CHUYÊN ĐỀ 2:

Chuyên đề 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Trong quản lý nhà nước, hoạt động quản lý hành chính là hoạt động đa dạng, trung tâm, chủ yếu; vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước. Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước tức là hoạt động chấp hành và điều hành. Thứ hai, chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính nhà nước trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở.
Do đó, quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thức hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đặc điểm quản lý hành chính nhà nước
Đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, tính tổ chức chặt chẽ. Đặc điểm pháp lý của quan hệ quản lý là sự không bình đẵng giữa các quan hệ quản lý, chính vì vậy, trong quản lý hành chính nhà nước, mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý luôn luôn mang tính đơn phương, một chiều, bắt buộc thực hiện và khi cần thiết các chủ thể quản lý có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành. Mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý phải được chấp hành nghiêm túc, triệt để, xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xử lý nghiêm minh mọi sự chây ì, dây dưa, chấp hành không nghiêm túc.
Hai là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục tiêu, có chiến lược và kế hoạch để thực hiện mục tiêu. Đặc điểm này đòi hỏi các cơ quan hành chính nhà nước phải xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược và kế hoạch hoạt động của mình nhằm đạt các mục tiêu đã xác định trên cơ sở chiến lược, kế hoạch của cấp trên và đường lối, chính sách của Đảng. Như vậy, các cơ quan hành chính nhà nước phải xác định mục tiêu và kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm. Bên cạnh việc xác định các mục tiêu, định hướng chủ yếu cần dự báo tình hình, những biến động, thay đổi có thể xảy ra để dự kiến các biện pháp để điều chỉnh, cân đối nhằm thực hiện được các mục tiêu và định hướng chủ yếu, có tính chiến lược.
Ba là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động dựa trên những quy định chặt chẽ của pháp luật, đồng thời là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều hành, quản lý. Trên cơ sở những quy định của pháp luật và mục tiêu, định hướng, kế hoạch đã được xác định, cơ quan quản lý hành chính các cấp phải phát huy tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều hành, quản lý. Trên cơ sở những quy định của pháp luật và mục tiêu, định hướng, kế hoạch đã được xác định, cơ quan quản lý hành chính các cấp phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình trong quản lý, điều hành, nhằm động viên được mọi tiềm năng, nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, đúng thẩm quyền đã được phân công, phân cấp, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm quản lý theo ngành và lãnh thổ.
Bốn là, quản lý hành chính nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc công khai, dân chủ. Nhà nước ta là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Vì thế, trong hoạt động của mình, các cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước phải công khai mọi hoạt động của mình, thể hiện tinh thần tôn trong nhân dân để mọi việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, có biện pháp thu hút, tổ chức cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Mặc dù quản lý hành chính nhà nước luôn luôn có tính đơn phương, mệnh lệnh nhưng một mặt phải đề cao các biện pháp giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng, chống quan liêu, cửa quyền, ức hiếp quần chúng. Mặt khác, phải từng bước hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng phong cách làm việc chính quy, khắc phục tình trạng tùy tiện, xuê xoa, luộm thuộm, bảo đảm hiệu lực của các quyết định, hiệu lực quản lý.
II. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo hành động, hành vi quản lý nhà nước của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước
Đảng lãnh đạo quản lý hành chính nhà nước trước hết bằng các nghị quyết đề ra đường lối, chủ trương, chính sách nhiệm vụ cho quản lý nhà nước và căn cứ vào đó để nhà nước ban hành hệ thống các văn bản pháp luật nhằm thực hiện đường lối, chính sách của đảng;
Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan, tổ chức nhà nước; thông qua công tác cán bộ, Đảng đào tạo, lựa chọn, giới thiệu cán bộ cho cơ quan quản lý nhà nước, lãnh đạo việc sắp xếp, phân bổ cán bộ;
Hoạt động tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền vận động, kiểm tra sự thực hiện các nghị quyết đảng cũng như pháp luật của nhà nước, của tổ chức đảng các cấp và đảng viên có vai trò rất quan trọng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quan lý nhà nước.
2. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người chủ nước nhà, là lực lượng hùng hậu thực hiện các nhiệm vụ quản lý của nhà nước. Sự nghiệp xây dụng và bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của nhân dân. Chính vì vậy, tập hợp, tổ chức cho nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội là yêu cầu khách quan, cấp bách trong tổ chức, hoạt động của nhà nước. Điều 28 Hiến pháp năm 2013 đã nêu: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân". Nhân dân lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội dưới những hình thức rất đa dạng và phong phú: tham gia bầu cử, ứng cử; thảo luận các dự thảo văn bản pháp luật; giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc này, nhà nước phải xây dựng và bảo đảm trong thực tế các thiết chế để nhân dân lao động có thể, một cách gián tiếp hay trực tiếp, tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Chẳng hạn sớm xây dựng và ban hành luật trưng cầu ý dân; thực hiện tốt và có hiệu quả "Quy chế dân chủ ở cơ sở"; xây dựng chế độ nhân dân nhận xét, góp ý kiến cho cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công chức nhà nước; xây dựng chế độ tiếp công dân của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền; xây dựng bộ phận tiếp thu, xử lý đơn, thư ,v.v..
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc có tầm quan trọng hàng đầu và trực tiếp chi phối tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp. Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: " Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".
Yêu cầu cơ bản của nguyên tắc này là bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất của Trung ương, của cấp trên, trên cơ sở phát huy đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo của cấp dưới, quyền làm chủ của nhân dân, của cán bộ công chức. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện trên những điểm cơ bản sau đây:
- Địa phương phục tùng Trung ương trên cơ sở phân cấp, phân quyền rộng rãi, hợp lý và cụ thể.
- Cấp dưới phục tùng cấp trên, cán bộ, nhân viên phục tùng thủ trưởng.
- Thiểu số phục tùng đa số sau khi trao đổi, thảo luận dân chủ.
- Cấp dưới chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao nhưng chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên.
- Thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo giữa cấp trên và cấp dưới, Trung ương và địa phương.
- Bảo đảm kỷ luật nhà nước trong tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cần ngăn chặn và khắc phục hai khuynh hướng: một là, tập trung quan liêu, không bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo của cấp dưới, quyền làm chủ của nhân dân và cán bộ, công chức dưới quyền. Hai là, tự do, tùy tiện, phân tán, cục bộ địa phương, bất chấp kỷ cương, vô tổ chức, vô kỷ luật.
4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật. Mọi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, thi hành công vụ của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh, chính xác và triệt để các quy định của pháp luật. Nếu cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời. Và nếu vi phạm đó gây hại đến lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước vi phạm phải bồi thường. Thực hiện nguyên tắc này nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nươc, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của nhà nước phải tiến hành xây dựng được hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, chất lượng cao và điều quan trong hơn là bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trong thực tế. Muốn vậy phải đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tiếp tục đổi mới các cơ quan bảo vệ pháp luật (công an, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra, kiểm lâm, hải quan, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường), làm cho các cơ quan, lực lượng này thực sự là công cụ sắc bén trong đấu tranh, bảo vệ pháp luật; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, nhất là sự tham gia của nhân dân, của các phương tiện thông tin đai chúng trong đấu tranh bảo vệ pháp luật, bảo vệ nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật.

5. Nguyên tắc có kế hoạch và khách quan
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước đều phải có kế hoạch, có nghĩa là phải được cân nhắc, tính toán, dự kiến, lập kế hoach trước, không được tùy tiện ngẫu hứng dưa ra quyết định một cách vội vàng, chắp vá. Đương nhiên, yêu cầu này không mâu thuẫn với việc chủ động, linh hoạt, nhạy bén trong quá trình giải quyết, xử lý các tình huống phát sinh trong thực tiễn quản lý hoặc những tình huống do biến động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; do thiên tai, dịch bệnh, tai nạn bất ngờ...
Mặt khác, mọi dự kiến, kế hoạch được vạch ra đều dựa trên nhận thức chủ quan nhưng phải đảm bảo tính khách quan của cac dự kiến và kế hoạch đó. Yêu cầu này đòi hỏi mọi dự kiến, kế hoạch trong tổ chức, hoạt động của nhà nước phải được nghiên cứu luận chứng, có cơ sở khoa học, thực tiễn.
6. Nguyên tắc công khai, lắng nghe ý kiến của nhân dân và dư luận xã hội
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động của nhà nước nói chung phải được công khai để nhân dân biết, trừ những thông tin, những hoạt động có tính chất bí mật quốc gia. Công khai mọi hoạt động của nhà nước không những bảo đảm để "dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra" mà còn thể hiện thái độ tôn trọng nhân dân. Mặt khác, thông qua công khai các hoạt động của mình, nhà nước lắng nghe ý kiến phản hồi của nhân dân và dư luận xã hội, tiếp thu những ý kiến đúng đắn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi, thay đổi chủ trương, chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải xây dựng chế độ công khai trong tổ chức, hoạt động của nhà nước, trong đó quy định trách nhiệm định kỳ báo cáo công việc trước nhân dân của các cấp, các ngành; quy định những vấn đề phải công khai để nhân dân biết.
Nếu có sự thay đổi, điều chỉnh các quyết định quản lý phải thông báo rộng rãi, giải thích, trình bày với nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chẳng hạn, tăng giá xăng, dầu, tăng giá điện v.v..
Ngoài việc xây dựng và thực hiện chế độ công khai, các cấp, các ngành phải tổ chưc tốt công tác tiếp dân; tổ chức bộ phận tiếp thu, xử lý, trả lời đơn thư dân nguyện; làm tốt hai công tác nêu trên mới nhanh chóng nắm bắt ý kiến của nhân dân và dư luận xã hội cũng như đưa ra được những chính sách đúng đắn, phù hợp với lòng dân.
III. CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Chủ thể quản lý hành chính nhà nước
Trong chế độ XHCN, nhân dân lao động là chủ thể quản lý đất nước có quyền làm chủ nhà nước và xã hội. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 xác định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước".
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức chính trị của nhân dân, do nhân dân tổ chức ra dưới sự lãnh đạo của Đảng và tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013: "Nhà nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..."
Như vậy, nhà nước là người thay mặt nhân dân, được nhân dân ủy quyền và trao cho quyền lực để thực hiện chức năng quản lý trong cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ.
Quyền lực nhà nước là thống nhất vì bản chất quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhưng để thực hiện có hiệu quả quyền lực đó, giữa các cơ quan nhà nước phải có sự phân công và phối hợp với nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quản lý hành chính nhà nước là bộ phận thực hiện quyền hành pháp trong bộ máy nhà nước và được giao cho hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, chủ thể quản lý hành chính nhà nước là nhà nước mà trực tiếp là cơ quan hành chính nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức theo hệ thống tập trung, thống nhất và phân chia thành cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và cơ quan hành chính ở địa phương; cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng. Cụ thể là:
- Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm: Chính phủ và các Bộ, cơ quan ngang Bộ trực thuộc Chính phủ
- Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương gồm: Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn trực thuộc.
Trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Cơ quan thẩm quyền chung bao gồm Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp. Gọi là cơ quan thẩm quyền chung vì Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền quản lý chung đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn quốc (đối với Chính phủ) và trên từng địa bàn lãnh thổ (đối với Ủy ban nhân dân các cấp).
- Cơ quan thẩm quyền riêng là các Bộ, cơ quan ngang Bộ (ở Trung ương) và cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp. Các cơ quan này được gọi là cơ quan có thẩm quyền riêng vì mỗi cơ quan có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước đối với một ngành, lĩnh vực hoặc nội dung quản lý hành chính nhà nước nhất định.
Trong quản lý hành chính nhà nước, cần xác định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý của từng cơ quan, từng chức danh với tư cách là chủ thể trực tiếp của quản lý hành chính nhà nước.
2. Khách thể quản lý hành chính nhà nước
- Khách thể của quản lý hành chính nhà nước là những gì mà hoạt động quản lý nhà nước hướng tới, tác động tới, bao gồm:
+ Trật tự quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, đối ngoại...).
+ Hành vi của cá nhân, công dân; cán bộ, công chức; tập thể liên đới chịu trách nhiệm hành vi (các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, các tập thể lao động, các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỷ thuật...) nhằm thiết lập được trật tự quản lý hành chính nhà nước.
- Đặc điểm của khách thể quản lý hành chính nhà nước: Khách thể quản lý hành chính nhà nước bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại khách thể (hành vi của công dân, cán bộ, công chức; hoạt động của các tập thể, cơ quan, tổ chức; trật tự quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực) có đặc điểm riêng. Căn cứ vào những đặc điểm của từng loại khách thể để chủ thể xác định nội dung, hình thức và phương pháp quản lý phù hợp.
IV. CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Chức năng của quản lý hành chính nhà nước là những phương diện hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm thể hiện được bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và được xác định phụ thuộc vào tình hình, đặc điểm trong nước và quốc tế; đồng thời bảo đảm cho hệ thống hành chính thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn.
Quản lý hành chính nhà nước có những chức năng cơ bản sau đây:
1. Chức năng thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Cần phải thực hiện chức năng này vì tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ sẽ tạo nên sức mạnh vô địch để thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước nói riêng và sự nghiệp cách mạng nói chung. Nói cách khác, quyền làm chủ của nhân dân là cội nguồn tạo nên sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Điều 28 Hiến pháp năm 2013 quy định: " Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân"... Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác".
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải xác định cụ thể hóa nội dung và tìm mọi biện pháp, hình thức thích hợp tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, tham gia quản lý hành chính nhà nước và xã hội.
2. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, suy đến cùng, đây là chức năng có tầm quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định bởi vì thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo ra cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đồng thời tạo ra cơ sở vật chất trực tiếp phục vụ viêc thực hiện các chức năng khác.
Thực hiện chức năng này trong quản lý hành chính nhà nước cần phân định chức năng quản lý hành chính nhà nước về kinh tế của các cơ quan hành chính nhà nước với chức năng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị kinh tế cơ sở. Mặt khác, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực kinh tế cần ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, giữ vững định hướng XHCN, đồng thời tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, bảo đảm phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế.
3. Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, y tế, thể dục thể thao
Đây là những lĩnh vực liên quan đến nguồn lực con người và tiềm năng xây dựng phát triển đất nước. Quản lý hành chính nhà nước đối với các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa hoạc - công nghệ, y tế, thể dục thể thao phải đảm bảo yêu cầu giữ gìn, phát huy được truyền thống, bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa và thành tựu của nhân loại trên các lĩnh vực này.
Thực hiện chức năng này phải phát triển và nâng cao chất lượng công tác văn hóa, văn học nghệ thuật; đẩy mạnh các hoạt động văn hóa quần chúng; xây dựng hệ thống thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa, viện bảo tang, nhà truyền thống...; quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, điện ảnh, phát hành sách, báo, hiện đại hóa các phương tiện thông tin như phát thanh, truyền hình...
Nâng cao chất lượng cải cách giáo dục, mở rộng những loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các hệ đào tạo, cải tiến chế độ thi cử, phát triển sự nghiệp giáo dục ở miền núi v.v..
Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, là quyền và nghĩa vụ của công dân. Cùng với các y tế, công tác thể dục thể thao góp phần tăng sức khỏe nhân dân. Bên cạnh việc hiện đại hóa các ngành y tế, thể dục thể thao cần xã hội hóa các hoạt động trên lĩnh vực này, phát huy sức mạnh tổng hợp của xã hội, góp phần chăm sóc, bảo vệ và nâng cao thể lực của nhân dân.
4. Chức năng thực hiện các chính sách xã hội
Thực hiện chức năng này các cơ quan hành chính nhà nước phải xây dựng các chính sách và kế hoạch về dân số; giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội; chăm lo chính sách bảo trợ xã hội đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với nước, người về hưu, người tàn tật, không nơi nương tựa; vấn đề gia đình, vấn đề nhà ở, môi trường sống v.v..; chính sách dân tộc và tôn giáo, tín ngưỡng.
5. Chức năng đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, nhất là sự tham gia của nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật; xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính, đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật.
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải đề cao cảnh giác, đấu tranh với mọi âm mưu, hành động của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đấu tranh với mọi âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, kích động, xúi giục bạo loạn v.v., bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình cho công cuộc đổi mới và cuộc sống bình yên của nhân dân.
6. Chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân
Thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích của công dân là yêu cầu khách quan, là mục đích cao cả và là trách nhiệm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải cụ thể hóa các quyền và lợi ích của công dân đã được xác định trong Hiến pháp và các văn bản luật thành các chủ trương, chính sách, chế độ và kế hoạch hành động cụ thể, khả thi, bảo đảm thực hiện và bảo vệ được các quyền và lợi ích đó. Điều quan trọng là phải quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính nhà nước cũng như quyền và nghĩa vụ của các thành viên khác trong xã hội trong quá trình thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm quyền và lợi ích của công dân trong phạm vi quyền hạn của mình và truy tố trước pháp luật nếu có dấu hiệu tội phạm.
7. Chức năng xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc và xã hội chủ nghĩa
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải có chủ trương, kế hoạch xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, bảo đảm khả năng phòng, chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Bên cạnh việc xây dựng quân đội có số lượng vừa pahir nhưng tinh nhuệ, ngày càng chính quy, hiện đại cần chăm lo xây dựng lực lượng dự bị, dân quân, tự về thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu. Cần có chương trình, kế hoạch và tổ chức giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân cho mọi tầng lớp nhân dân.
8. Chức năng tăng cường, củng cố tình hữu nghị, hợp tác quốc tế, bảo vệ hòa bình thế giới
Thực hiện chức năng này, các cơ quan hành chính nhà nước phải triển khai các hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình nhằm củng cố tình hữu nghị, hợp tác truyền thống với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước láng giềng. Đồng thời, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nhà nước và nhân dân các dân tộc trên toàn thế giới, theo tinh thần Việt Nam muốn chung sống hòa bình, hữu nghị, muốn làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi. Mặt khác, cần bày tỏ thái độ và có những hoạt động thích hợp nhằm củng cố các phong trào cách mạng và phong trào tiến bộ trên toàn thế giới, tích cực góp phần đấu tranh vè một thế giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển.
V. HÌNH THỨC, CÔNG CỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hình thức quản lý hành chính
Hình thức hoạt động quản lý hành chính nhà nước được hiểu là sự biểu hiện về hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tổ chức.
Nét đặc trưng của hình thức quản lý hành chính nhà nước là những hình thức pháp lý liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của chức năng chấp hành - điều hành. Đồng thời, thực tiễn quản lý hành chính nhà nước cũng cho thấy rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn có thể được tiến hành dưới những hình thức không pháp lý.
Do đó, ta có thể phân tích hình thức quản lý hành chính nhà nước thành:
- Những hình thức pháp lý được pháp luật quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục.
- Những hình thức không pháp lý chỉ được pháp luật quy định khuôn khổ chung để tiến hành lựa chọn phương thức, cách thức quản lý.
a) Hình thức pháp lý
Hoạt động ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước là hình thức quản lý quan trọng được phân loại như sau:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định các quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực quản lý hoặc Nhà nước; những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động của đối tượng v.v..
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung của nó là áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
Thông quan việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động một cách tích cực hoặc trực tiếp đến mọi mặt hoạt động của các cơ quan cấp dưới, các cơ quan tổ chức trực thuộc, các tổ chức phi nhà nước và công dân tham gia vào quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
- Các hoạt động mang tính chất pháp lý.
Đây là hình thức pháp lý quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hình thức hoạt động này được tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được định trước trong quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Đó là những hoạt động như:
+ Áp dụng những biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật như kiểm tra bằng lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng...
+ Đăng ký những sự kiện nhất định như đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký phương tiện giao thông...
+ Lập và cấp một số giấy tờ nhất định như lập biên bản vi phạm hành chính.
+ Hoạt động công chứng: công chứng là việc chứng nhận tính cách thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
b) Hình thức không pháp lý
Đó là hình thức hoạt động thuộc phạm vi chức năng, thẩm quyền, pháp luật cho chủ thể có thẩm quyền được lựa chọn việc thực hiện để bảo đảm tính chủ động, hiệu quả của hoạt động.
Ví dụ: hình thức hội nghị được tiến hành cơ các cơ quan nhà nước. Đối với các cơ quan thẩm quyền chung, lãnh đạo tập thể thì hình thức hội nghị là hình thức pháp lý, vì luật quy định rõ về định kỳ và giá trị pháp lý của nghị quyết hội nghị (kỳ họp, phiên họp). Nhưng hội nghị ở cơ quan quản lý thẩm quyền riêng, theo chế độ thủ trưởng thì đó là hình thức không pháp lý vì nó không ban hành quyết định có tính quyền lực.
2. Công cụ quản lý hành chính nhà nước
Để thực hiện chức năng thẩm quyền, các cơ quan hành chính sử dụng công cụ chủ yếu: công sở, công sản, công quyền - quyết định quản lý hành chính.
- Công sở là trụ sở cơ quan, là nơi làm việc của cơ quan, là nơi viên chức lãnh đạo, công chức và nhân viên thực thi công cụ, ban hành các quyết định hành chính và tổ chức thực hiện các quyết định, là nơi giao tiếp đối nội, đối ngoại...
- Công sản: là vốn (kinh phí) và các điều kiện, phương tiện để hoạt động.
- Quyết định quản lý hành chính: là sự biểu hiện ý chí của Nhà nước. Là kết quả thực hiện quyền hành pháp mang tính mệnh lệnh đơn phương của quyền lực nhà nước.
3. Phương pháp quản lý hành chính
Các phương pháp quản lý hành chính có thể phân thành 2 nhóm:
a) Nhóm thứ nhất, gồm phương pháp của các khoa học khác được quản lý hành chính nhà nước vận dụng cụ thể là:
- Phương pháp kế hoạch hóa
Các phương pháp hành chính nhà nước dùng phương pháp này để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lập quy hoạch tổng thể và chuyên ngành; dự báo xu thế phát triển; đặt chương trình, mục tiêu và xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
Sử dụng phương pháp này để tính toán các chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, các biện pháp cân đối.
Đây là phương pháp rất quan trọng ở cả tầm vĩ mô của Nhà nước và vi mô của cơ sở.
- Phương pháp thống kê
Phương pháp này được các cơ quan hành chính nhà nước sử dụng để tiến hành điều tra khảo sát, phân bố, sử dụng các phương pháp tính toán như: số bình quân gia quyến, chỉ số, tương quan quyết tính, tương quan nội quy...để phân tích tình hình và nguyên nhân của hiện tượng quản lý, làm căn cứ khoa học cho việc ra quyết định quản lý.
Sử dụng các phương pháp thu thập số liệu tổng hợp và chỉnh lý để tính toán tốc độ phát triển các chi tiêu quan trọng.
- Phương pháp toán học
Với phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước ứng dụng ma trận, vận trù học, sơ đồ mạng...trong quản lý; sử dụng các máy điện toán để thu thập, sử lý và lưu trữ thông tin; toán học hóa các chương trình mục tiêu kinh tế- xã hội; tính toán các cân đối liên ngành trong mọi lĩnh vực hoạt động quản lý.
- Phương pháp tâm lý - xã hội
Phương pháp tâm lý - xã hội nhằm tác động vào tâm tư tình cảm của người lao động, tạo cho họ không khí hồ hởi, yêu thích công việc, gắn bó với tập thể lao động, hăng say làm việc, giải quyết cho họ những vướng mắc trong công tác, động viên, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn về cuộc sống.
Do vậy, tác động tâm lý - xã hội là phương pháp quản lý rất quan trọng.
- Phương pháp sinh lý học
Trên cơ sở phương pháp này, các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành bố trí nơi làm việc phù hợp với sinh lý của con người, tạo ra sự thoải mái trong làm việc và tiết kiệm các thao tác không cần thiết nhằm tăng năng suất lao động như: bố trí phòng làm việc; bàn làm việc; ghế ngồi; vị trí đặt điện thoại; vị trí để tài liệu; màu sắc; ánh sáng...
b) Nhóm thứ hai, gồm 4 phương pháp chủ yếu của khoa học quản lý, cụ thể là:
- Phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức
Đây là phương pháp tác động về tư tưởng và tinh thần đối với con người để họ giác ngộ lý tưởng, ý thức chính trị và pháp luật, nhận biết được việc làm nào là tốt, là vinh, là thiện...việc làm nào là xấu, là nhục, là ác, v...v...
Ý thức đúng thì hành động tốt. Trên cơ sở đó sẽ có trách nhiệm, có kỹ luật, có lương tâm, không vi phạm pháp luật, hăng hái lao động, đem hết sức mình ra cống hiến.
Giáo dục chính trị, tư tưởng không phải là hô hào bằng những khẩu hiệu chính trị, động viên lòng nhiệt tình, hăng hái chung bằng tuyên truyền tình cảm như nhiều người quan niệm và nhiều nơi vẫn làm. Đó là những công việc cụ thể, có kế hoạch thực hiện rõ ràng cho từng giai đoạn phát triển nhất định, đảm bảo trang bị cho người lao động đủ kiến thức, đủ năng lực, đủ lòng nhiệt tình đảm đương công việc do yêu cầu thực tiễn.
Giáo dục chính trị, tư trưởng không chỉ đối với đối tượng quản lý mà cả đối với chủ thể quản lý. Nội dung giáo dục phải thiết thực, sâu sắc, gắn chặt với sản xuất, công tác và quản lý với phương pháp và hình thức linh hoạt, có chất lượng phù hợp với đối tượng.
- Phương pháp tổ chức (biện pháp tổ chức).
Phương này là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương. Để thực hiện biện pháp này có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất là phải có quy chế, quy trình, nội quy hoạt động cho cơ quan, bộ phận, cá nhân và phải cương quyết thực hiện. Phải nghiêm túc kiểm tra và xử lý kết quả đã kiểm tra một cách dân chủ, công bằng. Làm tốt thì thưởng, làm không tốt thì xử phạt.
Làm tốt được biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ được giữ vững và tăng lên, hiệu quả công việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ được bảo đảm: ngược lại thì tư tưởng sẽ không lành mạnh, đoàn kết nội bộ không yên, kỷ luật kỷ cương lỏng lẻo, hiệu quả công việc thấp.
- Phương pháp kinh tế (hiệu quả)
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế, tác động đến lợi ích của con người.
Khởi điểm của phương pháp này chính là sự quản lý bằng lợi ích và thông qua lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình một cách tốt nhất, mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh của chủ thể quản lý.
Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách đúng đắn giữa 3 lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích tập thể và lợi ích của Nhà nước. Trong 3 lợi ích này, lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp, lợi ích của Nhà nước là tối cao.
- Phương pháp hành chính (cấm đoán, bắt buộc)
Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý cách ra các mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc đối tượng quản lý. Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp lên đối tượng bằng cách quy định đơn phương nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
Phương pháp hành chính thể hiện tính chất quyền lực của hoạt động quản lý. Cơ sở của nó là nguyên tắc tập trung, dân chủ mà cụ thể là sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên và tính chất bắt buộc thi hành những mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên đối với cấp dưới. Phương pháp hành chính cần thiết để đảm bảo cho hoạt động quản lý được tiến hành có hiệu quả và đảm bảo kỷ luật nhà nước.
Phương pháp hành chính được thực hiện qua các nội dung:
+ Quy định những quy tắc xử sự chung trong QLHCNN.
+ Quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan dưới quyền, giao nhiệm vụ cho các cơ quan đó;
+ Thỏa mãn đơn phương yêu cầu hợp pháp của công dân.
+ Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới.
+ Áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết.
Trong bốn phương pháp này, theo quan niệm chung hiện nay thì phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức là hàng đầu, phải thường xuyên liên tục và nghiêm túc.
Biện pháp tổ chức là hết sức quan trọng, có tính khẩn cấp. Phương pháp kinh tế là biện pháp cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động QLNN.
Phương pháp hành chính là rất cần thiết, nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn, phù hợp nhằm phát huy hiệu quả, hiệu lực trong quản lý hành chính nhà nước.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: