ra khỏi Shangri-la, có một người nói không khớp với những gì hai người còn lại nói,

ngoại trừ lý do nơi anh ta đi không phải là nơi hai người kia nói đến, thì còn một cách giải

thích khác, đó chính là trong ba người điên ấy, có một người … đang giả điên!”

Gương mặt Đường Thọ cuối cùng cũng hiện lên vẻ khen ngợi.

Trác Mộc Cường Ba nói tiếp: “Tôi lại nghĩ đến một chuyện nữa, chính là khi tôi và Mẫn

Mẫn đến bệnh viện tìm anh lần thứ hai, bác sĩ chủ trị của anh nói với chúng tôi, bệnh tình của

anh rất nặng, thuốc bình thường gần như không có tác dụng. Thực ra, nếu nghĩ theo một hướng

khác, giả sử anh không bị điên mà là một người khỏe mạnh, vậy thì những thứ thuốc kia cũng

chẳng có tác dụng gì với anh cả, thậm chí anh có uống thuốc hay không cũng rất đáng nghi.

Tôi không biết anh có mục đích và ý đồ gì, tóm lại, tất cả mọi chuyện xảy ra ở Khả Khả Tây

Lý, chẳng qua chỉ là một vở kịch mà anh tự đạo diễn, tự diễn xuất mà thôi…”

NGƯỜI QUYẾT SÁCH

.Đường Thọ cải chính: “Không, về điểm này thì ngươi nói sai rồi, lúc đó, đúng là ta đã lái xe

tới Khả Khả Tây Lý, chỉ có điều xe của ta đậu ngay phía trên lằn ranh có tuyết, ở độ cao hơn

bốn nghìn mét so với mực nước biển mà thôi. Vả lại lúc đó, đúng là ta đã làm một việc hết sức

điên cuồng, ta đã nghĩ cách dụ bắt được ba con sói ở đây. Đó chính là việc kích thích nhất

trong đời mà ta từng làm. Ngươi không thể tưởng tượng được ta làm thế nào để đưa chúng ra

ngoài núi tuyết đâu. Mang ba con sói ra khỏi nơi này không dễ hơn việc lái xe ra khỏi đây chút

nào. Hơn nữa, ta cũng không ngờ, lũ sói ấy lại đuổi ra tận bên ngoài núi tuyết, khiến ta suýt

nữa chết trong xe. Ta đã phải lái xe quần thảo với đàn sói suốt ba ngày ba đêm mới thoát được

đấy.”

Đường Thọ dường như vẫn còn rợn người khi nhớ lại tình hình lúc ấy: “Đó là một lũ chó

điên, ta chưa từng gặp loài dã thú nào đáng sợ hơn bọn chúng. Khác biệt lớn nhất giữa chúng

và các loại dã thú khác là ở chỗ, cách nghĩ và cách làm của chúng, đã gần giống với con người.

Ngươi có thể tưởng tượng, khi hơn vạn tên thợ săn tinh thông các loại kỹ xảo săn giết khác

nhau cầm theo vũ khí đuổi rát sau lưng ngươi, cảm giác sẽ như thế nào. Dưới sự săn đuổi của

chúng, tinh thần và ý chí của ngươi lúc nào cũng ở trong trạng thái căng thẳng cao độ, không

có cách nào nghỉ ngơi, cũng không thể ngủ được. Sang đến ngày thứ sáu, tinh thần ta bắt đầu

xuất hiện dấu hiệu muốn suy sụp, lại đúng lúc này, ba con sói kia cơ hồ muốn phá lồng chui ra.

Lúc ấy, ta chỉ còn lại hai bàn tay không, mọi vũ khí đều đã tiêu hao hết dọc đường, thể lực

cũng ở trong trạng thái hư nhược nhất. Không còn cách nào khác, ta đành bỏ xe, cố định bàn

đạp ga để nó tự động lao về phía trước. Hơn nữa, khi đội tuần tra núi phát hiện ra, đích thực là

ta đang bị hôn mê, chỉ có điều, trước khi ngươi gặp ta, ta đã hồi phục hoàn toàn rồi. Về điểm

này thì suy luận của ngươi đã sai, mọi việc xảy ra ở Khả Khả Tây Lý không phải do ta sắp xếp,

chính vì chúng thực sự xảy ra nên mới có nhiều sơ hở như vậy. Không thể giải thích ư, thật tức

cười, không ngờ ngươi lại tìm được điểm đột phá ở đó, nhất định ngươi vẫn còn chứng cớ

khác, phải không? Chỉ dựa vào những điểm vừa nói, ngươi tuyệt đối không thể đưa ra kết luận

chắc chắn được.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ chằm chằm: “Anh còn nhớ cuốn nhật ký của mình

không? Thứ đó cũng không nằm trong sắp xếp của anh, đúng vậy chứ? Vì vậy, trong đó mới

xuất hiện rất nhiều sơ hở.”

Đường Thọ lắc đầu: “Ta không nghĩ rằng trong cuốn nhật ký đó lại xuất hiện sơ hở, mỗi lần

ghi chép nhật ký, ta đều có biên tập lại.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi biết anh đã sữa chữa, anh biến hành động thám hiểm của một

nhóm người thành hành động của một mình anh. Anh cũng đã thay đổi tên và địa danh thám

hiểm, làm như vậy để giấu sự tồn tại của tổ chức các anh, đúng vậy không?”

Thấy gương mặt Đường Thọ thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp:

“Độc hành hiệp Đường Thọ, đây là biệt hiệu người ta đặt cho anh. Anh đã đi rất nhiều nơi, mạo

hiểm rất nhiều, nghe nói anh luôn đi một mình, không có ai hỗ trợ, sự thực thì sao, như vậy

cũng đồng nghĩa với việc, không ai biết rốt cuộc anh đã đi đâu, với ai, làm những việc gì.

Nhưng điều đầu tiên tôi biết về anh, không phải qua lời kể của Mẫn Mẫn, mà là qua cuốn nhật

ký của anh để lại. Nhờ có Trương Lập cực lực giới thiệu, tôi từng đọc đi đọc lại cuốn nhật ký

của anh rất nhiều lần, mỗi chương mỗi đoạn, mỗi chuyến du hành… ấn tượng sâu sắc nhất để

lại trong tôi chỉ có một, đó là anh rất mạnh… chẳng những vậy, cùng với thời gian, khi tôi nắm

được càng lúc càng nhiều tri thức về thám hiểm và chiến đấu, tôi lại phát hiện thêm, anh còn

mạnh hơn so với những gì tôi tưởng tượng rất nhiều. Từ lúc đó, tôi đã lờ mờ có cảm giác, e

rằng ngay cả pháp sư Á La cũng không phải là đối thủ của anh. Sau này, tôi nhớ lại, khi tôi vừa

gia nhập doanh trại huấn luyện, tiến sĩ Cổ từng nhắc đến anh như một người có tính sở hữu rất

cao, thứ gì cũng muốn chiếm đoạt làm của riêng. Như vậy có nghĩa là, tiến sĩ Cổ đánh giá cao

năng lực của anh, nhưng không xem trọng tư cách làm người của anh. Tiến sĩ Cổ là bậc trưởng

thượng mà ngay cả thầy giáo tôi cũng hết sức kính trọng, tôi hoàn toàn tin vào năng lực phán

đoán của ông ấy.”

Đường Thọ hừ khẽ một tiếng: “Ừm, vậy thì sao chứ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nhớ thời đi học, thầy giáo từng nói với chúng tôi, bất kể học

cái gì, trước tiên cần phải học làm người đã. Một con người đạo đức bại hoại, nếu hắn ta lại

càng thông minh, càng nắm bắt được nhiều tri thức, thì sự phá hoại gây ra cho xã hội sẽ càng

lớn. Chỉ xét riêng điểm này, tôi đã không thể không nảy sinh nghi ngờ với anh. Vả lại, trong

quá trình trao đổi với Merkin, tôi đã nhiều lần thăm dò gặng hỏi y, rất hiển nhiên, Merkin hoàn

toàn không biết gì về những hành vi của Mẫn Mẫn khiến tôi ngờ vực. Merkin cũng là kẻ bị bít

trong hũ nút mà thôi. Tôi không thể không nghĩ, nếu đúng là Mẫn Mẫn, thì rốt cuộc cô ấy làm

việc cho kẻ nào? Vì vậy, sự kiện Merkin bắt cóc Đường Thọ cũng rất đáng để xét lại. Mà khi

đó kẻ nhắc nhở Merkin rằng Mẫn Mẫn có một người anh trai đang ở trong bệnh viện, đồng thời

được y phái đi chấp hành nhiệm vụ bắt cóc không phải ai khác, mà chính là Max. Kẻ này từng

được Merkin tín nhiệm, nhưng cuối cùng lại phản bội y. Merkin cũng rất muốn biết, rốt cuộc là

ai có thể khiến cả Max lẫn Khafu cùng phản bội lại y. Y chỉ biết rằng, người ẩn mình đằng sau

toàn bộ sự kiện này rất mạnh, hơn nữa về cơ mưu lại chẳng thua kém y chút nào. Sự thực là,

trong khi trò chuyện, bản thân Merkin cũng từng nhắc đến, trong số những người mà y biết, e

rằng chỉ có đội trưởng của tiểu đội bọn y, Người quyết sách, mới có năng lực làm được những

việc ấy. Khi xâu chuỗi tất cả những điều này với nhau, cuối cùng tôi đã nghĩ đến một giả thiết

đáng sợ, Người quyết sách chính là Đường Thọ, Đường Thọ chính là Người quyết sách!”

Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt liếc nhìn Merkin. Y lúc này vẫn chưa hết chấn

động trước sự thực Đường Thọ chính là Người quyết sách. “Không đúng!” Đường Thọ chất

vấn: “Ta không cho rằng chỉ dựa vào mấy cuộc trò truyện với Merkin và Soares mà ngươi có

thể đi đến kết luận như vậy, ngươi tuyệt đối không phải loại người có trí tưởng tượng phong

phú. Vả lại, trước khi gặp Merkin và Soares, ngươi thậm chí còn không biết trên đời này tồn tại

một kẻ gọi là Người quyết sách!”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng thế, dựa vào những gì hai người họ miêu tả về Người

quyết sách, tôi chỉ có một ấn tượng mơ hồ rằng, đó là một người đàn ông gốc châu Á, trẻ tuổi,

mạnh mẽ, biệt hiệu trong tổ chức là Chồn. Các người mỗi lần hành động đều không để lộ tên

tuổi và thân phận thực sự, sau khi hành động kết thúc, lại tách ra trở về đất nước của mình. Chỉ

với những thông tin như thế, tất nhiên không thể đi đến bất cứ kết luận nào.” Nhìn vẻ mặt như

thể muốn hỏi “vậy ngươi làm sao biết được?” của Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba lại tiếp

tục: “Nhưng vẫn nhớ Sean chứ? Anh ta chắc hẳn cũng là một quân cờ khác của anh, đúng

không?”

Đường Thọ khe khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba trầm giọng nói: “Tôi vẫn luôn nghĩ rằng,

Sean là một vị quý tộc Anh quốc bác học đa tài, dù Cánh Nam và pháp sư Á La đều cho rằng

thân phận của Sean rất có vấn đề, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy, Sean là một người bạn đáng tin

cậy, cho đến khi anh ta bị anh giết chết.”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều nhìn sang phía Đường Thọ với ánh mắt ngạc nhiên.

Đường Thọ cũng thẳng thắn thừa nhận: “Đúng vậy, nhiệm vụ của hắn là dẫn dụ các ngươi

đến Bạch thành trong rừng rậm Nam Mỹ, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, hắn không nên xuất

hiện trước mặt các ngươi nữa. Lòng hiếu kỳ của hắn quá lớn, sớm muộn gì cũng phá hoại kế

hoạch của ta. Vì vậy, từ khi hắn tham gia vào kế hoạch này, định nghĩa của ta dành cho hắn

chính là… công cụ dùng một lần.”

“Công cụ! Các ngươi coi anh ta như một thứ công cụ thôi sao!” Trác Mộc Cường Ba không

thể kiềm chế được cơn giận, nhưng trong mắt Đường Thọ, gã chỉ thấy một sự bình thản đến lạ

thường, tựa như y đang hỏi ngược lại gã: “Chẳng lẽ không đúng sao? Các ngươi đều là công

cụ, chỉ thế mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba sực hiểu ra, không thể dùng lý lẽ của người bình thường để nói chuyện

với Đường Thọ được. Kẻ này coi mạng người như cỏ rác, tất cả mọi người ở đây đều bị y coi

như quân cờ để đùa bỡn trên lòng bàn tay, thế nhưng y lúc nào cũng tỏ ra nho nhã lịch sự.

Không hiểu tại sao, nhìn người trẻ tuổi này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba chợt dâng lên một

cảm giác lạnh lẽo. Nhưng Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều ở trong tay y, gã cũng đành nén

cơn giận, lạnh lùng nói: “Trước lúc chết, Sean có nói một câu mà chúng tôi không ai hiểu…

‘Po li si – mei ke – ku te….’”

Đường Thọ lập tức hiểu ra.

Trác Mộc Cường Ba tiếp tục nói: “Thoạt đầu tôi cũng không hiểu Sean rốt cuộc muốn nói

gì, tới khi gặp được Soares, biết được bọn họ là một nhóm trộm mộ kỳ quái, người đứng đầu

nhóm đó gọi là Người quyết sách! Khi ấy tôi mới liên hệ với tử trạng của Sean và đoán kỳ thực

lúc đó điều anh ta muốn nói là ‘Người quyết sách, cổ độc’(43). Kể từ thời điểm đó, tôi dần dần hiểu ra, sau lưng Merkin vẫn còn một kẻ gọi là Người quyết sách đang náu mình trong bóng

tối. Sean được Người quyết sách phái đến gia nhập nhóm chúng tôi, vậy thì Max và Khafu ở

bên cạnh Merkin, liệu có phải cũng vì kẻ này mà phản bội y? Mẫn Mẫn làm việc cho ai? Có

phải cũng liên quan đến Người quyết sách? Vậy thì Đường Thọ mất tích kia, một người Trung

Quốc rất mạnh, có quan hệ gì với Người quyết sách không? Tất cả các mắt xích được kết nối

lại. Bởi vậy, khi anh xuất hiện trước mặt tôi, tôi không còn nghi hoặc nữa. Toàn bộ sự việc này

là một âm mưu, tất cả mọi thứ đều được anh trù tính trước từ lâu. Chúng tôi chẳng qua chỉ là

những quân cờ trên bàn cờ của anh, dù có nỗ lực đến mấy, thực ra cũng vẫn từng bước, từng

bước đi về phía con đường anh đã bố trí sẵn mà thôi.”

Đường Thọ xoay người lại, chống hai tay lên lan can, nhướng mắt nhìn sang phía bên kia

thân tháp, lẩm bẩm nói: “Quả không hổ là Cường Ba thiếu gia, tư duy tinh tế cẩn mật lắm. Ta

vốn không thích xuất đầu lộ diện, mà thích ở một nơi không ai biết đến, lên kế hoạch kỹ càng

cho tất cả mọi việc. Lâu dần, những người trong tổ chức, đặc biệt là người trong tiểu đội của ta,

đúng thế, họ đã đặt cho ta một biệt hiệu mới, gọi là Người quyết sách, biệt hiệu thực sự của ta

lại chẳng có ai gọi nữa. Đúng thế, đối với ngươi, đây là một âm mưu, từ khi nhìn thấy tấm ảnh

đó, vận mệnh của ngươi đã bị ta sắp đặt rồi. Sau đó, mỗi một nơi ngươi đi, mỗi một việc ngươi

làm, đều là do ta mong muốn ngươi làm. Hình như ngươi còn rất nhiều vấn đề muốn hỏi ta thì

phải? Cứ hỏi đi. Ta sẽ giải đáp cho ngươi thỏa mãn.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Công ty của tôi phá sản như thế nào vậy?”

Đường Thọ ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghe gã nói tiếp: “Đồng Phương

Chính đã hợp tác với tôi nhiều năm, tôi khá hiểu về con người anh ta, anh ta không thể làm

được chuyện đó, nhất định là bị người khác cưỡng ép.”

Đường Thọ gật đầu: “Đúng thế, là do ta làm, có một số người là vậy đấy, không sống vì

mình, mà luôn hết mình nỗ lực vì thân thích, gia đình, con cái gì đó, ta dùng tính mạng của cả

họ nhà hắn uy hiếp, nên hắn buộc phải làm theo thôi.”

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Mục đích của anh là muốn cắt đứt mọi đường lui của tôi, buộc

tôi phải đến Shangri-la, tìm kiếm Tử kỳ lân và Bạc Ba La thần miếu, để rồi ngờ nghệch tự

nguyện mở ra cánh cửa không thể mở ấy cho anh, đúng không?”

Đường Thọ thừa nhận: “Đúng vậy, chỉ là ta không ngờ ông trời cũng giúp ta một tay, ngươi

lại trúng phải cổ độc, ngay cả khi công ty không bị phá sản, ngươi cũng phải đến đây.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi vẫn chưa hiểu, nếu anh chỉ cần huyết thống của chúng tôi,

với sức mạnh của anh và thế lực của tổ chức, chỉ cần bắt tôi và Merkin đưa tới đây là đủ rồi, hà

tất phải phiền phức như vậy, anh không sợ chúng tôi sẽ chết trên đường sao?”

Đường Thọ liếc nhìn pháp sư Á La, hỏi ngược lại: “Tại sao Mật tu giả do pháp sư Á La đại

diện chỉ phái đi một vị pháp sư có danh vị Cách quả? Tại sao bọn họ không phái hẳn một vị

Kham bố(44) đi?” Thấy Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ trầm tư, Đường Thọ lại tiếp lời: “Nói thực cho ngươi biết, ở nơi ngươi không thể biết được, có hai thế lực khổng lồ đang giao tranh quyết

liệt, tựa như hai cơn bão lớn cuộn vào nhau, mà ngươi chẳng qua vừa khéo ở trung tâm của

vòng xoáy ấy mà thôi. Mười ba kị sĩ bàn tròn quả thực rất mạnh, nhưng thế lực của Mật tu giả

cũng không hề yếu, để tranh giành những đầu mối dẫn đến Bạc Ba La thần miếu, bọn họ đã

tranh đấu không biết bao nhiêu lần rồi. Cuộc chiến giữa hai thế lực này, thậm chí còn bắt đầu

từ trước khi ngươi ra đời nữa kia. Cả hai bên đều hiểu rõ, chỉ cần thế lực cấp cao của bên mình

có động tĩnh, thì đối phương nhất định cũng xuất động theo, đến lúc đó, sự thể sẽ bị làm rình

rang lên, nói không chừng cả thế giới đều biết chuyện này mất. Mà bọn họ không thể biết

được, trên thế giới liệu có còn tổ chức nào đáng sợ hơn, lớn mạnh hơn, lại ẩn mình sâu hơn họ

nữa không, vì vậy, thái độ của song phương đối với sự kiện này đều giống nhau. Nhìn bề

ngoài, các ngươi chỉ là một nhóm nhỏ không đáng để mắt, nhỏ đến độ thậm chí không thể coi

là một đội ngũ nghiệp dư được, nhưng thực ra, các ngươi lại nắm được rất nhiều đầu mối mà

ngay cả các đội ngũ chuyên nghiệp nhất cũng không có. Đương nhiên, hầu hết những đầu mối

ấy là do những thế lực ở đằng sau kia lần lượt cung cấp cho các ngươi. Mục đích của song

phương như nhau, đều muốn dùng một quân tốt nhỏ bé để che trời vượt biển, nhân lúc tất cả

các thế lực khác chưa kịp chú ý, để các ngươi đến được Bạc Ba La thần miếu trước tiên.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhìn pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, rõ ràng, sự thực này đã

vượt quá sức tưởng tượng của gã. Đường Thọ nhìn pháp sư Á La với ánh mắt giễu cợt, thản

nhiên nói: “Ta nghĩ đám người trong Trưởng lão hội nhất định đang ngấm ngầm sung sướng

lắm đây, cuối cùng, cũng có một đội ngũ trong tay bọn họ thành công đặt chân đến Shangri-la,

trở thành nhóm người đầu tiên tiến vào Bạc Ba La thần miếu. Và sự thực thì, Mười ba kỵ sĩ

bàn tròn cũng hy vọng Mật tu giả nghĩ như thế, các ngươi có hiểu không?”

Thấy Trác Mộc Cường Ba vẫn đang nghĩ ngợi, Đường Thọ lại bổ sung thêm; “Thế lực cấp

cao của song phương đang ngấm ngầm giao chiến trong bóng tối, điều này ngươi không thể

biết được. Nếu như bắt cóc có thể giải quyết được vấn đề, ngươi cho rằng ngươi có thể sống

yên bình hơn bốn mươi năm trời như vậy sao? Không có những Mật tu giả âm thầm bảo vệ

ngươi và người nhà trong bóng tối, ngươi sớm đã mất tích bao nhiêu lần rồi. Vả lại, trò bắt cóc

này không phù hợp với quan niệm mỹ học của ta. Ta thích sắp đặt kế hoạch, để quân cờ như

ngươi làm theo ý ta, cái cảm giác thao túng vận mệnh của người khác, tất thảy đều nắm trong

lòng bàn tay ấy, loại người như ngươi không thể nào hiểu nổi đâu. Cách làm này đương nhiên

vẫn có hệ số nguy hiểm nhất định, nhưng xét cho cùng, ta cũng không phải Thượng đế, không

thể nào an bài số mệnh của người khác một cách tận thiện tận mỹ được. Trong toàn bộ quá

trình thực hiện kế hoạch, quả thực cũng có một số sự việc nằm ngoài ý muốn mà ta không thể

dự đoán, nhưng, xét về tổng thể, các ngươi vẫn đi theo tuyến đường mà ta đã vạch sẵn.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu như tất cả mọi thứ đều do anh sắp đặt, vậy thì, chuyến đi

Khả Khả Tây Lý là ý gì? Lúc đó, anh đã lệnh cho Mẫn Mẫn dẫn chúng tôi tới Khả Khả Tây Lý

ư?”

Đường Thọ nói: “Ta đã bảo rồi, ta không thể an bài mọi thứ một cách hoàn hảo, để đảm bảo

ngươi không chết trên đường, ta đành phải làm ngươi mạnh hơn lên. Ta muốn ngươi nhận ra sự

yếu kém của mình, nhận ra rằng ngươi cần phải được huấn luyện một cách chuyên nghiệp.

Đám người pháp sư Á La khảo nghiệm ngươi hết lần này đến lần khác, trên thực tế cũng chính

là ta đang khảo nghiệm ngươi hết lần này đến lần khác. Khả Khả Tây Lý chỉ là bước khởi đầu,

môi trường tự nhiên khắc nghiệt ở đó, chắc hẳn có thể khiến ngươi ý thức được điểm này, chỉ

là ta không ngờ được, các ngươi lại may mắn gặp được ba con súc sinh đã thoát khỏi tay ta

ấy.”

Cảm giác lạnh lẽo từ từ dâng lên trong lòng Trác Mộc Cường Ba, người trẻ tuổi bộ dạng

nho nhã thanh tú này, đang kể lại việc y khống chế và lợi dụng tất cả bọn gã với thái độ hờ

hững như không vậy. Tất cả mọi thứ đều do y một tay sắp đặt, bắt đầu từ tấm ảnh đó, rồi

chuyện gã quen với Mẫn Mẫn, đến Khả Khả Tây Lý, đến Maya, từ Cánh cửa Sinh mệnh đến

Đảo Huyền Không tự, cho đến lúc đặt chân tới Bạc Ba La thần miếu, tất cả đều do y sắp đặt!

Gã đột nhiên nghĩ đến một việc càng đáng sợ hơn, sau một thoáng do dự, rốt cuộc cũng cất

tiếng hỏi: “Vợ tôi, Anh, có phải…”

Đường Thọ vẫn đáp bằng một giọng bình thản: “Là do ta làm, nếu không khiến người đàn

bà ấy rời bỏ ngươi, ta làm sao có thể sắp xếp cho Mẫn Mẫn tiếp cận ngươi được? Cho dù tiếp

cận được ngươi rồi, nó làm sao có thể nhanh chóng nắm được trái tim ngươi chứ?” Giọng

Đường Thọ không cao cũng không thấp, tựa như đang kể lại một chuyện hoàn toàn không liên

quan đến y vậy. Trong đầu Trác Mộc Cường Ba nổ “ầm” một tiếng, chỉ nghe Đường Thọ tiếp

tục nói: “Ta đại khái mất khoảng hai ba năm quan sát và nghiên cứu ngươi, từ việc ăn ở đi lại,

đến cuộc sống gia đình, môi trường làm việc và thái độ xử sự, thậm chí chỉ từ một động tác

nhỏ của ngươi, ta cũng có thể biết được trong lòng ngươi lúc đó đang nghĩ gì.”

Toàn thân Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật, gã run rẩy chỉ tay vào mặt Đường Thọ nói:

“Mày … mày…” Tên Đường Thọ thực chẳng khác nào một con ác quỷ, Trác Mộc Cường Ba

chưa bao giờ tưởng tưởng nổi, kẻ này lại ngấm ngầm quan sát gã suốt hai ba năm trời mà gã

hoàn toàn không hay biết. Chuyện này, chỉ nghĩ thôi cũng khiến người ta thấy kinh hoàng rồi.

Đường Thọ vẫn đang tiếp tục nói: “Không chỉ quan sát ngươi, ta còn quan sát cả gia đình

ngươi nữa, quan sát mỗi một người trong gia đình ngươi. Có thể nói thế này, ta hiểu ngươi, và

hiểu người nhà của ngươi còn hơn chính bản thân ngươi nữa. Ta biết con gái ngươi có nụ hôn

đầu tiên lúc nào, ở đâu, với ai, ta biết nó giấu thư tình ở nơi nào trong nhà, ta biết mã số mở

cuốn nhật ký của nó là bao nhiêu… những thứ này, kẻ làm cha như ngươi không thể nào biết

được. Còn về vợ ngươi…” Đường Thọ cố ý dừng lại, nhìn vẻ mặt Trác Mộc Cường Ba. Lúc

này, sắc đỏ đã dần lan khắp cổ gã. Sắc mặt Đường Thọ vẫn thản nhiên như không, y lại tiếp

lời: “Thời gian ngươi ở nhà không bằng một nửa thời gian ở công ty, ngươi chẳng những

không để ý đến những việc nhà vừa vụn vặt vừa phức tạp, lại càng không chú ý đến tâm trạng

của vợ mình, không biết thế nào là lãng mạn. Cuộc sống gia đình của ngươi nhạt nhẽo như một

cốc nước lọc, khác một trời một vực với những thành công trong sự nghiệp mà ngươi đạt được.

Ngươi có biết, bao lâu rồi vợ chồng ngươi không gần gũi nhau không? Không nhớ chứ gì, ta đã

làm thống kê hộ ngươi rồi, kết quả… thực sự là khiến người ta không nỡ nói ra. Vợ ngươi mỗi

ngày đều làm việc nhà, trông nom con gái học hành, còn ngươi căn bản không hề để ý đến họ.

Ngươi không biết một người đàn bà như thế, rốt cuộc cần gì, muốn gì? Thành thử chuyện này

cũng không tốn của ta nhiều công sức lắm, chỉ cần tìm một con bạc đã thua sạch ở Las Vegas,

biến hắn thành một người trẻ tuổi thành công trong sự nghiệp, rồi sắp đặt một cuộc gặp gỡ lãng

mạn… với sự xuất hiện của một người đàn ông lão luyện, lại hiểu rõ lòng dạ đàn bà hơn ngươi,

ta chỉ cần tạo ra một số mâu thuẫn gia đình nữa, vậy là mọi thứ đều thuận lý thành chương…”

Sự nhẫn nại của Trác Mộc Cường Ba đã đến cực hạn, sắc đỏ phẫn nộ đã tràn qua cổ gã, lan

dần lên trên như thể chiếc cặp nhiệt độ bị tăng nhiệt. Đúng vào khoảng khắc Trác Mộc Cường

Ba không kiềm chế nổi, chuẩn bị xuất thủ, Merkin đột nhiên nhảy chồm tới, ôm chặt lấy gã.

Trác Mộc Cường Ba vung mạnh cánh tay, suýt chút nữa hất văng Merkin ra khỏi bệ hình chữ T

đang chuyển động. Lúc này, Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn cùng lúc kêu lên:

“Đừng, Cường Ba!”

“Bình tĩnh!”

“Đừng, đừng!”

ĐỀU DO TA LÀM CẢ

.Bao gồm cả Merkin, mỗi người ở đây đều biết tên Đường Thọ này đáng sợ đến mức nào.

Người trẻ tuổi nhìn bề ngoài có vẻ gầy gò yếu đuối này sở hữu sức mạnh của ác quỷ cùng một

trí tuệ tà ác khôn cùng, vì vậy họ đều không hẹn mà cùng lúc lựa chọn cách ngăn Trác Mộc

Cường Ba lại.

Đường Thọ như không nhìn thấy, vẫn bình tĩnh kể lại câu chuyện tựa hồ không liên quan gì

đến y kia: “Trên thực tế, có lẽ ngươi cũng đã cảm nhận được phần nào rồi, phải vậy không?

Mẫn mẫn gần như sinh ra để dành cho ngươi, hai người phối hợp hết sức ăn ý, suy nghĩ cũng

giống nhau… sở dĩ nó hiểu ngươi như vậy, đều là do ta huấn luyện cả đấy, từ ngữ khí lúc nói

chuyện, rồi đến ngôn ngữ cơ thể và nhiều thứ khác nữa. Trước khi nó gặp ngươi, ta đã buộc nó

phải học thuộc mọi thứ về ngươi: ngươi thích màu sắc gì, thích ăn món gì, có thói quen gì,

những nơi ngươi thích đi, những chi tiết nhỏ mà ngươi dễ dàng bỏ qua trong cuộc sống… nói

nó là thứ hàng được đặt làm riêng cho một mình ngươi cũng không ngoa chút nào.”

Trác Mộc Cường Ba như con mãnh thú xổng chuồng, mấy lần muốn bổ nhào về phía Đường

Thọ nhưng đều bị Merkin ghìm chặt lại. Xét về sức mạnh, hai người bọn họ gần như tương

đương nhau, Trác Mộc Cường Ba tức giận gầm lên: “Mày đắc ý lắm hả! Hả? Mày là đồ khốn!

Chỉ vì ngôi miếu rách nát này, mày đã hại tao phải tan cửa nát nhà! Đường Thọ! Tao phải giết

mày! Khốn kiếp, bỏ tôi ra, còn kéo nữa tôi giết luôn cả ông đây, Merkin!”

“Đắc ý ư? Không hề.” Quả thực, thần thái Đường Thọ không có vẻ gì là đắc ý, y thản nhiên

nói: “Ngươi đi trên đường trông thấy một đàn kiến đang bò, ngươi mới dùng một cành cây

chắn ngang đường của chúng, khiến lũ kiến phải men theo con đường mới do ngươi vạch ra,

khi ấy ngươi có cảm thấy đắc ý không? Trong rất nhiều kế hoạch mà ta đã vạch ra, việc này

cũng không được coi là phức tạp lắm.” Y chỉ tay vào đầu mình, nói: “Cái này, được gọi là trí

tuệ đấy!”

Đường Thọ nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang quan sát một động vật trong

phòng thí nghiệm, không ngừng trêu chọc nó, xem nó phản ứng thế nào. Y lẩm bẩm nói: “Xem

ra ngươi đã hỏi xong rồi, ngươi đã nghĩ ra một số điểm nghi vấn, có điều vẫn còn một số điểm

khác ngươi chưa nghĩ đến, ta có thể nói cho ngươi mấy việc nữa. Ngươi vẫn còn nhớ chứ, sau

khi từ Khả Khả Tây Lý trở về Tây Tạng, ngươi liền nhận được lời mời gia nhập đội khảo sát

của nhà nước, đó chẳng phải là một kỳ tích hay sao? Ngươi có biết tại sao khi ngươi mong mỏi

được huấn luyện để mình trở nên mạnh mẽ hơn, lại trùng hợp đúng lúc nhà nước muốn thành

lập một đoàn thám hiểm, đồng thời chấp nhận những kẻ nghiệp dư như các ngươi hay không?”

Không đợi Trác Mộc Cường Ba nói gì, Đường Thọ đã tiếp lời: “Đó là vì, nhà nước mua được

một đầu mối quan trọng trong một cuộc đấu giá ở nước ngoài, nửa quyển Cổ Cách kim thư, có

được đầu mối này, nhà nước Trung Quốc mới quyết định tổ chức một đội cảm tử tiên phong,

cũng chính là các ngươi! Nửa quyển Cổ Cách kim thư đó, cũng là do ta ủy thác cho hãng đấu

giá bán ra, chỉ cần nghiên cứu quyển sách cổ này, ắt sẽ phát hiện ra bí mật của Bạch thành ở

Maya, vì vậy các ngươi nhất định sẽ đến châu Mỹ. Đây cũng là một bước mà ta đã xác định

cho các ngươi ngay từ đầu.”

Đường Thọ ngẫm nghĩ giây lát, dường như nhớ ra một chuyện rất tức cười, lại nói: “Phải

chăng, có một khoảng thời gian ngươi luôn cảm thấy đầu óc nặng nề trì độn, cảm giác… trí

nhớ giảm sút rất nhiều, hơn nữa, tư duy cũng không được rõ ràng sáng suốt như hiện giờ mà cứ

mơ mơ hồ hồ, các dòng suy nghĩ cứ rối lên như mớ bòng bong?”

Cơn giận của Trác Mộc Cường Ba đã dần dần bị nén xuống, thay vào đó là cảm giác lạnh

lẽo tỏa ra từ sâu thẳm nội tâm. Đường Thọ nói không sai, trong quá trình tìm kiếm Tử kỳ lân,

có một khoảng thời gian dài, trí nhớ của gã giảm sút một cách tệ hại. Gã vẫn luôn nghĩ rằng, đó

là do tuổi tác và việc thay đổi thói quen sinh hoạt gây ra, nhưng giờ đây… gã nhìn chằm chằm

vào Đường Thọ. Đường Thọ chập hai ngón tay trỏ vào nhau, chỉ về phía Trác Mộc Cường Ba,

mỉm cười gật đầu nói: “Đúng thế! Cũng là ta làm, ta đã bỏ thuốc cho ngươi, Mẫn Mẫn chính là

vật truyền nhiễm, ngươi càng gần gũi với nó, trí nhớ, khả năng phán đoán, khả năng phân tích

logic của ngươi sẽ càng giảm sút. Ta từng ở trong bệnh viện tâm thần Andrea một thời gian

dài, vậy nên mới nói, khoa học kỹ thuật hiện nay thật là phát triển, thuốc gì người ta cũng chế

tạo ra được. Đây chính là sức mạnh của trí tuệ đó.”

Trí tuệ? Trác Mộc Cường Ba thấy chỉ thấy rợn hết cả người, thật đáng sợ, tên Đường Thọ

này thật quá đáng sợ. Đây chính là cái gọi là trí tuệ của nhân loại đó sao? Khi nó được dùng

vào âm mưu và phá hoại, lại đáng sợ đến nhường này hay sao?

“Tại sao?” Trong họng Trác Mộc Cường Ba phát ra tiếng gầm gừ trầm đục.

Đường Thọ cười khẩy: “Tại sao? Khục khục, dù sao ta cũng đã quan sát ngươi suốt một thời

gian dài, năng lực và trí tuệ của ngươi như thế nào, ta đều biết rất rõ. Mà trong tiểu đội của ta,

Merkin lại là kẻ có trí lực chỉ thua có mình ta mà thôi. Hai người các ngươi được phân cho hai

vai đối nghịch nhau trong vở kịch, nhưng cũng không thể tránh khỏi việc song phương có tiếp

xúc, ta không mong muốn hai người đàn ông trí tuệ trác tuyệt lại dũng cảm quyết đoán như các

ngươi chỉ tiếp xúc có vài ba lượt là đã có thể nhận ra được sự sắp đặt của ta. Vì vậy, người

thông minh, chỉ cần để lại một tên là đủ rồi.”

Đường Thọ nhìn xuống bên dưới, đoạn ngoảnh đầu lại nói tiếp: “Vẫn còn một chút thời gian

nữa, nhìn bộ dạng kẻ nào kẻ ấy ù ù cạc cạc của các ngươi thật phát chán lên được, để ta nói

một cách đơn giản cho các ngươi biết vậy. Toàn bộ kế hoạch này bắt đầu từ tám năm trước…,

à không, đã chín năm rồi, kế hoạch của ta, đã được vạch ra đồng thời thực thi từ chín năm

trước. Năm xưa, Morgan Stanley lấy được nửa quyển Cổ Cách kim thư ở Cổ Cách, nhưng sau

khi danh xưng Bạc Ba La thần miếu từ miệng ông ta lan truyền đi, nửa quyển kim thư ấy đã

qua tay rất nhiều thế lực lớn có ý đồ tìm kiếm tòa thần miếu này. Cuối cùng, nó lọt vào tay

Mười ba kỵ sẽ bàn tròn. Nhưng rất đáng tiếc, các ngươi cũng biết đấy, gần như không có ai

hiểu được văn tự trên cuốn kim thư, vả lại có rất nhiều nội dung trong sách cũng cần có những

tư liệu khác để khảo chứng. Vì vậy, sau khi có được Cổ Cách kim thư, Mười ta kỵ sĩ bàn tròn

đã liên tiếp phái các tiểu đội đến Tây Tạng, đồng thời nhiều lần giao phong với Mật tu giả.

Mục đích của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn lúc đó chỉ là tìm được thêm nhiều tư liệu nữa mà thôi. Tại

thời điểm đó, bọn họ không giống như các ngươi, không có tổ chuyên gia nghiên cứu về Tây

Tạng, không có nhiều tư liệu để khảo chứng, tất cả đều phải lần mò từng bước một. Họ lần mò

tìm kiếm như vậy suốt mấy chục năm, cuối cùng, vào chín năm trước, Cổ Cách kim thư đã

được dịch ra. Ta nhận được một nhiệm vụ tuyệt mật, dẫn tiểu đội của mình đến rừng rậm

Amazon, tìm kiếm thần miếu chưa từng được phát hiện của người Maya, cũng chính là địa

cung Ahezt. Đồng thời, còn một mệnh lệnh khác nữa, chính là yêu cầu ta tìm mọi cách lợi

dụng các cơ quan cạm bẫy trong địa cung và những bộ lạc thổ dân trong rừng rậm, làm giảm số

lượng thành viên của tiểu đội xuống mức thấp nhất.”

Nói tới đây, Đường Thọ liếc mắt sang phía Merkin, giọng điệu toát lên vẻ thương hại: “Bấy

giờ, tổ chức đã chuẩn bị rút vào trong bóng tối rồi, một tiểu đội không còn đủ nhân số cho các

vị trí quan trọng thì chẳng khác nào người tàn phế, chẳng những vậy, các thành viên còn lại

cũng phải phân tán đi khắp thế giới. Như thế, có thể đảm bảo nó không bị các thế lực và tổ

chức khác chú ý đến. Vì vậy, ta và Merkin đã biến mất khỏi tầm nhìn của những thế lực khác,

đồng thời cũng biến mất trước mắt những tiểu đội khác trong nội bộ tổ chức. Trong địa cung

Ahezt, những thành viên khác phụ trách tìm kiếm báu vật, còn ta thì chỉ lo tìm Tòa thành được

ánh sáng tỏa chiếu. Đáng tiếc là, lịch sử đã quá lâu đời, chúng ta không thể thu thập được toàn

bộ chìa khóa, nên không thể mở được cánh cửa cuối cùng. Có điều, vào thời điểm đó, những

nét sơ khởi của một kế hoạch đã hình thành trong đầu ta rồi.”

Đường Thọ lại hướng ánh mắt sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Ta biết ngươi từ rất lâu rồi,

Cường Ba thiếu gia, còn sớm hơn thời điểm ngươi nghĩ nhiều. Vả lại, ta vẫn luôn có chút đố kỵ

với ngươi, cùng có thân phận là hậu duệ của Vu vương, nhưng ngươi và gia tộc của mình lại

được Mật tu giả âm thầm bảo hộ một cách nghiêm mật. Mỗi nam đinh trong gia tộc, từ lúc sinh

ra trên đời đã được hưởng thụ đãi ngộ cao quý, có kẻ sống gửi, bao nhiêu kẻ nằm mơ cũng

mong được sở hữu thân phận này đấy. Còn ta và Merkin, chúng ta cũng là hậu duệ của Vu

vương, nhưng lại bị… ruồng rẫy, thậm chí còn ở trong phe cánh hoàn toàn đối lập với các

người nữa. Vì vậy, ta đã lợi dụng chuyến đi đến địa cung Maya lần đó để sắp đặt nước cờ đầu

tiên của mình. Ta không tìm thấy Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng ta đã phát hiện ra

tấm bản đồ đó bên trong quan tài, chính là tấm bản đồ chỉ hướng đến Mặc Thoát đó. Ta đã âm

thầm giấu nó đi, sau đó lợi dụng cơ quan cạm bẫy trong địa cung làm theo chỉ lệnh của tổ chức,

lần lượt giết chết các thành viên trong đội, thậm chí ta còn làm triệt để hơn những gì tổ chức

yêu cầu. Merkin, ngươi có biết, ta chỉ định giữ lại một mình ngươi thôi không? Soares đúng là

một tên may mắn, khi hắn và ngươi cùng thoát ra khỏi địa cung, đến ta cũng thấy hơi ngạc

nhiên nữa. Vì vậy, sau nhiệm vụ thất bại lần đó, tiểu đội của ta cũng hoàn toàn xong đời, tổ

chức biểu thị sự thất vọng và tiếc nuối đối với ta, nhưng bọn chúng không biết, kế hoạch của ta

chỉ vừa mới bắt đầu. Sau này, ta lại một mình đến địa cung đó lần nữa, trả tấm bản đồ đã

nghiên cứu xong xuôi vào chỗ khe cửa, đồng thời nghiên cứu lại một lượt toàn bộ cơ quan

trong địa cung. Cuối cùng, ta phát hiện ra phiến đá lỏng lẻo thông đến giếng tế kia, thứ này

khiến kế hoạch của ta càng thêm hoàn thiện. Sau khi rời khỏi địa cung, ta cũng bắt đầu tìm

kiếm, bộ tộc Kukuer có một chiếc chìa khóa, điều này ta đã biết từ lâu, chẳng qua lúc đó kẻ ta

phái đi lấy chìa khóa lại thất bại. Nhưng vẫn còn một chiếc chìa khóa nữa đang biệt tăm biệt

tích, nếu không có chìa khóa mở ra cánh cửa cuối cùng, kế hoạch của ta sẽ bị ảnh hưởng đáng

kể. Trong mấy năm đó, ta đã lần theo nhiều manh mối khác nhau, đi khắp thế giới, cuối cùng ta

cũng tìm được, chẳng những vậy, còn phát hiện ra một thứ khác nữa.”

Nói đoạn, Đường Thọ liếc ánh mắt sang phía Đường Mẫn đầy ý vị, Mẫn Mẫn đau khổ cúi

gằm mặt xuống, chỉ có cô mới biết, Đường Thọ đang nói đến thứ gì.

Đường Thọ tiếp tục nói: “Sau khi tìm được chìa khóa, ta liền bắt tay vào việc quan sát ngươi

và thủ hạ của ta, Merkin, nghiên cứu đặc điểm tính cách và các thói quen của các ngươi, đồng

thời soạn riêng cho mỗi người một kịch bản đặc biệt. Các ngươi được huấn luyện như thế nào

vào thời điểm nào, đạt đến trình độ nào thì sẽ đi đâu… Tất cả những điều ấy đều được ta vạch

sẵn từ trước khi các ngươi xuất phát hai ba năm rồi. Đây chính là số mệnh của các ngươi, các

ngươi không thể thoát ra khỏi cái vòng đó đâu.”

Đường Thọ quét ánh mắt nhìn lướt qua gương mặt mọi người, nói: “Lạ thật, sao đều nhìn ta

với ánh mắt đó vậy? Ừm, phải rồi, nhất định các ngươi đều lấy làm lạ, tại sao từ thời điểm đó,

ta đã có suy nghĩ và những sắp xếp như vậy, đúng không? Vậy để ta nói cho các ngươi một bí

mật nhỏ. Ta là tồn tại duy nhất trên thế gian này biết được chân tướng sự thật, ngay cả những

nhân vật cấp cao trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng không thể biết được nhiều như ta.

Bởi xét cho cùng ta cũng là hậu duệ của Vu vương, đồng thời, là một trong những người đặt

chân đến nơi này trước các ngươi. Tấm bản đồ dẫn đến núi tuyết của Morgan Stanley vẫn luôn

nằm trong tay ta, cũng chính là tấm bản đồ mà sau này ta bảo Mẫn Mẫn mang đi, bỏ vào Đảo

Huyền Không tự cho các ngươi phát hiện đấy. Cách đây rất lâu, chúng ta từng lên núi tuyết Tư

Tất Kiệt Mạc đó thăm dò. Kết quả, cũng giống như những kẻ thăm dò có tấm bản đồ ấy trước

chúng ta; và cũng giống như các ngươi, chúng ta bị lạc trong màn sương mù dày đặc và gió lốc

cuồng loạn trên đỉnh núi, căn bản không tìm được phương hướng chính xác. Lúc ấy, tất cả đều

cho rằng, tấm bản đồ mà Morgan Stanley tìm được ấy là một thứ ngụy tạo của người xưa, chỉ

có thể đưa người ta đến với vòng tay của thần Chết mà thôi. Duy chỉ có mình ta không nghĩ

như vậy, vì trong tay ta còn nắm được nhiều thông tin khác. Sự xuất hiện của bọn Ba Tang

chính là bước ngoặt của sự việc. Có thể nói, bọn chúng là những kẻ duy nhất đến được

Shangri-la, đồng thời sống sót trở về trong suốt hơn một nghìn năm nay. Cuối cùng, tuy rằng

bọn chúng đã chết gần hết, nhưng những kẻ sống sót thực ra không chỉ có Ba Tang và Tây Mễ.

Ta thực sự rất may mắn, lại gặp được một trong số những kẻ đó. Thời điểm ta gặp hắn, thậm

chí còn trước cả chuyến đi địa cung Ahezt. Mặc dù, tinh thần những kẻ sống sót này đều bị

kích thích ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng ta vẫn có cách khiến hắn nhớ lại những sự việc

chính bản thân hắn cũng không muốn hồi tưởng. Nhờ những gì hắn nói, ta có thể xác định

được phạm vi đại khái, rồi so sánh lại với tấm bản đồ của Morgan Stanley, vậy là tuyến đường

từ núi tuyết đến Shangri-la đã trở nên rõ ràng. Chỉ là hành vi của bọn chúng đã chọc giận bầy

sói, nên ta đành phải đợi, tính ra đến khi bọn chúng rời khỏi đó khoảng mười mấy năm, đàn sói

đã hoàn toàn chuyển giao thế hệ, ta mới thực hiện chuyến tìm kiếm đầu tiên vào ba năm

trước.”

Nói tới đây, Đường Thọ khẽ thở dài một tiếng: “Thật đáng tiếc, ta lại không thể vượt qua

được phòng tuyến của lũ sói này. Bọn sói ở đây thực sự quá giảo hoạt, thuật thao thú của ta

không ngờ lại chẳng mấy hiệu quả với chúng, đến nỗi ta cũng không thể không nảy sinh ý định

rút lui. Lúc đó ta nghĩ, bắt mấy con trở về, cẩn thận nghiên cứu đặc tính sinh vật của chúng,

chuẩn bị tốt rồi mới trở lại, nào ngờ bị chúng truy đuổi ráo riết như thế, rốt cuộc ba con sói bắt

được cũng chạy mất tiêu. Có điều, chuyến đi lần ấy không thể nói là hoàn toàn không có thu

hoạch, ít nhất cũng có hai điều. Thứ nhất, ta phát hiện ra thủ lĩnh của lũ sói, có lẽ là một loại

động vật gọi là ngao, ta biết ngươi rất hứng thú với loại động vật này, đây chính là cơ hội tốt

trời ban; thu hoạch thứ hai chính là, dựa theo tấm bản đồ tìm thấy trong địa cung Ahezt, trước

khi lên núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, ta đã tìm được thôn Công Bố. Ta phát hiện đây chính là nơi

Morgan Stanley từng đi qua, nhưng cũng không làm kinh động đến người dân của thôn làng

này. Ở đây, ta may mắn gặp được một tên điên khác, liền dẫn hắn rời khỏi thôn, sắp xếp cho

hắn ở Mông Hà, làm quân cờ đầu tiên. Lúc đó, những công việc chuẩn bị khác cũng đã hoàn

tất, vì vậy, ta quyết định bắt đầu kế hoạch.”

Đường Thọ cố ý ngừng lại, tất cả mọi người đều đang im lặng lắng nghe y kể chuyện. Y

dường như lấy làm thỏa mãn với hiệu quả đó, lúc này, bệ hình chữ T cũng sắp xoay chuyển

xuống phần đáy tháp, Đường Thọ liền tăng tốc nói nhanh hơn: “Đầu tiên, ta sắp xếp cho ngươi

và Merkin gặp mặt. Lần đó, ta không nhằm vào ngươi, mà chủ yếu là Merkin. Merkin là kẻ cực

kỳ đa nghi, có lần gặp mặt đầu tiên đó, khi các ngươi gặp mặt lần thứ hai, hắn sẽ nghĩ rất

nhiều, suy tính rất nhiều, chính vì vậy hắn không dám tiếp xúc với ngươi một cách quang minh

chính đại, mà sẽ áp dụng một số cách thức hắn quen dùng, chẳng hạn như âm thầm điều tra, cài

cắm nội gián… Tiếp sau đó, ta bắt đầu chia rẽ gia đình ngươi, để vợ ngươi, con ngươi bỏ ngươi

mà đi, làm bước chuẩn bị cho Mẫn Mẫn xuất hiện. Mà tính cách cũng như phản ứng sau khi ly

hôn của ngươi, cũng không khác dự liệu của ta là mấy, ngươi càng lao đầu vào công việc như

kẻ điên khùng, muốn dùng công việc để trốn tránh hoặc làm tê liệt cuộc sống cá nhân. Khi

ngươi ở Mỹ tổ chức một cuộc triển lãm chó ngao quy mô lớn, ta cho rằng thời cơ chín muồi, vì

vậy, Mẫn Mẫn mới mang theo những tấm ảnh đó xuất hiện bên cạnh ngươi. Cùng lúc đó, một

việc khác của ta cũng tiến hành rất thuận lợi. Ta đã bán đấu giá được nửa quyển Cổ Cách kim

thư, đưa nó trở về tay chính phủ Trung Quốc. Đồng thời, kẻ thất bại trong cuộc đấu giá ấy

chính là Merkin. Với tính cách của hắn, nhất định sẽ không chịu buông bỏ, hắn sẽ theo đuổi

nửa cuốn kỳ thư đó đến cùng, tra đến tận Tây Tạng. Mà ở Tây Tạng, ta đã bố trí cho Merkin

một kịch bản khác, hắn sẽ tình cờ phát hiện ra một tấm huy chương của Đạo quân Ánh sáng,

lần theo nguồn gốc của tấm huy chương đó, cuối cùng đầu mối sẽ chỉ về phía tên điên ở Mông

Hà. Lúc này, ngươi cũng sẽ dò theo đầu mối từ bức ảnh và những lời ta nói, đi tìm tên điên ấy.

Đây là lần đầu tiên các ngươi tiếp xúc, Merkin trong bóng tối, còn ngươi ở ngoài sáng. Đúng

như ta nghĩ, Merkin bắt đầu điều tra thân phận và gia đình ngươi, ngấm ngầm theo dõi, xem rốt

cuộc ngươi đang điều tra cái gì. Sau đó, hắn lại theo các ngươi đến nhà giam ở Lhasa, thuyết

phục Ba Tang làm kẻ nằm vùng đầu tiên của hắn. Mà lúc này, Mẫn Mẫn lại dẫn ngươi đi Khả

Khả Tây Lý, đó cũng là lần thử thách đầu tiên trên con đường thám hiểm của ngươi. Còn

Merkin lại cho rằng các ngươi đã phát hiện ra đầu mối quan trọng gì, liền không chút do dự

đuổi theo. Vả lại, lúc đó hắn cũng từ chỗ Ba Tang biết được sự tồn tại của Tây Mễ, bởi vậy,

hắn đi Khả Khả Tây Lý có hai mục đích. Một là theo dõi ngươi, nếu có cơ hội, sẽ trực tiếp bắt

cóc ngươi, moi thêm thông tin về Bạc Ba La thần miếu. Nếu lúc đó ngươi bị hắn bắt được thì

thật không hay chút nào, bởi khi ấy, ngươi vẫn chưa biết gì cả. Mục đích thứ hai của Merkin

chính là, hắn cũng muốn tìm gặp Tây Mễ, muốn có thêm nhiều thông tin hơn nữa về tuyến

đường trên núi tuyết. Tuy hắn đã hứa với Ba Tang là sẽ dẫn Tây Mễ đến trước mặt Ba Tang,

mặc cho y xử trí, nhưng cuối cùng, hắn lại thu nhận Tây Mễ vào dưới trướng hòng lợi dụng tất

cả những nguồn tài nguyên có thể lợi dụng được. Về điểm này thì hắn rất giống ta.”

Lúc này, bỗng nghe “cách” một tiếng, bệ hình chữ T đã dừng lại, đoạn nằm ngang áp sát

vào cầu thang hình xoắn ốc đi xuống phía dưới trên thân tháp. Đường Thọ là người đầu tiên

bước xuống, ngoảnh đầu lại nói: “Những chuyện tiếp sau đấy, các ngươi đều đích thân trải

nghiệm rồi, song phương cứ đấu qua đấu lại, tính kế lẫn nhau, về cơ bản cũng dựa trên kịch

bản của ta lập ra. Kỳ thực, theo kế hoạch ban đầu, sau khi có được tấm bản đồ của Morgan

stanley để lại, các ngươi đã có thể trực tiếp đi theo con đường trên núi tuyết đến Shangri-la rồi.

Merkin và bọn lính đánh thuê của hắn cũng bám sát theo các ngươi. Chỉ có điều, không ngờ

đến cuối cùng Ba Tang vẫn không nhớ ra được, mà bọn các ngươi cầm bản đồ cũng giống như

chúng ta năm đó, vừa lên núi liền lạc đường. Cũng may, ta đã có chuẩn bị trước, dù lần đó thất

bại, lần sau các ngươi cũng không thể không đi. Merkin cũng vậy, ta dã tốn mấy chục triệu

thuê người làm hai món văn vật giả chất lượng cao, khiến hắn nhìn nhầm, lỗ vốn mất mấy trăm

triệu đô. Sau thất bại ở núi tuyết lần đó, hai người các ngươi trở về đều kinh hãi nhận ra, mình

đã trở thành một tên nợ nần chồng chất…”

“Sau lần thất bại đó, Đường Mẫn đã đến tìm ngươi, đúng không?” Lữ Cánh Nam đột nhiên

chen miệng vào.

“A ha,” Đường Thọ bật cười: “Đúng vậy, điều này chứng tỏ, Cường Ba thiếu gia của chúng

ta quả thực rất có sức hấp dẫn, các ngươi biết nó đến tìm ta làm gì không? Nó đến cầu xin ta,

hy vọng ta có thể tha cho ngươi đấy! Cường Ba thiếu gia, Mẫn Mẫn đã diễn nhập tâm quá mức,

không ngờ lại yêu ngươi mất rồi.”

Toàn thân Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật: “Rốt cuộc mày có nhân tính không hả! Cô

ấy là em gái mày, em gái ruột của mày đấy!”

Đường Thọ khinh bỉ trả đáp: “Nhân tính? Hừ, ngươi làm gì có tư cách bàn luận vấn đề này

với ta. Ta hiểu rõ cái gì là nhân tính thực sự hơn ngươi nhiều lắm. Có điều, nói đi thì cũng nói

lại, ai bảo với ngươi, nó chính là em gái ruột của ta chứ? Là vì thông tin trên chứng minh thư

và hộ khẩu hả? Xem ra, cần phải để các ngươi làm quen lại với nhau một chút rồi.”

Mẫn Mẫn đột nhiên vùng vẫy dữ dội, rít giọng hét lên: “Không!”

Đường Thọ không để ý đến cô, cười cười nói: “Nào, để ta giới thiệu lại, vị này là cô

Bagawa Fusako đến từ Nhật Bản, lý tưởng của cô ấy, chính là trở thành geisha đắt nhất nước

Nhật.”

Mẫn Mẫn gào khóc thảm thiết: “Không… anh đã hứa với tôi sẽ không nói ra rồi… Anh, anh

đã hứa với tôi rồi…” Hai hàng nước mắt cô tuôn như suối.

Đường Thọ nhìn sang phía Mẫn Mẫn nói: “Ủa, ta có hứa sao? Thật xin lỗi, ta quên mất rồi.”

Sau đó, y lại cao giọng nới với mọi người: “Kỹ thuật diễn xuất của con bé rất khá, đúng không.

Nó rất giỏi diễn bài khóc lóc, đã đạt đến cảnh giới không cần bất cứ nhân tố bên ngoài nào tác

động, nói khóc là khóc luôn; tiếng Trung của nó do đích thân ta dạy đấy… Thậm chí, kỹ xảo

lên giường của nó, cũng một tay ta dạy dỗ…”

Đường Thọ thao thao bất tuyệt nói những gì, Trác Mộc Cường Ba đã không nghe rõ được

nữa, trong lòng gã không chỉ đang run rẩy, không chỉ đanh lạnh lẽo, khi gã biết Mẫn Mẫn

không phải em gái ruột của Đường Thọ, mà là một kỹ nữ Nhật Bản, đầu óc gã chỉ còn một

mảng trống rỗng, quả tim cơ hồ ngừng đập. Gã nghĩ đến một khả năng khác, đó là điều gã

mong mỏi nhiều năm nay, nhưng ngay sau đó, gã lại nghĩ đến một vấn đề khác: nhân luân! Lẽ

nào, tên ác ma Đường Thọ này còn gây ra chuyện kinh khủng như thế với gã?

Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, khóe môi run run, lắp bắp hỏi:

“Mày… mày nói cô… cô ấy là người Nhật Bản? Vậy… cô… cô ấy…. Có…”

Gương mặt Đường Thọ vẫn nở một nụ cười thân thiết hiền hòa: “Ta biết ngươi muốn hỏi

điều gì, nhưng rất đáng tiếc, không phải. Lẽ nào ngươi hi vọng điều đó? Vậy thì đúng là không

bằng cầm thú rồi, Cường Ba thiếu gia, nó sinh ra bên bờ biển Nhật Bản trong một làng chài

nhỏ, từ bé đã ra biển đánh cá với anh trai, điều kiện gia đình cũng không được sung túc cho

lắm…”

Trác Mộc Cường Ba nào còn nghe lọt tai những điều đó, gã vội truy vấn: “Mày biết tao

muốn hỏi gì ư? Mày thật sự biết ư?”

CHƯƠNG 80: CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

.

VỊ TÁNG(45)

.

Đường Thọ nở một nụ cười nhiều ý nghĩa, nói: “Đương nhiên, ta đã nói rồi, cuộc chiến giữa

hai thế lực lớn này bắt đầu từ rất lâu trước khi ngươi ra đời. Vả lại, ta nghĩ ngươi cũng phát

hiện ra rồi, cặp mắt của nó, đặc biệt là ánh mắt ấy rất giống với một người nào đó, phải vậy

không? Ở trên ta vừa mới nói xong, khi đi khắp thế giới tìm chìa khóa của địa cung Ahezt, ta

đã phát hiện được một thứ không ngờ đến, thứ ấy, chính là con bé này. Ánh mắt của nó rất

giống với người ấy, thoạt nhìn hết sức thuần khiết vô tội, tuyệt đối là dạng ai ai nhìn cũng thấy

đáng thương hại hết.”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén nổi nữa, gã bật người lao vút tới như mũi tên, gầm

lên quát hỏi: “Mày biết em gái tao? Nó ở đâu?” Lần này gã phóng tới rất nhanh, Merkin cũng

không kịp ngăn cản, chỉ thấy thân hình Trác Mộc Cường Ba loáng lên một cái, đã tới trước mặt

Đường Thọ.

Chẳng ngờ, gã nhanh, Đường Thọ còn nhanh hơn. Trác Mộc Cường Ba vươn tay phải ra,

vốn định tóm lấy Đường Thọ, hoặc trực tiếp ra đòn tấn công, nhưng Đường Thọ chỉ khẽ nhấc

tay trái lên, mu bàn tay hất nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba lên cao, kế đó cổ tay trầm

xuống, trước khi Trác Mộc Cường Ba kịp áp sát người vào, y đã tóm lấy cổ áo gã với tốc độ

nhanh khó bề tưởng tượng, rồi thuận đà nhấc lên, giơ cả người gã cao quá đỉnh đầu. Trác Mộc

Cường Ba cao hơn Đường Thọ cả một cái đầu, vậy mà y bảo nhấc gã lên là nhấc bổng lên luôn,

nhẹ như không vậy.

“Vấn đề cuối cùng!” Đúng lúc Đường Thọ vừa nhấc Trác Mộc Cường Ba lên, pháp sư Á La

liền mở miệng. Từ khoảng khắc khi Trác Mộc Cường Ba xông về phía Đường Thọ, pháp sư và

Lữ Cánh Nam đã kinh ngạc nhận ra, Đường Thọ ra tay rõ ràng còn nhanh hơn lúc y tấn công

pháp sư Á La nữa. Mà y mới chỉ dùng tay trái, rốt cuộc tốc độ cực hạn của y có thể nhanh đến

chừng nào? Lúc này, bọn họ đều đã đứng trên bậc thang xoáy ốc men theo bức tường, nhưng

vẫn còn cách mặt đất khoảng hai ba chục mét, nếu Đường Thọ thực sự ném Trác Mộc Cường

Ba xuống dưới, chắc chắn gã không chết cũng trọng thương. Vì vậy, trong khoảng khắc ngắn

ngủi chỉ bằng một tia chớp lóe lên ấy, pháp sư Á La đã thốt lên một câu nói như thế, ông đã

nắm được phần nào tính cánh của tên Đường Thọ này, y thuộc loại người lúc nào cũng mang

tâm thái mình là kẻ cao cao tại thượng, ngạo nghễ nhìn xuống tất thảy mọi thứ trên đời. Y cho

rằng mình đã giành được thắng lợi cuối cùng, nên lúc này y đang nôn nóng giải thích cho tất cả

mọi người ở đây biết toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào, nhằm thể hiện với người khác trí

tuệ cũng như sức mạnh không thể kháng cự của mình. Với thân phận của pháp sư, nếu ông

biểu thị vẫn còn việc mình chưa thể hiểu nổi, nhất định sẽ thỏa mãn được lòng ưa hư vinh của

y.

Quả nhiên, pháp sư Á La vừa cất tiếng, cánh tay đang tóm Trác Mộc Cường Ba nhấc lên cao

của Đường Thọ liền dừng lại, kế đó, y đặt Trác Mộc Cường Ba xuống mé bên kia cầu thang,

bàn tay đặt lên ngực gã, nắm tay xòe rộng, đẩy một cái. Trác Mộc Cường Ba loạng choạng, lùi

lại mấy bước mới đứng vững.

Không biết vì nguyên nhân gì, có lẽ Đường Thọ tạm thời không muốn giết Cường Ba thiếu

gia lúc này, nhìn thấy cảnh tượng đó, tảng đá đè nặng trong lòng pháp sư Á La cững rơi xuống.

Ông thở ra nhè nhẹ, hỏi: "Ta muốn biết tại sao? Ngươi tốn bao nhiêu công sức bố trí ra một kế

hoạch lớn như vậy, rốt cuộc muốn có được thứ gì? Ta, chúng ta, mỗi một người đến nơi này

đều có mục đích riêng. Ta và Lữ Cánh Nam là vì Thánh điển của Thánh giáo, Cường Ba thiếu

gia vì tìm kiếm Tử kỳ lân, Merkin muốn tìm thấy nơi gia tộc y canh giữ, cỏn những thế lực

khác đều bị báu vật trong Bạc Ba La thần miếu thu hút. Nhưng vừa nãy ta quan sát ngươi, thấy

ngươi không giống bất cứ người nào ở đây. Nói thực lòng, khi lần đầu tiên nhìn thấy những

món châu báu tuyệt thế này, ngay cả ta và Cánh Nam cũng không khỏi thoáng động lòng,

nhưng ngươi từ đầu chí cuối, thậm chí còn không thèm để mắt đến chúng lấy một lần. mà để

bố trí được cục diện này, ngươi cũng đã bỏ ra không ít, vừa nãy chính ngươi cũng nói rồi, để

làm hai món đồ ngụy tác, ngươi có thể tùy tiện bỏ ra mấy chục triệu, có thể khẳng định, ngươi

không đến đây vì vàng bạc châu báu. Ta nghĩ, ngươi cũng không phải đến vì Thánh điển của

giáo phái chúng ta, vậy... ngươi... rốt cuộc có mục đích gì?”

Lúc này, Đường Thọ vẫn mặt đối mặt với Trác Mộc Cường Ba. Y dịu giọng nhẹ nhàng

khuyên giải Trác Mộc Cường Ba: “Đừng xung động, chúng ta làm việc bao giờ cũng phải nghĩ

ngợi cho kỹ, phải có phong độ, phải đường hoàng quân tử, chớ nên động một chút là dùng bạo

lực bừa bãi, Cường Ba thiếu gia, ta khuyên ngươi nên bình tĩnh, những kẻ xung động xưa nay

đều phải chết trước, vả lại còn liên lụy đến đồng bạn của hắn nữa kìa.”

Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh lại, từ giây phút bị Đường Thọ một tay nhấc bổng lên quá

đầu, gã đã bắt đầu bình tĩnh lại. Bởi gã đột nhiên nhận ra, khi mình đối mặt với Đường Thọ,

cảm giác cũng hệt như khi đối mặt với Lữ Cánh Nam lần đầu tiên lúc vừa gia nhập trại huấn

luyện vậy, đó là một thứ cảm giác bất lực, mỗi động tác của gã, mỗi suy nghĩ của gã, dường

như đều bị đối phương biết trước cả rồi.

Thấy Trác Mộc Cường Ba không có dấu hiệu cuồng nộ tiếp tục tấn công, Đường Thọ mới

quay sang phía pháp sư Á La gật nhẹ đầu, lớn tiếng nói: “Hỏi hay lắm!”

Hành động tấn công của Trác Mộc Cường Ba khiến cả đội ngũ phải dừng lại, lúc này gã đã

bị Đường Thọ đi trước đích thân áp giải, đoàn người lại tiếp tục đi xuống các bậc thang. Tranh

thủ lúc pháp sư Á La hỏi Đường Thọ, Lữ Cánh Nam khẽ nhúc nhích bàn tau đặt sau lưng, từ

chỗ eo hông ló ra ba ngón tay, đồng thời liếc mắt nhìn sang phía Merkin một cái, dùng ngón

tay thể hiện loại mật mã mà chỉ có lính đặc chủng mới hiểu được: "Lúc này, chúng ta cần bắt

tay chống lại kẻ địch chung."

Merkin thấy bọn lính đánh thuê không chú ý đếi y và Lữ Cánh Nam, mới đáp lại: "Hắn rất

mạnh, chúng ta không phải là đối thủ." Đồng thời, khóe mắt y lại liếc về phía Trác Mộc Cường

Ba và pháp sư Á La, ngầm ám thị: "Nếu không có bọn lính đánh thuê này, bốn chúng ta liên

thủ, may ra có thể liều với hắn một phen."

Lữ Cánh Nam nhíu mày, chìa ra ba ngón tay, ý bảo. "Chỉ có ba người, pháp sư Á La đã bị

thương nặng."

Sắc mặt Merkin trở nên khó coi, y ngoảnh đầu thầm nhủ: "Người mạnh nhất đã bị thương

nặng, vậy thì hết trò rồi. Tên Đường Thọ này đâu có cùng một bậc vớichúng ta."

Lữ Cánh Nam cũng đang nghĩ: "Hắn vừa ra tay liền làm pháp sư Á La trọng thương, chắc

chắn từ đã cps tính toán từ trước, mưu kế của tên Đường Thọ này quả thực rất đáng sợ."

Đường Thọ đi trước nói: “Những thứ vàng bạc, châu báu, ngọc ngà ấy, giá trị của chúng,

thực ra là do nhân loại các ngươi ban cho mà thôi..."

Pháp sư Á La nhíu mày không nói gì, tên Đường Thọ này, lại nói với cái giọng đó, mở

mồm ra là: “Nhân loại các ngươi, nhân loại các ngươi... “, nói như thể hắn không phải 1à con

người vậy.

Đường Thọ không biết tâm tư của pháp sư Á La, 1ại tiếp tục dương dương tự đắc nói: “Rốt

cuộc giá trị của chúng như thế nào chứ? Giả sử trên thế giới này không có người, giá trị của

mấy cục đá vụn ấy trong mắt một con mèo, một con lợn rừng thậm chí còn không bằng một

con chuột đồng hay một củ khoai tây. Tại sao phải để mắt đến chúng? Lại còn phải tỏ ra hân

hoan sung sướng nữa chứ? Ngay cả trong gỉá trị quan của con người các ngươi, khi tiền tài tích

lũy đến một mức độ nhất định, cũng sẽ biến thành một đống chữ số chẳng có ý nghãi gì cả,

không phải vậy sao? Vả lại, lựa chọn giá trị của vật phẩm thực chất hay hư ảo, luôn luôn chỉ là

tương đối, nếu nói bảo thạch có màu sắc đẹp mê hồn người, thủy tinh cũng thế, ta thậm chí có

thể dùng thủy tinh tạo ra những màu sắc rực rỡ lung linh hơn nữa, vậy tại sao thủy tinh lại rẻ

như thế? Vì nó nhiều. Thế nên, phán đoán giá trị vật chất của con người, nhân tố quyết định

đầu tiên chính là số lượng, kế đó mới là sự kích thích nó mang lại cho các giác quan. Còn về

chuyện lấy vật đổi vật và nguyên lý đồng giá, là chuyện sau khi con người có được thể chế văn

minh rồi. Giá trị quan của ta, chính là hình thái nguyên thủy nhất của sinh vật. Thứ này, có thể

nhét đầy bụng hay không, có thể khiến ta ngủ ngon giấc hay không, có thể làm vũ khí, săn bắt

mồi được hay không... những thứ ấy, mới có giá trị. Ừm, ta nói xa quá rồi...”

Đường Thọ nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, đột nhiên hỏi: “Các có biết, trên thế giới này có

một loại bệnh dịch, tỷ lệ tử vong là một trăm phần trăm, đáng sợ hơn nữa là, nó không thể dự

phòng, càng không có vác xin gì cả, đến nỗi khi nhắc đến loại bệnh dịch này, người người đều

phải biến sắc không?”

Nói tới đây, y nheo nheo mắt ngoái đầu lại, ánh mắt lướt qua tất cả mọi người, quan sát bộ

dạng trầm ngâm suy nghĩ của họ. Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam mấy người đều không

hiểu Đường Thọ tự dưng hỏi câu này là có ý gì, cả Merkin và Đường Mẫn cũng ngây người ra,

không biết Đường Thọ rốt cuộc định nói gì.

Đường Thọ dường như đọc được suy nghĩ của mỗi người bọn họ, lần lượt phủ định: “Không

phải bệnh AIDS, bệnh AIDS có thể dùng liệu pháp cocktail(46) để kéo dài sinh mạng; không phải bệnh chó dại, bệnh chó dại trong một khoảng thời gian nhất định vẫn có thể trị liệu, vả lại

vắc xin bệnh này đã rất hoàn thiện rồi; bệnh dịch hạch cũng thế, Cái Chết Đen từng uy hiếp cả

châu Âu giờ đây đã không thể gây sóng gió được nữa; cũng không phải bệnh ung thư, bệnh

ung thư có quá nhiều loại, vả lại tỷ lệ sống sót của người bệnh cũng phụ thuộc vào chủng loại

ung thu khác nhau. Để ta gợi ý cho các ngươi một chút vậy, thứ bệnh này bắt nguồn từ châu

Âu, nổi danh là nước Anh, la do con người tạo ra.”

Thấy Merkin thoáng biến sắc mặt. Đường Thọ lập tức chỉ vào y, gật đầu nói: "Đúng rồi,

chính là thứ mà ngươi vừa nghĩ đến đấy, bệnh bò điên. Nghiên cứu y học hiện nay đã chứng

thực, đó là một loại bệnh gây ra bởi prion(47). Prion thực ra không phải là virus gây bệnh, nó còn nhỏ hơn cả virus, đơn giản hơn, khó đề phòng và phát hiện hơn, nguyên lý hoạt động của

nó lại càng phức tạp và khó lý giải hơn gấp bội. Các học giả nước ngoài phân nó vào 1oại hình

á virus, còn học giả trong nước thì cho rằng gọi là virus cũng không chuẩn xác, nên gọi là hạt

protein mang tính truyền nhiễm mới đúng. Kích thước của prion chỉ khoảng từ ba mươi đến

năm mươi nanomet. không có axit nucleic, không có màng tế bào, thậm chí dùng kính hiển vi

điện tử cũng không thể nhìn rõ kết cấu của nó. Nhưng nó có thể khiến protein biến đổi về chất,

lại mang tính truyền nhiễm và di truyền. Cùng với việc đi sâu nghiên cứu, người ta phát hiện

ra, loại vi sinh vật còn nhỏ hơn cả virus này có sức đề kháng kinh người đối với các nhân tố vật

lý và hóa học, đồng thời cũng có sức chịu đựng rất cao đối với tia tử ngoại chiếu xạ, sóng siêu

âm, bức xạ điện ly hay nhiệt độ trên một trăm độ C. Ngoài ra, nó cũng gần như vô hình trước

các loại thuốc thử hóa học hay thuốc thử sinh hóa hiện nay. Còn về mặt miễn dịch học, tuy

rằng đại thực bào(48) cũng có tác dụng phòng ngừa nhất định, nhưng trong prion lại không thể

phát hiện được sự tồn tại của kháng thể dị tính, nó sẽ không kích hoạt các Interferon(49), và cũng không bị ảnh hưởng bởi chúng. Điểm mấu chốt nhất là, vị trí mà chúng ảnh hưởng trên cơ

thể sinh vật tương đối đặc thù, nó chủ yếu xâm chiếm, chỗ này!”

Đường Thọ co ngón tay lại thành hình khẩu súng lục, đầu ngón tay chỉ vào huyệt thái dương

của mình, sau đó nói: “Nó ảnh hưởng đến não bộ và hệ thống thần kinh, sinh vật nào mắc phải

loại bệnh này trước tiên sẽ biểu hiện qua trạng thái thần kinh, sợ hãi, dễ nổi giận, căng thẳng,

điên loạn... Kế đó bắt đầu xuất hiện những động tác dị thường, mất thăng bằng, ăn uống bài tiết

thất thường, cơ bắp run rẩy, cuối cùng là suy giảm chức năng của các giác quan, vị giác, khứu

giắc, rồi thị giác, thính giác, xúc giác đều biến mất. Khi phát bênh, con bò vốn ngoan ngoãn

hiền lành sẽ trở nên điên loạn, tấn công bừa bãi, nên mới gọi là bệnh bò điên. Danh pháp y học

của nóm gọi là bệnh viêm não thể bọt biển ở bò. Đáng sợ nhất là, trước khi phát bệnh, còn có

một thời kỳ ủ bệnh, vói trình độ khoa học kỹ thuật và y học hiện nay, gần như không thể phát

hiện ra prion gây bệnh trong thời kỳ ủ bệnh này. Mà một khi đã xuất hiện triệu chứng của

bệnh, đa số sinh vật sẽ tử vong trong vòng ba tháng, không thể chữa trị."

Sắc mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều sầm xuống, mặc dù họ vẫn chưa hiểu rốt

cuộc Đường Thọ muốn nói điều gì, nhưng thứ mà y học và khoa học kỹ thuật hiện đại không

thể phát hiện ra, ngoài prion gây bệnh kia ra, cổ độc không phải cũng vậy ư? Liệu hai thứ này

có gì liên quan hay không?

Đường Thọ lại đổi chủ đè câu chuyện, hỏi: “Các ngươi có biết, bệnh bỏ điên bắt nguồn từ

đâu hay không? Vào thế kỷ trước, kinh tế đang trong giai đoạn hồi phục, các chủ nông trường

châu Âu vì muốn được lợi nhiều nhất, đã đem xương và nội tạng của những con bò bị giết lấy

thịt nghiền thành bột, rồi dùng để làm thức ăn cho những con khác trong đàn. Đột nhiên người

ta phát hiện, ở những con bò ấy xuất hiện các triệu chứng kỳ quái, đồng thời bắt đầu lây lan

trên diện rộng, đây chính là căn nguyên của bệnh bò điên mấy năm trước. Thực ra, trước khi có

bệnh bò điên, còn có bệnh dê điên, bệnh ngựa điên, bệnh hươu điên, chỉ là người ta không thể

phát hiện ra cơ chế phát bệnh mà thôi. Đối với cơ chế phát bệnh cửa bệnh bò điên nảy, cũng có

rất nhiều suy đoán và cách giải thích khác nhau. Có người nói, con người cưỡng chế thay đổi

tập tính của động vật ăn cỏ, cuối cùng dẫn đến protein trong tế bào của loài động vật này bị

biến dị, hình thành bệnh dịch truyền nhiễm; cũng có người nói, trong tủy và não bộ, có chứa

vật chất gây thay đổi trật tự mã gene; ngoài ra, còn rất nhiều giả thuyết kỳ quái khác nữa.

Nhưng nói thế nào, về cơ bản mọi người vẫn công nhận rắng, lũ bò phát bệnh là do ăn nội tạng

và xương cốt của đồng loại. Nếu như, chủ thể của bệnh bò điên này đổi lại thành con người,

người cảm thấy sẽ như thế nào?”

"Con người?" Lữ Cánh Nam thấy sống lưng lạnh toát, lẩm bẩm nói: “Ý ngươi là... người ăn

thịt... người... “

Đường Thọ nói với giọng hơi bất mãn: “Đừng làm ra vẻ kinh hoàng như vậy chứ, ăn thịt

người cũng đâu phải chuyện gì đáng sợ. Từ mấy vạn năm trước, khi tổ tiên loài người vẫn chưa

đứng trên đỉnh của chuỗi sinh vật, con người thường xuyên trở thành thức ăn của các loài động

vật ăn thịt khác. Khi thức ăn trở nên thiếu thốn, lại không thể săn bắt được các loại động vật

khổng lồ, thứ bọn họ ăn nhiều nhất, chính là đồng loại của mình. Về sau, xã hội loài người trở

nên văn minh hơn, nhưng trong những năm đói kém nhất, hoặc khi bị vây khốn bởi ngọn lửa

chiến tranh, người ăn thịt người cũng là chuyện thường thấy. Vả lại, trong Trung y có một vị

thuốc gọi là Tử hà xa(21), chẳng phải đến bây giờ người ta vẫn ăn đều đều đấy sao?” Nói tới

đây, y đột nhiên bật cười: "Có điều, trong quá trình truyền thừa và phát triển cửa loài người,

cũng xuát hiện vài nhánh rẽ, phát triển ra một số dân tộc đặc biệt. Trên thế giới, đến giờ vẫn

còn một số chủng tộc coi việc ăn thịt người như một tập tục, hình thành nên một văn hóa ăn

thịt người độc đáo. Những dân tộc này, có một danh xưng thống nhất, được gọi là... những kẻ

ăn thịt người'"

Đường Thọ lạnh lùng nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba đang thẫn thờ kinh ngạc, dí dỏm

nói: “Kinh ngạc lắm sao? Bộ tộc Qua Ba mà các người trước nay vẫn nghiên cứu và kiếm tìm,

chính là một bộ tộc ăn thịt người. Có điều, không giống với các bộ tộc ăn thịt người ở châu

Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương, họ không phải loại bắt được người liền giết mổ ăn thịt, ngược

lại, họ chỉ ăn một loại ngươi, chính là thân nhân của mình. Sau khi người Qua Ba chết già

hoặc chết bệnh, con cái họ sẽ chia thi thể ra ăn hết, ăn càng sạch sẽ thì càng tỏ được lòng hiếu

thuận với cha mẹ. Giống như một nghi thức mai táng long trọng bây giờ, bọn họ cũng phải cử

hành một nghi thức, đây chính là tập tục mai táng được tranh cái nhiều nhất trong truyền

thuyết... vị táng. Trong tín ngưỡng của người Qua Ba, linh hồn và nhục thể của con người gắn

bó chặt chẽ, không thể tách rời, khi người thân qua đời, nhục thể sẽ từ từ thối rữa, một phần

linh hồn của người chết bám trên nhục thể thối rữa ấy cũng sẽ bị cầm cố và giày vò, vì vậy,

bọn họ liền xẻ thịt người thân ra ăn vào trong bụng. Như thế, linh hồn của người thân sẽ vính

viễn ở bên linh hồn của họ, mà trên cơ thể những người thân đã qua đời ấy, lại cũng có linh

hồn của tổ tiên họ. Vì lẽ đó, trên thân thể mỗi người trong bộ tộc Qua Ba đều có linh hồn của

toàn bộ tổ tiên họ. Họ mang theo linh hồn của tổ tiên đi khắp thế gian, dù làm việc gì cũng đều

có tổ tiên coi sóc, chúc phúc. Còn một phần linh hồn của người chết ở trên xương cốt, vì vậy

họ đem xương cốt của người thân làm các dụng cụ, như bát, hộp đựng thức ăn, đồ trang sức

đeo bên người, hoặc cácloại nhạc khí... Như vậy. linh hồn của tổ tiên luôn luôn ở bên cạnh họ.

Còn chuyện tập tục này sinh ra từ đâu, truyền thừa xuống như thế nào thì không ai biết được

nữa...”

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một ý nghĩ, gã lập tức nói: “Sống chung với

sói! Đây là tập tính của loài sói! Có lẽ tập tục này bắt nguồn từ lũ sói, còn về tín ngưỡng tinh

thần kia... người Kukuer!” Gã nhớ đến bộ tộc Kukuer trong rừng rậm Nam Mỹ, nhớ đến những

bộ lạc ăn thịt người ở đó, họ cũng có tín niệm tương tự như vậy, lẽ nào là sự trùng hợp? Hay

chính vị sứ giả đến Cổ Cánh kia mang tín ngưỡng và quan niệm này đến châu Mỹ? Điều này

phải chăng có liên hệ nào đó với sự suy tàn của nền văn minh Maya?

Đường Thọ vỗ vỗ tay nói: "Được rồi, lại nói lan man đi xa quá, thực ra điều ta muốn nói la,

trước khi bệnh bò điên nổi tiếng toàn thế giới, loại bệnh này được phát hiện sớm nhất là ở một

bộ lạc ăn thịt người trên một quẩn đảo ở châu Đại Dương. Bộ lạc này cũng có tập tục tương tự

tập tục vị táng của người Qua Ba, nội tạng và thịt củn người chết đều bị họ hàng thân thích chia

nhau ăn sạch. Trong bộ lạc ăn thịt người này, đôi lúc xuất hiện những người có bệnh trạng

tương tự như bệnh bò điên, tinh thần căng thẳng cực độ, dễ nổi giận, cứ ham muốn tấn công rất

mạnh, cơ bắp co giật, run rẩy, hành vi và ngôn ngữ dần trở nên thất thường, kế đó là đi lại

không vững, phát âm kỳ dù ăn bao nhiêu cũng vẫn luôn cảm thấy đói khát, thân thể ngày một

gầy guộc, dần dần không còn cám giác, cuối cùng thì tử vong. Khi có người mắc phảỉ bệnh

này, những thổ dân ấy cho rằng kẻ đó đã bị thần Kuru bám vào, đồng thời họ cũng biết, một

khi thần Kuru xuất hiện, thần sẽ hút đi linh hồn của kẻ xấu số, con người không thể nào kháng

cự nổi. Về sau, loại bệnh này được liệt vào danh sách các bệnh con người có thể mắc phải, và

được đặt tên theo cách phát âm của người địa phương, gọi là bệnh Kuru."

Pháp sư Á La điềm tĩnh cất tiếng: “Ý của ngươi là,, người Qua Ba cũng mắc bệnh Kuru?”

“Ừm, không phải,” ĐườngThọ nói: “Bệnh Kuru thực ra không đáng sợ, tuy không thuốc nào

chữa được nhưng tính truyền nhiễm của nó rất thấp, ngay cả trong bộ tộc ăn thịt người, số

người mắc bệnh này cũng chiếm số lượng rất nhỏ. Vả lại, chỉ cần không ăn thịt người mắc

bệnh, không truyền máu hoặc cấy ghép cơ quan thì gần như không bị truyền nhiễm. Vả lại, ta

cũng không có chứng cứ nào chứng minh rằng trong bộ tộc Qua Ba nhất định có người mắc

bệnh Kuru. Ta chỉ nói rằng, bọn họ và bộ tộc ăn thịt người mắc phải bệnh Kuru kia có tập tục

gần giống nhau, vì vậy có khả năng sẽ có người mắc chứng bệnh tương tự như vậy, chỉ thế mà

thôi.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, nếu đã không thể khẳng định người Qua Ba có

mắc bệnh Kuru hay không, vậy ngươi nói ra làm cái quái gì? Chợt nghe Đường Thọ đổi giọng,

nói: “Nhưng các ngươi đừng quên rằng, người Qua Ba còn một thân phận khác, bọn họ chính

là... đạo quân Ánh sáng!”

Gương mặt Đường Thọ lộ vẻ khao khát: “Chắc hản các ngươi đã tìm hiểu được phần nào về

Đạo quân Ánh sáng rồi. Bọn họ chính là một dạng bộ đội đặc chủng trong quân đội thời xưa.

Thực ra, gọi như vậy cũng không hoàn toàn chính xác. Đọa quân Ánh sáng là một đơn vị lớn,

có lẽ gần tương đương với cơ quan chuyên nghiên cứu phát triển trong quân đội ngày nay hơn.

Một loạt các kỹ thuật như cổ độc, kỹ thuật điều khiển và khống chế thú vật, thuật cơ quan,

thuật sử dụng hóa dược và việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nóng, thuật dự báo, điều khiển thời

tiết, phẫu thuật ngoại khoa, thuật chiến đấu cận thân... đều là để phục vụ cho chiến tranh. Mục

đích tồn tại của họ chính là để phục vụ mục tiêu thống nhất thiên hạ của quân vương. Năm đó,

họ nắm trong tay tư liệu sản xuất cũng như các lý luận học thuật tiên tiến nhất thế giới thời bấy

giờ, thậm chí một số kỹ thuật cổ xưa đã thất truyền cũng được Đạo quân Ánh sáng tìm lại

nghiên cứu một cách thấu triệt. Trình độ khoa học kỹ thuật và các thủ đoạn phục vụ chiến tranh

của họ đã vượt lên trên thời đại đó, nhiều lúc ta thử nghĩ...” Đường Thọ đột nhiên nở một nụ

cười thần bí, nói: “Nếu như, chỉ là nếu như thôi, năm đó trong bộ tộc Qua Ba, vừa khéo cũng

có người mắc phải bệnh Kuru. Vậy thì, Đạo quân Ánh sáng đầy tinh thần nghiên cứu kia, sẽ có

thái độ như thế nào với căn bệnh này nhỉ?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều biến sắc, nói theo cách của Đường Thọ, Đạo quân Ánh

sáng được lập nên vì mục đích thống nhất thiên hạ của quân vương. Vậy thì, chẳng còn nghi

ngờ gì nữa, điều đầu tiên bọn họ nghĩ đến sẽ là làm sao để lợi dụng được căn bệnh không thuốc

nào chữa nổi này trong chiến trang. Lúc này, họ đã đi được hai phần ba cầu thang hình xoáy

ốc, Đường Thọ nhìn xuống dưới, mỉm cười nói: “Để ta kể cho ngươi nghe một câu chuyện,

nghe xong câu chuyện này, các ngươi sẽ hiểu được tất cả.”

.

HẬU DUỆ VU VƯƠNG(50)

.Nói tới đây, Đường Thọ ngừng lại một chút như thể đang sắp xếp lại ý tứ trong đầu, rồi

chầm chậm tiếp lời: "Từ rất lâu, rất lâu trước đây, có một bộ lạc nhỏ, bọn bọ sống chung với

bầy sói, kế thừa sự hung hãn và đoàn kết của loài sói. Họ có tín ngưỡng của mình, họ sùng bái

bốn vị Vu vương, họ cho rằng, toàn bộ người trên cao nguyên này đều là hậu duệ của bốn vị

Vu vương đó. Bốn vị Vu vương, chính là thủy tổ của người cao nguyên. Vì vậy, hậu duệ trực

hệ của bốn vị Vu vương ấy ở trong bộ lạc này luôn được hưởng đãi ngộ giống như Vu vương

vậy. Vả lại, thủ lĩnh và lãnh tụ tinh thần của bộ lạc này cũng đều do bốn vị Vu vương luân lưu

đảm nhận. Ban đầu, họ chỉ là một bộ lạc nhỏ ở vương triều Tượng Hùng, cũng không biết họ

kiếm đâu ra bốn vị được gọi là hậu duệ trực hệ của Tứ đại Vu vương kia nữa, hoặc có thể đây

chỉ là câu chuyện do bốn kẻ muốn làm thủ lĩnh bịa ra không chừng. Chuyện này dẫu sao cũng

không còn quan trọng nữa. Tóm lại, có một bộ lạc như thế, thủ lĩnh của họ được gọi là Tứ đại

Vu vương, các ngươi chỉ cần nhớ như vậy là đủ.”

“Vốn dĩ, nếu không có đại sự gì xảy ra, bộ lạc nhỏ này sẽ cùng với những người bạn sói của

họ tiếp tục sống một cách bình lặng, đi săn bắn, trồng trọt, sinh con đẻ cái, hoặc giả đến một

ngày nào đó, họ sẽ bị bộ lạc khác thôn tính, hay vì nhân khẩu mỗi ngày một ít đi mà tự biến

mất khỏi thế gian. Thế nhưng, đúng vào lúc này, trên cao nguyên lại xuất hiện một người trẻ

tuổi kiệt xuất, lập chí trong những năm tháng mình sống trên đời phải thống nhất toàn bộ cao

nguyên về tay. kẻ địch lớn nhất của y chính là vương triều lớn mạnh nhất trên cao nguyên thuở

bấy giờ, vương triều Tượng Hùng. Muốn đánh bại Tượng Hùng, y phải sở hữu một đội quân có

thể đánh bại quân đội của Tượng Hùng. Khi ấy, một quý tộc phản loạn trốn chạy từ Tượng

Hùng đã tiến cử bộ lạc nhỏ này với vị quân vương trẻ tuổi, nói với y rằng bọn họ sống chung

với sói, thiên tính hung hãn, không sợ chết, lại không được vương triều Tượng Hùng coi trọng,

nếu có thể khéo léo lợi dụng bộ lạc này một cách hiệu quả, ắt sẽ lập được một cánh quân mạnh

mẽ nhất.”

“Nhất định các ngươi sẽ thấy rất kỳ quái, tại sao lại không phát hiện sự tồn tại của một đạo

quân mạnh mẽ như vậy trong bất cứ ghi chép lịch sử nào? Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất,

đạo quân này được thành lập dựa trên kiến nghị của hai dòng họ quý tộc đã phản bội vương

triều Tượng Hùng là Nương thị và Vi thị, sau này việc xây dựng đội ngũ, huấn luyện, thống

lĩnh cũng do hau gia tộc này chia nhau đảm nhận. Vị quân vương của cao nguyên kia hiểu rất

rõ, Nương thị và Vi thị trung thành với mình, khi mình còn sống, bọn họ tuyệt đối không dám

có những hành vi bội phản, nhưng vạn nhất đến một ngày, mình không còn nữa thì sao? Đạo

quân Ánh sáng là một thanh kiếm sắc bén tột cùng, dùng để dối phó kẻ địch thời đánh đâu

thắng đó, nhưng nếu kẻ nào có dụng tâm chĩa con dao đồ tể này về phía hậu duệ của mình, hậu

quả thật khó bề tưởng tượng. Lúc đó, cao nguyên vừa được bình định, việc kiến lập vương

triều mới phải dựa rất nhiều vào hai thế lực lớn Nương thị và Vi thị, muốn xóa sổ hai gia tộc

lớn này ngay thời điểm đó, dù là thời gian hay quân bị đều không cho phép. Vì vậy, khi thành

lập Đạo quân Ánh sáng, vị quân vương trí tuệ siêu quần ấy đã đưa ra một quyết định cực kỳ

sáng suốt: người ra lệnh là quân vương, thống lĩnh quân đội do người của hai nhà Nương thị và

Vi thị thay nhau đảm nhận, tín ngưỡng và lãnh tụ tinh thần của bộ tộc Qua ba đều bảo lưu lại.

Như thế, quân quyền, vương quyền và thần quyền hình thành cơ chế tam quyền phân lập, ước

thúc lẫn nhau, đạt được một trạng thái cân bằng nhất định. Có lẽ, tính toán của vị quân vương

kia là, sau khi hoàn toàn bình định cao nguyên, nghỉ ngơi dưỡng sức dần, đợi vương triều lớn

mạnh, mới bắt tay triệt để giải quyết vấn đề quy thuộc của Đạo quân Ánh sáng, nắm lấy thanh

kiếm sắc bén nhất này về tay vương tộc. Đáng tiếc, trời cao không cho ông ta nhiều thời gian

như thế, vì vậy cơ chế tam quyền phân lập độc đáo của Đạo quân Ánh sáng vẫn được bảo tồn

mãi. Đồng thời, hai gia tộc Nương thị và Vi thị cũng dần dần sinh sôi nảy nở, liên hôn với

vương thất Thổ Phồn, cuối cùng bén rẽ gắn chặt với cây đại thụ lớn nhất của vương triều Thổ

Phồn, đến mức không thể tách rời. hai đại gia tộc này vẫn luôn là hai gia tộc lớn mạnh nhất

vương triều Thổ Phồn, cho đến khi vương triều này bị diệt vong.”

“Chính vì cơ chế tam quyền phân lập này, dưới dụng tâm và tính toán của các bên khác

nhau, Đọa quân Ánh sáng dần dần thoát ly khỏi chiến tranh chính quy, chuyển hướng thành

một đội quân chuyên thực hiện nhiệm vụ ám sát. Hai đại gia tộc họ Nương và họ Vi đã nhiều

lần dùng Đạo quân Ánh sáng như một con dao găm sắc bén để tiêu trừ vây cánh của các thế lực

đối địch trên chính trường, thậm chí còn chĩa mũi dao vào nhau. Trong cuộc đấu tranh giữa

Phật giáo và Bản giáo ở Thổ Phồn, việc thuyết giảng đạo lý là của các vị đại đức cao tăng Phật

giáo và Bản giáo, còn ra tay lại là chức trách của Đạo quân Ánh sáng. Sau này, vô số cuộc khởi

nghĩa của nông nô cũng do hai bàn tay nhuốm đầymáu tanh của Đạo quân Ánh sáng đi giải

quyết. Lúc này, lãnh tụ tinh thần của Đạo quân Ánh sáng, Tứ đại Vu vương bắt đầu nghĩ lại về

ý nghĩa tồn tại của cánh quân này? Lẽ nào Đạo quân Ánh sáng tồn tại để hủy diệt tất cả? Sinh

ra vì chiến tranh, tồn tại vì chiến tranh, điều này thực ra lại mẫu thuẫn với tín ngưỡng nguyên

bản của họ. Bọn họ theo đuổi đạo tự nhiên, sống chung vơi sói là vì họ coi sói như bạn, họ cho

rằng, sói và người nên có địa vị ngang hàng, cả hai loài đều là những thợ săn ưu tú nhất, đều là

những đoàn thể xã hội đoàn kết và hài hòa nhất. Mặt khác, quân vương và các thống lĩnh quân

đội lại yêu cầu Đạo quân Ánh sáng phải không ngừng mạnh lên, những kỹ thuật tiên tiến nhất,

những cổ thuật đã thất truyền của các nước đều tập trung về chỗ Đọa quân Ánh sáng, các

phương pháp huấn luyện vô nhân đạo nhất đều được áp dụng lên bọn họ, thậm chí trẻ sơ sinh

vừa ra đời cũng phải tiến hành những khảo nghiệm nghiêm khắc về thể chất, vừa mới học đứng

đã phải ở giữa trời đất băng giá tiếp nhận khiêu chiến cực hạn sức chịu đựng của con người.

Chẳng những vậy, họ còn được yêu cầu chế tạo ta các loại thuốc khác nhau, có thể biến cơ thể

người trở nên mạnh mẽ hơn,cũng có thể khiến người ta biến thành kẻ điên cuồng. Do yêu cầu

của các đời quân vương, Đạo quân Ánh sáng không ngừng nghiên cứu một loại vũ khí siêu

mạnh, loại vũ khí này chỉ cần một người điều khiển, một khi ra tay liền gay ra cái chết của

hàng nghìn hàng vạn người, thậm chí nhiều hơn nữa, tốt nhất là chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể

người, còn kiến trúc và vũ khí đều có thể giữ lại hoàn hảo. Đạo quân Ánh sáng từng nghiên

cứu ra vũ khí nóng có thể gây sát thương trên diện rộng, nhưng vẫn không đạt yêu cầu của

quân vương, bọn họ liền chuyển hướng sang những sinh vật nhỏ mà mắt thường không thể

nhìn thấy, đó chính là: cổ độc.”

“Không ai biết được rốt cuộc họ đã tiến hành nghiên cứu như thế nào, nhưng ta có thể khẳng

định một điểm, cuối cùng họ đã thành công. Dựa theo miêu tả trong thư tịch cổ, đó là một thứ

vật chất dạng bột phấn, có thể lan truyền qua không khí, dòng nước, thức ăn... Nước sôi, cường

toan, chất kiềm mạnh đều không thể hủy diệt, cũng không có bất cứ phương pháp nào có thể trị

liệu chứng bệnh do nó gây ra. Đặc biệt nhất là, nó là vật sống, khi xuất hiện một loại vật chất

nào đó có thể gây hại với nó, nó sẽ tự thay đổi và điều chỉnh bộ máy phòng ngự, nếu sử dụng

laoij vật chất kia với nó lần thứ hai, sẽ hoàn toàn vô hiệu. Chẳng những vậy, nhờ nỗ lực không

ngừng nghỉ của Đạo quân Ánh sáng, loại vật chất này đã được chứng thực chỉ có hiệu quả với

cơ thể người, hoàn toàn không gây hại với bất kỳ giống loài nào khác. Nhưng các loài động vật

có vú sẽ trở thành kẻ mang mầm bệnh, có thể tiến hành lây lan truyền nhiễm trên diện rộng.

Khi loại vật chất này xâm nhập vào cơ thể người, chúng sẽ lập tức biến cơ thể ấy thành môi

trường để sinh sôi nảy nở. Sau vô số lần thực nghiệm và điều chỉnh, Đạo quân Ánh sáng đã

khiến loại vật chất ấy trước tiên xâm nhập vào phổi và đường hô hấp của con người, như bậy,

khi người nhiễm bệnh nói chuyện hay hít thở, đều có thể lây lan chúng sang cơ thể khác. Đồng

thời, bài tiết, giao hợp, truyền máu... đều là những con đường lây nhiễm của loại vật chất này;

sau khi xâm nhập, chúng sẽ tiến vào hệ thống thần kinh và sinh sôi nảy nở trong tế bào thần

kinh, khiến các cảm quan của người mắc bệnh dần biến mất, cuối cùng xâm nhập đại não,

khiến người đó trở nên điên loạn và chết trong đau đớn. Chẳng những vậy, dù kẻ mắc bệnh

không chết ngay, thì đại não cũng bị tổn thương nghiêm trọng, biến kẻ đó thành một sinh vật

hình người không còn chút trí tuệ nào. Tuy rằng, trong cơ thể loại sinh vật hình người này, vật

chất kia đã mất đi đặc tính truyền nhiễm qua đường hô hấp và các con đường khác, nhưng nó

vẫn có thể thông qua di truyền, khiến đời sau, đời sau nữa, thậm chí là sau sau nữa của người

mắc bệnh cũng bị khiếm khuyết về trí lực.”

“Có điều, thành công này đã khiến họ phải trả một cái giá cực kỳ nặng nề. Vào thời điểm

Đạo quân Ánh sáng thí nghiệm thành công, bọn họ cũng phát hiện ra khuyết điểm của loại vật

chất này. Nó không phân biệt địch hay ta, cũng không thể đề phòng, chỉ cần là người là sẽ bị

nó ảnh hưởng. Vì vậy, khi người đầu tiên nghiên cứu loại vật chất này xuất hiện triệu chứng

căng thẳng thần kinh, dễ nổi giận, bắt đầu tấn công người khác... thảm kịch liền xảy ra. Một

phần tư Đạo quân Ánh sáng đã bị xóa sổ trên thế gian này chỉ trong chớp mắt. Các ngươi phải

biết rằng, với tư cách là một cá thể chiến đãu, mỗi một người trong Đạo quân Ánh sáng đều

cực kỳ mạnh mẽ, ngay cả những người làm công tác nghiên cứu cũng không ngoại lệ."

“À, phải rồi,” Đường Thọ dường như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, giọng nói cũng phảng

phất chút hoài niệm: “Không phải các ngươi từng đến Đảo Huyền Không tự đó sao? Ta thì

không dám đến chỗ đó, vì theo ghi chép trong thư tịch cổ, đó là nơi Đạo quân Ánh sáng tiến

hành huấn luyện và nghiên cứu. Khi tin tức có người xuất hiện triệu chứng của căn bệnh truyền

đến tai Tứ đại Vu vương, bọn họ liền quyết đoán hạ lệnh cách ly toàn bộ Đảo Huyền Không tự

khỏi thế gian. Nghĩ lại, cảnh tượng năm xưa chắc hẳn là thảm liệt lắm.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba sau cùng đã hiểu ra, tại sao lối vào Đảo Huyền Không

tự lạỉ bị chôn lấp dưới mấy chục mét đất sâu, dây xích vắt qua khe sâu dưới lòng đất cũng bị

chặt đứt. Những bộ xương khô chất đầy như núi sau cánh cửa, những vết máu vương vãi, tất cả

đều lặng lẽ lẽ thuật lại một đoạn lịch sử bị lãng quên. Nghĩ tới đây, cả mấy người đều cảm thấy

không rét mà run.

Đường Thọ lại tiếp tục nói; ' Sau khi rút kinh nghiệm xương máu, các Vu vương của bộ tộc

Qua Ba bắt đầu nghĩ lại, rốt cuộc vận mệnh của bộ tộc họ sẽ như thế nào? Vả lại, họ cũng cho

rằng, những thành viên chưa xuất hiện triệu chứng trong Đạo quân Ánh sáng cũng nhất định đã

bị truyền nhiễm, việc xuất hiện chứng trạng chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi. Vì vậy, bọn họ đã

quyết định cách ly toàn bộ Đạo quân Ánh sáng, chuyển dời đến một nơi hoàn toàn cách biệt

với thế gian mà họ tìm ra. Nơi ấy, chính là... Shangri-la trong truyền thuyết. Đồng thời, Tạng

vương đời cuối Lãng Đạt Ma khi ấy cũng đang mài dao mài kiếm, chuẩn bị triển khai một cuộc

đại đồ sát với Phật giáo, các vị Vu vương nhìn xa trông rộng sớm đã dự liệu được hậu quả của

hành động này. Đồng thời, bọn họ cũng hiểu rõ, không có chỗ dựa cuối cùng là Đạo quân Ánh

sáng, vương triều Thổ Phồn rốt cuộc có thể kiên trì được bao lâu trong cuộc đại biến động và

xung đột sắp sửa bùng lên này. Một khi loạn lạc nổi lên, toàn bộ trí tuệ và văn minh từng tồn

tại trên cao nguyên này nói không chừng sẽ bị hủy diệt trong lửa chiến tranh, tan thành tro bụi

như vương triều Tượng Hùng thuở xưa vậy. Vì thế, thân làm người bảo hộ cho Tứ Phương

miếu, các Vu vương đã đưa ra một quyết định khác, khi Đạo quân Ánh sáng rời khỏi thế gian

này, họ cũng mang theo toàn bộ báu vật và các điển tịch văn hóa trong Tứ Phương miếu. Đây,

chính là nguyên nhân Bạc Ba La thần miếu xuất hiện."

“Tứ đại Vu vương không chỉ tượng trưng cho trí tuệ của bộ tộc Qua Ba, mà còn là những cá

thể mạnh mẽ nhất trong Đạo quân Ánh sáng, và trong toàn bộ tộc. Bấy giờ, họ đã ước định

rằng, vị Vu vương đang đảm nhiệm vị trí lãnh tụ tinh thần tối cao sẽ dẫn theo toàn bộ Đạo quân

Ánh sáng tiến vào Shangri-la. Ba vị còn lại, sẽ chia nhau trấn giữ ba phương hướng của vương

triều, bảo vệ những phụ nữ, trẻ em và người già không rời đi cùng Đạo quân Ánh sáng trong bộ

tộc. Họ không ở lại trong bộ tộc mà tránh xa tộc nhân, bởi xét cho cùng, bấy giờ có rất nhiều

nhân vật cấp cao trong vương thất đều biết rằng Đạo quân Ánh sáng nắm trong tay bí mật bất

bại, bảo vệ tài sản và tri thức tích lũy nhiều năm của vương triều. Vì những thứ này, những kẻ

kiêu hùng thời loạn sẽ bất chấp sử dụng mọi thủ đoạn. Nếu họ ở cùng tộc nhân, lại không có

Đạo quân Ánh sáng bên mình, cá nhân dù mạnh đến mấy cũng chỉ thu hút đại quân đến vây

giết mà thôi. Còn khi họ phân tán đi, trở thánh cá thể độc lập, họ sẽ hòa mình vào bóng tối, trở

thành vua ám sát, ắt hẳn không một vị thủ lĩnh nào không sợ hãi bọn họ. Mà khi đó, Đạo quân

Ánh sáng ra đi một cách hết sức bí mật, cũng hết sức quyết đoán, ngay cả người trong bộ tộc,

cha mẹ vợ con họ cũng hoàn toàn không hay biết. Sau đấy, chiến tranh quả nhiên đã bùng nổ,

tuy rằng những vị Vu vương ở lại cho rằng bọn họ đủ sức uy hiếp những thế lực lớn mạnh kia,

nhưng khi chiến loạn cập kề, tất cả đều trở nên rối ren hỗn loạn, bộ tộc Qua Ba không còn

thanh niên trai tráng cũng không tránh khỏi bị chà đạp. Mà sự thật là, quân phiến loạn trước

đây gần như đều đã bị Đạo quân Ánh sáng đuổi tận giết tuyệt, vì vậy dân chúng bình thường

gần như không ai biết đến sự tồn tại của họ. Những người không biết Đạo quân Ánh sáng mạnh

mẽ và đáng sợ nhường nào, dĩ nhiên cũng không biết Vu vương là ai. Ta đoán rằng, những đứa

trẻ đã trải qua chiến loạn cửa bộ tộc Qua Ba kia ít nhiều cũng từng nghe nói đến sự vĩ đại của

Đạo quân Ánh sáng, sau khi bị lăng nhục ức hiếp, tự nhiên chúng sẽ không ngừng phấn đấu.

Không biết bọn chúng kiếm đâu ra một phần không đầy đủ phương pháp huấn luyện của Đạo

quân Ánh sáng, liền bước theo dấu chân tiền nhân, bắt đầu hành trình khổ luyện vượt lên cực

hạn. Đám người này, về sau phát triển thành một quần thể đặc dị, chính là... Mật tu giả!”

Đường Thọ chỉ vào pháp sư Á La nói: “Các ngươi chỉ biết tổ tiên mình rất mạnh mẽ, không

ngừng khiêu chiến cực hạn, vượt qua cực hạn nên, các ngươi cũng không ngừng lặp đi lặp lại

những bài huấn luyện mà người thường không thể chịu đựng ấy, nhưng các ngươi đều không

biết, tổ tiên của các ngươi năm xưa cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. E rằng bọn họ cũng không

hề muốn dùng những cách thức phi nhân ấy để giày vò bản thân mình đâu. Giữa trời băng đất

tuyết, để mình trần đi trên dây thép, ngồi xếp bằng trên ván đóng đầy đinh nhọn, mấy tháng

liền không ăn không uống, đấy đâu phải là huấn luyện? Phải nói là đang tự dùng cực hình với

bản thân thì đúng hơn.” Đường Thọ cảm khái một hồi, lại nói tiếp: “Thôi, không nói chuyện

này nữa, chúng ta tiếp tục câu chuyện đang kể nhé. Ba vị Vu vương ở lại thế gian, một người

lưu thủ phương Tây, bảo vệ Đảo Huyền Không tự đã bị phong tỏa, chắc là đề phòng bấy giờ có

người tình cờ phát hiện ra đầu mối gì đó, không cẩn thận lại mở cửa Đảo Huyền Không tự; một

vị khác ở phương Nam, đó vốn là nơi gần khu vực quần cư của người Qua Ba nhất, ông ta có

thể cảnh cáo và áp chế một số thế lực tà ác có ý đồ với bộ tộc Qua Ba; vị Vu vương cuối cùng

lại đến Trung Nguyên. Trong bốn vị Vu vương, ông ta là người duy nhất hu vọng có thể tiếp

tục nghiên cứu loại vật chất đó, để có thể ứng dụng nó trong thực tiễn. Bởi vì, ông ta chính là

người chỉ huy nghiên cứu và chế tạo ra loại vật chất kinh khủng ấy.”

Merkin và Trác Mộc Cường Ba giật mình chấn động, câu chuyện của Đường Thọ kể đã

càng lúc càng gần với những gì họ biết rồi. Quả nhiên, Đường Thọ lại nói tiếp: “Vị Vu vương

ở lại phía Tây, là Mạc Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Mạc, khi Cổ Cách bị tiêu

diệt, hậu nhân của họ Mạc đã theo giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha di cư sang phương

Tây, đổi thành họ Merkin. Đó chính là tổ tiên của ngươi, Merkin. Vị Vu vương lưu thủ tại phía

Nam, là Trại Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Trại, đó chính là tổ tiên của ngươi,

Cường Ba thiếu gia, vì vậy, tên đầy đủ của ngươi lẽ ra phải là Trại Trác Mộc Cường Ba; còn vị

Vu vương tiến vào Trung Nguyên kia, là Đảng Bản Ba. Ông ta đến Trung Nguyên, nhập gia

tùy tục, liền đổi chữ Đảng thành chữ Đường, đó chính là tổ tiên của ta. Ba người chúng ta, đều

là hậu duệ của Vu vương.”

“Còn vị Vu vương dẫn đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la kia, là Đông Bản Ba. Bấy giờ,

ông ta đã để lại một vị sứ giả ở Tam Giang Nguyên(51). phụ trách truyền đạt tin tức giữa Shangri-la với thế giới bên ngoài. không cần phải nhìn ta với ánh mắt ngạc nhiên đó, đúng thế,

bấy giờ bọn họ biết cách liên lạc với vùng đất cách biệt thế gian ấy. Thứ họ dùng để truyền tin,

là loài hạc cổ đen, loài chim duy nhất có thể bay vượt đỉnh Chomolungma. Chúng có thể vận

chuyển thư từ hoặc những món đồ không nặng lắm. Tổ tiên của chúng ta có trí tuệ vô biên,

phàm nhân tầm thường sao có thể hiểu được chứ? Vị sứ giả ấy chính là tổ tiên của vị sứ giả sau

này xuất hiện trong lịch sử. Khi đó, vị sứ giả ấy đã truyền đi một tin tức, nội dung thế nào thì ta

không biết, tóm lại sau khi nhận được tin tức ấy, ba vị Vu vương còn lại đều nhất loạt lên

đường đến đây. Vào thời điểm ấy, con cái họ đều đã thành niên, vì vậy, họ liền đem bí mật của

gia tộc truyền lại cho con trưởng dòng chính. Vì những thông tin này được coi là tuyệt mật,

bao giờ cũng chỉ truyền đạt miệng cho một người trước lúc lâm chung. Cứ truyền thừa như

vậy, không biết đến thời điểm nào, liền thất truyền. Trên thực tế, bản thân việc ba gia tộc

chúng ta trải qua nghìn năm vẫn duy trì được huyết mạch đã có thể coi là một kỳ tích rồi, còn

chuyện bí mật của gia tộc bị thất truyền, lại là chuyện hết sức bình thường. Được ghi lại rõ nét

nhất trong các ghi chép lịch sử là tổ tiên của Merkin. Năm đó, khi sứ giả xuất hiện ở vương

triều Cổ Cách, vị tổ tiên đó của ngươi hiển nhiên đã hoàn toàn không nhớ gì về nguồn gốc của

mình nữa, ông ta chẳng những không bảo vệ bí mật gia tộc, ngược lại còn dẫn tiến sứ giả đến

gặp Cổ Cách vương. Vì vậy, ông ta không hề biết trước đó đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại nhớ

kỹ những thông tin mà sứ giả mang đến, đồng thời truyền lại cho con cháu đời sau các ngươi.

Ông ta chỉ biết trên thế gian này có một nơi như thế, ở đó vàng bạc châu báu nhiều vô cùng vô

tận, và ông ta có dòng máu của một nhân vật quan trọng ở nơi ấy. Còn tổ tiên của Cường Ba

thiếu gia, cũng không ai biết họ đánh mất bí mật ấy từ bao giờ. Có điều, các tổ tiên của ngươi

rõ ràng còn lãng quên triệt để hơn cả tiên tổ nhà Merkin, ngay cả bí mật mà sứ giả mang ra

cũng không bảo tồn được. Tổ tiên của ta có thời gian truyền thừa dài nhất, tối thiểu khi vị sứ

giả kia xuất hiện, bọn họ vẫn nhớ được bí mật ấy, còn chuyện khi nào bị thất truyền thì ta cũng

không biết. Những bí mật hôm nay nói với các ngươi, đều là do ta đích thân tìm kiếm phát hiện

ra, đời cha ta, ông nội ta, cụ nội ta, đều hoàn toàn không hay biết chút gì cả.”

“Còn các ngươi!” Đường Thọ ngoảnh đầu về phía pháp sư Á La vfa Lữ Cánh Nam nói,

“những Mật tu giả các ngươi, cũng chỉ biết gia tộc nhà Trác Mộc Cường Ba có thân phận rất

cao quý, người trong gia tộc này đời đời đều phải được các ngươi âm thầm bảo vệ một cách

nghiêm mật, nhưng các ngươi lại không biết, thân phận cao quý này đối với các ngươi rốt cuộc

có ý nghĩa gì? Bọn người các ngươi vốn là những nô bộc của Vu vương, không ngờ lại hoàn

toàn quên lãng ta và Merkin, gia tộc chúng ta cũng là chủ nhân của các ngươi.”

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhất thời cũng không biết phản ứng thế nào, chuyện Đường

Thọ vừa nói, họ hoàn toàn không hay biết.

Đương nhiên, cả pháp sư và Lữ Cánh Nam đều biết thân phận của Cường Ba thiếu gia.

Đúng như Đường Thọ đã nói, họ chỉ biết Cường Ba thiếu gia có thân phận cao quý, nhiệm vụ

của các Mật tu giả là bí mật tu hành, bí mật bảo vệ, nhưng họ chưa bao giờ biết, thân phận của

gã rốt cuộc cao quý như thế nào.

“A ha!” Đường Thọ hình như sực nhớ ra một chuyện thú vị, quay đầu lại nói với Trác Mộc

Cường Ba, “Ngươi vẫn không biết, đúng không? Trong các Mật tu giả có thuyết về ký chủ (vật

chủ) và kẻ sống gửi. Bọn họ tự ví mình như một loại sinh vật ký sinh, ý ta, linh hồn của họ

nương nhờ vào ký chủ để tồn tại, bọn họ sinh ra để bảo vệ ký chủ, ý nghĩa tồn tại của họ chính

là bảo vệ ký chủ không bị tử vong bởi những lực lượng ngoài nhân tố tự nhiên.” Nói tới đây,

Đường Thọ đột nhiên hạ thấp giọng xuống, ra vẻ thần bí: “Ta nghĩ, chắc chắn ngươi không thể

biết, Lữ Cánh Nam, cô ta, chính là một trong những kẻ sống gửi vào ngươi.”

Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, kinh ngạc hướng ánh mắt sang nhìn Lữ Cánh Nam. Lữ

Cánh Nam mím chặt môi, nhìn thẳng về phía trước, không nói một lời. Đường Thọ vẫn khe

khẽ thì thầm bên tai Trác Mộc Cường Ba: “Có lẽ, vào lúc ngươi khoảng bốn năm tuổi gì đó, cô

ta đã biết sứ mệnh cả đời này của mình là gì, cô ta khắc khổ rèn luyện, chịu đựng những bài

huấn luyện phi nhân tính là vì ai, cô ta sống vì ai, ý nghĩa tồn tại của cô ta là gì ? Mật tu giả,

đúng là một quần thể kỳ quái, bọn họ... “

Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không còn biết Đường Thọ nói gì sau đấy nữa, trong đầu gã,

mọi sự việc từ lúc gặp gỡ, quen biết Lữ Cánh Nam trong khoảnh khắc bỗng hiện lên một cách

rõ nét. Người phụ nữ mạnh mẽ như loài chim ưng ấy, lần đầu tiên xuất hiện trước mắt Trác

Mộc Cường Ba đã toát lên khí chất đặc biệt chỉ quân nhân mới có; lần đầu tiên tranh đấu vì

một chiếc vòng cổ, khí thế cô hùng hổ chẳng kém gì đấng tu mi; trong phòng làm việc, thái độ

nghiêm túc và cố chấp lúc cô vùi đầu vào đống hồ sơ; hết lần này đến lần khác, trong ánh

hoàng hôn, cô đứng phía xa nhìn bóng gã và Mẫn Mẫn bên nhau, còn mình thì cô đơn lẻ bóng;

để tìm kiếm đám người bị lạc lối trong rừng, cô đã một thân một mình xuyên qua rừng rậm

Amazon, trên tay chỉ có một con dao săn; trong động băng trên núi tuyết, người phụ nữ kiên

cường ấy dù bị đông thành đá cũng quyết không chịu mở miệng nhận thua, cô... cô ấy là kẻ

sống gửi vào gã u? Còn gã, gã là ký chủ của cô sao?

Nhìn Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đường Thọ sốt ruột đẩy gã một cái, cưỡng ép gã

rảo chân đi nhanh hơn. kế đó lại nói: "Sự việc đến đây vẫn chưa kết thúc. Loại vật chất mà Đạo

quân Ánh sáng nghiên cứu ra ấy, về sau từng xuất hiện hai lần, mà hai lần này, đều liên quan

đến vị sứ giả đã đến Cổ Cách kia. Dẫu sao thì lúc bấy giờ, tất cả đạo quân Ánh sáng đều đã bị

cảm nhiễm, nhưng không phải tất cả bọn họ đều phát bệnh, chỉ có khoảng năm phần trăm số

người xuất hiện triệu chứng rõ rệt thôi.”

Mấy người bọn Merkin đều thầm nhủ, vừa nãy chẳng phải ngươi nói một phần tư Đạo quân

Ánh sáng đã biến mất rồi còn gì?

.

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

.Đường Thọ dường như lại đọc được những gì bọn họ đang nghĩ trong đầu, bèn giải thích:

“Ta biết các ngươi đang nghĩ gì, chuyện này có gì kỳ lạ đâu, chỉ có năm phần trăm Đạo quân

Ánh sáng xuất hiện triệu chứng của bệnh, nhưng vì hệ thần kinh và cơ thể bọn họ đã bị vật chất

đó biến đổi, để ngăn ngừa những người này, không thể không điều động hai mươi phần trăm

nhân lực của Đạo quân Ánh sáng cùng chết với họ. Có điều, nhóm người di cư đến Shangri-la

kia, sau khi đến nơi liền bắt đầu một đợt nghiên cứu mới. Xét cho cùng, đó cũng không phải là

một nhóm người nhỏ, bọn họ đều có bản năng và khát vọng cầu sinh, vả lại, muốn khống chế

được loại vật chất này, cũng cần phải nghiên cứu thấu triệt hơn về đặc tính sinh học của nó.

Kết quả nghiên cứu đợt sau này cho thấy, quả nhiên những người ở Shangri-la cũng đã bị cảm

nhiễm. Loại vật chất này đang ký sinh trong cơ thể họ, không phải họ không phát bệnh, mà là

đang ở trong thời kỳ ủ bệnh. Khoa học ngày nay tuy đã chứng thực, dù là bệnh bò điên hay

bệnh Kuru. cũng đều có thời kỳ ủ bệnh, thậm chí ở một số trường hợp thời kỳ này có thể kéo

dài đến hơn 30 năm, có điều, một khi phát bệnh thì tỷ lệ tử vong sẽ là 100%, không thể cứu

chữa. Sau khi nghiên cứu vô số lần, cuối cùng Đạo quân Ánh sáng đã có hiểu được thêm về

loại vật chất ấy. Trong đợt tác dụng đầu tiên của nó, số lượng những người đột nhiên phát bệnh

thực ra rất nhỏ, chỉ có một số người thể chất đặc biệt mẫn cảm mới xuất hiện các triệu chứng

của bệnh thần kinh; còn đại đa số những người còn lại chỉ xuất hiện triệu chứng tương tự như

bị viêm đường hô hấp, ho, hắt xì, sốt... ngắn thì năm bảy ngày, dài cũng không quá hai tháng,

sau đó triệu chứng sẽ biến mất, mọi người có thể trở lại cuộc sống bình thường. Chỉ có điều,

trong thời gian người nhiễm bệnh bị cảm mạo, loại vật chất kia sẽ sinh sôi một cách bùng nổ,

đồng thời lan tỏa trên diện rộng. Con người gần như sẽ bị lây nhiễm 100%, nếu tiếp xúc với

chúng. Sau đó, loại vật chất ấy sẽ tiềm phục trong cơ thể người nhiễm bệnh, bắt đầu dịch

chuyển đến hệ thần kinh theo một phương thức mà hệ miễn dịch không thể nào phát giác được,

cho đến khi phát bệnh lần thứ hai, thời gian kéo dài khoảng từ hai đến năm năm. Cũng có

nghĩa là, từ lần đầu tiên xuất hiện triệu chứng cảm mạo, tùy theo từng cá thể mà thời gian ủ

bệnh khác nhau, nhưng thời gian còn lại lâu nhất cũng không quá năm năm. Lần phát bệnh thứ

hai này rất đáng sợ. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, người bệnh đầu tiên là

nguồn bùng phát lây lan loại vật chất đó, có thể truyền nhiễm cho người khác thông qua hô

hấp, bài tiết và máu. Kinh khủng hơn nữa là, qua thời kỳ ủ bệnh kéo dài mấy năm, loại vật chất

ấy gần như đã chiếm cứ hoàn toàn não bộ của người bệnh, vì vậy lần phát bệnh thứ hai này,

người bệnh sẽ trở nên điên cuồng hung bạo, tấn công tất cả mọi sinh vật có thể chuyển động

một cách vô ý thức. Vì cảm quan của những người này đã bị tổn thương nghiêm trọng, hệ thần

kinh và cơ bắp không còn phối hợp hài hòa, nên động tác của họ cũng không được linh hoạt

như trước. Nhưng cũng vì sự tổn thương của cảm quan và hệ thần kinh, bọn họ hoàn toàn

không cảm thấy đau đớn, vì vậy... cảnh tượng khi ấy, thực sự cũng hơi tanh máu và đáng sợ.

Mà lần phát bệnh thứ hai này sẽ có hai kết quả hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, chính là như ta

vừa nói, đau đớn cực độ, điên cuồng cực độ, cuối cùng nếu không kiệt lực mà chết giữa lúc

điên cuồng tấn công bất cứ sinh vật nào trong tầm mắt thì cũng vì đau đớn mà mất dần các dấu

hiệu của sự sống; ngoài ra, còn một trường hợp khác, chính là đại não bị tổn thương hoàn toàn,

nhưng lại không ảnh hưởng đến công năng vận động của họ. Những người này có thể đi lại, ăn

uống, sinh đẻ, sinh hoạt như người bình thường, điểm khác biệt duy nhất là không còn trí tuệ.

Bọn họ chỉ còn giữ lại được những bản năng sinh tồn cơ bản nhất nguyên thủy nhất của động

vật, đồng thời tiếp tục di truyền loại bệnh này đến đời sau, về thời gian di truyền kéo dài bao

lâu, theo tính toán sơ bộ của ta, có lẽ vào khoảng... 300 năm.”

“Còn về khả năng truyền nhiễm, Đạo quân Ánh sáng cũng đã đi đến một kết luận tương đối,

đại khái trong khoảng 1000 người, chỉ có một người không bị cảm nhiễm. Những người này có

sức đề kháng tự nhiên, nhưng khả năng đề kháng này từ đâu mà có thì họ cũng không nói rõ

được. Nhưng theo ta thì, có lẽ là do tổ tiên của người này từ thuở ở vùng man hoang đã ăn rất

nhiều thịt người, vì vậy liền sinh ra kháng thể. Bằng cớ lớn nhất, chính là, Tứ đại Vu vương

đều có khả năng đề kháng tự nhiên trước loại vật chất kia. Nói cách khác, ba người chúng ta,

cùng với các thành viên trong gia tộc, đều có khả năng đề kháng trước loại vật chất ấy. Nó

không có tác dụng gì với chúng ta. Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của ta thôi, rốt cuộc có

chính xác hay không, chưa thử qua thì không ai dám đảm bảo cả.”

Đường Thọ dừng lại. Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng hỏi: "Câu chuyện của mày hết chưa?"

Đường Thọ cườỉ cười đáp: "Tất nhiên là chưa, ta vừa nói đấy, loại vật chất này về sau lại

xuất hiện thêm hai lần nữa, vả lại cả hai lần này đều liên quan đến vị sứ giả truyền tống tin tức

kia. Tình hình cụ thể thế này, năm ấy, sau khi Đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la, liền bắt đầu

xây dựng lãnh thổ của riêng họ ở đây. Phải biết rằng, đại đa số cư dân sống ở Shangri-la này

thời bấy giờ đều là các bộ 1ạc đã chiến bại trên cao nguyên, hoặc vô tình hoặc dựa vào truyền

thuyết của tiền nhân mà tìm đến đây. Đối mặt với Đạo quân Ánh sáng vô địch, bọn họ hoàn

toàn không có năng lực phản kháng. Đạo quân Ánh sáng đã trưng tập toàn bộ thanh niên trai

tráng ở Shangri-la này đi xây dựng Bạc Ba La thần miếu, tốn hơn trăm năm mới hoàn thành.

Đồng thời, họ cũng không ngừng cố gắng tìm cách khống chế loại vật chất kia, làm cách nào

để phát hiện người sắp phát bệnh từ sớm, làm cách nào để khiến người đã xuất hiện triệu chứng

của bệnh duy trì được lý tính, làm cách nào để kéo dài khoảng thời gian trước khi xuất hiện

triệu chứng hoặc thời gian sinh tồn sau khi triệu chứng cảm nhiễm lần đầu xuất hiện... vân vân.

Đông Bản Ba và hậu nhân của ông ta 1à lãnh tụ của toàn bộ nơi này. Đến khi Bạc Ba La thần

miếu hoàn thành, hậu duệ của Đông Bản Ba cho rằng, trải qua trăm năm phân tranh, chiến loạn

ở thế giới bên ngoài hẳn cũng đã kết thúc, vả lại, ông ta cảm thấy mình đã tìm được cách thức

khống chế loại vật chất kia rồi. Nói theo cách của chúng ta ngày nay, thì họ đã phát hiện vắc

xin sống giảm độc lực(52) hoặc vắc xin chết(53). Vì vậy, ông ta quyết định thông báo cho sứ giả ở

thế giới bên ngoài, mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn lại đến Shangri-la, mở cửa Bạc Ba

La thần miếu để lấy các báu vật và kinh văn của Tứ Phương miếu được Đạo quân Ánh sáng

mang theo đến nơi này."

"Các ngươi nhất định lấy làm lạ, tại sao hậu nhân của Đông Bản Ba không thể trực tiếp lấy

những món châu báu đó ra cho xong, mà nhất định phải mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn

lại. Chuyện này phải bắt đầu nói từ lúc xây dựng Bạc Ba La thần miếu. Năm đó, sau khi Đạo

quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la, liên tiếp có người phát bệnh, phá hoại rất nhiều. Đông Bản

Ba lo lắng những người còn lại có thể phát bệnh bất cứ lúc nào, nói không chừng lại hủy hoại

hết những đồ vật trân quý mà họ bảo vệ, vì vậy ông ta bắt đầu nghĩ đến việc xây dựng một kho

tồn trữ bảo mật tuyệt đối để cất giấu báu vật. Cái kho ấy, chính là nơi này và tầng phía bên

ngoài mà các ngươi vừa trông thấy. Lúc đó, Tứ đại Vu vương đã tề tựu về đây, vì vậy cơ quan

huyết trì ở đây chẳng những yêu cầu có chài khóa, mà còn đòi hỏi phải dùng huyết mạch của

ba vị Vu vương để khởi động. Đến khi cái kho tồn trữ này được xây dựng xong, Tứ đại Vu

Vương mới lần lượt qua đời. Có lẽ, trước khi vị Bản Ba cuối cùng rời khỏi thế gian, ông ta đã

nhắc nhở hậu nhân của Đông Bản Ba, phải xây dựng một thần miếu khổng lồ để bảo vệ kho

tàng này, chớ nên để một kẻ tùy tiện cũng có thể dếnđược đây, dùng sức trâu phá hoại. Những

thành viên còn lại trong Đạo quân Ánh sáng và những lao động bị họ trưng dụng đều có tín

ngưỡng của riêng mình, bọn họ sinh con đẻ cái ở đây, không ngừng làm việc, từ đó Bạc Ba La

thần miếu mới lấy kho tàng này làm trung tâm, bắt đầu mở rộng ra phía ngoài, quy mô càng lúc

càng lớn, cuối cùng hình thành nên một tòa thần miếu như các ngươi thấy bây giờ.”

“Ta lại nói đi xa quá rồi, thời đó, các vị Vu vương đều là những người có đại trí tuệ và pháp

lực vô biên, bọn họ lại đem phần lớn những trí thức mình sở hữu truyền thụ cho con cái. Lẽ

đương nhiên, họ cho rằng, tất cả hậu duệ của mình cũng sẽ trở thành những người sở hữu đại

trí tuệ và pháp lực vô biên. trong tín ngưỡng của người Qua Ba, chỉ cần ba vị Vu vương tề tựu

là có thể quyết định bất cứ việc gì trên thế gian này. Có điều, e rằng các vị Vu vương cũng

không ngờ được, một nghìn năm sau, đám hậu duệ chúng ta đây không còn tin vào điều đó

nữa. Bởi vậy, năm đó, hậu nhân của Đông Bản Ba phái người mang chìa khóa và bản đồ chỉ

đường đến Shangri~la ra ngoài, đồng thời mang theo một bản sao lục của bản tổng cương ghi

lại toàn bộ kinh sách cũng như châu báu được tàng trữ trong Bạc Ba La thần miếu mà Tứ đại

Vu vương lưu lại. Bản tổng cương đó, chính là thứ được các ngươi gọi là Đại Thiên Luân

Kinh. Đại Thiên Luân Kinh bao la vạn tượng, không gì là không có, nhưng kỳ thực nó chỉ là

một bản tổng cương, một vạn hai nghìn bài tụng, lần lượt bao hàm một vạn hai nghìn phân

mục, tỷ như Phật học, Đạo học, Nho học, Nông nghiệp, Sinh vật, Thủy lợi, Luyện kim, Chế tạo

vũ khí... đều chỉ có thể coi như một phân mục đơn lẻ mà thôi. Các ngươi hãy nhìn những ngăn

kéo này xem, nhìn những thư tịch kinh sách chất đầy bên trong đó mà xem, một vạn hai nghìn

phần mục đấy. Nơi đây gần như đã thu thập kết tinh toàn bộ trí tuệ từ thời Đường trở về trước

trên toàn thế giới, có cả những thứ kỹ thuật cố xưa mà khoa học hiện đại ngày nay cũng chưa

thể giải thích. Có câu, châu báu có giá, trí tuệ vô giá, vì vậy các kinh thư điển tịch ghi chép lại

những kỹ thuật tiên tiến nhất của thời đại đó, đều được để ở tòa tháp trung tâm này, đại điện

ngoài kia chỉ cất giữ một số vàng bạc châu báu quý giá mà thôi.”

“Còn về ba chiếc chài khóa, chính là thứ để mở cánh cửa ngoài kia ra, nói ra cũng thật kỳ

quái, tổ tiên chúng ta đều đã quên hết bí mật kia rồi, vậy mà vẫn giữ được ba chiếc chìa khóa

này, truyền thừa đến tận ngày nay. Ta nghĩ, có lẽ là vì bản thân tạo hình của ba thanh kiếm

đồng này tượng trưng cho sinh thực và truyền thừa cũng nên. Lại nói về bản đồ, bản đồ được

chia làm ba phần, cũng chính là ba món tín vật mà các ngươi khổ công tìm kiếm. Món tín vật

đầu tiên là hai tấm bản đồ da sói, lần lượt vẽ hai con đường thông qua sông ngầm dưới đất, và

thông qua núi tuyết để đến Shangri-la. Tín vật thứ hai là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nó

chính là bản đồ địa hình của toàn bộ vùng đất Shangri-la này đồng thời cũng ghi chú tuyến

đường dẫn đến Bạc Ba La thần miếu sau khi từ thế giới bên ngoài tiến vào Shangri-la này. Còn

món tín vật thứ ba bấy lâu nay vẫn luôn ở trong tay gia tộc chúng ta, các ngươi chưa từng thấy,

ta gọi nó là Ngọc Xích. Thứ này ghi lại các cơ quan và tuyến đường bên trong Bạc Ba La thần

miếu. Ba chiếc chìa khóa và ba món tín vật này được mang ra trong hai lần. Lần đầu tiên, sứ

giả đưa chìa khóa đến tay tổ tiên của ba người chúng ta, nói thực lòng, ta cũng có chút khâm

phục ý chí của người này. Tuy nói, ông ta biết được phương vị đại khái của hậu duệ ba vị Vu

vương, nhưng phàm là con người, ắt sẽ có lúc phải di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, vả lại,

tổ tiên của Merkin và ngươi bấy giờ chắc cũng đã quên hết bí mật và thân thế của gia tộc mình

rồi, muốn tìm được tổ tiên các ngươi tuyệt đối không phải là chuyện dễ. Manh mối ta tìm được

cho thấy, để đưa ba chiếc chìa khóa này đến tay tổ tiên của chúng ta, vị sứ giả kia ít nhất cũng

tốn mười năm trời. Có điều, đến lần thứ hai khi mang bản đồ ra thì dễ dáng hơn nhiều, nhưng

khi ấy lại nảy sinh một tình huống ngoài dự kiến. Khi đó, chắc hẳn tổ tiên của Merkin đã chẳng

hứng thú gì với sứ mệnh của gia tộc nữa, ông ta đang lo bợ đít lấy lòng Cổ Cách vương, hy

vọng có thể trở thành một vị quan quyền cao chức trọng. Bởi vậy, sau khi có được chìa khóa,

ông ta đã nôn nóng đem đi tiến cống cho Cổ Cách vương. Một giọt máu có thể làm chiếc chìa

khóa trông như thanh kiếm đồng hoàn toàn biến hình, đừng nói là Cổ Cách thời bấy giờ, cho

dù nước Mỹ ngày nay cũng không thể tạo ra được sản phẩm công nghệ độc đáo như thế. Cổ

Cách vương dĩ nhiên hết sức kinh ngạc, đồng thời, thân là hậu duệ của vương thất, Cổ Cách

vương cũng biết bí mật về Đạo quân Ánh sáng, thế nên, khi sứ giả đến tìm tổ tiên của Merkin

lần thứ hai... ông ta đã bị giữ lại Cổ Cách.”

Đường Thọ nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Đại Thiên Luân Kinh và hai tấm

bản đồ da sói lẽ ra phải được giao vào tay tổ tiên ngươi cũng bị giữ lại Cổ Cách. Đương nhiên,

Cổ Cách vương chỉ lấy lý do muốn chiêm ngưỡng thần tích để giữ sứ giả lại, chứ không hề

cưỡng chế câu lưu. Nguyên nhân thực sự khiến sự việc xoay chuyển hoàn toàn như vậy, bắt

nguồn từ bên trong Shangri-la. Vốn dĩ, hậu nhân của Đông Bản Ba cho rằng, ông ta đã sáng tạo

ra thứ tương tự như vắc xin sống giảm độc lực, có thể chữa trị được thứ quái bệnh kia rồi.

Nhưng ông ta đâu biết, tri thức của ông ta so với Tứ đại Vu Vương quả thực cách biệt quá xa.

Năm xưa, tổ tiên ta đã dốc hết tâ, lực nghiên cứu chế tạo ra loại vật chất này, loại vật chất mà

ngay cả tổ tiên ta cũng không nghĩ được cách tiêu diệt, làm sao lại để bị chinh phục như thế?

Chắc chắn tình huống mới mà họ phát hiện ra khi ấy là loại vật chất kia đã biến dị, khả năng

tấn công mạnh mẽ hơn, càng dễ lây lan hơn. Hậu nhân của Đông Bản Ba cũng là một người

thông minh, ông ta lập tức nhận ra rằng vẫn chưa đến lúc mở cửa Bạc Ba La thần miếu. Bởi lẽ,

trước lúc làm chung, Tứ đại Vu vương từng cảnh cáo hậu nhân rằng, bên trong kho tồn trữ này

không chỉ có toàn bộ châu báu của Tứ Phương miếu và thư tịch bao hàm văn minh cổ đại của

toàn bộ thế giới, mà còn tồn lưu tất cả thành quả nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng, trong đó

bao gồm cả thành tựu cao nhất, một mẫu nguyên thủy của loại vật chất kia. Vì vậy, ông ta liền

truyền tin cho sứ giả, hy vọng sứ giả có thể thu hồi chìa khóa và bản đồ lại. Ta cũng không rõ

thông tin này được truyền đến tay sứ giả bằng cách nào, có lẽ ở Tam Giang Nguyên vẫn còn

người lưu thủ, từ Tam Giang Nguyên dùng các loài chim như bồ câu đưa thư hoặc chim ưng để

truyền tin. Nhưng ông ta đã bỏ qua mất một vấn đề, sứ giả chỉ có thân phận người truyền tin,

làm sao có thể đòi lại thứ đã giao vào tay chủ nhân được. Vị sứ giả ấy từng đến tìm tổ tiên của

ta, phỏng chừng tổ tiên ta cũng không khác tổ tiên của Merkin là mấy, sau nhiều năm sống

giữa những người bình thường, bọn họ sớm đã không còn nhớ gì về chức trách của mình nữa.

Sau khi biết được trên đời này có một nơi như Bạc Ba La thần miếu, họ lại chẳng nôn nóng

muốn đến đó xem sao, làm gì có chuyện giao trả tín vật trở lại chứ? Sứ giả không còn cách nào

khác, đành giữ lại Đại Thiên Luân Kinh và tấm gương đồng chưa giao đi, đợi chờ mệnh lệnh

tiếp theo của hậu duệ Đông Bản Ba.

"Ông ta không hề biết, vị hậu duệ của Đông Bản Ba ấy cũng đang lâm vào tình thế tiến

thoái lưỡng nam, hậu quả của lần biến dị đó hết sức kinh khủng, vị hậu duệ đó đã gần như

tuyệt vọng. Ông ta bắt đầu tin chắc rằng, từ khoảnh khắc loại vật chất ấy được sinh ra, số mệnh

đã định sẵn con người không thể chiến thắng nổi nó. Thế nhưng, trong Bạc Ba La thần miếu là

kết tinh của trí tuệ nhân loại suốt bao đời, nếu thu hồi bản đồ trở về, sợ rằng người ở thế giới

bên ngoài sẽ không bao giờ tìm được nơi này nữa, vậy thì ngọn lửa trí tuệ của tổ tiên loài người

sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong thần miếu. Song mặt khác, nếu người không biết chuyện lại mở

chiếc hộp ma quỷ chứa đựng loại vật chất kia ra, thì cả nhân loại này, sợ rằng không cần phải

nói đến trí tuệ làm gì nữa. Tồn tại hay la hủy diệt, đây có lẽ là vấn đề năm xưa vị hậu duệ của

Đông Bản Ba suy nghĩ nhiều nhất. Nếu nhân lực đã không thể quyết định được, thì đành giao

cho ông trời quyết định vậy, cuối cùng, ông ta hạ quyết định, phân tán bản đồ đến chân trời góc

biển. Giả sử ý trời muốn loại vật chất kia được trở lại thế gian, vậy chứng tỏ rằng trời muốn

tiêu diệt loài người, không ai có thể thoát được, còn trong trường hợp bản đồ và chìa khóa bị

hủy hoại vì nguyên nhân nào đó, tức là ông trời muốn xóa sổ Bạc Ba La thần miếu, vậy thì cứ

coi như nơi này chưa từng tồn tại là được. Đây chính là quyết định cuối cùng của vị hậu duệ

Đông Bản Ba đó, đồng thời, ông ta còn làm ra một chuyện điên cuồng khác nữa. Ông ta giao

một phần loại vắc xin sống giảm độc lực kia cho sứ giả, nói cho sứ giả biết toàn bộ nguyên ủy

sự tình, sau đó yêu cầu sứ giả tìm một hòn đảo nhỏ cách ly với thế giới bên ngoài, tốt nhất chỉ

có một hai bộ tộc lạc hậu trên đảo, khoảng chừng trăm người để thử nghiệm loại vắc xin này

một lần nữa. Ông ta vẫn không cam tâm, khi đó, nhân khẩu trên tầng bình đài thứ ba đã điêu

linh đến mức không thế tiến hành thử nghiệm một lần nữa rồi."

"Những chuyện sau này, chắc hẳn các ngươi ít nhiều cũng điều tra được một chút rồi, sứ giả

không biết đã dùng cách gì thuyết phục được Cổ Cách vương để ông ta mang theo tấm gương

đồng đến tận châu Mỹ xa xôi, đồng thời phái 21 đệ tử, chia tách Đại Thiên Luân Kinh ra, phân

tán đi khắp thế giới. Nhưng Cổ Cách vương này cũng rất giảo hoạt, ông ta chia tách Đại Thiên

Luân Kinh, nhưng giữ hai tấm bản đồ da sói lại, hơn nữa còn phục chế cả Tòa thành được ánh

sáng tỏa chiếu, hẳn là bấy giờ Cổ Cách vương đã có ý đồ với Bạc Ba La thần miếu rồi. Còn vị

sứ giả kia, đã thực hiện đúng theo yêu cầu của hậu duệ Đông Bản ba, làm một cuộc thí nghiệm

nhỏ ở châu Mỹ. Quá trình thí nghiệm thế nào ta không biết, chỉ biết kết quả của lần thí nghiệm

đó đã làm vị sứ giả kia hoàn toàn suy sụp, đồng thời một nền văn minh gọi là Maya cũng từ đó

biến mất khỏi địa cầu. Ta đoan chắc, vị sứ giả ấy đã được tận mắt chứng kiến cái gì gọi là địa

ngục trần gian rồi. Sau khi sứ giả trở về Cổ Cách, không hiểu đã xảy ra chuyện gì mà Cổ Cách

vương lại sở hữu được chiếc hộp đựng phần vật chất còn sót lại. Về sau, khi Cổ Cách gặp phải

họa diệt quốc, vị vương cuối cùng của Cổ Cách một lòng quyết tử, đã mở chiếc hộp đó ra, vậy

là Cổ Cách cũng biến mất trong lịch sử. Trong các văn thư chính thức của Lạp Đạt Khắc có ghi

lại, bọn họ đã phát động chiến tranh chinh phạt Cổ Cách, đồng thời giành thắng lợi trong cuộc

chiến đó, nhưng lại không hề thống kê đại quân của họ đoạt được bao nhiêu châu báu, nô lệ ở

Cổ Cách. Bọn họ chiến thắng, song không hề thu được chiến lợi phẩm nào. Thành thị của Cổ

Cách thảy đều biến thành những tòa thành chết, cảnh phồn hoa hóa thành hoang phế đổ nát,

xác người ở khắp mọi nơi, cũng còn một ít người sống, nhưng bọn họ không biết mình là ai, từ

đâu đến, có thể làm gì.”

“Michael Young(54), người nước ngoài đầu tiên đặt chân đến vùng đất phía Tây Tây Tạng đã rất kinh ngạc trước mức độ lạc hậu và nguyên thủy của văn minh bộ lạc ở nơi này. Ông ta đã

cảm khái thốt lên, tôi thật không ngờ, ở vùng đất cổ xưa thần bí phương Đông này vẫn còn lưu

tồn một chủng tộc nguyên thủy như thế, bọn họ giống như đang sống trong thời kỳ Đồ đá cũ

vậy, người người khoác da thú, sử dụng dụng cụ bằng xương, thậm chí còn không thể tự mình

tạo ra một rnón binh khí bằng đá tử tế nữa. Thế nhưng, ông ta còn chưa biết, đây còn là kết quả

sau khi bị văn minh ngoại lai can thiệp vào. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy,

trước khi tác dụng di truyền của căn bệnh quái ác kia biến mất, có thể tiến hành can thiệp một

cách thích đáng đối với những con người vô trí lực ấy. Nhưng kết quả của việc can thiệp là,

những người đó chỉ có thể mô phỏng lại những hành vi đơn giản nhất, họ không thể phát âm,

cũng không có ý thức tự ngã, huấn luyện họ đến mức độ cao nhất cũng không vượt qua được

nhân loại ở thời kỳ Đồ đá cũ. Những người này chỉ mạnh hơn lũ khỉ một chút, thậm chí còn

không so được với tinh tinh, sau này giải phẫu phát hiện, kết cấu đại não của những người bị di

truyền căn bệnh kia khác với người bình thường. Đại não của họ hơi nhỏ hơn người thường, vả

lại ở một số phần, tổ chức não đã bị suy thoái. Kỳ thực, ngày nay triệu chứng này cũng không

phải hiếm gặp, chỉ có điều, không phải tầm tuổi nào cũng bị, mà thường chỉ có ở người già...

chúng ta gọi là... bệnh Parkinson. Nói tóm lại, đây là một thứ vô cùng hay ho. Được rồi,

chuyện đã kể xong, chắc hẳn các ngươi cũng biết ta đến đây vì thứ gì rồi phải không?"

Cuối cùng, Đường Thọ thở hắt ra một hơi dài, nhếch mép lên, nở một nụ cười thỏa mãn.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba không ai không tái mặt, nếu trên đời này có một thứ

như vậy, nếu để thứ này lưu lạc ra bên ngoài thì hậu quả thực vô cùng đáng sợ. Hậu quả ấy,

không phải một khu vực, hay một quốc gia nào có thể hứng chịu, nó sẽ làm thay đổi tương lai

của toàn thể nhân loại. Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ lại bài thơ lưu truyền trong bộ tộc

Kukuer và thôn Công Bố: “Một khi máu tanh làm vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai họa

sẽ liên tiếp giáng xuống khắp mọi nơi như cơn mưa đá khủng khiếp, thành thị sẽ trở thành tòa

thành chết, không người sống sót...” Đây há chẳng phải chính là hậu quả đáng sợ trong lời tiên

tri đó hay sao?

Pháp sư Á La lên tiếng chất vấn: "Làm như vậy, rốt cuộc ngươi có lợi ích gì?"

“Lợi ích,” Đường Thọ nhếch mép lên cười khinh khỉnh: “Không, các ngươi căn bản không

thể hiểu được ta, các ngươi không biết ta tồn tại vì cái gì. Ngươi thấy ta giống như kẻ tìm đến

nơi này vì lợi ích sao? Ta chỉ muốn hủy diệt toàn nhân loại, nếu có thể khiến toàn nhân loại bồi

táng cùng ta, cho dù ta chết đi, cũng coi như không tệ lắm.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen giật mình kinh hãi, Merkin lắp ba lắp bắp hỏi:

“Tại... tại sao?”

KẺ TỰ XƯNG LÀ THẦN

.Đường Thọ cất tiếng, giọng đanh thép như một viên thảm phán đang tuyên án: "Loài người

là kẻ thủ của toàn thế giới, mỗi một người các ngươi đều có tội! Những kẻ đang sống đều có

tội, thế giới này vốn là một thế giới tự nhiên và hài hòa, mỗi loại sinh vật đều có đạo sinh tồn

của riêng chúng, các chuỗi thức ăn xoắn bện lại với nhau, tạo thành một vẻ đẹp hòa hợp. Thế

nhưng, kể từ khi sinh vật gọi là con người các ngươi xuất hiện, sự hài hòa ấy đã bị phá vỡ. Loài

người là thiên địch của tất cả giống loài trên thế giới, còn bản thân các ngươi lại không có thiên

địch. Các ngươi ngang nhiên chiếm cứ mắt xích cuối cùng của chuỗi thức ăn, cái gì các ngươi

cũng ăn được, chuyện xấu xa gì các ngươi cũng làm được. Từ khi loài người xuất hiện, các

giống loài trên thế giới biến mất nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào trước đây. Lũ các ngươi lại

không ngừng mở rộng lãnh địa, không ngừng cướp đoạt nguồn tài nguyên, thành thị của loài

người càng lúc càng lớn, mà thành thị của các ngươi, ngoại trừ đối với bản thân con người và

những loài sing vật do các ngưoi nuôi dưỡng, gần như không thích hợp cho bất cứ loại sinh vật

hoang dã nào sinh tồn. Bản năng của các ngươi là tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên. Các

ngươi tự cho mình có địa vị cao vời, có quyền đinh đoạt hết thảy. Đứng trước thiên nhiên, há

chẳng phải các ngươi đã đặt mình vào vị trí của thần thánh rồi sao? Tài nguyên thiên nhiên

phải trải qua mấy chục triệu thậm chí mấy trăm triệu năm mới hình thành, loài người chỉ cần

máy năm là có thể vơ vét sạch trơn. Kỳ quan thiên nhiên mất hàng triệu năm mới thành hình,

con người có thể san phẳng thành bình địa chỉ trong mấy phút đồng hồ ngắn ngủi. Vì loài

người chia thành nhiều quốc gia và sắc tộc khác nhau, nên mỗi một quốc gia đều ra sức đề cao

việc sinh sôi nảy nở, dân số càng lúc càng nhiều, nhưng họ vẫn lo lắng người nước mình chưa

đủ đông, khiến dân sô thế giới bùng nổ. Mỗi một người sinh ra đều có ý thức xâm chiếm rất

mạnh mẽ. Từ khi còn là đứa trẻ ẵm ngửa, các ngươi đã biết nắm chặt lấy thứ ở trong tay mình.

Mỗi một con người đều phải ăn rất nhiều sinh vật khác mỗi một con người, đều muốn mở rộng

không gian sống thuộc về riêng mình, những thứ này từ đâu ra chứ? Không tên nào là không

vươn bàn tay về phía thiên nhiên Nhu cầu của các ngươi càng lúc càng lớn, đối với bất cứ

nguồn tài nguyên nào, loài người cũng chỉ biết cướp đoạt mà không cần nghĩ đến hậu quả về

sau. Cũng có một nhóm nhỏ ăn no rửng mỡ mới nhảy ra nói phải bảo vệ môi trường và cân

bằng sinh thái, thế nhưng thử hỏi, những lời bọn chúng nói, có tác dụng gì hay không? Loài

nguời là loài sinh vật duy nhất không vì nhu cầu sinh tồn và bảo vệ lãnh địa cũng tàn sát lẫn

nhau; loài người, là loài sinh vật duy nhất không vì sự tiếp diễn của chủng tộc mà điên cuồng

sinh sản; loài người là loài sinh vật duy nhất chỉ biết lấy của thiên nhiên; mà không biết hồi báo

lại thiên nhiên; loài người, là tồn tại quái dị duy nhất trên thế giới này."

Đường Thọ chợt đổi giọng châm biếm: "Loài người sánh được với châu cháu không?

Những nơi đàn châu chấu bay qua, cọng cỏ cũng không mọc được, nhưng chỉ sau dăm ba năm,

thiên nhiên sẽ hồi phục lại như xưa. Còn những nơi loài người các ngươi đi qua, thậm chí cả

lớp đất bề mặt cũng biến mất, tất cả trở thành xi măng cốt thép, dù loài người có rời bỏ nơi đó

mà đi, thì cả nghìn năm sau cũng không thể khôi phục.”

“Ta thường nghe các ngươi nói, trái đất là mẹ hiền, nếu trái đất cũng là bà mẹ hiền thật, vậy

thì loài người các ngươi, chính là một thứ virus ký sinh trong thân thể bà mẹ ấy. Loài người là

tế bào ung thư, các ngươi không ngừng tự nhân bản chính mình, không ngừng xâm chiếm

những lãnh địa khác, đồng thời phá hoại vùng đất đó, cải tạo thành nơi chỉ thích hợp cho giống

loài các ngươi sinh tồn."

“Tất cả các ngươi, đều lấy mình làm trung tâm, tỏa bức xạ độc hại của mình ra xung quanh;

gần như mọi quốc gia đều đề cao nhân trị, không ngừng cải thiện phúc lợi của con người, tỷ lệ

sinh đẻ hơi giảm xuống một chút là ra sức khuyến khích sinh đẻ. Nhu cầu của con người được

thỏa mãn đến cực độ, vậy toàn thế giới thì sao! Nếu uy hiếp đến sự tồn tại của con người, thì

dù có tiêu diệt toàn bộ sinh vật hữu cơ trên trái đất cũng không đáng tiếc chứ gì?”

“Thế giới này không phải thuộc về con người, mà hoàn toàn ngược lại, con người thuộc về

thế giớỉ này. Con người các ngươi, luôn lấy mình làm trung tâm, mọi chuyện thị phi đúng sai,

mọi tiêu chuẩn đạo đức, cũng đều xây dựng trên cơ sở lấy con người làm trung tâm. Vì nhu cầu

của con người nên các ngươi có thể thỏa sức chém giết các giống loài khác, thậm chí còn tiến

hành đánh bắt bằng những phương thức mang tính hủy diệt cả giống loài, vì nhu cầu của con

người, các ngươi có thể vơ vét bóc lột tài nguyên thiên nhiên, hút máu địa cầu một cách vô độ,

khiến sông hồ khô cạn, dầu mỏ kiệt cùng, rừng cây cháy trụi, mạch khoáng bị khoét rỗng; vì

nhu cầu cảu con người, cần quái gì quan tâm đến trời long đất lở, hay giống loài khác bị hủy

diệt. Khoa học kỹ thuật của con người càng phát triển, sức phá hoại của các ngươi càng lớn.

Con người càng ngày càng thêm đông đúc, dục vọng của các ngươi sẽ vĩnh viễn không bao giờ

ngừng lại. Mọi hành vi của loài người các ngươi đều đang hủy diệt thế giới này, vì vậy, muốn

cứu toàn thế giới, nhất thiết phải tiêu diệt loài người trước tiên."

Đường Thọ nhắm hờ hai mắt, dang rộng cánh tay, cảm khái nói: “Ta thường nghĩ, tổ tiên

chúng ta thực sự đã phát minh ra một thứ rất hay, với trình độ khoa học ngày nay, đừng nói là

hai tháng, chỉ cần hai tuàn thôi, với tốc độ lây lan của loại vật chất này, chỉ cần hai tuần là đủ

để nó lan truyền đến bất cứ nơi nào loài người có thể đặt chân đến trên thế giới. Sẽ chỉ còn một

phần nghìn dân số đại cầu sống sót, trí thông minh nhất loạt đều trở về thời Đồ đá cũ, vậy là

thế giới này sẽ trở nên hài hòa.”

Trác Mộc Cường Ba, Merkin, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn, thảy đều ngây

người ra. Con người trước mắt họ đây, những chuyện y thừa nhận mình đã làm thoạt nghe đều

hết sức tà ác xấu xa, khiến người ta rởn cả gai ốc. Nhưng giờ y lại đột nhiên nói, đó chỉ là đánh

giá dựa trên tiêu chuẩn đạo đức của loài người, đồng thời y còn đề ra một tiêu chuẩn đạo đức

cao hơn, vượt qua phạm trù nhân loại, phóng tầm mắt nhìn rộng hơn, trên thế giới này con

người mới là một loại động vật tà ác và đáng bị tiêu diệt.

Những mạch suy nghĩ trong đầu Trác Mộc Cường Ba trở nên hỗn loạn, gã biết rất rõ, những

gì kẻ này nói là sai, chắc chắn có điểm nào đó không ổn, nhưng nhất thời gã lại không nghĩ ra

điều gì để phản bác lại y. Dục vọng của loài người vĩnh viễn không có điểm dừng, tồn tại của

loài người là một sự hủy hoại với toàn thế giới này, vì vậy... y... y... muốn hủy diệt loài người,

để cứu lấy thế giới? Y nói, thế giới này không thuộc về loài người, loài người mới thuộc về thế

giới này... rốt cuộc có gì không đúng nhỉ, nhất định phải có điểm nào đó không đúng! Đây, đây

là tư tưởng kiểu gì vậy chứ? Cho dù là chủ nghĩa khủng bố cực đoan cũng không đến mức

muốn hủy diệt toàn bộ nhân loại kia mà? Chỉ có những tà giáo theo thuyết Ngày tận thế trong

truyền thuyết, mới tuyên truyền loại lý luận diệt tuyệt nhân loại này? Mười ba kỵ sĩ bàn tròn,

rốt cuộc là một tổ chức như thế nào, rốt cuộc bọn họ truyền bá loại tư tưởng gì cho các thành

viên của mình vậy? Không, sợ rằng ngay cả các tà giáo theo thuyết Ngày tận thế cũng không

đáng sợ bằng bọn họ, mỗi một câu một chữ đều điểm thảng vào nhược điểm của nhân tính.

Loài người không cần thiết phải tồn tại? Sự tồn tại của loài người, chỉ mang đếi hủy diệt và phá

hoại, không có bất cứ ý nghĩa gì sao? Không, nhất định là có gì đó không đúng ở đây.

Lúc này, Đường Thọ chợt vẫy tay với Trác Mộc Cường Ba, nhẹ nhàng dụ hoặc: "Gia nhập

với ta đi, Cường Ba thiếu gia, ta và ngươi giống nhau, chúng ta đều có thân phận Vu vương,

chúng ta mới là lực lượng đại diện cho chính nghĩa. Đương nhiên, chính nghĩa này không chỉ

đối với loài người, mà ở phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều, là chính nghĩa của toàn thế giới

Chúng ta có thể cùng nhau khai sáng một thế giới hoàn toàn mới, thế giới này không do ý chí

của con người dẫn dắt nữa, tất cả đều phù hợp và thuận theo quy luật của đại tự nhiên. Mỗi một

giống loài, đều có đạo sinh tồn của riêng chúng. Mỗi một giống loài đều có giá trị hợp lý của

chúng, đến nơi cần đến, đi nơi cần đi, đó mới là một thế giới hài hòa và hoàn mỹ chứ. Đến đây,

ngươi có muốn biết chân lý của vũ trụ hay không? Ánh sáng chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi,

bóng đêm mới là vĩnh hằng."

Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, câu nói cuối cùng của y, cha gã cũng từng nói qua,

"Ánh sáng chỉ là một khoảng khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng.” gã còn nhớ rất rõ,

nhưng bấy giờ. cha gã còn nói thêm một câu nữa, khiến cho ý nghĩa của câu nói khác hẳn với ý

tứ mà Đường Thọ muốn biểu đạt, thậm chí trái ngược. Nhưng lúc đó cha gã nói gì nhỉ? Trác

Mộc Cường Ba không sao nhớ lại nổi.

Lúc này, pháp sư Á La là người đầu tiên tỉnh trí lại, ông hỏi ngược lại Đường Thọ: "Ngươi...

ngươi... sao lại có suy nghĩ như vậy, chẳng lẽ, ngươi... ngươi không phải là người sao?"

“Người?” Đường Thọ đùng đùng nổỉ giận, hệt như con mèo bị giẫm phải đuôi, "Đừng đem

ta ra so sánh với những sinh vật đê tiện các ngươi." Y nắm chặt bàn tay trái lại: “Ta mạnh mẽ

hơn các ngươi,” rồi y chỉ tay vào đầu mình: “Ta có trí tuệ hơn các ngươi! Năm mười tám tuổi,

ta đã dùng ba thân phận khác nhau lấy được ba học vị tiến sĩ thuộc ba lĩnh vực khác nhau ở ba

trường đại học khác nhau!” Rồi y lại chỉ vào những người trước mặt và sau lưng mình: “Ta có

thể thao túng vận mệnh của các ngươi, mọi hành trình và kế hoạch của các ngươi đều được tiến

hành theo sắp xếp của ta. Chỉ có Thượng đế mới có năng lực như vậy, phải không hả? Nếu ở

thời cổ, ta, chính là Thần, ta là vị thần độc nhất vô nhị! Ta không phải là người!”

Merkin chửi thầm trong bụng: “Thần? Thần cái cục cứt ấy, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn

tròn tùy tiện chọn ra đây một trung đội trưởng, đại đội trưởng, sợ rằng mày còn chẳng dám

đánh rắm ấy chứ, chẳng qua chỉ ra vẻ trước mặt bọn ta mà thôi.”

Một luồng điện chạy dọc thân thể Trác Mộc Cường Ba, gã đột nhiên tỉnh táo nhận ra, kẻ

đứng trước mặt mình là một tên điên hoàn toàn, một tên điên thực sự. Đây là một dạng điên

cuồng khởi nguyên từ tín ngưỡng, đáng sợ hơn là, tên điên này lại giữ được lý trí tỉnh táo hơn

bất cứ người bình thường nào khác, chẳng những vậy, trí thức của y cũng phong phú hơn người

thường gấp bội... đây mới là điều đáng sợ nhất...

Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu rõ, ánh mắt đầy vẻ u uất, lại thoáng chút thương

hại của Đường Thọ có ý nghĩa gì. Y nhìn người ta, chẳng khác nào nhìn một con kiến đã chết.

Y tự nhận mình là Thần cao cao tại thượng, y nhìn con người cũng giống như con người đang

quan sát một loài thực vật nguyên thủy bậc thấp nhất vậy. Cho dù trước mặt y có chết bao

nhiêu người, xảy ra sự việc tàn nhẫn đến chừng nào, y cũng chỉ hờ hững quan sát, chẳng khác

nào con người nhìn hai đàn kiến đánh nhau vạy thôi. Đây chính là ánh mắt của Đường Thọ, coi

mạng người như mạng kiến, như cỏ rác. Không, sợ rằng trong mắt y, người thậm chí còn

không bằng mạng kiến hay cỏ rác. Trên đời này sao lại có một kẻ như vậy chứ? Chẳng lẽ y

không phải do cha sinh mẹ dưỡng hay sao?

Nghĩ đến cha mẹ Đường Thọ, trong óc Trác Mộc Cường Ba đột nhiên lóe lên một ý nghĩ, gã

loáng thoáng nhớ mẹ Đường Thọ chết trong một vụ tai nạn xe cộ. Lúc mới biết thông tin này,

gã cũng không cảm thấy gì, nhưng giờ đây liên tưởng đến thân phận Vu vương của Đường

Thọ, rồi việc em gái mình bị bắt cóc, và cả cuộc chiến mấy chục năm giữa Mười ba kỵ sĩ bàn

tròn và Mật tu giả... Vậy thì, vụ tai nạn xe cộ kia, sợ rằng cũng không phải là tai nạn. Nghĩ tới

đây, Trác Mộc Cường Ba không kìm được buột miệng hỏi: “Cha mẹ mày, vụ tai nạn xe cộ đó.”

Đường Thọ đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, như thể vừa phát hiện ra một đại lục mới. Y

cảm thấy rất bất ngờ, trong tình huống này, không ngờ gã vẫn duy trì được tư duy cẩn mật đến

thế, lại còn liên tưởng được đến cái chết của cha mẹ y. "Năng lực tư duy này cơ hồ sắp sánh

được với ta rồi. Tên Trác Mộc Cường Ba, khoảng thời gian hắn một mình ở tầng bình đài thứ

ba rốt cuộc đã xảy ra biến dị gì nhỉ? Chỉ mới vài tháng ngắn ngủi thôi mà." Nghĩ đoạn, Đường

Thọ trả lời: “Đúng, vụ đó không phải là tai nạn, là do người của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn gây

ra.”

Trác Mộc Cường Ba lại càng không thể hiểu nổi, gã hỏi tiếp: "Vậy mày... vẫn còn bán mạng

cho bọn chúng sao?" Đường Thọ ngược lại cũng lộ ra nét mặt như thể chính y cũng thấy khó

hiểu trước câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba: "Cha mẹ ta và ta, có quan hệ tất yếu gì chứ?

Chẳng lẽ ngươi chưa từng nghe nói, mẹ và con, chẳng qua chỉ là quan hệ giữa túi đựng thóc và

hạt thóc, còn cha và con, cũng chỉ là quan hệ giữa máy gieo hạt và hạt giống thôi sao. Thóc có

thể đựng trong bất cứ cái túi nào, hạt giống cũng có thể tùy tiện bỏ vào cỗ máy gieo hạt nào

cũng được, ta chẳng qua chỉ mượn thân thể họ để đến với thế giới này mà thôi, từ khi cuống

rốn đứt đoạn, ta đã là một tồn tại độc lập, trên trời dưới đất, duy ngã độc tôn, dù cha mẹ ta là ai,

ta cũng là vị Thần độc nhất vô nhị."

Trác Mộc Cường Ba lại thêm một lần chấn động, gã không thể ngờ Đường Thọ lại điên đến

mức độ này. Sau vụ tai nạn xe cộ năm đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc đã làm gì với đứa bé

trai mười một tuổi ấy nhỉ? Rốt cuộc phải trải qua những điều gì, mới khiến một người trở thành

điên cuồng đến vậy? Đáng sợ nhất là, bọn họ lại có thể khiến kẻ ấy liều mạng học tập, không

ngừng làm bản thân mạnh mẽ lên, mà tất cả mọi việc kẻ ấy làm, không ngờ lại chỉ vì... hủy diệt

toàn bộ loài người!

Trác Mộc Cường Ba ném ánh mắt về phía Mẫn Mẫn, nếu Đường Mẫn này chỉ là một thế

thân được Đường Thọ tuyển lựa để làm mê hoặc gã, vậy thì em gái của y đâu rồi? Đường Thọ

đúng là có một cô em gái kia mà, nếu y đối với cha mẹ sinh thành ra mình còn có thái độ như

thế, vậy thì em gái y... gã lại hỏi tiếp: "Vậy còn em gái mày..."

Đường Thọ mỉm cười, để lộ hàm răng trắng bóng ưa nhìn, nhẹ nhàng nói: "Em gái ta à, hồi

nó mười sáu tuổi, ta đã luộc nó lên ăn hết rồi."

Trong ánh mắt kinh khủng của đám người Trác Mộc Cường Ba, Đường Thọ hờ hững nói

như thể đó là một chuyện hết sức bình thường: "Bản thân là vị chân thần duy nhất, số mệnh đã

định sẵn ta là tồn tại cô độc và không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Ta chỉ tuân theo truyền

thống của tổ tiên, để linh hồn của em gái vĩnh viễn ở bên ta mà thôi, thế chẳng phải tốt lắm

sao?"

Trác Mộc Cường Ba không tài nào hiểu nổi nữa, có thể khẳng định một điều, cái thứ đang

đứng trước mặt gã đây, tuyệt đối không phải là người, mà là ma quỷ. Không. nó còn khủng

khiếp hơn cả ma vương trong truyền thuyết, đáng sợ nhất là, nó luôn khoác lên 1ớp vỏ ngoài

của con người, khi nó nói chuyện, không bao giờ để lộ ra nét mặt hưng phấn hay rồ dại. Ngay

cả lúc pháp sư Á La nói nó cũng là người, chẳng qua nó cũng chỉ hơi nổi giận mà thôi. Từ đầu

chí cuối, nó luôn giữ cho mình bộ dạng khiêm hòa nhã nhặn như một bậc quân tử đường

hoàng. Thoạt nhìn bề ngoài, nó còn văn minh, còn lịch sự hơn hai kẻ quần áo rách rưới bẩn

thỉu như Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Thậm chí mỗi lời nó nói ra, còn toát lên khí chất của

trí giả hay quý tộc, rốt cuộc kẻ này là con quái vật như thế nào đây? Rốt cuộc nó là dạng tồn tại

kiểu gì?

Lúc này, Đường Thọ đã lại nói tiếp bằng ngữ điệu trầm bổng du dương của y: "Nhìn đi,

chúng ta đến rồi, di sản của tổ tiên để lại cho chúng ta, lễ vật cuối cùng hiến tặng cho toàn nhân

loại, đẹp biết bao!"

Lúc này, họ vừa xuống đến vòng cuối cùng của cầu thang xoáy ốc, phần đáy tòa tháp hình

trứng đã hiện lên trước mắt. Ở chính giữa đáy tháp, có một Mạn Đà La nhỏ, tổng cộng có chín

tầng, bốn tầng dưới hình vuông, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, trông như kim tự tháp. Bốn tầng

trên nữa hình tròn, cũng tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, giống như Thiên Đàn ở Bắc Kinh. Tầng

trên cùng là một tòa sen lớn, trên tòa sen đặt ba bức tượng Phật vàng, mặt hướng vào trong. Ba

bức tượng này tạo thành một hình chữ phẩm(55), chính giữa là mộtt quả trứng lớn bằng vàng, cao đến hai ba mét, nhìn xa trông như một quả trứng gà màu vàng dựng đứng. Nếu nhìn kỹ hơn

sẽ phát hiện, bề mặt quả trứng vàng ấy toàn bộ đều do những bức tượng Phật nhỏ xíu ghép lại

mà thành, khoảng hai phần ba bên dưới quả trứng bị khoét rỗng, điêu khắc thành hình lầu các,

bên trong đặt ngay ngắn một cái hộp. Cái hộp đó rất giống với cái hộp dài mà bọn Trác Mộc

Cường Ba nhìn thấy trong tấm ảnh thời Thế chiến thứ Hai. Ngoài Mạn Đà La ở trung tâm,

xung quanh còn có vô số kinh quyển chất chồng như những ngọn núi nhỏ, mỗi đống cao từ ba

đến năm mét, tổng cộng áng chừng không dưới một trăm đống như thế, có lẽ vì những ngăn

kéo trên thân tháp đều đã đầy chặt nên không nhét đống kinh sách này vào được.

Mấy chục bậc thang cuối cùng này, ngoài Đường Thọ và đám lính đánh đánh thuê kia, bọn

Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều như đội cả trái núi lên lưng mà đi trên mặt băng mỏng. Pháp sư

Á La và Lữ Cánh Nam ra sức đưa mắt ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin, bất kể dùng

cách gì, cũng nhất định phải ngăn cản tên điên này lại. Nhưng muốn ngăn Đường Thọ đâu có

dễ, pháp sư Á La và Lữ Cánh nam vẫn đang bị trói tay, ở giữa còn bị mấy tên lính đánh thuê

ngăn cách. Từ đầu đến giờ, Đường Thọ chỉ dùng tiếng Trung, bọn lính đánh thuê kia nghe

chẳng hiểu gì, cho dù bây giờ Merkin nhảy ra hét lên bằng tiếng Nga rằng thằng này bị điên

rồi, hắn muốn giết tất cả chúng mày đấy, e rằng chỉ đổi được một trận cười chế giễu của bọn

chúng mà thôi, Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không ngừng ngọ nguậy cổ tay hòng cởi dây

trói, đồng thời, ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã dùng lời nói kéo dài thêm chút thời

gian nữa.

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba rối bời, vô số suy nghĩ chạy tán loạn trong đầu, biết nói gì mới

có thể làm chậm lại hành động của tên này đây? "Ha ha!" Gã đột nhiên bật cười hai tiếng: “Tao

thừa nhận, câu chuyện của mày rất đặc sắc, suýt chút nữa tao cũng bị gạt rồi. Trên đời làm gì

có thứ gì như vậy chứ? Nếu nó thật sự đáng sợ nhường ấy, sao nơi này, lại vẫn có người sinh

sống? Chẳng những vậy, họ cũng đâu có biến thành những kẻ si đần. Nếu thứ vật chất ấy tồn

tại thật, hậu duệ của Đông Bản Ba sao còn có thể tiếp tục nghiên cứu thêm cả trăm năm nữa?”

Đường Thọ không hề dao dộng, hờ hững đáp: “Ta kể câu chuyện này cũng chẳng phải để

các ngươi tin ta. Có điều, ta vẫn có thể giải đáp thăc mắc này của ngươi. Đầu tiên, ta đã nói,

loại vật chất này sau khi rơi vào trạng thái ủ bệnh, trước khi phát bệnh lần thứ hai sẽ không còn

tính truyền nhiễm nữa, vì vậy, mặc dù Đạo quân Ánh sang đi từ tầng bình đài thứ nhất lên đến

tầng bình đài thứ ba, qua lãnh thổ của tất cả các bộ lạc, còn xây dựng cho những bộ lạc này khá

nhiều cơ sở hạ tầng, song họ không hề truyền nhiễm thứ cật chất kia cho các cư dân bộ lạc.

Còn việc tại sao họ có thể duy trì nghiên cứu hơn một trăm năm, ngươi dừng quên, việc xây

dựng Bạc Ba La thần miếu cần chiêu mộ một lượng lớn dân công. Ta không rõ Đạo quân Ánh

sáng đã tìm ra cách gì, nhưng hiển nhiên họ có thể biết trước người nào sắp sửa phát bệnh, nên

đã xây dựng khu vực riêng dành cho những người này sử dụng. Mặt khác, trong đám dân công

được chiêu mộ đó, tuyển lựa ra những kẻ cường tráng nhất, huấn luyện thành lực lượng cốt cán

mới cũng là bản lĩnh sở trường của Đạo quân Ánh sáng, vì vậy, bọn họ vẫn được tiếp thêm

dòng máu mới thay thế những người chết đi, chỉ cần làm tốt công tác cách ly những người sắp

sửa phát bệnh là được. Còn về hậu duệ của Đông Bản Ba... điểm này ta cũng rất nghi hoặc,

không biết có phải trời cao chiếu cố hay không, Tứ đại Vu vuong năm đó cơ hò đều tiếp xúc

rất mật thiết với những người cảm nhiễm, nhưng họ không sao cà. Dưởng như trong cơ thể họ

đều có sức đề kháng tự nhiên với loại vật chất này. Nói không chừng, đây chính là sức mạnh

của Vu vương cũng nên. Vì vậy, trên lý thuyết, ba người chúng ta cũng không phát bệnh, đây

là một trong những nguyên nhân ta mời ngươi gia nhập, bằng không, với trí tuệ và thực lực của

ngươi, dựa vào cái gì mà được hưởng địa vị ngang hàng với ta chứ."

Đường Thọ đã bước xuống cầu thang, đi thằng về phía Mạn Đà La. Trác Mộc Cường Ba

ngấm ngầm bước chậm lại, đi song song với Merkin, kẹp Đường Thọ vào giữa. Pháp sư Á La

và Lữ Cánh Nam cũng bị bọn lính đánh thuê áp giải đi xuống, bọn họ hơi rao rchaan bước

nhanh, từ từ áp sát Đường Thọ. Còn Mẫn Mẫn, lúc này tạm thời không ai rảnh trí để không cho

cô, bị lọt lại phía sau cùng.

Đường Thọ giơ ngón tay trỏ lên, khẽ đung đưa trước mặt, nói với Trác Mộc Cường Ba:

“Phải rồi, cái hộp này, chắc các ngươi đã từng thấy trong quá trình tìm kiếm tư liệu rồi, Ở Cổ

Cách, có một cái hộp giống hệt như vậy, sau này bị Morgan Stanley lấy đi. Thời Thế chiến thứ

Hai, nó rơi vào tay quân Đức, Hitler còn tưởng vớ được của báu, chỉ đáng tiếc, bên trong lại

chẳng có gì cả...”

Đường Thọ đã bước lên bậc thang cảa tầng Mạn Đà La thứ nhất, đúng lúc này, pháp sư Á

La hét lớn: “Ra tay!”

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng lúc giáp công Đường Thọ, pháp sư Á La và Lữ Cánh

Nam cũng giằng dây trói trên tay ra. Lữ Cánh Nam vừa ra tay liền nhằm vào hai tên lính đánh

thuê ở bên cạnh, cồn pháp sư Á La lách người lao lên, vòng qua tên lính đánh thuê trước mặt

bằng một loại bộ pháp kỳ dị, tấn công váo lưng Đường Thọ.

LIỀU MẠNG

.Đường Thọ trông có vẻ ung dung hờ hững, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa

hành động, y lập tức có phản ứng ngay, hai cánh tay dang rộng. Y thấp người, cánh tay ngắn,

song lại xuất phát sau mà đến trước. Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được,

thế nào gọi là tốc độ.

Sải tay Đường Thọ vốn không dài bằng bằng Trác Mộc Cường Ba và Merkin, nhưng tốc độ

của y quả thực nhanh đến khó bề tưởng tượng. Nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba còn chưa

đến nơi, tay Đường Thọ đã liên tiếp vỗ ba cái trên cánh tay gã, buộc Trác Mộc Cường Ba

không thể không lui lại phòng ngự.

Đối với tốc độ của Đường Thọ, Merkin cũng có nhận thức nhất định, vì vậy, y không dùng

nắm đấm, mà hai tay cùng vươn ra định chộp lấy đối phương như chim ưng bắt rắn. Vốn dĩ

tưởng rằng đã chụp trúng đến nơi, nhưng cánh tay kia của Đường Thọ quả thực quá quái dị,

khớp xương vai xoay chuyển đúng ba trăm sáu mươi độ, khớp cùi chỏ xoay ba trăm sáu mươi

độ, khớp cổ tay cũng xoay ba trăm sáu mươi độ, con rắn độc thoắt cái đã nhẹ nhàng thoát ra

vươn lên, nhằm vào cằm Merkin mổ một cái. Merkin vội ngửa đầu rụt tay về.

Lúc này, pháp sư Á La đã vọt ra phía sau lưng Đường Thọ. Lữ Cánh Nam cũng lật cổ tay,

dùng thuật Cầm nã thủ đoạt lấy khẩu súng trên tay tên lính đánh thuê gần cô nhất. Hai tay

Đường Thọ đang vướng víu với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, tư tưởng vốn đã bị phân tán,

nhưng đối với đòn tấn công của pháp sư Á La, dường như cũng đã có đề phòng từ trước. Chỉ

thấy y không chút hoảng hốt, đợi pháp sư Á La lao đến một khoảng cách nhất định, chân phải

liền bật tung lên như đuôi bò cạp, khớp gối, và mắt cá chân cũng cực kỳ linh hoạt, nào móc,

nào đỡ, nào chặn, nào đạp, nào quấn... chẳng khác nào cánh tay người thường. Chẳng những

vậy, gót chân và mũi chân y luôn nhằm vào vết thương trước ngực của pháp sư Á La để công

kích. Pháp sư không thể không dùng hai tay phòng thủ vết thương, không sao áp sát lại gần

được.

Đường Thọ đồng thời ứng phó với ba hướng tấn công, song lại vẫn có thể gây áp lực lên cả

ba, khiến mỗi người bọn Trác Mộc Cường Ba đều cảm thấy mình đang toàn lực chiến đấu với

một kẻ địch đơn độc. Chẳng những vậy, thứ tự xuất chiêu, tốc độ, động tác của đối phưong

cũng hoàn toàn khác nhau, tên Đường Thọ này, không ngờ lại có thể phân tâm làm ba việc

cùng một lúc như vậy. Trác Mộc Cường Ba phải dồn hết sức vào hai tay, mới miễn cưỡng theo

được tốc độ tay trái của Đường Thọ. Tốc độ của Merkin, có vẻ nhanh hơn tay phải của Đường

Thọ một chút, nhưng sức mạnh của cánh tay này lại cực lớn, Merkin đã hai lần khóa được cánh

tay đối thủ, song lần nào cũng như chụp phải cây cột sắt, thoáng cái đã bị đối phương giằng ra.

Thậm chí còn sém chút nữa bị Đường Thọ lợi dụng thời cơ phản công lại. Còn pháp sư Á La

cũng bị cẳng chân như đuôi bọ cạp kia của y phong tỏa, bàn chân không ngừng nhằm vào vết

thương của pháp sư mà tấn công liên tiếp, khiến ông nhất thời không thể thi triển quyền cước.

Chẳng những vậy, Đường Thọ còn dồn ép khiến cho thân hình pháp sư Á La luôn ở trên cùng

một đường thẳng với họng súng của Lữ Cánh Nam, làm cô không tìm được khe hở nào để xạ

kích.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin triển khai giáp công từ hai bên trái phải, pháp sư Á La và

Lữ Cánh Nam giằng thoát dây trói, pháp sư Á La lao lên trước, Lữ Cánh Nam đoạt súng, rồi

Lữ Cánh Nam giành được khẩu súng về tay thì pháp sư đã bị áp chế, toàn bộ quá trình ấy chỉ

diễn ra trong khoảng hai giây đồng hồ. Trong hai giây ngắn ngủi này, Đường Thọ đã thể hiện

thực lực kinh người của y, đứng trên một chân, thân thể vươn ra trước, hai tay và một chân lần

lượt tấn công ba người khác nhau. Chẳng những vậy, còn ung dung lấn lướt cả ba người đó.

Hai giây trôi qua, bọn lính đánh thuê xung quanh đã có phản ứng, vội vàng giương súng lên

ngắm. Trong hai giây đó, Lữ Cánh Nam không sao tìm được cơ hội nổ súng, giờ đây thời cơ đã

mất, có thể đảm bảo sự an toàn của pháp sư và Trác Mộc Cường Ba hay không chỉ còn dựa vào

mình cô. Bất đắc dĩ, cô đành xoay chuyển họng súng, nhắm vào bọn lính đánh thuê điểm xạ.

Bon linh đánh thuẻ này mặc dù phản ứng không nhanh bằng những người đã được huấn

luyện đặc biệt như Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba, nhưng tên nào tên nấy cũng đều là

những kẻ dạn dày kinh nghiệm sống sót trên những chiến trường khốc liệt nhất, bản thân đã có

một thứ khí thế bá đạo không biết sợ chết. trong không gian chật hẹp như vậy, chúng cũng

không chút e dè mà giương súng lên bắn tán loạn.

Trác Mộc Cường Ba dáng người cao lớn là mục tiêu rất nổi bật, bọn lính đánh thuê sớm đã

ôm hận trong lòng với gã, cả mấy khẩu súng cùng lúc chĩa về phía gã. Trác Mộc Cường Ba ít

nhiều cũng được Lữ Cánh Nam huấn luyện chiến đấu cận thân dùng súng, biết rằng tốc độ con

người thế nào cũng không thể nhanh hơn đạn bắn, bới vậy, yếu lĩnh của thuật chiến đấu cận

thân chính là, tránh họng súng của kẻ địch vào khoảnh khắc trước khi hắn lẩy cò. Nhưng khi gã

né tránh, muốn tiếp cận Đường Thọ còn khó hơn lên trời nữa.

Trác Mộc Cường Ba quên mất gã đang chiến đấu với ai, chỉ một thoáng do dự ấy, lập tức đã

bị Đường Thọ nắm bắt cơ hội. Cánh tay Đường Thọ vươn ra, chộp tới, định níu vào bả vai Trác

Mộc Cường Ba. Chiêu này của y, chính là để thân thể Trác Mộc Cường Ba hướng đúng về phía

họng súng của bọn lính đánh thuê. Trác Mộc Cường Ba phản ứng theo bản năng, xoay hông lùi

về hòng chống lại sức mạnh của Đường Thọ, đồng thời vung tay định đánh vào cánh tay và

mặt đối phương. Không ngờ, cú chộp vào bả vai ấy của Đường Thọ chỉ là hư chiêu, Trác Mộc

Cường Ba vừa lùi lại, y đã lập tức tức rút súng cầm trên tay. Vì cả người giật lùi về phía sau,

nắm đấm của gã cũng không thể đánh trúng mục tiêu. Khi nhận ra ĐườngThọ giở trò, thân thể

gã lại hơi vươn ra phía trước. Chẳng ngờ, Đường Thọ chính là đang đợi gã làm vậy. y vừa nổ

súng nhắm vào vai Trác Mộc Cường Ba, đồng thời, nắm chặt tay, cánh tay rung lên phát ra

tiếng “u u” như ong đập cánh. Trác Mộc Cường Ba nghiêng người ra trước, chẳng khác nào

giơ thân thể ra cho Đường Thọ đánh, cả mấy cú đấm đều nhằm vào một vị trí trên trán. Bản

thân Trác Mộc Cường Ba cũng không biết mình trúng phải năm hay bảy hay chín cú đấm nữa,

cùng lúc mấy chỗ khác trên người gã cũng tê rần rần, hằn là đã trúng đạn.

Nắm đấm của Đường Thợ giật đi giật 1ại trong khoảng cách chưa đầy mười xăng ti mét,

phát lực chỉ trong chớp mắt, dùng tốc độ kinh người đó để bù đắp lại khoảng cách. Người đứng

bên cạnh quan sát, chỉ thấy nắm đấm Đường Thọ kêu lên "u u" chạm vào trán Trác Mộc Cường

Ba một cái, gã đã loạng choạng bật ngửa người ra rồi.

Đồng thời, chân kia của Đường Thọ cũng tăng thêm sức ép lên pháp sư Á La. Lữ Cánh Nam

phải dè chừng bọn lính đánh thuê, không thể tạo nên uy hiếp gì với y được nữa, vì vậy y cũng

không cần mất công áp chế pháp sư Á La phải luôn ở trên cùng một đường thẳng với nòng

súng của cô nữa. Xương lồng ngực của pháp sư Á La đã gãy lìa, mặc dù ông đã dùng sức mạnh

của cơ bắp gượng ép lại, nhưng mỗi lần hô hấp, mỗi lần tim đập, ít nhiều đêu có ảnh hưởng.

Đối với một Mật tu giả, không thể hít thở bình thường chẳng khác nào bị phế đi một nửa võ

công. Sau mấy lần giao phong, Đường Thọ đột nhiên dồn sức vào chân, khiến pháp sư Á La

tuy đã dùng hai cánh tay chặn được cú đá của y, song vẫn phải loạng choạng lùi lại mấy bước

vì lực đạo quá mạnh.

Phía bên này, chỉ có Merkin đang quần thảo với tay phải của Đường Thọ là giành được ưu

thế nhất định. Mặc dù hết lần này đến lần khác khóa chặt được cánh tay đó nhưng Merkin cũng

không dám dốc hết toàn lực, bởi trong ký ức của y, tốc độ và sức mạnh của tay phải Đường

Thọ ít nhất cũng gấp đôi tay trái! Làm sao y có thể dễ dàng khóa chặt được nó như vậy chứ?

Chắc chắn có gì gian trá ở đây!

Merkin chỉ thoáng do dự một khoảnh khắc, Đường thọ đã nắm bắt cơ hội, cùng lúc tăng

cường thế công vào hai phía còn lại, đẩy lùi Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La.

Đến khi Merkin tỉnh ngộ ra rằng cánh tay này của Đường Thọ rất có thể đã gặp phải vấn đề

gì thì Đường Thọ đã ra tay với y. Chỉ thấy thân thể Đường Thọ tiếp tục chúc xuống, trán gần

chạm vào đùi non, kế đó cẳng chân vừa tấn công pháp sư Á La liền bật lên như đuôi bò cạp, đá

thảng vào mặt Merkin. Đồng thời, tay phải đang bị Merkin khóa chặt cũng lật ngược lại tóm

lấy cánh tay y.

Chiêu này Merkin nhận ra được, gọi là "Bọ cạp bật đuôi", sức lực toàn thân dồn cả vào một

điểm, chỉ công không thủ, lực bạo phát cực kỳ đáng sợ. vả lại, chân hất lên từ phía sau, góc độ

so với chân trụ còn lại phải lớn hơn một trăm tám mươi độ mới tấn công được kẻ địch ở trước

mặt, người bình thường căn bản không thể làm ra động tác kiểu ấy. Trước thế tấn công quái dị,

Merkin nào dám lấy cứng chọi cứng, vội vàng buông tay lui về. Nhưng góc độ ngửa ra sau của

Merkin không lớn lắm, bởi y biết chiêu này có một nhược điểm, vì cú đá dồn hết sức lực toàn

thân, có ông không thủ, nên một khi không trúng mục tiêu, người xuất chiêu chắc chắn sẽ lộ ra

khoảng trống, đây chính là thời cơ phản kích tốt nhất dành cho y.

Đầu Merkin hơi ngả ra sau, vừa khéo tránh được cú đá chết người ấy, gió rít qua mặt u thậm

chí còn hơi ran rát. Nhưng từ làn gió rát rạt ấy, Merkin chỉ đoán được Đường Thọ không kịp

thu chân về phòng thủ, vì vậy, y chỉ hơi ngửa đầu ra sau một chút, rồi lập tức bật người lao lên.

Không ngờ, Merkin lại phạm phải cùng một sai lầm với Trác Mộc Cường, cú đá ấy của

Đường Thọ tốc độ hung mãnh, nhưng y căn bản không hề có ý định thu chân về. Y sớm đã tính

toán được Merkin sẽ phản ứng thế nào trước đòn tấn công này, vì khi cao thủ đối đầu, tốc độ

quá nhanh, thường thường không kịp suy nghĩ quá nhiều, đa phần đều phản ứng và phán đoán

dựa trên trực giác. Nhưng trước khi xuất chiêu, Đường Thọ đã tính toán đến mọi phản ứng của

đối thủ rồi, “đuôi bà cạp” của y đâm ra, thoạt nhìn có vẻ hung mãnh, nhưng lại chỉ là giả bộ,

sau khi đá trượt, gót chân của Đường Thọ đã hơi xoay chuyển, eo hông phát lực, thân trên nhấc

lên, rồi trầm xuống, thân thể đột nhiên tăng tốc xoay một vòng ba trăm sáu mươi độ. Cẳng

chân đá ra lúc này vạch một quỹ tích hình tròn trên không trung. Lần này, cộng với lực xoay

của thân trên, tốc độ cú đá lại càng nhanh hơn, lực đạo càng mạnh hơn nữa. Đầu Merkin vừa

ngửa ra sau lại vừa khéo vươn ra trước, rõ ràng nhìn thấy bàn chân Đường Thọ lấy bản thân y

làm trung tâm, vạch một vòng tròn quật tới, song không kịp rút đầu né tránh, liền trúng ngay

một cước vào giữa mặt.

Lực đạo của cú đá này rất mạnh, Merkin thân hình to lớn vậy mà cũng như bị người khổng

lồ xòe tay tát cho một cú, ngã vật ra đất. Đường Thọ thu chân lại, hai chân đứng thảng trên bậc

thang Mạn Đà La. Trong cả đám người, lúc này, y đang ở vị trí cao nhất. Y khinh khỉnh cúi

xuống nhìn những kẻ bên dưới, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều đã ngã gục, pháp sư Á La

bị đẩy lùi vào giữa một đám lính đánh thuê, còn Lữ Cánh Nam vẫn đang lượn lờ du đấu với

bọn lính đánh thuê. Đường Thọ bộ dạng hào khí can vân, hừ lạnh nói: "Châu chấu đá xe, không

biết tự lượng sức, hừ, trong đám người các ngươi, cũng chỉ có lão già tên Tháp Tây kia là có

thể khiến ta e ngại phần nào, tiếc rằng, lão ta thậm chí còn chẳng lên được tầng bình đài thứ ba

này. Còn các ngươi, nói khó nghe một chút, ta đấu với các ngươi, đấy gọi là bắt nạt các ngươi

thôi."

Lời vừa dứt, Đường Thọ nhìn pháp sư Á La tả xung hữu đột giữa làn mưa đạn, đánh ngã hai

tên lính đánh thuê, cơ hồ lại muốn lao tới. Y cười khẩy: "Giờ đã không cần đến các ngươi nữa

rồi." Chỉ thấy y xoay người, tay phải vung lên "vù" một tiếng, một bức tượng Phật cao ngang người ở tầng thứ nhất của Mạn Đà La đã bay bổng lên, bắn thẳng về phía pháp sư Á La.

Pháp sư Á La vừa đẩy lùi hai tên lính đánh thuê cầm súng, chỉ thấy một vật thể đen to tướng

lù lù bay vút tới, vội vàng giơ cánh tay lên cản lại. Nhưng đà lao của bức tượng quá lơn, không

ngờ lại hất văng cả pháp sư Á La, cả người lẫn tượng cùng đập vào một đống kinh sách, bấy

giờ mới dừng lại. Bức tượng nặng nề đè lên cơ thể pháp sư, không chỉ khiến xương lồng ngực

ông gãy ra lần nữ, mà ngay cả mấy cọng xương sườn ở hai bên cũng bị đè gãy nốt. Pháp sư Á

La gắng sức đẩy bức tượng đè trên người mình ra, ngây ngươi nhìn kẻ đáng sợ đang đứng trên

Mạn Đà La. Bức tượng vàng này ít nhất cũng phải năm trăm cân, vậy mà y chỉ hất tay một cái

đã khiến nó bay xa như thế, lại còn kèm theo lực đạo lớn chừng ấy nữa. Không, đó tuyệt đối

không phải sức mạnh của con người, tên này sao có thể làm được điều ấy chứ?

Pháp sư Á La khó nhọc nhổm dậy, đột nhiên toàn thân ông giật nẩy như bị chích điện. Ông

cảm nhận rõ ràng, máu trong cơ thể mình không chảy theo các mạch máu nữa mà ào ào tuôn ra

ngoài. Pháp sư Á La ấn tay lên chỗ xương lồng ngực bị gãy, lập tức hiểu ra, trái tim... đã vỡ

rồi!

“Pháp sư, pháp sư...” lúc này, một người khóc lóc chạy đến. Pháp sư Á La nhìn gương mặt

đầm đìa nước mắt của Mẫn Mẫn, khẽ mỉm cười, giúp cô cởi dây trói, rồi chỉ về phía bậc thang,

thều thào nói: “Đi, giúp Cường Ba thiếu gia!”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng dậy được, nhưng vẫn còn choáng váng. Gã giống như kẻ vừa

bị một võ sĩ quyền Anh hạng nặng đánh ngã vậy, nhìn thứ gì cũng nhập nhòa mờ ảo, hai chân

nhẹ bẫng bay bổng, chỉ lờ mờ trông thấy một bóng người đang chầm chậm bước về phía mình.

Đường Thọ đi tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng nói: "Ta đã cho ngươi cơ hội,

nhưng ngươi lại dùng hành động này để trả lời ta. Ngươi đã lựa chọn như vậy, thì ta cũng giúp

ngươi hoàn thành tâm nguyện, kẻ nào chắn đường ta, đều không cần phải tồn tại trên đời này

nữa!" Dứt lời, Đường Thọ hít sâu một hơi, khoang ngực phồng lên như trống, kế đó, những

khớp xương trên tay phải, từ bả vai cho đến các khớp ngón tay cùng lúc phát ra một tràng tiếng

răng rắc rợn người, hai bàn tay nắm lại, cùng lúc đấm ra!

"Đừng!"

"Đừng!"

Trác Mộc Cường Ba vẫn đang choáng váng, căn bản không kịp né tránh. Đường Thọ toàn

lực tung ra hai cú đấm, chợt nghe có hai tiếng hét kinh hoảng, rồi hai bóng người lao đến chắn

trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Thế công của Đường Thọ không hề ngừng lại, hai nắm đấm

thụi mạnh vào hai bóng người kia, hất bọn họ văng lên ra xa. "Phì, chỉ biết nhờ đàn bà bảo vệ

mình thôi à?" Đường Thọ lại xoay người quét ngang một đòn, Trác Mộc Cường Ba liền bị y đá

bay lên không trung như một bao cát.

Merkin cũng đã đứng dậy, hat tay nắm chặt, đứng cách Đường Thọ chừng bốn năm bước,

hoảng sợ nhìn sự việc vừa phát sinh. Đường Thọ chợt quay phắt đầu lại, trợn mắt quát: "Ngươi

còn dám động thủ vớí ta à!" Ảnh hưởng của một màn kinh thế hãi tục vừa rồi vẫn chưa hết,

Merkin sững người, không dám nhao lên nữa. Đường Thọ ngửa đầu, cười lớn, sải chân bước

lên đỉnh Mạn Đà La.

Trác Mộc Cường Ba rơi xuống một đống kinh sách, lực va đập giảm đi một phần đáng kể.

Đầu óc của gã cũng tỉnh táo lại phần nào, gã vừa ngẩng đầu lên. liền trông thấy pháp sư Á La.

Một con người, trong mấy phút cuối cùng của cuộc đời, sẽ làm điều gì? Pháp sư Á La nằm

giữa đống kinh sách, bình tĩnh cầm từng quyển từng quyển bên cạnh lên, rnở ra, nhìn những

hàng chữ ngưng kết trí tuệ của người xưa, mỉm cười thỏa mãn, rồi lại cẩn trọng gấp lại, đặt

sang phía bên kia. Tim ông đã ngừng đập, nhưng pháp sư lại dùng ý chí của mình khống chế

cơ bắp và nội tạng, để máu vẫn có thể tuần hoàn một cách yếu ớt. Chỉ có điều, loại bí pháp duy

trì sinh mạng của Mật tu giả này cũng không giúp ông cầm cự được mấy thời gian. Khi Trác

Mộc Cường Ba rơi xuống bên cạnh, pháp sư Á La đã chẳng còn hơi sức để ngẩng đầu lên nữa

rồi.

Trác Mộc Cường Ba quơ cả tay lẫn chân, bò lên trên đống kinh sách chất cao như trái núi

nhỏ, đến trước mặt pháp sư Á La gào lên: "Pháp sư, pháp sư Á La!"

Pháp sư Á La rời ánh mắt khỏi cuốn kinh trong tay nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên hết

sức trịnh trọng lần tìm một quyển trong đống kinh đã xem qua ở phía bên người, run run giơ

lên, đến khi Trác Mộc Cường Ba nắm chặt quyển kinh đó trong tay, pháp sư Á La mới nở một

nụ cười, nói lời trăng trối cuối cùng: “Cường Ba thiếu gia, sống... phải nỗ lực...”

Vừa cất tiếng, hơi thở pháp sư liền bị phân tán, một hơi thở ra, không sao hít vào được nữa.

Trác Mộc Cường Ba vẫn nắm chặt quyển kinh trong tay, nhìn ông già gầy guộc đó mỉm cười

hiền hòa nằm lặng trong đống kinh sách, đột nhiên gầm lên một tiếng chấn động cả tòa tháp:

“Pháp ư Á La!”

Trước khi Trác Mộc Cường Ba hét lên, Đường Thọ đã đứng trên đỉnh Mạn Đà La, cái hộp

hình chữ nhật bên trong quả trứng vàng đã nằm trong tầm với của y, cho dù Đường Thọ giỏi

kiềm chế mấy chăng nữa, đến thời khắc này, y cũng không sao nhịn nổi tiếng cười đắc ý.

Đứng trên điểm cao nhất, y ngoảng xuống nhìn một đám người bé nhỏ, cảm giác hào hùng

“trời cao đất rộng, ta đây lớn nhất”, y vươn tay ra, chạm vào chiếc hộp nhỏ, khoái cảm “hộp

báu về tay, đất trời là của ta” dào dạt dâng lên. Đường Thọ không chút do dự, cầm chiếc hộp

lên.

“Tách tách...” Cả quả trứng vàng bốc lên một lớp sương mỏng mảnh. Ở chỗ Đường Thọ vừa

nhấc cái hộp đi, một thứ trông như tim đèn bằng đồng bật lên. Đường Thọ thoạt đầu ngạc

nhiên, sau đó cười khổ, thật không ngờ người xưa lại thiết đặt cơ quan cả ở chỗ này, vả lại còn

là loại chốt đè đơn giản nhất, càng không thể ngờ, bản thân y lại không thể tính trước được

điều này. Xem ra, những người Qua Ba cổ đại kia mới gọi là thực sự nhìn thấu bản tính của

con người! Đường Thọ cũng muốn xem rõ cơ quan này rốt cuộc để làm gì, nhưng y không dám

mạo hiểm ghé mắt nhìn vào cái lỗ đó, đang ngẫm nghĩ, chợt nghe “xì...” một tiếng dài, dường

như có khí thể từ bên dưới chốt đè phun lên, nhưng không thấy khói. Đúng lúc này, tiếng hét

của Trác Mộc Cường Ba vang lên khắp tòa tháp hình trứng.

Đường Thọ mặc kệ Trác Mộc Cường Ba gào hét, chun mũi hít hít, thấy có mùi lưu huỳnh

rất nặng, trong lòng thầm nhủ: “Lẽ nào là... “ Y hiểu rất rõ, khí thể phun lên không có khói kia

là hơi nước ở nhiệt độ rất cao. Vì nhiệt độ quá cao, nên mới không nhìn thấy, cộng với mùi lưu

huỳnh xộc mũi nữa, khá giống những dấu hiệu trước khi núi lửa bùng phát, mà vị trí của bọn

họ lúc này, có lẽ cách dòng sông dung nham kia không xa lắm. Chẳng lẽ, cái hộp nhỏ này lại

có thể áo chế núi lửa bùng phát sao? Quả trứng vàng bị khí thể vô hình kia liên tục phun vào,

phần phía trên bắt đầu từ từ tan chảy. Đường Thọ lúc này đã lùi ra xa bốn năm bước, hơi nóng

hừng hực thốc vào mặt. Đã đến nước này, y nào dám tìm hiểu xem rốt cuộc đây là cơ quan gì

nữa. Người Qua Ba cổ đại không hiểu đã dùng cách thức gì áp chế núi lửa suốt hơn nghìn năm,

giờ đây cơ quan đã bị phá, xem ra núi lửa lại sắp phun trào, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này,

sẽ bị nhấn chìm trong nham thạch nóng chảy!

Đường Thọ ngoảng đầu lại. Trác Mộc Cường Ba cũng đang quay sang phía y, cặp mắt bùng

lên ngọn lửa phẫn nộ.

Đường Thọ nhếch mép cười nhạt, lại đưa mắt nhìn quả trứng vàng có thể phun trào dung

nham bất cứ lúc nào kia, lớn tiếng nói: “Các ngươi cứ chơi từ từ, ta đi trước một bước đây!”

Dứt lời, tay phải vung lên, một sợi dây kim loại vọt ra khỏi ống tay áo, bắn về phía vách tường

tòa tháo. Sợi dây này, không ngờ lại vươn xa đến bốn năm chục mét. Đây chính là nguyên mẫu

của dây móc mà bọn Trác Mộc Cường Ba phỏng chế sử dụng, nhưng thứ này lớn hơn, xạ trình

xa hơn, tốc độ leo trèo cũng nhanh hơn gấp bội.

Dây kim loại căng ra, Đường Thọ tung mình nhảy lên, một tay cầm hộp, tay kia như thể

bám vào dây cáp của thang máy, cả người lao vút lên không, thoắt cái đã lên cao bốn năm chục

mét, y vung tay, lại vọt lên thêm bốn năm chục mét nữa, chỉ trong chớp mắt đã biến thành một

chấm nhỏ rồi biến mất.

CHƯƠNG 81: KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

NHÌN EM MỘT LẦN ĐI

Bọn lính đánh thuê vẫn lăm lăm tay súng, bấy giờ mới phát hiện kẻ chủ sự của mình đã chạy

mất, còn đang dáo dác nhìn quanh không biết phải làm sao, cả tòa tháp hình trứng đã rung lên

bần bật, mặt đất chấn động càng lúc càng mạnh. Chợt có tên hét lớn: "Xem kìa!" Chỉ thấy ở

trung tâm Mạn Đà La, quả trứng vàng đã tan chảy, đài sen bên dưới đang phun một thứ vật

chất đỏ rực, hệt như pháo hoa ngày Tết nhưng lại có nhiệt độ cực cao. Không ai là không nhận

ra, đó chính là dung nham núi lửa đang phun trào.

Lấy hố phun trào đó làm trung tâm, Mạn Đà La đang từ từ tan chảy. Cái hố càng lúc càng

lớn, dung nham phun lên càng lúc càng nhiều, bọn lính đánh thuê đến thời điểm này mới trở

nên hoảng loạn, chẳng còn để ý gì đến mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba nữa, nháo nhác

chạy ùa lên bậc thang xoắn ốc.

Trác Mộc Cường Ba bước xuống khỏi đống kinh sách, gã nhớ rất rõ ràng, vừa nãy khi

Đường Thọ tung ra hai cú đấm chí mạng đó, đã có hai bóng người đỡ đòn thay cho gã. Gã

vòng sang phía bên kia Mạn Đà La, chỉ thấy Đường Mẫn, à không, phải nói là Fusaki và Lữ

Cánh Nam, một người nằm ở góc tường, một người gục xuống đống kinh sách, cách nhau

khoảng bốn năm chục mét, đều không gượng dậy nổi.

Một cảm giác lạnh lẽo chảy tràn trong lòng Trác Mộc Cường Ba, không, không thể nào! Gã

đột nhiên tăng tốc, chạy tới chỗ Lữ Cánh Nam. Muốn tới chỗ cô, gã nhất thiết phải chạy qua

bên cạnh Fusaki. Trác Mộc Cường Ba dằn lòng, nghiến răng, lặng lẽ bước qua người Fusaki,

đang định đi tiếp, chợt bị Fusaki tóm lấy một ống quần. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, thở

dài nói: "Cô Fusaki…"

"Không…" Giọng nói yếu ớt của Đường Mẫn vang lên, "gọi em… gọi em là Mẫn Mẫn!"

Âm thanh ấy thật thân thuộc biết bao, Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng không ghìm lòng

được, mở mắt ra nhìn Mẫn Mẫn. Gã vừa ngoảnh đầu lại liền trông thấy đôi mắt trong veo ấy,

nước mắt lấp lánh, thực sự đáng thương vô cùng. Vốn dĩ, ánh mắt ấy sao mà giống đến thế, sao

mà khiến gã hoài niệm đến thế, nhưng lúc này, tự sâu trong đáy lòng Trác Mộc Cường Ba chợt

trào lên một thứ cảm giác chán ghét! Ngụy trang, giả dối, đều là giả dối!

"Cường Ba… " Trác Mộc Cường Ba định hất tay Mẫn Mẫn ra, sải chân bước tiếp, nhưng

Mẫn Mẫn lại kêu lên một tiếng. Lúc này, cô thậm chí còn không đủ sức ngẩng mặt lên nhìn

Trác Mộc Cường Ba, đầu cô ngoẹo xuống trước ngực, hai mắt mở to, lệ nóng tuôn tràn chảy

dọc xuống theo gò má. Trác Mộc Cường Ba thầm run lên, không phải Mẫn Mẫn đang ngụy

trang, cô bẩm sinh đã có đôi mắt ấy. Có lẽ, nếu không sở hữu đôi mắt ấy, cô cũng không ở nơi

này, không phải trải qua tất cả những chuyện này. "Tha thứ cho em…" Đây là câu nói cuối

cùng của cô.

Trác Mộc Cường Ba lại nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, gã liền nhìn thấy Trương lập đang

nằm bẹp trên giường bệnh, nhìn thấy Nhạc Dương chao đảo rơi xuống như cánh bướm tả tơi,

nhìn thấy Đường Thọ đứng sững dưới ánh chiều tà, thấy pháp sư Tháp Tây đang nhoẻn cười

hiền hậu, thậm chí cả Sean…, chỉ một chữ "được" mà gã không sao thốt thành lời.

Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra lần nữa, gã phát hiện bàn tay tóm lấy ống quần mình

của Mẫn Mẫn đã ẻo lả rũ xuống, cô dựa người vào góc tường, đầu gục xuống trước ngực, hai

mắt mở to, trên gương mặt, lệ vẫn chưa khô.

Trác Mộc Cường Ba nấc nghẹn nơi cổ họng, gã vuốt mắt cho Mẫn Mẫn, đặt cô nằm thẳng,

rồi không chần chừ thêm nữa, chạy vội tới bên cạnh Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam cũng

nghiêng người dựa vào đống kinh sách, không cử động được, tư thế cô lúc này rất giống với

pháp sư Á La lúc trút hơi thở cuối cùng. Thấy Trác Mộc Cường Ba chạy tới, cô khẽ mỉm cười.

Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba nhích động, cũng rặn ra một nụ cười. Đứng trước mặt Lữ

Cánh Nam, gã đột nhiên không biết nên nói gì nữa, gã không biết Mật tu giả là một nhóm

người như thế nào, gã không biết giữa gia tộc mình và Mật tu giả có quan hệ gì, gã cũng không

biết cái gì gọi là ký chủ, cái gì gọi là kẻ sống gửi, gã không biết gì cả! Cho đến hôm nay, có

người đột nhiên nói với gã, Lữ Cánh Nam, là người bảo vệ gã, là người khi gã gặp nguy hiểm

đến tính mạng, có thể sẵn sàng hy sinh mình để bảo đảm an toàn cho gã. Cô, chẳng lẽ, người

phụ nữ này vẫn luôn ngấm ngầm ở trong bóng tối trông chừng cho gã hay sao? Rốt cuộc đã

bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm? Bốn mươi năm?

Gã đột nhiên thấy mình trở lại đêm lạnh lẽo ấy, hoa tuyết bay đầy trời, chỉ có hai người, một

cô gái đang thấp giọng khe khẽ hát: "Nhìn em một lần đi, chớ để hồng nhan ôm gối chiếc, tuổi

xuân không hối tiếc, người yêu suốt đời ơi…"

Cô không phải đang hát, cô đang thổ lộ tiếng lòng!

Dưới ánh chiều tà, bóng hình yểu điệu chỉ ở phía xa ngước lên nhìn, từ từ trùng lắp với hình

ảnh Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba bất giác hồi tưởng lại, ba năm nay, Lữ Cánh Nam đã

làm gì cho gã? Còn bản thân gã thì sao, đã làm những gì cho cô! Yêu cầu duy nhất của cô, chỉ

là hy vọng gã có thể nhìn thẳng cô một lần, không còn né tránh ánh mắt cô nữa…

Đã nói sẽ không bao giờ rơi lệ nữa, tại sao, chất lỏng nóng hổi ấy vẫn tràn ra khỏi khóe mắt,

chảy qua cánh môi run run đưa đến cảm giác ẩm ướt mặn đắng. Trái tim gã chua xót, trái tim

ấy cũng đang rơi lệ!

Đàn ông chỉ đổ máu chứ không rơi lệ, Trác Mộc Cường Ba ngước đôi mắt đẫm nước lên,

cuối cùng cũng dám nhìn thẳng vào Lữ Cánh Nam. Cô đang lặng lẽ nằm giữa đống kinh sách,

hai tay úp trên bụng, mái tóc dài xõa tung ra như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Lữ Cánh

Nam thật sự rất xinh đẹp.

Lữ Cánh Nam im lặng ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, cô đã chăm chú nhìn gã như vậy

không biết bao nhiêu năm rồi, từ khi gã còn là một cậu bé, chỉ là chưa bao giờ cô được nhìn

người đàn ông này khi ở khoảng cách gần đến thế, trực tiếp đến thế. Khi thấy ánh lệ lấp lóa

trong đôi mắt Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt của vị nữ giáo quan tâm trí tưởng như đã được

rèn đúc thành sắt thép ấy cũng lập tức ướt đẫm.

Hai người không nói với nhau câu nào, cứ lẳng lặng nhìn nhau chăm chú như thế, mỉm cười,

rơi lệ. Nhưng rất rõ ràng, sắc mặt Lữ Cánh Nam đang mỗi lúc một tái nhợt đi, tâm trí cô lững

lờ phiêu bồng, hồ như đã trở lại thời điểm nhiều năm về trước.

Băng qua núi tuyết mênh mông, ở đó có tòa đại điện mái vàng nguy nga hùng vĩ. Những

pho tượng Kim Cương uy nghiêm trong chính điện đối với một cô bé năm sáu tuổi trông thật to

lớn, ánh đèn đung đưa khiến những cái bóng hắt lên tường uốn éo chuyển động. Vị lạt ma áo

vàng bước vào, vị lạt ma áo đỏ đi ra.

Một tấm ảnh xuất hiện trước mặt cô bé. Cậu bé trong tấm ảnh phỏng chừng lớn hơn cô độ

một hai tuổi, gương mặt nhem nhuốc bẩn thỉu đầy mồ hôi, tóc tai quần áo đều dơ dáy, trông

như một đứa trẻ hoang ở trong núi chạy ra vậy, duy chỉ có đôi mắt ấy, tròng đen tròng trắng

phân biệt rõ ràng, ánh mắt ngông nghênh bướng bỉnh hết sức. Dường như cậu ta vừa đánh nhau

với ai, nét mặt toát lên bộ dạng của kẻ nhất quyết không chịu nhận thua. Nhìn cậu bé trong ảnh,

cô bé chợt nhoẻn miệng tươi cười, lộ ra hai hàng răng sữa xinh xắn.

"Đây là Cường Ba thiếu gia, nếu con muốn trở thành Mật tu giả, cậu ấy sẽ là ký chủ của

con."

"Ký chủ là gì ạ?"

"Ký chủ, chính là chủ nhân của linh hồn ta và con, phải dùng sinh mạng của chúng ta để bảo

vệ an toàn cho họ. Bọn họ chính là ý nghĩa và giá trị tồn tại của chúng ta. Có điều, con là ngoại

môn đệ tử, sau này vẫn có thể sống như người bình thường, chỉ khi ký chủ của con có khả năng

gặp nguy hiểm, cần đến con, chúng ta mới triệu hồi con về bên cạnh cậu ấy."

"Có thể cùng chơi với cậu ấy không?"

"Không thể, chúng ta có thể nhìn thấy cậu ấy, nhưng cậu ấy sẽ không thấy chúng ta. Chúng

ta chỉ có thể ngầm bảo vệ trong bóng tối, con phải nghĩ cho kỹ. Trở thành Mật tu giả phải trải

qua tu luyện rất khắc nghiệt, con không thể chơi với người khác, không có búp bê xinh, không

có quần áo đẹp. Ngày ngày, con sẽ phải không ngừng chịu đựng đau đớn để sinh tồn. Mà sau

khi thành tài, ngoại trừ thân thể mạnh hơn người khác một chút, con cũng không có gì khác với

người bình thường cả."

Cô bé nhìn ra ngoài cửa, cha cô đang đứng ở đó, cô ngoảnh lại nhìn vị lạt ma, kiên định nói:

"Con chấp nhận."

"Được rồi, chúng ta cùng thề nào. Con phải nhớ kỹ, lời thề ngày hôm nay sẽ đi theo con

suốt cả cuộc đời. Con đã lựa chọn con đường này, thì không thể quay đầu được nữa."

"Cô bé ngoan, kết thủ ấn đi, giống như ta đây này, ta sẽ hỏi, con sẽ trả lời. Phải nhớ kỹ,

không được trả lời trái với ý nguyện của mình đâu nhé."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Trí Tuệ chi vương Đông, con có tự nguyện gia

nhập vào Thánh giáo quang minh, tuân theo pháp chỉ của Thánh giáo, nghiêm cẩn giữ gìn bí

mật của Thánh giáo, trung thành với Thánh giáo.. vĩnh viễn không bao giờ phải bội không?"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Quang Minh chi vương Mạc, con có tự nguyện tu

hành Mật pháp của Thánh giáo, kính thầy như cha mẹ, thầy có việc cần, một lòng nghe lệnh,

con cái của thầy, coi như anh em… phàm những gì con biết, dù truyền miệng hay chép ra

thành sách cũng chỉ truyền cho con của con hoặc con của thầy con và những đồ đệ có lời thề

này, ngoài ra không truyền cho ai khác?"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Vạn Thú chi vương Trại, con có tự nguyện dùng

những thứ mình học được, với năng lực và khả năng phán đoán của mình, coi việc làm lợi cho

thiên hạ chúng sinh làm tín điều, trừng trị mọi hành vi đọa lạc và hại người… dù đi tới đâu,

gặp nam hay gặp nữ, quý nhân hay nô tỳ, mục đích duy nhất của con cũng là mưu cầu hạnh

phúc cho người khổ nạn, tận hết sức mình cho người cần giúp, đồng thời tự mình kiểm điểm,

tiêu trừ ác niệm…"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng

không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Thủ Hộ chi vương Đảng, con có tự nguyện tôn

Trác Mộc Cường Ba làm ký chủ suốt đời này, tuân theo ý chỉ của Thánh giáo ở bên cậu ấy, tôn

trọng cậu ấy, bảo vệ cậu ấy như con ngươi của mắt mình, từ giờ cho tới vĩnh viễn về sau, bất

luận cậu ấy phú quý hay bần hàn, khỏe mạnh hay ốm đau, một lòng trung thành với cậu ấy, cho

tới khi cậu ấy rời khỏi thế gian này?"

"Vâng, con nguyện ý…"

"Lữ Tiểu Hồng, kể từ giây phút này, con đã là Mật tu giả, sẽ đoạn tuyệt mọi phàm niệm của

thế tục, sẽ không sử dụng tên thế tục của con nữa, trưởng lão Trát Can ban cho con pháp danh

Cánh Nam."

Thời không dường như tạm thời dừng lại, bọn lính đánh thuê sớm đã ào ào bỏ chạy như ong

vỡ tổ, tòa tháp hình trứng trở nên yên lặng như tờ, duy chỉ còn đóa hoa lửa đang phun trào lên

như suối vẫn lập lòe hắt sáng đỏ bừng cả gương mặt hai người.

Một tiếng hét vang phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch ấy: "Này, chết tiệt thật, chỗ này sắp bị

phá hủy rồi, mau đi khỏi đây thôi, bọn lính đánh thuê kia cũng chạy hết rồi!"

Merkin không ngờ vẫn chưa bỏ đi, nếu không có tiếng hét không đúng lúc này của y, Trác

Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam thậm chí đã quên mất sự tồn tại của con người này. Trác Mộc

Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy đài sen trên đỉnh Mạn Đà La đã hoàn toàn tan chảy, dung nham

chảy thành dòng đỏ rực như lửa men theo tám tầng Mạn Đà La tuôn xuống, một dòng nhỏ đã

chảy vào đầy tháp đến chỗ những đống sách chất cao như núi. Đám kinh sách liền bốc cháy

ngùn ngụt.

"Anh đưa em cùng đi, chúng ta trở về thôi," Trác Mộc Cường Ba định ôm Lữ Cánh Nam

dậy, nhưng cô khẽ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: "Những gì có thể dạy, em đều đã dạy anh cả rồi, sau

này… sợ rằng em không thể bảo vệ anh được nữa, Cường Ba thiếu gia, anh phải chăm sóc tốt

cho mình, để em và pháp sư Á La ở lại đây được rồi, đây là Thánh điển mà chúng em vẫn luôn

tìm kiếm…"

Dung nham chảy tràn ra càng lúc càng nhiều hơn, Merkin ở bên cạnh rối rít thúc giục: "Còn

không mau lên thì không đi được đâu."

Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng gầm lên: "Mặc xác tôi!"

Đột nhiên, trước mặt gã tối đen, tựa như nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang gắng gượng mỉm

cười, bàn tay tạo thành một dấu hiệu chỉ có lính đặc chủng chính quy mới hiểu được. "Merkin

đánh lén!" Ý niệm ấy lóe lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thân thể gã đã nặng nề gục xuống.

Ba năm thời gian, từng chút từng chút hiện lên trong tâm trí gã như một đoạn phim tua

ngược, bắt đầu từ khi nhìn thấy tấm ảnh đó: Mẫn Mẫn mặc váy dài trắng toát tha thướt đến bên

cạnh gã, nụ cười tươi như hoa; thầy giáo gã miệng ngậm điếu thuốc, Trương Lập lái xe Jeep

giới thiệu Tây Tạng với bọn họ; ánh mắt hung hãn của Ba Tang trong nhà giam; rồi vùng Khả

Khả Tây Lý băng tuyết mù mịt, ba anh em nhà sói xám ung dung lùa con gấu khổng lồ; gương

mặt râu ria của đội trưởng Hồ Dương, không giận mà tự có uy; Nhạc Dương ung dung bắt

được tên trộm, nở một nụ cười rực rỡ như ánh ban mai; ánh mắt sắc bén như chim ưng của Lữ

Cánh Nam, thấp thoáng nét yêu kiều; nét mặt nghiêm túc của pháp sư Á La; rừng rậm Amazon

nóng ẩm bức bối; hàm răng trắng bóc của Babatou; mái tóc trắng bạc của Sean; Bạch Thành ở

Maya; núi tuyết nguy nga hùng vĩ; Đảo Huyền Không tự tăm tối mờ mịt; dòng U Minh hà cuồn

cuộn dưới lòng đất… phảng phất như một giấc mộng, một giấc mộng quá dài, quá khổ sở… nụ

cười thân sĩ khiêm nhường nhã nhặn của Đường Thọ lại xuất hiện trong giấc mộng ấy, đột

nhiên gương mặt đó được phóng to ra vô hạn, cái cằm kéo dài, miệng to ngoác, tai dài và sừng

nhọn cũng mọc ra, cả gương mặt đều chìm trong ngọn lửa hừng hực… không, đây không phải

là sự thực…

Trác Mộc Cường Ba mở bừng mắt ra, liền trông thấy trời xanh mây trắng, gã hơi nghiêng

người, bên cạnh là thảm cỏ xanh mơn mởn như ngọc bích, thế này là thế nào? Không phải là gã

đang ở trong khu vực trung tâm của Bạc Ba La thần miếu hay sao? Dung nham núi lửa trào lên,

lẽ nào thật sự đó chỉ là một giấc mộng?

Trác Mộc Cường Ba nhổm người ngồi dậy, bốn phía xung quanh đều là thảm cỏ, Merkin

đang ủ rũ ngồi bên cạnh, nét mặt đầy vẻ lo âu, không biết đang nghĩ gì. Trác Mộc Cường Ba

lập tức hiểu ra, đây không phải là một giấc mộng, bọn họ đã ra khỏi địa cung trong Bạc Ba La

thần miếu, rốt cuộc gã đã hôn mê bao lâu? Làm sao mà ra được ngoài này? Còn Lữ Cánh

Nam? Đây là chỗ nào?

Trác Mộc Cường Ba nhảy bật lên, đảo mắt quan sát hoàn cảnh xung quanh, một bên là núi

tuyết, hồ tế khổng lồ ở phía sau không xa, giữa hồ ùng ục nổi lên vô số bọt khí, mấy cái hòm

lớn trông như cỗ quan tài dập dềnh va đập vào bờ nước, còn quảng trường nơi có lối vào thần

miếu thì đã ở quá xa ngoài tầm mắt.

"Tôi hôn mê bao nhiêu lâu rồi? Chúng ta ra đây bằng cách nào? Lữ Cánh Nam đâu?" Trác

Mộc Cường Ba tóm lấy vai Merkin, hỏi một mạch mấy câu liền.

Merkin mấp máy miệng, cơ hồ không biết nên trả lời câu nào trước, cuối cùng ý nói: "Cũng

không lâu lắm, tôi vừa kéo anh lên bờ. Những người cổ đại kia đã chuẩn bị hết cả rồi, còn nhớ

gian đại điện bên ngoài tòa tháp không?

Khi máu chúng ta mở cánh cửa tòa tháp hình trứng ra, hai bên tường còn lại cũng mở ra

theo, đó là lối thoát duy nhất. Bọn họ đã xây dựng một đường hầm thông thẳng xuống đáy hồ,

giống như nòng pháo vậy. Những cái hòm lớn kia chính là công cụ duy nhất để thoát ra. Chúng

vốn được trữ trong đường hầm, khi cơ quan khởi động liền có nước hồ tràn vào trong. Bên

dưới là dung nham nóng chảy, nước gặp dung nham bốc hơi sinh ra một lượng khí lớn, khí áp

khổng lồ đó sẽ đẩy cả người lẫn cái hòm bắn lên mặt hồ như một viên đạn."

"Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba lắc vai Merkin hỏi, "Tôi hỏi ông Lữ Cánh Nam

đâu?"

Merkin vẫn không nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt hướng về phía xa xăm:

"Tôi chỉ có thể mang theo một mình anh ra thôi."

Trác Mộc Cường Ba buông tay, loạng choạng lùi lại một bước, rồi nhanh chóng xông tới,

nhấc cổ áo Merkin lên gằn giọng quát: "Tôi không tin! Đây là cái gì, kia là cái gì chứ…" Gã

chỉ vào những cái hòm lớn nổi dập dềnh trên mặt nước.

Merkin cười khổ nói: "Đừng quên, kẻ đầu tiên chạy thoát ra là Đường Thọ, một vài tên lính

đánh thuê cũng chạy ra trước chúng ta, một số khác… có lẽ không thoát được." Merkin nhớ lại

cảnh tượng trong gian đại điện ấy, bọn lính đánh thuê lăn lộn trong đống vàng bạc châu báu,

trên người đeo, trên tay cầm, trong miệng ngậm, toàn là trân châu bảo ngọc, lại còn một vài tên

khác tranh giành nhau một món gì đó, lao vào cào cấu cắn xé như lũ thú hoang.

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Không thể nào, Lữ Cánh Nam sẽ không có chuyện gì đâu,

cô ấy giỏi như vậy, làm sao lại có chuyện gì được chứ? Đưa tôi quay lại, tôi muốn quay lại tìm

cô ấy!"

"Đừng ngu ngốc nữa!" Merkin gầm lên, "tòa tháp ấy đã không còn tồn tại nữa, đại điện ấy

cũng không còn tồn tại nữa! Anh có biết không!" Y vùng lên, tóm chặt Trác Mộc Cường Ba

vừa lắc vừa giật, cuối cùng đẩy mạnh gã một cái, chỉ tay về phía quảng trường đằng xa: "Rất

nhanh thôi, tòa Bạc Ba La thần miếu này cũng sẽ không tồn tại nữa!" Hai người ngồi phịch

xuống đất, cơ hồ cuộc cãi vã vừa rồi đã khiến cả hai tiêu hao hết sức lực, đầu cúi gục, ai nấy

đều có tâm sự riêng.

"Ủa, sao vậy? Mâu thuẫn rồi à?"

Vừa nghe giọng nói ấy, cả hai đều giật nẩy mình, bật tung người lên theo phản xạ. Chỉ thấy

ở phía xa, Đường Thọ đang chậm rãi bước tới từ phía bên kia trảng cỏ, trên mặt vẫn nở nụ cười

ấy, bộ dạng hết sức ung dung. Trên người y, nhuốm đầy vết máu. "Ta đã nói rồi, chuyện đau

khổ nhất trên đời này, không gì hơn kiên trì không được mà vẫn phải kiên trì, buông bỏ không

được mà vẫn phải buông bỏ, đến khi tỉnh ngộ, tất cả đều đã muộn, không còn cách nào quay

đầu lại nữa. Cường Ba thiếu gia, có phải ngươi đã thể nghiệm rồi chăng?"

"Đường… Thọ…" Đó là tiếng gầm phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba.

"Người quyết sách!" Đó là giọng run run của Merkin.

TỬ ĐẤU (1)

"Là ta đây, ta lại quay lại rồi." Đường Thọ giơ tay trái lên, lè lưỡi liếm vết máu dính trên mu

bàn tay, dường như rất thỏa mãn. Y nói với Trác Mộc Cường Ba và Merkin: "Sao chỉ có hai

người các ngươi sống sót trở ra thôi à? Ta còn tưởng ít nhất phải có ba người chứ. Có điều, bớt

một người cũng tốt, ta đỡ phải tốn sức."

Bàn tay Trác Mộc Cường Ba nắm lại kêu lên răng rắc: "Mày còn dám quay lại đây à!"

Sắc mặt Merkin lại trở nên tái nhợt: "Mày…mày muốn…"

Đường Thọ mỉm cười: "Đúng thế, có lẽ nơi này sẽ bị hủy diệt, cũng có thể vẫn còn giữ được

chút gì đó cũng không chừng, ai mà biết được. Ta không hy vọng, ngoại trừ ta ra trên đời này

còn có người khác biết đến sự tồn tại của nơi này."

Merkin kéo kéo vạt áo Trác Mộc Cường Ba, thấp giọng nói: "Hắn quay lại để diệt khẩu, bọn

lính đánh thuê kia, chỉ sợ đã chết hết rồi."

Đường Thọ gật đầu: "Đúng vậy, đám công cụ đó dùng xong rồi, cũng không cần thiết phải

giữ lại làm gì nữa. Các ngươi cũng thế, ta không định buông tha cho bất cứ người hiện đại nào

đã đặt chân đến nơi này."

Trác Mộc Cường Ba nghiến răng kèn kẹt: "Vừa khéo, chúng ta cũng có ý định đó!"

Merkin đột nhiên hỏi: "Cái hộp kia đâu rồi?" Y để ý thấy, chiếc hộp nhỏ Đường Thọ mang

theo kia, đã không còn ở trên tay y nữa.

Đường Thọ vui vẻ nói: "Ta đã đưa nó ra ngoài rồi, bằng cách thức của riêng ta, chỉ cần giải

quyết xong các ngươi, ta sẽ trở lại thế giới đó, toàn tâm toàn ý với sứ mệnh vĩ đại hủy diệt toàn

bộ loài người của mình."

Ánh mắt Merkin lại hướng về phía xa, một đàn chim lớn đang đập cánh bay lên.

"Phì!" Trác Mộc Cường Ba nhổ nước bọt mắng, "Ngươi bớt giở cái giọng tử tế ấy để biện

minh cho ý đồ ghê tởm của mình đi, cởi bỏ mặt nạ ra, đừng tưởng ta không biết mục đích thực

sự của các ngươi là gì!"

"Gì hả?" Đường Thọ và Merkin đều thoáng ngẩn người.

Trác Mộc Cường Ba gằn giọng nói: "Ta từng nghe nói, có người cho rằng thế giới này nên

do một nhóm nhỏ người nắm giữ, đại đa số còn lại chỉ cần làm việc như lũ súc sinh là được rồi.

Với trình độ tự động hóa ngày nay, đích thực chỉ cần ấn vài cái nút là có thể chế tạo ra đại bộ

phận các thứ đáp ứng với nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Vì vậy, các ngươi chẳng qua muốn

lợi dụng loại sinh vật kia làm vũ khí nhằm phá bỏ rào cản biên giới giữa các quốc gia, từ đó

thống trị toàn bộ thế giới này. Các ngươi không cần quá nhiều người thông minh, chỉ cần

khoảng sáu mươi triệu nô lệ có trí tuệ ngang với loài người thời Đồ đá cũ để các ngươi mặc

tình sai sử, mặc tình điều khiển, mà không đủ sức phản kháng, thậm chí còn không biết thế nào

là phản kháng nữa. Những kẻ nắm giữ tri thức hiện đại còn sót lại, sẽ được coi như Thượng đế,

đây mới là dã tâm thực sự của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn các ngươi!"

"Chà chà chà, mục tiêu vĩ đại cao quý của chúng ta, lại bị ngươi nói thành ra thấp kém đến

vậy ư?" Đường Thọ làm như vẻ rất đau lòng.

"Đừng diễn kịch nữa, cũng đừng làm ra cái bộ dạng trách trời thương dân đó làm gì, ta đã

nhìn thấu mọi lớp vỏ ngụy trang của ngươi rồi. Ngươi mở mồm ra là nói loài người đáng chết,

toàn bộ đều đáng chết, vậy thì ngươi không nên thoát bỏ lớp vỏ ngoài con người của mình, tự

xưng là thần. Ngươi đừng quên, ngươi cũng là xác thịt phàm tục do cha mẹ sinh ra, có giảo

biện thế nào cũng không thể phủ định, ngươi là con người! Chính là một thành viên trong

giống loài mà ngươi đã vô số lần nói phải tuyệt diệt ấy! Ngươi có thể bất chấp tất cả những ước

thúc về đạo đức mà nhân loại đã tạo lập lên trong suốt nghìn vạn năm qua, ngươi có thể từ bỏ

thất tình lục dục của con người, dù hành vi của ngươi không bằng loài súc sinh, nhưng ngươi

rốt cuộc vẫn là con người, dù tu luyện mạnh đến mấy ngươi cũng không thoát khỏi sinh lão

bệnh tử. Ngươi có giết sạch thân nhân của mình, cũng không thể xóa bỏ mọi dấu vết chứng tỏ

ngươi là một con người, ngươi… không phải là Thần! Cùng lắm, chỉ có thể coi ngươi là một

tên điên cô độc. Ngươi là một tên điên, một tên điên thực sự."

Sắc mặt Đường Thọ trầm xuống, tóc dựng đứng lên, nhưng chỉ thoáng sau y lại bật cười:

"Đúng thế, ta điên rồi, nhưng Cường Ba thiếu gia ngươi cũng không phải đến hôm nay mới

biết ta là tên điên mà, từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, chẳng phải ngươi đã biết rồi hay sao?"

"Ta thừa nhận, con người ai cũng có tính xấu." Ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba càng lúc

càng thêm kiên định, đối mặt với Đường Thọ, gã không còn chút do dự và sợ hãi nào nữa: "Khi

sức mạnh khoa học kỹ thuật của chúng ta đã vượt xa các giống loài khác, những tính xấu này

sẽ càng bộc lộ một cách rõ rệt hơn. Sinh tồn và sinh sôi, là ý thức bản năng gắn với mỗi giống

loài từ khi sinh ra trên đời, đại đa số loài người, kỳ thực yêu cầu không nhiều lắm, chúng ta

chẳng qua chỉ muốn điều kiện sống tốt hơn một chút, sinh sôi nhiều thêm một chút, chỉ vậy mà

thôi. Có điều, không gian là cố định, con người muốn sống tốt hơn, tất nhiên điều kiện sống

của các giống loài khác phải kém đi, con người sinh sôi nhiều hơn, sự phá hoại đối với môi

trường xung quanh đích thực cũng sẽ lớn hơn. Có điều, tất cả những điều này, ngươi có tư cách

gì để phán xét? Ngươi là cái thứ gì? Ngươi có tư cách gì để phán xét vận mệnh của toàn bộ loài

người?"

"Ta tồn tại, ta mạnh mẽ, ta có trí tuệ." Đường Thọ thong thả nói, "mấu chốt là, ta nắm trong tay vũ khí có thể thay đổi vận mệnh của toàn bộ loài người, ta có tư cách để quyết định vận

mệnh của loài người, ngươi không phục sao? Ngươi có tức giận cũng vô dụng thôi, hắc hắc,

cho dù ngươi nói hay hơn ta đấy thì sao chứ? Đừng quên, chân lý của vũ trụ là ánh sáng chỉ tồn

tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới vĩnh hằng bất diệt!"

Đường Thọ vừa mở miệng nói ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khác ngắn ngủi, Trác Mộc

Cường Ba đã tiếp lời ngay: "Ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới

là vĩnh hằng, nhưng chính thứ ánh sáng chỉ lóe lên trong chớp mắt ấy lại diễn sinh ra sự sống

và hy vọng. Vì vậy, tuy chúng ta đều bước ra từ trong bóng đêm, nhưng vận mệnh đã định sẵn,

chúng ta sẽ dùng cả đời mình để theo đuổi ánh sáng." Gã đã nhớ lại toàn bộ câu nói của cha

mình lúc đó.

Đường Thọ biến sắc: "Kẻ nào nói vậy?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Ngươi cần gì phải biết, chẳng phải ngươi muốn chân lý sao?

Đây, chính là chân lý!"

Đường Thọ lại cười cười: "Cường Ba thiếu gia, quả không hổ xuất thân trong nhà thế gia

Phật môn, nói khéo lắm, nhưng rất đáng tiếc, các ngươi đều phải chết ở đây cả rồi!"

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều hiểu rất rõ, vừa nãy bốn

người cùng ra tay cũng không làm gì được Đường Thọ, giờ đây chỉ còn hai người bọn họ,

muốn giành phần thắng là tương đối khó khăn, nhưng kể cả chia nhau bỏ chạy, dường như

cũng không phải chuyện dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh phân tích, lúc này họ

không phải lo lắng bọn lính đánh thuê bắn lén, vả lại cũng đã có kinh nghiệm chiến đấu với

Đường Thọ, ít nhiều cũng biết được tốc độ và sức mạnh của y thế nào, đồng thời gã và Merkin

còn được nghỉ ngơi một lát bên bờ hồ, Đường Thọ vừa giết một đám lính đánh thuê mới quay

trở lại, tình thế nghiêng về bên nào giờ này vẫn chưa nói được.

Nhưng Merkin lại thấp giọng nói với Trác Mộc Cường Ba một tin tức không tốt lắm, y khẽ

thở hắt ra: "Vừa nãy khi đấu với ba người chúng ta, Đường Thọ chưa giở hết toàn lực."

"Hả?" Trác Mộc Cường Ba trợn trừng hai mắt lên, không biết có phải Merkin đang gạt gã

không, đấu với ba người như vậy mà còn nói y chưa giở hết toàn lực hay sao?

Merkin bấy giờ mới nói ra thân phận thực sự của Đường Thọ: "Lấy năng lực công kích của

cá nhân để bình phẩm, thực lực của Đường Thọ nằm ở giữa cấp hai và cấp ba trong xếp hạng

của Mười kỵ sĩ bàn tròn, tôi chỉ là lính đặc chủng cấp một thấp nhất, hắn cao hơn tôi một bậc,

giống như sự khác biệt giữa Cách Tây và Cách Quả trong đám Mật tu giả vậy. Nhưng chỗ đáng

sợ nhất của hắn là, hắn cũng giống như Soares, là một Thao thú sư, đồng thời thực lực còn cao

hơn Soares một bậc. Thực lực chân chính của hắn, có lẽ nằm khoảng giữa Thao trùng sư và

Thao cổ sư rồi."

"Đúng vậy, thực lực của Soares, chỉ khoảng giữa Thao thú sư và Thao trùng sư, còn Đường

Thọ đã lĩnh ngộ được cốt tủy của cảnh giới Thao trùng sư rồi, hắn gần như có thể khống chế

được tuyệt đại đa số các loài côn trùng đã được biết đến hiện nay, trên người bao giờ cũng

mang theo một loại côn trùng nào đó. Chúng ta không biết hắn để lũ côn trùng ấy ở chỗ nào,

khi tấn công, rất có thể sẽ bị bọn chúng cắn trả. Một khi bị bọn đó cắn phải…" Merkin khẽ lắc

đầu.

Trác Mộc Cường Ba không thể không xem xét lại phương án chiến đấu, Đường Thọ dường

như rất nhàn nhã, rất độ lượng, ung dung đứng đó không chủ động tấn công, mà để cho Trác

Mộc Cường Ba và Merkin đủ thời gian bàn bạc như con mèo đang vờn hai con chuột…

Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía xa, mé bên kia thảm cỏ là rừng rậm, nếu đàn sói có thể

chạy đến đây… Đường Thọ cười khì khì nói: “Không cần nghĩ đến lũ sói của ngươi làm gì.

Cường Ba thiếu gia, đừng quên lúc ngươi truy đuổi Merkin đã xảy ra chuyện gì chứ? Ta đã

khảo sát kỹ lưỡng rồi, đây là khu cấm đối với loài sói, bọn chũng tuyệt đối không tiến vào dù

chỉ một bước đâu.”

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chầm chậm thu về, nhìn bộ mặt khiêm hòa nhã nhặn mà thực

chất lại hết sức kiêu căng ngạo mạn của Đường Thọ, trong lòng gã chợt dâng trào một ngọn lửa

vô hình. Gã giơ nắm đấm to như cái bát lên, cứ vậy lao thẳng về phía Đường Thọ, nếu mọi tính

toán đều không thể thay đổi được cục diện, vậy thì, cứ trực tiếp xông lên là xong, cần quái gì

phải nghĩ nữa.

“Này, vậy có được không?” Merkin không đừng được đánh phải chạy theo bên Trác Mộc

Cường Ba , hai người song song lao về phía Đường Thọ.

“Hắn không coi mạng người ra cái gì đâu, hắn sẽ không tha cho chúng ta, mà tôi cũng

không định tha cho hắn, đã thế thì cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt óc? Cứ oanh liệt đánh

một trận đi, giống như thời trẻ vậy!”

“Giống như thời trẻ vậy!” Merkin cảm thấy máu trong cơ thể mình bắt đầu sôi trào nóng

bỏng, cảm giác nhiệt huyết bừng bừng đã lâu lắm rồi không có lại ào ạt trồi lên trong y, bước

chân hai người mỗi lúc một nhanh, họ guồng chân, tăng tốc, gia tốc, chỉ trong chớp mắt đã

vượt qua khoảng cách năm mươi bước chân.

Nhìn hai người dũng mãnh xông về phía mình, Đường Thọ nhoẻn miệng mỉm cười, cũng

lao về phía họ, bắt đầu tăng tốc, hai mươi mét, mười mét, năm mét, khoảng cách giữa song

phương không ngừng rút ngắn lại. Khi hai bên gần chạm vào nhau, Đường Thọ đột nhiên chồm

người ra trước, hai tay chống xuống đất lộn nhào một vòng, nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba

và Merkin song song rơi vào khoảng không. Trong khi ấy, hai chân đạp ra phía trước của

Đường Thọ ép hai người họ phải thu tay chống đỡ. Cả hai cùng cảm nhận được lực xung kích

mạnh mẽ ập tới, đành cực lực chuyển từ thế công sang tư thế phòng ngự, giật lùi về phía sau.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa lùi lại, hai chân Đường Thọ đang đá vào mặt hai người

lập tức chuyển sang đạp vào ngực. Hai người lại lùi tiếp, hai cẳng chân lại nhằm vào phần

hông, hai tay Đường Thọ đã rời khỏi mặt đất, cả người lúc này nằm ngang trên không trung.

Vốn dĩ, đây là thời cơ tốt nhất để tấn công y, nhưng hai chân y lại dài hơn sải tay Trác Mộc

Cường Ba và Merkin, hai người không đánh trúng Đường Thọ, ngược lại mỗi người còn bị đá

cho một cước. Hai người chỉ có thể tiếp tục lùi lại, họ vẫn còn một cơ hội, chính lúc Đường

Thọ vừa kết thúc vòng nhào lộn, hai chân còn chưa đứng vững vàng. Lúc đó y không thể phát

lực, hai người sẽ chuyển lùi thành tiến, tức khắc sẽ khiến Đường Thọ trở tay không kịp.

Nhưng thân thể Đường Thọ ở trên không trung lại nghiêng đi một cách kỳ dị, chân trái

chạm đất trước chân phải, vả lại, chân trái còn vươn lên trước chân phải chừng ba mươi xăng ti

mét. Chính khoảng cách ba mươi xăng ti mét này, khiến Đường Thọ giẫm lên mu bàn chân

Merkin một cách chuẩn xác. Khi áp lực từ mu bàn chân truyền lên não, Merkin chuẩn bị rút

chân lùi lại, thì Đường Thọ đã đứng lù lù trước mặt y rồi. Đồng thời, chính cú vặn người trên

không kì dị đó, cũng khiến cú đấm dồn lực của Trác Mộc Cường Ba lướt sạt qua đầu vai

Đường Thọ rơi vào khoảng không.

Merkin thấy Đường Thọ đứng trước mặt mình, hai mắt trợn lên, kế đó là cảm giác đau đớn

dữ dội bùng lên ở nội tạng, truyền đến trung khu thần kinh. Đường Thọ vừa chạm đến đất liền

tung ra một cú đấm vào bụng dưới Merkin nắm đấm vẫn không dừng lại, thuận đà móc lên quá

đầu, tương thẳng vào cằm, khiến Merkin bật ngửa ra sau. Lẽ ra, trúng phải hai đòn nặng như

vậy, Merkin phải văng lên không trung, nhưng Đường Thọ lại đang giẫm lên mu bàn chân y.

Merkin sau khi cảm thấy đau đớn dữ dội bật ngửa người ra, lại cảm thấy một luồng sức lại kéo

y bật ngược lại phía nắm đấm của đối phương.

Đường Thọ sớm đã chuẩn bị cho Merkin một cùi chỏ, còn tay kia của y lại đang đối phó với

Trác Mộc Cường Ba. Đúng như Pháp Sư Á La phán đoán, tay phải của Đường Thọ rõ ràng

không nhanh bằng tay trái, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, Trác Mộc Cường Ba luôn phải dồn sức

vào cả hai tay mới gạt đỡ được nắm đấm của y.

Còn Merkin lúc này, lại như con lật đật, bị Đường Thọ đánh ngả ra sau rồi bật lại, ngả ra

sau, rồi lại bật lại, tuy y vẫn có thể cản đỡ được một phần thế công của Đường Thọ, nhưng

cũng không có cách nào chuyển từ thế thủ sang tấn công. Phía bên kia, Trác Mộc Cường Ba

một mực tấn công dữ dội, song cũng không thể đột phá được thế phòng ngự một tay của

Đường Thọ, có điều Đường Thọ đang giẫm lên chân Merkin, nên chỉ cần gã duy trì khoảng

cách, Đường Thọ cũng không đánh trúng gã được.

Đường Thọ đánh cho Merkin bật đi bật lại như vậy khoảng ba bốn lần, đột nhiên nhấc chân

lên, xoay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba. Thân thể Merkin vừa thoát khỏi áp chế, không

lùi lại mà xông thẳng tới, ngọn lửa bị đè nén trong lòng bùng lên dữ dội. Chỉ thấy Đường Thọ

chuyển hướng, xoay hông, tránh khỏi nắm đấm mạnh mẽ của Trác Mộc Cường Ba, cẳng chân

vừa giẫm chân Merkin từ từ nhấc lên. Y mỉm cười lùi lại, như thể dây cung kéo căng ra để tích

tụ sức mạnh, kế đó bất ngờ phát lực, bắn vọt về phía Trác Mộc Cường Ba. Toàn bộ quá trình

ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn đang trong tư thế giơ nắm đấm xông tới, không kịp biến chiêu, chỉ

biết mở mắt trân trân nhìn đầu gối Đường Thọ “tiếp xúc thân mật” với bụng mình. Một đòn

này, khiến thân thể Trác Mộc Cường Ba bay bổng lên khỏi mặt đất. Vẫn chưa kết thúc, Đường

Thọ còn mượn lực phản chấn khi chạm với Trác Mộc Cường Ba, đạp mạnh chân về phía sau,

nhằm thẳng vào lồng ngực Merkin đang bổ tới. Đối mặt với cú đã bất thình lình này, Merkin

định thu tay lại chống đỡ, nhưng tay chưa kịp thu về thì chân đối phương đã trúng đích, y chỉ

thấy lồng ngực nhộn nhạo, cảm giác như thể phải ọe hết cả lục phủ ngũ tạng ra mới dễ chịu

được phần nào. Đường Thọ tung chân bật về phía sau một cước, trúng vào phần phía trước

ngực Merkin, kế đó lại giơ đùi lên, gót chân quét mạnh vào trán y, vẫn chưa hết đà, cẳng chân

giương cao quá đầu. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang cong người lại như con tôm, thân hình

vươn ra phía trước. Thân trên của Đường Thọ thụp xuống, cẳng chân đá Merkin bật ra, liền

vòng ra từ sau lưng như đuôi bọ cạp, bồi vào trán Trác Mộc Cường Ba một cước. Cả Trác Mộc

Cường Ba lẫn Merkin đều bị hất văng ra xa.

Lên gối, đá hậu, hất chân, móc ngược, một loạt các động tác liền mạch như nước đại khái

chỉ diễn ra trong khoảng nửa giây, không phải Trác Mộc Cường Ba và Merkin không muốn né

tránh, mà chỉ vì Đường Thọ quá nhanh. Sau khi đánh bật, hai người mới nhớ ra, chân tên

Đường Thọ này còn linh hoạt hơn tay của người bình thường gấp bội.

Đường Thọ một chiêu đắc thủ, đương nhiên không cho hai người có cơ hội lấy hơi, lập tức

dồn lực vào gót chân, phi thân lao tới, nắm đấm kéo về phía sau, mục tiêu là… Trác Mộc

Cường Ba!

Nắm tay Đường Thọ còn chưa tới, quyền phong đã tới trước. Trác Mộc Cường Ba vừa trúng

một cú lên gối bồi thêm một cước vào trán, cơ bắp co giật, cảm giác đau đớn còn chưa dứt,

lưng vẫn chưa vươn thẳng ra được, tưởng chừng như không thể nào tránh được. Nhưng dưới áp

lực của cú đấm đáng sợ ấy, bản năng sinh tồn của gã bỗng bùng lên. Trác Mộc Cường Ba thả

lỏng hai tay đang ôm bụng, chống xuống đất, cả tứ chi đồng thời phát lực. Tư thế đó hết sức kỳ

dị, giống như con dế đang phục dưới đất đột nhiên nhảy bật lên tránh khỏi bàn tay ụp xuống

bắt nó vậy. Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại né được cú đấm chí mạng ấy! Tứ chi cùng lúc

phát lực, cùng lúc chạm đất, Trác Mộc Cường Ba nhảy sang một bên, vẫn giữ nguyên tư thế

nằm rạp xuống đó nhìn lom lom vào Đường Thọ. Đồng thời, gã cũng cảm nhận được, khi thực

hiện động tác này, hơi thở và các mạch máu đều trở nên thông thuận, cảm giác đau đớn dữ dội

cũng lập tức thuyên giảm đáng kể.

Cú đấm của Đường Thọ đã hoàn toàn ngập vào vị trí Trác Mộc Cường Ba vừa đứng, giống

như dao cắt đậu phụ, gần nửa cánh tay chìm vào trong đất. Hai mắt Đường Thọ đảo một vòng,

rõ ràng chính y cũng kinh ngạc khi thấy Trác Mộc Cường Ba tránh được cú đấm này, nhưng y

không hề do dự, tức khắc xoay người rút nắm đấm ra, tung chân chạy ngược lại, mục tiêu là,

Merkin! Tốc độ của y cực nhanh, thân thể gần như song song với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba

không ngờ Đường Thọ lại thay đổi hướng trong chớp mắt, không dám chần chừ, vội vàng truy

theo. Lần này, gã dùng cả chân lẫn tay, lập tức cảm thấy máu và hơi thở càng thêm thông suốt

dễ dàng, tốc độ chạy cũng tăng lên đáng kể, gần như theo kịp được Đường Thọ.

“Bước chạy kiểu sói à!” Đường Thọ thoáng lộ vẻ bực tức, nhưng y không có thời gian lo

chuyện ấy, dù sao y vẫn dẫn trước Trác Mộc Cường Ba nửa thân người, nửa thân người ấy, đủ

để đối phó với Merkin rồi!

Merkin không học được theo Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên giở ra một chiêu thức quái dị

chẳng ai nghĩ tới. Y cảm nhận được áp lực cuồn cuộn ập đến từ phía Đường Thọ, đành nắm

chặt hai bàn tay lại, liều mạng!

TỬ ĐẤU (2)

Đường Thọ tiếp cận với Merkin lại ngả người thụp hẳn xuống. Lại muốn lộn nhào nữa sao?

Nhưng Merkin lần này không mắc bẫy, hai cánh tay giương lên bảo vệ những chỗ yếu hại, kế

đó đạp ra một cước nhằm vào chỗ eo mông, vị trí không linh hoạt nhất khi lộn nhào trên không

của Đường Thọ. Không ngờ, lần này Đường Thọ không dùng chân tấn công vào mặt Merkin,

chỉ thấy y nghiêng người đi, hai chân trầm hẳn xuống, kẹp vào cẳng chân đá về phía mình của

Merkin. Liền sau đó, hai tay y chống xuống đất, thân thể xoay ba trăm sáu mươi độ trên không

trung.

“Vặn chân!” Merkin hết sức quen thuộc với chiêu này, đây là một chiêu tấn công rất thường

dùng trong môn võ tự do, tục gọi là “đá cắt kéo”, lợi dụng thế gọng kiềm của hai chân, dùng

sức eo hông cộng với lực xoáy toàn thân quật ngã đối thủ xuống đất. Chỉ là, trong môn võ tự

do, người ta thường dùng chiêu này tấn công hai khớp gối hoặc cần cổ kẻ địch, như vậy mới có

thể quật ngã đối phương, nhưng lúc này… Đường Thọ lại chỉ kẹp lấy một chân của y, vậy là…

Lực xoắn mạnh mẽ truyền lên từ bắp chân, Merkin đột nhiên hiểu ra, Đường Thọ muốn…

vặn gẫy xương y! Tập trung sức lực toàn thân để đối phó với một trong tứ chi, trước tiên dùng

thế gọng kiềm cố định chân hoặc tay đối thủ, sau đó dồn sức xoay người vặn mạnh, hoàn toàn

có thể khiến cánh tay hoặc cẳng chân kẻ trúng chiêu gẫy lìa ra. Trước áp lực khủng khiếp chưa

từng có ấy, Merkin cũng bị ép phải phát huy hết tiềm lực của mình. Khi Đường Thọ xoay được

một nửa vòng ba trăm sáu mươi độ, Merkin cũng nhấc chân kia lên, xoay người trên không

trung một vòng theo y, rốt cuộc cũng không bị phế mất một chân. Nhưng hai tay Đường Thọ

vừa chạm đất, y lại bật lên, xoay thêm một vòng nữa. Còn Merkin, khi xoay vòng đầu tiên, y

đã mất thăng bằng, ngã người trên thảm cỏ, còn chưa định thần lại được, thì thấy lực vặn xoắn

mạnh mẽ kia lại truyền tới. Y không kịp phản ứng gì, đành nghiến răng kiên trì đến cùng. Cũng

may cho y, cơ bắp đùi tương đối rắn chắc, lực vặn kia chỉ khiến cản người y lăn lông lốc trên

thảm cỏ, nhưng chân thì không bị bẻ gãy.

Đường Thọ chau mày, chiêu thức bẻ chi này chỉ có hai vòng đầu tiên là khó đề phòng nhất,

những vòng xoay về sau, tỷ lệ bẻ gẫy tay chân đối phương nhỏ hơn rất nhiều. Đồng thời, lúc

này Trác Mộc Cường Ba đang đuổi sát sau lưng đã giẫm mạnh cả tứ chi xuống đất vọt người

bổ nhào về phía y. Đường thọ ưỡn bụng, hai chân đang kẹp cẳng chân Merkin dồn sức vung

mạnh, ném cả người Merkin vào Trác Mộc Cường Ba. Có điều dùng chân ném dẫu sao cũng

không thể chuẩn xác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lướt qua nhau trên không trung. Hai

người nhìn vào mắt nhau, tâm niệm tương thông, đột nhiên cùng vươn tay phải ra móc chặt vào

nhau, hai luồng lực tác động lẫn nhau, lập tức khiến quỹ đạo chuyển động và phương hướng

của hai người thay đổi hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba bị Merkin kéo cho dừng sững lại, còn

Merkin lại lấy Trác Mộc Cường Ba làm trung tâm, vạch một vòng tròn trên không trung, vòng

trở lại phía Đường Thọ.

Lúc này, Đường Thọ vừa đứng lên, nghe thấy tiếng gió sau lưng, y chẳng buồn nhìn, tức thì

thuận thế tung ra một cước, Merkin nhận định tình thế hết sức chuẩn xác, nhắm vào gan bàn

chân Đường Thọ đấm mạnh. Thân hình Đường Thọ thoáng lắc lư mấy cái, đà lao của Merkin

cũng dứt, cùng lúc chạm đất với Trác Mộc Cường Ba.

Đường Thọ ngoảnh đầu, thoáng ngạc nhiên, y không ngờ kẻ tấn công mình lại là Merkin.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin nhìn nhau, dùng khẩu hình đưa ra ám hiệu: “Tiếp sức trên

không!”

Cái gọi là tiếp sức trên không đó, kỳ thực là một phương pháp tá lực đả lực mà Trác Mộc

Cường Ba lĩnh ngộ được từ chiến thuật của bầy sói. Chiến lang của bộ tộc Qua Ba khi hợp tác

săn mồi thường làm một loạt những động tác thế này: một con sói đứng yên bất động, một con

khác chạy đà đạp mạnh lên thân thể con sói đầu tiên, sau đó con sói đầu tiên cũng lập tức bật

người nhảy lên giúp con sói thứ hai một quãng. Cộng với đà lao của bản thân con sói thứ hai,

cách này có thể khiến nó nhảy xa hơn, cao hơn; hoặc khi đang xông tới, bị con mồi tránh được,

con sói lao thẳng vào gốc cây hoặc vách đá dựng đứng, nhưng chúng không hề hãm lại, ngược

lại còn dồn thêm sức xông tới, rồi lấy thân câu hoặc vách đá làm điểm tựa mượn lực đàn hồi

bật ngược trở lại. Vậy là, đòn tấn công theo đường thẳng liền biến thành thế công hình tam

giác. Giống như Cương Nhật Phổ Bạc và Cương Lạp vậy, Cương Lạp có thể mượn sức cánh

tay Cương Nhật để nhẩy lên, khi tấn công kẻ địch, nó cũng nhảy từ vai tên thứ nhất sang vai

tên thứ hai rồi tên thứ ba, giống như nhảy lên các cây cột, khiến kẻ địch hoa mắt chóng mặt.

Khi tránh né các cơ quan cạm bẫy trong Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và

Merkin đã dựa theo phương thức hợp tác này của loài sói, phối hợp thực hiện một loạt động tác

tiếp sức trên không. Khi xuất hiện những vết nứt gãy không nhảy qua được, hoặc không còn

đường nào để đi, họ liền lấy một người làm trung tâm, ném người còn lại qua, sau đó bản thân

cũng nhảy theo. Người được ném đi ấy sẽ sang bờ bên kia trước, rồi quay lại tiếp ứng đối

phương, thoạt nhìn có vẻ rất giống với những người biểu diễn đu bay trong đoàn xiếc, nhưng

động tác thì khó hơn rất nhiều lần. Có điều hai người đều có sức mạnh, cộng với thân thủ

nhanh nhẹn, sau nhiều lần diễn luyện cũng đã quen với những động tác này rồi.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn đang móc chặt tay vào nhau, không đợi Đường Thọ kịp

phản ứng, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dùng cả hai tay tóm vào cánh tay Merkin, ném y như

ném quả trùy sắt. Thân hình Merkin bay lên không trung, đá về phía Đường Thọ, Đường Thọ

vội giơ tay lên cản lại, người hơi lảo đảo lùi lại hai bước, dù sao thì sức của hai người gộp lại

cũng mạnh hơn một người nhiều.

Merkin chưa đá trúng được Đường Thọ, nhưng y đã nhanh chóng chạm mặt đất, vòng tay

kéo mạnh, lại ném Trác Mộc Cường Ba ra. Hai người lúc này giống như hai quả chùy sắt móc

vào cùng một sợi xích, luân chuyển tấn công Đường Thọ. Lần này Merkin ném Trác Mộc

Cường Ba ra thật, hai tay móc vào nhau đã tách ra. Trác Mộc Cường Ba hai tay liên tiếp vung

lên “chào hỏi” Đường Thọ, còn Merkin lại nhảy bật về phía sau. Cũng là hai tay, nhưng quyền

pháp của Đường Thọ rõ ràng nhanh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc, chỉ thấy cổ tay y lật lên

lật xuống mấy lần, đã hóa giải toàn bộ chiêu thức của gã, tưởng như một đấm sắp tương lên

trán Trác Mộc Cường Ba, nào ngờ thân hình gã lại đột nhiên dừng phắt giữa không trung, rồi

nhanh chóng giật lùi trở về sau. Thì ra, Merkin lùi lại phía sau đã tóm lấy hai chân Trác Mộc

Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba một đòn không trúng đích, y liền kéo ngay về phía sau. Nếu

chỉ có một người, Trác Mộc Cường Ba hay Merkin cũng không thể nào thực hiện được những

động tác kiểu này, nhưng hai người hợp tác, chuyện không thể cũng biến thành có thể.

Merkin kéo Trác Mộc Cường Ba giật ngược lại, bản thân cũng ngửa người ra trượt lên thảm

cỏ, hai chân tấn công phần thân dưới của Đường Thọ, đồng thời dồn sức lên hai tay, ném Trác

Mộc Cường Ba lúc này đã bay qua đầu y bay ngược trở lại. Sắc mặt Đường Thọ thoáng biến

đổi, liên tiếp giật lùi, nhất thời cũng chưa thích ứng được với cách đánh này.

Thân thể Merkin và Trác Mộc Cường Ba giống như được nối với nhau bằng một sợi dây

chun, lúc thì tay người này tóm lấy tay người kia, lúc thì hai chân móc vào nhau, có lúc Trác

Mộc Cường Ba coi thân thể Merkin như cái cột, tay ôm cột, bật người lên đá xoay một vòng;

có lúc Merkin lại coi thân thể Trác Mộc Cường Ba như bao cát hay quả chùy dây xích, nhấc

bổng lên ném vèo ra. Hai người thoắt trước thoắt sau, khi lùi khi tiến, khiến Đường Thọ có

cảm giác không phải đang chiến đấu với hai người, mà là một kẻ có bốn tay bốn chân. Sau ba

bốn lần đột kích, cuối cùng nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba cũng thụi trúng mặt Đường Thọ.

Đường Thọ ngã xuống, trượt trên thảm cỏ ra xa bốn năm mét. Y chống một tay xuống đất bật

dậy, tay kia quét qua khóe miệng, nhìn vết máy trên ngón tay cái, y chỉ nhếch mép, “phì”, nhổ

ra một ngụm máu bầm: “Không ngờ đấy, chiến thuật hợp kích này dường như không nằm

trong hạng mục huấn luyện lính đặc chủng thì phải.”

Trác Mộc Cường Ba và Merkin thấy có hiệu quả, đâu buồn rỗi hơi mà lắm lời với Đường

Thọ. Hai người bắt tay, sải bước xông lên truy kích. Đường Thọ lạnh lùng nói: “Các ngươi

tưởng dùng chiêu này có thể đánh trúng ta lần nữa sao!” Đột nhiên hai tay y giơ lên, bàn tay

xòe ra, cả người trượt ngược về phía sau như vừa nãy, đồng thời, y đã bốc hai nắm đất lên.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin chỉ kịp thấy một đống cát đen ngòm bay tới trước mặt.

“Hỏng bét!” Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng cảm thấy không hay, khoảng cách quá

gần, họ không thể không giơ tay lên bảo vệ cặp mắt. Đường Thọ xông lên một bước, chen vào

giữa hai người, hai tay chia ra tấn công hai hướng. Trong tình huống như vậy, hai người vừa

không thể hợp tác tấn công, ngược lại còn vì hai tay móc vào nhau mà không thể kịp né tránh

đòn thế của Đường Thọ.

Đến khi hai người tách được ra để né đòn thì Merkin đã bị đánh lui ba bốn bước, Trác Mộc

Cường Ba càng thảm hơn, bị tay phải Đường Thọ đánh cho hộc máu. Đường Thọ dùng thân

thể của mình ngăn cách giữa Trác Mộc Cường Ba và Merkin, không cho hai người có cơ hội

liên thủ, ba người đứng trên một đường thẳng, mặt Đường Thọ nhìn ra phía trước, còn Trác

Mộc Cường Ba và Merkin lại lom lom nhìn y, hai bên cứ vậy gườm ghè lẫn nhau.

Đường Thọ đột nhiên bật cười: “Có biết tại sao lúc nãy nghe ngươi nói ta là tên điên, ta lại

cười không? Vì ta nhớ đến một tên điên khác, một mụ điên thì đúng hơn. Mụ ta cảm thấy cuộc

sống với người chồng trước thật quá đơn điệu nhạt nhẽo, tưởng rằng mình đã tìm thấy tình yêu

chân chính, bèn quyết định dẫn theo con gái, chia tay người chồng cũ. Không ngờ, chồng sau

của mụ ta lại là một thằng nghiện cờ bạc, thoáng cái đã thua sạch hết tài sản trong nhà, chẳng

những vậy hắn ta không hề thích mụ đàn bà đó, mà chỉ muốn ra tay với con gái mụ. Con bé

đáng thương thật, mười… mười mấy tuổi nhỉ? Dù sao thì, đêm đó ta đã thấy nó mặc một bộ đồ

trắng như tuyết, nhảy từ nóc nhà mười tám tầng xuống, đẹp như một cánh bướm vậy, ha ha, mụ

đàn bà đáng thương ấy, không ngờ lại hóa điên…”

“Đường Thọ” cổ họng Trác Mộc Cường Ba phát ra một tiếng gầm, bật người lao tới: “Mày

không phải con người!”

“Này, đừng thế!” Merkin biết rõ Đường Thọ đang chọc giận Trác Mộc Cường Ba, nhưng

lúc này, y đã không thể ngăn gã lại được nữa.

Trác Mộc Cường Ba hung hăng lao tới, nhưng Đường Thọ chỉ cần khẽ khàng giơ chân cất

tay là lại đánh bật gã. Có điều, Trác Mộc Cường Ba dường như hoàn toàn không biết đau đớn,

hai chân chạm đất, lại xông lên như thể bất cần đời, cứ vậy bốn năm lần, trên vạt áo Đường

Thọ đã có không ít vết máu, máu của Trác Mộc Cường Ba.

Merkin thấy vậy thì hết sức lo lắng, cũng muốn xông lên giúp sức, nhưng chỉ mấy chiêu đã

bị Đường Thọ đánh bật ra. Nụ cười nhã nhặn trên gương mặt Đường Thọ vẫn chưa từng biến

mất.

“Ầm!” Trác Mộc Cường Ba lại bị đánh bay ra xa bốn năm mét, rơi bịch xuống đất, trượt

thêm ba bốn mét nữa rồi ộc ra một ngụm máu lớn. Lần này gã không thể một mạch lao tới

được nữa, Trác Mộc Cường Ba khó nhọc xoay người ngồi dậy, há miệng thở dốc, cảm giác

phẫn hận trong lòng mỗi lúc một bùng lên mạnh mẽ, tại sao, tại sao lại có kẻ như tên Đường

Thọ này? Tại sao lại là ta? Tại sao lại là ta?

Đường Thọ nói với giọng thương hại : Cường Ba thiếu gia, ngươi không thể trách ta được,

có trách thì trách ngươi là Trác Mộc Cường Ba đi, ai bảo người là con trai của Đức Nhân lão

gia, ai bảo gia tộc ngươi là hậu duệ của Trại Bản Ba. Có điều, người cứ yên tâm, giờ mụ đàn bà

đó đang ở trong bệnh viện mà ta đã từng ở ấy, ngươi cũng từng đến đó rồi, điều kiện rất tốt

đấy.”

“A...a...” Trác Mộc Cường Ba ngửa mặt lên trời hú dài, cục máu ứ trong lồng ngực phun ra,

lửa phẫn nộ trong long cháy lên ngùn ngùt. Gã đột nhiên cảm thấy, vòng tròn vốn đang chầm

chậm di chuyển động giữa hai đùi kia, biến thành một thông đạo, dường như có một thứ vật

chất vô hình nào đó trong trời đất, đang ùa vào tràn đầy cơ thể qua thông đạo đó.

“A...a...” cùng với tiếng gầm đầy giận dữ ấy, làn da Trác Mộc Cường Ba từ từ chuyển sang

sắc đỏ, từng sợi gân xanh gồ hẳn lên, cơ bắp vặn vẹo đè lên xương cốt phát ra những âm thanh

“răng rắc lách cách”, những khối thịt gồ lên cao như thể muốn xé toạc y phục ra. Mekin và

Đường Thọ đều ngạc nhiên nhìn những biến hóa trên thân thể gã.

“Hải Để Luân”(56) mở ra hết! Cường Ba thiếu gia, ngươi cũng giỏi mang đến cho ta nhiều niềm vui bất ngờ đấy, ở thời điểm này mà còn đột phá được cơ à!” Đường Thọ không hề sợ

hãi, ngược lại còn tỏ ra vui mừng, nụ cười càng thêm rạng rỡ.

Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên, gã thậm chí không buồn quan tâm đến những thay đổi của

mình, lao thẳng vào Đường Thọ. Thân thể hai người lướt qua cạnh nhau, Trác Mộc Cường Ba

lại trúng một đấm. Nhưng lần này, gã cảm nhận được một cách rõ ràng mình đã nắm bắt được

quỹ tích ra đòn của Đường Thọ, trong một chớp mắt trước khi trúng chiêu, gã đã né được chỗ

yếu hại trên cơ thể. Đường Thọ muốn tung cước, không hiểu sao trong đầu Trác Mộc Cường

Ba lại nảy ra ý nghĩ đó, gã hơi co gối lên, trước khi hai chân Đường Thọ hình thành được thế

công, chặn đùi non của y lại, hai người đều tung ra một đấm, lùi lại một bước, tạm thời tách ra.

Đúng vào khoảng khắc họ tách ra đó, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu được tại sao mình

biết Đường Thọ muốn tung cước. Vì nếu gã ở vị trí của Đường Thọ, đá chân lên không nghi

ngờ gì chính là lựa chọn tốt nhất, chính là như vậy! Trác Mộc Cường Ba đã dự cảm được suy

nghĩ của Đường Thọ, từ đó chặn được thế công của y lúc chiến đấu. Đồng thời, gã cũng hiểu ra

sự thua kém của bọn gã với Đường Thọ nằm ở đâu. Gã và Mekin, ra đòn có thể rất nhanh,

chiêu thức quái dị, nhưng khi bọn gã ra đòn thì chỉ biết xông thẳng tới trước, gặp chiêu giải

chiêu. Còn Đường Thọ lại hoàn toàn khác, trước khi ra chiêu, y đã nghĩ trước xem đối thủ có

thể phản ứng như thế nào, vì vậy mỗi lần y xuất chiêu đều chặn đứng những bộ vị hai người

bọn gã có thể tấn công, đồng thời nhằm vào những vị trí hai người không kịp thu về phòng

ngự, giống như hai cao thủ đánh cờ mà Đường Thọ luôn nhìn trước được một nước cờ vậy.

Cũng chẳng trách khi tấn công Đường Thọ, gã và Mekin rất khó đánh trúng đối phương, mà lại

liên tiếp trúng đòn của y.

Đường Thọ và Trác Mộc Cường Ba vừa tách ra, Mekin lập tức bọc hậu tấn công. Đường

Thọ thoáng lộ vẻ chán ghét, y đã không còn hứng thú hưởng thụ trò mèo vờn chuột này nữa,

trong lòng ngấm ngầm lo lắng. Y lo lắng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nắm bắt được cách thức

đoán trước quỹ tích vận động và ý đồ tác chiến của đối thủ trong chiến đấu. Tuy rằng y cũng

biết, điều này cần một quá trình lâu dài, nhưng y vẫn cảm thấy lo lắng.

“Cút đi cho ta” Đường Thọ không còn nương tay nữa, nhắm vào Mekin tung ra một đấm.

Khi nắm đấm còn cách Mekin khoảng ba bốn chục xăng ti mét, y lại đột nhiên hất cổ tay lên,

đầu móc kéo theo dây xích mảnh bắn vụt ra. Ở khoảng cách gần như thế này, uy lực của đầu

móc tuyệt đối không kém viên đạn vừa rời khỏi họng súng, chỉ trong chớp mắt đã bắn xuyên

qua vị trí dưới bả vai của Merkin. Đây cũng là một trong những chỗ mỏng nhất trên bộ đồ

chống đạn này. Vì tốc độ bắn xuyên qua quá nhanh, Merkin còn không kịp cảm thấy đau đớn,

bàn tay vẫn nắm chặt vung ra phía trước. Cổ tay Đường Thọ khẽ vặn nhẹ, dây xích lập tức rút

trở về. Cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt tức thì lan đi khắp toàn thân, Merkin “Á!” lên

một tiếng, cú đấm lập tức run rẩy thoát lực dừng sững lại. Đường Thọ giơ chân đá tạt một cú,

hất y văng ra xa, rồi xoay người lại toàn lực đối phó Trác Mộc Cường Ba.

Merkin bị đã bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy Đường Thọ dốc sức tấn công Trác

Mộc Cường Ba, một chọi một, Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn rơi vào thế yếu. Trước đó, gã đã

bị thương rất nặng chẳng qua mới nắm bắt được phương thức dự đoán động tác trước khi xuất

chiêu mà thôi. Y nhìn thấy rất rõ, gương mặt đỏ bừng vì phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba đang

dần tái đi, gã mất máu nhiều quá, giờ đã như ngọn đèn cạn dầu rồi. Merkin lạnh cả người, thầm

nhủ: “Không thể chiến thắng hắn được, hắn còn chưa dùng đến vũ khí, cũng không sử dụng

côn trùng, mà đã mạnh đến thế, lẽ nào chũng ta phải kết thúc như vậy sao?” Thân thể Merkin

rơi chạm đất, khẽ bật nảy lên, khóe mắt liếc thấy… vùng gò đồi đằng xa kia, dường như có gì

nhích động!

Thời gian quan ngược lại lúc ba người bắt đầu chiến đấu, khi Trác Mộc Cường Ba phun ra

vũng máu đầu tiên, những phân tử máu bắn tung tóe, được cơn gió nhẹ dịu dàng bao bọc, đưa

ra xa khỏi bãi cỏ, không ngừng khuếch tán rộng hơn…

Tứ Vương lăng, bầy sói đang nô đùa.

Sói Út không biết kiếm đâu được một khúc xương dài, ngậm trong miệng chạy vào một nhà

dân đặt trước một con sói cái. Con sói cái ấy e thẹn cúi đầu, bước đến cọ cọ vào má Sói Út. Sói

Út ta đang mừng rỡ hớn hở, đột nhiên trở lên nghiêm nghị, chạy ra khỏi nhà, ngẩng đầu tìm

kiếm gì đó trong không khí. Một mùi quen thuộc từ xa bay đến, mùi máu. Lúc này đã có một

ngọn gió mang theo mùi máy nồng nặc lướt qua, nhưng Sói Út không để ý, cho rằng đó là đội

săn bắn đang đi săn, nhưng lần này thì khác, máu này, là của A U Chang!

Trên đỉnh Tứ Vương lăng, vị vương giả trên cao đột nhiên đứng dậy, bốn chân như bốn cây

cột, mặt hướng về phía Tây. Một con sói cường tráng đứng ở bậc thang bên dưới, khẽ gầm gừ:

“Là người đó!” Vương giả đáp: “Ta còn ngửi thấy mùi quen thuộc khác, xem ra, đến lúc chúng

ta hành động rồi.”

Dường như tất cả lũ sói và chó ngao ở Shangri-la đều ngửa mặt lên trời, dùng cái mũi nhạy

bén của chúng tìm kiếm thứ gì đó. Đột nhiên, cái bóng màu tím kia từ trên Vương lăng bước

xuống, nó đi đến đâu, đàn sói nhất loạt cúi đầu, rồi lập tức đứng dậy đi theo vị vương của

mình, tiến về cùng một hướng. Đàn sói ở bốn phương tám hướng cũng tràn về, bọn chúng đều

bỏ dở hết công việc đang làm, nhưng chơi đùa nhảy nhót, cùng đi theo một bóng hình, dần tụ

tập thành những dòng thác lũ, những dòng lũ lớn lại hòa vào nhau, tựa như cơn sóng thần ngoài

biển khơi ập đến nhấn chìm hết thảy.

Đàn sói tràn qua rừng rậm, hết sức trật tự theo sau vị vương giả của chúng, không phát ra

bất cứ âm thanh nào, nhưng những bước chân nhịp nhàng ấy lại khiến cả khu rừng run lên.

Trong khoảnh khắc, động vật trong rừng, ngoài những con bay được trên không và rúc sâu

dưới lòng đất, dường như tất cả đều ùa ra khỏi hang ổ, bỏ chạy dáo dác.

Vương giả của loài sói, bước chân thanh nhã mà cao quý nhanh nhẹn bước đi, tốc độ tăng

dần, sải chân nhỏ dần, nhỏ dần rồi như thể đang bay. Toàn bộ các đàn sói ở Shang-ri la đều đi

theo thủ lĩnh của chúng, nghìn vạn cùng lao đi, khiến mặt đất chấn động rung lên bần bật.

Merkin tưởng rằng mình hoa mắt, vội đưa tay dụi mạnh rồi nhìn lại, đúng vậy, khu vực gò

đồi đó đang rung lên, không phải, không phải đồi núi đang rung động , mà cả một vùng gò đồi

đằng xa ấy đều bị thứ gì đó phủ kín, thứ đó đang chuyển động. Merkin chưa kịp nhìn rõ đó là

thứ gì, y chỉ biết, số lượng bọn chúng rất đông đảo, tất cả đang ào ào tràn tới đây. Y ngoái đầu

nhìn quanh quất, chỉ thấy toàn bộ trong tầm mắt, đầu là như vậy, dường như mặt đất đang cuộn

sóng… liền ngay sau đó Merkin cảm thấy mặt đất, hồ nước, núi non, tất thẩy đều đang run lên

nhè nhẹ.

Đường Thọ vừa đánh bật Trác Mộc Cường Ba ra xa mấy mét, lập tức cảm nhận được mặt

đất rung động. y ngoảnh đầu, liền thấy cơn sóng do lũ sói tạo thành ập đến. Đường Thọ tức thì

tái mặt, thầm tính toán khoảng cách giữa mình và lũ sói, rồi quay lại nhìn Trác Mộc Cường Ba,

đột nhiên rút súng bắn luôn. Trác Mộc Cường Ba sớm đã có chuẩn bị, thuật bắn súng cận thân

được bản năng trợ giúp, đã phát huy vượt cấp. Gã lăn lội mấy vòng, đạn của Đường Thọ bắn ra

đều rơi vào khoảng trống. Y rất muốn giết chết Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhưng

cũng không hề muốn hợp táng với hai người. Ngay cả Merkin cũng nhận ra, Đường Thọ đang

chuẩn bị bỏ chạy! Lúc này, Merkin đã nhìn rõ, thứ tràn qua rừng rậm kia, là sói, toàn bộ đều là

sói, sói đến rồi! Sói đến rồi! Không hiểu vì sao. Merkin cảm thấy kích động sôi trào, suýt chút

nữa thì rơi nước mắt. Y có lẽ là một trong số rất ít người trong lịch sử nhìn thấy nhiều sói như

vậy chạy về phía mình mà con vui mừng đến thế.

VƯƠNG GIẢ GIÁNG LÂM

Đường Thọ đành bỏ qua cho bọn Trác Mộc Cường Ba, xoay người chạy đi, đồng thời mở

khóa ba lô, lấy hết vũ khí ra, toàn thân từ đầu đến chân đều vù trang tới tận răng. Y vừa chạy

vưa cật lực thầm nhủ: “Không qua đâu, không qua đây đâu…”

Ven hồ là những khối đá lớn nhỏ sừng sững, đàn sói chạy đến trước những khối đá ấy liền

đồng loạt dừng lại, chân cào bới đất một cách bất an, gầm gừ khe khẽ. Đường Thọ yên tâm

phần nào, song vẫn không dám hoàn toàn lơi lỏng, y biết, điều này chẳng nói lên gì cả, quan

trọng nhất là phải xem thái độ của “vị” kia như thế nào.

Tử kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng, trông cao hơn hẳn những con sói và chó ngao khác

hẳn một cái đầu, nó chầm chậm bước tới đường ranh giới tạo bởi các khối đá, mấy con sói

tương đối cao tuổi ở bên cạnh khẽ thì thào: “Chuyện này…ngài xem…”

Tử kỳ lân chẳng buồn để ý, hờ hững như không, ngẩng cao đầu bước qua lằn ranh vô hình

ấy, lũ sói phía sau hú lên mừng rỡ, lần lượt bám đuôi theo. Trái tim Đường Thọ giật nảy lên,

khẩu súng trong tay suýt nữa thì rơi mất.

Trác Mộc Cường Ba nằm dưới đất, nhất thời không sao dậy nổi, chỉ có thể nghiêng người đi

một chút. Gã cũng cảm thấy mặt đất đang chấn động, nhìn thấy đàn sói ùa tới, nhưng gã vẫn

chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Gã chỉ biết, vương quốc sói có quy củ riêng của mình,

hoặc giả, bọn chúng cũng có sứ mệnh của mình, không để bất cứ kẻ nào từng đặt chân đến Bạc

Ba La thần miếu được phép rời khỏi đây, giống như Ba Tang và đồng đội của anh ta năm đó

vậy. Thế cũng tốt, ít nhất Đường Thọ cũng không thoát được.

Nhưng ngay sau đó, gã liền loại bỏ mối lo này, vì trong đàn sói ập đến như nước triều đen

kịt ấy, có hai con soi xông lên đến cạnh gã trước tiên. Sói Út và Sói Hai thân thiết liếm liếm vết

thương trên người gã, đoạn ngồi chồm hỗm bên cạnh gã. Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, vuốt

dọc theo sống lưng hai con sói.

Sói Út thấp giọng thì thào: “Ai bắt nạt anh thế, A U Chang chúng tôi giúp anh báo thù.”

Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng sói đáp lại: “Vậy thì, nhờ chúng mày vậy.” Đang nói

chuyện, chợt nghe một tiếng hét giận giữ: “Lũ khốn kiếp!” Kế đó, tiếng súng vang lên liên tiếp.

Trác Mộc Cường Ba muốn nhìn xem có chuyện gì xảy ra, nhưng cần cổ đau nhức, toàn thân

không còn chút sức lực nào cả. Sói Hai liền dùng mõm rúc vào, nâng đầu Trác Mộc Cường Ba

lên cao hơn.

Trác Mộc Cường Ba trông thấy, không biết từ lúc nào, Đường Thọ đã bị lũ sói ép trở về,

đồng thời, xung quanh gã cũng có vô số con sói đang quây thành vòng tròn, ném cho gã những

ánh nhìn thân thiết. Gã lập tức ngập tràn trong hạnh phúc, chúng không hề quên người bạn

này!

Đường Thọ hai tay hai súng, liên tục phát xạ, quỹ tích đạn bao phủ toàn bộ các phương vị

xung quanh, y thay đạn cũng cực nhanh, hai khẩu súng vừa hết đạn, y kiền ném lên không

trung, đồng thời búng lên hai băng đạn giắt ở thắt lưng, sau đó rút hai khẩu súng khác ra tiếp

tục xạ kích. Hai băng đạn cắm lọt ngay vào hai khẩu súng trên không trung, rơi xuống, khi ấy,

Đường Thọ cũng vừa bắn hết đạn hai khẩu súng trên tay , y lại ném súng lên, búng ra hai băng

đạn khác, rồi lại bắt lấy hai khẩu súng vừa rơi xuống, tiếp tục nhả đạn. Kỹ thuật này, hiển

nhiên còn cao minh hơn Merkin một bậc, hai khẩu súng đồng thời nạp đạn, vả lại gần như

không có thời gian cách quãng.

Trác Mộc Cường Ba quan sát quỹ tích nhả đạn của Đường Thọ cũng không khỏi thầm kinh

ngạc. góc độ xạ kích hết sức độc địa, quỹ đạo dịch chuyển của nòng súng cũng thập phần quái

dị, diện tích che phủ rất toàn diện, gần như một hình cầu toàn thân đều có những họng súng

chĩa ra vậy. Gã bất giác thầm nhủ, nếu Đường Thọ vừa xuất hiện đã sử dụng kỹ thuật xạ kích

này đối phó mình và Merkin, sợ rằng bọn gã đã sớm chẳng còn mạng nữa rồi, chỉ có điều, tên

Đường Thọ này tâm lý quá biến thái, y muốn hưởng thụ khoái cảm chinh phục, kết quả lại bị

đàn sói lùa vào trong rọ.

Kỹ thuật bắn súng của Đường Thọ đã đáng kinh ngạc, nhưng biểu hiện của đàn sói lại càng

khiến người ta chấn động hơn. Bọn chúng nhảy qua nhảy lại giữa các làn đạn, nhanh như

những cái bóng mờ, đạn của Đường Thọ quá nửa đều bắn trượt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên

nhớ đến chuyện xảy ra khi mấy con sói đuổi theo gã và Ba Tang. Tốc độ của lũ sói này còn

nhanh hơn một chút so với tốc độ mắt thường có thể theo kịp, rõ ràng nhìn thấy chúng, nhưng

khi nổ súng lại chỉ bắn vào một cái bóng, nếu nhắm mắt bắn bừa bắn bậy, nói không chừng lại

bắn trúng cũng nên.

Đáng tiếc, Đường Thọ không hiểu lý lẽ này, trong cơn căng thẳng và sợ hãi cực độ, cặp mắt

y càng lúc càng mở lớn.

“Cách cách!” hai tiếng, Đường Thọ vỗ vào thắt lưng nhưng đã không còn băng đạn nào nữa.

Y vẫn không can tâm, liền chĩa súng vào lũ sói bóp cò liên tiếp, không ngừng phát ra những

tiếng “cách cách cách” trống rỗng. Lũ sói tách ra tạo thành một con đường, Tử kỳ lân chầm

chậm bước lên phía trước, mặt đối mặt với Đường Thọ. Nó nhìn chằm chằm vào Đường Thọ,

miệng khẽ nhếch lên.

“Nổ súng đi, xem người còn bao nhiêu đạn. Lần trước đã để ngươi chạy thoát, không ngờ

ngươi còn dám trở lại nữa, lần này để xem ngươi chạy được đi đâu.” Đường Thọ đọc được điều

đó trong mắt Tử kỳ lân.

“Không thể nào, đây không phải là cấm địa của các ngươi hay sao? Sao các ngươi dám vượt

qua ranh giới? Sao các ngươi dám!” Đường Thọ chỉ vào những khối đá sừng sững ở đằng xa

quát tháo ầm ĩ.

Tử kỳ lân ngoảnh đầu lại nhìn những khối đá, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối, tựa như đang nói:

“Quy củ lập ra là để phá vỡ, chẳng lẽ ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao? Ngươi có

óc không vậy?”

“Không thể nào, không thể nào.” Đường Thọ vừa lắc đầu vừa lùi lại, y biết rõ lũ sói này

đáng sợ đến chừng nào, kí ức bị truy đuổi lần trước vẫn còn rõ ràng như mới. Vốn luôn cho

rằng mình là một thứ tồn tại cao quý vô thượng, không ngờ lại bị một đám súc sinh đánh bại,

Đường Thọ bị đả kích rất lớn, vì vậy mà tin thần rối loạn mất một thoáng thời gian, đây cũng

chính là một trong các nguyên nhân khiến y mặc đồ lính đánh thuê trà trộn vào giữa đám thuộc

hạ của Merkin để che giấu hành tung.

Đột nhiên, Đường Thọ trông thấy Trác Mộc Cường Ba đang được đàn sói quây lại bảo vệ,

sau đó, y lại trông thấy Merkin. Đãi ngộ của Merkin không được như Trác Mộc Cường Ba,

mấy con sói đang hướng về phía y nhe hàm răng nhọn hoắt, khiến Merkin sợ đến không dám

nhúc nhích. Đường Thọ dường như sực hiểu ra điều gì đó, y chỉ Trác Mộc Cường Ba hét lớn:

“Ngươi! Chính là ngươi! Ngươi là Người được chọn! Không! Không công bằng! Ta cũng là

hậu duệ của Vu vương, tại sao chỉ có ngươi là Người được chọn?” Trác Mộc Cường Ba đã

phục hồi phần nào sức lực, đang khó nhọc chống khủy tay xuống đất để nâng người lên cao

một chút, gã nuốt ngụm máu trào lên đến cổ họng xuống, dùng câu nói của chính Đường Thọ

trả lời y: “Thế thì sao? Ngươi không phục à?”

Đường Thọ cực kỳ phẫn hận rít lên: “Cường Ba thiếu gia, ngươi tốt số thật đấy! Có kẻ sống

gửi bảo vệ ngươi! Lại có lũ sói bảo vệ ngươi! Được lắm! Được lắm!”

Sói Út đứng lên, lông cổ dựng ngược, nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, hỏi Trác Mộc

Cường Ba: “A U Chang, hắn phải không? Xem tôi xử lý hắn này!”

Một con sói bên cạnh ngăn Sói Út lại, nói: “Đừng hoảng, đó là con mồi của Vương.”

Tử kỳ lân khẽ gầm lên một tiếng, chuyển sự chú ý của Đường Thọ sang phía nó: “Con

người, cuộc chiến của chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, không phải ngươi sợ rồi chứ?”

Mà để cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin đủ thời gian bàn bạc như con mèo đang vờn hai

con chuột…

Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía xa, mé bên kia thảm cỏ là rừng rậm, nếu đàn sói có thể

chạy đến đây… Đường Thọ cười khì khì nói: “Không cần nghĩ đến lũ sói của ngươi làm gì.

Cường Ba thiếu gia, đừng quên lúc ngươi truy đuổi Merkin đã xảy ra chuyện gì chứ? Ta đã

khảo sát kỹ lưỡng rồi, đây là khu cấm đối với loài sói, bọn chũng tuyệt đối không tiến vào dù

chỉ một bước đâu.”

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chầm chậm thu về, nhìn bộ mặt khiêm hòa nhã nhẵn mà thực

chất lại hết sức kiêu căng ngạo mạn của Đường Thọ, trong lòng gã chợt dâng trào một ngọn lửa

vô hình. Gã giơ nắm đấm to như cái bát lên, cứ vậy lao thẳng về phía Đường Thọ, nếu mọi

tính toán đều không thể thay đổi được cục diện, vậy thì, cứ trực tiếp xông lên là xong, cần quái

gì phải nghĩ nữa.

“Này, vậy có được không?” Merkin không đừng được dánh phải chạy theo bên Trác Mộc

Cường Ba , hai người song song lao về phía Đường Thọ.

“Hắn không coi mạng người ra cái gì đâu, hắn sẽ không tha cho chúng ta, mà tôi cũng

không định tha cho hắn, đã thế thì cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt óc? Cứ oanh liệt đánh

một trận đi, giống như thời trẻ vậy!”

“Giống như thời trẻ vậy!” Merkin cảm thấy máu trong cơ thể mình bắt đầu soi trào nóng

bỏng, cảm giác nhiệt huyết bừng bừng đã lâu lắm rồi không có lại ào ạt trồi lên trong y, bước

chân hai người mỗi lúc một nhanh, họ guồng chân, tăng tốc, gia tốc, chỉ trong chớp mắt đã

vượt qua khoảng cách năm mươi bước chân.

Nhìn hai người dũng mãnh xông về phía mình, Đường Thọ nhoẻn miệng mỉm cười, cũng

lao về phía họ, bắt đầu tăng tốc, hai mươi mét, mười mét, năm mét, khoảng cách giữa song

phương không ngừng rút ngắn lại. Khi hai bên gần chạm vào nhau, Đường Thọ đột nhiên chồm

người ra trước, hai tay chống xuống đất lộn nhào một vòng, nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba

và Merkin song song rơi vào khoảng không. Trong khi ấy, hai chân đạp ra phía trước của

Đường Thọ ép hai người họ phải thu tay chống đỡ. Cả hai cùng cảm nhận được lực xung kích

mạnh mẽ ập tới, đành cực lực chuyển từ thế công sang tư thế phòng ngự, giật lùi về phía sau.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa lùi lại, hai chân Đường Thọ đang đá vào mặt hai người

lập tức chuyển sang đạp vào ngực. Hai người lại lùi tiếp, hai cẳng chân lại nhằm vào phần

hông, hai tay Đường Thọ đã rời khỏi mặt đất, cả người lúc này nằm ngang trên không trung.

Vốn dĩ, đây là thời cơ tốt nhất để tấn công y, nhưng hai chân y lại dài hơn sải tay Trác Mộc

Cường Ba và Merkin, hai người không đánh trúng Đường Thọ, ngược lại mỗi người còn bị đá

cho một cước. hai người chỉ có thể tiếp tục lùi lại, họ vẫn còn một cơ hội, chính lúc Đường Thọ

vừa kết thúc vòng nhào lộn, hai chân còn chưa đứng vững vàng. Lúc đó y không thể phát lực,

hai người sẽ chuyển lùi thành tiến, tức khắc sẽ khiến Đường Thọ trở tay không kịp.

Nhưng thân thể Đường Thọ ở trên không trung lại nghiêng đi một cách kỳ dị, chân trái

chạm đất trước chân phải, vả lại, chân trái còn vươn lên truocs chân phải chừng ba mươi xăng

ti mét. Chính khoảng cách ba mươi xăng ti mét này, khiến Đường Thọ giẫm lên mu bàn chân

Merkin một cách chuẩn xác. Khi áp lực từ mu bàn chân truyền lên não, Merkin chuẩn bị rút

chân lùi lại, thì Đường Thọ đã đứng lù lù trước mặt y rồi. Đồng thời, chính cú vặn người trên

không kì dị đó, cũng khiến cú đấm dồn lực của Trác Mộc Cường Ba lướt sạt qua đầu vai

Đường Thọ rơi vào khoảng không.

Merkin thấy Đường Thọ đứng trước mặt mình, hai mắt trợn lên, kế đó là cảm giác đau đớn

dữ dội bùng lên ở nội tạng, truyền đến trung khu thần kinh. Đường Thọ vừa chạm đến đất liền

tung ra một cú đấm vào bụng dưới Merkin nắm đấm vẫn không dừng lại, thuận đà móc lên quá

đầu, tương thẳng vào cằm, khiến Merkin bật ngửa ra sau. Lẽ ra, trúng phải hai đòn nặng như

vậy, Merkin phải văng lên không trung, nhưng Đường Thọ lại đang giẫm lên mu bàn chân y.

Merkin sau khi cảm thấy đau đớn dữ dội bật ngửa người ra, lại cảm thấy một luồng sức lại kéo

y bật ngược lại phía nắm đấm của đối phương.

Đường Thọ sớm đã chuẩn bị cho Merkin một cùi chỏ, còn tay kia của y lại đang đối phó với

Trác Mộc Cường Ba. Đúng như Pháp Sư Á La phán đoán, tay phải của Đường Thọ rõ ràng

không nhanh bằng tay trái, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, Trác Mộc Cường Ba luôn phải dồn sức

vào cả hai tay mới gạt đỡ được nắm đấm của y.

Còn Merkin lúc này, lại như con lật đật, bị Đường Thọ đánh ngả ra sau rồi bật lại, ngả ra

sau, rồi lại bật lại, tuy y vẫn có thể cản đỡ được một phần thế công của Đường Thọ, nhưng

cũng không có cách nào chuyển từ thế thủ sang tấn công. Phía bên kia, Trác Mộc Cường Ba

một mực tấn công dữ dội, song cũng không thể đột phá được thế phòng ngự một tay của

Đường Thọ, có điều Đường Thọ đang giẫm lên chân Merkin, nên chỉ cần gã duy trì khoảng

cách, Đường Thọ cũng không đánh trúng gã được.

Đường Thọ đánh cho Merkin bật đi bật lại như vậy khoảng ba bốn lần, đột nhiên nhấc chân

lên, xoay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba. Thân thể Merkin vừa thoát khỏi áp chế, không

lùi lại mà xông thẳng tới, ngọn lửa bị đè nén trong lòng bùng lên dữ dội. Chỉ thấy Đường Thọ

chuyển hướng, xoay hông, tránh khỏi nắm đấm mạnh mẽ của Trác Mộc Cường Ba, cẳng chân

vừa giẫm chân Merkin từ từ nhấc lên. Y mỉm cười lùi lại, như thể dây cung kéo căng ra để tích

tụ sức mạnh, kế đó bất ngờ phát lực, bắn vọt về phía Trác Mộc Cường Ba. Toàn bộ quá trình

ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn đang trong tư thế giơ nắm đấm xông tới, không kịp biến chiêu, chỉ

biết mở mắt trân trân nhìn đầu gối Đường Thọ “tiếp xúc thân mật” với bụng mình. Một đòn

này, khiến thân thể Trác Mộc Cường Ba bay bổng lên khỏi mặt đất. Vẫn chưa kết thúc, Đường

Thọ còn mượn lực phản chấn khi chạm với Trác Mộc Cường Ba, đạp mạnh chân về phía sau,

nhằm thẳng vào lồng ngực Merkin đang bổ tới. Đối mặt với cú đã bất thình lình này, Merkin

định thu tay lại chống đỡ, nhưng tay chưa kịp thu về thì chân đối phương đã trúng đích, y chỉ

thấy lồng ngực nhộn nhạo, cảm giác như thể phải ọe hết cả lục phủ ngũ tạng ra mới dễ chịu

được phần nào. Đường Thọ tung chân bật về phía sau một cước, trúng vào phần phía trước

ngực Merkin, kế đó lại giơ đùi lên, gót chân quét mạnh vào trán y, vẫn chưa hết đà, cẳng chân

giương cao quá đầu. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang cong người lại như con tôm, thân hình

vươn ra phía trước. Thân trên của Đường Thọ thụp xuống, cẳng chân đá Merkin bật ra, liền

vòng ra từ sau lưng như đuôi bọ cạp, bồi vào trán Trác Mộc Cường Ba một cước. cả Trác Mộc

Cường Ba lẫn Merkin đều bị hất văng ra xa.

Lên gối, đá hậu, hất chân, móc ngược, một loạt các động tác liền mạch như nước đại khái

chỉ diễn ra trong khoảng nửa giây, không phải Trác Mộc Cường Ba và Merkin không muốn né

tránh, mà chỉ vì Đường Thọ quá nhanh. Sau khi đánh bật, hai người mới nhớ ra, chân tên

Đường Thọ này còn linh hoạt hơn tay của người bình thường gấp bội.

Đường Thọ một chiêu đắc thủ, đương nhiên không cho hai người có cơ hội lấy hơi, lập tức

dồn lực vào gót chân, phi thân lao tới, nắm đấm kéo về phía sau, mục tiêu là … Trác Mộc

Cường Ba!

Nắm tay Đường Thọ còn chưa tới, quyền phong đã tới trước. Trác Mộc Cường Ba vừa trúng

một cú lên gối bồi thêm một cước vào trán, cơ bắp co giật, cảm giác đau đớn còn chưa dứt,

lưng vẫn chưa vươn thẳng ra được, tưởng chừng như không thể nào tránh được. Nhưng dưới áp

lực của cú đấm đáng sợ ấy, bản năng sinh tồn của gã bỗng bùng lên. Trác Mộc Cường Ba thả

lỏng hai tay đang ôm bụng, chống xuống đất, cả tứ chi đồng thời phát lực. Tư thế đó hết sức kỳ

dị, giống như con dế đang phục dưới đất đột nhiên nhảy bật lên tránh khỏi bàn tay ụp xuống

bắt nó vậy. Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại né được cú đấm trí mạng ấy! Tứ chi cùng lúc

phát lực, cùng lúc chạm đất, Trác Mộc Cường Ba nhảy sang một bên, vẫn giữ nguyên tư thế

nằm rạp xuống đó nhìn lom lom vào Đường Thọ. Đồng thời, gã cũng cảm nhận được, khi thực

hiện động tác này, hơi thở và các mạch máu đều trở nên thông thuận, cảm giác đau đớn dữ dội

cũng lập tức thuyên giảm đáng kể.

Cú đấm của Đường Thọ đã hoàn toàn ngập vào vị trí Trác Mộc Cường Ba vừa đứng, giống

như dao cắt đậu phụ, gần nửa cánh tay chìm vào trong đất. Hai mắt Đường Thọ đảo một vòng,

rõ ràng chính y cũng kinh ngạc khi thấy Trác Mộc Cường Ba tránh được cú đấm này, nhưng y

không hề do dự, tức khắc xoay người rút nắm đấm ra, tung chân chạy ngược lại, mục tiêu là,

Merkin! Tốc độ của y cực nhanh, thân thể gần như song song với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba

không ngờ Đường Thọ lại thay đổi hướng trong chớp mắt, không dám chần chừ, vội vàng truy

theo. Lần này, gã dùng cả chân lẫn tay, lập tức cảm thấy máu và hơi thở càng thêm thông suốt

dễ dàng, tốc độ chạy cũng tăng lên đáng kể, gần như theo kịp được Đường Thọ.

“Bước chạy kiểu sói à!” Đường Thọ thoáng lộ vẻ bực tức, nhưng y không có thời gian lo

chuyện ấy, dù sao y vẫn dẫn trước Trác Mộc Cường Ba nửa thân người, nửa thân người ấy, đủ

để đối phó với Merkin rồi!

Merkin không học được theo Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên giở ra một chiêu thức quái dị

chẳng ai nghĩ tới. Y cảm nhận được áp lực cuồn cuộn ập đến từ phía Đường Thọ, đành nắm

chặt hai bàn tay lại, liều mạng!

TỬ ĐẤU (2)

Đường Thọ tiếp cận với Merkin lại ngả người thụp hẳn xuống. lại muốn lộn nhào nữa sao?

Nhưng Merkin lần này không mắc bẫy, hai cánh tay giương lên bảo vệ những chỗ yếu hại, kế

đó đạp ra một cước nhằm vào chỗ eo mông, vị trí không linh hoạt nhất khi lộn nhào trên không

của Đường Thọ. Không ngờ, lần này Đường Thọ không dùng chân tấn công vào mặt Merkin,

chỉ thấy y nghiêng người đi, hai chân trầm hẳn xuống, kẹp vào cẳng chân đá về phía mình của

Merkin. Liền sau đó, hai tay y chống xuống đất, thân thể xoay ba trăm sáu mươi độ trên không

trung.

“Vặn chân!” Merkin hết sức quen thuộc với chiêu này, đây là một chiêu tấn công rất thường

dùng trong môn võ tự do, tục gọi là “đá cắt kéo”, lợi dụng thế gọng kiềm của hai chân, dùng

sức eo hông cộng với lực xoáy toàn thân quật ngã đối thủ xuống đất. Chỉ là, trong môn võ tự

do, người ta thường dùng chiêu này tấn công hai khớp gối hoặc cần cổ kẻ địch, như vậy mới có

thể quật ngã đối phương, nhưng lúc này… Đường Thọ lại chỉ kẹp lấy một chân của y, vậy là…

Lực xoắn mạnh mẽ truyền lên từ bắp chân, Merkin đột nhiên hiểu ra, Đường Thọ muốn…

vặn gẫy xương y! Tập trung sức lực toàn thân để đối phó với một trong tứ chi, trước tiên dùng

thế gọng kiềm cố định chân hoặc tay đối thủ, sau đó dồn sức xoay người vặn mạnh, hoàn toàn

có thể khiến cánh tay hoặc cẳng chân kẻ trúng chiêu gẫy lìa ra. Trước áp lực khủng khiếp chưa

từng có ấy, Merkin cũng bị ép phải phát huy hết tiềm lực của mình. Khi Đường Thọ xoay

được một nửa vòng ba trăm sáu mươi độ, Merkin cũng nhấc chân kia lên, xoay người trên

không trung một vòng theo y, rốt cuộc cũng không bị phế mất một chân. Nhưng hai tay Đường

Thọ vừa chạm đất, y lại bật lên, xoay thêm một vòng nữa. Còn Merkin, khi xoay vòng đầu tiên,

y đã mất thăng bằng, ngã người trên thảm cỏ, còn chưa định thần lại được, thì thấy lực vặn

xoắn mạnh mẽ kia lại truyền tới. Y không kịp phản ứng gì, đành nghiến răng kiên trì đến cùng.

Cũng may cho y, cơ bắp đùi tương đối rắn chắc, lực vặn kia chỉ khiến cản người y lăn lông lốc

trên thảm cỏ, nhưng chân thì không bị bẻ gãy.

Đường Thọ chay mày, chiêu thức bẻ chi này chỉ có hai vòng đầu tiên là khó đề phòng nhất,

những vòng xoay về sau, tỷ lệ bẻ gẫy tay chân đối phương nhỏ hơn rất nhiều. Đồng thời, lúc

này Trác Mộc Cường Ba đang đuổi sát sau lưng đã giẫm mạnh cả tứ chi xuống đất vọt người

bổ nhào về phía y. Đường thọ ưỡn bụng, hai chân đang kẹp cẳng chân Merkin dồn sức vung

mạnh, ném cả người Merkin vào Trác Mộc Cường Ba. Có điều dùng chân ném dẫu sao cũng

không thể chuẩn xác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lướt qua nhau trên không trung. Hai

người nhìn vào mắt nhau, tâm niệm tương thông, đột nhiên cùng vươn tay phải ra móc chặt vào

nhau, hai luồng lực tác động lẫn nhau, lập tức khiến quỹ đạo chuyển động và phương hướng

của hai người thay đổi hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba bị Merkin kéo cho dừng sững lại, còn

Merkin lại lấy Trác Mộc Cường Ba làm trung tâm, vạch một vòng tròn trên không trung, vòng

trở lại phía Đường Thọ.

Lúc này, Đường Thọ vừa đứng lên, nghe thấy tiếng gió sau lưng, y chẳng buồn nhìn, tức thì

thuận thế tung ra một cước, Merkin nhận định tình thế hết sức chuẩn xác, nhắm vào gan bàn

chân Đường Thọ đấm mạnh. Thân hình Đường Thọ thoáng lắc lư mấy cái, đà lao của Merkin

cũng dứt, cùng lúc chạm đất với Trác Mộc Cường Ba.

Đường Thọ ngoảnh đầu, thoáng ngạc nhiên, y không ngờ kẻ tấn công mình lại là Merkin.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin nhìn nhau, dùng khẩu hình đưa ra ám hiệu: “Tiếp sức trên

không!”

Cái gọi là tiếp sức trên không đó, kỳ thực là một phương pháp tá lực đả lực mà Trác Mộc

Cường Ba lĩnh ngộ được từ chiến thuật của bầy sói. Chiến lang của bộ tộc Qua Ba khi hợp tác

săn mồi thường làm một loạt những động tác thế này: một con sói đứng yên bất động, một con

khác chạy đà đạp mạnh lên thân thể con sói đầu tiên, sau đó con sói đầu tiên cũng lập tức bật

người nhảy lên giúp con sói thứ hai một quãng. Cộng với đà lao của bản thân con sói thứ hai,

cách này có thể khiến nó nhảy xa hơn, cao hơn; hoặc khi đang xông tới, bị con mồi tránh được,

con sói lao thẳng vào gốc cây hoặc vách đá dựng đứng, nhưng chúng không hề hãm lại, ngược

lại còn dồn thêm sức xông tới, rồi lấy thân câu hoặc vách đá làm điểm tựa mượn lực đàn hồi

bật ngược trở lại. Vậy là, đòn tấn công theo đường thẳng liền biến thành thế công hình tam

giác. Giống như Cương Nhật Phổ Bạc và Cương Lạp vậy, Cương Lạp có thể mượn sức cánh

tay Cương Nhật để nhẩy lên, khi tấn công kẻ địch, nó cũng nhảu từ vai tên thứ nhất sang vai

tên thứ hai rồi tên thứ ba, giống như nhảy lên các cây cột, khiến kẻ địch hoa mắt chóng mặt.

Khi tránh né các cơ quan cạm bậy trong Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và

Merkin đã dựa theo phương thức hợp tác này của loài sói, phối hợp thực hiện một loạt động tác

tiếp sức trên không. Khi xuất hiện những vết nứt gãy không nhảy qua được, hoặc không còn

đường nào để đi, họ liền lấy một người làm trung tâm, ném người còn lại qua, sau đó bản thân

cũng nhảy theo. Người được ném đi ấy sẽ sang bờ bên kia trước, rồi quay lại tiếp ứng đối

phương, thoạt nhìn có vẻ rất giống với những người biểu diễn đu bay trong đoàn xiếc, nhưng

động tác thì khó hơn rất nhiều lần. Có điều hai người đều có sức mạnh, cộng với thân thủ

nhanh nhẹn, sau nhiều lần diễn luyện cũng đã quen với những động tác này rồi.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn đang móc chặt tay vào nhau, không đợi Đường Thọ kịp

phản ứng, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dùng cả hai tay tóm vào cánh tay Merkin, ném y như

ném quả trùy sắt. Thân hình Merkin bay lên không trung, đá về phía Đường Thọ, Đường Thọ

vội giơ tay lên cản lại, người hơi lảo đảo lùi lại hai bước, dù sao thì sức của hai người gộp lại

cũng mạnh hơn một người nhiều.

Merkin chưa đá trúng được Đường Thọ, nhưng y đã nhanh chóng chạm mặt đất, vòng tay

kéo mạnh, lại ném Trác Mộc Cường Ba ra. Hai người lúc này giống như hai quả chùy sắt móc

vào cùng một sợi xích, luân chuyển tấn công Đường Thọ. Lần này Merkin ném Trác Mộc

Cường Ba ra thật, hai tay móc vào nhau đã tách ra. Trác Mộc Cường Ba hai tay liên tiếp vung

lên “chào hỏi” Đường Thọ, còn Merkin lại nhảy bật về phía sau. Cũng là hai tay, nhưng quyền

pháp của Đường Thọ rõ ràng nhanh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc, chỉ thấy cổ tay y lật lên

lật xuống mấy lần, đã hóa giải toàn bộ chiêu thức của gã, tưởng như một đấm sắp tương lên

chán Trác Mộc Cường Ba, nào ngờ thân hình gã lại đột nhiên dừng phắt giữa không trung, rồi

nhanh chóng giật lùi trở về sau. Thì ra, Merkin lùi lại phía sau đã tóm lấy hai chân Trác Mộc

Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba một đòn không trúng đích, y liền kéo ngay về phía sau. Nếu

chỉ có một người, Trác Mộc Cường Ba hay Merkin cũng không thể nào thực hiện được những

động tác kiểu này, nhưng hai người hợp tác, chuyện không thể cũng biến thành có thể.

Merkin kéo Trác Mộc Cường Ba giật ngược lại, bản thân cũng ngửa người ra trượt lên thảm

cỏ, hai chân tấn công phần thân dưới của Đường Thọ, đồng thời dồn sức lên hai tay, ném Trác

Mộc Cường Ba lúc này đã bay qua đầu y bay ngược trở lại. Sắc mặt Đường Thọ thoáng biến

đổi, liên tiếp giật lùi, nhất thời cũng chưa thích ứng được với cách đánh này.

Thân thể Merkin và Trác Mộc Cường Ba giống như được nối với nhau bằng một sợi dây

chun, lúc thì tay người này tóm lấy tay người kia, lúc thì hai chân móc vào nhau, có lúc Trác

Mộc Cường Ba coi thân thể Merkin như cái cột, tay ôm cột, bật người lên đá xoay một vòng;

có lúc Merkin lại coi thân thể Trác Mộc Cường Ba như bao cát hay quả chùy dây xích, nhấc

bổng lên ném vèo ra. Hai người thoắt trước thoắt sau, khi lùi khi tiến, khiến Đường Thọ có

cảm giác không phải đang chiến đấu với hai người, mà là một kẻ có bốn tay bốn chân. Sau ba

bốn lần đột kích, cuối cùng nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba cũng thụi trúng mặt Đường Thọ.

Đường Thọ ngã xuống, trượt trên thảm cỏ ra xa bốn năm mét. Y chống một tay xuống đất bật

dậy, tay kia quét qua khóe miệng, nhìn vết máy trên ngón tay cái, y chỉ nhếch mép, “phì”, nhổ

ra một ngụm máu bầm: “Không ngờ đấy, chiến thuật hợp kích này dường như không nằm

trong hạng mục huấn luyện lính đặc chủng thì phải.”

Trác Mộc Cường Ba và Merkin thấy có hiệu quả, đâu buồn rỗi hơi mà lắm lời với Đường

Thọ. Hai người bắt tay, sải bước xông lên truy kích. Đường Thọ lạnh lùng nói: “Các ngươi

tưởng dùng chiêu này có thể đánh trúng ta lần nữa sao!” Đột nhiên hai tay y giơ lên, bàn tay

xòe ra, cả người trượt ngược về phía sau như vừa nãy, đồng thời, y đã bốc hai nắm đất lên.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin chỉ kịp thấy một đống cát đen ngòm bay tới trước mặt.

“Hỏng bét!” Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng cảm thấy không hay, khoảng cách quá

gần, họ không thể không giơ tay lên bảo vệ cặp mắt. Đường Thọ xông lên một bước, chen vào

giữa hai người, hai tay chia ra tấn công hai hướng. Trong tình huống như vậy, hai người vừa

không thể hợp tác tấn công, ngược lại còn vì hai tay móc vào nhau mà không thể kịp né tránh

đòn thế của Đường Thọ.

Đến khi hai người tách được ra để né đòn thì Merkin đã bị đánh lui ba bốn bước, Trác Mộc

Cường Ba càng thảm hơn, bị tay phải Đường Thọ đánh cho hộc máu. Đường Thọ dùng thân

thể của mình ngăn cách giữa Trác Mộc Cường Ba và Merkin, không cho hai người có cơ hội

liên thủ, ba người đứng trên một đường thẳng, mặt Đường Thọ nhìn ra phía trước, còn Trác

Mộc Cường Ba và Merkin lại lom lom nhìn y, hai bên cứ vậy gườm ghè lẫn nhau.

Đường Thọ đột nhiên bật cười: “Có biết tại sao lúc nãy nghe ngươi nói ta là tên điên, ta lại

cười không? Vì ta nhớ đến một tên điên khác, một mụ điên thì đúng hơn. Mụ ta cảm thấy cuộc

sống với người chồng trước thật quá đơn điệu nhạt nhẽo, tưởng rằng mình đã tìm thấy tình yêu

chân chính, bèn quyết định dẫn theo con gái, chia tay người chồng cũ. Không ngờ, chồng sau

của mụ ta lại là một thằng nghiện cờ bạc, thoáng cái đã thua sạch hết tài sản trong nhà, chẳng

những vậy hắn ta không hề thích mụ đàn bà đó, mà chỉ muốn ra tay với con gái mụ. Con bé

đáng thương thật, mười… mười mấy tuổi nhỉ? Dù sao thì, đêm đó ta đã thấy nó mặc một bộ đồ

trắng như tuyết, nhảy từ nóc nhà mười tám tầng xuống, đẹp như một cánh bướm vậy, ha ha, mụ

đàn bà đáng thương ấy, không ngờ lại hóa điên…”

“Đường Thọ” cổ họng Trác Mộc Cường Ba phát ra một tiếng gầm, bật người lao tới: “Mày

không phải con người!”

“Này, đừng thế!” Merkin biết rõ Đường Thọ đang chọc giận Trác Mộc Cường Ba, nhưng

lúc này, y đã không thể ngăn gã lại được nữa.

Trác Mộc Cường Ba hung hăng lao tới, nhưng Đường Thọ chit cần khẽ khàng giơ chân cất

tay là lại đánh bật gã. Có điều, Trác Mộc Cường Ba dường như hoàn toàn không biết đau đớn,

hai chân chạm đất, lại xông lên như thể bất cần đời, cứ vậy bốn năm lần, trên vạt áo Đường

Thọ đã có không ít vết máu, máu của Trác Mộc Cường Ba.

Merkin thấy vậy thì hết sức lo lắng, cũng muốn xông lên giúp sức, nhưng chỉ mấy chiêu đã

bị Đường Thọ đánh bật ra. Nụ cười nhã nhặn trên gương mặt Đường Thọ vẫn chưa từng biến

mất.

“Ầm!” Trác Mộc Cường Ba lại bị đánh bay ra xa bốn năm mét, rơi bịch xuống đất, trượt

thêm ba bốn mét nữa rồi ộc ra một ngụm máu lớn. Lần này gã không thể một mạch lao tới

được nữa, Trác Mộc Cường Ba khó nhọc xoay người ngồi dậy, há miệng thở dốc, cảm giác

phẫn hận trong lòng mỗi lúc một bùng lên mạnh mẽ, tại sao, tại sao lại có kẻ như tên Đường

Thọ này? Tại sao lại là ta? Tại sao lại là ta?

Đường Thọ nói với giọng thươn hại : Cường Ba thiếu gia, ngươi không thể trách ta được, có

trách thì trách người là Trác Mộc Cường Ba đi, ai bảo người là con trai của Đức Nhân lão gia,

ai bảo gia tộc ngươi là hậu duệ của Trại Bản Ba. Có điều, người cứ yên tâm, giờ mụ đàn bà đó

đang ở trong bệnh viện mà ta đã từng ở ấy, ngươi cũng từng đến đó rồi, điều kiện rất tốt đấy.”

“A...a...” Trác Mộc Cường Ba ngửa mặt lên trời hú dài, cục máu ứ trong lồng ngực phun ra,

lửa phẫn nộ trong long cháy lên ngùn ngùt. Gã đột nhiên cảm thấy, vòng tròn vốn đang chầm

chậm di chuyển động giữa hai đùi kia, biến thành một thông đạo, dường như có một thứ vật

chất vô hình nào đó trong trời đất, đang ùa vào tràn đầy cơ thể qua thông đạo đó.

“A...a...” cùng với tiếng gầm đầy giận dữ ấy, làn da Trác Mộc Cường Ba từ từ chuyển sang

sắc đỏ, từng sợi gân xanh gồ hẳn lên, cơ bắp vặn vẹo đè lên xương cốt phát ra những âm thanh

“răng rắc lách cách”, những khối thịt gồ lên cao như thể muốn xé toạc y phục ra. Mekin và

Đường Thọ đều ngạc nhiên nhìn những biến hóa trên thân thể gã.

“Hải Để Luân”(56) mở ra hết! Cường Ba thiếu gia, ngươi cũng giỏi mang đến cho ta nhiều

niềm vui bất ngờ đấy, ở thời điểm này mà còn đột phá được cơ à!” Đường Thọ không hề sợ

hãi, ngược lại còn tỏ ra vui mừng, nụ cười càng thêm rạng rỡ.

Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên, gã thậm chí không buồn quan tâm đến những thay đổi của

mình, lao thằng vào Đường Thọ. Thân thể hai người lướt qua cạnh nhau, Trác Mộc Cường Ba

lại trúng một đấm. Nhưng lần này, gã cảm nhận được một cách rõ ràng mình đã nắm bắt được

quỹ tích ra đòn của Đường Thọ, trong một chớp mắt trước khi trúng chiêu, gã đã né được chỗ

yếu hại trên cơ thể. Đường Thọ muốn tung cước, không hiểu sao trong đầu Trác Mộc Cường

Ba lại nảy ra ý nghĩ đó, gã hơi co gối lên, trước khi hai chân Đường Thọ hình thành được thế

công, chặn đùi non của y lại, hai người đều tung ra một đấm, lùi lại một bước, tạm thời tách ra.

Đúng vào khoảng khắc họ tách ra đó, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu được tại sao mình

biết Đường Thọ muốn tung cước. Vì nếu gã ở vị trí của Đường Thọ, đá chân lên không nghi

ngờ gì chính là lựa chọn tốt nhất, chính là như vậy! Trác Mộc Cường Ba đã dự cảm được suy

nghĩ của Đường Thọ, từ đó chặn được thế công của y lúc chiến đấu. Đồng thời, gã cũng hiểu ra

sự thua kém của bọn gã với Đường Thọ nằm ở đâu. Gã và Mekin, ra đòn có thể rất nhanh,

chiêu thức quái dị, nhưng khi bọn gã ra đòn thì chỉ biết xông thẳng tới trước, gặp chiêu giải

chiêu. Còn Đường Thọ lại hoàn toàn khác, trước khi ra chiêu, y đã nghĩ trước xem đối thủ có

thể phản ứng như thế nào, vì vậy mỗi lần y xuất chiêu đều chặn đứng những bộ vị hai người

bọn gã có thể tấn công, đồng thời nhằm vào những vị trí hai người không kịp thu về phòng

ngự, giống như hai cao thủ đánh cờ mà Đường Thọ luôn nhìn trước được một nước cờ vậy.

Cũng chẳng trách khi tấn công Đường Thọ, gã và Mekin rất khó đánh trúng đối phương, mà lại

liên tiếp trúng đòn của y.

Đường Thọ và Trác Mộc Cường Ba vừa tách ra, Mekin lập tức bọc hậu tấn công. Đường

Thọ thoáng lộ vẻ chán ghét, y đã không còn hứng thú hưởng thụ trò mèo vờn chuột này nữa,

trong lòng ngấm ngầm lo lắng. Y lo lắng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nắm bắt được cách thức

đoán trước quỹ tichsvaanj động và ý đồ tác chiến của đối thủ trong chiến đấu. Tuy rằng y cũng

biết, điều này cần một quá trình lâu dài, nhưng y vẫn cảm thấy lo lắng.

“Cút đi cho ta” Đường Thọ không còn nương tay nữa, nhắm vào Mekin tung ra một đấm.

Khi nắm đấm còn cách Mekin khoảng ba bốn chục xăng ti mét, y lại đột nhiên hất cổ tay lên,

đầu móc kéo theo dây xích mảnh bắn vụt ra. Ở khoảng cách gần như thế này, uy lực của đầu

móc tuyệt đối không kém vien đạn vừa rời khỏi họng súng, chỉ trong chớp mắt đã bắn xuyên

qua vị trí dưới bả vai của Merkin. Đây cũng là một trong những chỗ mỏng nhất trên bộ đồ

chống đạn này. Vì tốc độ bắn xuyên qua quá nhanh, Merkin còn không kịp cảm thấy đau đớn,

bàn tay vẫn nắm chặt vung ra phía trước. Cổ tay Đường Thọ khẽ vặn nhẹ, dây xích lập tức rút

trở về. Cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt tức thì lan đi khắp toàn thân, Merkin “Á!” lên

một tiếng, cú đấm lập tức run rẩy thoát lực dừng sững lại. Đường Thọ giơ chân đá tạt một cú,

hất y văng ra xa, rồi xoay người lại toàn lực đối phó Trác Mộc Cường Ba.

Merkin bị đã bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy Đường Thọ dốc sức tấn công Trác

Mộc Cường Ba, một chọi một, Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn rơi vào thế yếu. Trước đó, gã đã

bị thương rất nặng chẳng qua mới nắm bắt được phương thức dự đoán động tác trước khi xuất

chiêu mà thôi. Y nhìn thấy rất rõ, gương mặt đỏ bừng vì phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba đang

dần tái đi, gã mất máu nhiều quá, giờ đã như ngọn đèn cạn dầu rồi. Merkin lạnh cả người, thầm

nhủ: “Không thể chiến thắng hắn được, hắn còn chưa dùng đến vũ khí, cũng không sử dụng

côn trùng, mà đã mạnh đến thế, lẽ nào chũng ta phải keeys thức như vậy sao?” Thân thể

Merkin rơi chạm đất, khẽ bật nảy lên, khóe mắt liếc thấy… vùng gò đồi đằng xa kia, dương

như có gì nhích động!

Thời gian quay ngược lại lúc ba người bắt đầu chiến đấu, khi Trác Mộc Cường Ba phun ra

bùng máu đầu tiên, những phân tử máu bắn tung tóe, được cơn gió nhẹ dịu dàng bao bọc, đưa

ra xa khỏi bãi cỏ, không ngừng khuếch tán rộng hơn…

Tứ Vương lăng, bầy sói đang nô đùa.

Sói Út không biết kiếm đâu được một khúc xương dài, ngậm trong miệng chạy vào một nhà

dân đặt trước một con sói cái. Con sói cái ấy e thẹn cúi đầu, bước đến cọ cọ vào má Sói Út. Sói

Út ta đang mừng rỡ hớn hở, đột nhiên trở lên nghiêm nghị, chạy ra khỏi nhà, ngẩng đầu tìm

kiếm gì đó trong không khí. Một mùi quen thuộc từ xa bay đến, mùi máu. Lúc nãy đã có một

ngọn gió mang theo mùi máu nồng nặc lướt qua, nhưng Sói Út không để ý, cho rằng đó là đội

săn bắn đang đi săn, nhưng lần này thì khác, máu này, là của A U Chang!

Trên đỉnh Tứ Vương lăng, vị vương giả trên cao đột nhiên đứng dậy, bốn chân như bốn cây

cột, mặt hướng về phía Tây. Một con sói cường tráng đứng ở bậc thang bên dưới, khẽ gầm gừ:

“Là người đó!” Vương giả đáp: “Ta còn ngửi thấy mùi quen thuộc khác, xem ra, đến lúc chúng

ta hành động rồi.”

Dường như tất cả lũ sói và chó ngao ở Shangri-la đều ngửa mặt lên trời, dùng cái mũi nhạy

bén của chúng tìm kiếm thứ gì đó. Đột nhiên, cái bóng màu tím kia từ trên Vương lăng bước

xuống, nó đi đến đâu, đàn sói nhất loạt cúi đầu, rồi lập tức đứng dậy đi theo vị vương của

mình, tiến về cùng một hướng. Đàn sói ở bốn phương tám hướng cũng tràn về, bọn chúng đều

bỏ dở hết công việc đang làm, như chơi đùa nhảy nhót, cùng đi theo một bóng hình, dần tụ tập

thành những dòng thác lũ, những dòng lũ lớn lại hòa vào nhau, tựa như cơn sóng thần ngoài

biển khơi ập đến nhấn chìm hết thảy.

Đàn sói tràn qua rừng rậm, hết sức trật tự theo sau vị vương giả của chúng, không phát ra

bất cứ âm thanh nào, nhưng những bước chân nhịp nhàng ấy lại khiến cả khu rừng run lên.

Trong khoảnh khắc, động vật trong rừng, ngoài những con bay được trên không và rúc sâu

dưới lòng đất, dường như tất cả đều ùa ra khỏi hang ổ, bỏ chạy dáo dác.

Vương giả của loài sói, bước chân thanh nhã mà cao quý nhanh nhẹn bước đi, tốc độ tăng

dần, sải chân nhỏ dần, nhỏ dần rồi như thể đang bay. Toàn bộ các đàn sói ở Shang-ri la đều đi

theo thủ lĩnh của chúng, nghìn vạn cùng lao đi, khiến mặt đất chấn động rung lên bần bật.

Merkin tưởng rằng mình hoa mắt, vội đưa tay dụi mạnh rồi nhìn lại, đúng vậy, khu vực gò

đồi đó đang rung lên, không phải, không phải đồi núi đang rung động, mà cả một vùng gò đồi

đằng xa ấy đều bị thứ gì đó phủ kín, thứ đó đang chuyển động. Merkin chưa kịp nhìn rõ đó là

thứ gì, y chỉ biết, số lượng bọn chúng rất đông đảo, tất cả đang ào ào tràn tới đây. Y ngoái đầu

nhìn quanh quất, chỉ thấy toàn bộ trong tầm mắt, đều là như vậy, dường như mặt đất đang cuộn

sóng… liền ngay sau đó Merkin cảm thấy mặt đất, hồ nước, núi non, tất thẩy đều đang run lên

nhè nhẹ.

Đường Thọ vừa đánh bật Trác Mộc Cường Ba ra xa mấy mét, lập tức cảm nhận được mặt

đất rung động. Y ngoảnh đầu, liền thấy cơn sóng do lũ sói tạo thành ập đến. Đường Thọ tức thì

tái mặt, thầm tính toán khoảng cách giữa mình và lũ sói, rồi quay lại nhìn Trác Mộc Cường Ba,

đột nhiên rút súng bắn luôn. Trác Mộc Cường Ba sớm đã có chuẩn bị, thuật bắn súng cận thân

được bản năng trợ giúp, đã phát huy vượt cấp. Gã lăn lộn mấy vòng, đạn của Đường Thọ bắn

ra đều rơi vào khoảng trống. Y rất muốn giết chết Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhưng

cũng không hề muốn hợp táng với hai người. Ngay cả Merkin cũng nhận ra, Đường Thọ đang

chuẩn bị bỏ chạy! Lúc này, Merkin đã nhìn rõ, thứ tràn qua rừng rậm kia, là sói, toàn bộ đều là

sói, sói đến rồi! Sói đến rồi! Không hiểu vì sao, Merkin cảm thấy kích động sôi trào, suýt chút

nữa thì rơi nước mắt. Y có lẽ là một trong số rất ít người trong lịch sử nhìn thấy nhiều sói như

vậy chạy về phía mình mà còn vui mừng đến thế.

VƯƠNG GIẢ GIÁNG LÂM

Đường Thọ đành bỏ qua cho bọn Trác Mộc Cường Ba, xoay người chạy đi, đồng thời mở

khóa ba lô, lấy hết vũ khí ra, toàn thân từ đầu đến chân đều vũ trang tới tận răng. Y vừa chạy

vừa cật lực thầm nhủ: “Không qua đâu, không qua đây đâu…”

Ven hồ là những khối đá lớn nhỏ sừng sững, đàn sói chạy đến trước những khối đá ấy liền

đồng loạt dừng lại, chân cào bới đất một cách bất an, gầm gừ khe khẽ. Đường Thọ yên tâm

phần nào, song vẫn không dám hoàn toàn lơi lỏng, y biết, điều này chẳng nói lên gì cả, quan

trọng nhất là phải xem thái độ của “vị” kia như thế nào.

Tử kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng, trông cao hơn hẳn những con sói và chó ngao khác

hẳn một cái đầu, nó chầm chậm bước tới đường ranh giới tạo bởi các khối đá, mấy con sói

tương đối cao tuổi ở bên cạnh khẽ thì thào: “Chuyện này…ngài xem…”

Tử kỳ lân chẳng buồn để ý, hờ hững như không, ngẩng cao đầu bước qua lằn ranh vô hình

ấy, lũ sói phía sau hú lên mừng rỡ, lần lượt bám đuôi theo. Trái tim Đường Thọ giật nảy lên,

khẩu súng trong tay suýt nữa thì rơi mất.

Trác Mộc Cường Ba nằm dưới đất, nhất thời không sao dậy nổi, chỉ có thể nghiêng người đi

một chút. Gã cũng cảm thấy mặt đất đang chấn động, nhìn thấy đàn sói ùa tới, nhưng gã vẫn

chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Gã chỉ biết, vương quốc sói có quy củ riêng của mình,

hoặc giả, bọn chúng cũng có sứ mệnh của mình, không để bất cứ kẻ nào từng đặt chân đến Bạc

Ba La thần miếu được phép rời khỏi đây, giống như Ba Tang và đồng đội của anh ta năm đó

vậy. Thế cũng tốt, ít nhất Đường Thọ cũng không thoát được.

Nhưng ngay sau đó, gã liền loại bỏ mối lo này, vì trong đàn sói ập đến như nước triều đen

kịt ấy, có hai con soi xông lên đến cạnh gã trước tiên. Sói Út và Sói Hai thân thiết liếm liếm vết

thương trên người gã, đoạn ngồi chồm hỗm bên cạnh gã. Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, vuốt

dọc theo sống lưng hai con sói.

Sói Út thấp giọng thì thào: “Ai bắt nạt anh thế, A U Chang, chúng tôi giúp anh báo thù.”

Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng sói đáp lại: “Vậy thì, nhờ chúng mày vậy.” Đang nói

chuyện, chợt nghe một tiếng hét giận giữ: “Lũ khốn kiếp!” Kế đó, tiếng súng vang lên liên tiếp.

Trác Mộc Cường Ba muốn nhìn xem có chuyện gì xảy ra, nhưng cần cổ đau nhức, toàn thân

không còn chút sức lực nào cả. Sói Hai liền dùng mõm rúc vào, nâng đầu Trác Mộc Cường Ba

lên cao hơn.

Trác Mộc Cường Ba trông thấy, không biết từ lúc nào, Đường Thọ đã bị lũ sói ép trở về,

đồng thời, xung quanh gã cũng có vô số con sói đang quây thành vòng tròn, ném cho gã những

ánh nhìn thân thiết. Gã lập tức ngập tràn trong hạnh phúc, chúng không hề quên người bạn

này!

Đường Thọ hai tay hai súng, liên tục phát xạ, quỹ tích đạn bao phủ toàn bộ các phương vị

xung quanh, y thay đạn cũng cực nhanh, hai khẩu súng vừa hết đạn, y kiền ném lên không

trung, đồng thời búng lên hai băng đạn giắt ở thắt lưng, sau đó rút hai khẩu súng khác ra tiếp

tục xạ kích. Hai băng đạn cắm lọt ngay vào hai khẩu súng trên không trung, rơi xuống, khi ấy,

Đường Thọ cũng vừa bắn hết đạn hai khẩu súng trên tay, y lại ném súng lên, búng ra hai băng

đạn khác, rồi lại bắt lấy hai khẩu súng vừa rơi xuống, tiếp tục nhả đạn. Kỹ thuật này, hiển

nhiên còn cao minh hơn Merkin một bậc, hai khẩu súng đồng thời nạp đạn, vả lại gần như

không có thời gian cách quãng.

Trác Mộc Cường Ba quan sát quỹ tích nhả đạn của Đường Thọ cũng không khỏi thầm kinh

ngạc. Góc độ xạ kích hết sức độc địa, quỹ đạo dịch chuyển của nòng súng cũng thập phần quái

dị, diện tích che phủ rất toàn diện, gần như một hình cầu toàn thân đều có những họng súng

chĩa ra vậy. Gã bất giác thầm nhủ, nếu Đường Thọ vừa xuất hiện đã sử dụng kỹ thuật xạ kích

này đối phó mình và Merkin, sợ rằng bọn gã đã sớm chẳng còn mạng nữa rồi, chỉ có điều, tên

Đường Thọ này tâm lý quá biến thái, y muốn hưởng thụ khoái cảm chinh phục, kết quả lại bị

đàn sói lùa vào trong rọ.

Kỹ thuật bắn súng của Đường Thọ đã đáng kinh ngạc, nhưng biểu hiện của đàn sói lại càng

khiến người ta chấn động hơn. Bọn chúng nhảy qua nhảy lại giữa các làn đạn, nhanh như

những cái bóng mờ, đạn của Đường Thọ quá nửa đều bắn trượt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên

nhớ đến chuyện xảy ra khi mấy con sói đuổi theo gã và Ba Tang. Tốc độ của lũ sói này còn

nhanh hơn một chút so với tốc độ mắt thường có thể theo kịp, rõ ràng nhìn thấy chúng, nhưng

khi nổ súng lại chỉ bắn vào một cái bóng, nếu nhắm mắt bắn bừa bắn bậy, nói không chừng lại

bắn trúng cũng nên.

Đáng tiếc, Đường Thọ không hiểu lý lẽ này, trong cơn căng thẳng và sợ hãi cực độ, cặp mắt

y càng lúc càng mở lớn.

“Cách cách!” hai tiếng, Đường Thọ vỗ vào thắt lưng nhưng đã không còn băng đạn nào nữa.

Y vẫn không can tâm, liền chĩa súng vào lũ sói bóp cò liên tiếp, không ngừng phát ra những

tiếng “cách cách cách” trống rỗng. Lũ sói tách ra tạo thành một con đường, Tử kỳ lân chầm

chậm bước lên phía trước, mặt đối mặt với Đường Thọ. Nó nhìn chằm chằm vào Đường Thọ,

miệng khẽ nhếch lên.

“Nổ súng đi, xem người còn bao nhiêu đạn. Lần trước đã để ngươi chạy thoát, không ngờ

ngươi còn dám trở lại nữa, lần này để xem ngươi chạy được đi đâu.” Đường Thọ đọc được điều

đó trong mắt Tử kỳ lân.

“Không thể nào, đây không phải là cấm địa của các ngươi hay sao? Sao các ngươi dám vượt

qua ranh giới? Sao các ngươi dám!” Đường Thọ chỉ vào những khối đá sừng sững ở đằng xa

quát tháo ầm ĩ.

Tử kỳ lân ngoảnh đầu lại nhìn những khối đá, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối, tựa như đang nói:

“Quy củ lập ra là để phá vỡ, chẳng lẽ ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao? Ngươi có

óc không vậy?”

“Không thể nào, không thể nào.” Đường Thọ vừa lắc đầu vừa lùi lại, y biết rõ lũ sói này

đáng sợ đến chừng nào, kí ức bị truy đuổi lần trước vẫn còn rõ ràng như mới. Vốn luôn cho

rằng mình là một thứ tồn tại cao quý vô thượng, không ngờ lại bị một đám súc sinh đánh bại,

Đường Thọ bị đả kích rất lớn, vì vậy mà tinh thần rối loạn mất một khoảng thời gian, đây cũng

chính là một trong các nguyên nhân khiến y mặc đồ lính đánh thuê trà trộn vào giữa đám thuộc

hạ của Merkin để che giấu hành tung.

Đột nhiên, Đường Thọ trông thấy Trác Mộc Cường Ba đang được đàn sói quây lại bảo vệ,

sau đó, y lại trông thấy Merkin. Đãi ngộ của Merkin không được như Trác Mộc Cường Ba,

mấy con sói đang hướng về phía y nhe hàm răng nhọn hoắt, khiến Merkin sợ đến không dám

nhúc nhích. Đường Thọ dường như sực hiểu ra điều gì đó, y chỉ Trác Mộc Cường Ba hét lớn:

“Ngươi! Chính là ngươi! Ngươi là Người được chọn! Không! Không công bằng! Ta cũng là

hậu duệ của Vu vương, tại sao chỉ có ngươi là Người được chọn?” Trác Mộc Cường Ba đã

phục hồi phần nào sức lực, đang khó nhọc chống khủy tay xuống đất để nâng người lên cao

một chút, gã nuốt ngụm máu trào lên đến cổ họng xuống, dùng câu nói của chính Đường Thọ

trả lời y: “Thế thì sao? Ngươi không phục à?”

Đường Thọ cực kỳ phẫn hận rít lên: “Cường Ba thiếu gia, ngươi tốt số thật đấy! Có kẻ sống

gửi bảo vệ ngươi! Lại có lũ sói bảo vệ ngươi! Được lắm! Được lắm!”

Sói Út đứng lên, lông cổ dựng ngược, nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, hỏi Trác Mộc

Cường Ba: “A U Chang, hắn phải không? Xem tôi xử lý hắn này!”

Một con sói bên cạnh ngăn Sói Út lại, nói: “Đừng hoảng, đó là con mồi của Vương.”

Tử kỳ lân khẽ gầm lên một tiếng, chuyển sự chú ý của Đường Thọ sang phía nó: “Con

người, cuộc chiến của chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, không phải ngươi sợ rồi chứ?”

Đường Thọ nghiến răng kèn kẹt, tay trái rút dao, tay phải lại lặng lẽ rút vào trong ống tay

áo, cơ hồ như đang chuẩn bị gì đó, y hung hăng quát: “Đến đây, con chó ôn dịch, ta không sợ

ngươi đâu!”

Tử kỳ lân nghiêng đầu, dường như đang nghĩ xem chỗ dựa của Đường Thọ là thứ gì. Mấy

con sói dạn dày kinh nghiệm cũng ghé đầu ghé tai thfi thào: “Tên đó, lần trước không phải bị

đánh cho tơi bời hoa lá sao? Hắn còn dám tiếp chiến à? Dựa vào cái gì chứ?”

Tử kỳ lân nhếch mép cười, thân hình lắc nhẹ, thoắt cái đã... biến mất trong ánh mắt kinh

ngạc của Trác Mộc Cường Ba và Merkin!

Duy chỉ có Đường Thọ vẫn giữ được sự trầm ổn, chỉ một khoảnh khắc sau đó, y đột nhiên

nghiêng người, con dao trong tay đâm mạnh ra phía sau. Lưỡi dao của Đường Thọ đâm ra,

Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới trông thấy bóng dáng của Tử kỳ lân lóe lên đằng sau

Đường Thọ một cái. Khi hai người đều tưởng rằng Tử kỳ lân đã bị dao đâm trúng, mới phát

hiện ra, Đường Thọ chẳng qua chỉ đâm vào một cái bóng.

Nhanh... nhanh quá, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng chung một cảm giác, tốc độ mà

xưa nay Đường Thọ vẫn lấy làm kiêu ngạo, ở trước mặt Tử kỳ lân, chẳng đáng là gì cả. Merkin

từng chứng kiến tốc độ chạy hết sức của Hải Lam thú, nếu nói Hải Lam thú như một cơn gió,

khi chạy chỉ để lại một cái bóng mờ mờ, vậy thì Tử kỳ lân này sở hữu tốc độ ngang với một tia

chớp, mắt thường cơ hồ không thể theo kịp quỹ đạo di chuyển trong cự ly ngắn của nó được.

Phải quan sát cách thức di động và vị trí lưỡi dao của Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba và

Merkin mới thấy được bóng dáng Tử kỳ lân, thoắt hiện ra rồi lại thoắt biến mất, rồi lại hiện ra,

rồi biến mất. Đột nhiên, Đường Thọ giơ con dao trên tay đâm mạnh vào cánh tay phải của

mình, đường dao cực kỳ dứt khoát, tốc độ cực nhanh, dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa!

Hả? Dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa?

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đang nghi hoặc, Tử kỳ lân đã xuất hiện phía sau Đường

Thọ, cách chừng hơn chục mét, nó cũng đang nhìn Đường Thọ với ánh mắt hồ nghi. Đường

Thọ nhe răng cười khành khạch: “Sao hả? Đau răng rồi à?” Bấy giờ, hai người mới nhận ra, tay

áo bên phải của Đường Thọ đã bị rách toạc bốn vết lớn.

Đường Thọ giật tung ống tay áo rách đó xuống. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra, cả

cánh tay phải của y tuyền một màu đen, còn ánh lên sắc kim loại. Merkin lẩm bẩm: “Ghép

chi?”

Trác Mộc Cường Ba lúc này mới phát hiện, toàn bọ tay phải của Đường Thọ từ vai trở

xuống, hoàn toàn bằng kim loại. Không ngờ y lại cấy ghép một cánh tay máy chế tạo từ hợp

kim! Chẳng trách tay phải y không linh hoạt bằng tay trái, chẳng trách pháp sư Á La lại nói tay

phải của Đường Thọ sở hữu sức mạnh không phải của con người.

Đường Thọ chuyển động cánh tay phải, bàn tay xòe ra rồi nắm lại, cười cười nói: “Khoa học

kỹ thuật của con người, không ngờ phải không, con chó ôn dịch, đừng tưởng ta hết đồ chơi rồi

nhé.” Nói đoạn, không biết y đã điều chỉnh nút bấm nào trên cánh tay, đoạn từ khuỷu tay trở

xuống liền bật ra một lưỡi dao nữa.

Tử kỳ lân thấp giọng gầm ghè, như thể đang nói: “Chẳng qua cũng thế mà thôi.”

Tia chớp màu tím lại xoay chuyển xung quanh tấn công Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba

chợt để ý thấy hai mắt Đường Thọ chớp chớp với tốc độ nhanh hơn người thường rất nhiều,

mỗi lần chớp mắt y đều có thể khóa chặt vị trí của Tử kỳ lân. Trác Mộc Cường Ba cũng học

theo, bắt đầu chớp mắt thật nhanh, quả nhiên, mỗi lần chớp mắt gã đều thấy được bóng dáng

của Từ kỳ lân, giống như cửa chập của máy ảnh vậy.

Tử kỳ lân thường tấn công Đường Thọ từ phía sau, bổ tới, lướt qua, tạt, vồ, đớp... còn

Đường Thọ lại dùng cánh tay máy phòng ngự kín kẽ, mỗi lần Tử kỳ lân lao đến gần, y đều có

thể nhanh chóng phản kích. Dưới ánh dao lấp lóa, bộ lông của Tử kỳ lân tung bay phấp phới,

có mấy lần suýt nữa bị lưỡi dao của Đường Thọ vạch trúng.

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy lo lắng cho Tử kỳ lân, đòn tấn công của nó rõ ràng không

thể gây tổn thương cho cánh tay máy kia, có điều, Đường Thọ dường như cũng không dùng

cánh tay máy phòng hộ toàn thân, sau mỗi lần bị tấn công, y lại dùng luôn cánh tay máy ấy để

phản kích.

“Công kích chịu đòn.” Không biết từ lúc nào, Merkin đã tập tễnh bên cạnh Trác Mộc Cường

Ba.

“Ông nói gì cơ?”

“Đường Thọ, y đang sử dụng thuật công kích chịu đòn, anh không nhận ra à? Mỗi lần con

chó kia tấn công hắn, hắn đều lập tức phản kích, có mấy lần suýt nữa là thành công rồi.”

Merkin giải thích.

Trác Mộc Cường Ba cải chính lại: “Tử kỳ lân. Ông muốn nói, phương thức công kích ấy là

một loại sách lược gì đó?”

Merkin gật đầu đáp: “Ừm, khi tốc độ và sức mạnh của anh đều không bằng đối thủ, muốn

đánh trúng hắn thì phải làm thế nào chứ? Sách lược tốt nhất chính là cách mà Đường Thọ đang

sử dụng, dù đối thủ mạnh đến mấy, khi hắn tấn công anh, nhất thiết sẽ phải tiếp xúc với thân

thể anh. Chỉ cần đối thủ tiếp xúc với thân thể anh, động tác của hắn sẽ bộc lộ. Nếu anh bị đá

trúng phần thân trên, trước khi ngã xuống anh có thể dùng chân đá lại hắn; nếu đối thủ tóm

được một chân anh, anh có thể dùng chân kia; khi hai nắm đấm đều bị khóa chặt, liền dùng trán

đập tới; khi mặt đối mặt với đối thủ, cũng có thể nhổ nước bọt, kiểu gì cũng được, vì anh đang

ở thế yếu hơn, trong cuộc đấu đặt cược bằng tính mạng, mục đích duy nhất chính là giết chết

đối phương, dùng bất cứ thủ đoạn nào cũng không bị coi là quá đáng.”

Trác Mộc Cường Ba đã lờ mờ đoán ra được. “Dùng thân thể của chính mình làm mồi, hy

sinh một phần những bộ vị không quan trọng lắm để cho đối phương một đòn chí mạng?”

Merkin gật đầu: “Đúng thế. Anh xem, Đường Thọ rất ít khi dùng tay phải phòng ngự, chính

là vì nguyên nhân này. Vì tay phải của hắn là tay máy, một khi Tử kỳ lân tấn công cánh tay

máy đó, Đường Thọ cảm ứng sẽ chậm hơn, không thể áp dụng được chiến thuật chịu đòn, mà

như vậy thì hắn thậm chí còn không chạm vào được sợi lông của con chó ấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng Tử kỳ lân cũng không hề gây tổn thương đến cánh tay

máy đó mà?”

Merkin nói: “Không thấy trên cánh tay máy của Đường Thọ có một ngọn đèn nhỏ nhấp

nháy à? Thứ đó dùng pin công suất lớn, dòng điện có thể khiến cánh tay đó sở hữu sức mạnh

mà người bình thường không thể có được, nhưng nếu hết pin, thì nó liền biến thành một đống

sắt vụn. Đường Thọ không dám mạo hiểm, hắn cũng không biết cánh tay máy đó rốt cuộc có

thể chịu được bao nhiêu lần tấn công của Tử kỳ lân nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng lần nào Tử kỳ lân cũng tránh được mà.”

Merkin chợt lắp bắp kêu lên: “Chuyện này… điểm sát! Đó là điểm sát!”

“Cái gì hả?”

Merkin nói: “Là một sách lược chiến đấu cực kỳ cao minh, khi anh dốc hết sức tấn công đối

thủ, có thể sẽ đánh trúng, gây cho đối thủ thương tổn cực lớn, nhưng cũng có thể không đánh

trúng, hoặc giả đối thủ có thể chịu đựng được sự tổn thương đó, khi ấy, anh rất dễ bị đối thủ

phản kích, đây chính là chiến thuật chịu đòn phản kích của Đường Thọ. Nếu anh tấn công đối

thủ lại chỉ dùng bảy phần sức, vậy thì, khi đối thủ tránh né đòn, anh vẫn còn dư lực để thay đổi

phương hướng tấn công, tiếp tục ra đòn, nhược điểm duy nhất chính là, lực đánh vào đối thủ sẽ

không quá lớn. Phương thức công kích này, được gọi là điểm sát, giống như vận động viên

đấm bốc vậy, không nhất thiết phải đánh cho đối thủ nốc ao ngã xuống, chỉ cần dùng điểm số

cũng giành được thắng lợi. Anh nhìn Tử kỳ lân tấn công mà xem, lần nào cũng điểm đến là

dừng, trước khi Đường Thọ kịp phản kích nó đã né đi rồi, một vết thương nhỏ, khiến hắn chảy

mười mi li lit máu, nhưng nếu hơn một trăm vết thương như thế thì sao? Tự nhiên cũng thành

chí mạng. Chớ coi thường phương thức công kích này, nó yêu cầu phải có trình độ khống chế

tốc độ và sức mạnh cực cao đó, nhiều người luyện tập cả đời cũng chỉ có thể đánh một đòn dốc

hết sức, mà không có cách nào làm được như Tử kỳ lân: một đòn đánh nhanh hết sức có thể,

nhưng lại chỉ dùng một phần ba sức lực.”

Quan sát một lúc nữa, Merkin nghi hoặc nói: “Tôi thực sự rất hoài nghi, con Tử kỳ lân ấy,

nó là một con chó thật sao? Anh nhìn cách thức tấn công của nó mà xem, nó không chỉ biết

Đường Thọ sẽ phản kích thế nào, thậm chí còn biết trước được động tác của Đường Thọ sau

khi phản kích nữa, giống như lúc Đường Thọ đối phó chúng ta vậy, trời đất…”

Trác Mộc Cường Ba cũng đã thấy, thân thể Tử kỳ lân lao bổ vào Đường Thọ rồi lập tức bật

ra, không ngờ còn có thể vặn vẹo theo hình sóng, vừa khéo tránh khỏi một cú tạt ngang của y,

sau đó vuốt ngược lên trên. Quần áo Đường Thọ đã rách toạc nhiều chỗ, những mảnh áo chống

đạn bung ra, giống như con cá bị đánh sạch vẩy, mấy chỗ bị thương sâu vào đến thịt, máu thấm

ra ngoài.

Đường Thọ dường như cũng ý thức được, cứ tiếp tục như vậy đối với mình rất bất lợi, sau

khi bị móng vuốt của Tử kỳ lân cào toạc một vệt trên lưng, y đột nhiên vặn mạnh tay phải, cơ

hồ lại thay đổi chốt lẫy gì đó, chỉ nghe “phì” một tiếng, khói mù vừa phun ra, Tử kỳ lân liền

liên tiếp trồi lên thụp xuống hai lần, rời khỏi phạm vi màn khói bao phủ, có vẻ như nó cũng

tương đối e ngại thứ khói này.

Bên ngoài vòng chiến, một con sói không cẩn thận đến gần màn sương trắng ấy đột nhiên

rút lên thảm thiết, ngã gục xuống đất, giật giật hai cái ròi không nhúc nhích gì nữa.

“Có độc!” Trác Mộc Cường Ba mắng thầm, rõ ràng Đường Thọ đã chuẩn bị để đối phó với

đàn sói ở Shangri-la này. Hai mắt Tử kỳ lân chuyển động, đột nhiên nó vục mặt xuống đất, vùi

lỗ mũi vào hất lên một đống đất ẩm, sau đó dùng hai chân trước vỗ cho chặt, há miệng hít thở,

rồi lại xông vào đám khói trắng. Những con sói khác cũng lần lượt học theo, dùng bùn để bịt

mũi. Merkin giật mình hiểu ra: “Không phải độc, là cổ độc, thứ khói trắng kia có lẽ là một loại

sinh vật có hại với lũ sói.”

Giây lát sau, chỉ thấy trong màn khói trắng bùng lên khói xanh và đỏ, kế đó là tiếng kêu

thảm thiết, rồi không còn khói mú gì xuất hiện thêm nữa.

Màn khói mù từ từ tan đi, chỉ thấy Tử kỳ lân đứng một bên, Đường Thọ đang trợn mắt nhìn

nó đầy kinh sợ, tay trái ôm chặt vai phải, cánh tay máy kia đã bị Tử kỳ lân dỡ tung, để lộ ra

những sợi dây kim loại đủ màu sắc. Đường Thọ đích thực đã chuẩn bị cổ độc, y còn tìm được

loại độc chất ở trạng thái bay hơi chỉ có hiệu quả với sói mà vô hại với con người. Ai cũng biết,

cái mũi chính là ưu điểm lớn nhất và cũng là sơ hở lớn nhất của loài sói. Đường Thọ đã chuẩn

bị riêng nhiều loại vật chất có thể gây ra thương tổn chí mạng với khứu giác của chúng. Nhưng

y không thể ngờ, Tử kỳ lân lại tự phong bế khứu giác, dùng bùn đất bịt mũi, y quả tình chưa

từng gặp chuyện quái dị như vậy bao giờ. Trong màn sương mù mịt, Đường Thọ không sao

phán đoán được phương vị của Tử kỳ lân, còn Tử kỳ lân lại chỉ cần dùng vị giác và thính giác,

sau mấy lần tấn công liên tiếp, đã giật bay cả cánh tay máy của y ra.

Đường Thọ mất đi chỗ dựa lớn nhất, không cầm cự được bao lâu đã bị Tử kỳ lân đè sấp

xuống đất. Tử kỳ lân giẫm lên lưng Đường Thọ, khiến y không sao nhổm người lên được, đoạn

ngửa cổ gầm một tiếng, một lần nữa uy nghiêm tuyên bố, nó mới là vị chúa tể duy nhất của

mảnh đất này.

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

“Cứu tôi, Cường… Cường Ba thiếu gia… cứu tôi với!”. Đường Thọ bị đè dưới đất không

ngờ lại khó nhọc ngóc đầu lên cầu cứu.

Trác Mộc Cường Ba ngồi dậy, hỏi: “Nói, mày để cái hộp đó ở đâu rồi?”

“Tôi, tôi đưa nó ra ngoài rồi, dùng thiên nga, chỉ có tôi mới biết nó ở đâu, anh… anh cứu tôi

đi, tôi có thể nói cho anh biết, chúng ta cùng mở nó ra, chúng ta có thể cùng xưng hùng xưng

bá, cùng thống trị thế giới này…”

Trác Mộc Cường Ba đứng dậy, Đường Thọ nhìn thấy một tia hi vọng, lại nói: “Anh có thể,

anh là Người được chọn, anh có thể nói chuyện với nó, anh… anh có thể bảo con chó này tha

cho tôi.”

Merkin đứng bên cạnh đỡ Trác Mộc Cường Ba, lắc đầu nói: “Không thể tha cho tên này

được.”

Tử kỳ lân nhìn Đường Thọ bị nó giẫm dưới chân, rồi lại nhìn Trác Mộc Cường Ba. Ánh mắt

Trác Mộc Cường Ba hết sức kiên quyết, gã thậm chí còn chẳng thèm liếc Đường Thọ một cái.

Đường Thọ dường như hiểu ra điều gì đó, đột nhiên phá lên cười ha hả, nói: “Tôi biết tâm sự

của anh, tôi biết anh không thể buông bỏ được, anh vẫn luôn nhớ nhung người đó, tôi biết cô ta

đang ở đâu.”

Trác Mộc Cường Ba bị điểm trúng yếu huyệt, hơi thở tức khắc trở nên dồn dập, Đường Thọ

lại nói: “Sao hả? Làm một cuộc giao dịch không, anh bảo con chó này thả tôi đi, tôi sẽ cho anh

biết em gái anh đang ở đâu.”

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, nói: “Mày biết thật sao? Tao dựa vào cái gì để tin

mày?”

Đường Thọ vừa thấy có hy vọng, vội vàng lần rờ trong túi. Tử kỳ lân chẳng hề khách khí,

thấy Đường Thọ vừa nhúc nhích, liền không do dự cắn mạnh một cái, khiến Đường Thọ đau

đến toát mồ hôi mà không dám kêu lên. Tử kỳ lân cắn một phát ngập đến tận xương cánh tay,

nếu cần thiết, nó cũng không ngại ngần gì cắn đứt luôn xương chân của y. Sở dĩ nó vẫn chưa

giết Đường Thọ, là vì Trác Mộc Cường Ba dùng ánh mắt và dấu tay nói với nó: “Xin ngài tạm

thời giữ lại mạng hắn, Vương, tôi còn chút chuyện muốn hỏi hắn.”

Cánh tay run rẩy của Đường Thọ cuối cùng cũng lần được bên trong túi áo, y… không ngờ

lại lấy ra một tấm ảnh, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đây.”

Trác Mộc Cường Ba giật lấy tấm ảnh, còn mờ hơn cả tấm chụp Tử kỳ lân, có vẻ như được

chụp ở một khu phố đông đúc, không biết ở Trung Quốc hay nước ngoài, một cô gái trẻ tóc

ngắn, hình như mặc áo khoác dày có lông, đeo túi chéo màu nâu, không cầm ô, đang rảo bước

đi dưới mưa. Tấm ảnh chỉ chụp phía sau cô gái, phong cảnh bên đường và bóng lưng cô gái

đều nhập nhòe, dường như nước mưa đã làm ướt ống kính. Nhìn tấm ảnh này, Trác Mộc

Cường Ba không thể phán đoán bóng lưng này thuộc về ai, gã chất vấn: “Thế này là thế nào?”

Đường Thọ cười gượng nói: “Em gái anh. Tôi… tôi không dám tiến lại quá gần để chụp

trộm. Giờ đây, em gái anh đã trở thành một nhân vật mà tôi chỉ nhìn từ phía xa cũng run lên sợ

hãi rồi.”

“Mày nói gì?”

“Anh đừng quên tôi đến năm mười một tuổi mới bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn tìm đến, còn em

gái anh đã bị bắt có từ năm bảy tuổi. Bảy tuổi đấy, cô ta đã trở thành một tồn tại cực kỳ mạnh

mẽ và đáng sợ. Anh vẫn còn muốn tìm cô ta chứ?” Mặt mũi Đường Thọ dính đầy bùn đất, khi

cười cũng không còn phong độ ngời ngời như trước nữa.

Trác Mộc Cường Ba chất vấn: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, rốt cuộc là thứ gì vậy?”

“Ha ha, tôi chỉ có thể cho anh biết, bọn họ là những kẻ mạnh nhất và đáng sợ nhất trên thế

giới này, anh không thể tưởng tượng tổ chức ấy lớn mạnh đến chừng nào đâu. Người như tôi và

Merkin, ở đó chỉ là những tên tép riu không đáng để mắt. Anh đừng tưởng con chó này lợi hại

gì, nói không chừng, nó chỉ là một vật cưng của nhân vật lãnh đạo cấp cao trong tổ chức mà

thôi. Anh cũng đừng tưởng biết mấy nhóm trộm mộ chúng tôi là có thể hiểu được toàn bộ tổ

chức này. Anh không thể tưởng tượng được, không thể nào tưởng tượng được. Mười ba kỵ sĩ

bàn tròn là một con thú khổng lồ, còn chúng tôi, tất cả những nhóm trộm mộ chúng tôi gộp lại,

chẳng qua cũng chỉ là một trong vô số sợi xúc tu của con thú ấy mà thôi. Nhiệm vụ của chúng

tôi, chính là tìm kiếm những nền văn minh đã từng một độ huy hoàng rồi bị hủy diệt, khai quật

đào bới tìm ra nguyên nhân hủy diệt của những nền văn minh ấy, xem có gì thích hợp với nhân

loại ngày nay không. Còn bộ phận thu nạp em gái anh, chính là nanh vuốt của con ác thú

khổng lồ ấy, bọn họ phụ trách loại trừ mọi chướng ngại vật cản bước tiến của tổ chức. Hủy diệt

loài người, không phải là si tâm vọng tưởng của một mình tôi, mà đó, thực sự là mục tiêu của

Mười ba kỵ sĩ bàn tròn.”

Trác Mộc Cường Ba không nói một lời, Đường Thọ phỏng chừng đột nhiên nghĩ ra gì đó,

vội nói: “Chúng ta hợp tác, đúng, chỉ cần chúng ta hợp tác mở cái hộp đó ra, nắm giữ được vật

chất trong đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng không phải là đối thủ của tôi và anh. Tôi có mối

thâm thù với chúng, chúng đã giết chết ba mẹ tôi, bắt cóc tôi đi, anh không biết bọn chúng làm

gì với một đứa trẻ mười một tuổi đâu. Tôi đã tận mắt chứng kiến những hình phạt tàn khốc

nhất chỉ có ở chốn Địa ngục…”

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tại sao chúng lại bắt mày?”

Đường Thọ nhìn Trác Mộc Cường Ba như thể đang nhìn một tên ngốc, thoáng sau, thấy

Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc thực sự, y mới nói: “Còn không phải vì tín vật hay sao? Kỳ

thực, tôi là kẻ cuối cùng bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn nhận định là hậu duệ của Vu vương. Bọn họ

chỉ biết ba hậu duệ của Vu vương, mỗi người đều có một món tín vật, phải kết hợp ba món tín

vật này mới có thể đến được Shangri-la, nhưng không biết huyết thống của chúng ta cũng quan

trọng không kém. Bọn chúng vốn tưởng rằng cuốn Cổ kinh Ninh Mã của nhà anh chính là tín

vật, vì vậy mới…”

“Bắt cóc em gái tao?”

“Đúng!”

“Sao mày biết được? Tại sao bọn chúng không giết mày luôn?”

Đường Thọ gượng cười đáp: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn không bao giờ lãng phí tài nguyên,

những đứa trẻ bị chúng bắt cóc đều buộc phải tiếp nhận huấn luyện bí mật, anh không thể

không liều mạng tăng cường tri thức, liều mạng rèn luyện tăng cường sức mạnh, nếu không đạt

tiêu chuẩn, bọn chúng sẽ không giết anh, mà sẽ cho anh nếm mùi đủ thứ cực hình tàn khốc ở

chốn Địa ngục A tỳ. Gia tộc của tôi cũng giống gia tộc nhà anh, không biết từ đời nào đã quên

mất bí mật mà gia tộc mình vẫn bảo vệ, cũng không biết tín vật là thứ gì. Mười ba kỵ sĩ bàn

tròn không tìm được gì trên người tôi, liền đưa tôi đến trại huấn luyện, tiến hành tẩy não, để tôi

học cách phục tùng. Để sinh tồn, tôi đành giả bộ không biết gì, ra sức huấn luyện, cho đến khi

bắt đầu nhận nhiệm vụ, tôi mới dần dần điều tra, tìm hiểu được một số dấu vết, cuối cùng cũng

biết rốt cuộc bọn chúng muốn tìm kiếm thứ gì.”

“Vậy ngươi làm sao biết được một số bí mật mà ngay cả mười ba kỵ sỹ bàn tròn cũng không

biết?”

“Tuy người nhà tôi không biết, nhưng nếu đây là sự thật, vậy thì tổ tiên của tôi hẳn phải biết

được gì đó. Tôi vẫn lờ mờ nhớ được nhà cũ của mình ở đâu. Cha tôi từng nói, gia tộc chúng tôi

đã ở đây mấy trăm năm, vậy là tôi trở về nơi đó, đào hết các mộ phần xung quanh lên, ruốt

cuộc cũng phát hiện ra dấu vết. Trong một ngôi mộ, tôi phát hiện tổ tiên mình từ nơi đâu di cư

đến, tôi lại tới đó đào bới, sau khi đào hết mười mấy ngôi mộ, đầu mối cũng dần trở nên rõ

ràng hơn, sau cùng, tôi cũng biết được toàn bộ chân tướng. Sau này, để có được nhiều đầu mối

hơn, tôi liền xung phong đi tìm kiếm các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, để giành được sự

tín nhiệm của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, tôi thậm chí còn luộc em gái lên ăn thịt, đó là em gái

ruột của tôi đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn y với ánh mắt tởm lợm, tên này không nhận cha mẹ, lại ăn thịt em

gái, tự đào mồ quật mả của tổ tiên nhà mình lên, thử hỏi còn chuyện gì y không dám làm nữa

chứ, sao y có thể… Trác Mộc Cường Ba không kìm được hỏi: “Mày… mày không sợ chết rồi

bị đày xuống địa ngục sao?”

“Địa ngục là cái gì chứ?” Đường Thọ nói, “Trên thế gian này chẳng có địa ngục hay thiên

đường, chẳng có luân hồi, cũng chẳng có kiếp sau gì cả. Toàn là những trò gạt người mà thôi.

Con người sống thì mới có ý thức, chết rồi sẽ phân giải thành một đống vật chất vô cơ, chẳng

là gì cả. Người ta sống nhất định phải một tay che trời, đã chết rồi thì mặc xác hết thảy, quan

tâm làm gì.”

Trác Mộc Cường Ba thất vọng nhìn Đường Thọ, tên này không có tín ngưỡng, không có

đạo đức, không có lý trí, tư duy lại hết sức sáng sủa, tri thức phong phú, võ nghệ cao cường,

người như vậy mới là đáng sợ nhất. Đường Thọ lại nói: “Tôi đã nói nhiều như vậy rồi, sao hả?

Anh không cần suy nghĩ sao, Cường Ba thiếu gia? Hợp tác đi, chúng ta sẽ là chúa tể của thế

giới mới này, chúng ta chính là chân thần trên thế gian này, đám người kia sẽ chỉ biết thành

kính quỳ lạy chúng ta, bọn chúng sẽ thành đồ chơi của chúng ta, muốn thế nào thì làm thế ấy.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ lắc đầu, Đường Thọ đã hoàn toàn rơi vào ma chướng, không còn

thuốc chữa nữa rồi. Tử kỳ lân đứng bên cạnh nhìn bọn họ, ngáp một cái rõ to, dường như, Trác

Mộc Cường Ba và Đường Thọ nói chuyện lâu quá, khiến nó cũng mất cả hứng ăn thịt Đường

Thọ. Nó nhấc chân khỏi người Đường Thọ bỏ đi, nhưng những con sói khác vẫn giương mắt

nhìn chằm chằm vào y.

Từ sau khi cầm tấm ảnh kia, Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn giữ khoảng cách với Đường

Thọ, lúc này gã không tiến lên mà ngược lại còn lùi về sau, gương mặt lạnh như băng giá. Vô

số ý niệm xoay chuyển trong đầu Đường Thọ, y đột nhiên lớn tiếng nói: “Tôi nói thật đấy,

Merkin có thể chứng minh. Ngoài tôi, trên đời này không ai nhận ra em gái anh đâu, ai để ý

đến một đứa bé gái bảy tuổi lại mất đi giá trị lợi dụng chứ? Anh tưởng với sức của một mình

anh có thể khiêu chiến được Mười ba kỵ sĩ bàn tròn à? Không có tôi làm nội ứng, anh chẳng

thể làm được gì đâu, Merkin hoàn toàn không biết gì về các lãnh đạo cao cấp của Mười ba kỵ

sĩ bàn tròn, địa vị của hắn còn thấp hơn tôi nữa! Vả lại, ngoài tôi ra không ai có thể tìm được

cái hộp kia, không có cái hộp ấy, anh thậm chí còn không vượt qua được cửa ải thấp nhất của

bọn chúng nữa! Này, Trác Mộc Cường Ba, anh không nghe tôi nói à? Quay lại đây, quay lại

đây!”

Trác Mộc Cường Ba vẫn bước đi một cách kiên định, một bước, rồi lại một bước, càng lúc

càng đi xa Đường Thọ, gã thấp giọng nói: “Thì ra chỉ có mình mày mới tìm được chiếc hộp ấy,

tốt lắm, thế là tốt nhất rồi.” Vừa nãy, khi đến gần Đường Thọ, Sói Út vẫn luôn chắn trước mặt

gã, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba phải tránh Đường Thọ thật xa. Tuy rằng không

biết rốt cuộc là chuyện gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba cực kỳ tín nhiệm Sói Út. Lúc này, gã đã

lùi hơn hai mươi bước, dù trên người Đường Thọ có bom hẹn giờ thì cũng không thể gây hại gì

cho gã được nữa. Bây giờ, Sói Út mới đưa móng vuốt lên cậy bùn đất bịt mũi ra, dụi dụi vào

người Trác Mộc Cường Ba hít hà ngửi ngửi, rồi nhe răng nở nụ cười hân hoan.

Đường Thọ vẫn đang ở đằng xa gào hét, lũ sói đều ngoảnh đầu lại, nhìn con người đã dùng

sinh mạng ký kết hiệp ước với chúng, xem gã đã nghĩ ngợi xong chưa. Trác Mộc Cường Ba

cũng phản ứng lại, trước ánh mắt chăm chú của Merkin và lũ sói, gã đưa tay lên kết thành thủ

ấn. Từ khi học được thủ ấn này, gã vốn tưởng rằng mình sẽ không bao giờ dùng đến nó. Tất cả

chiến lang của bộ tộc Qua Ba dường như nhìn thấy những người bạn nhân loại của mình hơn

một nghìn năm trước, đang dùng bàn tay truyền đi thông điệp với bầy sói sát cánh chiến đấu

bên họ: “Xé xác nó ra!”

Ngay sau đó, Tử kỳ lân khẽ hú lên một tiếng, biểu thị sự công nhận của nó. Vận mệnh của

Đường Thọ cuối cùng bị người khác quyết định… vạn lang phân thây!

Tiếng kêu thảm thiết của Đường Thọ vang lên rồi tắt lịm, hơn vạn con sói cùng ào tới.

Những con đi đầu chia nhau đớp một miếng thịt trên người y rồi chạy đi thưởng thức, đợt tiếp

theo lại tràn lên. Cứ thế, thân thể Đường Thọ bị phân giải, nghiền nát thành những phân tử nhỏ

bé nhất. Đến khi đàn sói tản đi, trên trảng cỏ thậm chí không còn một khúc xương, rất nhiều

con sói không được chia phần, trong lòng ấm ức ngửa cổ hú vang, chuyển hướng nhìn về phía

Merkin.

Merkin không khỏi bị một phen kinh hồn bạt vía, y không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại đưa

ra mệnh lệnh ấy, cũng không ngờ chỉ một dấu hiệu bàn tay lại có thể khiến cả bầy sói cùng

nhau hành động. “Trác Mộc Cường Ba sẽ không ra tay với mình chứ? Ai mà biết được, chuyện

mình đã gây cho hắn trong quá khứ, và những chuyện đã làm cho hắn trong hiện tại, hắn sẽ coi

trọng cái nào hơn đây?”

Trác Mộc Cường Ba khó nhọc bước đến bên cạnh Merkin, ngăn đàn sói lại. Chỉ thấy mấy

con sói già bộ dạng hung dữ, nhìn chằm chằm vào Merkin nhe hàm răng nhọn hoắt. Gã nhìn

theo ánh mắt của lũ sói, không khỏi ngẩn người, hóa ra ở hông Merkin đeo một sợi thắt lưng

dệt bằng tơ vàng, khảm đầy bảo thạch quý giá, rõ ràng lúc chiến đấu với Đường Thọ bị rạch

toác quần áo mới lộ ra ngoài. Lúc này, y đang căng thẳng quan sát bầy sói, bản thân hoàn toàn

không nhận ra điều đó. Chẳng trách, lũ sói cứ gầm lên với y như thế. Chỉ mấy cái bát, cái chậu

của người Qua Ba để lại mà đàn sói ở đây đã coi trọng như sinh mạng, huống hồ, trên người

Merkin lại toàn những thứ quý giá nhất!

“Lấy ra đi.” Trác Mộc Cường Ba hất hất đầu về phía Merkin, chỉ vào chỗ thắt lưng y.

Merkin giật mình, cảm giác cực kỳ bất nhẫn, tựa như bị ai cắt mất một miếng thịt vậy. Nhưng

tình thế bức ép, y không thể không cởi thắt lưng, bỏ hết những thứ màu vàng, sáng lấp lánh

trên người xuống. Merkin lúc này, trái ngược hẳn với tác phong nhanh nhẹn thường ngày, động

tác cực kỳ chậm rãi, mỗi khi lấy ra một món lại ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt

cầu khẩn, chẳng khác nào lão già bệnh nặng buộc lòng phải ném bộ ván quan tài của mình

xuống nước vậy. Trác Mộc Cường Ba chỉ dùng ánh mắt nghiêm nghị sắc lạnh cảnh cáo y, ông

mà không lấy ra món đồ cuối cùng không thuộc về mình, lũ sói sẽ không bỏ qua cho đâu.

Đồ vật ném xuống đất mỗi lúc một nhiều thêm, Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, gã

thực sự không thể ngờ trên người Merkin lại giấu lắm thứ như thế, còn che đậy rất khéo nữa.

Chắc chắn, lúc từ đại điện chạy ra, y đã thỏa sức vơ vét một phen. Đường Thọ không có mặt,

bọn lính đánh thuê đâu phải là đối thủ của y. Chẳng trách khi chiến đấu với Đường Thọ vừa

nãy, y trúng nhiều đòn như vậy mà tinh thần vẫn tốt hơn gã nhiều, chắc hẳn là do bên trong

mặc áo giáp vàng rồi!

Merkin nhịn đau lột hết túi quần túi áo ra ngoài, xòe hai bàn tay không, muốn khóc mà

không có nước mắt: “Hết rồi, thật sự là hết rồi!” Bấy giờ, đàn sói mới thôi không hú lên nữa.

“Không thể cho tôi dù chỉ một món sao?” Merkin đờ đẫn nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẫn

chưa chịu buông bỏ.

Trác Mộc Cường Ba lại gần Merkin, vỗ vỗ vai y nói: “Ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”

Merkin thẫn thờ như phỗng đá, lặp lại: “Phải, ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, ngước nhìn vạt sáng cuối cùng của vầng dương đã

khuất sau núi, lẩm bẩm nói: “Ông biết không? Vừa mới đây thôi, tôi đột nhiên hiểu ra một

chuyện.”

“Cái gì?”

“Chính là nguyên nhân tại sao bầy sói truy sát Ba Tang và đồng bọn của anh ta, tại sao tiêu

diệt hết người Qua Ba, vả lại vô số thôn làng ở tầng bình đài thứ hai cũng bị tiêu diệt nốt. Tôi

nghĩ, tất cả chúng ta đều đã sai lầm, bọn chúng không phải những con sói tàn bạo khát máu,

hành vi của chúng là có mục đích đấy.”

“Mục đích gì?”

“Tôi nhớ Đường Thọ từng nói, Đạo quân Ánh sáng đã tìm ra một phương pháp, có thể biết

trước người nào sắp sửa phát bệnh, rồi cách ly bọn họ ra.”

“Ý anh là…”

“Đúng thế, khứu giác của lũ sói rất nhạy bén, tôi nghĩ, chính nhờ có chúng, Đạo quân Ánh

sáng mới phát hiện được những người sắp phát bệnh. Chỉ là, đến cuối cùng, Đạo quân Ánh

sáng cũng không tránh khỏi bị tiêu diệt toàn bộ. Vì vậy tôi nghĩ, khi biết mình sẽ hoàn toàn

biến mất, bọn họ đã dạy cho lũ sói này một bản lĩnh khác, hoặc giả có thể nói, họ đã trao cho

chúng một sứ mệnh mới.”

“Thanh tẩy!”

“Đúng, chính là tiến hành thanh tẩy một cách triệt để trước khi nguồn bệnh kịp lây lan rộng

rãi, tận hết khả năng làm giảm bớt nguy cơ lây nhiễm. Bất kể là bọn Ba Tang, hay người Qua

Ba, hay những thôn làng ở tầng bình đài thứ hai… trong những nhóm người này đều có người

đã đến tầng bình đài thứ ba. Tôi nghĩ, có thể bọn họ đã đến những thành trấn hoang phế ở

Shangri-la, hoặc giả đã chạm phải thứ gì đó ở đây mà bị truyền nhiễm thứ vật chất kia. Ba

Tang, Tây Mễ và cả người điên ở Mông Hà kia sở dĩ sống sót, không phải vì bọn họ đầu hàng

bầy sói, hoặc bán đứng đồng đội, hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác, mà chỉ vì bọn họ không

bị lây nhiễm thứ vật chất khủng khiếp kia mà thôi.”

Merkin rốt cuộc đã hiểu ra: “Vậy vừa nãy anh hạ lệnh tấn công Đường Thọ…”

“Đúng, dù tôi không ra lệnh, đàn sói cũng sẽ không bỏ qua cho y. Vừa nãy tôi cũng lấy làm

lạ, Đường Thọ đã bị Tử kỳ lân đánh bại, dường như cũng không còn năng lực tấn công nữa, tại

sao Sói Út vẫn ngăn cản tôi đến gần y? Về sau tôi mới hiểu, Đường Thọ chắc chắn đã bị cảm

nhiễm loại vật chất đó rồi, còn chuyện hắn bị nhiễm từ lúc nào, bị nhiễm ở đâu thì chúng ta

không thể biết được. Phải rồi, giờ có thể nói cho tôi biết Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc là như

thế nào hay không?

“À… được thôi, chỉ là những điều tôi biết, có lẽ không được nhiều như anh mong muốn

đâu. Tôi chỉ biết một số khái niệm đơn giản và cơ bản nhất mà thôi. Nếu hôm nay Đường Thọ

không nói ra, tôi vẫn còn tưởng, tất cả các nhóm trộm mộ chúng tôi tập hợp lại, chính là toàn

bộ tổ chức của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rồi, thật không ngờ lại chỉ là một phân nhánh nhỏ.”

“Tôi là nhân viên cấp bậc thấp nhất, chỉ biết người trong tổ chức được phân loại theo các

đẳng cấp khác nhau. Một nhóm có mười ba người, vì chuyên đi trộm mộ, nên trong nhóm sẽ có

một hai nhà giám định, chính là những người có hiểu biết về văn vật. Vì phải băng qua biên

giới các nước, trong nhóm cần có một hai người rất hiểu biết về lực lượng quân sự của các

nước, kỹ thuật chiến đấu và sử dụng vũ khí cũng phải thuộc hàng chuyên gia, trong tổ chức,

những người này được gọi là lính đặc chủng. Cả hai yêu cầu trên, đều do tôi kiêm nhiệm. Thực

ra, trong nội bộ tổ chức, có rất nhiều người không chỉ tinh thông một ngón nghề, chẳng hạn

như Đường Thọ vừa tinh thông kỹ thuật chiến đấu vừa biết thuật thao thú, còn người tên Sean

trong đội các anh, nếu tôi không đoán nhầm, có lẽ anh ta vừa biết thuật thao thú, vừa có tri thức

về phương diện thực vật. Ngoài ra, vì thường xuyên phải ra vào rừng rậm nguyên thủy, cần

phải có hiểu biết nhất định đối với các loài động vật, trong một nhóm cũng cần có một hai

Thao thú sư. Thực ngữ giả cũng vậy, chúng tôi cần người hiểu biết về thực vật. Vì rất nhiều mộ

cổ có cơ quan tự hủy hoặc các loại cạm bẫy công kích, thế nên trong nhóm còn cần một kiến

trúc sư. Thêm nữa, vì không phải lần nào cũng thuận buồm xuôi gió, thường hay có người bị

thương, vậy nên bác sĩ cũng không thể thiếu được. Đại khái, một nhóm thường có đủ sáu chức

nghiệp tôi vừa nêu trên, mỗi chức nghiệp lại dựa theo trình độ để phân ra thành các đẳng cấp

khác nhau…”

“Lính đặc chủng chúng tôi rất đơn giản, dựa theo kỹ xảo chiến đấu và trình độ sử dụng vũ

khí để chia thành các cấp: Lính, Hạ sĩ quan, Sĩ quan, và Tướng quân. Còn Thao thú sư đại khái

chia thành Thao thú sư, Thao trùng sư, Cổ sư, Vu sư, còn cả Tế sư nữa. Nhìn tên là biết, Thao

thú sư có hiểu biết tương đối về tập tính sinh hoạt của đại đa số các động vật lớn, có thể dùng

nhiều cách khác nhau để điều khiển những động vật ấy làm theo ý đồ của mình; khi bọn họ đã

có kiến thức tương đối về động vật, liền tiếp tục nghiên cứu về côn trùng, tuy nhỏ hơn những

động vật ấy rất nhiều, song chủng loại lại đông hơn gấp bội, trở thành Thao trùng sư. Sau khi

tìm hiểu về côn trùng, đến mức độ nhất định, lại tiếp tục nghiên cứu nấm khuẩn hoặc các sinh

vật bào tử, trở thành Cổ sư, còn hai loại cấp bậc về sau như thế nào thì tôi cũng không rõ, chắc

là Vu sư thì tìm hiểu về những vi khuẩn vi trùng, còn Tế sư hẳn đã nghiên cứu đến các loại

virus và bệnh độc rồi. Bác sĩ được phân biệt dựa theo thông lệ quốc tế, lần lượt là y sĩ, bác sĩ,

bác sĩ chủ trị, phó chủ nhiệm và chủ nhiệm, tóm lại là bọn họ rất mạnh, có thể tiến hành cấy

ghép các bộ phận ở nơi hoang dã, hoặc thay đổi tứ chi của con người bằng của động vật…”

“Một nhóm mười ba người, đội trưởng do người có năng lực từ cấp hai trở lên đảm nhiệm,

có khi gặp phải những khu mộ lớn, từ ba đến năm nhóm sẽ hợp lại thành một trung đội, trung

đội trưởng thường do người có năng lực từ cấp ba đến cấp 4 đảm nhiệm, khi gặp khu mộ quy

mô siêu lớn, sẽ có ba bốn trung đội hợp lại thành đại đội, đại đội trưởng phải là người có năng

lực cấp năm…”

“Sự thực thì, dù là Tướng quân hay Tế sư, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn này cũng

chỉ là người làm công mà thôi, họ thường được gọi là những người làm công cao cấp. Trong

nội bộ Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, họ dùng các danh xưng như Hội viên, Hội trưởng, Trưởng

phòng… để phân biệt chức vị, tôi nghe nói từng có một vị Tướng quân muốn khiêu chiến

quyền uy của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, kết quả nội bộ chỉ tùy tiện gọi ra một Hội viên, dùng hai

ba chiêu đã đánh cho kẻ kia tơi bời rồi…”

“Còn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, đó là những tồn tại tối cao mà mấy kẻ thân phận như chúng

tôi có thể biết được, nhưng rốt cuộc đó là tên gọi chung của một nhóm người hay là tên của tổ

chức này thì không ai biết cả. Nếu là một nhóm người, đó là một người hay mười ba người, họ

là nam hay nữ, cao thấp gầy béo thế nào, tôi đều không biết, cũng không biết có còn ai ở cấp

bậc cao hơn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn hay không…”

Dưới ánh tà dương, hai người cùng đàn sói chầm chậm đi về phía rừng sâu, đột nhiên sau

lưng vang lên một tiếng nổ lớn, hai người ngạc nhiên ngoảnh đầu, chỉ thấy mặt hồ rộng lớn

phun lên một cột nước lớn, khéo phải cao đến hơn trăm mét. Toàn bộ tầng bình đài thứ ba rung

lên, dư chấn lan đi khắp xung quanh như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Trác Mộc Cường

Ba mà Merkin đưa mắt nhìn nhau, thầm đoán có lẽ trong Bạc Ba La thần miếu đã xảy ra

chuyện gì đó, nhưng lúc này họ cũng chẳng còn tâm trí đâu mà tra xét kỹ càng làm gì nữa.

Họ không hề biết, trên mặt hồ dập dềnh kia, đã có thêm một cái tủ đá lớn chưa mở ra, trồi

lên thụp xuống theo làn sóng, từ từ cập vào mép nước.

Chấn động lan đến tầng bình đài thứ hai, trong một căn nhà nhỏ bằng đá, một người đàn ông

toàn thân quấn đầy băng trắng cẩn thận đỡ một cô gái cũng toàn thân quấn đầy băng trắng bước

ra ngoài, hai người tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, cùng ngẩng đầu lên nhìn tầng bình đài thứ

ba mờ mịt trong sương, những dân làng khác cũng lần lượt chạy ra, quỳ rạp xuống lạy sì sụp.

“Tầng bình đài thứ ba ruốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy người Cường Ba thiếu gia chắc

đã đến được Bạc Ba La thần miếu rồi chứ nhỉ? Nhất định phải bình an vô sự nhé, Cường Ba

thiếu gia!” Người đàn ông kia thầm nhủ với lòng, ngoảnh lại nhìn cô gái bên cạnh mình. Mặc

dù hai người không thể nhìn thấy gương mặt nhau, nhưng người này đều nhận ra sự khích lệ và

ấm áp trong ánh mắt người kia, hai bàn tay, càng nắm lại chặt hơn.

Dư chấn tiếp tục lan đến tầng bình đài phía dưới, cả mặt biển cũng bắt đầu cuộn lên những

đợt sóng. Ngồi trên con thuyền nhỏ, Soares và Sasaki cảm nhận được một cách rõ rệt sự biến

động của mặt biển, liền sau đó, trên không trung vang lên những tiếng ì ùng như sấm mãi

không dứt. Sasaki ngẩng đầu lên nói: “Xem ra, trên đó đã xảy ra biến cố gì rất lớn, mặt biển

dưới này cũng chấn động nữa.”

Soares cũng ngẩng đầu nhìn lên, bọn họ chỉ thấy một vùng sương mù mờ mờ, thầm nói:

“Trác Mộc Cường Ba, Merkin, các người đã đến được thần miếu chưa? Thành công rồi à?”

Nhạc Dương nằm trong thuyền dường như cũng cảm ứng được chấn động ấy, dưới mí mắt

nhắm nghiền, tròng mắt khẽ chuyển động.

Sasaki nói: “Được rồi, không liên quan đến chúng ta, chúng ta đi thôi, trở về thôi.”

Một con thuyền nhỏ, hướng về phía bờ bên kia, tiến vào bóng đêm vô cùng vô tận.

Ở xa xa về phía Đông của dãy núi khổng lồ ấy, thành phố Thượng Hải, trong một căn nhà

bình thường, trước một ngọn đèn, một chiếc máy tính, có một ông già đang ngồi, đầu mẩu

thuốc lá rơi đầy dưới đât.

Giáo sư Phương Tân chau mày nhìn bức thư điện tử vừa nhận được, bức thư này do một

người bạn nước ngoài gửi đến, bức thư viết: “Tôi giúp anh điều tra về người tên Hahn đó rồi,

đoán xem hắn ta làm gì nào? Hắn ta là thành viên của Ủy ban Dị năng dưới trướng Himmler,

về sau quân Đức chiến bại, tên này bị quân Mỹ bắt đi. Anh xem tấm ảnh này đi, đây là tờ Thời

báo Washington năm 1945, người bên phải chính là Hahn, lúc đó bọn họ đang được cơ quan

truyền thông phỏng vấn, anh biết hắn ta nói gì không: “Bom nguyên tử là cái quái gì, chúng tôi

đang nghiên cứu thứ còn lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần!” Anh biết hắn sang Mỹ đảm

nhiệm công việc nghiên cứu gì không? Vũ khí sinh hóa đấy. Sau đó, tôi lại lần theo một đầu

mối khác, rốt cuộc cũng tìm hiểu được một số việc, thì ra Himmler kiếm được ở Tây Tạng một

cái hộp, ban đầu đám người Hahn chính là nghiên cứu cái hộp này, nghe nói các trại tập trung,

rồi các thí nghiệm độc ác trên cơ thể người sau đó, đều có liên quan đến cái hộp này. Tôi

không biết rốt cuộc bọn họ muốn nghiên cứu vũ khí sinh hóa gì, làm sao lại lợi hại hơn bom

nguyên tử gấp trăm lần được. Thêm một chi tiết nữa là Hitler từng tàng trữ rất nhiều máu của

chính ông ta, tôi đoán, có thể ông ta muốn chế tạo huyết thanh hoặc vác xin gì đó…”

Thần sắc giáo sư Phương Tân càng lúc càng thêm nặng nề, ông dụi tắt điếu thuốc cuối cùng,

chíu chặt hai hàng lông mày, trong lòng thầm nhủ: “Chúng ta … rốt cuộc đang tìm cái gì vậy,

Cường Ba…”

Bên cạnh bức thư điện tử ấy, còn có hai phần tư liệu giáo sư Phương Tân đang mở ra xem,

cửa sổ đặt cạnh nhau, bên trái là “Lời tiên tri ngày tận thế của người Maya: tính toán theo lịch

của người Maya, năm 2012 công nguyên, loài người sẽ diệt vong, người sống tàn sát lẫn nhau,

nhưng kẻ còn lại sẽ tự sát mà chết…” bên phải là, “Lời tiên tri ngày tận thế của Shangri-la: tính

toán theo lịch của Đại Thiên Luân Kinh, khoảng năm 2030, Cách Tất Nhĩ Vương vĩ đại sẽ dẫn

theo đội quân Hoàng Kim vô địch của ngài trở lại nhân gian, đội quân Hoàng kim đi tới đâu, sẽ

thanh tẩy toàn bộ tới đó, tất cả bắt đầu lại từ đầu…”

Ở nơi xa hơn nữa, trong rừng rậm châu Mỹ cách Thượng Hải cả một Thái Bình Dương, một

đứa bé trai khỏe mạnh da ngăm ngăm đen đang tiếp nhận nghi thức đầy tuổi dưới dự chứng

kiến của mọi người trong bộ tộc. Tù trưởng đích thân vẽ lên má đứa bé hai vành trăng khuyết

đại biểu cho hình tượng răng sói, nhưng ông vừa buông tay, đứa bé đã cuống cuồng chạy vụt

đi, bước chân loạng choạng hướng về phía trước. Nó khát khao thoát ra khỏi mọi sự ước thúc,

nóng lòng chạy về phía rừng già, ôm lấy cả đất trời bao la.

VĨ THANH

Nhiều ngày sau đó, trên khu vực núi tuyết phủ mênh mông của dãy Himalaya, xuất hiện hai

bóng người trong bộ da thú, một trước một sau, lầm lũi đội gió tuyết bước đi.

Nơi này sương mù mờ mịt che kín, gió Tây cuồng bạo rít gào, phát ra những âm thanh chói

tai, từng đụn tuyết lớn bị gió hất tung lên, hóa thành mù tuyết bay khắp trời, quật vào mặt như

những lưỡi dao băng sắc bén.

Từng đụn tuyết trắng xóa liên miên phủ kín hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, phóng tầm

mắt nhìn ra xa, trông như những bậc thang dẫn lên thiên đình, cứ cao dần lên mãi.

“Con bà nó, gió to thật.” Merkin dùng mũ da bịt kín mặt mũi nheo nheo đôi mắt xanh, quan

sát những ngọn núi cao chập trùng xa xa, y vừa cất tiếng, trong miệng liền phun ra một đám

sương trắng, hòa vào sương tuyết mù mịt.

“Nói ít thôi, lên đường nào.” Trác Mộc Cường Ba nghiêng người một góc bốn mươi lăm độ

so với núi tuyết, ủng da thú bám chặt vào núi đá dưới chân. “Cường Ba, tôi bảo này, nếu chúng

ta sống vượt qua núi tuyết này, bước tiếp theo anh định làm gì?”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, rồi nghiêm túc trả lời: “Tôi sẽ đến chùa Sắc Lạp,

tìm pháp sư Đan Châu, tiến hành huấn luyện Mật tu một cách chính thống, sau đó, đi tìm em

gái tôi!” Khi trả lời câu hỏi của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy quyển kinh thư

giắt ở hông mình nặng trịch. Đó là cuối kinh ngày trước pháp sư Á La giao cho gã, sau khi

xong xuôi mọi sự, gã giở ra xem mới phát hiện đó chẳng phải Thánh điển mà Mật tu giả vẫn

khổ sở kiếm tìm, mà là một bộ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng.

“A ..” Merkin phun ra một mảng khí trắng, “anh… anh vẫn muốn tìm em gái à? Anh có biết

mình sẽ phải đối địch với thứ gì không? Anh muốn khiêu chiến tổ chức lớn nhất, đáng sợ nhất

thế giới sao? Bọn họ có lẽ còn lớn hơn hẳn các đảng phái chính trị, nói không chừng, bọn họ

còn khống chế trong tay mấy vương quốc nhỏ, thậm chí, còn khả năng ngay cả nước siêu

cường như Mỹ cũng bị bọn họ lũng đoạn đấy. Vả lại… em gái anh… em gái anh…”

“Không, tôi tin em gái tôi, dù nó trải qua chuyện gì, nó vẫn luôn là em gái tôi, tôi sẽ cho nó

biết, người thân của nó chưa bao giờ bỏ rơi nó.” Trác Mộc Cường Ba nói bằng giọng kiên định

quyết liệt.

“Nhưng, đây biết đâu lại là một cái bẫy của Đường Thọ thì sao?” Trác Mộc Cường Ba lấy

tấm ảnh ra, bóng lưng mơ hồ kia sau nhiều ngày chăm chú nhìn ngắm đã trở nên thân thiết vô

cùng, gã hết sức cẩn thận cất vào sát trong người, nói: “Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm Chúa

Cứu Thế hay gì cả, nhưng là một con người, trong cuộc đời này cũng phải có một số chuyện

cần kiên trì, chúng ta gọi thứ ấy là tín nhiệm. Đường Thọ đích thực đã nhìn thấu nhược điểm

của tôi, dù đấy có là núi đao biển lửa, tôi cũng sẽ không hề do dự mà nhảy xuống.”

Nhất thời không ai nói gì, họ lại leo thêm một đoạn nữa, Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông thì

sao? Có dự định gì không?”

“Tôi à?” Merkin ngần ngừ nói, “Không biết, có lẽ, tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, tôi sẽ thử tìm

Thành Phố Vàng của người Inca, tôi đã quen với cuộc sống này rồi, mỗi ngày đều vật lộn trên

lằn ranh sinh tử, toàn bộ cuộc sống của tôi chỉ có thế. Phải rồi, người đó, anh có định đi tìm

ông ta không? Người đó rất có khả năng chính là một nhân vật cấp cao trong Mười ba kỵ sĩ bàn

tròn đấy.”

Trác Mộc Cường Ba bất giác luồn tay vào trong bọc, bên trong có một tấm thẻ nhỏ bằng

thép, xâu vào một dãy kim loại không gỉ. Giã nhớ lại lúc thương thế hai người vừa khỏi, đang

chuẩn bị rời khỏi vương quốc loài sói. Sói Út truyền tin A U Chang sắp ra đi cho toàn vương

quốc, không ngờ, Vương giả của loài sói lại đích thân tiễn bọn gã lên đường. Phải biết rằng,

trong vương quốc sói, địa vị của Trác Mộc Cường Ba chẳng qua chỉ ngang với một con sói

bình thường, còn Merkin thì thậm chí còn thấp hơn một bậc.

Lũ sói lùi lại nhường đường, Tử kỳ lân dẫn theo Trác Mộc Cường Ba lên một vùng đất cao.

Ở đó, Tử kỳ lân ngồi xuống, giở chân phải phía trước của nó lên. Trong ánh mắt Tử kỳ lân,

Trác Mộc Cường Ba nhận ra hình như nó muốn bắt tay với mình. Gã nơm nớp bất an, đặt bàn

tay lên chân Tử kỳ lân. Nó khe khẽ lắc tay mấy cái, động tác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba

không khỏi có cảm giác rất giống những người đi đường bắt tay con chó nhỏ, vừa khẽ lắc lắc,

vừa luôn miệng nói: “Xin chào, xin chào, xin chào…”

Kế đó, Tử kỳ lân kéo tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên cổ mình. Lông cổ Tử kỳ lân xòe ra

như lông bờm sư tử đực, bàn tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên đó, cảm giác trơn mượt như vuốt

lên một tấm khăn lụa. Gã chưa từng có ý nghĩ, vị Vương giả cao quý của loài sói lại cho phép

mình chạm vào cơ thể nó. Nhưng đồng thời, gã cũng biết, Tử kỳ lân tuyệt đối không phải muốn

mình vuốt ve nó, lẽ nào nó muốn nói gì? Quả nhiên, Tử kỳ lân nhắc chân phải phía trước lên,

ấn bàn tay gã vào sâu trong đám lông bờm, bàn tay Trác Mộc Cường Ba cảm nhận thân nhiệt

nồng ấm của Tử kỳ lân, đột nhiên, gã cảm thấy thứ gì đó ở sát da, giống như những hạt kim

loại rất nhỏ.

Tay Trác Mộc Cường Ba lần theo hạt kim loại đó, dần dần phát hiện, đó là một chuỗi hạt

kim loại. Trên cổ Tử kỳ lân, đeo một chuỗi hạt kim loại ư? Chỉ nghe Tử kỳ lân thấp giọng gầm

gừ ra lệnh: “Lấy xuống.” Trác Mộc Cường Ba run run tay, không hiểu vì kích động hay vì

nguyên do nào khác, gã phải tốn kha khá thời gian mới hoàn thành được nhiệm vụ ấy. Gỡ được

chuỗi hạt kim loại ra xem, mới thấy bên dưới còn đeo một tấm thẻ kim loại của quân nhân, thi

thoảng vẫn có thể bắt gặp những tấm thẻ như vậy ở tầng bình đài thứ ba này. Chuỗi hạt kim

loại kia, cũng là sợi dây để xâu tấm thẻ, nhưng được người ta nối dài ra, có lẽ phải do mười

mấy sợi nối lại với nhau mới dài như thế. Tấm thẻ kim loại đã bị mài phẳng, sau đó dùng thứ gì

đó khắc lên trên mấy chữ Latinh xiên xẹo. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin, trố mắt

nhìn hàng chữ đó, đọc lên thành tiếng: “Bone!”

Ánh mắt Tử kỳ lân đầy vẻ hân hoan, thậm chí còn khe khẽ phe phẩy cái đuôi. Trác Mộc

Cường Ba suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ, con Tử kỳ lân này, không ngờ lại có… chủ nhân!

Gã dĩ nhiên hiểu được, Tử kỳ lân tuyệt đối không bao giờ vẫy đuôi với mình, chẳng qua, là nó

đang tự hào với cái tên ấy, cái tên nó được chủ nhân ban tặng. Trong hiểu biết của Trác Mộc

Cường Ba, con Tử kỳ lân này đã là tồn tại mạnh mẽ vô địch rồi, vậy thì chủ nhân của nó, sẽ

phải lớn mạnh đến chừng nào chứ?

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tấm thẻ kim loại ấy trong lòng bàn tay, cất tiếng hỏi: “Ngài

muốn tôi đi tìm ông ấy, nói với ông ấy, ngài sống ở đây rất tốt, rất nhớ ông ấy? Ngài… đợi ông

ấy trở về?”

Tử kỳ lân khe khẽ gật đầu, rồi ngửa cổ, hướng về phía ngoài rặng núi tuyết, phát ra một

tiếng hú thấp trầm. Trác Mộc Cường Ba biết, đây là tiếng hú dài biểu đạt lòng nhớ nhung quê

hương của loài sói, âm thanh du dương trầm đục, tràn đầy hoài niệm…

Một trận gió lạnh ùa tới, kéo Trác Mộc Cường Ba ra khỏi hồi ức, gã nắm chặt tấm thẻ đó,

nói: “Chuyện này càng không có đầu mối gì, tùy duyên thôi.”

Sâu trong đáy lòng Merkin, vẫn còn một ý nghĩ khác. “Nếu thực sự có thể sống sót, tìm,

thống trị thế giới, đề nghị này cũng không tệ! Đường Thọ, việc ngươi chưa hoàn thành ấy, để

ta thay ngươi làm vậy!” Nghĩ đoạn, y ngoảnh sang Trác Mộc Cường Ba bên cạnh, cười cười.

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thoáng hiện lên nụ cười ngây thơ thuần khiết của em gái,

những đoạn không thể xóa nhòa trong ký ức, gã ngẩng đầu nhìn về phía chân trời, đường nét

của những ngọn núi nhấp nhô dường như tạo thành một cái đầu sói khổng lồ. Gã lại nhớ lúc

trước khi rời khỏi Shangri-la, Sói Hai, Sói Út và bạn đời của nó cùng tiễn mình một đoạn xa,

rồi vẫn đứng đó ngẩng đầu nhìn theo bóng lưng mình một hồi lâu.

Bọn họ khó nhọc leo qua một khe núi, phía trước gió tuyết ngợp trời, chỉ thấy một vùng

trắng xóa. Trác Mộc Cường Ba biết, vượt qua khe núi này, phía trước lại còn mấy ngọn núi

nữa, sau đấy còn những ngọn núi cao hơn, tất cả chẳng qua mới chỉ là sự khởi đầu, chặng

đường phía trước vẫn còn rất dài.

Dù sống sót ra khỏi vùng tuyết phủ này thì sao chứ? Phải đối phó với Mười ba kỵ sĩ bàn

tròn như thế nào? Em gái lớn lên mặt mũi như thế nào? Pháp sư Đan Châu có thu nhận gã hay

không? Phải ăn nói với thầy giáo như thế nào? Những nhân viên trong công ty nuôi luyện chó

ngao của gã thì sao? Giữa vùng mênh mang ấy, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như nghe thấy

cha mình đang cất tiếng trong làn gió: “Sự sống tồn tại vì cái gì? Con người tồn tại vì cái gì?

Là một con người, con sống vì cái gì?”

HẾT TRỌN BỘ

Chú thích:

(1) Chữ hồi: 回

(2) Thiên đàn: là đàn tế lớn nhất trong bốn đàn ở Bắc Kinh (Thiên đàn, Địa đàn, Nhật đàn,

Nguyệt đàn), nơi các hoàng đế triều Minh và Thanh làm lễ tế trời. Để biết thêm, xin tham khảo

tại địa chỉ: http://en.wikipedia.org/wiki/Temple of Heaven.

(3) Kháng đá: Một loại giường bên trên để nầm, bên dưới đặt bếp lò để sưởi.

(4) Minh mã: trong ngành mật mã học, nội dung có thể trực tiếp đọc được, nhìn thấy được

gọi là minh mã, nội dung có được sau khi xử lý minh mã, là mật mã.

(5) “Dẫu thiên binh vạn mã, ta cũng tiến lên”: Câu này trong sách Mạnh tử (Công Tôn Sửu).

Nguyên văn như sau: Tự phản nhi bất súc, tuy hạt khoan bác, ngô bất sủy yên? Tự phản nhi

súc, tuy nhiên vạn nhân, ngô vãng hĩ. Nguyên ý cả câu là: Tự mình suy xét. nếu thấy không có

đạo lý, thì phải rút lui; trái lại, nếu sau khi suy xét, thấy có lý lẽ, không hổ thẹn với lương tâm,

thì dù có thiên quân vạn mã, ta cũng dũng cảm tiến lên, quyết không chùn bước.

(6) Chỗ bảy tấc: Người ta cho rằng, vị trí bảy tấc tính từ đầu rắn trở xuống, là tim rắn, đánh

trúng có thể khiến con rắn chết ngay lập tức.

(7) Thú bộ, Lang bôn: Bước đi kiểu thú, chạy kiểu sói.

(8) Gần đây, có một chiếc bát gốm Nhữ đã được bán vơi sgias khoảng mười triệu đô la Mỹ.

(9) Chùa Pháp Môn ở tỉnh Thiểm Tây, được xây dựng vào cuối thời Đông Hán, phát tích

vào thời Bắc Ngụy, hưng thịnh từ thời Tùy Đường, được gọi là chùa của Hoàng gia. Trong

chùa có thờ Xá Lợi xương ngón tay của Thích Ca Mâu Ni, nên trở thành thánh địa Phật giáo

của cả nước Trung Quốc.

(10) Lò Việt mờ, tựa sương cuối thu. Đoạt lấy cả sắc biết của đỉnh núi cao.

(11) Khéo cát trắng sáng nhuộm nước xuân, khẽ xoay băng mỏng tô mây xanh.

(12) Lưu vân phi bộc: mây bay thác chảy

(13) Lăn lư dã cổn: con lừa lười lăn mình

(14) Sạn đạo: Đường làm bằng cọc gỗ lát ván men theo các vách núi, rìa vực.

(15) Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la: Mật giáo đã thiết lập hai Mạn đà

la: Thai tạng giới Mạn đà la và Kim cương giới Mạn đà la, có nguồn gốc xuất phát từ tư tưởng

của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Theo quan điểm tư tưởng của Phật giáo thì vũ

trụ gồm hai phần, một phần là nhân cách và phần kia là thế giới của nhân cách, là những pháp

sở chứng và thọ dụng của Phật. Hai Mạn đà la này là sự hội nhập giữa thụ tri và sở tri.

Thai tạng giới Mạn đà la (Garbhadhatu mandala) là yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt

tĩnh, mặt lý tính, như thai mẹ chứ đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện

đại bi tâm của Phật.

Kim cương giới Mạn đà la (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ

viên mãn, trí tuệ sở chứng của Phật. Ngũ Trí Như Lai là trọng tâm của Mạn đà la này. Bí tạng

ký viết: “Thai tạng là lý, Kim cương là trí.”

Phần lớn các Mạn đà la Phật giáo được vẽ, in hoặc thêu những mẫu hoa văn kỷ hà. Một

trong những loại Mạn đà la lớn thường bắt gặp là Mạn đà la bằng cát. Những Mạn đà la này

được tạo ra trong nhiều tuần lễ và sau đó lại được quét bỏ đi để nói lên tính vô thường của hiện

hữu. Ngoài ra, ở Tây Tạng còn có các Mạn đà la ba chiều giống như cung điện.

(16) Phi Thiên: Thiên thần

(17) Nam Truyền Ngũ Bộ kinh: Trong thời nguyên thủy của Phật giáo, các vị đệ tử Phật sau

khi nghe pháp, đã dùng hình thức kệ tụng để khẩu truyền cho nhau, và những gì được khẩu

truyền, đều y cứ vào trí nhớ. Nhưng, những vị đệ tử Phật, tùy căn cơ mà lãnh thọ giáo pháp của

Phật mỗi người mỗi khác, từ đó mà nảy sinh những tư tưởng không giống nhau. vậy, khi giáo

đoàn đã chính thức xác lập, thì việc chỉnh lý, thống nhất tất cả giáo thuyết của đức Phật,

nghiễm nhiên trở thành một nhu cầu bức thiết. Kết quả là, tất cả những lời dạy của đức Phật

trong suốt cuộc đời hóa độ, dần dần phát triển thành một loại hình thức văn học nhất định; cuối

cùng đã hình thành toàn bộ THÁNH ĐIỂN, được gọi là KINH A HÀM, tức KINH TẠNG

trong Ba Tạng.

Như vậy, Kinh A Hàm đã được truyền thừa từ giáo đoàn nguyên thủy; đến thời kỳ Phật giáo

bộ phái, nó lại được truyền thừa trong từng bộ phái. Các tài liệu hiện có cho thấy, vào thời đó,

ít ra thì Nam Phương Thượng Tọa bộ, Hữu bộ, Hóa Địa bộ, Pháp Tạng bộ, Đại Chúng bộ, Ẩm

Quang bộ và Kinh Lượng bộ, đều có kinh điển truyền thừa; nhưng cho đến ngày nay thì chỉ

thấy có kinh điển của Nam Phương Thượng Tọa bộ là được bảo tồn trọn vẹn; gồm có 5 bộ

kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ. Tất cả đều được viết

bằng chữ Pali, và được gọi là Năm Bộ Kinh Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ Bộ), cũng tức là

Năm Bộ Kinh A Hàm Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ A Hàm)

(Nguồn: quangduc.com)

(18) Bản dịch của Như Khanh

(19) Vô nhân vô ngã: Không có người mà cũng không có ta.

(20) Hương tượng (Gandhahastin): Theo luận Đại Tỳ Bà Sa, hương tượng là con voi đực

trong thời kỳ động dục, nách nó tỏa mùi thơm hăng nồng nên gọi là hương tượng; sức nó mạnh

bằng mười con voi thường.

(21) Hương tượng độ hà: Trong kinh Niết Bàn có từ ngữ “hương tượng độ hà”: Thỏ, ngựa,

hương tượng cùng vượt sông. Thỏ qua sông thì nổi, ngựa qua sông nhập nửa thân, còn hương

tượng chân đạp đến tận đáy sông. Kinh luận dùng hình ảnh này để tỷ dụ sự chứng đắc sâu cạn

khi nghe giáo pháp.

(22) Long tượng: Được dịch từ chữ Naga trong tiếng Sankrit. Thường chỉ một con voi

khổng lồ, hoặc dùng để chỉ sự dũng mãnh và đại lực của các vị đại Thánh, chư Bồ Tát hay chư

Phật.

(23) Tượng vương hành xứ hoa lạc hồng: Tượng vương đi tới đâu thì hoa rụng đỏ tới đó để

cung nghênh.

(24) Chữ chi: 之

(25) Hoa Dung đạo: một trò chơi cổ của Trung Quốc, gồm một khay vuông, và các hình

vuông hoặc chữ nhật bên trên có vẽ Tào Tháo, Trương Phi, Quan Vũ... xếp gần kín khay, chỉ

để ra một ô trống. Người chơi có nhiệm vụ lợi dụng ô trống này để dịch chuyển các hình nhân

vật sao cho Tào Tháo có thể đi từ vị trí cao nhất đến vị trí thấp nhất của khay. Trò này tương tự

như trò xếp hình vậy.

(26) Tranh quốc họa: Một họa pháp của hội họa Trung Quốc, dùng mực loãng hoặc màu

nhạt soa phủ lên tranh đã vẽ để tăng hiệu quả nghệ thuật.

(27) “Thanh minh thượng hà đồ” là tên của một số tác phẩm hội họa khổ rộng của Trung

Quốc, trong đó bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là bức tranh của họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ

đời nhà Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện

Kinh (tức khai phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật, trang phục, ngành

nghề, cá chi tiết kiến trúc, đường sá cũng được mô tả kỹ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện

tích rộng.

(28) Ma kính: Gương ma thuật.

(29) Hỏa thư ngân hoa: Cây lửa hoa bạc; ý chỉ cảnh đèn hoa rực rỡ.

(30) Người nông dân và con rắn, Đông Quách tiên sinh và con sói: Đây là hai câu chuyện

ngụ ngôn, đại ý rằng những người không phân biệt tốt xấu, cứu giúp kẻ gian vong ân bội nghĩa,

sẽ bị nó hãm hại.

Hai chuyện này đại để như sau:

Có người nông dân đi ra đồng trong lúc tiết trời lạnh lẽo, nhìn thấy một con rắn bị lạnh

cóng. Người này thương tình bèn bỏ con rắn vào trong ngực áo sưởi ấm. Con rắn được ủ ấm

tỉnh lại, liền cắn người nông dân một phát, khiến người này chết ngay tại chỗ.

Đông Quách tiên sinh là người thời Xuân Thu. Một lần đi qua núi, giữa đường gặp một con

sói bị thợ săn đuổi theo cầu xin cứu mạng. Đông Quách tiên sinh đồng ý giúp đỡ, cho con sói

trốn nhờ. Lúc thợ săn đi khuất, con sói liền quay lại định ăn thịt Đông Quách tiên sinh.

(31) Chữ nhi: 而

(32) Thâu quan: Ván cờ vây được chia thành ba giai đoạn, gọi là: bố cục, trung bàn hoặc

(trung bàn chiến) và thâu quan.

Bố cục

Đây là giai đoạn ra quân trong cờ vây, quyết định cả bộ mặt của ván cờ sau này. Phần lớn

trong khai cuộc, người ta tìm cách “án ngữ” vùng đất lớn trên bàn cờ bằng một đến hai quân

cờ; sau đó sẽ phát triển dần.

Trung bàn chiến

Ở phần này, chủ yếu hai bên tập trung vào việc tranh giành đất đai, bắt đầu tính tới các vùng

tranh chấp, tìm cách đặt quân như thế nào để hạn chế sự bành trướng của đối phương, chuẩn bị

vây bắt quân đối phương.

Hầu hết các ván cờ nổi tiếng đều nhờ kỹ năng điêu luyện của các kỳ thủ thể hiện trong giai

đoạn Trung bàn.

Thâu quan

Sau khi qua trung cuộc, các vùng lãnh thổ của cả hai đấu thủ tạm thời xác định, ít có khả

năng tạo ra những thay đổi lớn về tương quan thế lực của hai bên, việc hoàn chỉnh lãnh thổ chỉ

còn là những việc nhỏ chi tiết, đó chính là giai đoạn tàn cuộc gọi là Thâu quan. Các quân cờ

thường được sắp xếp lại để tạo thành những hình đơn giản, thuận tiện cho việc xác định lãnh

thổ và tính điểm. (Theo wikipedia)

(33) Phép thử thô bạo (Brutal force attack): Một phương pháp trong phá giải mật mã bằng

cách thử tất cả mọi chìa khóa có thể có.

(34) Chữ hồi: 回

(35) Xuyết thuật (缀缀): là một bộ sách toán thời Nam Bắc triều, tập hợp thành quả nghiên

cứu của hai cha con nhà toán học Tổ Xung Chi và Tổ Hằng. Cuốn sách này được cho là có nội

dung hết sức thâm ảo, đến nỗi “ người học không thể hiểu hết sự ảo diệu, vậy nên bỏ không

xem nữa” (Tùy Thư). Đến đời Đường, Xuyết thuật được liệt vào “Toán kinh thập thư”, trở

thành giáo trình toán học của Quốc Tử Giám, tương truyền bây giờ phải mất bốn năm mới học

được hết sách này. Xuyết thuật từng được truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản, nhưng đến thời

Bắc Tống thì bộ sách đã thất truyền.

(36) Xạ phúc: là một dạng trò chơi đoán vật. Những người học tập thuật chiêm bốc trong

Kinh Dịch thường chơi trò này để nâng cao năng lực chiêm đoán. Người chơi phải dùng các

cách thức bói toán để đoán xem vật được giấu bên trong lu hoặc vại đậy kín là gì.

(37) Đây là triết lý nhất đa tương dung (một và nhiều tương dung nhưng không tương đồng)

của Hoa Nghiêm Tông, nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà

vẫn không phá hoại cái tương riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp

sáng trong một gian nhà, ánh sáng của ngọn này ngọn kia hòa lẫn với nhau, nhưng mỗi ngọn

vẫn có ánh sáng của riêng mình.

(38) Thụ thể: là những protein biệt hóa để tiếp nhận các phân tử hóa học nội sinh (ligands)

hay ngoại sinh (thuốc, độc chất).

(39) Khay Mantra: hay còn gọi là Man Trát, là một loại pháp khí thường gặp trong Trạng

truyền Phật giáo, tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ thu nhỏ vào trong.

(40) Lục Mang tinh: Ngôi sao sáu cánh, còn gọi là ngôi sao David, hay ngôi sao Do Thái.

(41) Tất cả đều là pháp khí của phật giáo Tây Tạng.

(42) Trong tiếng Trung, âm đọc chữ Thomas rất giống với chữ Đường.

(43) Người quyết sách, cổ độc: Trong tiếng Trung, âm đọc của những từ này khá gần với

câu nói của Sean.

(44) Kham bố là trụ trì của chùa lạt ma, đồng thời cũng là một chức quan trong chính quyền

Phật giáo ở Tây Tạng xưa.

(45) Vị táng: Một hình thức chôn người chết, tương tự hỏa táng, thủy táng... Trong trường

hợp này, vị táng là chôn trong dạ dày (ăn thịt).

(46) Liệu pháp cocktail: Tên chính thức của liệu pháp này là HAART, viết tắt của Highly

Active Anti-Retroviral Therapy (Liệu pháp kháng retrovirus cực mạnh). Đây là liệu pháp sử

dụng kết hợp nhiều loại thuốc với nhau đã làm giảm mạnh số bệnh nhân chết vì AIDS ở các

nước phương Tây. Các chuyên gia coi liệu pháp HAART là một trong số nhiều yếu tố làm tỷ lệ

tử vong do AIDS ở Mỹ năm 1997 giảm 47%. Năm 1997, lần đầu tiên kể từ năm 1990, AIDS

rời khỏi danh sách 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Mỹ, từ thứ 8 tụt xuống thứ 14. Đặc

tính quan trọng nhất của HARRT là khả năng phá vỡ HIV tại những giai đoạn khác nhau trong

quá trình sao chép của virus.

(47) Prion (viết tắt của proteinaceous infectious particie) là phân tử protein và không chứa

một loại axit nucleic nào hoặc nếu có thì cũng quá ngắn để mã hóa bất kỳ một protein nào mà

prion có. Trong cơ thể bình thường có thể có sẵn prion nhưng chúng không gây bệnh. Trong

một điều kiện nào đó prion có thể thay đổi cấu trúc và gây bệnh. Prion gây nhiều bệnh nguy

hiểm ở động vật và người, gây thoái hóa hệ thần kinh trung ương và giảm sút trí tuệ như bệnh

bò điên, bệnh kuru ở người.

(48) Đại thực bào (tiếng Anh: “macrophage”) là những tế bào bạch cầu, phân nhóm thực

bào, có vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch không đặc hiệu cũng như hệ miễn dịch đặc hiệu ở

động vật có xương sống. vai trò chính của chúng là loại bỏ các thành phần cặn bã của tế bào và

tác nhân gây bệnh. Đại thực bào có thể lưu hành tự do trong máu hay cố định tại các tổ chức,

tại đây chúng có tên gọi khác nhau. (Theo Wikipedia)

(49) Interferon là một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn

dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, kí sinh

trùng và tế bào ung thư. Nó chỉ được tổng hợp khi có mặt các chất sinh interferon (còn gọi là

interferonogen). Interferon thuộc một lớp lớn của glycoprotein được biết đến dưới cái tên

cytokine (chất hoạt hoá tế bào). Interferon đóng vai trò quan trọng trong cửa ngõ miễn dịch, nó

là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus và sự phát triển bất thường của tế bào.

Nó là một phần của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu (non-specific immune system) và được

kích hoạt bởi giai đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm trước khi hệ miễn dịch đặc hiệu (specific

immune system) có thời gian để phản ứng. Cần phân biệt interferon nội sinh được sinh ra trong

cơ thể và interferon ngoại sinh do nuôi cấy tế bào ngoài cơ thể. (Theo Wikipedia)

(50) Vu vương: Vua phù thủy.

(51) Tam Giang Nguyên: Nằm ở tỉnh Thanh Hải trên cao nguyên Thanh Tạng. Vùng này là

khỏi nguồn cảu ba con sông lớn Trường Giang, Hoàng Hà, Mê Kông, nên được đặt tên là Tam

Giang Nguyên.

(52) Vắc xin sống giảm độc lực: là loại vắc xin được điều chế từ virút hoặc vi khuẩn còn

sống nhưng đã qua nhiều công đoạn nuôi cấy làm giảm độc lực của tác nhân gây bệnh này. Về

lý thuyết, khi vắc-xin được sản xuất đúng quy trình chuẩn, thì các virút hoặc vi khuẩn dù còn

sống nhưng đã được làm giảm độc lực rồi, sẽ không gây bệnh khi đưa vào cơ thể con người.

(53) Vắc xin chết: là loại vắc xin mà thành phần của chúng có chứa toàn bộ hoặc một phần

xác chết của virus hoặc vi khuẩn nào đó. Khi tiêm vào cơ thể, những thành phần này không

gây bệnh cho con người mà chỉ có vai trò kích thích cơ thể sản xuất kháng thể chống loại mầm

bệnh.

(54) Michael Young: Không thể chứng thực được thông tin này, có thể đây là thông tin mà

tác giả hư cấu.

(55) Chữ phẩm: 品

(56) Hải Để Luân: Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hóa châu Á, luân xa là trung tâm

thu phát năng lượng trong cơ thể người, có bảy luân xa chính nằm dọc theo cột sống lên đến

đỉnh đầu. Hải Để Luân hay Mūlādhāra (Luân xa gốc) là luân xa nằm ở đốt xương sống cuối

cùng.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: