meo luoi ngu gat
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN CHÍNH TRỊ NĂM 2010
HỆ CAO ĐẲNG NGHỀ - KHÓA 1
Câu 1: Hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm vật chất và ý thức.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác."
Định nghĩa ý thức theo chủ nghĩa Mác-Lênin: Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người. Là kết quả quá trình phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người một cách năng động và sáng tạo, là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử tự nhiên và xã hội.
2. Mối quan hệ vật chất và ý thức
Triết học Mác-Lênin khẳng định, trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại đối với vật chất:
a. Vai trò quyết định của vật chất với ý thức.
- Vật chất sinh ra ý thức. Ý thức là sản phẩm của vật chất, nhưng không phải là sản phẩm của bất kì dạng vật chất nào, mà là sản phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Chỉ có bộ não người - một dạng vật chất đặc biệt, có khả năng tư duy mới hình thành nên ý thức.
- Vật chất quyết định ý thức: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người. Như vậy, thế giới khách quan là nguồn gốc hình thành và quyết định của ý thức.
- Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, phản ánh quá trình lao động sản xuất và đấu tranh xã hội, do hiện thực xã hội quy định.
Vật chất là điều kiện khách quan để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng. Ở mỗi người, mỗi tổ chức xã hội thường có những chương trình kế hoạch hoạt động, thể hiện ý chí nguyện vọng của mình. Những ý chí nguyện vọng đó chỉ được thực hiện trên cơ sở những điều kiện vật chất nhất định. Thiếu những phương tiện vật chất người ta không thể hoạt động được.
b. Vai trò tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động, sáng tạo nên có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người nhằm góp phần cải biến thế giới khách quan. Nhưng sự tác động của ý thức phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người. Sự tác động đó của ý thức bao giờ cũng có hai mặt:
- Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con nguời trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
- Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm với một mức độ nhất định hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên, xã hội.
- Sự tác động của ý thức đối với thế giới vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí thực hiện mục tiêu đó.
- Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào chăng nữa, vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
a. Nguyên tắc khách quan trong nhận thức và hành động.
Trong nhận thức và hành động phải đảm bảo tính khách quan, trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy ý chí áp đặt cho thực tế.
b. Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người.
- Nguyên tắc khách quan không bài trừ mà còn đòi hỏi phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.
- Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ nhận thức được thế giới khách quan, làm cho con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình.
- Trong hoạt động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, văn minh trí tuệ ngày nay. Mặt khác, phải bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
- Để thực hiện nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động chủ quan của con người, phải vận dụng đúng các quan hệ lợi ích, phải có động cơ trong sáng, thái độ thực sự khách quan, khoa học, không vụ lợi.
Câu 2: Trình bày nội dung và ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập?
TRẢ LỜI
1. Vị trí của quy luật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là "hạt nhân" của phép biện chứng duy vật vì nó chỉ ra nguồn gốc và động lực của sự phát triển của mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như trong tư duy của con người.
2. Nội dung cơ bản của quy luật
Mỗi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Điều này được hiểu như sau:
a. Mọi sự vật và hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt đối lập.
- Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng vận động trái ngược nhau tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng; chúng liên hệ ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, chúng vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau.
- Sự tồn tại của các mặt đối lập là cơ sở hình thành mâu thuẫn biện chứng khách quan, phổ biến vốn có của các sự vật, hiện tượng. Chính mâu thuẫn này là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
b. Các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập phản ánh các mặt đối lập tồn tại cùng với nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau, không có mặt đối lập này thì cũng không có mặt đối lập kia và ngược lại. Không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không tạo thành sự vật, không có sự vật cụ thể tồn tại.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định nhau. Đó là sự triển khai của các mặt đối lập với nhiều giai đoạn, quá trình phức tạp, và có thể diễn ra ở các dạng sau: có thể làm thay đổi các yếu tố, các mặt của mỗi mặt đối lập; có thể làm cho hai mặt đối lập mất đi hoặc phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Việc chuyển hóa các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập.
c. Vai trò của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập phá vỡ thể thống nhất cũ, xác lập thể thống nhất mới với những mặt đối lập mới, sự vật phát triển. Quá trình này diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, còn thống nhất là tương đối vì sự đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra ngay cả khi sự vật có sự thống nhất. Tính tương đối của thống nhất thể hiện sự tồn tại trong một thời điểm của sự vật, còn tính tuyệt đối của đấu tranh nói lên sự vận động phát triển không ngừng của nó.
Chính đấu tranh của các mặt đối lập đã tạo ra động lực thúc đẩy sự vật không ngừng phát triển, là nguyên nhân của mọi sự vận động và phát triển.
- Một số loại mâu thuẫn: Các sự vật hiện tượng luôn tồn tại nhiều loại mâu thuẫn, vị trí, vai trò của từng mâu thuẫn cũng khác nhau. Có một số loại mâu thuẫn sau:
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Đối với nhận thức:
Mâu thuẫn là khách quan phổ biến nên việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật là cực kì quan trọng. Hơn nữa, khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; phải phân biệt được các loại mâu thuẫn để giải quyết kịp thời, đưa sự vật phát triển tiến lên.
- Đối với hoạt động thực tiễn:
- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện, cũng không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, chủ động thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau cần có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết mâu thuẫn.
Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại?
TRẢ LỜI
1. Vị trí của quy luật.
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại (còn gọi là quy luật lượng chất) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ ra cách thức vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
2. Nội dung quy luật:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.
a. Khái niệm chất và lượng:
- Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác.
+ Mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng có một phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi sự vật có vô vàn chất.
+ Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật có vị trí khác nhau; trong đó, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất căn bản, đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
- Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.
+ Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ thể và chính xác như chiều dài; độ lớn (to - nhỏ); quy mô (lớn - bé)... Song, có những tính quy định về lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như: trình độ (cao - thấp); tốc độ (nhanh - chậm); màu sắc (đậm - nhạt)...
+ Cũng như chất, lượng của sự vật cũng mang tính khách quan. Trong sự tồn tại của mình một cách khách quan, sự vật có vô vàn chất; do đó, nó cũng có vô vàn lượng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
- Lượng đổi dẫn đến chất đổi: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó.
Sự thay đổi lượng chưa dẫn tới sự thay đổi chất trong những giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là "độ".
+ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới "điểm nút" sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới.
+ Điểm nút là những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự vật.
Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là không cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của các sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ.
+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là "bước nhảy". Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
- Chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng:
+ Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật.
+ Chất mới có thể làm thay đổi nhịp điệu sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Từ những điều trình bày trên, có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật này như sau:
Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa lượng và chất; sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Đối với nhận thức: Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của các sự vật đó.
- Đối với hoạt động thực tiễn:
+ Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nên trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên để hành động có hiệu quả.
+ Chống khuynh hướng "tả" khuynh, chủ quan, nóng vội, chưa có sự tích luỹ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc thái độ coi nhẹ sự tích luỹ về lượng, chỉ nhấn mạnh bước nhảy dễ dẫn đến phiêu lưu, mạo hiểm...
+ Chống khuynh hướng "hữu" khuynh, bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất khi có đủ tích luỹ về lượng.
+ Muốn duy trì sự vật ở trạng thái nào đó phải nắm được giới hạn độ, không để cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ gây ra bước nhảy.
Câu 4: Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
TRẢ LỜI
1. Phạm trù thực tiễn:
Theo triết học Mác-Lênin: "Thực tiễn là toàn bộ các hoạt động vật chất có mục đích của con người mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải tạo thế giới khách quan."
Từ định nghĩa trên có thể thấy:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, có phương pháp, nhằm vào một đối tượng vật chất cụ thể. Nó tồn tại dưới 3 hình thức cụ thể là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Thực tiễn có tính chất lịch sử - xã hội:
+ Tính lịch sử nghĩa là sự quy định của những điều kiện lịch sử đối với hoạt động thực tiễn. Con người sinh ra ở đâu, thời đại nào thì hoạt động của họ sẽ bị những điều kiện khách quan và chủ quan của thời đại đó chi phối.
+ Tính xã hội nghĩa là mọi hoạt động thực tiễn đều là những hoạt động cộng đồng, ngay cả khi hoat động đó diễn ra với từng cá nhân riêng lẻ. Do đó, bản chất của hoạt động thực tiễn là mang tính xã hội.
- Phải có tư duy chỉ đạo. Đây là đặc trưng phân biệt giữa hoạt động thực tiễn của con người với hoạt động bản năng sinh vật. Đã là hoạt động thực tiễn thì từ việc xác định mục tiêu đến phương tiện, phương pháp hoạt động đều phải có tư duy can thiệp.
- Hoạt động thực tiễn có mục đích cụ thể, tức là việc nhằm vào một đối tượng nào đó và cải tạo nó trong hiện thực để phục vụ cho con người. Những hoạt động mới chỉ diễn ra ở trong đầu óc, trong lời nói, trong tranh luận hay trong hội nghị chưa được xem là thực tiễn.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Trong hoạt động của mình, con người không chỉ muốn nhận thức được bản chất của hiện thực khách quan mà còn muốn cải tạo hiện thực để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhưng những mong muốn đó chỉ thực hiện được trong hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, cần hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức:
a. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.
Sở dĩ như vậy là vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các qui luật vận động và phát triển của thế giới.
b. Thực tiễn là động lực, mục đích của nhận thức.
Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện; năng lực tư duy lôgic không ngừng được củng cố, phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Hơn nữa thông qua hoạt động thực tiễn, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của mình.
c. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí.
Chân lí là những nhận thức (tri thức) đúng đắn về thế giới của con người đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lí luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Câu 5: Phân tích hai giai đoạn của quá trình nhận thức? Từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn?
TRẢ LỜI
1. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức:
a. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính):
- Cảm giác: là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan, là sự tác động của sự vật vào giác quan của con người.
- Tri giác: Là sự tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do cảm giác đem lại.
- Biểu tượng: Là hình ảnh về sự vật được lưu lại trong trí nhớ một cách khái quát, nghĩa là nó phản ánh sự vật một cách gián tiếp và có tính sáng tạo.
Tuy nhiên, giai đoạn nhận thức cảm tính chỉ phản ánh cái bề ngoài, mà chưa phản ánh được cái tất yếu, bên trong của sự vật. Muốn hiểu sâu hơn về sự vật ta phải bước sang giai đoạn nhận thức lý tính.
b. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính):
Tư duy trừu tượng là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở của những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Giai đoạn này phản ánh gián tiếp, trừu tượng, khái quát, gần với chân lý khách quan, đáp ứng được mục đích của nhận thức. Tư duy trừu tượng được thực hiện thông qua các hình thức sau:
- Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh cái chung, cái bản chất, cái tất yếu của sự vật, được hình thành từ hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, nó luôn vận động, phát triển và không ngừng được hoàn thiện.
- Phán đoán: là hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên cơ sở liên kết, vận dụng những khái niệm đã có nhằm khẳng định hay phủ định một hay nhiều thuộc tính của sự vật, nó thường được biểu đạt bằng một mệnh đề nhất định và không ngừng phát triển gắn liền với quá trình phát triển của thực tiễn, của nhận thức.
- Suy luận: là hình thức của tư duy trừu tượng, dựa trên những phán đoán đã được xác lập và những mối liên hệ có tính quy luật của những phán đoán cũ để đi đến những phán đoán mới có tính kết luận, nó cho biết cái đã, đang và sẽ xảy ra.
Như vậy, tư duy trừu tượng giúp cho ta nhận thức được cái bản chất, quy luật của hiện thực. Do đó, giai đoạn này là cơ sở chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
2. Sự thống nhất biện chứng của hai giai đoạn trong quá trình nhận thức.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy chúng có sự khác nhau về vị trí, mức độ và phạm vi phản ánh nhưng có liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau hình thành mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức. Mối quan hệ này được biểu hiện như sau:
- Chúng thống nhất với nhau:
+ Đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng, nội dung phản ánh.
+ Chúng quy định lẫn nhau, vừa là điều kiện, tiền đề cho nhau, là nguyên nhân, kết quả của nhau.
+ Chúng kết hợp với nhau để hình thành con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan.
- Chúng có sự khác biệt nhau:
+ Mỗi giai đoạn đều có những mặt tích cực và hạn chế nhất định.
+ Nhận thức cảm tính là nhận thức trực tiếp, bề ngoài, giản đơn, nhưng lại phong phú đa dạng, là nguồn cung cấp thông tin. Nhận thức lý tính là nhận thức gián tiếp, bên trong, bản chất, tất yếu, quy luật...
Tóm lại, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan, trong đó thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu, một quá trình nhận thức.
Nhưng kết thúc vòng khâu này thì lại là điểm bắt đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình liên tục, vô tận của sự nhận thức chân lý khách quan.
3. Nội dung và phương hướng đổi mới nhận thức ở nước ta hiện nay
Với thực tiễn trong nước và thế giới, chúng ta phải có cách nhìn mới, cách suy nghĩ mới, vượt qua được những suy nghĩ quen thuộc đã lỗi thời, lạc hậu so với cuộc sống hiện đại. Sự đổi mới nhận thức vừa có tính bức bách vừa có ý nghĩa sống còn của sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay. Quá trình này cần tuân thủ các nội dung và phương hướng sau:
- Đổi mới nhận thức, về thực chất, mang ý nghĩa cách mạng trên lĩnh vực ý thức tư tưởng, do vậy phải đổi mới nhận thức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Phải đổi mới nhận thức toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa... Trong đó, đổi mới về nhận thức kinh tế là cơ bản nhất, quan trọng nhất, có vị trí hàng đầu.
- Đổi mới nhận thức phải khắc phục những phương pháp nhận thức máy móc, siêu hình, giản đơn, chủ quan, duy ý chí, để nhận thức theo phương pháp biện chứng duy vật, phản ánh đúng hiện thực khách quan, đúng hiện thực xã hội bằng quan niệm mới.
- Đổi mới nhận thức nhưng không phủ nhận tất cả những thành quả khoa học, lý luận đạt được, những đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đang có giá trị đối với thực tiễn cuộc sống. Trái lại, đổi mới chân chính phải đảm bảo tính khoa học, phải bổ sung, kế thừa phát triển những giá trị cũ, thành tựu cũ, đồng thời còn phải sáng tạo ra những giá trị mới, thành quả mới.
- Đổi mới nhưng không được đi chệch mục đích, lý tưởng của nhân dân ta, Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn. Chúng ta kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Tổng kết thành tựu đổi mới, Đảng ta khẳng định: "Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng XHCN."
Câu 6: Trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất?
TRẢ LỜI
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất khác nhau.
1. Phương thức sản xuất.
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Cấu trúc của phương thức sản xuất:
- Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở một thời kỳ nhất định; là biểu hiện của mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
+ Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động và Tư liệu sản xuất.
+ Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của người lao động mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
- Quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), phản ánh mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ giữa người với người về sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội (quan hệ sở hữu); quan hệ giữa người với người trong quá trình tổ chức và quản lý sản xuất xã hội (quan hệ quản lý) và quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm lao động xã hội (quan hệ phân phối).
Trong ba mối quan hệ nói trên thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất và quyết định chi phối tới các quan hệ còn lại của quan hệ sản xuất.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
a. Khái niệm về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Tính chất của lực lượng sản xuất được biểu hiện ở hai mức độ là tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội của lực lượng sản xuất.
- Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ của người lao động; trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ phân công lao động xã hội. Trong đó, phân công lao động và trình độ chuyên môn hóa là sự biểu hiện rõ ràng nhất, công cụ lao động là tiêu chí quan trọng nhất phản ánh những thang bậc phát triển của LLSX.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- LLSX quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của QHSX.
+ Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung và quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ này thì nội dung quyết định hình thức.
+ Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo cho phù hợp và làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn và đưa loài người trải qua những hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất cũng như thái độ của những người lao động.
+ Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp, lạc hậu... nó sẽ trở thành rào cản, "xiềng xích" trói buộc sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Sự phù hợp giữa QHSX với LLSX không phải chỉ thực hiện một lần là xong mà phải là một quá trình. Nghĩa là, một sự phù hợp cụ thể nào đó giữa QHSX với LLSX luôn luôn bị phá vỡ để thay bằng một sự phù hợp khác cao hơn. Điều này đòi hỏi chủ thể (con người) phải có tính năng động cao để không ngừng theo dõi và điều chỉnh QHSX cho nó luôn luôn phù hợp với sự phát triển của LLSX.
3. Sự vận dụng quy luật này ở nước ta.
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp đi lên CNXH, lại do hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ác liệt và lâu dài; con đường đi lên CNXH của Việt Nam là hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Do đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách "phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN". Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nhìn từ góc độ quy luật này, công thức của đường lối đó là: thực trạng nước ta đi lên CNXH có nhiều loại trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Để đảm bảo sự phù hợp với nó thì phải có nhiều kiểu quan hệ sản xuất, tức là nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó các thành phần đều bình đẳng trước pháp luật và được xây dựng trên cơ sở trao đổi hàng hóa và nền kinh tế chủ yếu vận động theo quy luật giá trị, tức là theo cơ chế thị trường. Điểm đặc biệt, để cho nền kinh tế đó vận động theo định hướng XHCN, chúng ta tiến hành những tác động "phi kinh tế" - đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; sự quản lý của Nhà nước XHCN... và trong đó, kinh tế Nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, theo xác định của Đại hội Đảng X (năm 2006) gồm có các thành phần: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ; bản tư nhân); kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài.
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Từ đó rút ra ý nghĩa thực tiễn?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Kể từ thời cổ đại đến nay, trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào, bên cạnh những quan hệ sản xuất thống trị thường vẫn còn tàn dư của những quan hệ sản xuất của xã hội cũ và cả mầm mống của những quan hệ kinh tế - xã hội của tương lai. Cho nên, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy. Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất quá độ (tàn dư của những quan hệ cũ, mầm mống của những quan hệ mới và những kiểu quan hệ kinh tế khác có thể có) cũng có vai trò nhất định. Điều cần lưu ý là ở chỗ, trong hệ thống cơ cấu kinh tế đó, cái giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết định đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng là kiểu quan hệ sản xuất thống trị. Tư tưởng thống trị của mỗi xã hội bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị.
Như vậy, quan hệ sản xuất, xét trong nội bộ phương thức sản xuất, là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác, xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó người ta dựng lên kiến trúc thượng tầng tương ứng với cơ sở thực tại đó.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của chúng như đảng phái, Nhà nước, giáo hội, các đoàn thể xã hội... được hình thành, xây dựng trên nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tồn. Chính nhờ có Nhà nước mà giai cấp thống trị gán được cho xã hội hệ tư tưởng của mình. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng cũng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng.
Trong kiến trúc thượng tầng của các xã hội có đối kháng giai cấp, ngoài bộ phận chủ yếu đóng vai trò là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ cơ sở kinh tế của nó, còn có những yếu tố đối lập với bộ phận đó. Đó là những tư tưởng, quan điểm, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ xã hội cơ bản quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật và tư tưởng... Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.
+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng sẽ diễn ra. Quá trình đó thực hiện không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng - xã hội này sang xã hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình thái xã hội. Đúng như C.Mác đã nhận định: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
+ Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến biến đổi của kiến trúc thượng tầng là cả một quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó, xét cho cùng, là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, còn chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
+ Tuy cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, song Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng luôn luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố và các lĩnh vực của nó có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào cơ sở hạ tầng thường không trực tiếp và không giản đơn. Kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng, mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế của xã hội. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có sự tác động qua lại lẫn nhau.
+ Trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ Nhà nước, pháp luật mới có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng; mà các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cũng đều có khả năng gây ra những biến động không nhỏ tới cơ sở hạ tầng. Những bộ phận đó tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng của kiến trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của các qui luật kinh tế khách quan. Trái lại, nếu tác động ngược chiều với những quy luật đó thì nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội.
+ Trong chủ nghĩa xã hội, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, mà đặc biệt là Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Không có chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây dựng được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, tạo lập cơ sở hạ tầng mới.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Khi xem xét mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng sẽ cho ta quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. Sự tác động mạnh mẽ của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là điều không thể nghi ngờ. Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động ấy đến mức phủ nhận tác động quyết định của nhứng quy luật kinh tế khách quan, phủ nhận tính tất yếu của vận động xã hội thì sẽ không tránh khỏi rơi vào sai lầm duy tâm chủ quan; và do vậy, không thấy được tiến trình khách quan của lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội xét đến cùng là nhân tố quyết định đối với tất cả các lĩnh vực của văn hoá tinh thần nói chung.
Đảng ta khẳng định việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là cấp bách và có ý nghĩa quyết định tới công cuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Việc đổi mới và xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ là rất quan trọng.
Câu 8: Phân tích vai trò của đấu tranh giai cấp? Liên hệ thực tiễn quá trình đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm đấu tranh giai cấp:
"Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản". Từ khái niệm trên có thể thấy:
- Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích và địa vị của các giai cấp khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định.
- Nguyên nhân chủ yếu của đấu tranh giai cấp là do có một bộ phận người chiếm hữu tư liệu sản xuất làm của riêng, trở thành giai cấp thống trị xã hội. Bộ phận người này nắm quyền chi phối việc tổ chức lao động xã hội và chiếm phần lớn của cải làm ra, họ ra sức bóc lột đại đa số những người lao động khác, tạo nên những mâu thuẫn đối kháng về kinh tế, đó chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp trong các xã hội có sự phân biệt và đối kháng giai cấp.
2. Vai trò của đấu tranh giai cấp: Đấu tranh giai cấp có vai trò là động lực cơ bản và trực tiếp của sự phát triển xã hội. Vai trò này được thể hiện ở chỗ:
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người có lợi ích căn bản đối lập nhau. Đấu tranh giai cấp là phương thức giải quyết mâu thuẫn giai cấp - đó là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa hai mặt của phương thức sản xuất; đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới và mở đường cho LLSX phát triển.
- Cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị không chỉ buộc giai cấp thống trị phải tiến hành những cải cách mang tính chất tiến bộ mà còn tạo điều kiện để giai cấp cách mạng tự phát triển thông qua thực tiễn cách mạng, tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Thời đại ngày nay là thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí, là hiện thân của LLSX xã hội hóa có tính tổ chức và kỷ luật cao, có tính cách mạng triệt để... Do đó, họ là trung tâm, đại biểu cho xu hướng phát triển của thời đại ngày nay. Được trang bị hệ thống tư tưởng Mác-Lênin và có bộ tham mưu vĩ đại là Đảng Cộng sản; có đủ tư cách và điều kiện lãnh đạo quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp. Mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân là xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Đó là một chế độ xã hội không có tư hữu, đối kháng giai cấp, không có bóc lột, áp bức.
- Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân diễn ra ngay từ khi giai cấp công nhân mới ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Cuộc đấu tranh này được biểu hiện:
a. Khi chưa giành được chính quyền:
- Hình thức đầu tiên là đấu tranh kinh tế, mang tính tự phát.
- Hình thức cao là đấu tranh chính trị với mục tiêu thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản. Vì vậy, cần có tổ chức chặt chẽ, có Đảng lãnh đạo, có đường lối và phương pháp đúng đắn, sáng tạo, có liên minh công - nông làm nòng cốt cho liên minh giai cấp...
- Hình thức đấu tranh tư tưởng chỉ có khi có Đảng Cộng sản ra đời và lãnh đạo, nhằm giáo dục cho giai cấp vô sản và quần chúng nhận thức được vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, đoàn kết với các tầng lớp khác...
b. Khi đã giành được chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản vẫn còn cần thiết vì:
- Các thế lực thù địch và phản động vẫn không ngừng chống phá cách mạng trên nhiều lĩnh vực, nhằm mục đích khôi phục lại chế độ cũ.
- Tâm lý, tập quán cũ vẫn còn ảnh hưởng lâu dài gây trở ngại cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều đặc trưng mới:
- Vị trí của giai cấp vô sản đã thay đổi, họ đã trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội.
- Nội dung chủ yếu là giữ chính quyền và xây dựng xã hội mới, giáo dục quần chúng, trấn áp kẻ thù của nhân dân và dân tộc.
- Sử dụng nhiều hình thức đấu tranh tổng hợp và diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
c. Quá trình đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
- Diễn ra gay gắt và quyết liệt, vừa tuân theo những quy luật chung lại vừa chịu sự chi phối những quy luật đặc thù.
- Vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc.
Câu 9: Phân tích khái niệm và cấu trúc của nhân cách? Liên hệ với quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm nhân cách.
Nhân cách là tổ hợp thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với giới tự nhiên, với xã hội và bản thân.
Từ quan niệm trên ta có thể hiểu:
- Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý - tâm lý tạo thành một chỉnh thể giúp cho mỗi cá nhân thực hiện vai trò chủ thể trong mọi hoạt động của mình.
- Nhân cách con người chỉ được bộc lộ thông qua hành vi ứng xử của họ trong các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân của họ.
2. Cấu trúc nhân cách:
- Thế giới quan của cá nhân, là hạt nhân của nhân cách; nó bao gồm toàn bộ những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá nhân.
- Những năng lực và phẩm chất xã hội của cá nhân, là cái bên trong của nhân cách, nó bao gồm: thể chất, năng lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, các phẩm chất chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ...
- Tâm hồn con người, là cái sâu kín và nhạy cảm nhất, là tầng sâu của nhân cách, là nơi lắng đọng và tiềm ẩn của mỗi cá nhân. Đó là thế giới nội tâm có chức năng khuếch đại hành vi của cá nhân.
Các yếu tố trên có mối quan hệ thống nhất với nhau trong quá trình sống để hình thành nên nhân cách của con người và nó được biểu hiện trong các mối quan hệ xã hội thông qua hành vi và thái độ ứng xử của cá nhân.
3. Quá trình hình thành nhân cách của con người mới XHCN Việt Nam:
Nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở các tiền đề chủ yếu sau:
- Tiền đề vật chất, bao gồm: cơ sở sinh học - tức là cơ thể của con người; môi trường xã hội, gia đình với những truyền thống, những giá trị văn hóa.
- Tiền đề tư tưởng và giáo dục mà nòng cốt tư tưởng là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa có tính khoa học, cách mạng lại vừa thấm đậm chủ nghĩa nhân văn cao cả; kết hợp quá trình giáo dục với quá trình tự giáo dục nhằm định hướng cho quá trình hình thành nhân cách.
- Sự hình thành nhân cách cá nhân của con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình lâu dài suốt cả đời người. Tuy nhiên thời kì quan trọng nhất là trước 30 tuổi. Mô hình nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là mô hình "động" gồm ba thành tố sau:
+ Phải có thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng.
+ Phải có năng lực thực sự trong công việc, lao động với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
+ Không ngừng nâng cao đạo đức, lối sống trên cơ sở những chuẩn mực giá trị mới tiến bộ.
Câu 10: Phân tích các đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền?
TRẢ LỜI
1. Những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
a. Tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Do theo đuổi mục tiêu giá trị thặng dư, lại bị sức ép của cạnh tranh nên buộc các nhà tư bản phải tích tụ, tập trung mở rộng sản xuất. Khi những xí nghiệp tư bản lớn ra đời, chúng đã hình thành nên cơ chế độc quyền trong sản xuất và kinh doanh trong chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, sự hình thành các tập đoàn tư bản lớn là cơ sở kinh tế xã hội cho sự ra đời các tổ chức độc quyền với những quy mô, trình độ và hình thức khác nhau.
Như vậy, độc quyền ra đời trên cơ sở cạnh tranh, nhưng nó không xóa bỏ cạnh tranh, mà làm cho cạnh tranh ngày càng thêm gay gắt.
b. Sự hình thành tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính.
Để bảo đảm chủ động nguồn vốn và để tránh rủi ro trong cạnh tranh, đến một trình độ phát triển nhất định đã xuất hiện sự dung hợp lẫn nhau giữa độc quyền công nghiệp và độc quyền ngân hàng, tư bản tài chính ra đời.
Tư bản tài chính có sức mạnh bao trùm toàn bộ nền kinh tế, chi phối mọi mặt trong đời sống của xã hội tư bản.
Sự thống trị của tư bản tài chính thể hiện thông qua các hình thức chủ yếu như: chế độ tham dự, phát hành trái phiếu.
c. Xuất khẩu tư bản.
Là việc đem tư bản trong nước ra đầu tư ở ngoài nước nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao.
Được thực hiện chủ yếu thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) hay đầu tư gián tiếp (ODA). Xuất khẩu tư bản có thể do tư nhân hay Nhà nước thực hiện.
Là cơ sở để các tập đoàn tư bản phân chia lại thị trường thế giới.
d. Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền.
Nền sản xuất tư bản trong giai đoạn độc quyền là nền sản xuất hàng hóa lớn nên thị trường là điều kiện sống còn. Quy mô sản xuất càng mở rộng, tiềm lực kinh tế càng lớn thì nhu cầu thị trường ngày càng gay gắt.
Sự cạnh tranh giành thị trường sẽ dẫn đến sự thỏa hiệp dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế để phân chia thị trường. Quá trình này có tác động rất lớn đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới.
e. Sự phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc đế quốc.
Để có được nơi đầu tư có lợi, bảo vệ quyền lợi, bảo đảm thị trường tiêu thụ một cách chắc chắn và nhiều mục tiêu khác mà các nước đế quốc tiến hành xâm chiếm thuộc địa, đặt ách thống trị của mình ở đó, biến các quốc gia này thành thị trường cho mình.
Do quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tư bản, hình thành nên quá trình can thiệp lẫn nhau giữa các nước tư bản.
Đầu tiên các nước tư bản phát triển sớm hơn sẽ áp đặt thị trường thế giới theo lợi ích của mình. Điều này mâu thuẫn với các nước tư bản mới phát triển chưa có thị trường. Do đó, tất sẽ dẫn đến những cuộc chiến tranh thế giới giữa các nước tư bản với mục đích nhằm phân chia lại thị trường. Sau chiến tranh, do có thêm hoặc bớt đi thuộc địa mà lãnh thổ các nước đế quốc sẽ có nhiều thay đổi.
Mỗi lần thực hiện quá trình phân chia sẽ tạo ra những mâu thuẫn mới, các nước thất bại lại chuẩn bị tiềm lực cho mình để gây chiến, nhằm khôi phục lại những thị trường mà mình đã mất. Quá trình phân chia thị trường thế giới diễn ra thường xuyên và liên tục trong nội bộ các nước tư bản chủ nghĩa.
2. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
Nhìn lại, lịch sử phát triển của CNTB một cách khách quan, chúng ta thấy CNTB đã tạo ra những nhân tố tích cực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng đồng thời cũng để lại những hậu quả nặng nề mà nhân loại phải gánh chịu, cụ thể là:
a. Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Xã hội hóa sản xuất là quá trình tăng cường mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất trên cơ sở phát triển LLSX và phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc.
Sự cạnh tranh khốc liệt trong CNTB đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất đạt đến một trình độ rất cao. Sự phân công và hợp tác lao động ngày càng phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhất là trong thời kỳ CNTB độc quyền và CNTB độc quyền Nhà nước.
b. Phát triển LLSX, tăng năng suất lao động xã hội.
Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư TBCN, giai cấp tư sản tăng cường bóc lột và nhanh chóng làm giàu. Quá trình không ngừng gia tăng bóc lột giá trị thặng dư và tích lũy tư bản đã thúc đẩy sự áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất khiến cho LLSX phát triển nhanh chóng.
Sự phát triển LLSX là tiền đề cho tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ.
c. Thực hiện bước chuyển từ nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại.
Trong chủ nghĩa tư bản, LLSX phát triển từ trình độ thủ công lên cơ khí, rồi tự động hóa, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất.
Quá trình phát triển của LLSX tư bản chủ nghĩa đã hình thành những cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô ở trình độ cao, phá vỡ những hình thức sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện bước chuyển từ nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn hiện đại.
d. Chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề vật chất đầy đủ và tiền đề xã hội chín muồi cho sự ra đời của xã hội mới.
Sự phát triển của quá trình xã hội hóa cùng với sự lỗi thời của các quan hệ kinh tế, chính trị của CNTB đã tạo ra những tiền đề vật chất đầy đủ cho sự ra đời của xã hội mới.
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã dẫn đến sự biến đổi có tính chất cách mạng của cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Nó đã mở ra một giai đoạn quá độ từ văn minh công nghiệp lên nền văn minh mới có trình độ hơn hẳn về chất so với CNTB. Muốn thực hiện điều đó, cần phải có một QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX ấy.
Với QHSX có tính chất công hữu là nền tảng của chế độ xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa), sẽ là sự thay thế cho chủ nghĩa tư bản. Đây là xu thế tất yếu của lịch sử.
e. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những hậu quả nặng nề cho nhân loại.
- Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm chính gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu và hàng loạt cuộc chiến tranh cục bộ, xâm lược khiến hàng chục triệu người chết và những tang thương, mất mát khác.
- Để tham chiến, các nước tư bản bị cuốn vào vòng xoáy chạy đua vũ trang gây tốn kém tài sản xã hội, làm chậm quá trình tiến triển của văn minh.
- Chính sách áp bức và nô dịch các dân tộc thuộc địa của CNTB đã gây ra sự nghèo đói, bệnh tật, chết chóc... của hàng trăm triệu người. Khoảng cách giàu - nghèo cách biệt càng lúc càng tăng.
- Quá trình sản xuất TBCN, vì mục đích không ngừng gia tăng lợi nhuận và sự giàu có, đã hủy hoại môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Câu 11: Phân tích tính tất yếu, nội dung và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
TRẢ LỜI
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 (ở miền Bắc) và năm 1975 (trên cả nước), là quá trình chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN.
Việt Nam từ một nước kinh tế kém phát triển, tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN (quá độ gián tiếp) là tất yếu lịch sử của sự phát triển đất nước và dân tộc. Thời kỳ quá độ đó vừa phù hợp với quy luật chung đối với các nước đi lên CNXH trong thời đại ngày nay, vừa phù hợp với điều kiện lịch sử cách mạng nước ta, vì:
- Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì mục tiêu tiếp theo của cách mạng nước ta tất yếu phải là CNXH, do đó, phải bước vào thời kỳ quá độ (gián tiếp) để đi lên CNXH.
- Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (hình thức cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới trong điều kiện Việt Nam) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta phải chuyển ngay sang cách mạng XHCN, tức là làm cách mạng không ngừng, do đó phải bước vào thời kỳ quá độ (gián tiếp) lên CNXH.
- Thời đại ngày nay được mở đầu từ Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917 mà nội dung cơ bản là quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại mới đã chứng tỏ sự lựa chọn của loài người theo con đường XHCN, mở ra một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Con đường phát triển của đất nước ta cũng phải nằm trong xu thế tất yếu đó.
- Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta đã có đủ điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Tóm lại, ở Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn lịch sử duy nhất đúng của Đảng và nhân dân ta và trở thành chân lý trong thời đại ngày nay.
2. Nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ:
Thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ chuyển biến cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung của thời kỳ này bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
a. Về kinh tế - xã hội:
- Xây dựng và phát triển LLSX trên cơ sở nền công nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của đất nước, không ngừng nâng cao suất lao động và hiệu quả kinh tế để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phát triển đất nước.
- Từng bước xây dựng QHSX xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự phát triển của LLSX trên cơ sở thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước phải không ngừng được củng cố và vươn lên giữ vai trò chủ đạo, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính tín dụng.
b. Về chính trị:
- Từng bước củng cố, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội, thực hiện liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
- Xây dựng và phát triển tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc.
c. Về tư tưởng văn hóa:
- Cần phải làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện ngày càng rõ nét hơn trong đạo đức, lối sống và suy nghĩ của mọi người.
- Từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra những điều kiện cho mọi người nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và trực tiếp sáng tạo ra những giá trị văn hóa.
- Đấu tranh chống mọi tàn dư của tư tưởng và văn hóa lạc hậu phản động do xã hội cũ để lại hoặc do các thế lực thù địch nhập vào.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Câu 12: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức cách mạng? Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta" (Văn kiện ĐH Đảng IX).
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: "Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém". Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng: "Có tài mà không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
a. Trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là "Trung với nước, hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
Người căn dặn: "Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gần gũi gắn bó với nhân dân, kính trọng học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc, "nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí". Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, dân mến, dân kính trọng... Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
b. Yêu thương con người.
Dân tộc ta có truyền thống "thương người như thể thương thân". Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo Cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại cùng với những thể nghiệm của chính mình, Hồ Chí Minh đã xác định: Yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng ta phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Bác viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người".
Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức...
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân", phải trong sạch, không tham lam...
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
d. Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
- Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng trước hết là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động của các nước, không phân biệt màu da. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả loài người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lí và tiến bộ.
- Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa quốc tế vô sản phải gắn liền với tinh thần yêu nước chân chính, nếu không sẽ dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỉ, hoặc sôvanh nước lớn, kì thị chủng tộc, dân tộc hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Nói và làm luôn đi đôi với nhau đem lại hiệu quả thiết thực cho chính mình và cho người khác. Nói mà không làm gọi là đạo đức giả. Đối với Bác, trong giáo dục đạo đức vấn đề nêu gương luôn được đặt ra: "Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức.".
b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
- Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội.
- Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa cá nhân với nhiều cách làm phong phú, nhưng phải có hiệu quả.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
- Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức, đó là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn.
- Mỗi người ai cũng có điều tốt và xấu, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con người.
- Việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày, trong lao động sản xuất, sinh hoạt... và thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày. Có như thế việc tu dưỡng mới có kết quả.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng lớn, là một lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Người vừa là một nhà đạo đức lớn, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận và hết lời ca ngợi. Với tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã thâu hoá được những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất và nêu gương thực hành những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Người đã đem lại cho nền đạo đức Việt Nam một bản chất mới - đạo đức cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng trở thành di sản vô cùng quí giá trong truyền thống đạo đức Việt Nam, nó đã và đang toả sáng trong thời đại ngày nay. Noi gương sáng của Người, chúng ta phải làm cho những phẩm chất đạo đức trên trở thành hành vi đạo đức ngày càng phổ biến trong toàn xã hội; làm cho xã hội ta có nhiều tấm gương đạo đức tiêu biểu có ý nghĩa thuyết phục và giáo dục được mọi người noi theo.
Câu 13: Trình bày sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
TRẢ LỜI
1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc phát triển kinh tế thị trường.
a. Sự cần thiết khách quan:
- Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường.
- Ở nước ta, kinh tế thị trường tồn tại một cách khách quan bởi vì:
+ Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
+ Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất như: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
+ Do đặc điểm của đất nước, nền kinh tế thị trường nước ta còn ở trình độ kém phát triển, còn tồn tại nhiều thành phần, phát triển theo cơ cấu kinh tế mở và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tuy nhiên, nước ta còn có đủ điều kiện để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhờ lợi thế về ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội; các nguồn lực cho phát triển kinh tế thị trường còn phong phú, nhất là nguồn tài nguyên và nhân lực; kết hợp kinh nghiệm và những thành tựu phát triển sau hơn 20 năm đổi mới đất nước.
b. Tác dụng của sự phát triển kinh tế thị trường.
- Thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như nguồn vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên và công nghệ để phát triển kinh tế.
- Kích thích tính năng động và sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất, phát triển nhiều ngành nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
- Thúc đẩy tăng năng xuất lao động, tạo ra nhiều hàng hóa có sức cạnh tranh ngày càng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
- Góp phần khắc phục sự mất cân đối trong nền kinh tế.
- Góp phần tăng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, ổn định và tăng trưởng kinh tế, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác dụng tích cực nêu trên, cũng cần thấy được sự hạn chế nhất định của kinh tế thị trường như: phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội, một số tệ nạn xã hội gia tăng như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, ô nhiễm mội trường, cạn kiệt tài nguyên, suy giảm đạo lý... Do đó, cần thiết phải tăng cường sự điều tiết và quản lý của Nhà nước.
2. Điều kiện và giải pháp phát triển kinh tế thị trường.
a. Các điều kiện đảm bảo cho sự phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta là:
- Cần có sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.
- Có cơ sở hạ tầng vật chất xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hàng hóa như: giao thông, bưu điện, thông tin, điện nước... nhằm phục vụ tốt nhất quá trình phát triển kinh tế - xã hội và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Có hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh và bộ máy thực hiện có hiệu quả. Tạo được tâm lý, tập quán phù hợp và có lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hóa.
- Có các nhà quản lý và các nhà kinh doanh giỏi, thích nghi với cơ chế thị trường.
b. Các giải pháp cơ bản:
- Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
- Đẩy mạnh phân công và hợp tác lao động trong phạm vi cả nước và quốc tế.
- Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm cải biến lao động thủ công, năng suất thấp thành lao động máy móc hiện đại có năng suất cao, làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
- Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, các nhà kinh doanh giỏi và đội ngũ lao động có kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị - xã hội.
Câu 14: Trình bày tính tất yếu, nội dung của chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn ở Việt Nam hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Tính tất yếu và tác dụng của CNH, HĐH.
Nước ta có quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, kinh tế kém phát triển cho nên cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hầu như chưa có, vì vậy việc tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là tất yếu và cần thiết.
a. Khái niệm:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Thực chất của CNH,HĐH ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp... những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH.
b. Tác dụng của CNH, HĐH:
Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ đem lại những tác dụng to lớn sau:
- Tạo ra nền sản xuất bằng máy móc, tạo ra sức sản xuất mới, do đó tạo điều kiện làm thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tạo ra cơ sở kinh tế làm chỗ dựa cho việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế quốc dân.
- Tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.
- Tạo điều kiện tăng cường tiềm lực và vai trò kinh tế của Nhà nước, tạo tiền đề để cũng cố vững chắc khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức.
- CNH, HĐH góp phần phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực tích lũy của nền kinh tế, tạo thêm việc làm, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người, xóa dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
- Tạo điều kiện vật chất để tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế...
Vì vậy, Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, là tất yếu đối với đất nước ta hiện nay."
2. Nội dung chủ yếu của CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay.
Để tiến hành thành công quá trình CNH, HĐH đất nước, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
a. Tiến hành cách mạng khoa học - công nghệ.
Khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ:
- Con đường CNH, HĐH ở nước ta là cần thiết và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học - công nghệ hiện đại.
- CNH, HĐH phải gắn liền với cuộc cách mạng KH-CN để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
- Ứng dụng những thành tựu tiên tiến về KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Sử dụng công nghệ mới phải gắn với việc giải quyết việc làm, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Cần có chính sách ưu tiên các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ có công nghệ tiên tiến, khả năng thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng những công trình có quy mô lớn khi cần thiết và có hiệu quả.
b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các thành phần, lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất.
- Cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, cho phép khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước, tham gia vào phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế.
- Ở nước ta hiện nay, việc bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và tối ưu, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế.
+ Phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế, cùng sự tiến bộ của KH-CN hiện đại.
+ Phải tốn ít vốn để tạo thành nghề sản xuất mới, nhiều việc làm, khai thác tối đa tiềm năng của đất nước, của các ngành, các thành phần, các xí nghiệp. Hoạt động ngay, quay vòng nhanh, lãi suất cao.
+ Thực hiện sự phân công lao động và hợp tác quốc tế theo xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và phát triển cơ cấu kinh tế mở năng động.
+ Phải tạo được đà cho sự phát triển tiếp theo của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
* Tiến hành phân công lại lao động xã hội.
Trong quá trình CNH, HĐH tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân.
- Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn trong việc sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Phân công lao động xã hội ở nước ta hiện nay phải tuân thủ các yêu cầu sau:
+ Tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động công nghiệp, dịch vụ ngày một tăng; tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm.
+ Tỉ trọng và số lượng tuyệt đối lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất, ngành dịch vụ tăng dần và tốc độ tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất.
+ Tỉ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng số lao động xã hội.
+ Phân công lao động xã hội phải được thực hiện trên tất cả các địa bàn một cách có tổ chức, có kế hoạch và phải gắn bó giữa phân công tại chỗ, phân công đi nơi khác và phân công quốc tế.
3. Nội dung CNH, HĐH nước ta từ nay đến năm 2020:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng.
- Xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa hệ thống bưu chính viễn thông.
- Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh như: vận tải, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tư vấn...
- Phát triển hợp lý vùng và kinh tế biển.
- Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên như: đất, nước, khoáng sản và rừng.
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Câu 15: Hệ thống chính trị là gì? Trình bày nội dung và phương hướng đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Khái niệm hệ thống chính trị:
Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, các Đảng chính trị hợp pháp và Nhà nước của giai cấp cầm quyền cùng quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó để tác động vào các quá trình kinh tế xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời, bảo đảm quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị nước ta là hệ thống các tổ chức, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
2. Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị:
Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới vể tổ chức và phương thức hoạt động của từng yếu tố cấu thành hệ thống cũng như toàn bộ hệ thống chính trị nhằm hướng tới mục tiêu chủ yếu là "thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân".
a. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng.
Nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng đòi hỏi phải kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng; thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
- Kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng đòi hỏi phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó sắp xếp, kiện toàn về tổ chức bộ máy, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
- Đổi mới công tác cán bộ. Công tác cán bộ phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ kế tiếp vững vàng. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, đảm bảo thật sự dân chủ, khoa học, công minh; có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng và đãi ngộ những người có đức có tài, khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
b. Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật.
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử, nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số đại biểu chuyên trách; tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội...
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh và giao quyền chủ động cho chính quyền địa phương.
- Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ bản nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
- Chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Cơ cấu lại đội ngũ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó; có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy Nhà nước những công chức không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực.
- Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải có quyết tâm chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách Nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ; về thanh tra, giám sát, kiểm kê, kiểm soát.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính; thực hiện cơ chế giám sát nhân dân, thông qua các đại diện trực tiếp và gián tiếp, đối với đảng viên, công chức, cơ quan, đơn vị. Bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công và doanh nghiệp Nhà nước. Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương với cán bộ, công chức.
c. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Các đoàn thể chính trị - xã hội bao gồm Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị và có vai trò ngày càng tăng trong việc chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các đoàn viên; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá xã hội và đổi mới xã hội; giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức, lối sống tiến bộ; bảo vệ nghĩa vụ và quyền lợi nhân dân.
- Trong những năm qua, các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động. Tuy nhiên, trong điều kiện mới cũng bộc lộ sự hạn chế về sự trì trệ của hoạt động theo cơ chế cũ; "Nhà nước hoá", "hành chính hoá" hệ thống tổ chức; việc giải quyết mối quan hệ giữa chính trị - xã hội với kinh tế chưa rõ, phương thức hoạt động còn xơ cứng.
Trước yêu cầu mới, việc đổi mới các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm mục tiêu: góp phần củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, tạo điều kiện để các đoàn thể thực sự là trường học giáo dục lý tưởng cộng sản và năng lực hoạt động thực tiễn cho đoàn viên, là trường học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Để thực hiện hoá các mục tiêu trên, cần thực hiện các nhiệm vụ: xoá bỏ tình trạng "hành chính hóa", "Nhà nước hóa", cần đa dạng hóa hình thức tập hợp quần chúng, luật pháp hóa các quy chế hoạt động, gắn hoạt động của các đoàn thể với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế văn hóa xã hội, đổi mới quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với các đoàn thể, đổi mới thể thức kết nạp đoàn viên...
Câu 16: Chính sách xã hội là gì? Trình bày những nội dung cơ bản của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Chính sách xã hội.
Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay một chính quyền Nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, nhu cầu lợi ích của các nhóm người, các tầng lớp xã hội, các giai cấp, các dân tộc trong xã hội; đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với bản chất giai cấp và những mục tiêu của chính đảng hay của chính quyền đó.
Phạm vi chính sách xã hội phải giải quyết bao trùm mọi mặt của đời sống con người như điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc...
Trong CNXH, nhân dân lao động là người làm chủ; chính xã hội đặt con người với tất cả những nhu cầu và lợi ích phong phú, đa dạng vào vị trí trung tâm của sự phát triển, lấy việc phục vụ con người, phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao nhất của chính sách xã hội XHCN. Từ đó cho thấy, "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Đồng thời đó cũng là động lực thúc đẩy mạnh việc phát triển các mặt đời sống xã hội trên đường đổi mới đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Quan hệ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế:
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có quan hệ gắn bó với nhau là do bị quy định bởi:
+ Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã hội;
+ Điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam - từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với yêu cầu tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội;
+ Truyền thống nhân đạo "khoan thư sức dân" và từ việc tổng kết thực tiễn của cách mạng nước ta;
+ Yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
+ Chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội, tạo điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, tìm động lực từ các nhân tố xã hội, lấy hiệu quả phục vụ xã hội làm thước đo cao nhất để xác định phương án và kết quả hoạt động kinh tế;
+ Chính sách xã hội phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế, tạo mội trường xã hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh những nhân tố động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế.
- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển, do đó cần phải kết hợp chặt chẽ và giải quyết hài hòa quan hệ giữa chúng phù hợp với từng thời kỳ, từng điều kiện của đất nước. Việc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở nước ta hiện nay:
+ Vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển.
+ Là nét đặc trưng của định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân đạo cao cả của chủ nghĩa xã hội.
+ Thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là luôn coi con người là trung tâm, là mục đích của sự phát triển kinh tế, lấy việc phục vụ con người là mục tiêu của các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
2. Nhiệm vụ chủ yếu của chính sách xã hội hiện nay ở nước ta.
a. Phương hướng của chính sách xã hội:
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng lớn của chính sách xã hội ở nước ta hiện nay là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể xã hội.
b. Quan điểm chỉ đạo chính sách xã hội:
Hệ thống chính sách xã hội được hoạch định phải quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:
+ Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ở cả khâu phân phối lẫn tạo cơ hội sử dụng tốt năng lực của con người trong toàn bộ tiến trình phát triển.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó, lấy phân phối theo kết quả lao động vừa là hình thức chủ yếu lại vừa là nguyên tắc chi phối các loại hình phân phối khác nhằm điều tiết hợp lý và bảo hộ quyền lợi của người lao động.
+ Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, tầng lớp dân cư.
+ Phát huy truyền thống "uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", nhân hậu, thủy chung.
+ Các vấn đề chính sách xã hội đều phải theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội
c. Các nhiệm vụ chủ yếu của chính sách xã hội:
- Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục, đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa thông tin, thể dục thể thao...
- Phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, đảm bảo mọi người dân được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
- Thực hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
- Chú trọng chính sách ưu đãi xã hội.
- Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Câu 17: Tầm quan trọng và nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại của Đảng ta hiện nay?
TRẢ LỜI
1. Tầm quan trọng của chính sách đối ngoại:
Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính sách đối nội, là một bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của mọi quốc gia, dân tộc. Trong các thời kỳ của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đều rất coi trọng chính sách đối ngoại.
Thực hiện đường lối đối ngoại nhân đạo, hòa bình thể hiện mục tiêu, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta và nguyện vọng của nhân dân ta, phù hợp với quy luật vận động của thời đại và xu hướng chủ yếu của thế giới.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống chính sách, thể hiện ở chỗ:
- Thông qua việc thực hiện chính sách đối ngoại, chúng ta có thể khai thác tốt nhất những tiềm năng, kinh nghiệm, nguồn vốn, thành tựu văn hóa khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới để phát triển đất nước.
- Thông qua mở rộng quan hệ quốc tế mà nhân dân ta và bạn bè năm châu hiểu rõ nhau hơn, nâng cao địa vị và uy tín của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh của nhân dân toàn thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Trên cơ sở đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn và rộng mở, chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ với tất cả các nước (đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã giữ vững, mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với 200 Đảng Cộng sản và Công nhân trên thế giới; là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới và có quan hệ thương mại trên 150 nước và nhiều công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam).
- Cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng thế giới và vận động trong bối cảnh chung của thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với trình độ ngày càng cao làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội trên thế giới đã tạo ra nhiều thời cơ và thách thức lớn, nhất là đối với các nước nghèo, kinh tế chưa phát triển. Vì vậy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta không tách rời những biến đổi trên thế giới, không thể khép kín mọi hoạt động của mình trong phạm vi một quốc gia hoặc bất cứ một khu vực nào.
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết bài học lớn là luôn luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
2. Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại hiện nay ở nước ta.
a. Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của chính sách đối ngoại:
- Mục tiêu chung của chính sách đối ngoại:
+ Chính sách đối ngoại không có mục đích tự thân, nó phải gắn liền với nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế và phải quán triệt lập trường có tính nguyên tắc là: kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong điều kiện lịch sử mới.
+ Chính sách đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu chung: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" nên mục tiêu chính của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc, sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
- Các nhiệm vụ cơ bản của chính sách đối ngoại:
+ Củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội; CNH,HĐH đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
- Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình.
- Tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
c. Nội dung chính sách đối ngoại:
- Chủ trương của chính sách đối ngoại:
+ Củng cố và tăng cường quan hệ với các Đảng Cộng sản, công nhân, Đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
+ Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm: "Chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả".
+ Chủ động tham gia đấu tranh chung vì quyền con người.
+ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Nhiệm vụ trước mắt của công tác đối ngoại:
+ Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân tất cả các nước.
+ Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại.
+ Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về công tác đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
+ Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Câu 18: Phân tích những bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?
TRẢ LỜI
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam; là tư tưởng chủ đạo để xác định đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược và phương pháp cách mạng. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là sự kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân, kết hợp hai nguồn sức mạnh để tạo nên nguồn sức mạnh tổng hợp toàn diện và vô tận nhằm chiến thắng tất cả lực lượng phản động để đưa từng dân tộc đi đến chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành thắng lợi trong phạm vi từng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội và dân tộc không thể tách rời nhau.
Cách mạng đã phát triển lên tầm cao mới đòi hỏi việc nhận thức và vận dụng kinh nghiệm lịch sử cũng phải đi vào chiều sâu và có sức sáng tạo mới. Những đặc điểm của dân tộc, của đất nước Việt Nam, những quy luật cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu. Vận dụng những quy luật đó vào Việt Nam để giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra, để tìm hệ thống quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang đòi hỏi sự nỗ lực cao độ về trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân tộc.
Những thành tựu to lớn qua hơn 20 năm đổi mới cho thấy lời giải ngày càng sáng tỏ, hướng đi ngày càng được khẳng định, nhận thức của chúng ta ngày càng nâng cao và mở rộng về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhưng trước mắt vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Kiên định quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo cho chúng ta ngày càng khám phá thêm những điều cần biết về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện CNH, HĐH đất nước bằng sức mạnh của nhân dân, bằng phát huy nội lực trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là biểu hiện tập trung nhất sự vận dụng kinh nghiệm lịch sử nói trên trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân:
Quần chúng nhân dân quyết định lịch sử là một nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, là quy luật phổ biến của xã hội loài người. Ở Việt Nam, một nước đất không rộng, người không đông lại phải đương đầu với những tên đế quốc lớn và từ nghèo nàn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội thì quy luật này lại càng quan trọng.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Không ai có thể tạo ra cách mạng khi nhân dân không yêu cầu. Không ai có thể ép buộc nhân dân làm cách mạng. Do không chịu nỗi nhục mất nước, nên cả dân tộc đứng lên chống xâm lược. Do không chịu đói nghèo và bất công nên toàn dân thấy cần phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng là sự nghiệp do nhân dân làm lấy. Sức mạnh quyết định của cách mạng là ở dân. Khi toàn dân đứng dậy thì không lực lượng phản động nào có thể ngăn cản được. Không sức mạnh nào lớn hơn nhân dân.
Cách mạng còn là sự nghiệp vì nhân dân. Mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng đều vì lợi ích của nhân dân. Không vì lợi ích nhân dân cách mạng sẽ mất tính cách chính nghĩa và nhân văn. Ngoài lợi ích của nhân dân, cách mạng không vì lợi ích nào khác. Các nhà cách mạng chân chính đều luôn luôn tâm niệm vì lợi ích nhân dân mà chiến đấu, hi sinh, vì nhân dân phục vụ. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào ngoài lợi ích của nhân dân.
Đường lối đổi mới bắt bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân không những đòi hỏi đổi mới mà còn tạo tiền đề cho đường lối đổi mới ra đời. Phương châm: mọi hoạt động của Đảng đều phải "lấy dân làm gốc" được nhấn mạnh là cách khắc phục thiếu sót trước đó để đi đúng quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Khẩu hiệu: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra cũng được ra đời theo phương châm đó để quán triệt hơn nữa vai trò của nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đứng trước thời cơ và nguy cơ hiện nay, muốn phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, chống tham nhũng và tiêu cực để thực hiện CNH, HĐH đất nước không có cách nào khác ngoài việc Đảng phải dựa vào nhân dân. Nhân dân rất sáng suốt, nên nhân dân sẽ tìm ra hình thức, biện pháp để thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển.
Đảng ta luôn luôn đứng vững trên lập trường công nhân để xem xét và giải quyết quan điểm quần chúng trong cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong lãnh đạo cần khắc phục tư tưởng theo đuôi quần chúng, hoặc coi thường quần chúng; khắc phục tính tự phát hoặc vô chính phủ trong nhóm quần chúng này hay nhóm quần chúng khác...
3. Không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
Đoàn kết là sức mạnh. Sức mạnh này không phải là số cộng của nhiều người mà được nhân lên tùy mức độ liên kết thành một khối thống nhất. Đây là sức mạnh của ý chí, nghị lực; sức mạnh của trí tuệ, tinh thần và cả sức mạnh vật chất. Mỗi thành viên đều thấy sức mạnh mình tăng lên khi nằm trong khối đoàn kết ấy. Sức mạnh này không thể đo, đếm định lượng thông thường; nhưng có thể nhận thức được.
Đoàn kết là bài học quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công"
Đoàn kết có nhiều cấp độ khác nhau: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết nào cũng phải xây dựng theo những nguyên tắc nhất định.
Để thực hiện đoàn kết dân tộc, trước hết Đảng phải chứng tỏ đường lối đúng đắn của mình trước quần chúng, nêu rõ nhiệm vụ cách mạng đều đáp ứng nguyện vọng cơ bản của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội; phải thể hiện Đảng là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đoàn kết dân tộc còn là cơ sở để mở rộng quan hệ quốc tế. Cách mạng một nước là bộ phận cách mạng thế giới nên cần sự đồng tình và ủng hộ của thế giới, cần có đoàn kết quốc tế. Do đặc điểm nước ta, đoàn kết quốc tế lại càng quan trọng. Đoàn kết quốc tế làm tăng thế và lực của cách mạng Việt Nam lên nhiều lần, làm cho cách mạng Việt Nam giảm tổn thất và thúc đẩy quá trình giành thắng lợi.
Để đoàn kết quốc tế, Đảng phải có đối ngoại phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và thế giới trong từng giai đoạn lịch sử. Trước đây, đoàn kết quốc tế để giành độc lập dân tộc. Ngày nay, đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Do hoàn cảnh thế giới và Việt Nam đã có nhiều thay đổi, do yêu cầu chiến lược cách mạng cũng khác thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nên Đảng có đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá, theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển... Nhờ đó, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phát triển thuận lợi.
Đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tác động tích cực lẫn nhau để thực hiện kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam. Đảng phải mạnh, phải đoàn kết chặt chẽ là điều kiện quyết định để thực hiện thành công và phát huy hiệu quả khối đoàn kết nói trên.
4. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều nhân tố tạo nên, nhưng nhân tố hàng đầu là có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là bộ tham mưu, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và công bố Cương lĩnh cách mạng của mình thì cách mạng Việt Nam chuyển sang bước ngoặt vĩ đại. Đó là thời kỳ kết thúc cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và mở đầu thời kỳ cả dân tộc đi theo ngọn cờ của Đảng. Điều đó chứng tỏ dân tộc ta sớm khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các giai đoạn phát triển về sau, Đảng càng tỏ rõ năng lực lãnh đạo sáng suốt của mình bằng cách đưa cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều hiểm nguy tưởng như không vượt nổi để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một tổ chức chính trị nào khác có thể đương đầu với kẻ thù xâm lược và với những khó khăn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam không thể như ngày nay.
Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn; biết tập hợp, tổ chức, động viên lực lượng cách mạng; biết sử dụng những hình thức, phương pháp đấu tranh và hoạt động phong phú, linh hoạt để thực hiện đường lối thành công.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là quá trình khó khăn, gian khổ. Nhưng kiên trì thực hiện những nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng sẽ trưởng thành theo yêu cầu của lịch sử.
Yêu cầu mới mới của cách mạng đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, xứng đáng là nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top