mê tông chi quốc 2

Hồi 4: Hẻm ma ám

Nửa đêm canh khuya, hội ba người Tư Mã Khôi đi lạc trong khu nghĩa địa bỏ hoang, càng lúc càng hoảng loạn, loanh quanh một hồi, trong lòng cảm thấy rùng rợn đến nỗi không còn phân biệt nổi phương hướng nữa.

Bình thường La Đại Hải là tay vô cùng gan dạ, chẳng biết sợ sệt gì sất, nhưng cũng phải tùy việc, nếu luận đến việc đánh nhau, gây vạ, cậu ta có thể dùng que chọc thủng trời, ngưu ma, xà thần gì cũng chẳng phải đối thủ. Có điều khi còn nhỏ, cậu ta từng leo lên cây ăn trộm trứng trong tổ chim, không ngờ vừa lúc đó một con chồn hoa cũng luồn vào, đẩy cậu ta ra rồi cắn chết chim mẹ ngay tại trận. Lúc này quanh miệng con chồn dính toàn máu chim, hai mắt đỏ ngầu, nhìn cảnh tượng ấy La Đại Hải sợ mất vía, kể từ đó trở đi sự việc này trở thành chiếc bóng u tối ám ảnh tâm lý cậu ta một cách nặng nề, mãi đến tận bây giờ vẫn không thể phai mờ. Bởi vậy thứ duy nhất trên đời này khiến cậu ta khiếp đảm có lẽ chính là con chồn, trước đây cậu ta thường tỏ ra không hề gì, thực ra chỉ là cố tình giả bộ. Bây giờ gặp phải tình cảnh kinh dị vượt qua cả phạm vi nhận thức của con người, nên trong lòng cậu ta khó tránh khỏi việc liên tưởng đến chuyện cũ. Lúc này cậu ta quả đúng là gan nhỏ hơn cả gan thỏ. Khi ở Đông Bắc, Hải ngọng từng nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian với thể loại tương tự như vậy, nên giờ cứ một mực quả quyết rằng mấy người bọn họ đang bị chồn tinh nằm dưới mộ huyệt mê hoặc, nghĩ đến đây cậu ta cảm thấy dường như có một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim, bắp chân tự nhiên co cứng như bị chuột rút.

Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, chỉ cần nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt.

Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu đó, cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái “Hoàng tiên”, nhưng trước thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ (chế độ quân đội và hộ khẩu thời Mãn Thanh có tám màu cờ) tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập tục thờ hoàng tiên. Còn về nguyên nhân hình thành “Hẻm ma ám” có rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia chưa hẳn là sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu, chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi đảm khí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực.

Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện ánh sáng của chiếc đèn dầu đang cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn. Trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải và Hạ Cần: “Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại bao nhiêu, xem chừng không thể duy trì được lâu nữa, người xưa thường nói “đèn tắt ma tìm đến”, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội thoát thân đâu”.

La Đại Hải bất lực nói: “Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây giờ chúng ta nên làm thế nào?”.

Tư Mã Khôi vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu. Khi cậu còn ở Bắc Kinh theo “Văn Võ tiên sinh” học nghệ, cũng biết đến một vài điển cố lục lâm. Cái từ “ngựa vang” (tiếng lóng vùng Đông Bắc ám chỉ bọn thảo khấu) vốn chuyên dùng để chỉ “Trên đường Sơn Đông, nếu nhìn thấy kẻ cưỡi ngựa đeo chuông, thì ngầm hiểu đó chính là ám hiệu của đạo tặc lục lâm, bọn họ coi trọng khí chất nghĩa hiệp, chúng ta khó lòng biết thực ra họ là kẻ xấu hay người tốt, khó phân biệt điều họ làm là sai hay đúng, họ bí mật cướp của, tàng hình giết người”. Tiếng lóng này sau đó được phát triển rộng ra thành bất luận “râu xồm” ở Sơn Đông, “giặc cướp ngựa” ở Quan Tây, “nhà ưng” ở Giang Nam hay “bang thuyền” ở Hồ Bắc và Hồ Nam, phàm là những tên cướp tự cho mình là “cướp của người giàu chia cho người ngoài, thay trời hành đạo”, đồng thời bái mười tám vị la hán làm sư tổ thì đều được quy vào hàng ngũ “ngựa vang”. 

Trước đây, “ngựa vang” thường phải chạy vào sâu trong khe núi để trốn khỏi sự truy đuổi của quan quân, cánh rừng rậm nguyên thủy quanh năm không trông thấy mặt trời này, cỏ mọc còn cao hơn đầu người, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mọc bạt ngàn, những người không thông thổ lỡ chân lạc bước vào đây sẽ lập tức bị bầy “muỗi biển” hút sạch máu và trở thành xác khô. Ngoài rừng rậm ra, thì đầm lầy, sơn cốc băng tuyết, khe vực đều là những cứ địa vàng để “ngựa vang” nương thân tránh họa và thoát khỏi vòng vây truy sát của quân lính. Bọn họ và quan quân chỉ giao đấu vài hiệp rồi lập tức tản ra, chạy vào khu rừng già nơi không có dấu chân người qua lại để ẩn thân, đợi khi sóng gió qua đi mới tụ tập trở lại.

Chính vì vậy, người đời mới nói “ngựa vang rất giỏi tìm đường”, cho dù chạy vào nơi sơn cùng thủy tận, địa hình phức tạp, khi bị lạc đường, họ vẫn có thể xác định được phương hướng dựa vào việc quan sát vị trí của chòm sao bắc đẩu. Vào những ngày trời âm u, không có sao, họ sẽ đi tìm mạch nước nguồn, chỉ cần xuôi theo hướng nước chảy là nhất định sẽ tìm được lối ra. Nhưng tình hình trước mắt bây giờ vừa không có sao, lại không có sông suối gì cả, thì làm gì còn phương pháp nào mà nghĩ?”

Cuối cùng Tư Mã Khôi nhớ lại “thuật thôi môn” được ghi chép trong “Lục Lâm truyền kỳ”, trong đó nói, người ta có thể thông qua phương thức mê tín để suy đoán cánh cửa sinh tồn, đây là một bí thuật trong “Thuật âm dương bát quái”, thông thường chỉ có bọn quân sư vớ vẩn mới sử dụng thủ thuật này. Tư Mã Khôi không biết cái món bí thuật này có tác dụng thật hay không, cũng chưa bao giờ thực hành cụ thể, nhưng vì phải giành giật sự sống khỏi bàn tay thần chết nên quyết định liều một phen, cậu đành nhìn mèo vẽ hổ, nhìn bầu vẽ dưa để bắt chước phương pháp cổ xưa mà tiền nhân truyền lại, lấy ba hòn đá vun đống trước mộ, xếp thành hình phủ thờ sư tổ, sau đó đắp đất thành lò đốt hương, cuối cùng cắm lên đó mấy cọng cỏ dại làm nhang.

Lúc này lẽ ra cậu phải ngồi niệm “Thôi môn lệnh” nhưng Tư Mã Khôi đã quên béng bài chú này từ đời nào, nên đành tạm thời chắp vá mấy câu khác vào thay thế, chỉ thấy miệng cậu ta tụng niệm một hồi dài, nghe cũng rất ra văn ra vẻ : “Con xin thỉnh quan phu tử giáng đàn, Lý lão quân hạ thế, mời các vị sư tổ, ngọc hoàng thượng đế, quan âm bồ tát, tổng tư lệnh, ba vị nguyên lão, bốn vị thiếu gia trên trời, mau mau hiện thân đến cứu đệ tử khỏi vòng hiểm nguy…”, nói xong liền giơ tay giật chiếc mũ La Đại Hải đang đội trên đầu, vứt vèo một cái vào không trung, rồi đưa mắt nhìn xem chiếc mũ rơi xuống chỗ nào, chỗ rơi xuống chính là cửa sinh, chỉ cần đi theo hướng đó sẽ tìm thấy con đường sống.

La Đại Hải hoàn toàn mù tịt mấy món này, cậu ta chỉ tiếc đứt ruột chiếc mũ quân nhân, bèn hét to: “Thằng điên này! sao cậu lại mù quáng đi tin mấy chuyện quỷ thần mê tín dị đoan thời phong kiến thế hả?”, Nói xong liền chạy bổ đi tìm chiếc mũ rơi trên mặt đất, nhưng trong nghĩa địa, chỗ nào cũng tối hù hù, cỏ lại mọc cao quá đầu gối, chiếc mũ bay từ trên trời rơi xuống đồng cỏ hoang rồi biến mất dạng, biết tìm ở đâu bây giờ?

La Đại Hải cuống đến nỗi nước mũi chảy cả xuống miệng, không kiềm chế được liền mở miệng trách móc Tư Mã Khôi. Bất ngờ, từ nơi sâu xa nào đó trong đám cỏ vang lên những tiếng “loạt xoạt”, cậu ta cứ nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim, mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất.

Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: “Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ đường cho mình thật?”. Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: “Hôm nay thần tài giáng phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa, tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt chia súp cho anh …”

Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt.

Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn, nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: “Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à? Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!”

Vị cứu tinh La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: “Lão Triệu, ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố - khai sáng cho mọi người nữa”.

Triệu Lão Biệt chẳng thèm bận tâm đến mấy lời nhăng cuội của La Đại Hải, lão chỉ vào Hạ Cần rồi hỏi Tư Mã Khôi: “Con nhỏ này là đứa nào vậy?”

Tư Mã Khôi nhìn thấy trên chiếc áo sơ mi Triệu Lão Biệt đang mặc có mấy mụn vá, phía sau lưng cũng có chiếc bóng đổ dài dưới ánh đèn, liền biết lão là người chứ không phải ma. Cậu bèn đem việc của Hạ Cần kể tóm tắt cho lão ta nghe một lượt.

Lúc này, Hạ Cần đã biết Triệu Lão Biệt là bạn của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng nhất thời chưa thể hoàn hồn nhưng vẫn giữ thái độ lịch sự cần có, cô nàng bước đến phía trước giơ tay ra bắt rồi chào hỏi: “Cháu chào Triệu lão sư phụ!”

Triệu Lão Biệt không hề ỏ ê đến cô nàng, quay mặt sang Tư Mã Khôi cau mày tỏ ý khó chịu: “Mỗ đã nói trước không được dẫn theo người ngoài đến rồi mà, các cậu quên sao?”

Tư Mã Khôi lái câu chuyện sang hướng khác: “Việc này để sau tính cũng chưa muộn”. Nói đoạn, cậu kể vắn tắt tình hình trước mắt cho lão ta nghe. Nơi này đúng là cửa tà, nếu có người đứng ở bờ sông khêu đèn lên tiếp ứng thì tốt biết mấy, nhưng bây giờ tất cả bốn người đều ở trong nghĩa địa này rồi, e rằng không đợi đến khi trời sáng hoặc khi mây tan trăng sáng thì rất khó thoát thân.

Triệu Lão Biệt nheo cặp mắt nhỏ ti hí nhìn bốn xung quanh rồi thấp giọng nói: “Thực ra nếu phải đi gấp trong đêm ở nơi núi sâu rừng thẳm thì khó tránh khỏi sa vào hẻm ma ám, nhưng chỉ cần đừng để cô hồn dạ quỷ bám theo mình, thì chẳng có gì đáng ngại nữa cả. Có điều đi đêm tuyệt đối không được im lặng, mà hãy làm theo cách người xưa truyền lại, đi trong hẻm ma thì phải hát hý văn, như vậy sẽ trấn áp được bách tà. Chúng ta vừa hát vừa hét để xông ra khỏi chỗ này nhé!”.

Hội Tư Mã Thiên nghe mấy câu này đều thấy mù mờ chẳng hiểu gì: “Chuyện này bọn tôi mới nghe nói đến lần đâu, đi lạc trong hẻm ma ám phải hát hý văn thật sao? Là vở “Đèn lồng đỏ” hay vở “Núi Đỗ Quyên”? Triệu sư phụ có biết hát không?”

Triệu Lão Biệt không lên tiếng trả lời mà chỉ dặn dò mấy câu: “Các cậu chỉ cần đi theo sau mỗ là được rồi, có điều phải nhớ tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại đằng sau, phía thành trì đèn nến lập lòe đó, nếu không đừng nghĩ thoát khỏi chỗ này”.

Tư Mã Khôi không hiểu ý lão muốn ám chỉ điều gì, liền hỏi: “Sao lão lại nói vậy?”

Triệu Lão Biệt nói: “Tòa thành đó trông giống như ánh lửa ma chơi, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám cỏ úa khói tàn trong rừng cây tạp chủng. Nhìn nó như gần như xa, biến đổi quái dị khó lường, càng nhìn càng cảm thấy mơ hồ, bất luận thế nào chúng ta cũng không thể xác định phương hướng dựa vào vị trí của nó được, ngộ nhỡ bị sa chân vào bên trong, thì chỉ có mà vạn kiếp không thể siêu sinh”. Thì ra khúc hát lão đang ngâm nga trong miệng là bài “Điệu khúc ngâm” đã bị thất truyền từ lâu trong dân gian, tuy rằng tiếng hát khàn đục nhưng lại vang lên giữa đêm khuya, khiến nó càng mang âm hưởng hùng tâm tráng chí, hiên ngang khí phách. 

Không biết có phải bài hát ảnh hưởng đến tâm lý hay không mà khi Triệu Lão Biệt vừa hắng giọng ngân nga mấy câu, hội Tư Mã Khôi đã không còn cảm thấy rùng rợn nữa, vội vàng lên giây cót tinh thần, vùi đầu nhắm thẳng về phía trước. Không ngờ, một lát sau cả hội đã thoát khỏi nghĩa địa và quay trở về chỗ chiếc cầu La Sư vỡ nát bị bỏ hoang. 

Ba người thấy cuối cùng cũng thoát được ra ngoài, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, Tư Mã Khôi càng thêm khẳng định Triệu Lão Biệt chắc chắn là một kỳ nhân bí ẩn khó lường, đừng thấy lão ta ăn mặc lôi thôi quê mùa mà coi thường, lão già này quả ứng với câu “nhìn mặt khó bắt hình dong, nước biển khó lòng đo đếm”. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bám theo xin thỉnh giáo xem vừa rồi rốt cục đã xảy ra chuyện gì? Vì sao khi bị sa vào hẻm ma ám, chỉ cần hát hý văn là có thể tìm đường đi ra được?

Triệu Lão Biệt dường như khi nãy đi gấp quá nên giờ ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Lão ta rút tẩu thuốc châm lửa hút, nhắm nghiền mắt tham lam hít hai hơi vào phổi. Sau khi khoan khoái nhả từng ngụm khói lên trời mới từ từ nhã nhặn trả lời: “Vì sao ấy hả? Chỉ vì – đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ!”

Câu này có nghĩa là gì? Thì ra họ “Hổ” trong câu “đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ” muốn ngầm ám chỉ đến sơn thần, khi lạc đường trong núi tất nhiên phải hát “Ngâm khúc qua núi”.

La Đại Hải cũng chạy đến bên hỏi Triệu Lão Biệt, tòa thành trì rực rỡ ánh đèn nến ở phía xa rốt cục là nơi nào? Trong đó có chồn tinh không?

Triệu Lão Biệt bảo nơi đó là “Thành hàm oan”, bên trong có hai loại ma “hàm oan và uẩn khuất”, ngoài ra còn có năm ngàn âm binh đầu trâu mặt ngựa đứng bên ngoài canh gác, người sống khó lòng tiếp cận. Sau đó, lão móc viên “Ngọc Định Phong” trong người ra, rồi nói chỉ cần có vật này trong tay, thì ta có thể liều chết mà xông vào thành thăm dò một chuyến. Các cậu có gan dám đi cùng mỗ không? 

Hải ngọng nghe nói trong đó không có chồn tinh liền lập tức hứng khởi trở lại, cậu ta nhướng nhướng mày, quệt ngang nước mũi dính trên mặt rồi nói: “Tôi chả bao giờ tin mấy cái món này, chúng ta đều là người có hai cái chân, hai cánh tay, lão cũng chẳng phải kẻ mọc nhiều hơn tôi một cái đầu, chỉ cần Triệu Lão Biệt lão dám đi thì cớ gì La Đại Hải cậu đây không dám hử?”

Tuy rằng Triệu Lão Biệt quả thực có một vài bản lĩnh nhưng lão lại là kẻ bụng dạ hẹp hòi, nhìn thấy La Đại Hải phát ngôn ngông cuồng, thì chỉ cười nhạt, giơ tay trái ra nói: “Thực ra trong mắt mỗ, các cậu chẳng qua chỉ là đám trẻ ranh mới lớn, vì thế các cậu hãy khoan khoác lác! Cậu xem bàn tay trái của mỗ có mấy ngón? chẳng phải nhiều hơn cậu một ngón tay hay sao? Nếu có bản lĩnh cậu thử mọc thêm một ngón nữa cho mỗ đây được mở rộng tầm mắt”.

La Đại Hải thấy Triệu Lão Biệt đúng là có sáu ngón tay thật, đành cãi bừa: “Cái này thì có gì đáng phải đem ra khoe khoang! Lão đừng quên núi cao còn có núi cao hơn. Lão có sáu ngón tay thì không còn biết trời cao đấy dày nữa phỏng? Thực chẳng dám giấu, La Đại Hải tôi đây lúc mới sinh cũng có đến ba cánh tay lận, nhưng ông già tôi hưởng ứng khẩu hiệu vĩ đại của Mao chủ tịch, cần kiệm liêm chính làm cách mạng, ông không muốn lãng phí vải vóc để may thêm một cánh tay áo nữa cho tôi, bèn đè tôi ra lấy dao thái rau chặt phéng đi một cánh, bây giờ cánh tay đó vẫn để ngâm muối ở trong vại dưa nhà tôi đấy, không tin lão cứ theo tôi về nhà mà xem”.

Lúc này Triệu Lão Biệt mới phát hiện loại người như Hải ngọng chẳng thể nói bằng lý được, đành phải ngậm miệng không tiếp lời. Lão ta quay đầu sang nhìn Tư Mã Khôi và Hạ Cần, hỏi hai người bây giờ định thế nào.

Cũng giống như Hải ngọng, Tư Mã Khôi không tin vào mấy chuyện thần quỷ rùng rợn của Triệu Lão Biệt, trên thế giới này làm gì có chuyện tồn tại “Thành hàm oan”, cậu cũng quyết định phải vào đó một chuyến để nhìn xem rốt cục nó là cái gì. Còn Hạ Cần không dám ở lại đây một mình, nên một lần nữa đành phải lựa chọn đi theo bọn họ.

Bốn người từ lòng sông đi vòng qua khu nghĩa địa rộng lớn, rồi lại quanh co mấy vòng rất xa. Nói ra cũng lạ, lần này cùng với sự di chuyển của bước chân, tòa thành trì lập lòe ánh lửa ma quỷ cách họ càng lúc càng gần. Đợi khi đến thật gần, Triệu Lão Biệt đột nhiên dừng lại, thổi tắt đèn kéo quân và lấy tay ra dấu, bảo hội Tư Mã Khôi quỳ xuống, phủ phục trong ổ cỏ, lặng lẽ nhìn về phía trước.

Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ lại, chỉ thấy trong đám mộ hoang cỏ dại có từng quầng lửa liên tục nhấp nháy lập lòe, thì ra đó là đom đóm, số lượng nhiều không kể xiết, chúng lập bầy lập đàn bay lượn giữa cánh đồng hoang, nhung nhúc kết bè với nhau tạo thành bức bình phong tường thành, chỉ thấy ánh sáng xanh ngập trời, biến hóa khôn lường, từ đằng xa nhìn lại quả đúng là một kỳ quan độc nhất vô nhị. Có thể nói không ngoa rằng nó chẳng khác nào một tòa thành lửa di động.

Hồi 5: Đom đóm

Bầy đom đóm kết bầy kết đàn bay lượn vờn vũ đầy trời, ánh sáng mơ ảo tụ hợp lại, khiến “Thành hàm oan” bị chôn sâu dưới lòng đất một lần nữa được tái hiện giữa nhân gian.

Ba người nấp đằng sau lưng Triệu Lão Biệt cứ tròn mắt nhìn mãi cho đến khi hoa hết cả lên, lúc này cả hội mới hay “thành đom đóm” mà lúc trước họ nhìn thấy từ đằng xa chỗ bãi cỏ hoang hóa ra lại là hàng triệu con đom đóm tập hợp lại mà thành. Nếu không phải đêm nay tất cả đều được tận mắt chứng kiến thì khó lòng tưởng tượng được trên thế gian này lại có kì quan độc đáo như vậy.

Tư Mã Khôi nhớ lại việc từng nghe người ta nói câu “cỏ mục hóa sâu”, đom đóm âu cũng là loài vật được hóa thân từ cỏ dại mục nát. Nếu chúng tâp hợp lại thành đàn lớn ở chỗ nào thì chỗ đó âm khí ngưng tụ dày đặc, bọn chúng hễ ngửi thấy mùi dương khí tỏa ra từ người sống lập tức rút lui và “thành đom đóm” cũng theo đó mà từ từ di chuyển. Lúc trước vì ba người hội Tư Mã Khôi lấy ánh sáng đom đóm phía xa làm vật tham chiếu nên họ mới bị lạc đường trong nghĩa địa. Bất luận bạn đi nhanh hay đi chậm, tiến hay lui, sớm muộn gì cũng sẽ bị mất cảm giác phương hướng, càng đi càng như sa vào mê cung chẳng khác nào bước chân vào “hẻm ma ám”.

Nhưng vì sao bây giờ bọn họ lại có thể ở cách “thành đom đóm” gần đến thế? Tư Mã Khôi thầm băn khoăn một lúc, rồi cuối cùng cũng hiểu ra nguyên nhân. Chắc chắn là do âm khí tỏa ra từ viên “Ngọc Định Phong” rất nặng, nó đủ sức che lấp và lấn át sinh khí toát ra từ cơ thể bốn người sống. Có điều, đến lúc này cậu vẫn không thể lý giải nổi vì sao Triệu Lão Biệt phải tìm đủ mọi cách để tiếp cận “thành đóm đóm”.

Đúng lúc đó chợt thấy Triệu Lão Biệt cố tình hạ giọng thật thấp, nói với ba người Tư Mã Khôi: “Bọn đom đóm giống như ánh lửa ma chơi kia đều từ xác chết thối rữa hoặc cỏ khô mục nát hóa thân thành. Mỗ trộm nghĩ thành trì được tạo ra bởi vô số con đom đóm như thế này hẳn không phải là cảnh tượng mà người ở trần gian có thể nhìn thấy. Chuyện này đủ sức chứng minh phía dưới lòng đất chắc chắn có chôn giấu một vật mà âm khí nặng nề không thể tưởng tượng được, chỉ có nó mới đủ sức khiến lũ đom đóm kết bầy kết đàn tụ tập lại với số lượng lớn, hơn nữa lũ đó chỉ bay thêm vào chứ chẳng thấy con nào bay đi. Cả đời Triệu Lão Biệt mỗ đây bắt đầu đi tìm từ Quan Đông tìm tới Quan Trung, rồi lại tìm suốt mấy tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, gót chân in khắp nửa vùng trời, hao tổn không biết bao nhiêu thời gian và tâm huyết, cũng chính là để tìm kiếm vật này đây. Tiếc thay một bàn tay chẳng thể phát ra tiếng, bây giờ được các cậu sát cánh tương trợ như thế này thì còn gì bằng. Sau khi xong việc, mỗ nhất định sẽ báo đáp hậu hĩnh”.

Thì ra Triệu Lão Biệt là kẻ vô cùng tinh thông cổ thuật, ngoài bản lĩnh biệt bảo ra, lão còn được kỳ nhân truyền thụ cho Liễu Trang tướng pháp vô cùng thâm hậu. Những bí thuật như bát quái ngũ hành, kỳ môn tuần giáp lão đều thuộc làu như lòng bàn tay. Thường ngày lão vẫn đi khắp thôn cùng ngõ tận để tìm kiếm bảo vật quý hiếm, vô tình được biết ở gần mộ địa dưới chân cầu La Sư có “thành đom đóm”, tòa thành này biến hóa khôn lường, và chỉ xuất hiện giữa đêm hạ chí vào những năm đặc biệt.

Nghe nói những con đom đóm này đều được hóa thân từ lửa ma chơi hoặc lân quang trong thành hàm oan. Tòa thành lửa như bóng ma ấy ẩn hiện bất định, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, mà chỉ trong những năm liên tiếp xảy ra trộm cướp, thiên tai, khi cánh cửa âm tào địa phủ mở rộng ra để thu nạp người vào bên trong thì nó mới xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện của nó chẳng mang theo bất kỳ điềm báo tốt lành nào.

Triệu Lão Biệt suy đoán ở gần “thành đom đóm” nhất định có chôn giấu một vật gì đó rất kỳ dị, không những thế vật đó còn hút cạn cả tinh hoa nhật nguyệt, linh khí trời đất, khiến cả dải long mạch đều trở nên khô cằn. Vật đó tuyệt đối là vật vô cùng khác thường. Chỉ có cách kiếm cơ hội dò tìm tông tích, làm rõ xem căn nguyên của “thành đom đóm” rốt cục nằm ở chỗ nào, như vậy mới có thể thi triển bí thuật biệt bảo.

Thành phố Trường Sa diện tích lên đến cả trăm dặm, chỗ nào cũng là đất phong thủy “Chín rồng hội tụ”. Ở đây tất cả có chín dải long mạch, chín dải đó hình thành nên nhiều loại địa thế khác nhau, độ tốt xấu cũng không nơi nào giống nơi nào. Dải đất quanh khu vực này mộ cổ đặc biệt nhiều, mộ cũ có khi có từ thời Xuân Thu chiến quốc, mộ mới cũng phải bắt đầu từ thời Minh thời Thanh. Ở đó mai táng vô số bậc vương hầu tướng quân và những người quyền cao chức trọng. Thông qua địa hình nơi phát hiện ra mộ cổ, ta có thể đại khái tiến hành phán đoán – những người được chôn ở nơi có địa thế bằng phẳng, mộ phần thường sơ sài qua loa, ngược lại những người được chôn ở nơi sơn cùng thủy tận, thì mộ phận lại vô cùng sa hoa tráng lệ.

Có điều Triệu Lão Biệt không phải dân trộm mộ, thứ mà lão muốn tìm là dải long mạch nghèo nàn, cũng chính là dải đất kéo dài từ “Hắc ốc” hoang phế cho đến “nghĩa địa La Sư”, bởi “thành đom đóm” chỉ xuất hiện ở xung quanh khu vực này. Từ trước đến giờ lão đã tiến hành thăm dò, khảo sát rất nhiều lần, cuối cùng cũng đã phát hiện ra “nghĩa địa La Sư” là vùng đất hoang có vô số mộ phần nằm san sát liền kề nhau, trong đó có rất nhiều ngôi mộ cổ, tất cả là những mộ huyệt chôn người chết từ những năm trước thời Dân Quốc, đa số mộ phần ở đây đều không có bia mộ, địa hình nhấp nhô bị cây dại cỏ hoang cao ngút ngàn che phủ, chồn hoang rất thích náu mình bên dưới mộ huyệt âm u lạnh lẽo, vì thế phía dưới mộ cỏ, đâu đâu cũng toàn là hang mộ do chồn hoang đào bới.

Những hang ổ và hố mộ này có độ nông sâu rất khác nhau, giăng mắc chi chít như bàn cờ, bên ngoài lại bị cỏ hoang che khuất, dường như chẳng ai phát hiện ra hiểm họa ở ngầm sâu dưới lòng đất. Nếu ai đó đi ngang qua, lỡ rủi thụt chân xuống hố, cho dù may mắn không bị gẫy chân nhưng đợi khi khó khăn lắm mới rút được ra ngoài thì chuột đồng, chồn hoang ẩn trốn trong hang đã gặm hết sạch da thịt, giơ cẳng lên nhìn, chỉ thấy lòng bàn chân trơ lại đoạn xương trăng trắng, lấp ló lộ ra giữa đám máu nhầy nhụa. 

Nơi này cho dù đi giữa thiên thanh bạch nhật cũng rất dễ bị lạc đường, nói chi “thành đom đóm” lại chỉ hiện hình vào giữa đêm khuya, không những vậy chỉ cần người sống tiến đến gần, nó lập tức di chuyển sang chỗ khác, vì thế muốn truy tìm tông tích của nó đâu phải chuyện dễ dàng. Nếu ai mù quáng đi đào bới lung tung giữa khu nghĩa địa thì chẳng khác nào mò kim đáy bể.

Trên đời này vạn việc thành bại đều nằm ở chữ duyên, duyên chính là cơ hội, vì thế còn gọi là “cơ duyên”. Cơ duyên cái thứ này chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Triệu Lão Biệt tìm kiếm khắp nơi trong nhiều năm ròng, vắt kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm thấy viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án mục ở Hắc ốc. Có thể nói lão ta đã chuẩn bị vạn sự đều đầy đủ, chỉ còn thiếu gió Đông. Bây giờ, điều lão đang chờ đợi chính là thời cơ tiếp cận “thành đom đóm”.

Triệu Lão Biệt dự đoán vật mà mình đang muốn tìm hẳn là một vật khá lớn, muốn vận chuyển nó từ mộ huyệt dưới lòng đất về thành phố chắc không phải điều dễ. Bởi vậy lão liền tìm cách lôi kéo hội ba người Tư Mã Khôi đến giúp sức, đồng thời còn hứa thưởng lớn cho bọn họ. Nhưng chiếu theo lệ cũ, trước khi sự việc thành công thì tuyệt đối không cho những người đi theo giúp đỡ được biết những chi tiết cụ thể.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ chỉ định đi theo để tìm hiểu rõ ngọn ngành, giờ tự dưng lại nhìn thấy cái lợi trước mắt, đương nhiên đều nhận lời cả. Hạ Cần biết rõ cái cậu Tư Mã Khôi này một khi đã quyết định phải làm việc gì thì cho dù Lão Tử Thiên Vương thò ra ngăn cản cũng không thể ngăn nổi. Việc đã đến nước chỉ có tiến mà không có lùi, nên cô nàng đành đồng ý đi theo giúp sức.

Triệu Lão Biệt vẫn có đôi chút chưa yên tâm, liền nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta cứ mất lòng trước được lòng sau mà đánh bài ngửa với nhau thì hơn, sau khi sự việc thành công, chỉ cần những thứ Triệu Lão Biệt mỗ đây có, cái gì cũng đều có thể cho các cậu, nhưng chỉ duy vật mà đêm nay mỗ tìm thấy thì không thể được”.

Tư Mã Khôi giọng bất cần nói: “Lão phải nhìn xem Tư Mã Khôi này là ai chứ hả, chí ít tôi cũng là kẻ xuất thân từ lục lâm. Ngày trước trong gia phủ nhà tôi, có loại ngọc quý, bảo vật nào mà không có hả? Ngay đến sợi dây thừng buộc lừa ở chuồng gia súc phía sau vườn cũng là sợi dây thừng gai mà Dương Quý Phi dùng để treo cổ tự vẫn ở dốc Mã Ngôi, giấy dán tường đều là bản đồ địa lý càn khôn của Bắc Tống. Lão tưởng tôi thèm cái của lão đào được ở nơi núi hoang rừng thẳm này hay sao?”

Triệu Lão Biệt không chỉ đồng tử nhỏ mà tâm địa càng nhỏ hẹp hơn, lão ta lại thường lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, từ bụng ta mà suy ra bụng người, nghe xong mấy lời của Tư Mã Khôi vẫn chưa dám tin, liền gặng hỏi lại: “Lời này có thật không vậy?”

Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: “Ông mày là hạng người nào mà lời nói ra còn không đáng tin hử?”, nghĩ vậy liền cất lời thề độc: “Triều đình có vương pháp, giang hồ có luật lệ, kẻ vô lại làm chuyện trái với lương tâm, khó tìm chốn dung thân trong thiên hạ. Có mười tám vị la hán sư tổ ở trên trời chứng giám, nếu như tôi nói nửa lời gian dối, sẽ chết không có chỗ chôn thây”.

Triệu Lão Biệt nghe xong liền gật đầu: “Lời thề như thế là đủ trọng lượng rồi, xem ra Tư Mã đầu lĩnh quả nhiên không phải là người chỉ biết nói xuông. Bây giờ thời gian không còn sớm nữa, chúng ta phải mau chóng bắt tay hành sự mới kịp”. Nói xong lão liền dẫn ba người Tư Mã khôi mai phục trong lùm cỏ, khẽ khàng theo sát “thành đom đóm” đang không ngừng di chuyển giữa cánh đồng cỏ hoang.

Lúc bấy giờ bầu trời tối đen như mực, bốn bề chỉ thấy rất nhiều con đom đóm lẻ đàn từ nơi nào sâu trong lùm cỏ chập chờn bay ra, không ngừng gia nhập vào “thành đom đóm”, bức tường lửa được kết tụ bởi ánh sáng của ngàn vạn con đom đóm tỏa ra từng quầng sương sáng xanh nhấp nháy, trông rực rỡ như chốn thiên đình.

Vì khoảng cách rất gần, nên giờ đây trong mắt họ điều duy nhất có thể nhìn thấy là hàng đàn hàng đàn đom đóm chen chúc nhấp nháy tỏa sáng, chúng quyện vào nhau tạo thành từng vòng sương ánh sáng, bay lượn bất định. Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn những con đom đóm thoắt nhiên tiêu tan như ảo mộng, thật khiến người ta hoa hết cả mắt mũi, cứ ngỡ mình đang lạc vào cõi mơ, cảm thấy giờ đây mắt không còn đủ dùng nữa.

Triệu Lão Biệt quan sát tỉ mỉ một hồi lâu, cuối cùng cũng nhận ra dòng chảy đom đóm phần lớn đều túa ra từ phía sau một ngôi mộ hoang. Nơi có thể khiến cỏ khô hóa thành sâu bọ chắc chắn phải là vùng đất âm khí vô cùng nặng nề, tối tăm mục rữa, xem ra dưới lòng đất chỗ đó phải có chút gì cổ quái. Nghĩ vậy, lão liền dẫn ba người dò dẫm đi về phía trước.

Giữa lùm cỏ là một hố sâu trũng hơn những vùng khác một chút, nhìn địa thế của nó rất giống với hình dạng đáy nồi, bên trong mọc đầy cỏ dại. Nhổ mấy đám cỏ cao hơn đầu người lên, bọn họ liền nhìn thấy một đường nứt bị cỏ che lấp ở phía dưới. Khe nứt đó hẹp và dài, độ sâu phải đến hàng mét, chỗ rộng nhất một người có thể chui lọt. Trên hai mép vách đất âm u lạnh lẽo, rễ cỏ bám chắc kết bánh lại với nhau, bên trong um tùm rậm rạp, giữa đám cỏ hoang ấy là la liệt những con nhộng đom đóm chưa kịp thành hình, ở nơi sâu nhất, từng luồng gió lạnh thổi vù vù, phía dưới đen ngòm ngòm không thể nhìn thấy đáy. 

“Nghĩa địa La Sư có kết cấu địa chất lỏng lẻo, lại thêm thời tiết nắng nóng, ít mưa nên ở đây xuất hiện khá nhiều khe nứt kéo dài, độ nông sâu không giống nhau, thêm vào đó là sự hoành hành của vô số chuột đồng và chồn hoang, chúng tạo ra không biết bao nhiêu hang hố dưới lòng đất, những hang hố này không kiên cố, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ sụt lở cùng với sự chuyển động của đất đá. Bởi thế chẳng ai muốn bước chân vào nơi này trừ phi cảm thấy chán sống.

Bọn họ thả dây thừng dài mười mấy mét xuống bên dưới chiếc hố, nhờ vào ánh sáng chập chờn mờ tỏ của ngọn đèn, mọi người có thể thấp thoáng nhìn thấy một viên đá đen ở trong khe đất. Bề mặt của nó lồi lõm không bằng phẳng, lỗ chỗ nhiều hố to nhỏ khác nhau, chất liệu mịn bóng như ngọc. Viên đá đó trông to như cái đấu đong gạo, ước chừng nặng khoảng mười mấy cân, phát ra ánh sáng lạnh lẽo yêu dị dưới ánh đèn.

Triệu Lão Biệt nằm rạp ra đất, quăng một sợi dây thừng dài xuống bên dưới, rồi thò cả người ra mép hố để nhìn cho rõ. Vừa nhìn thấy vật ấy, lão ta liền kích động đến nỗi hai tay run lẩy bẩy, miệng lầm bầm không ngớt: “Ông trời có mắt”.

Ngược lại với thái độ mừng rỡ tột độ của Triệu Lão Biệt, hội Tư Mã Khôi dường như bị rơi vào màn sương mù, trước đây bọn họ vẫn cho rằng bảo vật mà lão ta muốn tìm kiếm ắt phải là thứ gì đó vô cùng kinh thiên động địa, ai ngờ nó chỉ là một viên đá đen không hề bắt mắt một chút nào.

Sau khi định vị chính xác vị trí của viên đá, Triệu Lão Biệt liền kéo chiếc đèn kéo quân lên, cởi sợi dây thừng ra rồi buộc vào ngang thắt lưng mình. Lão ta muốn tự xuống dưới đó lấy báu vật, đồng thời bảo với hội ba người Tư Mã Khôi đứng ở bên trên để thả dây.

Hạ Cần thấy vô cùng hiếu kỳ, cô nàng không nhịn nổi đành quay sang hỏi: “Xin hỏi Triệu lão sư phụ, vật đó có phải quặng đá không vậy?”

Triệu Lão Biệt không thể che giấu được sự đắc ý đang dâng trào trong lòng, liền cười hì hì đáp lời: “Cái gì? Quặng đá? Ha ha! Cái con nhóc miệng còn hôi mùi sữa nhà cậu đúng là cóc hiểu biết gì cả, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt mỗ đây trông giống một tên đi khai thác quặng đá lắm sao?”

La Đại Hải ăn không tiêu mấy lời này của lão ta, liền vênh mặt lên hất hàm nói: “Đừng có giở trò úp úp mở mở với bọn này, niệm tình chúng ta từng quen biết nhau, nên tôi có lời cảnh cáo, lão tuyệt đối không nên đánh giá sai lầm về tình thế mà lão đang phải đối mặt, nếu bây giờ không lập tức giải thích rõ ràng mọi chuyện cho bọn tôi nghe, lão có tin đợi sau khi lão bò xuống tới nơi, bọn tôi ở trên này sẽ xúc đất chôn sống lão không hử?”

Triệu Lão Biệt nghe xong trong lòng thất kinh, lão tuyệt đối tin rằng loại người như Hải ngọng nói được là làm được, vì thế đành mềm giọng xuống nước: “Các thiếu gia xin chớ làm thế, cứ cho là khi nãy mỗ phỏng đoán sai lầm tình thế trước mắt đi, như thế là được chứ gì? Các cậu tuyệt đối đừng giở chiêu đó ra với mỗ đấy!”.

La Đại Hải không kiên nhẫn thêm được nữa, liền đốp lại: “Cái gì mà coi như? Tiên sư nhà lão, khi nãy chính xác là lão phỏng đoán sai con mẹ nó rồi. Mau nói cho bọn tôi biết rốt cục viên đá đó là thứ gì?”

Triệu Lão Biệt bí thế đành phải tạm thời giải thích ngọn ngành, tẩu thuốc vẫn không rời miệng, lão lại ngồi xổm xuống đúc đầy sợi thuốc vào trong tẩu, vừa phì phèo hút vừa hỏi mấy người hội La Đại Hải: “Các cậu có biết thứ này xuất xứ từ đâu không?”

La Đại Hải và Hạ Cần nào có biết nó từ đâu đến, nên khi bị hỏi lập tức cứng miệng không tiếp lời nổi. La Đại Hải giận quá hóa khùng, liền mắng luôn: “Đừng nhiều lời, biết rồi thì còn hỏi lão làm cái chết tiệt gì?”. Chỉ có Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt coi viên đá đen không hề bắt mắt ấy là vật báu, trong bụng suy đoán vật này tuyệt đối không phải loại tầm thường. Suy nghĩ thêm một chút, cậu trả lời: “Đây là khu nghĩa địa bỏ hoang chẳng hề có bóng dáng con người, nếu không phải do tự nhiên sinh ra thì chắc hẳn là do người cổ xưa chôn nó ở đó, nhưng không hiểu rốt cục lai lịch cụ thể của nó như thế nào”.

Phàm là những người có bản lĩnh thực sự đều không muốn đem sự tình nói ra tuốt tuột, bởi như vậy sẽ thể hiện bản thân là kẻ nông cạn. Triệu Lão Biệt cũng mắc phải tật đó, lão ta đắc ý cười hì hì: “Vật này vô cùng quý hiếm, ngay cả Từ Hy thái hậu đương thời cũng chỉ có một mẩu to bằng cái móng tay thôi. Cậu muốn hỏi lai lịch của nó ấy à?”, Triệu Lão Biệt nói đến đây thì cố tình ra vẻ thần bí đưa tay chỉ lên trời: “Nó từ trên trời rơi xuống đấy!”

Tư Mã Khôi ngơ ngác chưa hiểu ý lão định ám chỉ điều gì, liền ngửa mặt lên nhìn bầu trời đêm, đột nhiên cậu bừng tỉnh ngộ, quay sang hỏi: “Lẽ nào, đây là … Lôi Công Mặc (người Trung Hoa cổ đại gọi vẫn thạch pha lê là Lôi Công Mặc)

Triệu Lão Biệt gật đầu công nhận: “Vật này có rất nhiều tên gọi khác biệt căn cứ theo từng khu vực và niên đại, giới quan lại và dân thường cũng gọi nó bằng những tên không giống nhau, có nơi còn gọi nó là đá Lôi Công hoặc Tịch Lịch Kham. Thực ra cái gọi là Lôi Công Mặc hay đá Lôi Công nói toẹt ra chẳng qua là một cục thiên thạch từ trên trời rơi xuống. Theo các ghi chép trong sử sách, năm đó có một viên đá Lôi Công trên mình còn mang theo lửa trời rơi xuống thành Hàm Dương, thiêu cháy toàn bộ đám đông vây xung quanh thành tro bụi, chất liệu của đá Lôi Công được so sánh với ngọc đen, nó đã được luyện qua sức nóng không thể tưởng tượng nổi, lại từ trên trời rơi xuống, cho nên được người xưa coi là báu vật, thậm chí còn tôn nó thành bí mật của trời đất”.

Triệu Lão Biệt lại nói: “Đâu chỉ có vậy, tương truyền từ rất xa xưa, đá có thể trấn tà, Lôi Công Mặc vô cùng thích hợp để dùng làm “trạch tiên”. Những hộ giàu có bậc nhất ở Sơn Tây, Sơn Đông ngoài vườn đều có từ đường hoặc miếu thờ, bên trong đó người ta thường đặt than Lôi Công, để bảo vệ cả gia đình được bình an, vinh hoa phú quý, không cầu mà được, thu nạp hết vàng bạc của cải trong thiên hạ, mà không cần phải lao động vất vả nữa”.

“Nghĩa địa La Sư” là một long mạch trong quần thể long mạch “Chín rồng hội tụ”, mỗ e rằng viên Lôi Công Mặc này chính là viên ngọc được ngậm trong miệng rồng. Tuy rằng thiên thạch không phải vật hiếm có trên thế gian nhưng đa số chúng đều mang thuộc tính của đá hoặc sắt, chỉ có những viên có chất liệu giống như ngọc đen mới được gọi là “Lôi Công Mặc”, than đá là vật có âm khí rất nặng, nó có khả năng hủ hóa cỏ mục, thu hút dòng chảy đom đóm trong núi tụ tập lại với nhau xây thành dựng quách. Có thể nói không ngoa rằng, nó chính là một bảo vật hiếm có trên đời.

Nhưng theo ghi chép trong sách cổ, nếu muốn thờ phụng “Lôi Công Mặc” làm trạch tiên thì cũng không thể làm tùy tiện được, bởi nếu lỡ có chút sai sót, nó sẽ đem lại tai ương cho gia chủ. Vì thạch tính của Lôi Công Mặc âm khí quá nặng, người sống khó lòng đến gần, chỉ khi nào tìm được viên ngọc được tiết ra từ cơ thể con rết già, sau đó mang viên ngọc đó nhét vào bên trong Lôi Công Mặc để dưỡng khí. Thời gian lâu dần, trên bề mặt của than đá sẽ từ từ sản sinh ra một tầng biểu bì, đến lúc đó âm khí tối tăm của viên Lôi Công Mặc mới hoàn toàn tiêu tán.

Không chỉ có vậy, gia chủ ngày nào cũng phải giết mổ gà đen, chó trắng, rồi mang tiết gà, tiết chó còn tươi nguyên tưới lên phần biểu bì của viên Lôi Công Mặc, chỉ khi thờ cúng được như vậy mới có thể giữ được trạch tiên. Từ đó trở về sau nhà Lão Triệu ta sẽ phú quý vô biên, vinh hoa vô hạn, phát tài không ngớt, hưởng hết mọi phúc đức trên đời. Nhưng nếu chỉ cần một ngày ngơi nghỉ hương hỏa cho trạch tiên, tất cả mọi đen đủi rủi ro sẽ lập tức giáng xuống đầu, không chỉ khiến gia chủ khuynh gia bại sản mà còn phải gánh chịu vô số tai họa, có muốn tránh cũng không thể tránh được.

La Đại Hải nghe xong cảm thấy không thể tin được, liền nói xen vào: “Nếu thật như vậy chẳng phải ngày nào đêm nào cũng nơm nớp lo sợ hay sao? Xem ra kẻ vô sản triệt để như bọn ta lại hóa ra thoải mái hơn cả, giai cấp vô sản chúng mình sẵn sàng đạp cả táo quân vương gia dưới gót giày, chỉ cần nhấc chân một cái là cả nhà lên đường, cuộc đời này lấy tứ hải làm nhà, sống tiêu dao tự tại, chẳng cần lo nghĩ gì sất”.

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy những lời của Triệu Lão Biệt vừa nói không phải sự thật, đi đâu tìm mới có thể tìm thấy gà đen chó trắng mỗi ngày? Lão già này đi đào quật “Lôi Công Mặc” chắc chắn phải có ý đồ gì khác, nhưng trong lòng cậu cũng biết rõ cho dù có hỏi gặng nữa thì lão ta cũng không nhổ ra chân tướng sự việc, vì thế cậu đành giữ im lặng.

Lúc này Triệu Lão Biệt đã hút gần hết điếu thuốc, những lời cần nói thì đã nói cả rồi nên bây giờ lão liền đứng dậy chui vào trong khe nứt, ba người còn lại hợp sức kéo dây thừng, cẩn thận từng chút một thả lão xuống bên cạnh viên “Lôi Công Mặc”.

Triệu Lão Biệt dùng tay nhổ mấy bụi cỏ, giẫm chân lên lớp đất, phủi hết kén nhộng đom đóm sang một bên. Căn cứ vào tàn tích để lại gần đó, thì có thể nhận ra nơi này trước tiên bị thiên thạch từ không trung rơi xuống, sau đó địa tầng mới nứt rạn. Giờ đây viên Lôi Công Mặc đen nhánh một cách dị thường lại treo mình chơi vơi ở giữa khe nứt, cách hai mép vách một khoảng tương đối gần, chắc chỉ rộng như nắm đấm là cùng, dường như chỉ cần khẽ lay động, nó sẽ thuận chiều lăn xuống vực sâu phía dưới.

Triệu Lão Biệt không muốn “miếng ăn đến miệng còn để rơi”, nên lão vô cùng cẩn trọng. Lão ta bảo Tư Mã Khôi thả sợi dây thừng thứ hai xuống, đoạn nhẹ nhàng buộc vào viên Lôi Công Mặc, xem chừng vòng buộc đã chắc chắn, lão ta mới giơ đèn kéo quân lên huơ huơ vài vòng giữa không trung.

Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn thấy tín hiệu, lập tức gắng hết sức kéo sợi dây thừng lên. Không ngờ cùng với sự tác động của ngoại lực, một ngọn lửa ma quỷ màu xanh lam nhạt đột nhiên phun ra từ trong đêm tối, phút chốc cả khe nứt vụt sáng bừng. Triệu Lão Biệt không kịp tránh sáng bên cạnh, liền bị ngọn lửa bén mồi. Lão ta đau đớn kêu lên thảm thiết, hai chân đạp bừa vào vách đất. Chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa u hồn đó liếm đứt hai sợi dây thừng, Triệu Lão Biệt và viên Lôi Công Mặc cùng lúc rơi vèo xuống phía dưới, đất đá bùn cát bị sụt lở, rào rào rơi theo, chôn sống lão ta dưới lòng đất.

Hồi 6: Bọ cạp đảo đầu bò tường

Gần mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều “lò lửa”, những lò lửa đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn Hydrocacbua dưới lòng đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.

Lần này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại vừa vặn nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua, lão nhờ mọi người buộc sợi dây thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép khe bị sụt lở, hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe “phừng phừng”, quả cầu lửa thiêu đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy dụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết gào thét cha mẹ, sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đoạn, cả người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ đất sâu hun hút.

Hội ba người Tư Mã Khôi nhìn thấy sự việc diễn ra ngoài dự liệu liền vội vàng trườn người xuống xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng bị rơi tắt cả lửa, dưới đáy hố tối như hũ nút, không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì ở bên trong.

May mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén nhộng đom đóm, hàng ngàn vạn con đom đóm bị giật mình, bay túa ra từ gốc cỏ, điên loạn đâm lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, bị một đụn nham thạch thò ra chắn lấy, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.

Tư Mã Khôi ở bên trên ra sức hét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu, không nghe thấy tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, bèn định mạo hiểm lao xuống cứu người.

Hải ngọng thấy vậy vội cuống quýt can ngăn: “Thằng điên này! khe đất kia là cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt lở, cậu giờ mà xuống chắc chắn sẽ bị nó chôn sống dưới đó. Lưng dắt mỗi cái cào gẫy mà dám liều mạng vào rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh ngộ, lúc này không phải lúc giở thói anh hùng ra đâu nhé!”.

Hạ Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết hỏi rối rít: “Bây giờ phải làm sao? Hay là chúng ta mau quay về tìm người đến giúp….”

Tuy rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo cho cậu, Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có với bản lĩnh rất đỗi phi phàm, nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa La Sư này thì quả là đáng tiếc, cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi không thể nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang hông, đầu thoắt nghĩ một thoáng bèn nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa dây lưng của hai người cho mình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi thân bò xuống khe nứt phía dưới.

La Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống hố của Tư Mã Khôi, cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải “đầu hướng lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới”, nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta “Đỉnh đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông chẳng khác nào một con thạch thùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò xuống”, hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này trước đây, cho nên giờ cứ ngây người ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay trên cổ họng.

Thì ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục lâm được tổ tiên truyền lại, có tên “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, hay còn gọi “cởi giầy ngược”. Nghe nói, món “Bọ cạp bò tường” này vốn là một môn trong nghệ thuật xiếc dân gian, quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở Trung Quốc phải kể đến huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc, nơi này từ ông cụ đã 99 tuổi đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai người nào người nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề dắt lưng, phòng khi gặp phải những năm tình cảnh làm ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác mãi nghệ mua vui cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là truyền thống của người bản địa đời con nối đời cha từ thời thủa xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách tường mộ thấy khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc thời cổ đại như “rốn đội bát, bọ cạp bò tường, lửa sao băng”, điều đó chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lịch sử rất lâu đời.

Tuy nhiên trong các động tác tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu “bọ cạp đảo đầu bò tường” đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, những kẻ nắm giữ được bí kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an, khi bọn họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này không ai không kinh ngạc, liền đặt tên cho tư thế đó là “bọ cạp đảo đầu bò tường”.

Kỳ thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ “bọ cạp đảo đầu bò tường” rất thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm thử nghiệm chúng, thậm chí những người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra tư thế quái dị đó. Tổ tiên mấy đời trước nhà Tư Mã Khôi từng làm quân quan trong quân đội thời mạt Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới lục lâm, thực sự là người có bản lĩnh “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ” nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học Văn Võ tiên sinh và luyện thành một thân tuyệt kỹ. Có điều hỏa hầu chưa đủ đượm nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó trước mặt người khác.

Lúc này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách nhanh chóng di chuyển xuống phía dưới, chẳng mấy chốc đã bò xuống cạnh thi thể Triệu Lão Biệt, nhờ vào ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện mũi và miệng lão ta đều đang chảy máu, nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng chiếc áo da thú dày dạn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn tay tử thần nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể vô cùng nghiêm trọng, thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão phập phồng hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng trở lên, nói không chừng vẫn còn cơ hội cứu sống.

Tư Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão Biệt, sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đang đeo trên người, rồi buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô, hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng vũ trang dùng cho quân nhân khá chắc chắn nên cậu có thể miễn cưỡng lôi lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt ngắm nhìn lớp đất dưới đáy khe, nó trông có vẻ rất yếu ớt, chẳng biết sẽ sụt xuống lúc nào, cậu không dám chần chừ nán lại đây lâu thêm nữa. Trong lúc Tư Mã Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh lại. Lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở phía dưới khe nứt.

Tư Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, thuận theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên vẫn thạch pha lê vừa vặn rơi cách đó chừng nửa mét về phía dưới, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần dang tay ra là có thể chạm tới.

Dường như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc theo cùng, bởi vì khe đất sâu cả mấy trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng nhưng tà niệm tham sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu nên đến giờ vẫn còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.

Tư Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt trên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả, hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ bị lở ra và rơi xuống càng mạnh mẽ hơn. Cậu nhìn thấy tình hình không hay, trong lòng thầm định lượng sự sống mới là điều quan trọng, làm gì còn tâm trạng nào mà để ý đến viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn cậu liền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt kỹ “bọ cạp bò tường” leo ngược lên mặt đất.

La Đại Hải và Hạ Cần đứng ở bên trên nhìn từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống, lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới nấm mồ, bọn họ không tự chủ nổi cơ tim co thắt lên từng hồi. Cuối cùng khi thấy cậu ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một tiếng “ầm ầm” nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy xuống, lấp kín mít miệng hố, viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.

Tư Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm đìa lưng áo, cậu ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Khi nãy, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt khiến cậu làm mà không hề suy tính nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn hết cả chân tóc, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới lòng đất kia rồi.

La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt sang bên cạnh nhìn thấy thương thế của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay than dài: “Vừa bị bỏng lại vừa bị ngã thế kia, lão này chắc tiệt đường sống rồi, chỉ e bây giờ có đưa đến bệnh viện cũng không còn kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, bọn ta hãy đào một cái hố chôn lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn mình chẳng gánh vác nổi đâu”.

Tư Mã Khôi định thần lại, nói: “Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ lên đây, ít ra cậu cũng phải nghĩ ra cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ. Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn quách ngay được?”

La Đại Hải bất lực bảo: “Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được? Không tin cậu cứ thử nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa, chẳng mấy chốc nữa là lão cất bước xuống hố nghe dế kêu cho mà xem”.

Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: “Mẹ của Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân khu, chắc chắn con nhỏ cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, ít nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ”. Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt, sau đó sẽ tìm biện pháp đưa đi bệnh viện.

Hạ Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi, làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy cô nàng cũng hiểu biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức. Nhưng bây giờ nhìn thấy cả người Triệu Lão Biệt bê bết toàn là máu, gương mặt lại bị cháy mất một nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài, trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu óc cô nàng chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ “hoảng sợ”, thì làm gì còn nghĩ ra nổi cách nào mà cứu chữa. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô nàng làm bác sĩ không sai, nhưng bà lại là bác sĩ khoa sản.

Tư Mã Khôi thực lòng không muốn nhìn thấy Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời nên dù chỉ còn một tia hi vọng, cũng đừng mong cậu bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu Hạ Cần: “Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ chứ gì, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi nhiều thế, chỉ cần chữa được ngựa chết thành ngựa sống là ổn. Nói chi ông lão Triệu đang nằm cong queo chờ chết đằng kia chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu”.

Hạ Cần không nỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn cũng bị gẫy mất mấy thanh, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết trong, miệng lão sủi lên toàn bòn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên bọn họ căn bản khó có thể đưa lão đến bệnh viện được, mà cho dù có đưa tới nơi chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.

Tuy Hạ Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi nhưng cô nàng vừa không có kinh nghiệm lại không có y cụ, cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Hạ Cần lo lắng đến nỗi nước mắt bỗng dưng không ngừng tuôn rơi.

Đúng lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời ngợi khen cô nàng y thuật cao siêu.

Nhưng Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này hồi quang phản chiếu, tính mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác u buồn ứ lên tận cổ, cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: “Lão Triệu ơi! lão có còn anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ điều gì đến họ không?”

Triệu Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng nói phều phào: “Triệu Lão Biệt mỗ… kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở rãnh con sông nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra tất cả đều tại số mệnh cả, hừ…số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu nói này quả chẳng sai chút nào. Nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh cậu đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?”

Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ chẳng cần phải giấu diếm lão ta thêm điềm gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất cả lai lịch xuất thân gia đình của mình.

Triệu Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn chăng chối lại: “Triệu Lão Biệt mỗ trên đời này tứ cố vô thân, niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ thủ bên cạnh nó cũng tốt vậy….”, lời nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn…”

Tư Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc vừa bị đất đá sụt vỡ chôn vùi ở bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: “Lão vừa nói gì vậy?”.

Nhưng ánh mắt của Triệu Lão Biệt hốt nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi nói dứt câu thì đã không thể thở ra nổi nữa, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.

Hội ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không được toàn thây, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi thủ bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất, cả hội mới đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiêng xác lão chôn xuống đó.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ quan “thành đom đóm” tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa, cậu lại tự nhủ mình đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét mộ cho Triệu Lão Biệt một chuyến.

Ba người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững quay trở lại cầu La Sư, trên đường về trong lòng người nào cũng nặng đầy tâm sự, chẳng ai mở miệng nói với ai câu nào, đợi mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm chung có ý nghĩa gì nhỉ?”, Tư Mã Khôi lắc đầu trả lời: “Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc hấp hối ấy mà”. Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung, chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết, giờ đây thân thế lai lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc nữa, tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.

Trong lòng Tư Mã Khôi tâm sự trĩu nặng, ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá, hồi tưởng lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm hôm qua, quả giống như một cơn ác mộng, vươn vai một cái để co giãn gân cốt cho bớt đau người, cậu quay sang nói với Hạ Cần: “Cả đêm hôm qua cậu không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều động cả thế giới đi săn tìm tông tích của cậu cũng nên, mau về nhà đi!”.

La Đại Hải cũng vội vàng dặn dò theo: “Đừng có kể với bố cậu chuyện của tôi và Tư Mã Khôi đấy, thanh danh hai đứa bọn tôi từ trước đến nay cực kỳ trong sạch”.

Hạ Cần lắc đầu nói: “Không sao đâu, tôi đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở nhà dì rồi”.

Hải ngọng tủm tỉm cười: “Khôi ơi, cậu xem bạn Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa, cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác rưởi, liền đặc biệt nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy”.

Hạ Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: “Thực ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng tớ sợ sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết định được rốt cục có nên nói hay không”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền cùng nhau vội vã hỏi xem rốt cục cô nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân dân bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa, bây giờ từ trong thành đến ngoài thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể gây ra thêm nữa? Hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: “Nhân tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong ba”.

CHƯƠNG II: MÁY BAY TIÊM KÍCH

Hồi 1: Núi Dã Nhân

Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng kỳ quái, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ ra một cô bé mới mười sáu tuổi như cô nàng thì có nổi tin tức gì đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ. Thế là hai cậu liên tục hỏi đồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.

Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ: “Anh họ tớ… từ vùng nông thôn… vừa mới trốn về nhà”. Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.

Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn gắn một cặp kính cận nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác. Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, yêu thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán tham gia phong trào Hồng Vệ binh sớm nhất.

Vì Hạ Thiết Đông là người có tấm lòng hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng. Bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ. Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Karl Marks, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể thuộc lòng như cháo chảy. Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.

Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng Vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương. Trong suốt thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều, hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về “Chân lý cách mạng”. Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ: “Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự”. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông đến nỗi bất kể những gì anh nói họ đều tin là điều tất nhiên. Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.

Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng được hạ màn trên phạm vi toàn quốc, Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải dất Trường Sa, hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau. Chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông vì nguyên nhân nào đã đó đã cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng. Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án nhưng tiền đồ sáng lạn của anh ấy coi như hoàn toàn tiêu tan thành mây khói. Năm ngoái anh bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó thuộc tỉnh Thiểm Bắc.

Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, tất cả ba người bọn họ chạy trốn về lại quê nhà. Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.

Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo lắng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải mà ngược lại còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ mãi do dự không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được hơn mới đành thổ lộ ra mọi chuyện.

Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói với Hạ Cần: “Tiểu Hạ! cậu đa nghi quá đấy thôi, anh họ cậu là người như thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể nào trở thành kẻ hàng giặc phản quốc. Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch? Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin”.

Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi: “Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử, chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng”. Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến chỗ anh Thiết Đông gặp mặt một chuyến.

Chạng vạng chiều ngày hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy đồng chí ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng Vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông vượt sông vào thành phố. Trong một ngôi nhà dân đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông – người đã chia ly từ nhiều năm trước.

Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Bắc đã khiến cơ thể của anh trở nên vô cùng rắn rỏi. Nhìn thấy những vị tiểu huynh đệ ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải theo phương thức giao thiệp giữa người lớn với nhau. Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng chế khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe hoe đỏ và nhòe nước. Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.

Tiếp sau đó rất nhiều thanh niên lũ lượt kéo nhau đến, khiến căn phòng vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ chở nên chật cứng. Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông. Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy, họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện. Tuổi đời của hội mấy người Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông một chút nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.

Hạ Thiết Đông nhìn thấy rất nhiều bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt. Sau một hồi cảm khái, anh liền kể cho mọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện. Năm 68, anh bị đẩy đến Diêm Vương câu ở Thiểm Bắc, lúc đầu còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông, nhưng sau khi đến đó mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề hoan nghênh các anh, bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, bất luận có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa thì sản lượng thu hoạch một năm vẫn chỉ có ngần đó. Đa số thời gian của mọi người dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất. Điều này cách xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đợi được một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi đây. Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương đến độ chim chẳng buồn ị cứt này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.

Tuy rằng Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng nhưng loại người này cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng, anh ấy cũng giống như đa số thanh niên đương thời lúc nào cũng tràn đầy khí thế và lòng nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi thế liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà. Anh nói với mọi người kế hoạch mai sau của mình: “Nơi này không trọng ông thì khác có chỗ trọng ông, nếu chẳng nơi nào trọng ông, thì ông sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha, chi bằng nhân lúc này hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới”.

Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu ý tứ trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh hỏi: “Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?”

Hạ Thiết Đông giải thích: “Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa Phát xít đã bị sụp đổ nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị hầm da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì nhân dân toàn thế giới chừng đó vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp”.

Đa số mọi người có mặt tại hiện trường nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm: “Lão Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao. Hơn nữa, cứ cho bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí. Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi. Chắc anh không định để chúng ta mỗi người dắt lưng vài ba quả lựu đạn rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ hả?”

Hạ Thiết Đông lại nói: “Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ dặt lũ lính con nhà giàu. Hơn nữa không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ “Tạo phản nội bộ”, chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro trong hậu viện của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ. Có điều… trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không được thực tế cho lắm. Nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao? Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao, đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, thì chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối”.

Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí nhưng lại chẳng thèm biết trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng: “Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?”

La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà. Hơn nữa khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.

Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán lưng cho đất bán mặt cho trời như vậy cả đời. Lúc bấy giờ trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất. Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc. Bọn họ lại suy ngẫm anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao. Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.

Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học nhưng từ nhỏ đã được Văn Võ tiên sinh thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi hoàn cảnh gia đình, kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay. Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ “nghĩa khí”, hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau, hơn nữa rời khỏi Hắc ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân. Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.

Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.

Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải quả nhiên đi theo mọi người, trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận muộn màng. Trong lúc tiễn biệt, cô nàng còn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo. Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì. Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn đâu phải chuyện đùa, súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên. Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.

Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly. Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến. Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời. Có điều vất vả lắm mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam, vừa nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết chiến sống mái một phen với quân thù, vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt. Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất. Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu. Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt. Ngày hôm sau họ trói gô tất cả mọi người lại như trói lợn, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.

Đám người trẻ tuổi ấy sau khi trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được trực tiếp điều phối đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động. Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó. Ở Vân Nam có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cộng hòa nhân dân Miến Điện. Miến Điện Cộng Hòa luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, lập tức phát súng thật cho mình, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng mở toanh mặc kệ ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng. Tuy rằng ở đó không có máy bay rải bom nhưng hỏa tiễn anti-tank AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có, bọn họ còn thành lập “doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức”. Đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.

Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm, vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay. Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa. Thế là họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nô Giang tham gia quân đội nhân dân của tổ chức Cộng hòa Miến Điện.

Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao lại được tôi luyện nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu, tác chiến vô cùng anh dũng, đương nhiên được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện. Những chiến hữu này đều tụng xưng anh ấy là Che Guevara của Trung Quốc.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh anh Hạ Thiết Đông, trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót. Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này. Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, bộ đội Cộng hòa Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi khống chế càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn. Cuối cùng tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đại đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.

Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người thì chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích. Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông dính trọng thương rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.

Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân. Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc. Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.

Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho người nào cắt được thủ cấp tên cầm đầu. Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân Bắc Miến để truy bắt nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi. Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, nhốt sống trong đó cho đến chết.

Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường. Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm rập rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Bởi vậy nơi đây được mệnh danh là “địa ngục chốn rừng sâu”. Thời tiết luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc. Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái “Phi đầu man” (

loại yêu quái thường xuất hiện dưới hình hài con người, ban đêm đầu và cơ thể tách rời nhau, phần đầu đi khắp nơi săn mồi

), nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây. Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng bầy từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà dám cả gan đến gần ao hồ sông suối. Từ xưa đến nay, chưa một người nào có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chỗ này. Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì rơi vào tuyệt lộ. Họ chịu sự kìm kẹp đồng thời từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.

Hồi 2: Karaweik

Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra, may mà La Đại Hải quên mình lao ra cõng anh quay trở về mới giữ được mạng sống. Có điều trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫu thuật.

Tuyệt là người duy nhất trong đội du kích am hiểu về y thuật. Cô là người Hồ Nam, thân hình gầy guộc, tâm địa lương thiện, ưa sạch sẽ, cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát thì cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó. Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm bác sĩ bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.

Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, hiểu biết khá nhiều về tiếng tây, thời Dân Quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp. Ngoại trừ nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được món kỹ thuật nắn xương. Nếu có ai bị thương gẫy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay thương thế nặng nhẹ ra làm sao, ví dụ như gẫy mấy chiếc xương, mức độ gẫy nghiêm trọng đến mức nào. Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, lại dùng băng vải cuốn chặt xung quanh, cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc. Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục như trước, không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.

Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi. Năm đó anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mỏng manh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần dùng nhiều đến sức lực, sau đó mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam cũng dẫn cô theo cùng. Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành “bác sĩ quân y” kiêm “liên lạc viên” cho bộ đội Cộng hòa Miến Điện.

Sau khi xem xét tình hình thương thế của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì có khả năng sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng. Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu đau nổi không?

Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống khiến khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng không muốn để mọi người lo lắng nên vẫn gắng gượng nói cứng với Tuyệt: “Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên “hừ” lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho thỏa tay”

La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói: “Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái. Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!”

Tư Mã Khôi nghiến chặt răng rồi nói: “Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều. Thời kỳ dấy lên cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng dao từng dao cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể xuống nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê? Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai. Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình. Trong quá trình chịu cực hình, mặc cho máu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể nhưng ánh mắt vẫn nhìn chừng chừng theo động tác dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến nỗi khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay. Còn Thạch Đạt Khai bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng nhưng từ đầu chí cuối thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn tắm nước nóng dễ chịu. Chết như thế quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng”.

La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ với anh được, liền lắc đầu bảo: “Cái thằng này đúng là đồ Hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong – Miệng toàn chữ là chữ”.

Tuyệt nói với Tư Mã Khôi: “Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cây “Quỷ tu tử” ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!”

Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể, trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.

Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra. Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, hoen hoen nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt thi nhau tuôn chảy.

Tư Mã Khôi nhịn đau hỏi: “Sao Tuyệt lại khóc?”

Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má: “Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình”.

Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều trùng lòng xuống, rất nhiều anh em bằng hữu phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng lãng mạn, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết tông tích của họ lưu lạc chốn nào mà tìm.

La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: “Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Điện Cộng hòa đúng là thắng như chẻ tre, dường như sắp đánh đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều”. Tư Mã Khôi bất lực nói: “Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì”.

Nhân thời khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì. Hơn nữa tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì sất, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào làm.

Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, tên nào chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ ở phía trước, bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận mà ngay cả buông súng đầu hàng cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa cho một con đường sống. Nay cả đội lại bị nhốt trong núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu định cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.

Đội du kích vẫn còn một lựa chọn – chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là “xanh mắt tái mào”, chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, thì độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình lình xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra. Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.

Nghe đồn, tính cho đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất phải kể đến đội sư đoàn tàn dư quân Nhật, chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân, kết quả cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.

Bởi vậy đội du kích Cộng hòa Miến Điện chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân, lùi hàng vạn bước mà nói, cứ cho họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân thì sau đó sẽ ra sao? Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đều chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết kết quả gì đang chờ đợi ở phía trước.

Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này “lên trời vô lối, xuống đất vô môn”, sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt: “Mọi người rõ cả rồi chứ? Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!”.

Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ: “Hiểu, chúng ta ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi”.

Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ biết rằng mình chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều, cô nói: “Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng chung suy nghĩ đó. Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân. Nếu mệnh ai lớn có thể sống sót thoát ra ngoài thì sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận. Bất luận nói thế nào, về đến tổ quốc cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng giao cho bộ phận có liên quan thẩm vấn sau đó mới đem đi xử bắn, so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được, lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.

Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào và tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây. Cái gọi là “phân tán lực lượng đột phá vòng vây” thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng – ai tự lo thân người nấy.

Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra. Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn. Tuyệt đại đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng không dám bước chân vào khu rừng rậm.

Nhưng những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoại trừ hội ba người Tư Mã Khôi ra không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như chú khỉ, khoác tấm saron rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngố ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi. Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.

Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa. Mười hai con giáp Miến Điện khác với mười hai con giáp Trung Quốc, ở đây chỉ có tám con vật lần lượt tương trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư hơi đặc biệt một chút, nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim khổng tước. Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là “Chủ Nhật”.

Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê Bắc Miến, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi. Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi”. Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói: “Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng”.

Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá “lỳ”, quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ chạy theo mãi một lối cho đến khi trời tối. Không những thế tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung nghe lơ lớ, ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu muốn nói gì, trong lúc bất lực, anh đành phải dẫn Karaweik theo mình cùng tiến vào núi.

Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì. Hơn nữa ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều năm không được gặp mặt, tính ra độ tuổi của nó cũng tương đồng với Karaweik. Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.

Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào. Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho bạn tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả đi cũng lững tha lững thững. Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật. Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục. Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng. Có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.

Do sự ảnh hưởng của Phật pháp vô hình trung đã thay đổi họ tự lúc nào không biết, nên người bản địa dần dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết. Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt. Karaweik chính là một trong số đó. “Nhân sinh quan tiêu cực” của họ khiến La Đại Hải vô cùng phản cảm.

Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch, nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, bèn thúc giục họ nhanh lên còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để đi lại cho nhẹ nhàng, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn anh em bộ đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.

Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng “xẹt xẹt” vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì. Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch. Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu. Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.

Hồi 3: Đường U Linh bị lãng quên

Có lẽ “vận đen” đúng là một vận may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ. Đúng lúc tiểu phân đội quyết định trốn vào núi Dã Nhân thì Tuyệt nghe được tin tức sau cùng phát ra từ bộ đàm – cơn bão nhiệt đới “Buddha” sắp tràn vào Ấn Độ Dương và dần dần di chuyển về hướng bắc, cơn đầu tiên đang tiếp cận núi Dã Nhân với quy mô cực lớn và cấp độ cực mạnh. Cơn bão hung bạo như thế này rất hiếm xảy ra trong gần ba mươi năm trở lại đây.

Hội Tư Mã Khôi tham gia chiến đầu nhiều năm ở Miến Điện, không chỉ một lần chứng kiến hậu quả thiên tai ghê gớm do bão nhiệt đới mang lại. Họ hiểu rất rõ tin tức này có nghĩa là gì.

Trong rừng rậm nguyên sinh, hiểm nguy bủa vây tứ bề, hiểm họa thực sự không phải đến từ cá sấu và mãng xà khổng lồ mà đến từ rắn độc, côn trùng độc. Hơn nữa, hành quân trong rừng rậm núi sâu là một việc vô cùng gian nan, mỗi bước di chuyển đều phải dùng dao “phạt núi mở đường” mới đi qua được. Vì những nguyên nhân này nên đường thủy vẫn là con đường tắt nhanh chóng và an toàn nhất.

Nhưng giờ đây sự xâm nhập và tấn công của cơn bão nhiệt đới chắc chắn sẽ kéo theo lũ lớn tràn về, nó không chỉ khiến hội Tư Mã Khôi không thể lợi dụng mạng lưới sông ngòi chằng chịt ngang dọc mà còn khiến những khe rãnh trũng sâu trong lòng núi cũng chịu sự công kích bất ngờ của nước lũ mà trở nên vô cùng nguy hiểm.

Núi Dã Nhân không chỉ là một ngọn núi mà là tên gọi chung của cả dải núi. Hàng trăm triệu năm trước, đây từng là nơi tập trung giải phóng nguồn năng lượng của lớp vỏ trái đất, tạo thành khu vực nguy hiểm với tần số hoạt động cực kỳ mạnh mẽ. Nó chính là sản vật từ quá trình vận động tạo sơn cổ đại của dãy Himalaya, phía tây dải núi cuốn quanh con sông Irrawaddy, phía bắc tiếp giáp với vùng núi Gao Li Gong, phía nam là bình nguyên Bago rộng lớn, tạo hình rất giống với người khổng lồ đang ngủ say giấc, nó vắt mình qua ba nước Miến Điện, Lào và Trung Quốc.

Đội du kích Cộng hòa Miến Điện bị nhốt vào vành đai dài hẹp nằm kẹp giữa đầm lầy và rừng rậm nguyên sinh, chỉ đi về hướng bắc rồi xuyên qua núi Dã Nhân mới có thể tiếp cận biên giới Trung Quốc. Trong tay Tư Mã Khôi lại không có bản đồ, để tránh đi lạc đường, vốn dĩ anh lên kế hoạch men theo con sông lần ngược lên thượng nguồn, nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới mang theo mưa to gió lớn chắc chắn sẽ khiến cơn lũ bất ngờ tràn về với tốc độ và cấp độ kinh hoàng. Nếu đi ngược dòng, chắc chắn sẽ lãnh chịu kết quả khủng khiếp bị lũ cuốn trôi và nuốt chửng, cho dù tránh đường thủy để chuyển sang đi trên mỏm núi thì cũng phải chịu sự uy hiếp không kém từ nguy cơ sụt lở và dòng chảy bùn đá.

Thế là ngay cả tia hy vọng cuối cùng cũng bị dập tắt, có điều Tư Mã Khôi cũng hiểu rất rõ, bất luận tình thế xoay chuyển ra sao thì cuối cùng họ vẫn đâm ra con đường chết, chỉ là xem đích đến kết thúc ở đâu mà thôi. Sau khi thầm định lượng trong lòng một hồi, anh cảm thấy được chết càng gần tổ quốc bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn quay lại giục mọi người nhanh chóng nai nịt hành lý chuẩn bị lên đường, đồng thời bảo La Đại Hải cho nổ luôn chiếc máy bộ đàm quân dụng không dây, sau đó cả đoàn không hề do dự một phút, liền đứng dậy khởi hành.

Miến Điện là một quốc gia cổ xưa có truyền thống lịch sự rất lâu đời, thời cận đại từng bị bọn thực dân Anh thống trị gần một trăm năm, trong đại chiến thế giới lần thứ hai, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản lần lượt chạy qua chạy lại nơi đây như đèn kéo quân, đánh nhau loạn xì ngầu, khó khăn lắm mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân và giành được độc lập, ngờ đâu những ngày thái bình chưa hưởng thụ được bao lâu thì đất nước lại rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài suốt nhiều năm.

Thời gian đầu, khi gia thế Miến Điện Cộng hòa còn vững chắc, vật chất dự trữ và vũ khí quân đội vô cùng đầy đủ, ngay cả súng cối, ống hỏa tiễn, xe tăng thiết giáp đều có cả, các loại súng ống đạn dược nhiều vô kể xiết. Từng thùng từng thùng bom mìn và lựu đạn cầm tay chất đống cao như núi, các loại vũ khí quân dụng kiểu Trung Quốc, kiểu Mỹ, kiểu Anh, kiểu Nhật, kiểu Liên Xô, kiểu Đức muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, thậm chí còn có cả xưởng sản xuất công cụ chiến tranh bản địa “nhãn hiệu Miến Điện”, xưởng này có thể làm nhái súng ngắn và súng trường của Anh. Nơi đây quả không hổ danh với biệt hiệu bảo tàng trang thiết bị vũ khí “nhãn hiệu đa quốc gia”. Nhưng Miến Điện Cộng hòa lại rất ít vũ khí đời mới, đại bộ phận đều là đồ lưu cữu từ những thời kỳ chiến tranh trước.

Nhưng kể từ khi chiến dịch Kunlong thảm bại, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện bị gục hẳn không thể đứng dậy nổi nữa, vũ khí đạn dược của bộ đội cũng bắt đầu phải giật gấu vá vai, như giờ đây hội bốn người Tư Mã Khôi ngoại trừ khẩu súng ngắn phòng thân ra thì chỉ còn lại hai khẩu súng trường kiểu cũ do Anh chế tạo, cùng với số lượng đạn dược ít ỏi, bên mình hầu như không còn lương thực và thuốc men. Cả đoàn tiến vào rừng rậm nguyên sinh trong núi Dã Nhân tứ bề cây cối mênh mông ngút tầm mắt mà không hề có bản đồ và người dẫn đường.

Ngày hôm đó, sau khi vượt qua được hai mỏm núi, địa hình dần dần thấp xuống, hệ thực vật trong rừng sâu cũng dần dần trở nên um tùm rậm rạp hơn, gần như không tìm được chỗ đặt chân xuống, người đi vào trong đó, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu trời, nếu không nhờ vào kim chỉ nam và chiếc la bàn, thì chắc chắn không thể phân biệt được phương hướng. Cả hội có cảm giác như đang lạc vào một mê cung thiên nhiên âm u và kín mít, bốn người đành phải liên tục dùng dao phát quang cây cỏ xung quanh để mở lối, tốc độ di chuyển vì thế mà chậm đi rất nhiều.

Cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn này có lịch sử tồn tại hơn một trăm hai mươi mấy triệu năm, nó nằm ở giữa khe cốc trũng, xung quanh có nhiều dãy núi cao vây kín, nhịp sống nơi này lúc nào cũng bình ổn, yên ắng. Hàng trăm khe suối chằng chịt thành một mạng lưới che phủ tứ bề, khiến khí hậu luôn luôn ẩm ướt, oi bức, không có mưa, cũng chẳng có nắng. Trong cánh rừng bí ẩn này có rất nhiều thực vật nhiệt đới sinh trưởng, chúng muôn màu muôn vẻ, một số loài bạn có thể tưởng tượng ra nhưng đa số chúng bạn không thể tưởng tượng nổi, chủng loại dễ lên đến con số hàng chục triệu, trong phạm vi tầm nhìn của hai con mắt, dường như bạn không thể tìm thấy hai loài thực vật nào hoàn toàn giống nhau.

Cành lá của các cây cổ thụ đan cài vào nhau che kín vòm trời, có những thân cây cao đến tám chín mét, tán lá của nó dày và rộng khiến bầu không khí trong khu rừng trở nên âm u khác thường, từng lớp sương mù nhàn nhạt mịt mùng giăng mắc khắp nơi, thỉnh thoảng lại nhìn thấy những con mãng xà khổng lồ ẩn mình trong cây cổ thụ chờ săn mồi, những loại rắn độc, côn trùng độc chẳng rõ tên gọi quanh quất suốt cả dải rừng, cá sấu luôn bất thình lình xuất hiện trong bụi rậm um tùm hoặc bên bờ sông. Ở dưới nước, từng đàn nòng nọc thân hình to lớn dị thường bơi lội nhung nhúc thành từng bầy từng đàn, chẳng rõ sau khi biến thành ếch, bọn chúng phải bự đến cỡ nào. Hội Tư Mã Khôi từng lăn lộn nhiều năm ở chốn sa trường, đảm khí cũng chẳng phải hạng vừa, vậy mà khi ngụp lặn dưới hành lang sinh mệnh màu xanh thẫm này, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác rợn tóc gáy.

Bốn người đều đề cao tinh thần cảnh giác, chẳng phút nào dám lơi lỏng, vừa đi vừa cố gắng né tránh mọi hiểm nguy có khả năng gặp phải. Có điều, mọi vật trước mắt dường như đều được nhuộm kín bởi một màu xanh quái dị, làm đầu óc họ cũng bị nhiễu loạn, mơ hồ theo. Nhìn rừng cây cổ thụ kềnh càng đan cài xoắn suýt vào nhau, dễ khiến người ta nảy sinh cảm giác như bàng hoàng choàng tỉnh khỏi cơn u mê, để cảm nhận một cách rõ ràng và sâu sắc, về sự khác biệt to lớn giữa cái vĩnh hằng vô biên của tự nhiên bao la và cái ngắn ngủi mờ mịt của sinh mệnh con người. Sự cảm khái trấn động đến từ nơi sâu thẳm trong linh hồn này át chế cả chủ thể, nó khiến người ta cảm thấy ngộp thở, đầu óc cũng mụ mị đi ít nhiều. Cả hội đành phải liên tục dừng bước cẩn thận xác định lại vị trí.

Theo kinh nghiệm từ trước đến nay của Tư Mã Khôi, nếu tiếp tục đi trong tình trạng này sẽ rất dễ bị lạc đường, có lẽ tìm một con suối hoặc một dòng hà lưu nào đó làm vật tham chiếu thì ổn thỏa hơn. Bọn họ lại tiếp tục tiến sâu thêm một đoạn nữa chợt nhìn thấy một sơn khê rộng rãi khoáng đạt nằm sâu trong rừng rậm, bề ngang lên tới mấy mét, dòng nước chảy lững lờ, trông có vẻ rất êm ả, hiền hòa.

Dòng nước sơn khê trong suốt đến tận đáy, có thể nhìn rõ những viên đá ngũ sắc tròn tròn nằm dưới lòng suối. Cả con suối ánh lên vẻ thướt tha mềm mại như dải lụa đào, lòng suối thoai thoải, từng vòng sóng nước lấp la lấp lánh như vẩy lân tinh.

Tư Mã Khôi quan sát địa hình cạnh đó rồi nói: “Nơi nước nông sẽ tương đối an toàn, chúng ta cứ đi men theo con suối mà lên thượng nguồn, đợi khi cơn bão đến thì sẽ trèo lên chỗ cao hơn”. Đi trong rừng rậm không khí ẩm ướt nóng bức suốt thời gian dài khiến vết thương trên vai anh cứ ngâm ngẩm đau, nhìn lại thì thấy nó đã tấy mủ và bốc mùi hôi thối, nhưng giờ đây lại chẳng có thuốc men gì, cho dù nó có nát mủn ra thì cũng đành mặc kệ. Nhìn thấy dòng nước suối trong lành, mát lạnh, anh bèn đi đến đó, định bụng sẽ tháo vết thương ra rửa cho sạch sẽ.

Nhưng chưa kịp đến gần con suối thì Karaweik đột nhiên nhào tới, ôm cứng lấy thắt lưng anh, xông ra trước mặt, cố sức lắc đầu, trên mặt còn đọng nguyên vẹn thần sắc sợ hãi kinh hoàng, miệng không ngừng kêu “líu la líu lo” điều gì nghe không rõ.

La Đại Hải tóm lấy Karaweik như tóm một chú khỉ rồi giằng cậu ta ra khỏi người Tư Mã Khôi, anh lớn giọng quát mắng: “Chủ Nhật! tên tiểu tử này làm gì mà la hét nhặng xị lên thế hử? Anh thấy chú mày đi theo chỉ tổ làm vướng chân vướng cẳng bọn anh mà thôi, nhân lúc còn chưa muộn, hãy mau quay đầu trở về, nói không chừng bọn lính nhìn thấy chú mày còn ít tuổi, ngay cả lông trên người còn chưa mọc hết, chúng sẽ coi chú mày như quả rắm, đánh một cái là xong”.

Tuyệt đứng bên cạnh nhìn thấy phản ứng của Karaweik, trong lòng thầm nghi chắc có chuyện gì đó không lành, cô vội vàng ngăn Hải ngọng lại, dùng tiếng thổ ngữ hỏi Karaweik đầu cuối sự tình, hai người trao đổi một hồi. Tuyệt nghe xong, dường như cảm thấy rất khó lý giải, cô nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Chủ Nhật nói, trong núi Dã Nhân có ma nước, người nào uống phải nước ở đây đều không sống nổi”.

La Đại Hải cho rằng chắc ý của Karaweik là trong nước có độc, nghe xong bèn chẳng buồn để tâm, quay ra nói: “Toàn nói linh tinh, không nhìn thấy cá đang bơi dưới nước mà vẫn sống ngoe nguẩy kia sao?”

Trái với La Đại Hải, Tư Mã Khôi cũng có vài phần tin lời Karaweik, anh từng học được rất nhiều bản lĩnh từ Văn Võ tiên sinh, ngoại trừ các bí kíp lục lâm ra, còn có bộ “Kim điển mật truyền”, tục gọi “Kim bất hoán”, từ đầu chí cuối đều học bằng khẩu quyết, do sư phụ truyền miệng lại cho học trò, học trò phải nhập tâm ghi nhớ, tuyệt đối không được chép ra giấy dù chỉ một chữ. “Kim bất hoán” chia ra làm ba chương lần lượt là “Thiên, địa, nhân”. Thiên, tức chỉ bát quái trong Tiên thiên tốc chưởng, địa là địa lý sông núi, nhân là mọi sự tương tác giữa vật và vật. Những điều này đều là gốc rễ khởi nghiệp của tổ tiên họ Trương để lại, nội dung vô cùng thâm thúy ảo diệu, phạm vi bao hàm rất rộng lớn, còn được người đời tụng là thiên hạ độc môn. Vì chịu ảnh hưởng từ di huấn của dòng họ “Thà mất mạng cũng không để lộ nửa chữ Kim” nên từ trước đến nay bí kíp này chỉ truyền thụ cho con trai chứ không truyền thụ cho con gái, chỉ truyền cho người trong gia tộc chứ không truyền cho người ngoài. Câu cuối cùng trong bộ khẩu quyết đã khái quát tất cả tinh hoa chủ yếu của toàn tập: “Phải nhìn điểm đầu mà suy đoán điểm cuối, gặp một việc mà hiểu ba việc, lấy nhất biến ứng vạn biến, biết giới hạn chừng mực mà dừng lại, am hiểu thông tỏ mọi trò trên đời, như vậy có thể mặc sức tung hoành, thần quỷ khó lường, lừng danh bốn bể”. Do vậy người ta có thể từ một chi tiết nhỏ mà suy đoán toàn bộ chân tướng sự việc.

Năm đó, khi Tư Mã Khôi được truyền thụ bí pháp “Kim điển mật truyền” thì tuổi hãy còn nhỏ, khó lòng lĩnh hội hết cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, chỉ gắng học vẹt để cố khắc vào não, mãi cho đến khi anh gặp được Triệu Lão Biệt nơi Hắc ốc hoang phế, thì mới biết bí thuật cổ xưa có cội nguồn từ rất lâu đời này quả thực rất hữu dụng, từ đó mới dần dần bắt đầu mày mò nghiên cứu. Hơn nữa mấy năm trở lại đây, Tư Mã Khôi cũng chứng kiến rất nhiều chuyện vượt ngoài sức tưởng tượng ở Miến Điện. Mảnh đất hoang vu, vắng vẻ này bị yểm rất nhiều loại tà pháp như phù chú, bùa ngải hại người, bởi thế thường xảy ra những hiện tượng thần bí khó có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích. 

Có câu “Cây có gốc, lời có nguồn”, ở nơi đầm rộng núi sâu này, tất phải tồn tại rất nhiều quái thú, Tư Mã Khôi nghe Karaweik – một người bản địa nói, nước ở trong núi Dã Nhân không được uống, liền lập tức liên tưởng đến thời khắc tan rã của đội quân du kích. Khi đó hầu hết mọi người thà tự chĩa họng súng vào đầu cũng không dám đến gần khu rừng rậm nguyên sinh nửa bước, bên trong chắc hẳn phải có nguyên nhân của nó, chỉ sợ nguyên nhân đó không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề “nguồn nước”, nhưng rốt cục cội nguồn gốc rễ của nó là gì thì chẳng ai được rõ. Tư Mã Khôi không hiểu nhiều lắm về núi Dã Nhân bèn nhờ Tuyệt hỏi kỹ Karaweik, bảo cậu ta nói cho thật cụ thể chi tiết.

Nhưng hỏi ra mới hay, ngay cả Karaweik cũng ù ù cạc cạc, chỉ nghe người Bắc Miến tương truyền từ xưa, nói cánh rừng bí ẩn trong lòng núi sâu có sương mù bủa vây, đó là vùng đất vô cùng hung hiểm, có đi mà không có về, nó khiến những người bỏ mạng ở đây đã không thể đầu thai luân hồi, lại không được trở thành Phật, thậm chí còn chẳng thể xuống nổi âm tào địa phủ, cái đợi chờ họ chỉ có hư vô vĩnh hằng.

Hàng trăm dòng hà lưu chảy qua hoặc khởi nguồn từ núi Dã Nhân cuối cùng đều đổ về vùng đầm lầy rộng lớn, cho dù nước ở đầm trong xanh đến đâu đi nữa, thì từ trước đến nay cũng chẳng có người nào dám uống. Bởi vì những sơn khê chảy ra từ sơn cốc, khe núi từ hàng ngàn năm trước đã sớm bị thổ dân yểm bùa, nếu có người chạm vào chắc chắn sẽ bỏ mạng bất thình lình, hơn nữa sau khi chết đi, hồn bay phách lạc. Chỉ có nước sương đêm còn đọng lại vào buổi sáng sớm hoặc nước tù trong hồ nước chết mới được phép sử dụng.

Tư Mã Khôi cảm thấy thà tin vào những việc không có còn hơn không tin vào những việc có thật, giờ đây chỉ còn cách thật cẩn trọng, mới mong sống lâu thêm vài giờ, nghĩ vậy anh bèn vỗ vỗ vào vai Karaweik tỏ ý đã hiểu ý cậu ta. Xem ra núi Dã Nhân quả đúng là chốn hung hiểm, ngoại trừ khí hậu khắc nghiệt sắp sửa giáng xuống đầu ra thì ngay cả khe suối bờ sông cũng không thể đến gần được nữa.

Kế sách duy nhất lúc này chỉ là phải đi ở nơi cao, không thể đi ở chỗ thấp, bởi vậy cả đoàn đành tìm đường trên các mỏm núi, Tư Mã Khôi vác súng trường, đang chuẩn bị đứng dậy khởi hành thì lại bị Karaweik níu lại, cậu chỉ tay vào một khe núi ở bên cạnh, miệng nói liên thanh như súng bắn, dường như muốn bảo Tư Mã Khôi nên đi theo hướng ấy.

Miền Bắc Miến Điện có một câu ngạn ngữ dân gian “trong quân đội nhân dân không có nhân dân”. Sự thực quả đúng như vậy, đội ngũ tác chiến quân đội nhân dân Miến Điện thực ra chẳng có mấy người gốc Miến Điện mà phần đông đều là người Trung Quốc. Điều này nói ra cũng khá kỳ lạ, tuy nhiên vẫn có một số người bản địa chính gốc, Tư Mã Khôi sống cùng những chiến hữu Miến Điện trong đội du kích lâu ngày, ít nhiều cũng hiểu được một vài câu thổ và tiếng anh thông dụng nhất, lúc nãy dường như nghe thấy Karaweik nhắc đến “con đường” gì đó, đầu óc anh quay mòng khó hiểu: “Này Chủ Nhật! chú mày nói trong khe núi có đường hả? không phải đang nói nhăng cuội đấy chứ? Nơi rừng già núi sâu hiếm dấu chân người qua lại đào đâu ra đường mà đi?”

Tuyệt dịch lại cho Tư Mã Khôi: “Ý của Chủ Nhật muốn nói…trong khe núi đằng kia có một con đường tên là “Đường U Linh”.

Thông tin này khiến ba người đều cảm thấy rất đỗi mơ hồ, đường U Linh nghĩa là gì? Nó là con đường cho người đi hay cho ma đi?

Khả năng biểu đạt của Karaweik rất kém, không thể giải thích rõ ý nghĩ của mình, cậu vò đầu bứt tai cuống cả lên, rồi dường như chợt nhớ ra điều gì, cậu bèn dốc ngược túi xách, lật tìm một hồi lâu, cuối cùng cũng lôi được một cuốn nhật ký rách nát, đoạn đưa cho hội Tư Mã Khôi xem.

Tư Mã Khôi đỡ lấy cuốn sách, cảm thấy hình như trong cuốn nhật ký có kẹp một vật gì đó, anh tiện tay lật giở, liền nhìn thấy một chiếc quân hàm đeo vai của bộ quân phục, trên đó thêu hình một chiếc đầu hổ, nền màu xanh thẫm, như để tượng trưng cho rừng rậm nhiệt đới, bên dưới có mấy hàng chữ cái tiếng Anh, nhưng đã bị sờn rách từ lâu, khó có thể phân biệt đó là chữ gì. Dưới chiếc huy hiệu còn kẹp một bức ảnh đen trắng đã ngả vàng, hình ảnh không rõ nét, có lẽ là bức ảnh chụp tập thể của cả doanh trại bộ đội hơn mấy trăm người. Do số người quá đông nên trông toàn cảnh chi chít, không nhìn rõ được từng chi tiết cụ thể.

Giở mấy trang tiếp đọc nội dung được ghi chép bên trong cuốn nhật ký, không ngờ văn tự toàn bộ lại là chữ Hán, Tư Mã Khôi chỉ giở vài trang, càng đọc trong lòng càng cảm thấy kinh ngạc. Cùng lúc đó, anh cũng suy đoán được câu chuyện mà Karaweik muốn nói - Ở góc ngọn núi hoang vu hiểm yếu nhất của núi Dã Nhân quả thực tồn tại một con đường vừa thần bí vừa ẩn kín, tên là đường U Linh. Con đường đó vốn có tên là đường Stilwell, được bộ đội công trình hai nước Trung – Mỹ liên thủ xây dựng nên trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Cuốn nhật ký cũng nhắc đến dải khu vực có liên quan đến đường U Linh, con đường này hệ lụy đến rất nhiều sự kiện đặc biệt thần bí khác.

Hồi 4: A – B 

Thỉnh thoảng Tư Mã Khôi lại có suy nghĩ: “Vận may, cái thứ ấy đôi lúc lại có vài phần giống với tính cách con gái, bạn càng muốn có cô ấy thì cô ấy lại càng tránh xa bạn, đến khi bạn chẳng còn ôm chút vọng tưởng nào nữa, thì cô ấy lại tự mình mò đến tìm”.

Tình thế bây giờ vừa vặn ứng với suy nghĩ ấy, sau khi đội du kích Miến Điện Cộng hòa tan rã, những kẻ sống sót hội Tư Mã Khôi quyết định mạo hiểm xuyên qua núi Dã Nhân trở về Trung Quốc, tuy rằng biết chắc con đường họ đang đi là con đường tử thần không có chút cơ may sống sót, nhưng vẫn không thể không gắng hết sức tiến lên phía trước. Đúng lúc gần như mọi hy vọng đều bị dập tắt thì Karaweik lại chỉ ra một “con đường quân sự” bí ẩn dị thường.

Tư Mã Khôi biết việc này liên quan rất hệ trọng đến nhiều việc khác nên không dám nhẹ dạ tin tưởng, mà nhờ Tuyệt hỏi lại Karaweik xem cuốn nhật ký và chiếc huy hiệu hình đầu hổ xuất xứ từ đâu. Còn anh và La Đại Hải hai người cắm cúi đọc tiếp cuốn nhật ký để xem có thể tìm thấy đáp án từ đó không.

Khoảng hơn nửa tiếng sau, Tư Mã Khôi cuối cùng cũng hiểu rõ mọi mạch nguồn sự việc. Thì ra trong lòng núi Dã Nhân che giấu một con đường chiến lược. Các tư liệu lịch sử gọi nó là đường Stilwell.

Con đường Stilwell kéo dài từ vùng Đông Bắc Ấn Độ ngang qua Miến Điện tới tận vùng Tây Nam Trung Quốc. Con đường được Mỹ và Trung Quốc liên thủ xây dựng từ Thế chiến II, có tổng chiều dài 1.726 km, là con đường xuyên rừng, băng qua nhiều núi trong dãy Himalaya, và hơn 100 con sông. Hầu hết các đoạn đường đều bị rừng che phủ và không thể sử dụng được. Con đường này đã được các lực lượng Anh và Mỹ sử dụng nhằm cung cấp vũ khí, quân binh cho Trung Quốc để chống Nhật Bản trong Thế chiến II. Con đường đã được Tưởng Giới Thạch đặt theo tên của chỉ huy quân sự Mỹ “Joseph Warren Stilwell” .

Đây là khu vực có địa hình gồ ghề khúc khuỷu và phức tạp nhất trên trái đất, lớp vỏ địa cầu dường như đến đây thì đột nhiên đội lên vô số nếp gấp, một số nơi có độ cao chênh lệch lên tới ba bốn ngàn mét.

Năm đó có một bức ảnh thời sự chiến tranh nổi tiếng khắp thế giới, tấm hình chụp cảnh một đoàn xe tải Mỹ nối đuôi nhau chạy chầm chậm loanh quanh con đường núi ngoằn nghoèo, con đường đó nhỏ hẹp dị thường, chỉ trong khoảng cách vài cây số ngắn ngủi, liên tiếp xuất hiện mấy chục đoạn cua gấp. Còn một bức khác thì không nhìn thấy đoàn xe tải, mà chỉ thấy con đường núi quanh co, lượn vòng. Hai bức ảnh đó đều có chung một phông nền – đó là đoạn đường lừng danh có tên “Con đường hai mươi bốn khúc cua”, nó chính là một phần của tuyến đường Stilwell.

Khi tiến hành xây dựng con đường này, tình hình chiến tranh đang bước vào giai đoạn cao trào, máy bay vận tải của không quân Mỹ viện trợ cho Trung Quốc liên tục đi đi về về con đường nhấp nhô đỉnh núi, nhưng dung tích vận tải của máy bay chỉ có hạn, thêm vào đó điều kiện phi hành trên tuyến đường này vô cùng khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra tình trạng máy bay rơi tan xác, tổn thất về người và của quả không thể tính đếm. Nếu chỉ dựa vào con đường hàng không thì khó lòng có thể viện trợ một cách đầy đủ cho nhu cầu vật chất ngày một phình to khổng lồ của cả chiến trường Trung Quốc, bởi vậy phía quân đội quyết định mở con đường đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh.

Miến Điện lúc đó đang bị quân Nhật chiếm đóng, bộ đội công binh Trung Quốc và Mỹ đã phải trả giá rất đắt để xây dựng con đường này. Họ đào núi thông đường, bắc cầu qua sông, trong lúc xây dựng cầu đường, cuộc chiến tranh với quân Nhật vẫn diễn ra ngày một khốc liệt hơn, mỗi một mét đường đều được đắp bởi sự hi sinh của mấy mạng người. Có thể nói, người ta đã dùng tính mạng quý báu của không biết bao nhiêu quân nhân để đổi lấy con đường khúc khuỷu gồ ghề đó.

Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là, con đường Stilwell không phải tuyến đường duy nhất, ngoài hai trục đường chủ đạo mà lúc đó gọi là “trục bắc” và “trục nam” ra thì ở giữa còn có rất nhiều đường nhánh, nguyên nhân chính là do kết cấu địa chất ở đây quá sức phức tạp, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, khiến con đường đang xây dựng dở dang thì bị bỏ dở và chuyển sang nơi khác. Vì vậy, men theo con đường Stilwell ngoằn nghoèo như rắn lượn xuất hiện rất nhiều đoạn đường rẽ ngang bỏ hoang phế.

Trong đó tuyến đường bị bỏ hoang dài nhất nằm trong lòng núi Dã Nhân thuộc miền Bắc Miến Điện. Năm đó, bộ đội công binh liên hợp Trung Mỹ đã tìm thấy một con đường xưa cũ hoang tàn từ thời kỳ chiến tranh giữa Anh và Miến Điện còn để lại trong cánh rừng bí ẩn nơi núi sâu.

Từ những năm chủ nghĩa thực dân bành trướng ở phương Tây, người Pháp đặt hệ thống cai trị của mình dọc suốt ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào và gọi chung là Ấn Độ Na Dương. Còn Miến Điện lúc bấy giờ là thuộc địa của thực dân Anh. Trong cánh rừng nguyên sinh giữa lòng sơn cốc có một dải đất từ đầu chí cuối không thuộc địa phận của bất kỳ quốc gia nào. Song phương Anh, Pháp đều bỏ rất nhiều công sức và tiền bạc để xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt với vọng đồ mưu chiếm lấy khu vực này về tay mình, nhưng những khó khăn và nguy hiểm mà họ gặp phải ở núi Dã Nhân quả thực vượt xa khỏi sức tưởng tượng, rất nhiều người phải bỏ mạng nơi đây, bởi vậy cuối cùng công trình vẫn không thể hoàn thành. Những sự việc khủng khiếp mà mỗi bên gặp phải trong núi Dã Nhân từ trước đến nay đều được giữ bí mật, chẳng bên nào dám tiết lộ công khai.

Trong một ngôi chùa ở Miến Điện ẩn chứa một bức bản đồ cổ với lai lịch bất minh. Bức bản đồ mô tả về “Tượng Môn” của núi Dã Nhân. Địa danh có tên Tượng Môn ấy kỳ thực là một sơn cốc rất sâu. Môi trường tự nhiên trong cốc âm u, ẩm ướt, vô cùng thích hợp để các loại mãng xà khổng lồ ở Miến Điện ẩn thân. Nghe nói, sơn cốc chính là lãnh địa vùi xương của đàn voi rừng. Tuy rằng di tích thời xưa đã sớm tiên tan không còn dấu vết nhưng khi xây dựng con đường Stilwell, bộ đội công trình Mỹ đã tham khảo bức bản đồ cổ, rồi căn cứ vào địa hình của dãy núi để sửa chữa con đường thành hình quanh co như lượn sóng, đồng thời hi vọng có thể tận dụng đoạn đường bị bỏ phế mà quân Anh để lại, như vậy vừa có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức, vừa có thể làm đường đi xuyên qua lòng núi. Tuy nhiên, cuối cùng sự việc không như mong muốn, đoạn đường chìm lặng nơi góc chết khu vực miền núi Bắc Miến này dần dần bị người đời cho vào quên lãng và trở thành “Con đường U Linh” hữu danh vô thực, vất vưởng bao linh hồn oan khuất. Từ đó trở đi chẳng ai có thể biết đích xác vị trí của nó nữa.

Khi đó, để nhanh chóng đạt được hiệp ước hành động quân sự song phương giữa Trung Quốc và Mỹ nên bộ đội Trung Quốc đã điều phối rất nhiều sĩ quan quân đội trung hạ cấp biết tiếng Anh và từng được huấn luyện qua lớp đào tạo sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ gia nhập quân đội Mỹ. Trong số đó có thiếu úy Từ, tên đầy đủ là Từ Bình An, ông được đặc phái đến “Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ”, đồng thời theo binh đoàn này gánh vác trọng trách cực kỳ gian khổ, đó là xây dựng cầu đường ở núi Dã Nhân. Trong một lần chiến đấu với quân Nhật, ông không may bị thương nặng, cả gương mặt cháy bỏng nghiêm trọng, hủy hoại hoàn toàn dung nhan, trên thân thể cũng để lại di chứng tàn phế, sau khi lành vết thương, ông không muốn trở về tổ quốc mà chọn cách lưu lại Bắc Miến, lấy một cô gái bản địa làm vợ.

Từ Bình An chính là cố nội của Karaweik, ông đã ghi chép tất cả những điều mắt thấy tai nghe ở núi Dã Nhân vào cuốn sổ nhật ký. Có điều ông từ giã cõi đời khá sớm nên hậu duệ đều nhập gia tùy tục, hơn nữa họ lại được sinh ra và lớn lên trong núi sâu nên tuy là Hoa kiều nhưng chẳng ai biết nói tiếng Trung Quốc cả.

Vì Karaweik là người Hoa kiều, hơn nữa lại từng được Hạ Thiết Đông cứu mạng nên cậu luôn tỏ ra gần gũi với người Trung Quốc trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện và thường cảm thấy bản thân có quan hệ họ hàng với những người này. Tuy cậu không hiểu hội ba người Tư Mã Khôi đang bàn bạc vấn đề gì nhưng không khó nhận ra những người này đang muốn tiến vào núi Dã Nhân hung hiểm không gì sánh nổi.

Ở Miến Điện có một loại hương liệu rất đặc biệt, nó là nguyên liệu xông khói được đào từ gốc cây cổ thụ trong rừng, sau đó đem nghiền dần dần cho đến khi nát vụn mới có thể chế thành. Núi Dã Nhân có rất nhiều cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, ông Từ Bình An rất thông thạo địa hình của dải núi, hơn thế nữa còn nắm rõ tình hình phân bố từng đoạn đường, bởi vậy ông thường vào núi đào rễ cây chế thành hương liệu hoặc hái thuốc nơi núi cao vực thẳm, để duy trì cuộc sống mưu sinh hàng ngày.

Karaweik từng được người nhà nhiều lần dẫn vào núi hái thuốc, nên khá quen đường, tuy qua nhiều năm, con đường vận tải quân dụng được xây dựng ngày xưa đã sớm bị bùn đất và thảm thực vật che lấp, lại có những đoạn dài bị chôn vùi do lở núi, ngoài Karaweik ra thì những người còn lại khó có thể tìm thấy dấu vết con đường cũ bị che khuất dưới lòng đất.

Ghi chép của ông Từ Bình An, tuy không vẽ bản đồ nhưng thông qua con chữ, ông đã mô tả địa hình núi Dã Nhân rất chi tiết. Dải núi này chiều đông tây khá rộng nhưng chiều nam bắc lại rất hẹp, địa thế từ Tây Bắc thấp dần xuống Đông Nam. Địa hình của nó vô cùng gồ ghề, phức tạp, thực vật rậm rạp, um tùm, dưới lòng đất có vô số động huyệt rỗng, sương mù dày đặc, tích tụ từ năm này qua năm khác, chẳng bao giờ tiêu tan. Con đường Stilwell từ Nam chí Bắc, chạy quanh co khúc khuỷu đến núi Dã Nhân thì chẽ ra thành hình chữ Y, ở giữa là một phân nhánh, bên phải đánh dấu là tuyến đường 719A, bên trái là tuyến đường 206B, được quân Mỹ gọi chung bằng cái tên “Đường U Linh”.

Tuyến đường A cuốn quanh dải đất men theo sườn phải của núi Dã Nhân, tuy đường dài và phải đi vòng vèo nhưng lại tương đối an toàn. Còn tuyến đường B tận dụng rất nhiều động huyệt tự nhiên, để đâm xuyên qua núi. Đó là con đường thẳng cách biên giới Trung Quốc ngắn nhất.

Nhưng khu vực mà tuyến đường B của con đường U Linh đi qua lại là khu vực đáng sợ nhất trong cả dải núi Dã Nhân. Lúc xây dựng đường hầm này, người ta phát hiện hầu hết các khe đá huyệt động trong lòng núi Dã Nhân đều có màn sương dày đặc trắng xóa phun trào, những người đi vào trinh thám không một ai trở về. Con đường càng tiến vào sâu càng khiến nhiều thành viên của “Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ” mất tích, đến nay vẫn chẳng rõ tông tích.

Về sương mù xuất hiện dưới lòng đất, người ta đặt ra ba giả thuyết: Thời kỳ thực dân sơ khai, có một nhà thám hiểm người Anh từng nêu quan điểm, đây là “chướng khí”, ông ta suy đoán trong sương có hàm chứa một loại vật chất kịch độc, chỉ cần hít vào liền gây ra tình trạng tim gan tê liệt, nhưng sau đó qua nhiều lần thử nghiệm, giả thuyết thứ nhất hoàn toàn bị loại trừ. Người ta lại đưa ra một cách giải thích khác, tục truyền ở nơi sâu trong Tượng Môn có một con mãng xà khổng lồ màu đen cư ngụ, người bản địa gọi nó là “Trường xà”, dân gian nhiều kẻ còn thờ phụng nó như thần tiên, nó dài đến hàng mét, có thể phun sương nhả mây, chỉ cần người hoặc gia súc đi ngang gần đó lập tức bị nó hút thẳng vào bụng. Đồng thời, họ còn đồn đại nước suối chảy ra từ đám mây mù đó đều lọc qua hàng đống xương trắng chất cao như núi, trong đó còn ngấm cả độc dịch do mãng xà tiết ra, bởi vậy tuyệt đối không được uống.

Giả thuyết có mãng xà phun sương nhả mây dưới lòng đất được rất nhiều người tin là thật, có điều nếu bạn hỏi đã ai tận mắt nhìn thấy chưa, thì tất cả đều lắc đầu quầy quậy, nhưng sau đó đều phát thệ với Phật tổ rằng quả thực có người từng nhìn thấy nó ở núi Dã Nhân. Nói đi nói lại, cuối cùng khó lòng phân biệt nổi thật giả, vì vậy không thể kỳ vọng lấy được tin tức gì đó đáng giá từ miệng người bản địa.

Thậm chí, có người còn nói, các thổ dân thời cổ đại để bảo vệ bí mật được ẩn giấu trong núi Dã Nhân, đã yểm bùa vào nguồn nước, kẻ trúng tà rất khó giải cứu, gần như không còn đường sống.

Tóm lại, nhắc đến ngọn núi Dã Nhân, thực sự chỉ khiến người ta “không lạnh mà sởn gai ốc, nghe nói mà mặt biến sắc”, nó dường như là con ác quỷ có thể nuốt chửng mọi sinh mệnh trên đời. Bào trùm lên tất cả các truyền thuyết ly kỳ là màn sương mù dày đặc quấn quýt khắp quần thể núi, trông mờ mờ ảo ảo đến quái dị, khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, khó mà nắm bắt.

Tuyến đường B do quân đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng do gặp phải trở ngại quá lớn nên rốt cục đành đứt gánh giữa đường, từ sườn Tây núi Dã Nhân quay về tuyến đường A. Tuy cuối cùng tuyến đường này không thể thông suốt nhưng vẫn có thể đi vòng qua núi Dã Nhân, dự tính phải mất mười mấy ngày lộ trình.

Karaweik lo lắng hội ba người Tư Mã Khôi có thể bị lạc đường trong rừng rậm nguyên sinh, rồi đi nhầm vào đám sương mù trong núi sâu mà dâng tặng cả tính mạng cho quỷ dữ. Hơn nữa, trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, quân Nhật từng dùng máy bay ném bom thả một lượng lớn bom mìn từ trên không xuống lòng núi, sau này mưa to gió lớn khiến đất đá và thảm thực vật che phủ phần địa bì bên trên, căn bản không thể nhìn thấy dấu vết của bom mìn. Karaweik từng theo cố nội vào núi nhiều lần, cậu biết rõ khu vực bom mìn dày đặc chi chít đó, vì thế mới nhất quyết đòi đi theo. Cậu muốn chỉ cho họ thấy tuyến đường A của con đường U Linh, rồi dẫn mọi người đến gần khu vực tam giác Bắc Miến, nơi đó cách biên giới Trung Quốc chẳng còn bao xa.

Tư Mã Khôi khẽ cảm động trong lòng, thầm nghĩ bao nhiêu năm cách biệt với tin tức nơi quê nhà, chỉ phong thanh được vài thông tin vỉa hè, cũng chẳng rõ tình hình trong nước cụ thể ra sao nữa, nhưng năm đó mấy người bọn ta lẻn trốn khỏi tổ quốc, giờ trở về với tư thế của kẻ bại trận, chẳng có chút anh hùng khí khái nào, cũng không thể viện ra nổi bất kỳ lý do gì để biện hộ cho hành động năm đó. Thảng hoặc số may giữ được mạng sống mà trở về, nếu không bị quy vào tội danh hàng địch phản quốc thì đã là kỳ tích không dám tham lam mơ tưởng đến. Chỉ e cho dù không bị xử bắn, thì cũng phải ngồi tù mọt gông. Còn về cái cậu Karaweik, đương nhiên vì được đưa vào Trung Quốc bất hợp pháp, nên kết cục tốt nhất dành cho cậu bé chẳng qua cũng chỉ là sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ dẫn cậu đến một ngôi chùa, xuất gia làm hòa thượng rồi yên ổn sống hết kiếp này mà thôi. Nhưng đồng thời anh cũng hiểu, nếu để Karaweik ở lại Miến Điện, hậu quả cậu phải lãnh chịu chắc chắn không tránh khỏi cảnh bị truy bắt và chỉ có con đường chết chờ đợi. Có điều kết cục này quá tàn khốc, anh quả thực không nỡ nghĩ đến.

Tuyệt thương xót sờ sờ vào cái đầu trọc lốc của Karaweik, giọng nghèn nghẹn: “Đứa bé này thật tốt bụng!”, cô vừa nói vừa trừng mắt nhìn La Đại Hải, như tỏ ý trách móc anh lúc đầu hay nổi cáu với Karaweik.

Hải ngọng cảm thấy hơi ngượng ngập, anh thường đối xử với mọi người khá thiếu tế nhị, lại không giỏi thể hiện tình cảm thật, thường ngày anh hay lắm lời, nhưng đến lúc cần phải nói thì lại chẳng nói được câu nào tử tế, đành phải giả bộ “quan tâm đến sự trưởng thành của đàn em”, nói tía lia với Karaweik: “Không ngờ thằng giặc nhỏ này lại là Hoa kiều, hôm nay… mẹ kiếp! cứ coi như La Đại Hải anh đây nợ chú một món”.

Tư Mã Khôi hiểu rất rõ tuy La Đại Hải chỉ nói một câu đơn sơ như vậy nhưng sâu bên trong chứa đựng ý chí sẵn sàng chết thay cho Karaweik một mạng. Có điều không hiểu sao, sau khi đứng bên cạnh nghe mấy lời này, trong lòng Tư Mã Khôi đột nhiên dội lên cảm giác sợ hãi khó tả, anh linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Anh cũng không hiểu nguyên nhân gì lại khiến mình có dự cảm xấu đến thế, thầm nghĩ hay là cứ ở lại trong rừng rậm nguyên sinh làm người rừng quách cho xong. Về mà phải chết thì thà cứ trốn trong rừng sâu mai danh ẩn tích chẳng phải tốt hơn sao?

Nhưng Tuyệt và La Đại Hải lại một lòng nhớ cố hương, hai người họ cứ thúc giục Tư Mã Khôi mau lên đường, hiện giờ càng hướng về phía bắc càng an toàn, nếu không cơn bão nhiệt đới “Buddha” mà tới thì có muốn đi cũng chẳng thể đi nổi.

Tư Mã Khôi đành lấy lại tinh thần, đi theo ba người vào khe núi phía tây. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách trong rừng rậm núi sâu trông có vẻ khá gần nhưng do địa hình gồ ghề, độ cao chênh lệch rõ rệt, nên khi đi thì lại vô cùng xa xôi và gian nan. Họ vượt núi băng rừng, mải miết đi cho đến khi hoàng hôn buông xuống mà vẫn chưa đến được chân tuyến đường A của con đường U Linh

Trên mình bốn người bọn họ chẳng còn lấy nửa gói lương thực. Đi nhiều giờ trong núi, bụng đói cồn cào, không thể chịu nổi, họ đành bắt hai con rắn cỏ chia nhau ăn tạm, cháo ít vãi nhiều còn biết làm sao. La Đại Hải vô tình ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện trong lùm cây cổ thụ có một con chim rừng chẳng biết thuộc họ gì. Con chim đó có bộ lông vũ xanh biếc, rất sặc sỡ, sống động, trông nó khá lớn, tiếng kêu nghe như tiếng người ta gõ tay vào ống trúc rỗng.

Các loài chim trong rừng rậm nguyên sinh nhiều không kể xiết, đại bộ phận đều có hình dáng rất cổ quái, bọn chúng thường tỏ ra không sợ người, có lẽ từ trước đến nay chúng chưa từng nhìn thấy con người, nên cứ cho rằng loài người chẳng khác loài khỉ là mấy, nhìn thấy có người đi qua, chúng cứ ngơ ngác đứng ngẩn tò te nhằm về phía mình mà kêu quang quác.

Hải ngọng thầm nghĩ chỗ này chắc đã vào rất sâu trong núi, cho dù tiếng súng có to hơn nữa thì cũng chẳng lo đánh động kẻ địch. Anh cố gắng nuốt ngụm nước bọt, giơ khẩu súng do Anh chế tạo, ngắm chuẩn mục tiêu, ba viên đạn tạo thành một đường thẳng. Tiếng súng vừa vang lên, tiếng chim rơi xuống từ cây cổ thụ cũng vang lên một giây sau đó. Tiếng súng đồng thời cũng kinh động đến bầy chim cư ngụ trong khu rừng, chúng xáo xác lượn vòng giữa không trung và cất tiếng kêu thê thiết mãi một lúc lâu.

Karaweik và Tuyệt không thể chờ thêm liền chạy về phía trước để nhặt con mồi. La Đại Hải cũng đắc chí chạy theo, chỉ có Tư Mã Khôi bị thương khá nặng trên vai, đầu óc hỗn loạn, vác mỗi khẩu súng trường nặng chừng bảy tám cân mà đã cảm thấy bước đi không vững, nên đành bị tụt hậu lại phía sau. Đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy sau người có chút khác lạ, liền lập tức đề cao tinh thần cảnh giác theo phản xạ. Đang định ngoái đầu lại nhìn xem rốt cục là cái gì thì thấy một khẩu súng lạnh băng kề ngay sau gáy.

Hồi 5: Đáy biển

Mấy năm ở đội du kích Bắc Miến, dường như ngày nào Tư Mã Khôi cũng phải nếm trải những thời khắc lăn lộn nơi đầu súng mũi dao, nên hiểu sâu sắc luật lệ của rừng già là lấy thịt đè người, mạnh sống yếu chết, chỉ cần tỏ ra nương tay hay do dự một chút chắc chắn sẽ chết mà chẳng có đất chôn thây. Lúc này, hốt nhiên anh phát hiện có kẻ kề súng ngay sau gáy, không kịp nghĩ ngợi lâu la, liền lập tức thi triển chiêu “Túm đầu quật ngửa”. Anh đột ngột cúi mạnh người về phía trước, đồng thời vai phải ngửa ra sau phản đòn, không đợi kẻ tấn công lén kịp rơi xuống đất, bèn nhanh chóng kẹp chặt cánh tay cầm súng của đối phương.

Vết thương ở vai trái của Tư Mã Khôi vẫn chưa lành, nên không thể phát huy tối đa sức mạnh, chỉ đành gắng gượng thuận thế thúc một cùi chỏ như trời giáng từ trán xuôi xuống dưới, trúng ngay lá mía trên sống mũi, chỉ nghe tiếng xương mũi gẫy rủn, phát ra một tiếng kêu nhỏ, vụn xương đâm ngược vào trong não, tên đó chẳng kịp ư hử nửa lời đã mềm nhèo nhẹo đổ rạp xuống đất.

Trong lúc cấp bách, Tư Mã Khôi thân thủ nhanh như cắt, ra tay tàn độc gọn gàng, nhưng giờ đây sau khi hạ gục kẻ địch, anh không còn đủ sức thu thế nên cũng đổ nhào xuống theo. Điều anh lo sợ là chúng không chỉ có một tên, nên vội vàng lăn sang một bên, thuận đà cuộn một vòng giơ tay túm lấy khẩu súng trường SMLE, đang định chạy lên phía trước hô hoán hội La Đại Hải mau tìm chỗ ẩn nấp thì thấy hai mươi mấy tên lính Miến Điện được vũ trang đầy đủ thình lình từ rừng rậm chui ra.

Đám lính mới xuất hiện phần đông đều vận y phục đen, đầu chít khăn rằn, trong tay lăm lăm khẩu súng xung phong MP.18, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào hội ba người La Đại Hải ở phía trước, xem tình hình này, chỉ cần Tư Mã Khôi dám manh động một chút, họ sẽ lập tức bị bắn tan xác pháo.

Tư Mã Khôi tự biết không thể phản kháng nổi, nên đành buông vũ khí đầu hàng, chịu trận để người ta trói gô thành bó, chặt như nêm giò. Tư Mã Khôi tự than khổ trong bụng, chẳng ngờ vào đến tận rừng sâu rồi mà vẫn còn gặp kẻ địch, nhưng nhìn trang phục và vũ khí của nhóm người này có vẻ rất hỗn tạp, không giống với quân đội chính phủ. Nơi ma quỷ hung hiểm dị thường ở núi Dã Nhân này có lẽ chỉ những hạng người chạy tháo mạng như “đội du kích, phạm nhân giết người cướp của hoặc buôn bán thuốc phiện” mới dám lui tới.

Tư Mã Khôi không đoán nổi nhóm người này rốt cục muốn làm gì nhưng trong lòng cũng ngầm hiểu, mình đã giết chết một đồng bọn của đối phương, nay lại rơi vào tay chúng, đừng nói có viễn cảnh tốt đẹp gì chờ đợi phía trước mà ngay cả tính mạng chắc cũng khó có thể bảo toàn. 

Đúng lúc này, từ phía sau đám lính vũ trang Miến Điện lại có sáu người nữa bước ra, già có, trẻ có, trong đó còn có một thằng tây cao to lực lưỡng. Có điều không ngờ kẻ cầm đầu lại lại một cô gái trẻ măng, mặt mày xinh xắn, thanh tú, xem ra cũng chỉ tầm hai mươi mấy tuổi là cùng, đầu đội chiếc mũ chiến đấu có lắp kính chắn gió, trên người mặc bộ trang phục của thợ săn, trông cô ta toát lên vẻ sáng láng, anh dũng hơn người, tinh tường, từng trải.

Đám lính vũ trang Miến Điện lục soát hội bốn người Tư Mã Khôi từ ngoài vào trong rất kỹ càng, rồi đem mấy vật phẩm vụn vặt cùng cuốn nhật ký của Karaweik tất cả giao nộp cho nữ thủ lĩnh xem xét.

Cô ả mặt không biến sắc, cầm từng món lên xem, đợi khi lật đến cuốn nhật ký của ông Từ Bình An, một chút biểu hiện kinh ngạc khẽ thoảng qua gương mặt. Cô ả lập tức gấp cuốn nhật ký lại, cúi đầu nhìn xác chết của đồng bọn đổ rạp trên mặt đất, rồi đi đến trước mặt Tư Mã Khôi, chăm chú nhìn từ đầu xuống chân như ngầm đánh giá, cuối cùng cũng mở miệng hỏi: “Các anh là người Trung Quốc hử? Sao lại mặc quân phục của quân đội nhân dân Miến Điện? Các anh đến khu rừng già trong vùng núi sâu Bắc Miến này để làm gì?”

Trong mắt Tư Mã Khôi, cô ả trông rất giống với các nhân vật nữ chính bước ra từ phim cổ trang, chẳng biết gốc gác lai lịch ra sao, nhưng nghe đối phương hỏi như thể hoàn toàn không biết việc quân đội nhân dân Miến Điện Cộng hòa có hàng vạn người Trung Quốc, thì liền suy đoán có lẽ họ mới từ nước ngoài đến đây. Anh lại thấy cô gái phát âm tiếng Trung nghe rất trong và chuẩn, không giống với người lớn lên mới học, lại đoán chắc cô ả là người Trung Quốc, hoặc chí ít cũng từng là người Trung Quốc. Tư Mã Khôi cũng tự biết người Trung Quốc mà trà trộn giữa đám người Miến Điện, chỉ liếc mắt một cái là nhận ra ngay, nên thấy chẳng cần thiết phải giấu diếm làm chi. Trong lòng thầm nghĩ: “Xem chừng việc này quá nửa là có đất xoay chuyển tình thế”, nhưng trước mắt vẫn chưa rõ đám người này và quân đội chính phủ liệu có liên can gì đến nhau không nên không trả lời, mà chỉ gật đầu một cái.

Cô ả mỉm cười ra vẻ thân thiện rồi hỏi: “Sao anh không dám nói, hay tại sợ quá?”, đầu óc Tư Mã Khôi không ngừng chuyển động tìm kế thoát thân, nhưng miệng vẫn giảo hoạt mập mờ: “Tôi quả là có chút vô cùng hoảng sợ”.

Nào ngờ, nghe xong cô ả lập tức đanh sắc mặt, nhìn lạnh băng như nước đá, khẽ hừ lên một tiếng trong cổ họng: “Đừng giở trò cợt nhả với tôi! Khi nãy thuộc hạ của tôi vừa dùng họng súng kề ngay sau gáy, mà anh vẫn đủ thời gian giơ tay thúc chân giết hắn ngay tức thì, không những thế còn giết vô cùng nhanh gọn tàn nhẫn, chẳng hề do dự một giây. Anh giết người mà không thèm chớp mắt, có được thân thủ nhanh nhẹn và tố chất tâm lý kiệt xuất như vậy mà còn dám mở miệng kêu lo lắng, hoảng sợ vào lúc này sao?

Tư Mã Khôi dòm ánh mắt sắc như dao của cô ả thì biết cô nàng này không phải tay dễ đối phó, nhưng miệng vẫn lem lẻm: “Sở dĩ tôi cảm thấy lo lắng là vì cô ở gần tôi quá, nếu cô đứng cách xa tôi khoảng mười bước thì còn tạm được, nhưng nếu vượt quá khoảng cách này là tôi lại cảm thấy không an toàn”.

Cô ả lạnh lùng trợn mắt nhìn Tư Mã Khôi một cái: “Tôi hỏi gì, tốt nhất anh hãy thành thực mà trả lời. Chẳng niệm tình các anh là người Trung Quốc, tôi đã không hạ lệnh bắt sống mang về, nếu bây giờ tôi giao nộp các anh cho bọn người Miến Điện, chắc chắn các anh sẽ bị họ mang lột da sống ngay trên cọc. Tôi nghĩ chắc anh hiểu rõ, bọn họ có nhiều chiêu đày ải thể xác người khác như thế nào”.

Tư Mã Khôi hoàn toàn phớt lờ lời đe dọa của cô ả, hùng hồn nói: “La Đại Hải tôi xin hoan nghênh các vị đến mần, ai mần tốt sẽ được trọng thưởng”.

La Đại Hải đang bị người ta trói nghiến, ấn nằm xuống đất, từ đầu đến giờ chẳng kêu rên nổi tiếng nào, bây giờ nghe thấy Tư Mã Khôi mạo nhận mình nói nhăng nói cuội, lập tức giãy dụa, ngoác miệng mắng lớn: “Tiên sư thằng Khôi, sao cậu mất dạy thế hả? cậu có chú không hử? Tớ ị vào chú cậu!”

Cô ả thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không coi mình ra gì, hơn nữa hai người đều là dạng mồm mép giảo hoạt, hỏi cả ngày mà chẳng thăm dò được nửa câu hữu dụng từ miệng họ, rõ ràng bạn hỏi đông, họ lại đi trả lời tây. Lửa giận không biết từ đâu bốc lên ngùn ngụt, ý niệm giết người vụt lóe lên trong đầu, cô ả giật mạnh tóc của Tuyệt ngược ra sau, liền sau đó rút “xoẹt” con dao săn ra, ánh thép lạnh băng. Cô ả dí lưỡi dao xuống dưới cằm Tuyệt, mắt nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi, hằn giọng đe dọa: “Nếu anh còn nói năng bậy bạ nữa, tôi sẽ cắt đứt cổ họng con ả này”.

Tuyệt không hề sợ sệt, điềm nhiên nói: “Tôi muốn chết từ lâu rồi, có giỏi thì cứ cho tôi một cái chết thật sảng khoái xem nào!”, sau đó cô liền nhắm mắt chờ đợi, Karaweik ở bên cạnh cuống quýt gào thét, nhưng bị một người Miến Điện đạp ngã vật ra đất, cầm súng chọc mấy cái liên tiếp vào đầu, trong phút chốc, máu chảy lênh láng khắp mặt cậu bé.

La Đại Hải nhìn thấy cảnh tượng ấy, không dằn lòng được liền liên miệng chửi mắng. Tư Mã Khôi cố nuốt giận vào trong, mặt không biến sắc, tuy bề ngoài vẫn tiếp tục hời hợt ứng khẩu, nhưng trong lòng thì âm thầm tìm cơ hội thoát thân, cướp súng khống chế lại kẻ địch. Khi đưa mắt nhìn tứ phía, anh đột nhiên phát hiện ngoại trừ hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện ra thì mấy người do cô ả cầm đầu còn cõng theo một thanh hợp kim ở sau lưng.

Tư Mã Khôi nhận ra loại vũ khí này, nó có tên tuổi đàng hoàng, gọi là “Giáo mỏ vịt”, cây giáo rỗng ruột, được làm bằng ngũ kim, thân to bằng quả trứng ngỗng, cán dài bằng vai người, bên trong chứa ba khúc ngầm, có thể kéo dài hoặc thu ngắn, co duỗi tùy ý, phía trước mũi còn có hình đầu thú há miệng, từ trong khe miệng nhả ra mũi giáo giống hình đầu trượng, mũi giáo bằng, dẹt và sắc lẻm, hơi giống với cây thiền trượng ngũ hành mà các tăng nhân du phương vẫn thường sử dụng, nhưng tinh tế và nhanh nhạy hơn nhiều, lại rất tiện mang theo. Nó chính là công cụ độc môn dùng để phán đoán điều kiện địa chất của Kim Điển tiên sinh khi vẫn còn treo biển hành nghề năm xưa, loại công cụ này có thể đào núi lấy đất, ngay cả tầng nham thạch cứng rắn, dày đến mấy tấc cũng vẫn đào được, không những thế nếu lỡ trong núi hoang rừng thẳm chẳng may gặp phải bất trắc, còn có thể sử dụng như món binh khí phòng thân. Nghe nói, bọn trộm mộ ở khu vực Lĩnh Nam và Quan Đông trước đây vẫn thường dùng nó để đào mộ huyệt, bật nắp quan tài.

Tư Mã Khôi nhìn không sai vào đâu được, trong lòng bèn sinh nghi: “Xem ra nhóm người này không phải lính truy sát do quân đội chính phủ phái đến, nhưng từ trước đến nay nước giếng chẳng phạm tới nước sông, vậy hà cớ gì họ cứ nhất định phải tranh chấp với bọn ta nhỉ? Hơn nữa núi Dã Nhân thần bí khó lường này có thể nói là góc tối nguy hiểm nhất trên thế giới, rốt cục trong núi ẩn chứa những bí mật gì đáng để bọn trộm mộ bất chấp tất cả, mạo hiểm tính mạng tìm đến đây?”

Bên cạnh cô ả còn có một lão già chừng ngoài năm mươi tuổi, thân hình trung bình hơi gầy một chút, dưới cằm còn để một chùm râu dê, đầu trọc lốc, bóng lộn, giống với dáng vẻ của một “học giả”. Lão ta nhìn thấy không khí lúc này đã căng thẳng đến cực độ, dường như sắp xảy ra nguy cơ tàn sát đẫm máu đến nơi, liền vội vàng chạy ra dàn hòa. Trước tiên, lão ta giải thích đầu đuôi sự việc cho Tư Mã Khôi nghe, lão tự giới thiệu mình họ Khương, quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, xuất thân là một “nhà thư pháp”, đoạn quay sang giới thiệu cô nàng thủ lĩnh, thì ra cô ả họ Thắng, tên Ngọc, mọi người thường gọi là “Ngọc Phi Yến”.

Khương sư phụ thanh minh bọn họ là đội thám hiểm khảo sát địa lý, muốn vào sâu trong lòng núi Dã Nhân để tìm dấu tích con đường Stilwell năm xưa. Đầu tiên họ phải bỏ rất nhiều tiền để thuê một đội quân quân phiệt rất có thanh thế ở vùng tam giác Bắc Miến, sau đó mới tìm cơ hội tiến vào núi. Nhưng khổ nỗi, chẳng ai trong số họ thông thuộc môi trường trong rừng rậm, lại không có người dẫn đường, nên cứ loanh quanh mãi trong núi suốt mười mấy ngày trời mà chẳng có kết quả gì.

Khi nãy đội thám hiểm nghe thấy tiếng súng trong rừng, lập tức tỏa ra tứ phía ẩn trốn, sau đó phát hiện hội mấy người Tư Mã Khôi, trên mình ai nấy đều khoác súng trường, hơn nữa lại có vẻ giống người Hoa, chỉ sợ xảy ra nhầm lẫn tạo thành xung đột không đáng có, nên mới sử dụng hạ sách tấn công lén, kỳ thực chẳng qua họ chỉ muốn sau khi giải trừ vũ khí của đối phương sẽ ngồi xuống thương lượng chính sự, nào ngờ Tư Mã Khôi hạ thủ quá tàn độc, khiến tình hình vượt ra ngoài dự liệu ban đầu, chẳng những hai bên chẳng khống chế được cục diện mà phía họ còn tổn thất một người anh em.

Khương sư phụ là một tay lọc lõi già đời, vừa nhìn là biết loại người như Tư Mã Khôi không thể dùng biện pháp cứng rắn mà chỉ ưa mềm dẻo, nên liền khuyên giải: “Trông các hạ râu hùm hàm én, rõ ràng là tướng vương hầu, không những thế thân thủ lại vô cùng phi phàm, chắc chắn không phải hạng người chơi không ngồi rỗi, khiến tôi bội phần khâm phục. Trộm nghĩ hôm nay chúng ta bèo nước tương phùng, trước đây đã chẳng gây thù, thì bây giờ cũng đừng nên kết oán, mất một tên lâu la đâu có đáng gì? Nhưng chớ vì một việc nhỏ mà làm tổn thương hòa khí. Chúng tôi chỉ muốn hỏi một việc, cậu có biết chuyện gì liên quan đến con đường U Linh không?”

Nhưng lão đã phỏng đoán nhầm, Tư Mã Khôi là loại người rượu mời không uống, rượu phạt lại càng không, dầu mỡ chi cũng chẳng ưa, làm gì có chuyện anh dễ dàng tin vào mấy lời đường mật khéo léo ấy. Không đợi Khương sư phụ nói hết câu, anh liền đột ngột mở miệng chen vào: “Bọn “hối tử” trộm mộ các ông muốn tìm con đường Stilwell trong núi Dã Nhân để làm gì?”. Anh suy đoán nhóm người Ngọc Phi Yến rất có khả năng là dân trộm mộ, nhưng không rõ mục đích cụ thể của cô ả, cho nên mới mang câu này ra làm mồi nhử, hỏi xem đối phương có phải là “hối tử” thật hay không.

Lời vừa dứt khỏi miệng, Thắng Ngọc và Khương sư phụ đã trợn mắt ngạc nhiên, không ngờ Tư Mã Khôi lại có thể nhận ra lai lịch của cả bọn, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác kinh ngạc, chẳng nhịn được liền buột miệng hỏi: “Làm sao cậu biết?”

Tư Mã Khôi quan sát phản ứng của đối phương liền biết tiên liệu của mình hoàn toàn chính xác, bèn dùng ánh mắt hướng về phía cây giáo mỏ vịt mà bọn họ đeo sau lưng, rồi cười nhạt hì hì lên mấy tiếng: “Võ Đại Lang nuôi Vương Bát – người nào của nấy thôi mà”.

Thắng Ngọc và Khương sư phụ nghe xong, miệng không khép lại nổi, hai người liếc mắt ngầm trao đổi, sau đó Khương sư phụ lại gần cởi trói cho Tư Mã Khôi, nhưng ba người còn lại thì vẫn không được thả. Bọn họ chỉ mời một mình Tư Mã Khôi đến nói chuyện cụ thể.

Trước mắt, hai bên cùng có rất nhiều chuyện muốn hỏi đối phương, nhưng chẳng ai chịu mở lòng trước, bởi vì hệ lụy để lại rất lớn. Dường như mọi việc liên quan họ đều là những việc mờ ám trong bóng tối, hơn nữa lại không biết đối phương rốt cục là người như thế nào, nên chẳng ai dám dễ dàng hở miệng nửa câu. Trong giới lục lâm có quy tắc “Ba nói, ba không nói”. Nếu lỡ gặp phải tình huống như bây giờ có thể vận dụng phương thức quen dùng của các hành bang, hai thủ lĩnh của mỗi bên cùng nhau ngồi xuống mặt đối mặt – “Gạn đáy biển”. Đây là cách sử dụng ám ngữ trong “Mắt đáy biển giang hồ” của thế giới ngầm để thăm dò, gạn hỏi lẫn nhau. Sau khi đôi bên đều hiểu rõ gốc rễ ngọn ngành, mới dám đem những việc cơ mật ra bàn bạc chi tiết.

Khương sư phụ tìm thấy một phiến dá dài phủ đầy rêu xanh ở gần đấy, sau đó sai bọn lâu la lấy mười tám chiếc nắp ấm trà quân dụng để thay thế “bát trà”, lại đổ đầy nước lọc vào trong, rồi lần lượt bày bố mười tám chiếc nắp ấm ở phía phải theo trận pháp đáy biển. Mọi việc xong đâu đấy, lão bèn mời Tư Mã Khôi và Thắng Ngọc ngồi vào hai phía đối diện của phiến đá.

Thắng Ngọc là chủ, lẽ đương nhiên phải mở màn trước, cô ả đẩy hai chiếc nắp trong thế trận ra phía trước, tay trái giơ ba ngón nhè nhẹ ấn vào một nắp, tay phải lại xòe ra bốn ngón chỉ chiếc nắp còn lại, nhếch mép cười: “Hành bang các phái, lấy nghĩa khí làm trọng, tam nhất bất nhị, lá rễ như nhau. Tư Mã huynh, mời anh uống trà trước”.

Vết thương trên vai Tư Mã Khôi lại ngâm ngẩm đau, trong đầu dường như có hàng ngàn con bọ đang bò ngọ ngoạy, nhưng việc đã đến cơ sự này cũng đành đâm lao thì phải theo lao, anh vắt kiệt sức lấy lại tinh thần, nhìn hai chiếc nắp ấm bên trái và bên phải, biết rằng nếu tùy tiện uống sẽ bị đối phương đánh giá mình là kẻ ngoại đạo không hiểu phép tắc. Nghĩ vậy, anh liền lắc đầu nói: “Tại hạ đã không phải tam lão gia, cũng chẳng phải tứ thiếu gia, đâu dám mạo muội trước mặt quý lão gia”.

Thắng Ngọc thấy anh am hiểu luật lệ, liền nhè nhẹ gật đầu, rút hai chén trà về, rồi bày lại thế trận “Nhất tự trường xà”, xếp mười tám chiếc nắp thành một đường dài ngoằn nghoèo như rắn lượn, đoạn gạn hỏi: “Xin hỏi huynh đài, thế trận treo biển gì, trên biển viết chữ gì?”

Tư Mã Khôi biết Thắng Ngọc đang muốn hỏi lai lịch và xuất thân của mình, bèn trả lời: “Ở nhà chẳng dám cãi cha, ra ngoài chẳng dám cãi thầy, quý lão đại đã hỏi, thật chẳng dám giấu. Thế trận treo biển chữ, trên biển viết chữ đổ biển dốc sông, tại hạ họ Tây, đầu đội bảy mươi mốt, lưng cõng bảy mươi hai, chân giẫm bảy mươi ba”.

Thắng Ngọc vừa nghe liền hiểu ngay, thì ra Tư Mã Khôi là truyền nhân của Kim Điển tiên sinh, nhưng thấy đối phương tuổi đời còn trẻ, khó lòng tin ngay được, nên lại tiếp tục dò hỏi xem bản lĩnh của anh lớn cỡ nào, được truyền thụ những bí kíp gì. Nghĩ vậy, cô ả bèn hắng giọng: “Tại hạ còn muốn thỉnh giáo huynh đài, trên người mang theo hàng gì?”

Tư Mã Khôi trả lời: “Trên người chẳng có hàng gì đặc biệt, chỉ mang theo nửa bộ “Kinh Kim Cương” lừng danh năm hồ bốn bể, nhưng tại hạ chỉ là chân trong chân ngoài, nếu có chỗ nói không đúng, chỉ mong lão thiếu gia bỏ quá cho”. Anh nói xong, trong bụng thầm nghĩ: “Làm gì có chuyện hỏi tôi mãi thế, tôi cũng phải hỏi cô mới được”, đoạn liền thay đổi thế trận chén trà đáy biển ban đầu thành thế trận “Nhị long xuất thủy”, xếp mười tám chiếc nắp thành hai hàng, mỗi hàng chín chiếc song song nhau, rồi quay sang gạn hỏi Thắng Ngọc: “Dám hỏi quý lão đại, trong tay có bao nhiêu thuyền?”. Vì khi nãy Tư Mã Khôi đã biết hội Thắng Ngọc là dân trộm mộ, cho nên cứ trực tiếp hỏi thẳng cô ả xem rốt cục đã tìm thấy bao nhiêu minh khí được tùy táng trong mộ cổ.

Thắng Ngọc cũng không chịu lép vế, liền đáp: “Hỏi hay lắm, trong tay tại hạ thuyền không nhiều cũng chẳng ít, chỉ có khoảng chín ngàn chín trăm chín mươi chín chiếc”. Nói một cách tóm tắt, ý của cô ả là: “Quá nhiều, chẳng thể nhớ nổi”.

Tư Mã Khôi thấy thủ đoạn của cô ả lợi hại, không mấy đáng tin nên hỏi tiếp: “Trên thuyền treo cờ hiệu gì?”. Sở dĩ anh hỏi vậy vì bọn “Hối tử” trộm mộ trong dân gian, thủ pháp không giống nhau, do chịu sự hạn chế của nhân tố môi trường địa lý và kinh nghiệm kỹ thuật nên đa số đều phân khu vực để hành sự, dân Hà Nam không xâm phạm đến lãnh địa của dân Thiểm Tây, dân Quan Ngoại không vào Quan Nội. Câu hỏi khi nãy của Tư Mã Khôi đại ý là: “Nhóm người các cô thường đào mộ ở khu vực nào? Sử dụng loại kỹ thuật gì?”

Thắng Ngọc lập tức đối đáp: “Trên núi treo cờ thắng lợi, dưới núi treo cờ vàng đất, mùng một, hôm rằm treo cờ long phụng, đầu thuyền treo cờ vuông khẩu hiệu lớn, cuối thuyền treo cờ chín mặt uy phong!”. Trong lời cô ả ẩn chứa hàm ý sâu sa, muốn nói nơi nào cũng đều đi cả. Những ngôi mộ cổ từ các triều đại xa xưa tuy rằng đâu đâu cũng có nhưng các ngôi mộ chôn ở nơi bình nguyên rộng rãi thường dễ đào dễ lấy nhưng đồ kiếm được lại thường không đáng tiền, cố sống cố chết, tim đập chân run, liều mạng một phen cuối cùng lại lấy được mấy thứ dưa chẳng ra dưa, táo chẳng ra táo, thật chẳng đáng chút nào. Ngược lại những ngôi mộ trong núi sâu toàn chôn những bậc đế vương, hầu tướng, minh khí bảo vật muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu, nhưng những ngôi mộ đó địa cung mộ đạo, tường đá nắp sắt, chôn giấu rất nhiều ám khí, cài đặt vô số cơ quan ngầm, kiên cố khó phá, vừa không dễ tìm thấy, lại không dễ khai quật. Nhưng Thắng Ngọc tự nhận mình là dân trộm mộ cao siêu, mộ thường không chê ít, lăng tẩm vua chúa trong núi sâu cũng không ngại khó, chỉ cần cô ả trúng ý thì chẳng có ngôi mộ nào không thể khai quật.

Tư Mã Khôi nghe mấy lời tự cao tự đại này, quả không thể lĩnh giáo nổi: “Tôi hỏi trên thuyền cô có bao nhiêu ván? Mỗi ván đóng bao nhiêu đinh?”. Ý anh muốn hỏi: “Bản lĩnh của cô lớn cỡ nào mà dám khoác lác thế hử? Cẩn thận gió to bay mất lưỡi đấy!”.

Thần sắc Thắng Ngọc điềm nhiên như không, bình thản trả lời: “Mỗi thuyền có bảy mươi hai ván, tương tự bảy mươi hai phép địa sát, trên ván có ba mươi sáu đinh, giống như ba mươi sáu phép thiên cang”. Ý cô ả muốn nói: “Thuộc hạ của tôi vừa là cao nhân hiểu bí thuật phong thủy lại là chuyên gia tinh thông địa lý, am tường thuốc nổ, dưới vòm trời này chẳng nơi nào chúng tôi không thể kiếm ăn được”.

Tư Mã Khôi cảm thấy khó chịu trong lòng, lạnh lùng hừ một tiếng, lại hỏi: “Ván có lỗ mà không có đinh là loại ván gì? Ván có đinh mà không có lỗ lại là loại ván gì?”

Thắng Ngọc đối đáp trơn tru: “Loại có đinh mà không có lỗ là ván nhảy, loại có lỗ mà không có đinh là ván gió”. Trả lời xong, cô nàng lập tức quay sang hỏi lại: “Anh bảo trên trời có bao nhiêu ngôi sao?”

Tư Mã Khôi nghe xong liền không phục, thầm chửi: “Dựa vào mấy món vặt vãnh nhà cô mà dám hỏi thân thủ của tôi sao?”, nghĩ vậy anh liền thể hiện thái độ bất cần: “Sao trên trời, đếm không hết, tiền nhân nói có ba vạn sáu mươi sáu, còn cô có mấy sợi gân trên người?”

Thắng Ngọc thấy ban đầu đối phương còn khá tuân thủ luật lệ, nhưng càng ngày càng trở nên vô phép tắc, không nhịn nổi cơn giận thoáng qua, liền nhướng mày đáp: “Trên người có bảy sợi gân, cứ việc xẻ thịt lột da mà tìm. Thế anh có biết một con dao có mấy lỗ không?”

Tư Mã Khôi không thèm khách khí đáp: “Một dao hai lỗ, cô có mấy quả tim, cho tôi mượn một quả mang ra nhấm rượu chơi!”.

Hồi 6: Máy bay tiêm kích

Sắc trời càng ngày càng tối mịt, cả dãy núi Dã Nhân dần dần chìm vào màn đêm im lìm như cõi chết. Đây cũng là thời khắc chìm lắng ngắn ngủi báo hiệu cơn giông bão cuồng nộ sắp ập tới.

Vậy mà không khí đông cứng giữa bốn thành viên còn lại của đội du kích Miến Điện Cộng hòa và nhóm người của Ngọc Phi Yến vẫn ngày một căng thẳng hơn.

Tư Mã Khôi tự biết phe mình đang bị đối phương khống chế, nếu câu nói có chút tỏ ra sợ sệt sẽ lập tức càng bị lấn át hơn, bởi vậy anh không hề nhượng bộ nửa bước trên “bàn đại dương”, ngược lại còn dụng tâm chọn những lời hổ báo khích tướng Thắng Ngọc khiến mặt cô ả biến sắc lúc xanh lúc đỏ.

Khương sư phụ đứng bên cạnh là tay cáo già lọc lõi, bươn trải giang hồ đã nhiều năm, lão nhận thấy bọn họ người tám lạng kẻ nửa cân, chẳng ai chịu nhường ai, càng nói càng khiến không khí trở nên căng thẳng, chỉ còn thiếu nước “đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ” mà thôi. Thế là lão vội vàng đứng bên cạnh ho lên một tiếng như ngầm cảnh báo câu chuyện của hai người nên chấm dứt ở đây, rồi thay nước trà trong chiếc nắp bày trận. Theo tiền lệ cổ xưa, lúc này nên dùng “hồng trà đặc” – một loại trà rất đậm đặc, chỉ cần uống một ngụm là sốc lên tận đỉnh đầu, nhưng điều kiện trong rừng nguyên sinh không có hồng trà nên chỉ còn cách thay bằng chén nước lọc khác, rồi bày lại thế trận thành “Tam dương khai thái”, xếp mười tám chiếc nắp thành ba hàng, mỗi hàng sáu chiếc.

Chén trà đáy biển bắt đầu bằng việc tự xưng gia môn với thế trận “Nhất tự trường xà”, sau đó bọn họ thay đổi trận pháp thành “Nhị long xuất thủy” để dò hỏi lẫn nhau, trong “Gạn đáy biển” vẫn còn các thế trận khác như “Tam dương khai thái, tứ môn đấu để, ngũ hổ quần dương, lục đinh lục giáp, thất tinh bắc đẩu, bát quái vạn tượng, cửu tử liên hoàn”, cho đến trận pháp cuối cùng là “thập diện mai phục”. Đôi bên phải tuân thủ quy tắc theo từng tầng thứ để dò hỏi đối phương, đợi khi hỏi ra gốc rễ, thì mỗi bên sẽ biết rõ đầu đuôi sự tình.

Thông qua cuộc nói chuyện, song phương đều hiểu hết ngọn nguồn của nhau, không có xung đột ghê gớm theo đúng nghĩa, càng không cần lo lắng bị thoát gió, lọt nước, sót mất thông tin. Câu chuyện của Tư Mã Khôi tương đối đơn giản, anh có thể dõng dạc kể với đối phương mà không cảm thấy tự hổ thẹn với lương tâm, nghĩ lại lúc đầu Tư Mã Khôi tôi một tay quét cả Miến Điện, trăm trận trăm thắng, giết người vô số kể, tôi giậm chân một cái cả dải đất Bắc Miến rung chuyển từng đợt, chẳng qua giờ đây quân đội nhân dân rớt đài, bọn tôi chẳng muốn uống chung dòng nước đục, nên dự định vòng qua núi Dã Nhân, chạy về phía bắc trốn sang biên giới.

Còn hội Ngọc Phi Yến, tổ tiên mấy đời đều hành nghề trộm mộ ở Quan Đông, bọn họ kết bè kết đảng, lấy hiệu là “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn”, cũng vì từng gây ra một vài vụ trọng án vào thời Dân quốc, nên đành chạy đến Nam Dương tránh họa, họ buôn lậu ở gần khu vực eo biển Malacca suốt một thời gian dài, đồng thời câu kết với bọn hải phỉ vớt tàu thuyền thời cổ đại, hoặc là đến vùng biên giới Thái Lan, Campuchia để đào mồ quật mả và tìm kiếm các di tích trong Phật tháp ở các chùa chiền miếu mạo. Nghề mưu sinh chủ yếu của bọn họ là buôn lậu văn vật cổ.

Trong văn hóa truyền thống dân gian Trung Quốc, từ đầu chí cuối đều tồn tại hai chữ “giang hồ”. Trên giang hồ có rất nhiều ngành nghề đặc thù, kẻ ăn mày ven đường dọc phố gọi là “Hoa tử”, kẻ trộm mộ gọi là “Hối tử”, ngoài ra còn có “Ngựa vang” nghĩa là dân trộm cướp, “Quải tử” là bọn cướp đường, “Nha tử” là dân đánh cá, “Phi tặc” ám chỉ những kẻ mở khóa phá cửa ăn trộm hàng ngàn hộ, tiên sinh ám chỉ kẻ hành nghề bói toán, mộ sư ám chỉ thầy coi tướng số phong thủy. Tuy rằng thủ đoạn hành nghề, mưu sinh của mỗi ngành nghề không giống nhau nhưng đều phải thông văn tỏ võ và mang một chút màu sắc mê tín nhất định. Nếu trong đó có nhân vật am hiểu về ngũ hành bát quái, bí thuật phong thủy mà trình độ văn hóa lại tương đối cao thì kẻ đó sẽ được giới giang hồ vô cùng trọng vọng. Từ đó có thể luận ra một cách tương đối là “nghề hối tử” chẳng qua chỉ là tên gọi chung dành cho những kẻ trộm mộ dân gian, còn kết cấu thành viên chi tiết thì vô cùng phức tạp.

Sau khi cha của Thắng Ngọc qua đời, cô ả được thừa kế tổ nghiệp, dẫn theo những thành viên cơ bản trong tổ chức cũ lập thành “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” và tự mình làm thủ lĩnh. Dưới trướng cô ả cũng có mấy trợ thủ đắc lực, ngoài “Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, Mai Đông Thanh” ra thì còn có một tên lưu vong người Liên Xô rất am tường về thuốc nổ, mọi người dành tặng hắn biệt hiệu “Gấu trắng”.

Còn vị Khương sư phụ là tay trộm mộ lõi đời, không những vậy còn là bậc cha chú của Thắng Ngọc, cũng có thể coi lão là thầy cô ả. Bởi thế Thắng Ngọc vô cùng kính trọng, gọi lão là “lão Khương” và luôn răm rắp nghe lời.

Ngọc Phi Yến từng được hưởng thụ nền giáo dục cao cấp, mấy năm gần đây đã cải tiến hoàn thiện kỹ nghệ gia truyền của tổ tiên lên rất nhiều. Dưới sự dẫn dắt, lãnh đạo của cô ả, “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” dần dần gây dựng thanh thế, cuối cùng tiếng tăm đã vang dội khắp khu vực phía nam. Lần này bọn họ mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân là do chịu sự ủy thác của một khách hàng lớn, phải đi đến tận cùng con đường U Linh để tìm kiếm một vật vô cùng quan trọng. Công việc lần này không phải khai quật mộ cổ mà là “công việc đánh cược mạng sống”, đó là công việc gian khổ mạo hiểm khác thường, có thể mất mạng bất cứ lúc nào.

Sau khi Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói hai bên chẳng có gì liên can đến nhau, nay đường rộng thênh thang, ai đi đường nấy. Giờ đây cuốn nhật ký cũng rơi vào tay cô, còn muốn gì ở bọn tôi nữa? Chi bằng nhân lúc còn sớm hãy thả ba người đồng bọn của tôi ra, khi nãy tôi đánh chết một tên thủ hạ của cô, thì chỉ cần một mình tôi ở lại là được, ông đây dám làm dám chịu, muốn chém muốn giết gì, tôi cũng nghe theo hết.

Sau khi nắm rõ được gốc rễ của Tư Mã Khôi, ngữ khí của Thắng Ngọc cũng khách khí, dịu dàng hơn trước nhiều nhưng cô ả vẫn nhất định không chịu thả người, bởi vì lúc “gạn đáy biển” khi nãy, thuộc hạ của cô ả cũng đã thẩm vấn Karaweik – cậu bé mang theo cuốn nhật ký bên mình. Cậu thiếu niên mới mười mấy tuổi đầu, lại ở vùng núi Bắc Miến thì làm sao có thể là đối thủ của mấy gã giang hồ lõi đời. Quả nhiên vừa mới hỏi năm câu sáu điều, cậu đã khai tuốt tuột sự tình. Cuốn nhật ký không mô tả tấm bản đồ chi tiết của con đường U Linh, bây giờ người duy nhất có thể tìm thấy nó, e rằng chỉ có một mình Karaweik. Cậu bé chính là cơ hội mà ông trời trao tặng cho Ngọc Phi Yến, làm gì có chuyện cô ả chịu bỏ qua. Bởi thế bất luận thế nào, đoàn thám hiểm cũng nhất định sẽ bắt Karaweik theo cùng để dẫn đường.

Nhưng Ngọc Phi Yến cũng không muốn hành sự tuyệt tình quá đáng. Lúc nói rõ ý đồ của mình cũng đưa ra hai phương án cho đối phương lựa chọn. Trước mắt có thể để Tư Mã Khôi lựa chọn, chỉ có hai con đường. Thứ nhất là để lại Karaweik rồi cả hội rời đi, thứ hai là gia nhập đội thám hiểm và cùng tiến sâu vào núi. Ngoài ra, Thắng Ngọc cũng hiểu rõ tình cảnh mà hội bốn người Tư Mã Khôi đang phải đối mặt, nên hứa hẹn nếu việc lần này thành công, cô ả sẽ sắp xếp cho bốn người bọn họ rời khỏi Miến Điện, có thể đến Hồng Kông, Thái Lan hoặc thoát hẳn châu Á, cao chạy xa bay, tất cả sẽ do cô ả lo liệu hoàn toàn.

Ngọc Phi Yến cần tăng cường lực lượng gấp, cô ả thấy thân thủ Tư Mã Khôi không tệ, lòng gan dạ, kiến thức cũng hơn người, hơn nữa lại từng là thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, chắc chắn sẽ thông thuộc tình hình trong núi, bèn nảy ý định lôi kéo anh vào đoàn, cô ả đề nghị với giọng vô cùng khẩn thiết.

Tư Mã Khôi liếc mắt nhìn trộm ba người bạn đồng hành bị trói trên cọc, thấy Tuyệt và La Đại Hải khẽ gật đầu, tỏ ý không muốn bỏ rơi Karawei và đồng ý cùng đội thám hiểm vào sâu trong lòng núi Dã Nhân. Chuyến đi này tuy rằng nguy hiểm vạn phần nhưng cũng chưa hẳn là tuyệt đường sống. Cả hội đã sớm đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, thì còn nơi nào không dám lao vào nữa? Thế là Tư Mã Khôi quyết định gật đầu chấp nhận lời thỉnh cầu của Ngọc Phi Yến, đồng ý gia nhập đội thám hiểm.

Hai bên liền thắp hương lập lời thề, thể hiện mãi mãi không bao giờ hối hận. Sau đó Thắng Ngọc lệnh cho thủ hạ cởi trói cho ba người La Đại Hải, lại cung cấp thuốc men cho Tư Mã Khôi chữa thương. Cả đoàn hạ trại tại chỗ, đợi sáng mai mới bắt đầu khởi hành.

Tuyệt rất tinh thông y lý, cô nhanh chóng làm sạch mủ trên vai Tư Mã Khôi, sau đó đắp thuốc và băng bó lại như cũ, nỗi lo trong lòng từ đầu đến giờ mới tiêu tan, nếu như không gặp đội thám hiểm trong rừng rậm, vết thương của anh chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng càng ngày càng nghiêm trọng, e rằng chẳng đợi được đến ngày ra khỏi núi Dã Nhân.

Thắng Ngọc thấy thủ pháp xử lý vết thương của Tuyệt nhanh nhẹn, gọn gàng, lại hiểu biết dược tính, có thể sánh ngang với các bác sỹ cao minh chân chính, trong lòng không khỏi ngầm khâm phục, càng cảm thấy mình lôi kéo được bốn người bọn họ nhập hội đúng là trời giúp sức, hi vọng như được thắp sáng trở lại.

Ngược lại, Tư Mã Khôi chẳng thèm bận tâm xem Ngọc Phi Yến nghĩ gì, anh vừa để mặc cho Tuyệt băng bó vết thương vừa cầm lấy mấy túi thức ăn dã chiến mà La Đại Hải và Karaweik vừa mới đưa cho, đút từng miếng to vào miệng, nhai nhồm nhoàm. Trong hộp thức ăn dã chiến số sáu này, thứ gì cũng có, không chỉ có cà phê, thuốc lá thơm, diêm mà còn có cả sô cô la. Karaweik đói hoa cả mắt, chẳng quản là gì đều nhặt lên đút cả vào bụng, miệng cậu đầy thức ăn, đầu không ngớt gật gù với Tư Mã Khôi tỏ ý đồ ăn rất ngon.

Tư Mã Khôi lại cảm thấy loại thức ăn này thật khó nuốt, liền lắc đầu: “Chủ Nhật! tên tiểu tử này chẳng ra dáng nam nhi gì cả, đồ ăn nhai đi nhai lại chẳng có chút mùi vị nào, ngọt chẳng ra ngọt, mặn chẳng ra mặn, sao cậu có thể ăn ngon như thể đang được thưởng thức sơn hào hải vị thế hử?”

La Đại Hải cũng chung cảm nhận như vậy, anh nhổ đám thức ăn mới nhai nhộm nhoạm được một nửa từ trong miệng ra bàn tay, nhìn nhìn rồi nói: “Đúng là không khác gì nhai sáp nến, chẳng lẽ đội thám hiểm ngày nào cũng phải ăn thứ này?”

Tư Mã Khôi giải thích, đã là thức ăn dã chiến thì chắc đều để ăn những lúc tác chiến nơi hoang dã, ở đó làm gì có điều kiện, nên phải ăn như thế này là điều có thể lý giải được, hơn nữa nếu phơi khô lương thực thì có thể bảo quản được lâu hơn.

La Đại Hải bấy giờ mới bừng tỉnh ngộ: “Thì ra là được hong khô, mẹ tiên sư, chẳng trách tớ ăn mà như nhai giấy, có điều họ cũng hong khô quá”. Nói xong lại đút đám thức ăn vừa nhổ ra tay cho vào miệng nhai lại.

Ngọc Phi Yến trợn tròn mắt ngạc nhiên, không nhịn nổi liền đi đến hỏi: “Anh tưởng cái thứ các anh đang ăn là gì vậy? Nó chính là giấy đấy”.

Lúc bấy giờ Tư Mã Khôi và La Đại Hải mới biết mình lấy nhầm, đồ ăn không lấy lại lấy túi giấy ăn có thể tích lớn hơn được bọc kín trong túi đựng thức ăn dã chiến số sáu, rồi cầm lên đút cả vào miệng mà nhai, hai người biết được chân tướng đều tròn mắt há miệng nhưng họ là những kẻ rất cứng đầu, tất nhiên có chết cũng chẳng chịu nhận sai, cùng lắm đã nhầm thì nhầm cho trót. Họ thanh minh các ông đây đều là người có văn hóa, thường ngày thích ăn sách, vở, giấy, bút, đừng nói hai cuộn giấy nhà cô mà ngay cả cặp rắn trong tranh của Tề Bạch Thạch, bọn ông cũng ăn cả hai cân, vừa nói vừa cố tình đút nốt toàn bộ số giấy ăn trong hộp cơm dã chiến vào miệng nhai nát vụn rồi nuốt xuống bụng, xong đâu đấy mới ăn các thứ khác.

Thắng Ngọc không thèm đôi co với hai người. Nhân lúc này, cô ả giới thiệu với hội Tư Mã Khôi kết cấu thành viên trong đoàn thám hiểm. Gọi là thành viên “đội thám hiểm” cho oai, chứ về thực chất, bọn họ vẫn chẳng thoát xác khỏi “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” của tổ chức “Ngựa vang” truyền thống. Tất cả mọi việc đều do “thủ lĩnh” quyết định, nhưng tâm của kẻ cầm đầu phải ngay, nếu không ngay sẽ bất thành đại sự.

Thứ đến là “nhà học giả”, còn gọi là tiên sinh, đó chính là lão tặc có kinh nghiệm phong phú nhất trong đoàn, lão là tham mưu trưởng, có chức năng quân sư cho nhóm. Bên dưới còn có mấy huynh đệ như Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, họ đều là tâm phúc đắc lực của Thắng Ngọc.

Ngoài ra còn có hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện làm chân bốc vác, chúng đều là những kẻ cảm tử được chiêu mộ từ lực lượng vũ trang quân phiệt Bắc Miến, vì tiền họ sẵn sàng làm mọi việc.

Hội bốn người Tư Mã Khôi bị đẩy lên đầu “tuyến lửa” làm nhiệm vụ dẫn đường, chịu trách nhiệm giúp đội thám hiểm tìm ra con đường U Linh trong núi Dã Nhân.

Tuy cơn bão nhiệt đới “Buddha” sắp tấn công Bắc Miến đang tràn vào dãy núi với tốc độ kinh khủng, dự tính nội trong hai ngày sẽ cập núi Dã Nhân, nhưng quyết tâm của Thắng Ngọc dường như còn lớn hơn, cho dù phải đối mặt với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, cô ả vẫn sẵn sàng không ngại trả giá đắt để hoàn thành phi vụ làm ăn lần này, bởi cục diện quân sự khu vực Bắc Miến vô cùng bất ổn, nếu đợi cơ hội lần sau mới vào núi thì không biết còn phải đợi đến tháng nào năm nào.

Tư Mã Khôi suy tính Thắng Ngọc và đám lâu la thuộc hạ của cô ả đều là bọn “hối tử” chuyên đào bới khai quật mồ mả, buôn lậu cổ vật, nhưng từ trước đến giờ chưa thấy ai nói trong núi Dã Nhân có cổ mộ, huống hồ có thể mua hẳn một đội quân vũ trang địa phương vào núi, chắc chắn cũng phải chi ra một số tiền không nhỏ, số tiền đó hẳn không phải chỉ đào bới vài ngôi mộ vớ vẩn trong núi là có thể bù đắp được. Rốt cục ai dám bỏ ra số tiền lớn như thế và họ muốn tìm vật gì?

Tư Mã Khôi rất muốn biết rõ nội tình, liền hỏi Thắng Ngọc tận cùng con đường U Linh ẩn giấu bí mật gì?

Thắng Ngọc lấy một chiếc túi chống thấm, thò tay lôi ra một vật từ bên trong, đó là vài tập văn bản mỏng, ngoài ra còn có một bức ảnh, cô ả nói với hội Tư Mã Khôi: “Đây chính là mục tiêu duy nhất bọn tôi muốn tìm kiếm”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải chụm đầu nhìn kỹ chiếc máy bay trong bức ảnh, xem địa điểm chụp có vẻ giống với sân bay quân dụng ở một nơi nào đó, hơn nữa tất cả các tấm ảnh đều chụp hình một chiếc máy bay vận tải. Chiếc máy bay này dáng dấp cổ xưa, hình thù kỳ quái, phần thân và cánh đều khắc biểu tượng rắn độc ngóc đầu đớp mồi, trông rất đặc biệt.

Hai người đều thấy quen mắt, hình như đã từng nhìn thấy nó ở đâu thì phải, xem ra loại máy bay này không phải máy bay hiện đại, chắc là diện phải đưa vào viện bảo tàng quân đội từ đời thủa nào. Nghĩ đến đây, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đột nhiên nhớ ra những điều mắt thấy tai nghe lúc tác chiến trong núi trước đây, cả hai giật mình thốt lên: “Đây chẳng phải máy bay tiêm kích vận tải (1) của không quân hoàng gia Anh hay sao?”.

(1) Máy bay tiêm kích: là loại máy bay do Anh chế tạo, được sử dụng rộng rãi trong thế chiến thứ hai, có hình dạng giống con muỗi, còn có tên tiếng anh là Mosquito plane.

Hồi 7: Tháp thông thiên

Quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điến từng ở gần Lashio, tấn công chiếm đóng sân bay quân dụng do người Anh xây dựng, trong nhà kho không quân còn bảo lưu rất nhiều chiến đấu cơ kiểu cũ bị hỏng hóc từ những năm trước, trong đó có một chiếc máy bay kiểu dáng giống với chiếc máy bay trong ảnh, hình thù quái dị của nó khiến người ta chỉ nhìn qua một lần là không thể quên được, tàn tích của loại máy bay này rơi xuống lòng núi, bọn họ cũng trông thấy không ít lần.

Bởi thế Tư Mã Khôi và La Đại Hải có thể phân biệt rõ ràng và nhận ra chiếc máy bay có hình thù kỳ quái này. Có lẽ đó là loại máy bay tiêm kích vận tải do người Anh chế tạo. Máy bay tiêm kích của không quân Hoàng gia Anh được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, số hiệu và chủng loại rất nhiều, ví dụ như “máy bay tiêm kích chiến đấu, máy bay phản tiêm kích ngư lôi, máy bay tiêm kích ném bom hạng nhẹ, máy bay tiêm kích thám thính, máy bay tiêm kích vận tải” v.v…Loại hình máy bay này vừa linh hoạt vừa tốc độ, vô cùng thích hợp để phi hành ở những khu vực nhiệt đới khí hậu phức tạp, dễ thay đổi. Trước đây, hàng loạt máy bay tiêm kích phục dịch không ngớt trên bầu trời Miến Điện, nhưng chủ yếu là loại tiêm kích hạng nhẹ và tiêm kích trinh sát, còn loại vận tải đã được cải tiến như trong ảnh thì không thường nhìn thấy lắm.

Tư Mã Khôi nói với Ngọc Phi Yến, loại máy bay cổ lỗ sĩ này đã sớm rút vào vũ đài lịch sử từ đời thủa nào, vậy mà các cô còn mạo hiểm và sẵn sàng trả giá đắt như vậy để đi tìm, e rằng chẳng phải chỉ vì bản thân chiếc phi cơ. Chắc chắn bên trong khoang chứa còn cất giấu bảo vật gì vô cùng quan trọng. Nhưng vì sao nó lại ở trong núi Dã Nhân? Và vì sao có người không tiếc tiền bạc thuê đội thám hiểm đi tìm kiếm nó? Trộm nghĩ trong đó chắc chắn phải ẩn chứa một nguyên do bí mật không thể tiết lộ.

Ngọc Phi Yến gật đầu thừa nhận phán đoán của Tư Mã Khôi là đúng, có điều cũng chẳng có nguyên do gì không thể tiết lộ. Thì ra sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, trước thềm các nước Miến Điện, Ấn Độ v.v… thoát khỏi ách thống trị của chế độ thuộc địa thực dân Anh, người Anh đã phái không quân đến chuyên trở hàng loạt bảo vật quý hiếm cướp bóc được ở Miến Điện, chuẩn bị đưa ra cảng biển lên thuyền vận chuyển về “Bảo tàng đại đế quốc Anh” ở bản địa.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận chuyển bí mật này, một chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh vì gặp phải thời tiết xấu đã buộc phải đi lệch tuyến đường phi hành, rớt xuống lòng núi Dã Nhân. Thông qua báo các của các phi hành viên trên chiến đấu cơ đi hộ tống, thông tin cuối cùng họ nhận được từ chiếc tiêm kích vận tải là: “Chúng tôi bị rơi vào sương mù…”, điểm rơi là một khe cốc lớn trong rừng nguyên sinh, có lẽ do ảnh hưởng của dòng không khí lưu thông trong khe cốc và kết cấu chiếc phi cơ tương đối nhẹ đã khiến nó không bị đâm vào núi rơi tan xác ngay tức thì.

Có điều nơi sâu thẳm trong khe cốc khổng lồ đó sương mù dày đặc, khiến tầm nhìn từ trên không bị cản trở. Sau khi chiếc tiêm kích rơi vào màn sương bí hiểm mênh mang chẳng bao lâu, lập tức vang lên những tiếng gào thét tuyệt vọng kinh hoàng của các thành viên phi hành đoàn, rồi tất cả rơi vào im lặng và hoàn toàn đoạn tuyệt mọi thông tin với thế giới bên ngoài.

Sau khi thông tin được truyền đến phía quân đội, họ lập tức điều động nhân viên, tổ chức thành các phân đội cứu viện, chia thành nhiều ngả tiến vào núi Dã Nhân tìm kiếm tông tích chiếc máy bay, thậm chí còn không ngại sự ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, phái rất nhiều phi cơ trinh sát tiến hành lùng sục ở tất cả những khu lân cận.

Nhưng những phân đội tìm kiếm cứu nạn tiến vào núi nếu không trở về công cốc vì không tìm thấy đường thì cũng mất tích bất minh sau khi tiến vào khu rừng nguyên sinh. Chẳng biết sau nhiều năm tìm kiếm, số lượng máy bay và con người đã mất tích trong núi đã lên con số bao nhiêu, hoàn cảnh và lai lịch của họ rất đa dạng phong phú, ngoài những phần tử đầu cơ và các nhà thám hiểm muốn tìm kiếm bảo vật ra, thì còn có vô số kẻ chạy nạn, phạm nhân buôn lậu, thổ phỉ và những binh sĩ các nước đi lạc vào núi Dã Nhân qua nhiều thời kỳ chiến tranh. Nhưng bất luận là thời kỳ thực dân Anh thống trị hay thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng, tất cả những vụ mất tích xảy ra trong núi Dã Nhân đều bị giới quan chức các nước né tránh không đả động đến, từ trước đến nay cũng không có ghi chép công khai nào tường thuật về quá trình cứu nạn.

Rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy mặt trời và sương mù dày đặc ngàn năm chẳng thể tiêu tán dưới lòng đất, đều trở thành bức bình phong thị giác của thiên nhiên, thêm vào đó môi trường tự nhiên khắc nghiệt đã khiến núi Dã Nhân cách biệt triệt để với thế giới bên ngoài, đến tận bây giờ vẫn chưa một ai có thể sống sót đi ra từ núi sâu.

Chiếc máy bay mất tích không lâu sau thì Miến Điện tuyên bố độc lập, người Anh hoàn toàn rút lui khỏi lãnh thổ đất nước, vụ án quân sự liên quan đến chiếc máy bay mất tích dưới khe cốc lớn trong lòng núi Dã Nhân tưởng như cũng khép lại vĩnh viễn. Nhưng rất nhiều người lại tâm tâm niệm niệm chẳng thể quên “bí mật” vận tải trong khoang hàng của chiếc phi cơ, đến tận giờ vẫn không hề đứt đoạn công cuộc lùng sục kiếm tìm chiếc tiêm kích bị mất tích khi xưa, “Sơn lâm đội lão thiếu đoàn” của Thắng Ngọc chính là được người ta thuê để đi tìm chiếc máy bay khắc biểu tượng rắn đen và mang “hàng” trong khoang trở về.

Đầu mối trong tay Ngọc Phi Yến ngoại trừ bức ảnh mấy chiếc máy bay vận tải ra, thì chỉ có một vài tin tức tình báo còn sót lại của phân đội cứu nạn không quân Anh năm xưa mà thôi, nhưng chừng đó cũng đủ để đoán biết vị trí mất tích của chiếc tiêm kích, đại khái nằm ở khe cốc khổng lồ nơi trung tâm núi Dã Nhân. Có điều sương mù dưới lòng đất từ trong khe cốc phun lên mù mịt, càng ngày càng nhiều lên theo năm tháng, gần như che phủ tất cả các khu vực lân cận.

Nếu đội thám hiểm trực tiếp tiến vào khu rừng rậm nguyên sinh bị sương mù bủa vây, sẽ dễ giẫm phải vào vết xe đổ của người đi trước, bởi thế sau khi bàn bạc, Thắng Ngọc và Khương sư phụ quyết định trước tiên cần tìm ra con đường Stilwell do quân Mỹ xây dựng, nghe nói nơi tận cùng của con đường nằm rất gần vành đai ven khe cốc, năm đó đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu muốn xây dựng con đường phía rìa sườn để tránh đám sương mù kỳ quái dưới lòng đất phun trào, nhưng lúc đào đường hầm xuyên núi, cả đoàn lại vô tình khiến đất đá sụt lở, chỗ sụt lở lộ ra một động huyệt, sương khí từ bên trong phun ra dữ dội, những nhân viên đi vào trinh sát đều chết bất thình lình, bởi thế mới buộc phải từ bỏ kế hoạch làm đường thông núi Dã Nhân.

Khổ nỗi, đội thám hiểm lại không có bản đồ, cũng chẳng có người dẫn đường, muốn tìm một con đường bị lãng quên hoang phế mấy chục năm đâu phải chuyện dễ dàng, may mà bọn họ gặp được hội Tư Mã Khôi cùng cậu bé Karaweik. Tuy Karaweik cũng chưa từng đi vào trục đường 206B của con đường U Linh, nhưng chí ít cậu cũng có kinh nghiệm, biết rốt cục phải đi đâu để tìm nó, đồng thời hiểu cách làm sao để tránh khu vực bom mìn rộng lớn mà nhiều thời kỳ chiến tranh trong lịch sử còn để lại, chỉ cần tìm thấy vị trí đường hầm nơi tận cùng trục đường B, là có thể tìm cách từ chỗ bị sụt lở xuyên qua động huyệt dưới lòng đất, đi vào khe cốc khổng lồ, tìm chiếc máy bay tiềm kích vận tải bị mất tích.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể xong toàn bộ đầu đuôi câu chuyện, liền quay sang nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Bất kể các anh có tin vào số mệnh hay không, chí ít tôi cũng cho rằng giữa con người với con người luôn tồn tại một loại “lực hấp dẫn” nào đó, hôm nay chúng ta tương ngộ trong núi Dã Nhân, đồng thời cuối cùng lại trở thành bạn đồng hành, e rằng đó cũng là sự an bài của số phận, kể từ nay trở về sau, chúng ta nhất định phải đồng tâm hiệp lực.

Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến không muốn tiết lộ thông tin liên quan đến “hàng” và “khách hàng” nhưng anh cũng biết những vật trong khoang máy bay chắc chắn không phải hạng tầm thường, đã là “phi vụ đánh cược mạng sống” thì không thể dễ dàng thành công, nói không chừng lại rơi vào thảm cảnh bị tiêu diệt hoàn toàn. Nghĩ vậy, anh liền cảnh báo Thắng Ngọc: “Cô đã nói phải tin vào số mệnh, vậy thì việc thành hay bại còn phải xem ý trời, nếu chuyến đi này không thành công, thì cô cũng đừng miễn cưỡng quá”.

Thắng Ngọc khẽ cau đôi mày thanh tú, lời nói có phần trách móc: “Anh đừng lay động quyết tâm của người khác, chỉ cần chúng ta đồng tâm hiệp lực, thì làm gì có chuyện đại sự không thành?”

Tư Mã Khôi bảo, chẳng phải tôi muốn dội gáo nước lạnh vào cô, nhưng tôi thấy đội ngũ của chúng ta thế này khó mà đồng tâm hiệp lực nổi. Tôi còn nhớ trước đây, khi còn ở gần khu vực Midzu, từng nghe người ta kể một truyền thuyết tôn giáo phương Tây:

Đó là vào thời cổ đại xa xưa, con người trên trái đất phải sống một cuộc sống vô cùng khốn khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại chịu sự uy hiếp của lũ lụt, mãnh thú đe dọa sự sinh tồn. Khi đó loài người nghe đồn trên Thiên quốc cuộc sống rất sung sướng, quanh năm lúc nào cũng ấm áp như mùa xuân, bốn mùa hoa lá đua nhau khoe sắc, tám tiết cỏ xanh tươi non mơn mởn, sản vật vô cùng phong phú, không bao giờ phải lo lắng về chuyện ăn mặc, càng chẳng bao giờ phải chịu đựng sự giày vò của bệnh tật. Chỉ có điều thiên không xa xôi, độ cao của nó vượt xa tầm tưởng tượng của con người, những người bình thường sống trên mặt đất không có cách gì lên trên đó được.

Kết quả, mọi người cùng chụm đầu nghĩ kế, rồi quyết định phải bắc một chiếc tháp thông thiên cao vút lên tận trời, như vậy già trẻ gái trai chúng ta đều có thể ở đó và trở thành thần tiên, không cần chịu đựng khổ ải nơi trần thế này nữa. Thế là con người bắt tay vào thi công, mọi người đồng tâm hiệp lực, nên tiến độ xây dựng vô cùng nhanh chóng.

Nhìn thấy đỉnh tháp cao đến tận chân mây, càng xây lại càng cao hơn, Thiến đế ở Thiên quốc bắt đầu lo lắng, đứng ngồi không yên, bụng thầm nghĩ: “Trên trời chỉ có một mình ta thoải mái biết bao, bây giờ đám con cháu dưới mặt đất ăn no rửng mỡ, đều muốn lên đây gây sự. Không được, phải mau mau nghĩ cách”. Kết quả, Thiên đế cũng nghĩ ra một hạ kế, đó là phân chia con người trên mặt đất thành các dân tộc khác nhau, bắt họ phải nói những ngôn ngữ khác nhau, khiến hai bên không thể tiến hành giao tiếp được nữa.

Biện pháp này phát huy tác dụng tức thì, bất đồng ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa chủng tộc trở thành rào cản lớn khó lòng vượt qua, con người trên mặt đất vì không thể giao tiếp với nhau nên không còn đồng tâm hiệp lực, cùng hướng về một mục tiêu như trước. Cuối cùng, họ không thể xây dựng hoàn thành “tháp thông thiên”, mãi cho đến tận bây giờ, các bên vẫn không ngừng chỉ trích đối phương, chiến tranh, bạo loạn liên tiếp nổ ra hết lần này đến lần khác.

Ngọc Phi Yến cố gắng kiên nhẫn nghe hết câu chuyện nhăng cuội của Tư Mã Khôi, cuối cùng cau mày hỏi: “Rốt cục anh muốn ám chỉ điều gì?”

Tư Mã Khôi nói, điều tôi muốn nhắc nhở là, trong đoàn chúng ta, vừa có người Liên Xô, vừa có người Miến Điện, người Campuchia và cả người Trung Quốc nữa, thậm chí còn có cả những người chẳng biết mình thuộc quốc tịch nào, việc giao tiếp giữa các bên đã rất khó khăn thì làm gì dám nói đến việc đồng tâm hiệp lực? Chúng ta chỉ đơn thuần là “đám quân ô hợp” miễn cưỡng lắp ghép lại trong chốc lát, tuyệt đối không thể thành đại sự. Bởi vậy tôi thấy tìm chiếc tiêm kích mất tích đã nhiều năm trong núi Dã Nhân không phải việc dễ dàng trong tầm tay, chúng ta chỉ có thể cố gắng hết sức, còn ngộ nhỡ bị thất thủ, thì cô phải đồng ý với tôi, khi bọn cô rút lui, ít nhất phải mang Karaweik theo cùng, đồng thời sắp xếp cho cậu bé rời khỏi Miến Điện.

Thắng Ngọc chẳng cần nghĩ ngợi lập tức bảo Tư Mã Khôi cứ yên tâm, Sơn lâm đội lão thiếu đoàn chẳng phải chưa từng làm công việc đánh cược mạng sống như thế này bao giờ, đừng thấy đội ngũ thành phần tạp chủng, thực ra anh đâu cần phải giao tiếp, giao lưu gì, bởi vì đã có Ngọc Phi Yến tôi là “thủ lĩnh”, tất cả chỉ cần một mình tôi nói là xong.

Tư Mã Khôi chẳng coi mấy lời của cô ả vào đâu, trong lòng thầm nghĩ: “Ngọc Phi Yến cô há chẳng phải cũng chỉ là thủ lĩnh một đội trộm mộ thôi sao? Ông đây ở Miến Điện còn chặt đầu không biết bao nhiêu người, nhiều gấp mấy lần số đầu người mà suốt đời cô có thể khai quật trong các ngôi mộ. Ranh con nhà cô có bản lĩnh gì mà dám chỉ huy ông hử?”

Nhưng anh cũng không muốn đôi co vì việc nhỏ này, nên buông xuôi cho câu chuyện tạm dừng ở đây. Anh chỉ bảo “Hy vọng được như thế”, rồi chuồn ra chỗ khác cho nhẹ nợ.

Lúc này La Đại Hải nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: “Nghe nói trong bảo tàng thực dân Anh đúng là có thu thập sưu tầm rất nhiều văn vật cổ đại, nhưng người bản địa Miến Điện nghèo khổ, vất vả như thế, ngay cả một ngôi nhà cho ra hồn cũng chẳng dựng được, thì hàng hóa trong chiếc tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh có thể tốt đến mức nào được nhỉ? Tớ thấy quá nửa chắc chỉ là hư danh, bây giờ cơn bão nhiệt đới mang thiên tai sắp tràn về, hội người này mạo hiểm cả tính mạng như thế liệu có đáng không?”

Tư Mã Khôi bảo: “Đồ Hải ngọng nhà cậu chả hiểu biết gì cả, cậu đừng thấy dân bản địa nghèo khổ mà coi thường, ở đây từng là vương triều cổ đại hưng thịnh hiển hách nhất trong quá khứ, trầm tích lịch sử rất thâm hậu, người bản địa vô cùng sùng bái tín ngưỡng, nên những ngôi chùa lớn danh tiếng đều được xây dựng tường vàng vách ngọc, lộng lẫy huy hoàng. Hơn nữa, mệnh danh “đất nước hoàng kim, phỉ thúy” cũng không phải hư danh đâu, nói cái khác có thể cậu không hiểu, tớ chỉ lấy một ví dụ thực tế trực quan nhất, cậu có biết nữ hoàng Anh là ai không?”

La Đại Hải bị hỏi như vậy chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, liền vặn lại: “Xem thường tớ đấy hử? Tớ còn lạ gì nữ hoàng Anh, ai chẳng biết trước đây Miến Điện là thuộc địa của thực dân Anh, bây giờ tượng bà ta vẫn còn khắp đất nước Miến Điện, chúng ta đánh nhau bao nhiêu năm ở đây, tuy chưa nhìn thấy người thật nhưng tượng điêu khắc thì khối ra đấy, ít nhất cũng chạm mặt đến phát quen, bà ta chẳng phải con dâu tổng thống Anh hay sao? Có điều chuyện tớ vừa hỏi thì liên quan gì đến bà ta?”

Tư Mã Khôi nói: “Cậu nhìn tượng điêu khắc thì biết, trên đỉnh vương miện của nữ hoàng Anh có gắn một viên hồng ngọc to như quả trứng ngỗng, màu sắc tươi đỏ như máu, toàn thế giới chỉ độc nhất vô nhị một viên ấy thôi. Viên ngọc đó được đội thám hiểm tùy quân Anh vô tình đào được ở núi Dã Nhân Bắc Miến trong một trận chiến giữa Anh và Miến Điện, sau đó mang về nước, dâng tặng lên nữ hoàng điện hạ”.

La Đại Hải như sực tỉnh, gật gật đầu: “Thì ra là vậy, xem ra hàng trong chiếc tiêm kích vận tải chắc chắn không phải hạng trâu bò bình thường, nếu tìm thấy nó thật, thì chúng ta đúng là “chó ngáp phải ruồi” trúng quả lớn rồi còn gì.

Tuyệt nghe ý của La Đại Hải dường như muốn chiếm lấy những đồ vật trong chiếc máy bay mất tích làm của riêng, liền bảo anh đừng có nằm mơ giữa ban ngày, có thể sống sót ra khỏi núi Dã Nhân mới là điều quan trọng, anh chưa nghe nói những đoàn thám hiểm trước đây vào trong núi sâu, chưa ai có thể sống sót mà ra được hay sao? Nếu chúng ta cũng chẳng thoát nổi thì biết làm thế nào?

La Đại Hải cười lớn: “Tuyệt đừng dọa tôi, cô không biết chứ, Hải ngọng tôi đây là kẻ cực kỳ nhát gan, chỉ dám buộc lông gà trên bó đuốc thôi”

Ba người bàn luận một hồi, ai nấy đều cho rằng chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nhưng nếu quả thực có thể vớt được mạng sống trở về, thì không rõ vận mệnh gì sẽ chờ đợi họ ở phía trước? Trong lúc ngẫm nghĩ về cái được và cái mất, chỉ cảm thấy tiền đồ thật khó tiên liệu, từng dòng suy nghĩ ùa về, rồi tất cả đều dần dần chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị.

Ngày hôm sau, khi trời còn chưa sáng rõ, cả đoàn đã bị Khương sư phụ gọi dậy, mọi người nai nịt chuẩn bị lên đường, đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, leo lên một mỏm núi, từ trên cao nhìn ra bốn phía xung quanh, giữa những dãy núi dài miên man, phủ mờ sương khói là cả không gian tĩnh lặng như tờ, màn sương sớm vẫn chưa tan hết, dõi mắt ra phía xa, thấy nền trời đỏ au au như máu, đó chính là điềm báo trước của cơn bão nhiệt đới cuồng nộ sắp tiến sát gần.

Khi thời tiết khắc nghiệt mang theo thiên tai tràn về, trong vòng vài ngày liên tiếp, cuồng phong bạo vũ chắc hẳn không thể nào suy yếu, lúc đó lũ lớn sẽ tràn về, đất đá sụt lở cuốn theo dòng nước, thậm chí địa hình của núi Dã Nhân cũng có thể vì nguyên nhân này mà biến dạng, bởi thế thời gian dành cho đội thám hiểm chẳng còn bao lâu, mọi người bắt buộc phải nhanh chóng tìm thấy khe cốc khổng lồ nơi có chiếc máy bay bị mất tích.

Karaweik đi trước dẫn đường, cả đoàn xuyên qua một khe núi, đi vòng tránh mấy bãi mìn, rồi tìm thấy ngã rẽ hình chữ Y ở khúc quanh gần vực thẳm, quân Mỹ gọi nơi này là “nút Kansas”, bên tay trái là tuyến đường A khúc khuỷu vòng vèo, bên tay phải là đường hầm xuyên núi, liên thông trực tiếp đến khu vực nguy hiểm bị mây mù che phủ bủa vây.

Trước đây, Karaweik cũng chỉ đến “nút Kansas” là cùng, tiếp sau đó cả đoàn đành phải tự mò mẫm tìm kiếm tuyến đường B của con đường U Linh. Tuy con đường bị bỏ hoang nhiều năm, bề mặt đều bị thảm thực vật che phủ hoặc sụt lở, đứt gẫy, con đường sớm đã chẳng còn hình hài, móng đường được xây dựng bằng sự trợ giúp cơ giới hóa giờ bị những lùm cây bụi ngoan cường xâm nhập, rễ cây đâm xuyên qua khe nứt, chúng đan cài nhằng nhịt vào nhau che kín mặt đường, khiến người ta không thể nhận ra diện mạo của nó. Nhưng chỉ cần nắm vững quy luật lối đi, cũng không khó tìm được di tích con đường bị đất đá và cây cối phủ lấp, từ đó lần dây sờ dưa, việc xác định vị trí của tuyến đường 206B cũng không mấy khó khăn.

Chẳng ngờ con đường U Linh chỉ trông thấy đầu mà chẳng tìm thấy đuôi, tổng chiều dài nửa đoạn đầu áng chừng sáu mươi mét, rộng khoảng năm mét rưỡi, toàn bộ được xây dựng trong lòng núi, nó là một con đường cụt, tất cả có mười tám khúc quanh, nửa đoạn sau của con đường đã bị hồng thủy cuốn sập, chẳng để lại dấu vết nhỏ. Đội thám hiểu mất vật tham chiếu, trước mắt chỉ thấy một dải vực thăm thẳm nhấp nhô, dài tít tắp trong rừng rậm, vực thẳm chắn ngang lối đi khiến mọi người không có cách gì tiến đến lối ra của con đường hầm, vực sâu chỉ kéo dài chừng mấy chục mét, nhưng mỗi bước trong rừng rậm nguyên sinh đều vô cùng khó khăn, nếu từ từ dò dẫm, e rằng phải mất đứt ba đến năm ngày, may ra mới tìm thấy cổng đường hầm.

Đúng lúc mọi người đang bó tay bất lực thì Karaweik lại tiết lộ một đầu mối, cậu nhớ trước đây lúc cha cậu còn sống, từng nói: Năm ấy, ông vào rừng hái thuốc, khi đến mép vực gần lối ra con đường hầm, đã tận mắt nhìn thấy một kỳ quan khiến người khác không khỏi bàng hoàng, đó chính là “Rắn thiêng hiện thân” trong truyền thuyết cổ xưa của người Miến Điện, ông bị trấn động đến mức gần như hồn lìa khỏi xác, liền hấp tấp chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng nguyên sinh. Chẳng ngờ, chân trước vừa xuống núi, thì chân sau mưa lớn đã kéo về, nhấn chìm và hủy hoại nhiều nơi trong núi Dã Nhân. Nếu ông chỉ cần chậm chân một bước, thì đã sớm bỏ mạng trong núi. Bởi vậy ông một mực cho rằng “rắn thiêng” đã hiện thân hiển linh ứng cứu, giúp ông đoán biết được điềm báo nguy hiểm, nhờ đó mới tha nổi mạng sống về nhà.

Căn cứ vào truyền thuyết này, có thể suy đoán “rắn thiêng hiện thân” là dấu hiệu đặc thù ở gần đường hầm 206, nhưng trong những ghi chép về quá trình xây dựng con đường của quân đội Mỹ thì không thấy nhắc đến hiện tượng kỳ dị ấy. Từ đó có thể thấy hiện tượng này không phải bất cứ lúc nào cũng gặp được, hơn nữa mãi cho đến tận giờ vẫn chưa ai hiểu rõ “rắn thiêng hiện thân” rốt cục muốn ám chỉ điều gì? Chỉ đành tạm thời suy đoán, càng vào những thời điểm khí hậu khắc nghiệt, càng có nhiều khả năng gặp phải kỳ quan độc đáo này.

Dãy núi Dã Nhân sâu hút ở phía Bắc Miến Điện là nơi thâm sơn tuyệt cốc ở tận cùng mạch núi Himalaya, những khu vực nằm dưới mực nước biển phần đa đều bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, bốn phía núi cao vực sâu trùng điệp, hàng trăm khe sông, khe suối chảy qua, khí hậu quanh năm không đổi, ngoại trừ cơn bão nhiệt đới có quy mô lớn mạnh khủng khiếp ra thì trong núi sâu rất ít khi chịu sự công kích của mưa gió sấm chớp, có lẽ mười mấy năm trở lại đây đều không có cơ duyên gặp phải thời tiết khắc nghiệt kích thích dòng hồng thủy trong núi nổi giận cuồn cuộn như thế này.

Mọi người chỉ có thể suy đoán, về truyền thuyết “rắn thiêng hiện thân” đại khái tồn tại hai khả năng. Khả năng thứ nhất là mượn để chỉ một loại “hiện tượng thiên nhiên” nào đó, bởi vì người Trung Quốc cổ đại cũng từng lấy các con vật đặt tên cho các điềm báo thiên nhiên, có điều từ trước đến nay trong lịch sử chưa hề thấy ghi chép về thuật ngữ “rắn thiêng hiện thân”, thể hệ tôn giáo ở Miến Điện đều được lưu truyền từ Ấn Độ cổ đại, có lẽ chính sự khác biệt tồn tại trong bối cảnh văn hóa đã tạo ra những ám thị mà con người hiện đại khó lòng giải thích.

Khả năng thứ hai có vẻ đúng đắn hơn, trong núi Dã Nhân có rất nhiều loại mãng xà khổng lồ, thậm chí truyền thuyết còn kể về con quái xà dài đến hàng chục mét, nó biết nhả khói trắng mịt mùng, hình thành lớp mây mù dày đặc ngàn năm không thể tiêu tán nơi sâu thẳm trong quần thể núi, che phủ khắp mấy dặm xung quanh, người hoặc gia súc mà tiến vào màn sương mù, sẽ lập tức bị nó làm cho tan chảy rồi nuốt vào bụng. Còn thuật ngữ “rắn thiêng hiện thân”, nhiều phần để chỉ những con quái xà trốn trong lòng núi bị kinh động vì ảnh hưởng của khí hậu khác thường, nên lũ lượt kéo nhau hiện thân ra khỏi màn sương mù.

Lúc này, khí áp trong núi càng ngày càng xuống thấp, không khí oi nồng dường như sắp cô kết đặc quánh, xung quanh yên ắng tịnh không tiếng động, khiến người ta cảm thấy thắc thỏm bất an đến ngộp thở. Tư Mã Khôi nói: “Chắc giông bão và mưa lớn sắp sửa tràn về, nếu không tìm thấy lối ra của đường hầm, thì chúng ta phải lập tức trèo lên chỗ cao ngay”. Đang định tự mình tìm đường leo lên mỏm núi thì trong khoảnh khắc ngẩng đầu ngước nhìn về sườn núi trọc phía đối diện, đột nhiên thấy một con mãng xà đen xì xì dài khoảng hai ba mươi mét, thân hình mờ ảo như sương khói, ẩn hiện chập chờn, điều lạ lùng nhất là con hắc xà lại treo mình trên vách đá dựng đứng, án binh bất động, trông nó giống như một bức thạch họa thần bí và cổ xưa. Dán mắt nhìn một hồi lâu, anh phát hiện trên vách vực thẳm rõ ràng hoàn toàn trống trơn, chẳng có vật gì bám víu, làm sao đột nhiên lại xuất hiện cảnh tượng kỳ dị dường vậy?

Tư Mã Khôi còn cho rằng mình bị hoa mắt, liền vội vàng gọi mọi người cùng ngẩng đầu lên dõi, mấy chục cặp mắt đổ dồn về đó kinh ngạc nhìn chằm chằm một hồi lâu, hầu như người nào cũng không dám tin vào mắt mình, bởi vì vật hiện lên trên vách đá đích thực là hình một con hắc xà nằm im lìm bất động, nó vừa không phải bức tranh đá điêu khắc hình con quái xà, vừa không phải sinh vật đã chết. Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi “rắn thiêng hiện thân” chỉ tồn tại trong truyền thuyết cổ xưa của Miến Điện lại là bức phù họa thần bí đầy sức sống như thế, ly kỳ đến mức khiến người ta khó có thể tin là thật.

Hồi 8: Rắn thiêng hiện thân

Đúng lúc đoàn thám hiểm bị vực sâu cản đường, trong lúc tưởng chừng sự việc giậm chân tại chỗ thì đột nhiên phát hiện trên vách núi xuất hiện hình thù con hắc xà khổng lồ, dài ngoằn nghoèo cả mấy chục mét. Trên vách đá phủ đầy rêu xanh và các loại thực vật khác nhau, dưới sự phản chiếu của màu xanh lục đậm, con rắn càng trở nên mờ ảo, quái dị như thể vong hồn u uất. Vì khoảng cách ở quá xa, nên mọi người cũng không phân biệt rõ nó là rắn hay trăn.

Đám lính vũ trang Miến Điện nhìn thấy cảnh tượng ấy đều kinh hãi quỳ rạp xuống đất, miệng không ngừng lẩm bẩm tụng niệm phật hiệu, hướng về phía vực núi dập đầu liên tiếp.

Ngọc Phi Yến cũng không khỏi kinh ngạc, cô ả cầm ống nhòm, nghé mắt nhìn kỹ, một hồi sau mới bàng hoàng tỉnh ngộ, đoạn nói với mọi người không cần hoảng sợ, bóng đen hình con rắn treo trên vách đá thực ra chẳng phải mãng xà gì hết, chẳng qua chỉ là một bầy kiến đỏ đang di chuyển mà thôi.

Thì ra địa thế núi Dã Nhân là một vòng tròn khép kín, tứ bề núi cao chập trùng nhấp nhô, đa phần đều là sản vật từ “quá trình tạo sơn của dãy Himalaya” thời cổ đại, khí hậu quanh năm ổn định bất biến, gió bão nhiệt đới thông thường khó lòng va chạm ảnh hưởng đến đất này. Nhưng năm nay, cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương có cường độ mạnh khủng khiếp, mấy chục năm hiếm gặp. Sự biến đổi khí tượng khắc nghiệt như vậy, từ sau khi được dự báo đến nay, đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo nhân dân các khu vực trên khắp thế giới, theo phân tích của giới khí tượng, vùng núi Dã Nhân Bắc Miến cũng chịu sự công kích mãnh liệt của cơn bão. Giờ đây, cơn bão nhiệt đới mang mưa lớn sắp tiến đến gần, khiến các con sông con suối vốn hiền hòa nằm im lìm dưới các khe cốc thấp bỗng chốc trở nên hung dữ, dòng hồng thủy cuồn cuộn chảy xiết.

Dường như các sinh vật trong rừng già núi sâu đều phát giác được cái oi bức khác thường của khí hậu, hàng ngàn vạn con kiến đỏ buộc phải di chuyển lên chỗ cao hơn để tránh nguy cơ chẳng may tổ kiến bị lũ quét. Số lượng kiến đỏ trong rừng rậm nguyên sinh nhiều đến khiếp người, tuy gọi là kiến đỏ nhưng toàn thân nó đen xì xì, chỉ có một chút ở phần đuôi là điểm màu đỏ thậm, con to nhất phải gần bằng ngón tay người, con bé cũng cỡ hạt gạo, chúng lúc nhúc tụ tập thành từng đoàn bò dọc vách đá hướng dần lên trên. Người ta đứng ở nơi xa nhìn vào tự nhiên thấy chúng chẳng khác nào một con rắn dài. Có lẽ từ hàng triệu năm trước từng có người tận mắt nhìn thấy hiện tượng tự nhiên thần bí này nên mới lưu lại truyền thuyết ly kỳ khiến người ta khó lòng tin nổi.

Tuy Thắng Ngọc đã nói bóng đen ngoằn nghoèo trên vách đá không phải mãng xà nhưng nhóm người Miến Điện, bao gồm cả Karaweik vẫn không thể lý giải được làm sao kiến đỏ trong rừng rậm lại biết chủ động leo lên chỗ cao tránh mưa bão, nên họ cứ một mực cho rằng rắn thiêng mượn xác bầy kiến để hiện thân, ai nấy mặt vàng như nghệ, miệng không ngớt lầm rầm tụng niệm.

Ngọc Phi Yến giải thích với mọi người, kiến đỏ sinh tồn trong rừng rậm nhiệt đới còn gọi là “kiến vống”, chúng biết nhả ra “chất tín hiệu chỉ đường” khi nhai nuốt thức ăn trên những nơi mà chúng hành quân qua, bởi vậy mỗi lần di chuyển ở khoảng cách xa chúng đều bò theo một tuyến đường nhất định, đợi khi thời tiết ổn định, thì sẽ quay lại đường cũ để trở về đáy vực, bắt tay xây dựng lại chiếc tổ đã bị mưa gió cuốn trôi. Xem số lượng khổng lồ của đàn kiến đang tụ tập trên vách đá thật khiến người ta khiếp hãi, có thể đoán định nội trong mười mấy dặm xung quanh chắc không còn đàn kiến nào với quy mô vĩ đại như thế. Đã có người từng tận mắt nhìn thấy kỳ quan sinh vật của giới tự nhiên ở gần cổng đường hầm của con đường U Linh thì đường hầm xuyên núi đó chắc hẳn cũng chỉ ở đâu đây mà thôi. Thắng Ngọc móc một sợi dây chuyền vàng trong người ra bảo phiên dịch nói với mọi người: “Ai tìm được lối vào núi, sợi dây chuyền vàng trên tay tôi sẽ thuộc về người đó”.

Tư Mã Khôi vốn còn cho rằng cô ả Ngọc Phi Yến có chiêu thức đặc biệt làm lung lạc lòng người, hóa ra cũng chẳng qua là hạng mang tiền ra nhử mồi câu, không có gì mới mẻ cả. Có điều, người ta vẫn thường nói: “Mang tiền trọng thưởng, tất có dũng phu”, mấy người Miến Điện này tuy khiếp sợ núi Dã Nhân đến tận xương tận tủy, nhưng hơn hết bọn chúng là lũ thổ phỉ hung hãn chỉ cần tiền, chẳng cần mạng. Dưới sự dụ dỗ của cái lợi to lớn trước mắt, ban đầu còn hoảng loạn mất một lúc nhưng sau đó dưới lệnh của thủ lĩnh trong đội, họ lần lượt leo xuống vực sâu tìm kiếm lối ra của con đường hầm.

Đội thám hiểm lùng sục theo hình thức đan rào một hồi, cuối cùng cũng phát hiện cổng đường hầm của con đường U Linh, nhưng phần chóp cổng đã bị sụt lở hoàn toàn, một lượng đất đá lớn sụp xuống chắn kín lối ra, dường như nó bị con người dùng thuốc nổ phá hủy. Có lẽ quân Mỹ trước khi rút khỏi đường hầm tuyến đường B, muốn phong tỏa vĩnh viễn khu vực nguy hiểm này nên đã tiến hành kích nổ nhiều lần, khiến lối ra hoàn toàn đổ sụp, không thể tiếp tục đi về phía trước được nữa.

Có điều vẫn là đám lính vũ trang Miến Điện giàu kinh nghiệm đã tìm thấy một khe cốc bí ẩn bị thảm thực vật um tùm che phủ, nằm ở mặt bên của vực thẳm nơi lũ kiến vống đang bò. Trên tầng nham thạch nhẵn nhụi ở cổng vào khe cốc còn lưu giữ những bức tranh đá nguyên thủy mô tả cảnh tượng chết chóc của một bầy voi rừng lớn. Lòng sơn cốc thâm u, khúc khuỷu, không khí trầm lắng, nặng nề, hai bên mọc đầy cây cổ thụ tán lá rộng rợp trời, đan kết, xen cài vào nhau, khiến mặt trời không thể chiếu sáng khoảng không trên đầu, chỉ có những tia nắng yếu ớt khẽ lọt qua kẽ lá âm u rậm rạp.

Cuốn sổ ghi chép của cố nội Karaweik không chỉ mô tả địa hình trong lòng “Tượng môn” hoàn toàn trùng khớp với bức bản đồ cổ, mà còn ghi chép rất nhiều sự kiện có liên quan. Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh Anh Miến, từng có một viên thượng úy Anh chỉ huy bộ đội tác chiến ở gần khu vực núi Dã Nhân. Do quân Anh được trang bị vũ khí đầy đủ, tinh nhuệ nên dễ dàng đánh bại kẻ địch. Trong quá trình truy sát tàn quân, viên thượng úy đó đã gặp một con voi rừng già nua đang chuẩn bị lên đường gặp tổ tiên ở rừng rậm nguyên sinh. Một binh sĩ người Ấn Độ là thuộc hạ của anh ta tham thú chiếc ngà voi rừng, định dùng súng bắn hạ sát con voi già, nhưng viên thượng úy đã hoạt động nhiều năm ở Ấn Độ, Miến Điện v.v…, nên biết rõ tập tính của bầy voi rừng. Anh ta không cho người binh sĩ nọ dễ dàng nổ súng làm kinh động đến nó, mà lặng lẽ dẫn quân đi sát theo sau. Điều anh ta muốn biết là rốt cục con voi đến chỗ nào để chờ chết.

Thì ra voi rừng Miến Điện có một tập tính, khi một con voi già yếu và chuẩn bị chết, nó thường linh cảm được sự tắt rụi của số mệnh, bèn một mình rời khỏi đàn voi, đơn độc tiến vào rừng sâu. Nó đi mãi cho đến huyệt động đá nơi tổ tiên vùi xương hàng ngàn năm nay, sau đó nằm phủ phục bên cạnh đống xương voi chồng chất, không ăn không uống, lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón.

Tương truyền, mộ huyệt voi rừng Miến Điện, cổ xưa nhất dễ có lịch sử hàng vạn năm, xương voi, ngà voi trong động chất đầy như núi. Số lượng di hài bầy voi rốt cục có bao nhiêu, chẳng ai đếm được chính xác, cũng do niên đại quá xa xôi, thậm chí có những chiếc ngà voi quá cổ xưa đã hóa thạch nằm dưới tầng đáy của động huyệt.

Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo chế tạo từ ngà voi được giới quý tộc châu Âu rất ưa chuông, giá trị bất phàm. Viên thượng úy Anh biết rằng chỉ cần bám theo tông tích con voi già, rất có khả năng sẽ tìm thấy miền đất vùi xương của tổ tiên nó, điều đó cũng có nghĩa là sẽ tìm ra một kho báu giá trị liên thành, chứ không chỉ đơn giản dừng lại ở hai chiếc ngà voi.

Khi đó, viên thượng úy Anh bị lòng tham làm mờ lý trí nên đã bỏ qua một điều vô cùng quan trọng, quan niệm bầy đàn của voi rừng Miến Điện vô cùng mạnh mẽ, nó không ngại trả mọi giá để bảo vệ bí mật về miền đất vùi xương của tổ tiên. Không những thế, dường như bầy voi cũng biết được, từ trước đến nay, sở dĩ bầy voi bị loài người săn bắn, hạ sát, căn nguyên chính ở đôi ngà quý giá, bởi vậy mộ huyệt chúng lựa chọn thường nằm giữa khu vực nguy hiểm nhất trong núi sâu, rừng già, đủ để khép chặt lối về của bất kỳ kẻ bám sát nào.

Kết quả, viên thượng úy chỉ huy hơn hai trăm tinh binh Ấn Độ, bám sát dấu chân con voi già, tiến sâu vào sơn cốc ẩn khuất. Vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy vô số động huyệt thiên nhiên bị màn rễ của cây si buông rủ phủ kín, nằm sâu trong sơn cốc. Đó đều là những huyệt động thiên nhiên được hình thành do quá trình nước mưa xâm nhập vào lòng núi đá vôi, làm tan chảy phần nham thạch mềm xốp, trải qua hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm dần dần điêu khắc mà thành. Gió lạnh trong động thổi vù vù, huyệt động âm u huyền bí bốn phía thông thoáng, hình thành một mạng lưới địa hình Karst – kiểu địa hình phong hóa đặc trưng của những miền núi 

[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]

 bị 

[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ]

 chảy xói mòn – dày đặc, miên man. Những động huyệt này không chỉ khoáng đạt, rộng rãi khác thường mà còn chứa đựng tầng tầng lớp lớp di hài của loài voi rừng.

Viên thượng úy Anh kinh ngạc cực độ, chỉ có thể dùng bốn chữ “động huyệt ma mút” để hình dung cảnh tượng đang hiện ra trước mắt. Mặc dù trong đống di hài voi rừng cao ngất tuyệt đối không có xương của loài mãnh thú thời kỷ nguyên băng hà, nhưng chỉ có thể hình khổng lồ của nó mới đủ sức mô tả động huyệt hùng vĩ như một kỳ tích này. Ngoài ra, bọn họ còn phát hiện, nơi tận cùng động huyệt ma mút ăn thông với một khe cốc khổng lồ với độ sâu khó lường, màn sương mù ào ra từ lòng đất quánh đặc đến nỗi tưởng như không thể rẽ ra nổi, lúc đó chẳng ai dám bước chân thăm dò.

Tuy viên thượng úy không dám tiến sâu vào khe cốc, nhưng núi sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, ngoại trừ rắn độc, ác thú ra, thì còn vô số lời nguyền cổ xưa. Cuối cùng cả đoàn quân đều bị tiêu diệt gần như sạch trơn. Viên thượng úy nọ cũng nằm trong số những kẻ phải bỏ mạng, chỉ có vài người may mắn sống sót nhưng chẳng ai mang nổi nửa cái ngà voi ra khỏi rừng. Sau đó rất nhiều nhà thám hiểm và những kẻ đầu cơ cũng thử vào đây tìm vận may, nhưng chẳng có ai trở về. Bởi thế sơn cốc này bị coi là vùng đất cấm.

Khương sư phụ phán đoán, khe cốc này có lẽ chính là “Tượng môn” mà tấm bản đồ cổ đã mô tả, hướng đi của con đường Stilwell về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng. Trong quá trình tiến hành thi công đường hầm, quân đội Mỹ đã vô tình xuyên thủng rìa khe cốc khiến sương khí trong lòng đất trào ra, bao nhiêu nhân viên bị bỏ mạng hoặc mất tích từ đây, bởi vậy quân đội Mỹ đành từ bỏ tuyến đường 206B. Nơi tận cùng của “Tượng môn” có lẽ cùng nối liền trực tiếp với lòng núi Dã Nhân. Đường đến khe cốc trong núi sâu có lẽ cũng không chỉ có một lối, nhưng “mọi ngả đường đều dẫn về La Mã”, chẳng có nơi nào là không nguy hiểm.

Nếu bây giờ dùng thuốc nổ để mở lối ra của đường hầm 206 thì không chỉ một chốc một lát có thể thành công, Khương sư phụ tự lượng đội thám hiểm đều được vũ trang đầy đủ, hơn nữa kinh nghiệm lại rất phong phú, nếu cứ giằng co mãi ở con đường U Linh tương đối an toàn, chi bằng mạo hiểm xông vào động huyệt ma mút. Lão cũng là kẻ toan tính lọc lõi, trước tiên bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải hai người đi trước dò đường, đồng thời còn sắp xếp Xuyên Sơn Giáp đi theo giám sát. Ngọc Phi Yến cũng đồng ý với cách sắp xếp này, bèn giơ tay gọi ba người lại, rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa hai con dao săn cho hội Tư Mã Khôi dùng để phòng thân, ngoài ra còn phân phát hai chiếc đèn pin và pháo sáng tín hiệu.

Xuyên Sơn Giáp là gã người Quan Đông, khoảng hơn bốn mươi tuổi, trên mặt hằn một vết sẹo do dao chém, tứ chi ngắn ngủn, thô ráp, thân hình thấp lùn, săn chắc, tính tình trầm lặng ít nói, dễ nóng nảy cáu bẳn, bản mặt lúc nào cũng gằm gằm. Gã tự biết đi trước dẫn đường rất nguy hiểm nhưng thủ lĩnh đã phát lệnh, thì không dám trái lời, bèn gắt gỏng thúc giục Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Hai thằng ôn nghe cho rõ đây, đi đằng trước, da mặt phải căng ra một chút, cố gắng mà tỉnh táo cho ông mày đấy”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ định cố tình tụt lại phía sau, nhưng nghe Ngọc Phi Yến bố trí thì thầm nghĩ: “Thành viên trong đội thám hiểm các cô, người nào cũng được vũ trang đến tận răng, còn có cả Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, thế mà bắt bọn tàn binh bại tướng bọn tôi mạo hiểm tính mạng đi trước dò đường cũng không biết ngượng mặt à?”, nhưng rồi lại tính: “Chúng ta làm sao phải cúi đầu trước gã lùn thó thế kia, đã biết chắc mình sẽ trở thành xác pháo đi dò địa lôi cho bọn họ, cơ sự đến nước này muốn không đi cũng không được, tốt nhất chả nên lèm bèm làm gì, chẳng có chỉ khiến người ta thêm khinh thường”. Thế là người nào người nấy làm theo gã lùn, uể oải đứng dậy, bước từng bước chậm chạp.

Càng đi sâu vào trong sơn cốc, địa thế càng trở nên rộng rãi, thoáng đạt, nhưng chiếc cầu gỗ cây rừng cũng càng cao lớn lừng lững hơn, tưởng như muốn chọc thủng trời, tán lá um tùm, đan cài, kết chặt vào nhau, tấm màn màu xanh khổng lồ giăng mắc giữa không trung hoàn toàn che kín vòm trời, trên mặt đất cây bụi, cỏ dại mọc rậm rạp, chồng chéo xen lấn lẫn nhau, rất nhiều chỗ phải lần mò từng bước. Do nơi đây quanh năm không có ánh mặt trời, cho nên từ những vũng nước tù ở chỗ trũng bốc lên một mùi hôi thối, tanh tưởi sộc lên tận mũi.

Phần đáy rừng rậm hoàn toàn bị lớp sương mờ khói nhẹ bủa vây, sương khí thông thường được chia ra làm mấy loại như sương mù gió, sương mù núi, sương mù hơi, sương mù bức xạ, ở những nơi rừng sâu núi thẳm hoặc những khu vực có vũng tù nước đọng còn xuất hiện chướng khí, sương mù mang theo độc tố. Thế nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa ai có thể giải thích, màn sương mù trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cuối cùng thuộc thể loại sương mù gì và được hình thành như thế nào. Thông qua đo lường, người ta đã xác định loại sương mù này hoàn toàn không có độc, cũng không có tác dụng khiến người ta hôn mê hay hoang tưởng, vậy rốt cục nó được sinh ra bởi khí ẩm trong lòng núi hay từ dưới lòng đất trào ngược lên. Bất luân thế nào sự xuất hiện của “sương mù” đánh dấu bắt đầu từ chỗ này đã bước vào lãnh địa của khu vực nguy hiểm thực sự.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải nén nhịn thở, rẽ đám gai bụi phía trước, xuyên qua rừng rậm um tùm dưới sơn cốc từ từ tiến sâu vào trong. La Đại Hải ngoái đầu nhìn Xuyên Sơn Giáp bám sát phía sau, cách họ chừng mười mấy mét, hằn học nói: “Con giặc ranh Ngọc Phi Yến lòng dạ đen tối thật, bây giờ bọn mình bị rơi vào tay nó, mẹ kiếp, khác nào Võ Đại Lang gặp Phan Kim Liên - đúng là lành ít dữ nhiều”.

Tư Mã Khôi điềm nhiên bảo: “Chí ít Võ Đại Lang còn có huynh đệ là Võ Tòng giúp ông ta trả thù huyết hận, tớ thấy nếu chẳng may bọn mình phải lên đường điểm danh với Diêm Vương thì cũng chả có ma nào thèm đến đây giúp dọn xác đắp mộ đâu. Có điều việc đến nước này, cậu nên nghĩ thoáng một chút, miếu nào mà chẳng có vài oan hồn, ai bắt số bọn mình đen đủi”.

Hải ngọng từ đầu đã nhìn không thuận mắt đám người trong đội thám hiểm, anh chửi đổng một hồi, sau đó ngoái lại phía sau nhìn Xuyên Sơn Giáp, thấy đối phương cách mình không quá gần, chắc chẳng nghe thấy gì, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, cậu thử ngắm vị đi đằng sau chúng ta xem, sao tớ thấy gã ngứa mắt thế nhỉ, cậu bảo hai đứa bọn mình tham gia ngần ấy năm trong quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện, giết bao nhiêu người, nổ bao nhiêu vụ, ngay cả bản thân cũng chẳng rõ, nói gì thì nói chẳng phải chúng ta vẫn đang cố nén chịu đấy ư? Nhưng cậu nhìn gã chẳng qua chỉ là cái thằng trộm mộ, chẳng biết làm gì ngoài việc lén lén lút lút đào bới mấy ngôi mộ vô chủ, nhân tiện bắt nạt luôn người chết nằm trong quan tài, gã thì có bản lĩnh gì mà dám vác cái bản mặt ra vẻ thâm trầm thế nhỉ?”.

Tư Mã Khôi cũng liếc mắt nhìn về phía sau một cái, anh bảo La Đại Hải chớ đảo lưỡi nói bừa, vị “Xuyên Sơn Giáp” tuyệt đối không phải hạng tầm thường đâu, cậu ngắm hai cánh tay vừa ngắn vừa thô của gã mà xem, chắc chắn được rèn luyện lâu năm từ công việc “bới huyệt, đào lỗ, chui ống khói”, còn đôi chân vòng kiềng nữa chứ, dài như cái lò xo, vừa nhảy vào động huyệt, chỉ cần “chíu” một cái là có thể bắn xa hơn mười trượng, cậu lại nhìn thân thể nung núc những thịt kia tớ đoán nếu bị ngâm trong mộ cổ không ăn không uống nửa tháng, gã cũng chẳng thể chết vì đói. Vị “Xuyên lão gia” này chắc chắn là bậc kỳ tài cái thế, được sinh ra chuyên để khai quật mồ mả đấy.

La Đại Hải chẳng mấy tin, liền hỏi: “Cậu bảo gã là người hay cái cào đất?”, anh nói xong, không nhịn được liền liếc mắt ra sau, nhưng vừa nhìn đã giật nảy mình, suýt chút nữa cổ Hải ngọng rơi rụng khỏi đầu, anh vội vàng hét gọi Tư Mã Khôi. Lúc hai người quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau vắng tanh không một bóng người, gã Xuyên Sơn Giáp luôn bám sát sau lưng đột ngột biến mất chẳng còn tông tích.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thất kinh trong lòng, nếu khi nãy Xuyên Sơn Giáp vô ý rơi vào đầm lầy trong hốc cây thì chắc phải nghe thấy chút động tĩnh gì đó mới phải, nhưng chỉ trong thời gian nháy mắt, hai người đều chẳng phát giác được Xuyên Sơn Giáp bám ngay phía sau chạy đi đâu mất.

Đúng lúc đó, hai người nghe thấy dường như có một con vật rất to lớn động đậy trên vòm cây, liền lập tức ngẩng đầu lên nhìn, đồng thời bật sáng đèn pin, chiếu thẳng vào nơi phát ra âm thanh, quét đi quét lại tìm kiếm, thì thấy thân thể của Xuyên Sơn Giáp đang chơi vơi giữa không trung âm u, nét mặt khó coi đến cực độ, ngũ quan biến dạng, dường như miệng không thể nói, chỉ thấy tứ chi vừa ngắn vừa thô kiệt sức giãy giụa, giằng co.

Thì ra ở trên cao cách chỗ họ mười mấy bước, có một con mãng xà đen, thân hình to như thùng nước, con mãng xà vắt vẻo trên một thân cây cổ thụ, cuộn thành mấy vòng, nó thả người từ trên cao xuống, há cái miệng rộng ngoác như cái đấu gạo, đỏ lòm lòm như máu không ngừng hít khí, Xuyên Sơn Giáp đang đi đúng tầm bị nó hút ngược từ dưới gốc cây lên giữa không trung rồi nuốt sống vào bụng.

CHƯƠNG III: BÃO NHIỆT ĐỚI BUDDHA

Hồi 1: Xẻ bụng

Trong rừng già núi sâu ở Miến Điện, mãng xà đen và rắn độc là loài sinh vật vô cùng phổ biến, nhưng con ô xà náu mình trên tán cây um tùm âm u này không ngờ lại có khả năng hút một thân thể to béo, vạm vỡ như Xuyên Sơn Giáp lên giữa không trung trong lúc mở miệng hít thở. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, trong lòng lạnh buốt như bị nước đá dội vào, kinh hoàng thất đảm. Hai người lại chẳng thể ra tay ứng cứu vì trên người chẳng có súng, lại không thể dùng dao săn vì khoảng cách quá xa. 

Hai người chỉ biết trừng trừng nhìn con mãng xà đen, nó há miệng hút được Xuyên Sơn Giáp, thì liền thò đầu xuống nuốt tất cả vào bụng, cơ thể con mãng xà phút chốc lồi lên hình dạng một con người.

Tuy rằng Xuyên Sơn Giáp có mang theo súng xung phong, nhưng sự việc diễn ra quá đột ngột, gã chẳng kịp phòng bị gì, đợi khi tỉnh táo lại thì đã bị cuốn vào một cơn lốc tanh tưởi.

Có câu “Lực bắt nguồn từ đất”, giờ đây hai chân của Xuyên Sơn Giáp lại rời khỏi mặt đất, cả cơ thể chơi vơi giữa không trung, trên đầu dưới chân, chẳng chỗ nào có thể giãy giụa phản kháng nổi. Thế là gã lập tức bị nuốt sống vào bụng con mãng xà.

Xuyên Sơn Giáp là tên đạo tặc đào mồ trộm mả chuyên nghiệp. Thường xuyên phải làm những công việc liều mạng giúp gã luyện thành một thân tuyệt kỹ hiếm có, thủ thuật cũng không phải hạng vừa. Gã bị con mãng xà khổng lồ nuốt chửng vào bụng, chỉ cảm thấy một mùi tanh tưởi ghê tởm xộc vào tận óc, cả cơ thể dường như bị rơi vào nồi canh sôi sùng sục, toàn thân bỏng rát không thể chịu đựng nổi. May mà thần trí vẫn chưa bị nhiễu loạn, đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã vươn cánh tay ngắn ngủn trong phút chốc thi triển công phu, móc cây giáo mỏ vịt luôn mang theo bên người, cắm phật lưỡi dao sắc lẻm xuống phía bên dưới, rạch mạnh một đường. Mũi dao rạch bụng con mãng xà nghe “xoạt” một tiếng như rạch vào tấm da mủn nát. Thấy vậy, gã lại cố sức rạch thêm vài nhát nữa, bụng con ô xà bị xẻ dọc từ trong ra ngoài.

Con mãng xà khổng lồ Miến Điện lúc đầu còn chưa phát giác bụng mình bị rạch lòi cả ruột gan, mãi cho đến khi Xuyên Sơn Giáp xẻ một đường dài mười mấy mét dưới đáy bụng, thì nó mới hay tình thế nguy to, nhưng sự thể đã muộn. Nó quằn quại, giãy chết trên thân cây cổ thụ một hồi lâu.

Tất cả diễn biến trên chỉ xảy ra trong thời gian nháy mắt, không đợi Tư Mã Khôi và La Đại Hải kịp định thần lại, Xuyên Sơn Giáp đã từ vết rạch trên bụng con mãng xà rơi tõm xuống đất, trông gã chẳng khác nào một củ cải đỏ lòm, từ đầu đến chân dính nhầy nhụa chất dịch vị trong dạ dày con quái thú.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thấy thân hình phì nộn của Xuyên Sơn Giáp rơi từ không trung xuống, thì cùng đồng thanh hét lên hoảng hốt, rồi định chìa tay ra đón, nhưng hai người bọn họ làm sao có thể đỡ nổi. Một người sống nặng một trăm bảy mươi tám cân, lại rơi vèo vèo từ trên cao xuống, trọng lực có khác chi bom dội. Thế là Xuyên Sơn Giáp đâm sầm vào người bọn họ, tất cả ngã nhào ra đất, cuốn cả vào nhau, lăn liền mấy vòng.

Còn con mãng xà treo mình trên cành cây cổ thụ đã chết vì bụng rách, mất máu quá nhiều, xác nó từ cây cao trôi tuột xuống, Tư Mã Khôi lăn sang một bên tránh con rắn chết. Quay sang Xuyên Sơn Giáp, anh phát hiện gã bị té ngã không nhẹ, hơn nữa chất axít tiết ra từ dịch vị tiêu hóa trong dạ dày con mãng xà rất đậm đặc, cho dù thân thể gã to khỏe, lại thoát thân thần tốc nhưng da thịt vẫn bị phân hủy nhiều phần, ngũ quan trên mặt cũng chẳng còn toàn vẹn.

La Đại Hải vô cùng thán phục chiêu xẻ bụng mãng xà, tự mình chui ra khi nãy của Xuyên Sơn Giáp, giờ nhìn thấy bộ dạng gã thảm hại như vậy, anh không để ý bản thân cũng đang đau ê ẩm khắp mình mẩy, vội vàng đỡ gã dậy, ân cần hỏi: “Anh bạn Xuyên Sơn Giáp, anh vẫn bình an vô sự đấy chứ?”

Tư Mã Khôi quan sát thương thế của Xuyên Sơn Giáp, rồi lấy tay khẽ ấn lên bề mặt da, thấy tất cả đều mềm nhũn như quả dưa thối, tóc tai rụng sạch, mũi chạm một cái là rớt xuống, bèn lắc đầu nói: “Đã thành bộ dạng này rồi, còn bình an vô sự được sao?”. Anh tìm mọi cách để gọi mọi người đến một cách nhanh nhất, biết đâu nếu được Tuyệt cấp cứu kịp thời, Xuyên Sơn Giáp lại giữ được cái mạng. Thế là anh lập tức huơ huơ pháo sáng tín hiệu, giơ cao tay gắng ném nó đi thật xa.

Ai ngờ, ánh lửa màu đỏ của pháo hoa vừa lóe lên, trong phút chốc toàn bộ khu vực phụ cận đều rực sáng. Tư Mã Khôi và La Đại Hải kinh hoàng phát hiện dưới màn bụi bay mù mịt như sương khói, trong những hốc cây hoặc động đá, hàng ngàn con mãng xà Miến Điện đang giương cặp mắt sáng quắc như điện xẹt, miệng thò thụt chiếc lưỡi đỏ lòm, con nào con nấy to lừng lững như cái đấu đong gạo, chẳng biết dài bao nhiêu mét. Chúng lũ lượt thò đầu ra khỏi hang, vắt vẻo đu mình, rồi ngoằn nghoèo bò xuống đất.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải than thầm trong bụng, vừa tận mắt chứng kiến Xuyên Sơn Giáp bị con mãng xà nuốt vào bụng, thân hình biến dạng thảm hại thế nào, nên giờ đâu dám chần chừ nửa giây. Cả hai đồng thanh hét lên một tiếng, rồi vội vã quay đầu bỏ chạy thục mạng, liền ngay đó, mấy chục con mãng xà Miến Điện lập tức phóng mình đuổi theo.

Tuy trong thâm cốc rừng già, cây cối um tùm, địa hình phức tạp khiến tốc độ di chuyển của lũ rắn giảm đi đáng kể, nhưng con người cũng vì thế mà chẳng thể chạy nhanh. Tư Mã Khôi và La Đại Hải chạy cuống cuồng ra khỏi chỗ cũ chừng mấy trăm bước, trong lúc hoảng loạn, chẳng kịp nhìn kỹ đường, chỉ thấy chỗ nào có thể dung thân là lập tức lao vào ẩn trốn. Quần áo trên người bị móc rách không biết bao nhiêu chỗ, tốc độ di chuyển cũng buộc phải chậm lại. Chỉ nghe lũ mãng xà rượt đuổi phía sau lao vù vù như gió cuốn, tiếng thân mình chúng va chạm vào cành khô, bùn đất nghe “lào rào”, khoảng cách đôi bên càng lúc càng bị rút ngắn. 

Tư Mã Khôi nhận thấy tình thế khó bề thoát thân, nên đành dừng lại cùng La Đại Hải, mỗi người nắm chặt con dao săn trong tay, lưng dựa sát vào một thân cây cổ thụ, chuẩn bị quyết chiến sống mái với chúng một phen. Đúng lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc, thì hai người đột nhiên thấy hai lưỡi lửa bỏng rát vù vù lao ra từ sau thân cây. Lưới lửa rừng rực, sóng này nối tiếp sóng khác. Cây cối xung quanh đổ rạp như gặp phải thần quỷ, để mặc chúng ra sức thể hiện sự hung tợn và cuồng bạo của mình. Những nơi lưỡi lửa liếm đến, ngay cả không khí và bùn đất đều bị bốc cháy, khí quyển khô nóng đến mức khiến người ta phải cảm thấy ngột ngạt.

Tư Mã Khôi trấn tĩnh nhìn lại, thì ra hội Ngọc Phi Yến bám ngay phía sau, nhìn thấy ánh sáng của pháo phát tín hiệu liền nhanh chóng đuổi theo tiếp ứng, đợi khi gần đến nơi, phát hiện phía trước có mãng xà lai vãng, bèn dùng bình phun lửa mang theo tấn công chúng. Mãng xà Miến Điện tuy da dày thịt cứng nhưng cũng chẳng phải mình đồng da sắt gì, làm sao chúng chịu nổi sự thiêu đốt của ngọn lửa cuồng bạo. Con nào không bị cháy thành tro ngay tại trận thì cũng thục mạng tháo chạy mất tăm mất dạng.

Ngọc Phi Yến phát hiện ba người đi trước dẫn đường giờ chỉ còn hai, liền đoán biết bọn họ đã gặp phải chuyện chẳng lành. Cô ả không hỏi han gì nhiều, lập tức huýt sáo gọi đám lính vũ trang người Miến Điện đến, dùng bình phun lửa mở đường, tỏa ra thành hình nan quạt tiến sâu vào khe cốc. Đi chẳng bao lâu, cả hội đã tìm thấy thi thể nằm thẳng đuỗi trên đất của Xuyên Sơn Giáp.

Mọi người nhìn thấy tư thế chết thảm thương của Xuyên Sơn Giáp, lại nghe Tư Mã Khôi và La Đại Hải thuật lại đầu đuôi sự việc, đều cảm thấy không lạnh mà sởn gai ốc. Ngọc Phi Yến thầm nghĩ: “Lần này Khương sư phụ đã tính sai một bước, việc chưa đến đâu mà khiến một huynh đệ phải bỏ mạng”. Cô ả dẫn mọi người đến trước thi thể của Xuyên Sơn Giáp bái lạy: “Toàn huynh gia cứ an tâm lên đường, tất cả già trẻ gái trai trong nhà đã có mọi người thay mặt huynh chăm sóc. Sau khi trở về, chúng tôi sẽ đến chùa Kim Bồ Đề lập bia trường sinh, nếu huynh ở dưới cửu tuyền có hay, thì hồn thiêng hãy bay đến đó mà thọ hưởng hương hỏa”. Sau đó, Thắng Ngọc lệnh cho thuộc hạ cắt đầu Xuyên Sơn Giáp mang về an táng, phần thi thể còn lại được đốt thành tro, rồi đào một nấm mồ chôn cất tro cốt rất cẩn thận.

Ngọc Phi Yến gọi Xuyên Sơn Giáp là Toàn huynh gia, kỳ thực Xuyên Sơn Giáp không mang họ Toàn, chẳng qua hành quy của bọn hối tử trộm mộ có rất nhiều điều cấm kỵ, về cơ bản, chúng khá tương đồng với đạo lục lâm. Theo giới luật của dân giang hồ Quan Đông, điều húy kỵ nhất ở mỗi ngành nghề, chính là trong tên có nhắc đến các số “hai, bốn, sáu, tám, chín”, bạn có thể gọi họ là tam ca, ngũ ca, nhưng không được gọi họ là nhị ca, tứ ca. Xuyên Sơn Giáp là con thứ tư trong gia đình, cho nên Ngọc Phi Yến dùng chữ Toàn để thay thế.

Việc này nếu nghiên cứu kỹ lưỡng thì rất sâu sa, nếu nói đơn giản, dễ hiểu một chút, thì đại khái là do “tam giáo cửu lưu, thiên môn vạn đạo” tất cả bọn họ đều tôn kính Quan Đế Thánh Quân, mà Quan Đế là nhị ca trong ba anh em Lưu Bị kết nghĩa vườn đào, đương nhiên chẳng ai dám bằng vai phải lứa với Quan Nhị Gia. Hơn nữa, thời Bắc Tống có tên Dương Tứ Lang hàng địch theo Liêu, thời Tùy Đường có Lão Lục La nuốt lời thề, phản bội huynh đệ. Họ đều là những điển hình phản diện, cho nên giới giang hồ mới cố tình tránh né để cảnh báo đời sau.

Dân giang hồ còn tuyệt đối tuân thủ luật lệ “Ba nói, ba không nói, ba lộ, ba bất lộ”. Ba nói, ý muốn ám chỉ những phi vụ của đạo tặc lục lâm, được phép nói với người cùng nghề, được phép nói ở điện đốt hương, được phép nói lúc ra tay trộm được đồ ăn cắp. Ba không nói là không được nói với đông đảo mọi người ở sân đình, không được nói ở miếu điện – cũng có nghĩa là không được ăn nói tùy tiện trước mặt quan viên cùng nghề, và không được nói lúc uống rượu trụy lạc. Ba lộ là được phép tiết lộ lúc bản thân gặp tai nạn, được phép tiết lộ khi có việc gấp, được phép tiết lộ khi gặp đạo tặc. Ba bất lộ là không được tiết lộ cho người gặp trên đường, không được tiết lộ cho người nhà, không được tiết lộ cho cừu nhân. Không được tiết lộ cho người nhà tức là “trên không nói cho cha mẹ, dưới không nói với con cái”, truyền nhân trong gia tộc đương nhiên không tính vào đây. Rốt cục những giới luật và húy kỵ trong quan gia giới đạo không chỉ giúp họ bảo vệ được bí mật trong nghề ở mức độ nào đó mà còn giúp họ gặp lành, tránh dữ.

Hội trộm mộ trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn càng là những kẻ tin tưởng, khiếp nhược thần linh, nghiêm khắc tuân thủ hành quy xưa cũ. Đợi sau khi xử lý hoàn tất thi thể của Xuyên Sơn Giáp, thì thấy sắc trời đã mỗi lúc một âm u hơn. Dưới sự uy hiếp của cơn bão nhiệt đới Buddha đang ngày một sát gần, mọi người không dám lưu lại lâu hơn, vội vã khởi hành vào sâu trong sơn cốc.

Vì thời gian gấp gáp, có muốn quay trở về đường cũ thì cũng bị nước lũ và dòng bùn đất do cuồng phong bạo vũ mang đến nuốt chửng. Bởi vậy, Ngọc Phi Yến không cắt cử người đi trước dẫn đường nữa mà tất cả mọi người cùng tiến vào khu rừng bí ẩn.

Đường nhánh ở khe sâu trong sơn cốc mỗi lúc một nhiều hơn, mạch núi nhấp nhô, miên man bị rừng rậm nguyên sinh che phủ. Do các loài thực vật sinh trưởng ở đây đều có tính xâm lấn rất mạnh, khiến địa tầng trong lòng núi bị nứt toác, tạo thành rất nhiều khe sâu, chúng giao thoa ngang dọc lằng nhằng, phân bố chằng chịt như mạng nhện. Trong lòng cốc mọc đầy các loài thực vật phụ sinh và thực vật bì sinh, cộng thêm vô số những huyệt động lớn nhỏ, trông chúng chẳng khác gì một mê cung màu xanh nhiều tầng lớp. Lòng núi yếu xốp có thể sụt lở bất cứ lúc nào, cho dù trong tay có bản đồ chi tiết, thì đi vào nơi sâu vẫn rất dễ bị lạc đường.

Đi như vậy một hồi cũng chẳng biết có đúng phương hướng hay không, Khương sư phụ bèn bảo mọi người dừng lại, lão giải thích, đi mãi thế này, chỉ sợ lạc đường, tốt nhất nên bày trận “Tiên thiên tốc trưởng, ngũ hành bát quái”, để xác nhận xem phương hướng đội thám hiểm đang đi là đúng hay sai. Hội Ngọc Phi Yến đều biết lão ta dày dạn kinh nghiệm, tinh tường lọc lõi, thuật quan sát phân tích thời thế, đoán biết sự biến đổi của tình hình lại rất cao minh, nên tự nhiên tin phục.

Khương sư phụ lập tức lấy ra một đồng tiền xu, úp ngược lên chiếc quạt giấy mở rộng, rồi lật đi lật lại nhiều lần, hai mắt lão dán chặt vào mặt lá bài, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm:

Sửu bất Nam hành, Dậu bất Đông, cầu tài trộm mộ chỉ hư không,

Dần Thìn về tây, tà hiểm ác, trong quan gặp quỷ, đại kiết hung,

Hợi Tý phương Bắc, người mất của, đi lại chẳng thành, cách núi sông,

Tỵ Mùi Đông Bắc gặp tai nạn, tam sơn cản lối, chẳng hanh thông,

Ngọ Thân chớ đi Tây Nam lộ, xuống ngựa cửa mả, nạn chất chồng,

Gặp Tuất đừng đi dưới đường hầm, đụng độ yêu ma mạng mất không,

Mão lên Tây Bắc tai họa giáng, ưng khuyển tác quái, há uổng công.

Khương sư phụ tính xong, lại dùng la bàn xác định cho rõ thêm, lão ngắm chuẩn một khe cốc sâu, rồi vội vội vàng vàng đi tuột vào bên trong. Ngọc Phi Yến cũng cuống quýt dẫn mọi người bám sát theo sau. Ngược lại với thái độ tin tưởng tuyệt đối của cô ả, Tư Mã Khôi lại đem lòng sinh nghi. Anh không mảy may nghi ngờ huyền thuật suy đoán phong thủy địa lý của dân trộm mộ, nhưng không hiểu sao lại lờ mờ cảm thấy dường như Khương sư phụ thay đổi cả con người vậy, trên mình lão tỏa ra một mùi khác thường khó có thể hình dung cụ thể, chẳng biết lão định dẫn mọi người đến nơi nào.

Cả đoàn đi theo Khương sư phụ, lòng vòng quanh co trong rừng rậm một hồi khá lâu, có tên lính Miến Điện phát hiện trong vũng nước tù màu xanh đen, lộ ra một cánh tay người chết. Tên đó chắc hẳn phải là tay già đời chốn sa trường, nhìn thấy xác chết liền lập tức khám xét một hồi, xem trên thi thể nạn nhân có vật gì đáng giá đại loại như đồng hồ hay không. Thế là hắn liền đi lên phía trước gắng sức lôi cái xác lên, hì hục một hồi cuối cùng cũng vớt được cái tử thi nước ướt ròng ròng. Cái xác bị lật úp xuống dưới, sau khi lật lên, một khuôn mặt đen xì xì lộ ra trước mắt. Dưới ánh đèn Halogen, mọi người có thể nhìn thấy da thịt trên gương mặt đã hoàn toàn bị khô đét, lõm sâu, màu da đen quánh như xì dầu đặc, trông chẳng khác chi một cái xác khô bị bay hết hơi nước trên sa mạc, không những vậy miệng tử thi còn mở rộng, hốc mắt lóm sâu, vẫn giữ nguyên nét mặt đau đớn trước khi chết, quần áo xung quanh đều mủn như mùn, chẳng rõ đã chết được bao tháng bao năm, cũng không thể đoán biết thân phân lai lịch của anh ta.

Lúc này mọi người đều lũ lượt dừng bước theo Khương sư phụ, Tư Mã Khôi nhìn thấy xung quanh có nhiều vết tích cháy đen do bị bình phun lửa hun đốt khi nãy, trong lòng càng dấy lên nghi ngờ: “Sao lão giặc đất họ Khương cầm cái quạt rách, mông chẳng quạt, lại đi quạt mặt, mà dẫn cả hội trở về sào huyệt mãng xà thế nhỉ?”. Anh lén quan sát xung quanh, thì thấy mặt Khương sư phụ trắng bệch như tờ giấy, thần sắc hoảng thốt, mắt khô vàng như sáp nến, gương mặt trông gầy đi rất nhiều so với trước. Anh đứng bên cạnh bình tĩnh quan sát tiếp thì thấy, lão có vài nét khá tương đồng với cái xác chết khô trong vũng nước, cả hai đều giống với loài ác quỷ bò ra từ “thành hàm oan”.

Lão tam Hải Đông Thanh trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn là người có ánh mắt rất sắc bén, gã cũng phát giác con đường đang đi là quay trở về xuất phát điểm ban đầu, lại nhìn thấy Khương sư phụ có vẻ khác thường, liền đi lên phía trước hỏi: “Sư gia, người làm sao vậy?”, chỉ nghe miệng Khương sư phụ lẩm bẩm câu gì chẳng rõ tiếng. Hải Đông Thanh không nghe được, lại cho rằng lão có chuyện cơ mật, bèn ghé sát tai vào, thì thầm: “Sao ạ? Người hãy nói rõ hơn một chút…”

Tư Mã Khôi dự cảm thấy có chuyện chẳng lành sắp xảy đến, anh muốn ngăn cản Hải Đông Thanh nhưng lại chậm mất nửa bước. Hải Đông Thanh chưa kịp dứt lời thì thấy phần miệng của Khương sư phụ đột nhiên rách toạc ra làm tư từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Tư Mã Khôi biết thời Thanh có một loại ám khí, gọi là “Huyết trích tử”, đó là quả cầu kim loại rỗng ruột gắn dây thừng dài, to gần bằng sọ người, bên trong giấu lưỡi dao sắc bén và dung dịch hóa cốt – loại dung dịch chỉ cần rắc lên thân thể người chết, sẽ lập tức xảy ra phản ứng hóa học, trong phút chốc thi thể hoàn toàn tiêu tán, chỉ để lại chút tạp chất khó lòng phân biệt là thứ gì. Thích khách sử dụng loại vũ khí này thường ẩn mình trên xà nhà, nhìn thấy mục tiêu ở phía dưới, thì ngắm chuẩn đầu người đó và quăng “huyết trích tử”. “Huyết trích tử” hễ chạm đầu người sẽ lập tức phân thành nhiều cánh tỏa xuống phía dưới, ôm chặt lấy sọ người. Thích khách lại vẩy tay giật dây thừng lên, “huyết trích tử” liền tự động cắt đứt đầu người, dưới đất còn mỗi xác chết không đầu đứng sừng sững, thủ cấp trong “huyết trích tử” cũng sớm bị dung dịch hóa cốt giải quyết nhanh gọn, chỉ sót một giọt máu tươi dính trên đó, bởi vậy nó mới có tên “huyết trích tử”.

Tư Mã Khôi cảm thấy đầu của Khương sư phụ giờ đây chẳng khác nào một quả “huyết trích tử”, từ phần miệng rách toạc, nở ra vô số cánh, càng phình càng dài, những chiếc cánh phóng vù về phía trước, nhanh như chớp chùm gọn lấy đầu Hải Đông Thanh, rồi lôi vào trong, sau đó liền thu các cánh đang tỏa ra lại và khép chặt. Sự việc xảy ra quá đột ngột, khiến mọi người ai nấy đều kinh hoàng, đứng im như phỗng. Sau thời khắc thất thần, Hải Đông Thanh cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim thép chọc thẳng vào óc, đau đến nỗi tứ chi co rút, trong phút giằng co giãy chết, khẩu súng trên tay gã bị cướp cò, một loạt đạn quét dọc theo đường di chuyển, đốn ngã mấy đồng bọn trong nháy mắt. Một viên trong số đó đâm xuyên qua ngực một tên lính Miến Điện, đánh trúng thùng nhiên liệu của bình phun lửa mà hắn đang cõng trên lưng, chiếc thùng lập tức phát nổ, chỉ nghe “ầm” một tiếng vang trời, quả cầu lửa bùng lên nuốt chửng những kẻ không kịp chạy đang đứng xung quanh, ngọn lửa rừng rực biến tất cả thành tro bụi.

Hồi 2: Đỉa Campuchia ăn thịt người

Thùng nhiên liệu của bình phun lửa phát nổ, lập tức nuốt chửng mấy tên lính vũ trang người Miến Điện đứng gần đó, cả Hải Đông Thanh và Khương sư phụ cũng bị bùng cháy như hai quả cầu lửa. Tính cháy nổ của nguyên liệu chất đốt quân dụng vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần nó bùng lên, thì không biện pháp gì có thể dập tắt được, hơn nữa ai bị ngọn lửa bủa vây, kẻ đó sẽ nhất định sẽ chết trong tiếng thét gào thảm thiết và ra sức giãy dụa quằn quại.

Ngọc Phi Yến bị trấn động tâm thần, đứng im tại chỗ bởi biến cố xảy ra quá bất ngờ. Cô nàng biết rõ sự lợi hại của bình phun lửa, cho dù cố dập lửa cứu sống hai kẻ may mắn mà “diện tích vết bỏng toàn thân lên đến 99%” thì rừng rậm nguyên sinh cách xa bệnh viện thế này cũng đâu làm được gì, ngoài việc khiến họ sống chịu tội. Điều duy nhất có thể làm bây giờ là lập tức nổ súng, giúp họ sớm kết thúc sự đau đớn do bị ngọn lửa hung tàn hun cháy da thịt. Ngọc Phi Yến từ trước đến nay hành sự rất quyết đoán, nhưng đối với anh em thuộc hạ đã theo mình nhiều năm thì rốt cục vẫn không nỡ nhẫn tâm, cô đành ra dấu nhờ Gấu trắng – kẻ lưu vong người Liên Xô – giúp mình kết liễu họ.

“Gấu trắng” có tên thật là Ciglovski, trước đây từng chịu khổ hình, lưỡi bị người ta cắt mất quá nửa, giờ đây gã có miệng mà khó nói thành lời, nhưng kinh nghiệm vận dụng thuốc nổ của gã cực kỳ phong phú, chỉ cần dự tính đại khái về số lượng thuốc nổ và phương hướng phát nổ là có thể làm gần như chính xác so với thực tế. Gấu trắng là chuyên gia phá nổ được Ngọc Phi Yến thuê về. Gã người Nga này mang huyết thống Ngoại Kavkaz, cao khoảng một mét chín mươi, thân hình to lớn vạm vỡ, tâm địa đen tối, hạ thủ tàn độc. Năm đó, khi làm cố vấn quân sự viện trợ Việt Nam, gã đã lén trốn ra nước ngoài. Sau khi gã chạy trốn, toàn bộ già trẻ gái trai trong nhà đều bị KGB bắt giữ xử bắn, bởi vậy gã mang lòng hận thù bức màn sắt Nga – Xô Viết đến tận xương tủy, có lẽ những trải nghiệm lưu vong khốn khó đã khiến hắn hình thành tính cách khát máu tàn nhẫn như tên đồ tể. Gã giương súng, nhằm thẳng vào mấy thân hình đang bốc cháy rừng rực như cây đuốc sống, từ từ hạ gục từng người một, mỗi phát súng đều bắn xuyên não. Trong cả quá trình giết người, gã chẳng hề chần chừ nửa giây, ra tay vừa tàn bạo, vừa chuẩn xác, gương mặt tỉnh khô không chút biểu cảm, trông gã chẳng khác chi một cỗ máy hạng nặng do Liên Xô chế tạo – lạnh lùng và tàn khốc.

Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải trố mắt lên nhìn mà từng cơn lạnh cứ trườn qua gai sống lưng, nhưng đặt mình vào vị trí của cô ả mà xét, thì có lẽ Ngọc Phi Yến cũng chẳng qua vạn bất đắc dĩ mà thôi, nếu là mình, liệu có đủ nhẫn tâm ra lệnh cho tay người Nga kia hạ thủ bạn bè như thế không.

Sau một hồi súng vang lên, cánh rừng rậm thăm thẳm lại trở về vẻ yên ắng như ban đầu của nó, Ngọc Phi Yến vẫn chưa thể hoàn hồn, tim đập liên hồi, chân tay run lẩy bẩy, cô đăm đăm nhìn bảy tám cái xác, chết chẳng toàn thây, dung mạo cháy rụi, nằm co quắp trên mặt đất. Có ai ngờ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cô lại mất Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp, Hải Đông Thanh, những người này đều là tứ xà ba cột trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn, là hai cánh tay trái phải của mình, từ khi bước chân vào giang hồ đến nay, cô chưa bao giờ bị mất mát, hao tổn và gặp trắc trở gập ghềnh đến thế, có lẽ vậy nên trong phút chốc cô không thể chấp nhận sự thật và thích ứng với nó.

Lúc này chỉ còn lại mười mấy tên lính vũ trang người Miến Điện và hội bốn người Tư Mã Khôi, đi lên phía trước xắn tay áo, đào hố chôn mấy cái xác bị thiêu cháy thành tro. Một người trong đoàn chợt nhìn thấy có thi thể nằm dưới khe nước nông, cứ nghĩ đó là tử thi của đồng bọn, trong lúc giãy chết đã lăn xuống đó, nên định tiến đến trước vớt cái xác lên. 

Nào ngờ, lại gần mới phát giác thi thể phảng phất hình người ấy không hề bị lửa thiêu cháy, mặt mũi chẳng thể nhận diện, tảo nước bám đầy thân thể, nhiều chỗ lòi cả khúc xương trắng ởn, chắc đó là thi thể bị chìm dưới nước đã nhiều năm. Xác chết này có rất nhiều điểm tương đồng với cái xác tìm thấy ở ven vũng nước khi nãy. Những chỗ trũng địa thế thấp trong thâm cốc tồn tại vô số vũng nước tù, lâu ngày tạo thành đầm hồ, hơn nữa người mất tích ở núi Dã Nhân lại nhiều không kể xiết, bởi thế phát hiện mấy cái xác trong vũng nước cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ.

Nhưng khi mọi người quan sát kỹ cái xác, thì không nén nổi một tiếng kêu kinh hãi, khắp mình mẩy xác chết trương phình nổi lềnh bềnh trên mặt nước chi chít những giác hút. Thật không thể tưởng tượng nổi, vật lộ ra khỏi đám rong rêu không phải xương trắng của người chết mà là một con đỉa đang ngọ ngoạy vô số mao nhu động. Trên thực tế, đó là một con đỉa Campuchia ăn thịt người ẩn náu trong cái xác bị tảo xanh bám đầy.

Tư Mã Khôi ở Miến Điện đã nhiều năm, anh biết loài “đỉa Campuchia ăn thịt người”, nó còn có tên là “đỉa nước nữ hoàng” hay “đỉa chúa”, chỉ sống ở những dòng nước tăm tối trong rừng rậm nhiệt đới ẩm thấp, sinh tồn nhiều nhất ở lãnh thổ Campuchia, chúng có tập tính ký sinh trong thi thể mục rữa hoặc xác cá chết, lúc đầu đỉa chúa sống phụ sinh trong một cơ thể sống và phát triển theo kích cỡ của cơ thể sống đó. Phần lớn trứng đẻ ra đều là những con đỉa bình thường, chỉ những cái trứng ký sinh trong cơ thể động vật máu nóng mới trở thành đỉa chúa, bản thân đỉa chúa không ăn thịt người, mà chỉ hút sạch máu từ đầu xuống chân, điểm khác biệt so với đồng loại là nó có thể hút cạn máu của một con trâu hoặc voi rừng trong nháy mắt. Ở những vùng hoang dã phía tây nam có rất nhiều loài đỉa này xuất hiện hãm hại con người, nên dân gian mới gọi nó bằng cái tên “đỉa ăn thịt người”.

Những người Miến Điện khác đều biết sự lợi hại của nó, tuy chẳng ai dám dùng tay sờ vào “đỉa Campuchia ăn thịt người” nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ để họ kinh hồn đảm vía, chẳng ai đợi thủ lĩnh ra lệnh, người nào người nấy đều giương súng chĩa thẳng vào mục tiêu, sau trận càn quét của súng đạn, con đỉa chúa to lớn dị thường bị bắn tan xác pháo.

Ai ngờ, trong cơ thể đỉa chúa toàn là những con đỉa con to khoảng năm sáu centimet, chui ra từ vết rách do bị súng bắn trên cơ thể mẹ, bò loằn ngoằn xuống nước, gặp da thịt người sống lập tức cuống cuồng xuyên bừa vào. Mọi người hoảng hốt, ai lo thân người nấy, mau chóng tháo chạy. Tư Mã Khôi nhanh tay tinh mắt, liền vớ lấy bình phun lửa còn sót lại ở trên bờ, ngắm thẳng vào lũ đỉa ăn thịt người phun mạnh, luồng lửa hung bạo lao ra quét một đường, trong phút chốc vô số đỉa con và xác đỉa chúa đều bị chết cháy dưới nước.

Tư Mã Khôi giơ cao đèn Halogen, dưới ánh sáng mạnh của chiếc đèn, anh có thể quan sát tất cả mọi nơi gần đầm nước, chỉ thấy trên mặt nước nổi lềnh bềnh cơ man nào là đỉa Campuchia ăn thịt người, thân hình chủ thể ký sinh phình to khác thường, trên lưng có những vệt vàng trông như mắt người, phần bụng màu tựa lá khô, trên đó có vô số giác hút. Mọi người được tận mắt chứng kiến cảnh tưởng sống động như vậy, gan ruột tự nhiên như bị teo rúm lại, da dầu căng cứng, trong lòng chỉ có mỗi hai từ “khiếp đảm”. Số lượng loài đỉa này trong rừng rậm nhiều vô kể, hơn nữa lại sức sống của nó lại rất dai dẳng, bền bỉ, trừ bình phun lửa ra thì dao súng bình thường khó lòng giết chết được nó, nhưng chỉ cần không lại gần mặt nước thì sẽ an toàn hơn nhiều.

Lúc này, đám tàn binh vũ trang Miến Điện chỉ còn lại mười mấy người, họ không chịu nghe theo mệnh lệnh của Ngọc Phi Yến nữa, bọn họ vốn dĩ cũng chỉ là đám quân ô hợp, tất cả đều vì tiền mà bán mạng, tuy hô khẩu hiệu cần tiền, bất cần mạng, nhưng nếu vứt bỏ mạng sống thì tiền kiếm được còn có nghĩa lý gì? Bọn họ thấy trước mắt vẫn chưa tiếp cận được với khe cốc nơi chiếc tiêm kích vận tải mất tích, mà đã thiệt hại bao nhiêu huynh đệ, xem bộ dạng khi nãy của Khương sư phụ chẳng phải trúng tà thuật thì cũng bị quỷ ác nơi rừng già núi sâu nhập tràng, giờ còn tiếp tục tiến vào sâu hơn, không khéo chẳng ai giữ được mạng mà trở về.

Huống hồ thủ lĩnh đội thám hiểm căn bản chẳng coi họi là con người, chết một mạng mà thờ ơ như chết một con sâu cái kiến, nếu còn ở lại chẳng sớm thì muộn cũng bị biến thành “tro pháo” chết thay người ta. Thế là, dưới sự lãnh đạo của một tên, bọn họ cướp tất cả vũ khí lương thực, rồi vuỗi tay không làm nữa, nhất loạt quay đầu về đường cũ tháo chạy.

Đám lính Miến Điện, tên nào tên nấy đều được vũ trang đầy đủ, khi bị đẩy đến bước đường cùng và phản kháng lại thì họ trở nên cực kỳ nguy hiểm. Hơn nữa, đội thám hiểm chỉ còn lại vài người, không thể khống chế nổi cục diện, nếu đối đầu thì chắc chắn hai bên sẽ cùng thương vong thiệt mạng, nên Ngọc Phi Yến chẳng biết làm gì khác ngoài việc trợn trừng mắt nhìn bóng họ dần khuất xa, răng nghiến vào nhau nghe ken két. Quay đầu lại nhìn hội Tư Mã Khôi, cô ả gằn giọng hỏi: “Sao các anh không biến nốt đi?”

Tư Mã Khôi nhìn những người ở lại, ngoại trừ bản thân, La Đại Hải, Tuyệt, Karaweik ra thì đoàn thám hiểm chỉ còn Ngọc Phi Yến, Thảo Thượng Phi và anh bạn người Nga Ciglovski, tất cả bảy người. Thoáng suy nghĩ một chút, anh cảm thấy tiền nhân hậu quả đúng là điều không thể lường trước được, hơn nữa cơn bão nhiệt đời có thể ập đến bất cứ lúc nào, mưa to gió lớn sẽ kèm theo lũ lụt, lở núi nghiêm trọng, những khu vực ở địa thế thấp chắc chắn sẽ bị nhấn chìm, đám lính vũ trang Miến Điện chạy trốn theo con đường cũ, e rằng chẳng khác nào tự mình đâm đầu vào chỗ chết. Bởi vậy, không thèm để ý đến mấy lời châm chọc của Ngọc Phi Yến, anh chỉ hỏi: “Rốt cục chuyện gì đã xảy ra với Khương sư phụ thế nhỉ?”

Đối với những sự việc xảy ra trước khi Khương sư phụ bị lửa thiêu chết, Ngọc Phi Yến vẫn chưa hết tim đập chân run, cô vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần người khác gật đầu một cái là lập tức hiểu họ muốn nói gì, nghe Tư Mã Khôi nói, cô lờ mờ cảm thấy không ổn, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ đúng là bị trúng tà….”

Tư Mã Khôi không đợi Thắng Ngọc trả lời, liền tiếp lời luôn: “Tôi thấy có khả năng Khương sư phụ bị trúng bùa ngải trong núi Dã Nhân”. Nghe nói, để bảo vệ bí mật của núi Dã Nhân, người cổ đại đã cài đặt rất nhiều lời nguyền độc địa và các cạm bẫy cơ quan hiểm ác, theo tin tình báo nắm được hiện nay, quân đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân Mỹ và vô số những nhà thám hiểm bước chân vào núi này trước đây đều phát hiện rất nhiều di tích và văn vật cổ xưa, nhưng vì chúng bị hư hại nghiêm trọng nên khó có thể phân biệt rốt cục là di tích của thời kỳ, triều đại nào.

Từ đó suy đoán, những truyền thuyết ly kỳ tưởng như hoang đường kia rất có thể là sự thật, muốn vào núi Dã Nhân tìm kiếm chiếc tiêm kích vận tải bị mất tích nhiều năm, ngoại trừ phải đối mặt với điều kiện khí tượng và môi trường tự nhiên ác nghiệt, phức tạp ra, thì còn phải đối phó với nhưng tà thuật và cạm bẫy mà người cổ đại đã để lại, còn về việc trong núi Dã Nhân rốt cục ẩn chứa bí mật gì và ai đã yểm những loại phù chú, bùa ngải lấy mạng người này, dựa vào thông tin hạn hẹp mà bọn họ có trong tay giờ đây thì căn bản không thể mò mẫm ra nổi đầu mối.

Mấy năm nay, mấy người Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Tuyệt… thủy chung theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện chiến đấu trong rừng sâu, từng chứng kiến một số người bị yểm bùa ngải, còn Karaweik là dân bản địa chính gốc, sinh ra và lớn lên ở vùng núi này, nên càng rõ tình hình hơn ai hết. Nếu người nào xuất hiện những triệu chứng giống như Khương sư phụ, thì chắc chắn chẳng có nguyên nhân gì khác, mà chắc chắn là bị chơi ngải. Nếu chẳng may trúng loại tà thuật này, ngoài việc trước khi phát tác phải ăn thịt người luyện ngải hoặc yểm “vó ngựa” ra thì tuyệt đối chẳng có biện pháp gì giải cứu nổi, có điều tùy vào thể trạng của mỗi người khác nhau, nên cũng có kẻ may mắn thoát nạn, nhưng con số này chỉ chiếm 1%.

Tương truyền, ở Trung Quốc có một phương thuốc, đó là dùng “vó ngựa” để khắc chế bùa ngải, phương pháp dân gian này khởi nguồn từ Vân Nam. Nghe nói, thời xưa phong tục tập quán ở Vân Nam hãy còn mang nặng màu sắc mê tín, nếu ai chẳng may mắc bệnh hiểm nghèo, họ thường không mời lang trung đến khám chữa, mà mời pháp sư đến để xua đuổi tà ma, nghênh đón thần tiên, nếu lỡ gặp chuyện quái dị thì lập tức dùng vó ngựa. Vậy “vó ngựa” là gì? đó không phải da ở lòng bàn chân con ngựa mà người ta vẫn hay dùng để đóng giầy, cũng không phải đế ngựa. Khu vực miền Nam tục gọi “vó ngựa”, còn ở miền Bắc lại gọi “chân gà”, cũng chính là chân của con gà trống được cắt ra lúc nó vẫn còn sống. Tương truyền, vật này có thể giúp xua đuổi tà ma, tránh điều hung dữ, nó và “móng lừa đen, bánh đả cẩu” được tụng là ba linh vật. Tuy ở miền Bắc, không thường xuất hiện “vó ngựa” lắm, nhưng nó lại được truyền bá rộng rãi ở những nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Malayxia v.v…Thời cổ xưa cũng từng có người dùng nó để đối phó với một số loại bùa ngải có điều cái ảo diệu, bí mật ẩn chứa trong đó đã sớm thất truyền từ hàng trăm năm trước.

Giờ đây, điều duy nhất có thể xác định được là “ngải” ở núi Dã Nhân được người cổ đại yểm từ hàng trăm ngàn năm trước, nhưng e rằng bây giờ ngay cả nắm xương của người luyện ngải cũng đã hóa thành tro bụi, chứ nói chi đến thịt, biết đến nơi nào để tìm mà ăn? Bởi vậy ai bị chơi ngải, kẻ đó coi như gặp vận rủi, chắc chắn vô phương cứu chữa. Hơn nữa, khi chết đi, đừng nói có thể luân hồi sang kiếp khác, mà ngay cả làm quỷ cũng chẳng thành.

Bùa thuật trong núi sâu Bắc Miến vô cùng đặc biệt, những kẻ trúng tà đều xuất hiện một vệt đen rất rõ nét ở con ngươi phía đáy đồng tử, hình dạng giống như phân tằm. Nếu xung quanh bạn có ai xuất hiện dấu hiệu ấy, thì chắc chắn họ đã bị yểm bùa chơi ngải, tuyệt đối không sai lệch vào đâu được. Hội Tư Mã Khôi cũng hiểu sơ qua về bùa và ngải ở Miến Điện, biết được phàm kẻ nào bị trúng ngải, đúng thực trong đáy mắt họ đều có cùng một đặc trưng này, nhưng chẳng ai hiểu rõ nguyên lý sâu sa của nó.

Chỉ là từng nghe người ta nói, ở Vân Nam, Quý Châu, bọn man di rất giỏi luyện ngải và độc trùng, còn Nam Dương, Thái Lan lại là đất bùa chú, Miến Điện vừa vặn nằm lọt giữa hai khu vực đó, bởi vậy tà thuật “bùa” và “ngải” hòa quyện, hợp nhất với nhau thành một thể, cái ảo diệu bên trong của nó vô cùng ly kỳ, quái dị, người thường không thể lý giải nổi bằng lý lẽ thông dụng, cũng không thể dò dẫm được bằng biện pháp thông thường . Nếu bạn ở Miến Điện mà nhìn thấy gia đình nào, trong nhà không hề có mạng nhện hoặc đất bụi, thì có thể đoán định nhà đó đang nuôi ngải. Còn về các chủng loại ngải, thì nhiều vô số kể, chẳng rõ chính xác là bao nhiêu, có ngải tôm cá, ngải da trâu, ngải tử thi, ngải độc trùng, ngải rắn, ngải xương chó, ngải vải, ngải ếch v.v…

Ngọc Phi Yến vẫn có chút bán tín bán nghi, liền nói với Tư Mã Khôi: “Giờ đây thi thể của Khương sư phụ đã bị bình phun lửa thiêu cháy thành tro bụi, những gì anh nói cũng chẳng qua chỉ là phỏng đoán mà thôi, làm sao có thể khẳng định chắc chắn Khương sư phụ bị trúng ngải?”

Trong lúc hai người đang to nhỏ bàn bạc, thì Thảo Thượng Phi đứng bên cạnh hốt nhiên ho lớn từng cơn, miệng liên tiếp khạc ra mấy ngụm nước đen, đợi khi ngẩng đầu lên, thì trong mắt đã xuất hiện một vạch vàng mang tia máu, trông gã lúc này chẳng khác chi bộ dạng của Khương sư phụ khi trước. Thảo Thượng Phi là gã có thân hình nhỏ thó, đầu gián mắt chuột, tính tình tinh tế lanh lợi, chắc bởi gã có tài khinh công đi nhanh như lướt, nên mới được đặt cho biệt danh Thảo Thượng Phi – bay trên cỏ. Tuy cũng là loại giặc đất trộm mộ nhưng gã này bé gan nhỏ mật, vừa nãy nhìn thấy đồng bọn rơi vào tình cảnh thê thảm như thế thì đã sợ mất vía, mặt vàng như đất, tâm thần hỗn loạn.

Tư Mã Khôi trông bộ dạng của gã, bất giác như có một luồng hàn khí lạnh buốt xuyên thẳng vào óc, anh vội vàng đi đến đỡ Thảo Thượng Phi, rồi lật mí mắt dưới của gã ra xem, thì thấy dưới đáy hai con mắt đều xuất hiện một vệt đen kéo dài qua hai đồng tử, tiếp đó anh lần lượt xem mắt của những người còn lại.

Mọi người nhìn hành động của Tư Mã Khôi, đều dự cảm thấy một tai nạn lớn sắp giáng xuống đầu, chỉ mỗi Hải ngọng là vô tư hồn nhiên, anh hoàn toàn không biết gì cả, còn hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu xem cặp mắt của La Đại Hải tớ, có phải tám mươi mấy năm rồi không nhỏ giọt mưa nào, tình cảm tràn trề quá chăng?”

Tư Mã Khôi không để ý đến lời nói bông đùa của La Đại Hải, bởi vì anh phát hiện, tất cả mọi người, có lẽ bao gồm cả đám lính vũ trang Miến Điện vừa tháo chạy khi nãy, người nào người nấy đều có một vạch đen rất rõ nét ở dưới đáy mắt, giờ đây tính mạng của mọi người chỉ được tính bằng từng giờ, không, có lẽ chỉ còn từng phút nữa thôi. 

Hồi 3: Bùa ngải

Chết chỉ là một đoạn đường mà ai trong cuộc đời cũng phải đi qua, bản thân cái chết có lẽ không đáng sợ, mà điều đáng sợ là khoảnh khắc thắc thỏm, dày vò khi chờ đợi chiếc bóng của thần chết sắp sửa giáng xuống đầu.

Ngọc Phi Yến biết mình cũng bị trúng ngải, trong lòng cảm thấy chán nản, buông xuôi đến cùng cực, cô ả kề khẩu súng ngắn đã lên nòng vào ngực, chuẩn bị cho thời khắc cuối cùng sẵn sàng nã một đạn vào huyệt thái dương của chính mình.

Gã Gấu trắng người Nga tuy là một tín đồ cảm tử, một kẻ điên cuồng mất hết lý trí, nhưng khi thật sự đến lượt mình phải đối mặt với cái chết thì các cơ trên mặt cũng không khỏi thi nhau co quắp lại. Gấu trắng lẳng lặng ngồi một mình dưới gốc cây, chẳng ai đoán được trong đầu gã đang nghĩ gì.

Đối lập với cảm giác bàng hoàng của đội thám hiểm, lúc này mấy kẻ may mắn sống sót trong đội du kích Miến Điện lại không hề bất ngờ một chút nào, bởi vì họ đã sớm quen với việc chịu đựng và đối mặt với cái chết, thậm chí Hải ngọng còn thoáng có thái độ kiểu như “cười vui trước nỗi đau của người khác”, tâm trạng của anh giờ đây chẳng khác chi bệnh nhân mang mầm bệnh nan y, vô phương cứu chữa, đang nằm dài chờ chết, đột nhiên biết được mấy vị láng giềng bên cạnh cũng mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo y như mình, trong lòng bất giác cảm thấy vô cùng yên ổn, an tâm. 

Chỉ duy có Tuyệt là suy nghĩ tỉ mỉ, chu đáo hơn cả, cô nhìn bộ dạng Khương sư phụ trước khi chết gầy héo như một cái xác khô, liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi, nếu tất cả mọi người đều đã bị trúng tà thì tại sao lại không phát tác cùng một lúc? Hay là trong đó tồn tại một quy luật hoặc thứ tự nào đó? Trước đây, khi đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng con đường hầm này, từng xảy ra sự việc hàng loạt nhân viên trong đoàn bị mất tích, phải chăng bọn họ cũng chết bởi loại ngải thuật âm hiểm, quái dị kia? Khái niệm về bùa và ngải quả thực quá đỗi mơ hồ, nếu có thể tìm ra căn nguyên, hoặc giả còn có cách giải cứu.

Tư Mã Khôi nói: tôi đoán, phàm những người trúng tà đều căn cứ vào thể trạng và sức đề kháng không giống nhau, thứ tự chết dường như cũng có một quy luật nhất định. Khương sư phụ tuy rằng thể trạng không tồi, đến tuổi này mà vẫn còn có thể vượt núi băng rừng, nhưng rốt cục lão vẫn thuộc dạng tuổi cao sức yếu, mắt mờ chân chậm, khí huyết không thể thông thuận như lúc trai trẻ, bởi vậy lão ta là kẻ bị phát tác trước tiên, tiếp theo đó là lão nhị “Thảo Thượng Phi” của đội thám hiểm, bởi gã lớn tuổi thứ hai sau Khương sư phụ. Nếu tôi đoán không nhầm thì người thứ đến phải chết sẽ là gã ngoại quốc người Nga, còn người bị chết sau cùng sẽ là Karaweik.

Tư Mã Khôi nói đến đây thì ngoảnh đầu lại nhìn Karaweik, chỉ thấy cậu bé dùng cả hai tay ôm chặt lấy đầu, trên khuôn mặt toát lên thần sắc tuyệt vọng đến cực độ. Ở Miến Điện, những người từng làm hòa thượng đều không sợ chết, trong quan niệm của họ, chết chẳng qua chỉ là sự bắt đầu của một luân hồi khác, nhưng đa số người bản địa đều vô cùng khiếp sợ tà thuật. Họ cho rằng, con bọ ngải luồn vào trong não sẽ dần dần gặm nhấm hết linh hồn trú ngụ trong thể xác của người sống, bởi thế Karaweik cứ mãi ôm đầu, miệng không ngừng lẩm nhẩm chỉ một chữ duy nhất.

Tư Mã Khôi nghe được từ mà Karaweik không ngừng lẩm nhẩm dường như là “trùng”, lòng thầm cảm thấy kỳ quái: “Trong đầu lấy đâu ra trùng bọ nhỉ?”, nhưng sau đó anh liền nghĩ ra, những người sống trong rừng rậm núi cao, nhiều kẻ thường nuôi độc trùng và xem chúng là vật môi giới cho các loại tà thuật như bùa hay ngải, bởi vì trùng tính ly kỳ, khó có thể lý giải, nên sẽ khiến những câu chuyện về bùa ngải càng trở nên tà ma, đáng sợ hơn.

Người ta thường nói: “Người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý”, câu nói của Karaweik khiến Tư Mã Khôi và Tuyệt hốt nhiên cảm thấy hiểm họa chí mạng mà đội thám hiểm đang gặp phải rất có khả năng là do trùng trứng của loài “đỉa Campuchia ăn thịt người” đã ký sinh vào cơ thể họ trong lúc không ai ngờ đến.

Nghe nói, đỉa Campuchia ăn thịt người có một tập tính rất đặc biệt, trên một cơ thể chủ chỉ có một con đỉa chúa sống ký sinh, nếu như trước khi đỉa chúa thành hình mà cơ thể chủ chết đi, thì tự nhiên nó cũng theo đó mà hóa thành hòn máu đặc, chẳng những vậy, chúng không thể ký sinh trong cơ thể bọ máu lạnh, bằng không cái trứng sẽ chỉ nở ra một con đỉa bình thường. Đội thám hiểm từ lối cổng ra đổ nát của con đường U Linh tiến sâu vào sào huyệt trong thâm cốc, thì gặp sự công kích của bầy đỉa, con đỉa chúa khổng lồ bị bình phun lửa thiêu cháy khi ấy, cơ thể phình to ngang với thân hình một con người, hơn thế nữa ở đầm nước trong chỗ trũng gần đó còn tụ tập vô số đồng loại của nó, nếu không có thi thể người chết với số lượng tương ứng, thì làm sao chúng có thể sinh trưởng đông đúc đến vậy? Có lẽ con đỉa nữ hoàng mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng chính là một trong những kẻ gặp nạn từng mất tích ở núi Dã Nhân bao nhiêu năm về trước.

Bộ dạng khô quắt sau khi trúng ngải của Khương sư phụ cũng giống như bị một con đỉa Campuchia ăn thịt người chui vào cơ thể, dần dần hút cạn toàn bộ tinh huyết và óc tủy quanh người, đến cuối cùng con đỉa thành hình mượn xác chết thay hình đổi cốt. Lúc này, Khương sư phụ trở thành cơ thể chủ cho đỉa chúa trú ngụ, hay nói cách khác, thi hài lão trở thành sào huyệt của nó ở nơi vũng tù này. Lúc phần sọ đột nhiên nở bung ra, cũng chính là lúc đỉa nước nữ hoàng đã chui vào não.

Tuy rằng Tuyệt đã sớm chẳng hề để tâm đến sự sống chết nhưng cứ nghĩ bên trong cơ thể mình có một con đỉa Campuchia ăn thịt người ký sinh thì lại thấy cách chết này quả thực quá sức ghê tởm và kinh dị. Mặt cô không khỏi biến sắc khó coi, thất kinh hỏi: “Từ khi tôi vào núi Dã Nhân đến nay, trước sau chưa từng chạm vào vũng nước tù có lũ đỉa đang sinh sống, tại sao lại bị loài đỉa nước này bám vào người vậy?”

Ngọc Phi Yến ngồi bên cạnh nghe thấy đoạn hội thoại giữa Tư Mã Khôi và Tuyệt, cô ả dường như vừa tóm được một tia hy vọng sống, liền nói chen vào: “Nếu anh biết vì sao cơ thể bị loài đỉa ký sinh, thì cũng không đến nỗi trúng loại tà thuật này. Môi trường ẩm ướt, oi bức trong núi Dã Nhân khiến trướng khí tràn lan khắp nơi, thực vật, thủy lưu, không khí, bùn đất, mây mù, đầm lầy đều trở nên bội phần nguy hiểm, đỉa Campuchia ăn thịt người thậm chí có thể luồn xuyên qua quần áo, giày tất và da thịt, nói cách khác chẳng lỗ nào chúng không thể thâm nhập, chẳng biện pháp nào đủ đảm bảo an toàn tuyệt đối. Nhưng nếu cái được gọi là ngải độc trùng chỉ là đỉa chúa chui vào trong cơ thể hút hết huyết khí, tinh tủy, thì hay chăng vẫn còn có thể nghĩ ra cách giải cứu?”

Tuyệt am hiểu rất sâu sắc về y lý, khi còn ở trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, cô đã từng nhiều lần chữa thương cho người bị đỉa hút máu, nhưng giờ đây cũng chỉ biết lắc đầu nói: “Nếu đỉa bám ở vùng ngoài da thì còn dùng khói trực tiếp làm nóng nó hoặc đốt giấy cỏ hun chết, tóm lại có rất nhiều cách để đối phó. Nhưng một khi nó đã bò vào trong bụng hoặc trong hộp sọ, thì ngoại trừ phẫu thuật lấy nó ra, tuyệt đối chẳng còn biện pháp nào khác. Theo hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, tính mệnh chỉ còn tính bằng từng khắc, đừng nói đến việc chẳng thể phẫu thuật, mà cho dù có được đưa đến một bệnh viện hiện đại với đầy đủ máy móc tối tân để cấp cứu ngay tức khắc, thì cũng chẳng kịp nữa rồi”.

Ngọc Phi Yến liên tiếp đưa ra mấy phương pháp nhưng chẳng cách nào hữu hiệu, ví dụ tự mình nuốt độc dược, như vậy sẽ khiến con đỉa trong cơ thể cũng bị nhiễm độc mà chết, nhưng cách này chẳng khắc nào tự sát, toàn thân đỉa Campuchia ăn thịt người toàn là giác hút, những giác hút đó sẽ giúp nó bám chắc như keo trong cơ thể sống, không một loài trùng ký sinh nào có thể bì kịp với nó, cho dù bạn nôn thốc nôn tháo hết cả gan xanh mật vàng, thì cũng chẳng thể nôn ra nổi con đỉa đang bám diết trong bụng.

Tư Mã Khôi thấy mọi người xung quanh thần sắc đầy vẻ tuyệt vọng, anh cũng không khỏi trấn động tâm kinh, tuy anh chẳng sợ chết, nhưng cũng không cam tâm bị đỉa hút cạn huyết tủy mà khô quăn queo, sau đó thi thể còn chìm trong nước và trở thành sào huyệt đẻ trứng của đĩa chúa nữa. Nhìn thân mình đỉa Campuchia ăn thịt người chi chít những giác hút, bỗng dưng trong óc anh lại thấp thoáng hiện lên hình ảnh kỳ dị của con rết, liền sau đó lại liên tưởng đến việc Triệu Lão Biệt tìm thấy viên ngọc Định Phong cạnh cái xác con rết trong chiếc án mục nát năm xưa. Đến tận bây giờ, anh vẫn còn nhớ như in hình ảnh Triệu Lão Biệt với một thân kỳ thuật uyên thâm, khả năng nhận thức vạn vật muôn loài trên thế giới bội phần cao siêu. Nếu giờ đây lão chưa chết, nói không chừng có thể giúp anh nghĩ ra cách hay nào đó, giải quyết con đỉa nước nữ hoàng đang ký sinh trong cơ thể mọi người.

Theo lý, sau khi Tư Mã Khôi mang dòng tộc lục lâm, anh được mật truyền toàn bộ bí kíp Kim bất hoán, Văn Võ sư phụ anh bái làm thầy lúc còn ở nhà, được mệnh danh là “ma men Trương Cửu Y”, có người gọi ông là “Trương bọ cạp” hoặc “Lão bách khoa toàn thư”. Ngoại trừ món bản lĩnh tủ “Bọ cạp đảo đầu bò tường” ra, thì ông còn rất giỏi đàm đạo về phương thuật, chỉ điểm cát hung. “Mật truyền Kim điểm” mà tổ tiên họ Trương lưu lại chính là gốc rễ khởi nghiệp của gia tộc, được chia thành ba phần “Thiên, Địa, Nhân”, từ trước đến nay chỉ truyền cho người trong tộc, không truyền cho người ngoài. Đến thời Trương Cửu Y, cả cuộc đời chỉ dạy dỗ cho hai truyền nhân trực hệ trong gia tộc, người thứ nhất là cháu đích tôn của dòng họ, có điều gã này tính tình thuần phát, ù ì, ông Trưởng Cửu Y chẳng mấy xem trọng hắn ta, nên không truyền thụ thuật suy diễn biến hóa, chỉ truyền cho một số khẩu quyết xem bói, rồi khéo léo đuổi hắn về quê nhà làm nông.

Truyền nhân mà Trương Cửu Y xem trọng lại chính là Tư Mã Khôi, bởi anh nhanh nhạy, cơ trí, cốt cách thanh thoát, tướng mạo thân hình đều có thể “trấn áp” được kẻ khác, lại giỏi ăn nói, giảo biện, từ ngữ sắc bén, tâm thuật cũng chính phái. Theo cách nói của giới lục lâm, người như thế có thể vượt qua phong ba bão táp, bảo vệ được bí mật gia truyền, gặp lúc thất thủ cũng không bán đứng đồng bọn và thế tộc, vì vậy ông mang tất cả tuyệt kỹ nhét tận đáy hòm nhà họ Trương truyền thụ tuốt tuột cho Tư Mã Khôi.

Chỉ có điều, lúc đó Tư Mã Khôi tuổi hãy còn quá nhỏ, đến khi bước được chân ra ngoài xã hội bươn trải thì lại không gặp thời, khiến bản lĩnh gia truyền bị lơ là, bỏ quên trong nhiều năm. Lúc này, anh bất chợt nghĩ đến sự việc gặp Triệu Lão Biệt năm xưa, lại liên tưởng đến cuộc đời tà môn ngoại đạo của lão, thấy rằng lão có những khả năng mà người thường khó lòng vươn tới được. “Mật truyền Kim điển” mà tổ tiên mình để lại là bộ cổ thuật “tỏ tường mọi ngách, lừng danh bốn bể”, vậy sao mình lại phải chịu thua kém người ta? Nhưng rốt cục làm sao mới có thể dùng lý lẽ “tướng vật” trong “Kim bất hoán” để trục xuất đỉa chúa đang ký sinh ra khỏi cơ thể?

Ý niệm này tuy rằng chỉ lóe lên trong khoảnh khắc, nhưng anh cũng đã lờ mờ hiểu, cái gọi là “vật cực nhi phản, số cùng tắc biến”, rốt cục có ý là trời chẳng bao giờ nỡ tuyệt đường sống của con người. Anh cho rằng chỉ cần tìm ra nhược điểm của đỉa Campuchia ăn thịt người trong thời gian cực ngắn, thì có thể những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm sẽ có cơ hội thoát khỏi bàn tay tử thần.

Trong lúc Tư Mã Khôi đang vắt óc suy nghĩ, ánh mắt anh chợt chạm phải Thảo Thượng Phi. Gã đang ngước đầu lên, nhìn chằm chằm vào một thân cây cổ thụ với thần sắc hoảng hốt, thất thần. Lúc này, Thảo Thượng Phi gầy héo như bị thoát xác, hốc mắt lóm sâu hoắm vào trong, miệng ú ớ chẳng nói thành lời. Ngọc Phi Yến lo lỡ đâu gã đột ngột ra tay làm người khác bị thương, nên lấy dây thừng trói gã lại. Tư Mã Khôi cũng ngẩng đầu dõi mắt theo hướng nhìn của Thảo Thượng Phi, chỉ thấy trên đó tối hù hù, chẳng nhận thấy có điều gì khác lạ.

Lúc đó, Ngọc Phi Yến nói với mọi người: “Mọi người đã chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, thì nhân lúc thần trí vẫn còn minh mẫn, hãy mau chóng tránh xa sào huyệt tập trung của lũ đỉa chúa”.

Tư Mã Khôi lại nói: “Thủ lĩnh, cô thử nói xem vì sao Khương sư phụ lại dẫn đội thám hiểm trở về sào huyệt của đỉa Campuchia ăn thịt người?”

Ngọc Phi Yến đáp: “Chẳng phải anh nói Khương sư phụ bị trúng tà sao? Người chết giống như ngọn đèn đã tắt, bây giờ anh lại trách cứ người ta, phỏng có ý nghĩa gì?”

Tư Mã Khôi nói: “Tôi đoán, chắc ở gần chỗ này ẩn giấu một vật gì đó, vật ấy dụ dỗ Khương sư phụ, hoặc giả dụ dỗ con vật ký sinh trong cơ thể ông ấy trở về đây. Có lẽ đúng là mệnh chúng ta chưa hẳn đã tuyệt, nói không chừng vẫn tìm thấy một con đường sống cũng nên”.

Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy việc này rất đỗi kỳ quái, đáng nghi, trong dải rừng rậm âm u chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời này, môi trường ẩm ướt ô uế, tuy khiến người ta cảm thấy ngột ngạt, bức bối nhưng không biết vì nguyên do gì mà trong không gian dường như phảng phất một mùi hương vô cùng quái dị, chẳng rõ đó là mùi thơm của hươu xạ hương hay của gỗ trầm hương, không những vậy càng ở nơi cao thì mùi thơm càng nồng đượm. Cô nhìn những cây cổ thụ cao ngút ngàn đến tận trời, trong lòng tự thấy bất lực: tay không làm sao mà leo tới đó được? Trong lúc đang định tìm loại công cụ leo núi nào đó để trợ giúp thì chẳng ngờ đã thấy Tư Mã Khôi buộc đèn Halogen lên người, rồi liền đó thi triển tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường” bám thân cây leo ngược lên. Tuy vết thương trên vai anh chưa lành hẳn nhưng thân thủ vẫn nhanh thoăn thoắt như gió cuốn, khiến những kẻ ở dưới đất nhìn lên chỉ biết trợn mắt há miệng mà kinh ngạc và thán phục, người nào người nấy nhìn chằm chằm không rời mắt, chẳng dám phát ra tiếng động, ngay cả hơi thở cũng cố gắng thật khẽ khàng.

Thân thể Tư Mã Khôi rốt cục vẫn đang bị thương, bò lên tới tán lá thì hai vai đã cảm thấy tê cứng, đau buốt, anh nhìn thấy trong hốc cây cổ thụ có một cái hố giống như hang động vật, trong hố phủ đầy rêu xanh dày bì, không khí âm u, lành lạnh thấu cả xương, lấy đèn soi vào, chỉ thấy bên trong cất giấu những quả trứng mãng xà, quả nào quả nấy to như nắm đấm, thì ra đây là sào huyệt của con ô xà Miến Điện bị bình phun lửa thiêu cháy lúc trước. Anh thò tay ra sờ ba trái trứng trắng đục, cất chúng vào trong lòng, rồi nhẹ nhàng chuồn xuống dưới.

Trong lúc còn chưa rõ sống chết ra sao, lại thấy Tư Mã Khôi lẻn lên cây lấy cắp mấy quả trứng mãng xà, hội Ngọc Phi Yến cảm thấy tên này quá nửa là chuẩn bị phát điên.

Tư Mã Khôi nhìn thấy ba quả trứng trong lòng bình an vô sự thì mới trút được tiếng thở mạnh, anh cẩn thận nâng niu từng quả trứng, bày chúng lên mặt đất, nhìn sắc mặt mơ hồ khó hiểu của mọi người, anh đành phải giải thích: “Muốn trục xuất con đỉa chúa đang sống kí sinh ra khỏi cơ thể, chỉ có thể kỳ vọng vào vật cứu mạng này thôi”.

Gã Gấu trắng người Nga thấy vẫn còn cơ hội sống, tinh thần phấn chấn lại ngay tức thì, nhưng trước mắt chỉ có ba quả trứng mãng xà, mà những kẻ sống sót còn những bảy người, cháo ít vãi nhiều, chẳng thể nào chia đủ, chắc chắn bốn người trong số họ phải chết, làm gì có chuyện gã để tâm đến những kẻ xung quanh, lập tức thò tay ra cướp, định bụng sẽ nuốt chửng một quả vào bụng.

Nhưng phản ứng của Tư Mã Khôi còn lanh lẹ gấp bội, chẳng để gã Gấu trắng người Nga kịp đến gần, anh đã thi triển chiêu “Phu tử tam thúc thủ”, đẩy lùi bàn tay to phàm phàm như chiếc quạt Ba Tiêu của gã, nhưng trong thời khắc gấp gáp, giành giật từng giây giữa sự sống và cái chết, Tư Mã Khôi không muốn quyết một trận sống mái với gã, chỉ xua tay, ra hiệu cho đối phương đừng hòng tiến lại gần, lại làm động tác vuốt cổ, ngầm nói với mọi người tuyệt đối không được ăn “trứng mãng xà”, nếu không sẽ càng chết nhanh hơn.

Gã Gấu trắng người Nga bình sinh sức khỏe vô địch, giết người chẳng khác chi giết một con gà, hắn cứ nghĩ chỉ cần thò tay ra là cướp được trứng rắn, nào ngờ lại lấy hụt, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy bất ngờ, chẳng biết gã phương Đông này sử dụng tà thuật gì, gã khoằm cặp mắt hung tợn gườm gườm nhìn Tư Mã Khôi, nhưng chẳng dám manh động thêm nữa.

Những người còn lại đều biết rõ tập tính của mãng xà Miến Điện, con cái mỗi năm phải sinh hàng trăm trứng, ba quả trứng mà Tư Mã Khôi vừa lấy từ trên ổ rắn xuống sờ vỏ ngoài nhẵn nhụi trắng mịn như ngọc, xem ra chúng chỉ là những trái trứng bình thường, chưa được thụ tinh. Tư Mã Khôi nói chúng có khả năng giúp họ trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơi thể, nhưng lại nói không được đập vỡ hay nuốt chửng, chẳng lẽ vật này dùng để xoa đắp ngoài da?

Hồi 4: Cuồng phong giông tố

Tư Mã Khôi tự biết mạng sống của mọi người giờ đây mong manh tựa ngàn cân treo sợi tóc, nên cũng không dám giải thích dài dòng, chỉ cầm một trái trứng mãng xà đặt xuống phía trước, lần lượt huơ huơ trước mũi hội La Đại Hải, Tuyệt, Ngọc Phi Yến. Trong giây lát, mọi người đều ngửi thấy một luồng khí thanh thoát thơm nồng quyện vào tận tim phổi, không thể tả hết cảm giác dễ chịu thoải mái, ai nấy không nhịn nổi càng kỳ lạ thắc mắc: “Trứng mãng xà Miến Điện sao lại có mùi thơm kỳ diệu đến thế nhỉ?”

Chẳng kịp đợi mọi người hiểu rõ, Tư Mã Khôi liền đập vỡ từng quả, đùn thành một đống nhầy nhụa trên mặt đất. Một mùi hương kỳ lạ, đậm đặc lập tức lan tỏa khắp không gian, khiến ai nấy không cưỡng nổi, định bò xuống đất liếm đám lòng trứng. May mà nhận thức của Tư Mã Khôi còn vô cùng tỉnh táo, anh là người đã được luyện khí công, khả năng định thần hơn hẳn người khác. Anh đứng bên ngăn cản hành vi của mọi người, không để bọn họ tiếp cận đám trứng vỡ.

Khoảng nửa phút sau, mọi người đều cảm thấy có một vật lạ ngọ ngoạy nhúc nhích trong cổ họng, buồn buồn ngứa ngứa không thể chịu nổi, gã Gấu trắng người Nga và Thảo Thượng Phi khô quắt, vàng vọt như cương thi là hai kẻ không chịu nổi trước tiên, bọn họ cùng lúc “ọe” lên một tiếng, mỗi người đều nôn ra một con đỉa ký sinh, dài gần hai mươi mấy centimet, thân thể trong suốt, vằn vện những vạch đỏ au au, to như cánh tay trẻ con, toàn thân chi chít giác hút rỏ máu ròng ròng, bọn chúng nhào xuống đám dịch lỏng dấp dính, thân đỉa cuộn lại quét một đường đã hút hết một nửa lòng trứng trên mặt đất.

Mấy người còn lại kẻ trước người sau đều nôn ra con đỉa ăn thịt người ký sinh trong cơ thể, chỉ thấy sau khi đỉa chúa hút sạch đám trứng mãng xà trên mặt đất chẳng bao lâu, thì trở nên cứng đờ, nằm im bất động, rồi hóa thành một đống máu đặc. Lúc này, mọi người lại ngửi đám vỏ trứng còn sót lại trên mặt đất, chỉ cần hơi lại gần một chút là một mùi khí tanh nồng lộng vào tận óc, ghê tởm, khó ngửi vô cùng, chẳng còn cảm giác thanh ngọt, thơm ngon như lúc trước nữa.

Mọi người sống sót sau kiếp nạn, người nào người nấy mặt trắng bệnh như giấy, thở dốc một hồi lâu, các giác quan dần dần khôi phục, càng nghĩ càng cảm thấy rùng rợn. Cả đội vốn nghĩ phen này chắc chết không còn nghi ngờ, may mà Tư Mã Khôi nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết thần kỳ trong lúc nguy cấp, mới nhặt được mạng sống trở về, nếu chỉ chậm trễ thêm vài phút nữa, để con đỉa trong cơ thể kịp thành hình, thì e rằng bây giờ tất cả đã vạn nạn rũ áo về trời.

Lúc đầu, Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng giờ đây nhìn kế sách cứu mạng quả đúng có thể thông hành, trong lòng cảm thấy bội phần may mắn. Anh còn muốn cứu những tên lính vũ trang Miến Điện tháo chạy khi trước, bèn kéo Karaweik chạy ngược về sau đuổi theo. Chỉ cần ven theo khe cốc tìm kiếm khoảng mấy dặm, đã phát hiện mười mấy tên lính vũ trang Miến Điện đang bị lạc đường bởi hơi thở của rừng sâu, không những vậy, bọn họ chạy chẳng bao xa, cũng moi ra mấy quả trứng mãng xà trong huyệt đá, hốc cây gần đó. Sau khi nuốt chửng vào bụng, đỉa chúa trong cơ thể càng lớn nhanh gấp bội, chẳng bao lâu đã rít hết não tủy và tinh huyết quanh người.

Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh chết của mấy tên Miến Điện, thực sự cảm thấy trấn động kinh tâm, núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, tuy rằng bản thân đã thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng không biết có bao nhiêu hung hiểm đang chờ đợi ở phía trước. Anh lo lỡ lạc mất mấy kẻ sống sót trong đội thám hiểm, chẳng thể bận tâm đến mấy xác chết ấy thêm nữa, liền vội vã quay đầu trở lại tìm hội Tuyệt và La Đại Hải, đồng thời thuật lại tóm tắt kết quả của đám lính Miến Điện cho Ngọc Phi Yến nghe.

Ngọc Phi Yến liệu định trước, sau khi mấy người Miến Điện kia bị trúng ngải đỉa, chắc chắn không thể sống mà chạy thoát khỏi núi Dã Nhân, nên chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này. Có điều cô ả lại đặc biệt trăn trở trước sự thành bại, đồng thời tự đánh giá mình rất cao, không bao giờ chịu gục ngã, giờ đây đã chấp nhận phi vụ mạo hiểm này, thì cho dù có gặp sóng gió nguy hiểm lớn hơn nữa cũng vẫn vọng đồ tiếp tục dấn thân vào sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân.

Ngọc Phi Yến vẫn nhớ, khi nhìn thấy bức màn sương mù mỏng tang ở nơi sâu trong sơn cốc, cũng chính là khi có thể bắt gặp di hài voi rừng bất cứ lúc nào, chỉ cần đi theo dấu tích ấy mà tìm “huyệt động ma mút” sẽ đồng nghĩa với việc tiếp cận khu vực nơi chiếc máy bay vận tải không quân Anh bị mất tích. Giờ đây đã giải trừ được hiểm họa đỉa Campuchia ăn thịt người, thì làm gì có chuyện cô ả chịu đứt gánh giữa đường.

Có điều, tuy rằng thuộc hạ Thảo Thượng Phi của Ngọc Phi Yến đã bảo toàn được tính mạng nhưng lại trở thành phế nhân, đội thám hiểm trước mắt ngoại trừ thủ lĩnh là cô ả ra thì chỉ còn lại một mình gã Gấu trắng người Nga kia mà thôi, nhưng tay ngoại quốc này lạnh lùng tàn nhẫn, trở mặt thất thường, không đáng tin cậy chút nào. Ngọc Phi Yến đã chứng kiến bản lĩnh của Tư Mã Khôi, cảm thấy con người này quả thực tuyệt luân vô song, nhiều điểm hơn người, nếu có thể biến anh ta thành người của mình, thì “hàng” trong chiếc tiêm kích vận tải kia coi như đã nằm trong tầm tay, nghĩ đến đây, cô ả liền quay sang ngọt nhạt với Tư Mã Khôi: “Ơn cứu mạng, tôi không dám nói bằng lời…”

Chưa nghe xong, Tư Mã Khôi đã vội vàng từ chối: “Tàu hỏa có chạy nhanh cũng là do đầu tàu kéo. Cô là thủ lĩnh của chúng tôi, tôi cứu cô là lẽ đương nhiên, không cần phải cám ơn. Cho dù cô tình nguyện mang thân ra đáp đền, tôi đây cũng chẳng dám nhận”.

Ngọc Phi Yến đang định mở lời, thì bị Tư Mã Khôi chặn họng làm cho ê mặt, cô ả không nén được cảm giác vừa thẹn vừa giận, liền nạt nộ: “Anh muốn chết thế nào?”. Nhưng chuyển ý niệm nghĩ lại: “Gã này đối xử với ai mà chẳng ngang ngược, vô lại như thế, bây giờ là lúc mình đang cần dùng người gấp, thôi thì cứ tạm thời nén giận mà bỏ qua cho hắn”. Thế là cô ả cố gắng áp chế lửa giận, nhỏ giọng nói: “Anh đã coi tôi là thủ lĩnh, vậy hẹn ước ban đầu của chúng ta, anh còn giữ lời hay không?”

Tư Mã Khôi nghe mấy lời này, thì biết Ngọc Phi Yến chưa chịu nhụt chí từ bỏ, mà vẫn muốn tìm tông tích của chiếc máy bay tiêm kích, trong lòng thầm nghĩ: “Tôi cứ tưởng mình chính là một kẻ liều mạng, ai ngờ cô còn bất cần mạng hơn cả tôi. Phi vụ này hung hiểm quá lớn, chi bằng nhân lúc sớm nhận ra tử khí u ám, mình nhanh chóng xù nợ cho xong”. Nhưng Tư Mã Khôi lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, quả thực chẳng còn đường lui mà thoát thân, do tình thế thúc ép, cũng đành chui vào đường chết, chỉ hi vọng Ngọc Phi Yến có thể mang theo Karaweik rời khỏi biên giới Miến Điện. Nếu được như vậy, thì bất luận đối phương tiến hay lùi, anh cũng cam tâm tình nguyện dùng tính mạng đền đáp, có điều anh vẫn có ý muốn bàn bạc kỹ lại với hội La Đại Hải rồi mới quyết định.

Tư Mã Khôi dứt lời, liền đi xem tình hình phía La Đại Hải và Tuyệt, hai người bọn họ cũng giống anh, đều chẳng gặp trở ngại gì lớn lắm, chỉ là mất chút máu, cảm thấy tinh thần kiệt quệ, trên người dường như không còn sức lực.

La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi đi đến, thì than thở: “Hôm qua tớ còn hoài niệm mãi về món trứng xào cà chua ở khách sạn Lục Quốc chỗ mình, nhưng bây giờ nghĩ đã thấy tởm, chắc suốt quãng đời còn lại, tớ chẳng dám động đến cái món đó nữa”.

Tư Mã Khôi cũng xoa đầu an ủi bạn: “Thực ra tớ thấy món trứng cũng chẳng có gì ngon bổ mấy, chẳng qua nó chỉ là vật bị gà mẹ xảy thai tọt ra mà thôi, từ trước đến nay tớ chả bao giờ thèm động động đũa”.

Lúc này, Tuyệt vẫn chưa hồi tâm định thần nổi, cô run giọng nói: phen này may mà có Tư Mã Khôi, tôi còn nhớ trong một cuốn sách y học có nói: ‘Ăn lông uống máu vốn là phong tục của người thượng cổ. Giờ đây, người hiện đại chúng ta đã quen với việc ăn chín uống sôi, nếu không trong bụng tất sẽ nảy sinh giun sán, nhẹ thì tổn hao huyết khí, nặng thì mất cả tính mạng’. Hai năm trước, khi tôi theo nhóm đặc vụ hành nghề ở Mandalay, từng chữa trị cho một thiếu niên mười mấy tuổi người bản địa. Thiếu niên đó thân hình gầy như que củi, chỉ có hộp sọ và bụng là phình to khác thường. Khi cậu bé bước đến trước mặt tôi thì đột nhiên đi hơi gấp một chút, rồi đầu cậu bé tự dưng từ cổ lăn lông lốc xuống đất, điều kỳ lạ là chẳng hề thấy máu chảy ra. Tôi lại gần kiểm tra thi thể, mới phát hiện trong cổ họng cậu bé bò lổm ngổm cơ man nào là đỉa, phần bụng và sọ não còn nhiều hơn. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, sau đó dò hỏi mọi người xung quanh mới hay, thì ra cậu bé thường ăn ốc vớt được dưới sông, nhưng do nấu không kỹ, cho nên đỉa ký sinh trong con ốc đều chui vào cơ thể cậu bé. Hoặc giả lúc đầu liều mạng mà cho cậu bé uống chút thuốc độc vừa phải, may ra còn có thể cứu chữa, nhưng chỉ cần đỉa chui vào não hoặc thành hình trong bụng, thì cho dù ngay cả Hoa Đà có tái thế sống lại, cũng đành bó tay.

Tư Mã Khôi không đề cập đến việc mình sử dụng huyền thuật “tướng vật” của tổ tiên truyền lại, chỉ nói tôi đây chẳng qua là hạng gà mờ, tay chiêu, những loại tà thuật cài đặt khắp nơi ở Thái, Lào, Campuchia v.v… tuy rằng đồn đại nghe có vẻ vô cùng quái dị, kinh khủng nhưng chỉ cần lật tẩy căn nguyên, tìm được cách khắc chế đối ứng, thì trong đó chẳng còn gì đáng gọi là bí mật nữa.

Tuyệt nghe xong, vẫn thán phục không ngớt, cô hiểu tập tính ký sinh của loài đỉa hút máu, nên nói với Tư Mã Khôi, những người từng bị đỉa chúa ký sinh trong cơ thể, khí huyết suy tổn nặng nề, nhưng cũng chính vì vậy, chỉ cần trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người đang ký sinh ra ngoài, thì nội trong mấy ngày gần đây, không cần lo sợ trong bụng lại nở ra đỉa, giờ đây những vũng tù trong rừng rậm không còn uy hiếp chúng ta được nữa, nhưng cơn bão nhiệt đới Buddha có thể ập đến bất cứ lúc nào, nếu còn chần chừ ở lại trong núi, thì sớm muộn cũng bị nước lũ nuốt chửng, tiếp sau đây nên đi đâu về đâu, phải mau chóng quyết định mới được.

Tư Mã Khôi gật đầu nói, tiêu trừ được đỉa Campuchia ăn thịt người chẳng qua là tạm thời khắc chế một trong số vô vàn hung hiểm tiềm ẩn ở núi Dã Nhân. Chỉ riêng hiểm họa này cũng đủ khiến hơn tám mươi phần trăm thành viên của đội thám hiểm phải bỏ mạng, nếu tiếp tục truy lùng tông tích chiếc máy bay không quân Anh dưới vực sâu khổng lồ, e rằng sẽ còn phải trả giá đắt hơn, nhưng hiện nay thời tiết chuyển biến ác nghiệt, môi trường cũng càng ngày càng trở nên phức tạp, cho dù có quay về theo đường cũ thì cũng không chắc an toàn thoát thân, chỉ còn cách chặt đứt đường lui, quyết tâm tiến lên phía trước, liều mạng sống chết một phen, may ra mới có cơ hội thành công.

La Đại Hải cũng nói: “Mấy năm ở Miến Điện, chỉ dặt làm mấy việc thất đức đốt nhà, giết người, chưa từng chính thức giúp đỡ bất cứ ai, bây giờ gặp cơ hội hiếm có, ông Hải đây đương nhiên chẳng còn lời nào phải bàn thêm”.

Sau khi ba người đã quyết định đâu vào đấy, Tư Mã Khôi liền đi đến nói với Ngọc Phi Yến: “Bốn người bọn tôi đều là những kẻ một thân một mình, chẳng có ai phiền lụy, níu kéo, thôi thì cứ theo cô đi một hơi đến tối cho xong”.

Ngọc Phi Yến liền cất lời cảm tạ: “Cám ơn các vị không chê cười và cũng cảm ơn tấm thịnh tình sâu sắc của quý vị. Chỉ có điều hi vọng các vị quân tử nhất ngôn, về sau không được thay đổi, trở mặt. Từ giờ phút này, chúng ta là những kẻ cùng hội cùng thuyền, hoạn nạn có nhau”. Cô ả thấy con đường phía trước ngập tràn chông gai, hung hiểm, nên không dám lơ là, đoạn lệnh cho mọi người mau chóng chỉnh đốn hành lý còn sót lại. Khi đi vào núi, đội thám hiểm mang theo lượng lớn trang thiết bị, nhưng trong lúc hỗn loạn, tan rã đã thất lạc không ít, điện đài cũng bị bình phun lửa thiêu hỏng. Giờ đây chỉnh đốn hành lý, thì chẳng còn mấy chân khuôn vác người Miến Điện, nên mọi người đành cố gắng mang càng nhẹ càng tốt, những gì có thể bỏ lại đều đem vứt hết.

Gã Gấu trắng người Nga tự chất lên vai một túi to, nhét đầy “dây dẫn nổ, ngòi nổ, thuốc nổ, khoan hơi”, Tư Mã Khôi cảm thấy dưới lòng đất trong khe cốc sâu có sương khí che chắn tầm nhìn, những thiết bị chiếu sáng là vật không thể thiếu, nên nhặt thêm mấy cái đèn Halogen, đèn pin tụ quang, pin đèn, pháo tín hiệu, pháo sáng v.v… nhét vào túi, những người còn lại đều chỉ mang những loại vũ khí cần thiết và lương khô dạng bánh.

Ngọc Phi Yến bảo La Đại Hải mang nốt chiếc bình phun lửa còn lại để đề phòng bất trắc. Nhưng La Đại Hải một mực không chịu, nói là các ông đây “lúc đánh Lashio, khi xuống Lalaung, đột phá vòng vây ở Ayeyarwady, tắm máu Mandalay”, có trận đánh lớn nào chưa từng gặp qua? Trong rừng sâu tuy đầy hung hiểm nhưng chỉ cần dựa vào bản lĩnh chính mình và dao súng trong tay, cũng đủ để đối phó với chúng, chứ cần gì đến bình phun lửa. Hơn nữa, nếu lỡ ra món đồ chơi ấy mà phát nổ, thì Hải ngọng tôi chẳng phải số xui tận mạng hay sao? Cô cứ nhìn mấy vị bị nó thiêu sống thành tro lúc nãy mà xem, đến hình hài cũng chẳng còn, e rằng xuống tới âm tào địa phủ, ngay cả Diêm Vương cũng chẳng thể nhận ra họ là ai. Nếu cô còn cứ khăng khăng bắt tôi vác nó, thì chẳng thà cứ cho đạn lên nòng “pằng” một cái là xong, bắn vài phát cùng lắm trên người cũng chỉ mọc thêm vài cái lỗ, chết như vậy tôi còn thấy nhanh gọn hơn nhiều. Ngọc Phi Yến không ngờ lại bị đáp trả lắm điều như thế, đành phải gạt bỏ ý niệm ấy đi.

Lúc này Thảo Thượng Phi nằm trên mặt đất đã khôi phục lại một chút thần trí, sau khi hỏi rõ tình hình, gã biết nếu bị bỏ rơi một mình ở nơi rừng sâu núi thẳm này thì khó mà tránh khỏi cái chết, gã lật bật cầu xin van nài thủ lĩnh, gắng sức vắt ra vài chữ từ kẽ hai hàm răng: “Cầu xin thủ lĩnh, xin người mở lòng từ bi, cho tôi bảo toàn cái mạng già này…”

Tuyệt không nỡ bỏ rơi Thảo Thượng Phi lại, mặc kệ gã tự sinh tự diệt, không đợi Ngọc Phi Yến đưa ra quyết định, cô đã tự mình dùng dao cắt hai đoạn dây rừng, tận dụng áo mưa và dây thừng, chế thành chiếc cáng tạm thời. Cô cùng Karaweik, hai người khiêng hai đầu cáng nhấc bổng Thảo Thượng Phi lên, xong xuôi mọi việc mới chịu khởi hành.

Mọi người tiếp tục tiến về con đường ngoằn nghoèo tựa mê cung ở phía trước sơn cốc, từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu con voi rừng Miến Điện từng đặt dấu chân qua nơi này để bước vào huyệt động vùi xương của tổ tiên, trong đó có nhiều con vì năm dài sức yếu, hoặc bị hại trong rừng nên đã gục ngã giữa đường, những hóa thạch xương cốt còn sót lại chính là những tấm biển chỉ đường liên tục cho đội thám hiểm lần mò đến vị trí động huyệt ma mút.

Hội Tư Mã Khôi lần theo dấu vết của di hài voi rừng, đi khá sâu vào trong sơn cốc, đột nhiên từng cơn gió núi âm u lạnh buốt thổi đến. Ngọc Phi Yến tự lẩm bẩm trong miệng: “Bão nhiệt đới đến rồi…”, chỉ thấy màn sương mờ trong khe núi vén ra một nửa, tầm nhìn trở nên khoáng đạt hơn nhiều, mọi người dừng bước thăm dò tứ phía, nom trong lòng núi có rất nhiều huyệt động liên thông với nhau, trong động chất chồng cơ man nào là xương voi, chúng đè lên nhau tầng tầng lớp lớp, đống xương voi đó đã tích tụ bao đời, cao ngất ngưởng như những ngọn đồi gò, xương và ngà đan cài, xen lấn.

Nơi sâu nhất trong động huyệt ẩn chứa cửa đá, địa đạo, mặt đá được mài nhẵn nhụi, bằng phẳng như loại đá Đại Lí, gần như tất cả mọi nơi đều trang trí bằng những bức phù điêu, từ những vết tích dây leo và rễ cây xâm thực vào khe nứt của bức tường, có thể thấy nó đã có từ hàng ngàn năm trước, nhưng không rõ vì nguyên do gì mà tất cả những bức phù điêu đó đều bị phá hủy hoàn toàn, chẳng hề lưu lại chút thông tin nào cho hậu thế đọc hiểu. Những bộ phận bị cố ý phá hại, hủy hoại dường như là một bức bình phong dày dạn chắc chắn, gạt không đi, chùi không sạch, ngầm che giấu những “bí mật” vô cùng vô tận của núi Dã Nhân.

Con đường địa đạo ăn thông ra ngoài núi, tận cùng là một cánh cửa bằng đá đã bị sụp mất một nửa, phía ngoài mọc đầy cây cối um tùm, những cây cổ thụ không hoa không trái cao to lừng lững một vòng tay ôm không xuể, tán lá rủ xuống đất, tứ phía sương khí quánh đặc bay là là, khiến tầm nhìn bị hạn chế nội trong vòng mười bước. Đứng giữa mê cung thiên nhiên này, bạn dễ nảy sinh cảm giác không biết mình đang ở chốn nào. Nghe tiếng sấm rền nổ ì ùng giao hòa lẫn nhau, thì biết cơn bão nhiệt đới Buddha đã bắt đầu những đợt tấn công đầu tiên. Màn sương mù dày đặc bao trùm khắp núi Dã Nhân cũng bị cơn cuồng phong thổi cho tan tác, không gian xung quanh liền chìm vào màn đêm đen thui như ngày tận cùng của thế giới. Tuy những rặng núi nhấp nhô cuối cùng cũng phải tạm thời trút bỏ tấm mạng trắng huyền bí ra khỏi gương mặt nhưng thay vào đó lại bị mảnh vải đen dày bì nặng nề che phủ kín mít.

Mọi người đành phải giơ tay ra sờ sệt trong bóng tối, dò dẫm từng bước lên chỗ cao hơn, đúng lúc đợi lên chỗ cao để nhìn xuống xác định vị trí khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, chẳng ngờ vừa định với tay lên sườn núi, thì đột nhiên “xoẹt” một dải trắng sáng như băng tuyết, một lằn chớp ngoằn nghoèo như rắn lượn vụt lóe lên phía đường chân trời.

Mọi người đều bị giật mình bởi tia sét, bất giác ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ lại thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bay rè rè ngay sát khoảng không trên đỉnh đầu, khoang máy tối hù hù, không một tia sáng, động cơ ở cánh máy bay đã ngừng hoạt động, cả chiếc máy bay giống như một “chiếc bóng đen” im hơi tịnh tiếng. Trong cơn cuồng phong vần vũ dưới tầng mây đen, chiếc máy bay điềm nhiên bay lượn với độ cao rất thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa.

Đây quả thực là cảnh tượng ngoài sức tưởng tượng, dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt như vậy, tuyệt đối không thể có tay phi công nào đủ gan dạ lái máy bay phi hành qua khu vực này, ngoài ra chiếc phi cơ từ trong ra ngoài chẳng hề có ánh sáng, ngay cả tiếng quay của động cơ cũng hoàn toàn ngưng bặt, tất cả đều đen thui, im lìm như thể bên trong khoang chẳng hề có người sống.

Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như điện giật, trong ánh sáng chói lòa, trắng bệnh của những đường chớp, mọi người thấp thoáng nhìn thấy biểu tượng rắn đen trên thân máy bay. Sấm chớp trườn qua vòm trời cũng chỉ trong thời gian nháy mắt, nên cho dù muốn phân biệt rõ ràng hơn chút nữa, thì xung quanh lại một lần nữa chìm vào màn đêm đen như mực. Chiếc bóng máy bay ma quỷ giống như oan hồn kia cũng vụt biến mất vào bóng tối mênh mông.

Mọi người quá bàng hoàng trước những gì vừa nhìn thấy, ai nấy kinh ngạc đến mức miệng không khép lại được, nửa phút sau mới có thể định thần trở lại, chẳng ai hẹn ai mà người người nào người ấy đều giơ tay dụi mắt, còn cho rằng lúc trước chắc mình bị hoa mắt. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải vừa lượn vèo qua đầu khi nãy, trên thân có khắc biểu tượng con rắn đen với hình thù quái dị, rõ ràng nó hoàn toàn trùng khớp với chiếc máy bay trong ảnh. Nếu phán đoán theo lẽ thường, thì chiếc tiêm kích vận tải rắn đen của không quân Hoàng gia Anh áng chừng đã mất tích ở núi Dã Nhân vào năm 1948, cách biệt một khoảng thời gian hai mươi mấy năm, làm sao nó có thể tiếp tục bay lượn giữa không trung trong khu vực núi cho đến tận hôm nay?

Khu vực lân cận phần đa đều là những vùng “sơn địa thấp” nhấp nhô, bị rừng rậm che phủ, theo độ cao phi hành khi nãy của chiếc máy bay, thì có lẽ nó phải bị va quệt vào những đỉnh núi, sau đó rơi xuống rừng rậm mới đúng, nhưng nhìn chăm chú một hồi lâu, phía trước vẫn chỉ là màn đêm u tịch, chẳng thấy xuất hiện âm thanh vang trời và ánh lửa ngùn ngụt bốc cháy do chiếc máy bay rơi phát nổ, nó như thể chưa từng thực sự tồn tại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng sấm kinh thiên động địa, rền vang khắp núi Dã Nhân.

Hồi 5: Stupa

Sấm vang chớp giật, trấn động cả vùng núi hoang dã, mây đen dày đặc vần vũ khắp bầu trời, hốt nhiên xuất hiện chiếc tiêm kích vận tải lặng lẽ như bóng u linh, nó lượn qua đỉnh đầu mọi người, rồi lặng lẽ biến mất trong màn đêm thăm thẳm.

Có người nhiều lần từng nhìn thấy bóng dáng những “con tàu ma” lảng vảng trong khu vực tam giác Bermuda, cũng có những quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm mấy chục năm về trước, đến nay vẫn lởn vởn ngao du trên mặt biển. Nhưng từ trước đến nay chưa hề nghe ai nói, trên bầu trời sẽ xuất hiện một chiếc “máy bay u linh” đã mất tích từ hơn hai mươi năm trước.

Trên mỏm núi, đội thám hiểm ai nấy đều tròn mắt kinh ngạc nhìn chăm chú, quả thực khó mà tin được những gì vừa nhìn thấy, lẽ nào chiếc máy bay vừa lượn sát mặt đất khi nãy đúng là chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Anh bị mất tích trong khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân? Rốt cục nó là thực thể hay u hồn? hay chỉ là hình ảnh còn lưu lại từ mấy chục năm trước được truyền dẫn qua sóng điện mây mù, giống như chiếc bóng ảo ảnh xuất hiện bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng?

Ngọc Phi Yến thầm hoang mang trong lòng, giờ đây lại không có Khương sư phụ kinh nghiệm lọc lõi ở bên cạnh, cô càng cảm thấy đơn thương độc mã hơn bao giờ hết, không nhịn nổi liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Anh nghĩ vật chúng ta vừa nhìn thấy là vật gì vậy?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cô là thủ lĩnh, lại là dân hối tử trộm mộ, chuyện người sống cô hiểu rõ hơn tôi, chuyện người chết cô cũng thông thạo hơn tôi, bây giờ đến cô còn chả biết thì tôi biết thế quái nào được?”

Ngọc Phi Yến hận Tư Mã Khôi đến nỗi nghiến răng ken két, nhưng cũng không biết phải làm sao: “Bây giờ tôi cũng chẳng có cách gì giải thích, nhưng tôi thấy chiếc máy bay tiêm kích bay trên trời hình như hướng về mỏm núi phía đối diện, chúng ta đành bám đuôi xem rốt cục nó là gì, rồi phân tích phán đoán sau cũng chưa muộn”.

Tuy chưa đến lúc mặt trời lặn, nhưng dưới ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới cuồng bạo, trên đầu mây đen bủa vây, cả vòm trời đen thui như đít nồi, cho dù hai người đứng gần nhau mặt đối mặt, thì vẫn chẳng thể nhìn rõ đối phương, những dụng cụ chiếu sáng mang theo người giờ đây gần như không thể phát huy tác dụng. Đội thám hiểm chỉ còn biết mượn ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi của những tia sét rạch ngang bầu trời, họ đi xuyên qua cánh rừng rậm um tùm, truy lùng theo phương hướng mất hút của chiếc bóng máy bay quái dị, gian nan tiến từng bước về phía trước.

Cơn cuồng phong ù ù gầm rít thét gào, cuốn cả cánh rừng nguyên sinh trong núi Dã Nhân vào vòng xoáy của nó, tiếng sấm réo ùng ùng ngầm dự báo cơn mưa dữ dội như trút nước sắp chuẩn bị tràn về. Dưới sự công kích của cơn bão nhiệt đới hung bạo, gần như tất cả khu vực trong rừng đều trở nên nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có khả năng xảy ra lũ lụt, lở đất trượt đá.

Nhưng căn cứ theo ghi chép của không quân Anh để lại, thì khe cốc khổng lồ nằm ở phần bụng núi Dã Nhân, là một nơi có dải địa hình tương đối hiếm có, nó vốn là hẻm núi được hình thành do lòng núi khô cạn bửa ra làm đôi. Nếu dùng cách miêu tả trực quan hơn, thì khe cốc khổng lồ này chính là một tòa động huyệt nằm ẩn sâu dưới lòng đất, có thể suy đoán, nó được hình thành bởi những mạch nước không ngừng lõm xuống từ hàng triệu năm trước, độ sâu lên đến hàng ngàn mét, hướng chạy của sơn động gần như vuông góc với mặt đất, cửa động tương đối nhỏ hẹp, càng vào trong càng rộng rãi hơn, đây là một hiện tượng địa chất vô cùng đặc biệt, nó không dễ bị lũ lụt từ những nơi thấp đổ về. Đối với đội thám hiểm mà nói, trong điều kiện thời tiết ác nghiệt như hiện nay, chỉ cần nghĩ cách tránh không để đất đá trong lòng núi sụt lở rơi trúng người, thì vào sâu trong lòng động lại là biện pháp tương đối an toàn hơn cả.

Ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ, quanh năm sương khí mịt mù, chẳng ai rõ rốt cục đám sương mù dày đặc đó là thứ gì, càng không rõ căn nguyên xuất hiện của nó. Mấy chục năm trước, chiếc tiêm kích vận tải của quân đội hoàng gia Anh rơi xuống núi, lại vừa vặn mất tích trong biển sương mênh mông. Khi ấy, do ảnh hưởng của việc thay đổi thời tiết, vị trí của mây mù xuống tương đối thấp, có thể thấp thoáng nhìn thấy cửa động sâu hun hút của khe cốc, vậy mà trải qua một quãng thời gian dài, lượng sương mù từ nơi sâu trong khe cốc đã trào ra, phủ kín khắp phạm vi mấy chục dặm bán kính vuông, thành ra rất khó phán đoán vị trí của nó một cách chuẩn xác.

Đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, vốn định thông qua con đường Stilwell để tiếp cận khe cốc, như vậy sẽ tránh được những trở ngại do các nhân tố tự nhiên bao vây phía ngoài núi Dã Nhân gây nên, rồi từ động huyệt dưới lòng đất tìm kiếm lối ra bị sương mù che khuất. Kế hoạch là vậy nhưng trong thời gian thực hiện lại có quá nhiều biến cố xảy ra, giờ đây khí hậu thay đổi dữ dội, trong biển cây cối xanh mênh mông, rất khó phán đoán chính xác phương vị. Cả đội đành phải hành sự theo diễn biến tình hình thực tế, đổ ra truy lùng cái bóng bí ẩn của chiếc phi cơ ma quỷ biến mất sau mỏm núi. Đây là đầu mối duy nhất hiện có trong tay, đồng thời cũng là tia hi vọng sống còn của cả đội.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải lần mò từng bước trong rừng rậm đi trước mở đường. Tất cả những gì tầm mắt có thể nhìn thấy chỉ là tàn tích của những bức tường thành tan hoang sụp vỡ, trải qua bao bãi bể nương dâu, bị gió mưa xâm thực phá hủy. Tháp cổ đổ nát khắp nơi, chỉ còn lại mỗi cái móng trơ gan cùng tuế nguyệt. Thấp thoáng ẩn hiện dưới bức màn thảm thực vật um tùm dày kín là một bức tượng điêu khắc hình đầu người to lớn khác thường nằm đổ ngang trên mặt đất, từ sau những rễ cây cổ thụ đan kết ngoằn nghoèo chồng chéo lên nhau, đôi mắt tượng chiếu ánh nhìn đăm đăm khiến người ta không khỏi cảm thấy rợn tóc gáy.

Càng đi vào sâu, vết tích càng nhiều, rõ ràng trong những năm tháng xa xưa đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu, núi Dã Nhân quả thực từng có một thời đoạn lịch sử rất đỗi huy hoàng trần phong, rốt cục đó là nền văn minh hiển hách như thế nào? Vì sao lại không hề có bất kỳ tài liệu ghi chép liên quan nào? Và ai xuất phát vì mục đích gì mà cố tình hủy hoại tất cả những vết tích cổ xưa vốn có thể vén bức màn bí mật che đậy gương mặt thật của nó?

Dân gian Miến Điện lưu truyền một thuyết pháp: “Để bảo vệ bí mật chôn vùi trong núi Dã Nhân, người xưa đã cài đặt trùng điệp những cạm bẫy và trở ngại, bất kỳ kẻ nào vọng đồ rình trộm bí mật này, đều dính lời nguyền tà ác, cho dù chết đi cũng khó lòng giải thoát”. Bởi vậy người bản địa sợ núi Dã Nhân hơn cả sợ quỷ, không ai dám lại gần nó nửa bước.

Rất lâu trước đây, Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những truyền thuyết này, lúc đó anh còn không tin lắm, nhưng giờ đây khi bản thân cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, mới hiểu trong núi Dã Nhân quả thưc ẩn chứa quá nhiều bí mật. Tuy anh tham gia quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện gần chục năm nhưng lại không biết rõ lắm về lịch sử cổ đại của Miến Điện, Campuchia. Anh vừa đi vừa hỏi Ngọc Phi Yến ở phía sau: “Theo cô, trong núi có mộ cổ không?”

Ngọc Phi Yến trả lời: “Tôi chưa bao giờ nghe nói trong núi Dã Nhân có huyệt mộ gì cả, những nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam v.v… đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, lăng tẩm các đế vương quý tộc trong lịch sự đều vô cùng chú trọng đến vấn đề “thành phủ thâm u”, tất cả những di tích mà chúng ta vừa gặp trên đường tuy rằng cổ quái nhưng không giống với hình dáng những loại tồn tại trong mộ táng. Về điểm này, tôi khẳng định không thể nhìn lầm”.

Tư Mã Khôi nói: “Nhưng ngọn núi sâu này lại có vẻ còn thần bí hơn cả thành phủ trong mộ cổ, xem ra việc tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích của quân Anh còn khó khăn gấp nhiều lần so với dự tính. Theo tôi đoán, khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân quá nửa là tồn tại một vật gì đó mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi”.

Ngọc Phi Yến cũng có cùng linh cảm như vậy, cô gật đầu nói: “Đúng là một cõi u mê tăm tối, nghe vô thanh, nhìn vô ảnh, thần quỷ khó lường…”, đang nói nửa chừng, bất chợt cuồng phong kẹp vô số những giọt mưa to như hạt đậu nành từ giữa không trung xối xả dội xuống, đánh rát cả mặt, mọi người không thể ngẩng mặt lên nổi, Ngọc Phi Yến hạ kính chắn gió trên mũ dã chiến xuống, sau đó đưa mắt nhìn lên nơi cao, thúc giục hội Tư Mã Khôi: “Trận mở màn của Stupa đã bắt đầu, nếu các anh không muốn mất mạng, thì phải đi nhanh hơn mới được”.

Tư Mã Khôi biết, trong tiếng Miến Điện, “Stupa” là phiên âm của từ “Buddha”. Nghe nói từ này bắt nguồn từ Ấn Độ, nước lân bang phía tây Miến Điện, chính xác hơn thì đó là tiếng Phàn của người Ấn Độ cổ, nghĩa gốc của nó vốn để chỉ tháp cổ, còn có nghĩa là ngôi mộ hình vuông hoặc hình tròn, bởi vì tháp ở Ấn Độ đều là những mộ phần để an táng thi hài các bậc thánh tăng hoặc nơi cất đặt xá lị Phật tổ. Bởi vậy từ Buddha, ngoại trừ chỉ tháp Phật ra, còn ngầm có một tầng ẩn ý ám chỉ việc “mai táng”.

Chẳng rõ ai đã đặt tên cho cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương, di chuyển với tốc độ 140 km/h này là Stupa. Nhưng theo thông lệ từ trước đến nay, phàm những cơn bão có tên hiệu liên quan đến thần phật, thì cấp độ đều không thể là loại nhỏ, nó chắc chắn sẽ mang theo thiên tai với quy mô nhất định. Những nơi bão quét qua đều khiến nhà đổ cửa sập, ngay cả cây cổ thụ ngàn năm tuổi cũng bị nhổ bật gốc, sức tàn phá của nó giống như sức mạnh vô biên của Phật tổ, tát bể rời non, khiến chúng sinh chốn trần gian khốn đốn, không thể chống cự.

Miền Trung và miền Nam Miến Điện là khu vực đồng bằng bình nguyên, thuộc dải khí hậu nhiệt đới gió mùa mang theo mưa lớn, nhưng sang miền Bắc, địa hình bắt đầu thay đổi với hệ thống đồi núi phức tạp, càng ngược về Bắc càng xuất hiện nhiều núi cao vực thẳm, rừng sâu cốc hẹp. Còn về khu vực núi Dã Nhân, thì hẳn là nơi đường xa, núi hiểm, từ xưa đến nay thủy chung rơi vào trạng thái tuyệt đối kín bưng. Cơn bão nhiệt đới từ vùng ven biển cập vào đất liền, sau khi xuyên qua vùng bình nguyên rộng lớn ở Miến Trung, thì lại gặp sự cản trở của vùng sơn địa, khiến sức gió dần dần giảm xuống, bởi thế nếu là những cơn bão có quy mô nhỏ thì rất khó chạm tới núi Dã Nhân. Nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới Buddha thực sự cuồng bạo, dữ dội chẳng khác chi Stupa, nên núi Dã Nhân Bắc Miến mới đành thúc thủ chịu sự khảo nghiệm hà khắc của trời đất. Thảm thực vật sinh sôi nảy nở um tùm rậm rạp ở đây, cùng với vô số động huyệt nông sâu khác nhau đều là những tác nhân khiến địa tầng và lòng núi trở nên yếu ớt khác thường, nếu không tìm được nơi ẩn nấp an toàn thích hợp, thì dãy núi cao chập trùng bị rừng nguyên sinh che phủ này thực sự sẽ trở thành mộ địa chôn thây tất cả các thành viên của đội thám hiểm.

Tư Mã Khôi tự biết cân đối nặng nhẹ, hiểu rằng không thể lề mề chậm chạp, anh và Hải ngọng hai người đội mưa to gió lớn, liều mạng phạt đứt những lùm cây bụi dây leo rậm rịt cản đường, gắng sức leo lên các mỏm núi phía trên cao. Tư Mã Khôi cũng liệu định trước, nơi sâu trong khe cốc ở núi Dã Nhân chắc chắn mai phục vô số hiểm nguy ghê gớm. Trước đây, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm và phân đội cứu nạn đặc phái của quân đội đều đứt ở trong này, quân Anh, quân Mỹ hoàn toàn bó tay bất lực với nó, so với đội quân được trang bị vũ khí khoa học tối tân đặc biệt, thì mấy kẻ sống sót vừa may mắn bước ra từ lãnh địa của thần chết như hội anh có thể tìm thấy món hời gì ở nơi đây? Nhưng tình thế ép người ta làm liều, biết rõ đã đi là chẳng còn đường về, nhưng cũng không thể không hô quyết tâm mà ngẩng đầu ưỡn ngực lao vào.

Đội thám hiểm dò dẫm đi từng bước nơi gần đường gờ của mỏm núi, trong cơn mưa như trút giăng mắc mịt mùng khắp cánh rừng, mượn ánh sáng của sấm chớp, mọi người nhìn thấy lòng núi dưới chân gồ đội lên như hình nón, trong khi chóp nón giống như bị ai đó phạt đứt, lộ ra một hẻm núi khổng lồ, rộng rãi, sâu hun hút, vết nứt không theo quy tắc vươn dài ra hai đầu Nam Bắc, dài đến mười mấy dặm, chỗ hẹp nhất cũng rộng không dưới trăm mét, giống như một cái miệng rộng ngoác, đen ngòm đang há to trên bề mặt núi, dường như cánh cửa thông với địa ngục đang mở ra ngay trước mắt.

Phần lộ ra trong lòng núi là những tầng nham thạch màu xanh đen, treo lủng liểng vô số loài dây leo, khiến nó trông càng sặc sỡ và quái dị hơn. Mưa gió từng cơn nối tiếp từng cơn, khiến màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất bị tiêu tan hoàn toàn, nhưng ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân vẫn miên man mây mù, u tối mênh mông, chẳng thể nhìn thấy đáy.

Trước đây, mọi người không chỉ một lần thử tưởng tượng, xem khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân nơi chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích, rốt cục trông như thế nào, nghĩ đĩ nghĩ lại, thì chẳng qua cũng chỉ hình dung nó là một hẻm núi sâu trong lòng núi, nó chắc chắn không thể hùng vĩ nguyên thủy như hẻm núi Grand Canyon ở Mỹ, cũng không thể khí nuốt vạn tượng như thung lũng chữ thập ở Châu Phi, chỉ có điều nó là một động huyệt nằm sâu dưới lòng đất và hướng chạy dựng đứng mà thôi.

Nhưng đến tận thời khắc này, khi mọi người mạo hiểm băng qua làn mưa như thác đổ, đứng trên mép vực của sơn cốc, mới thực sự cảm nhận một cách sâu sắc về địa thế đáng sợ, nguy hiểm tột cùng của nó. Những người từng tận mắt chứng kiến, đều không thể không kinh hoàng. Bởi đứng trước nó sẽ khiến bạn vô thức nảy sinh ảo giác như thể đang đứng trước vực thẳm sâu vạn trượng, chỉ cần nhìn lâu một chút sẽ lập tức hoa mắt chóng mặt, dường như dưới lòng đất có một thế lực khủng bố vô hình nào đó đang tồn tại, khiến người ta lạnh thấu tim phổi. Đó là cảm giác trấn động chân tâm khó có thể diễn tả bằng lời, là sự trống rỗng từ một nơi xa xôi, sâu thẳm nào đó trong linh hồn, là nội hàm to lớn không thể đo lường.

Hồi 6: Cường quang

Cùng với sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha, mưa gió càng ngày càng trở nên hung bạo. Quần thể thực vật trong rừng rậm nguyên sinh phân bố cao thấp, giao hòa vào nhau, một số thân cây có rễ ăn nông trên mặt đất, độ bảo vệ và bám víu không được chắc chắn lắm, liền bị cuồng phong thổi bật gốc, hoặc nếu không cũng bị phạt đứt ngang thân, một số thực vật khác to lớn lực lưỡng, sức sống tương đối bền bỉ dẻo dai hơn thì cũng bị cuồng phong quật nghiêng ngả theo luồng gió cuốn. Giông tố cuồng phong và sấm vang chớp giật gầm réo khắp không trung, nuốt chửng tất cả âm thanh dưới vòm trời.

Hội Tư Mã Khôi đứng trên mép sơn cốc, tay bám chặt lấy mấy thân cây cổ thụ to đến một vòng ôm không xuể trên mỏm núi, nằm rạp xuống đưa mắt ngó xuống đáy hẻm núi, thì cảm thấy mưa gió mỗi lúc một mạnh bạo hơn, trận mưa này đúng chẳng khác nào đổ nước biển Đông, trút sông Ngân Hà, mỏm núi giờ không còn là chỗ có thể trú chân an toàn được nữa. Nhờ vào ánh sét sáng trắng rạch ngang bầu trời, có thể nhìn thấy dây leo bám chằng chịt vào bức tường cổ trong lòng hẻm núi, vách treo dựng đứng, hướng đi gần như vuông góc với mặt đất, nơi sâu nhất mây mù dày đặc mênh mang, hoàn toàn che khuất tầm nhìn, dây thừng đội thám hiểm mang theo chỉ có hạn, mà cho dù buộc tất cả dây thừng lại với nhau, rồi thả xuống lòng động huyệt sâu không thể lường này, thì chắc chắn cũng chẳng thể vươn tới đáy.

Đang đợi tìm một chỗ có thể trèo xuống, nào ngờ chiếc cáng mà Tuyệt và Karaweik đang khênh không chịu nổi sức gió, vừa bị cuồng phong tạt một cái, phút chốc đã căng như cánh buồm, Thảo Thượng Phi đang nằm trong cáng, người gầy khô chỉ còn lại nắm da bọc xương, chẳng địch lại nổi, một trận cuồng phong quét qua khiến cả người lẫn cáng đều bị cuốn vào không trung, nhẹ như cánh hoa bay theo chiều gió.

Tư Mã Khôi phát hiện chiếc cáng tuột ra khỏi tay Tuyệt, ngay sau đó nhìn thấy một bóng người vụt qua trước mắt, liền vội vàng giơ tay định bắt, nhưng lại tóm hụt, trong cơn cuồng phong giông tố mà cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, trước mắt chỉ nhìn thấy một màn đêm đen xì xì, trong chớp mắt đã chẳng nhìn thấy thân thể Thảo Thượng Phi rơi về phương nào. Tư Mã Khôi khẽ thở dài, lòng thầm nghĩ nếu có trách thì chỉ biết trách cái tên Thảo Thượng Phi đặt không hay, kiếp sau có lẽ nên đổi là “Trùy ngàn cân” mới thỏa đáng.

Lúc này, khu vực gần mép núi đã chẳng thể trú chân được nữa, may mà còn nhìn rõ địa hình, mọi người đang định đội mưa gió rút lui xuống sườn núi, tìm một nơi nhỏ hẹp bằng phẳng hơn tiến xuống đáy sơn cốc, nhưng dưới áp lực của gió bão hung dữ, ngay bước chân cũng không di chuyển nổi, cả cây cổ thụ đang bám trong tay cũng bị gió thổi ngả nghiêng như muốn đổ gục, giờ đây đúng là tiến thoái lưỡng nan.

Ngọc Phi Yến nhận thấy trên núi quá sức nguy hiểm liền vội vàng huých Tư Mã Khôi, ra hiệu cho mọi người phải tức khắc mạo hiểm bò xuống dưới sơn cốc. Tư Mã Khôi cũng biết đây là kế sách duy nhất có thể thực hiện trong lúc này, liền nắm lấy tay Karaweik, bảo cậu bé hãy theo sát mình, rồi tóm lấy một sợi rễ cây cổ thụ to như cánh tay người, từ từ tụt xuống dưới.

Lòng sơn cốc tuy cũng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới, nhưng dưới tác động của địa hình đặc biệt, ở nơi sâu có những dòng khí đối lưu quanh năm lượn vòng khiến mưa gió khó lòng xâm nhập vào bên trong. Từ vách đá bò xuống mấy chục mét, đã không còn cảm thấy tiếng gió thổi ù ù trên mặt đất, lượng mưa cũng giảm đi khá nhiều.

Tư Mã Khôi xuống đến độ sâu ngoài trăm mét, thì nhìn thấy sương khí dưới chân đặc quánh ngưng tụ, nếu còn xuống sâu hơn, thì sẽ lọt vào đám sương dày mênh mông. Loại sương mù đậm đặc này lai lịch bất minh, tuy bản thân sương mù hoàn toàn vô hại đối với cơ thể con người, nhưng nó cũng khiến những chất ô nhiễm trong không khí không dễ phát huy, rất có khả năng sẽ trở thành “sương mù sát nhân” khiến con người tử mạng.

Tuy cơn bão nhiệt đới Buddha khiến khí hậu thay đổi theo chiều hướng xấu, thổi tan tác đám sương mù trào ra từ lòng đất ở núi Dã Nhân, sương mù trong khe cốc khổng lồ cũng chịu sự áp chế của cơn giông tố, mà dần dần hạ thấp xuống với tốc độ chậm chạp. Nhưng trong động huyệt vẫn hoàn toàn bị mây mù che phủ kín mít, nông sâu khó lường, trong màn sương bí ẩn ngưng tụ không thể tiêu tán, tử khí bốc lên nặng nề, không rõ ẩn chứa những hung hiểm gì. Cho dù chiếc tiêm kích vận tải đúng thật rơi xuống chỗ này, nhưng đội thám hiểm phải đi vào màn sương mù hạn chế tầm nhìn đến cực độ, tiến hành tìm kiếm khắp khu vực rộng lớn, sâu hút như vậy, thì cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, cơ hội thành công rất đỗi mờ mịt, mong manh. Không những vậy, suốt chặng đường mệt muốn đứt hơi, mọi người đi đến đây đều sức cùng lực kiệt, cảm thấy khó có thể gắng gượng thêm được nữa.

Ngọc Phi Yến thấy đội thám hiểm đã thoát khỏi sự công kích của cơn bão nhiệt đới và vào đến lòng sơn cốc, theo tình hình lúc này, thì nên dừng chân hạ trại, không nên gấp gáp quá, kẻo cuối cùng lại hóa công cốc. Nghĩ vậy, cô ả bèn bảo mọi người ngừng chân nghỉ ngơi, đợi khi đám sương bí ẩn kia xuống thấp hơn nữa mới tiếp tục hành động.

Ở giữa hai vách đá trong lòng sơn cốc, mọi người tìm thấy một cái động lõm bị dây leo rừng phủ đầy, độ nông sâu rộng hẹp vừa đủ để mấy người bọn họ chen chúc chui vào, nhóm một đống lửa, hong khô quần áo vừa ướt sũng nước mưa, đồng thời giở lương khô ăn lót dạ, bên tai vẫn nghe thấy tiếng mưa rơi lào rào, trong những khe đá sát bên cạnh vẫn vọng lại tiếng gió càn quét ù ù. Cả đội trú chân ở nơi hiểm ác “đầu không chạm trời, chân không chạm đất”, trong lòng không khỏi thót tim quặn bụng, làm sao có thể yên tâm nghỉ ngơi.

Trong thời gian một ngày ngắn ngủi, Ngọc Phi Yến liên tục bị chặt đứt mấy thuộc hạ đắc lực như tay trái tay phải, trong lòng đương nhiên không tránh khỏi cảm giác đau buồn, hoảng loạn, ngẫm nghĩ thấy giờ đây bên mình chỉ còn lại mỗi gã Gấu trắng người Nga, mà người này vì tránh né sự thống trị của bức màn sắt Nga – Xô Viết, mới chạy lưu vong sang dải đất Đông Nam Á, gã từng ở địa phận vô chính phủ khắp giữa ba nước Miến Điện, Campuchia, Thái Lan bán mạng cho quỷ dữ để trồng anh túc, việc giết người đối với gã đã trở thành bản tính, một khi thú tính trỗi dậy sẽ lập tức trở mặt không nhận người, sau đó do gây ra đại họa, bị người ta cắt mất nửa cái lưỡi, mới đành tháo chạy xuống eo biển Malacca, cuối cùng chuyển đến đầu quân làm thuộc hạ của Ngọc Phi Yến, hắn ta tính tình hung tàn, lạnh lùng, tâm địa khó dò, không đáng tin cậy.

Lúc này, người mà Ngọc Phi Yến có thể gửi gắm niềm tin và hi vọng chỉ có bốn thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện mà thôi. Lúc đầu cô ả chỉ định dẫn theo Karaweik – cậu bé có thể tìm thấy con đường U Linh và thông thạo khu vực chôn vùi địa lôi ngầm, nhưng giờ đây, khi ngoái đầu nhìn lại chặng đường đã qua, cũng may nhờ lôi kéo Tư Mã Khôi vào nhập hội, nếu không hậu quả thực chẳng dám nghĩ đến. Ngọc Phi Yến dự định sau khi mọi việc thành công, sẽ lôi kéo, mua chuộc mấy người này gia nhập băng đảng của mình, cái cô tinh thông y thuật, giỏi nắn xương tên là Tuyệt gì đó còn có vẻ dễ thuyết phục, chứ hai gã Tư Mã Khôi và La Đại Hải tính tình quái đản, cứng mềm đều chẳng ưa, phải nói thế nào mới khiến họ động lòng đây? Từ trước đến nay, Ngọc Phi Yến là người đa mưu túc trí, rất giỏi lung lạc lòng người, chỉ cần động não một chút, liền nghĩ ngay ra kế sách. Nhân thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, liền tìm đầu mối nơi Karaweik trước tiên.

Ngọc Phi Yến phát hiện cậu bé cực kỳ nhát gan, từ khi vào trong sơn cốc đến giờ cứ mãi sợ hãi đến nỗi hai hàm răng liên tục đánh cầm cập vào nhau, chẳng mở miệng nói nổi nửa lời, liền rút một miếng ngọc phỉ thúy hình ống ở trong người ra. Tổ tiên cô ả từng là giai cấp quý tộc giàu có hiển hách, miếng ngọc phỉ thúy này là một trong những báu vật gia truyền của tổ tiên, nếu bỏ nó vào chậu thau đồng đựng đầy nước sạch, sẽ phát ra ánh sáng xanh biếc sóng sánh ngập chậu, miếng ngọc quả thực là vật khác thường, vì nó còn có khả năng giúp chủ nhân tránh tà chặn nạn.

Ngọc Phi Yến cầm miếng ngọc bội, luồn sợi chỉ đỏ vào, rồi đeo lên cổ Karaweik, đồng thời nói cho cậu bé rõ tác dụng thần kỳ của nó.

Tuyệt thấy Karaweik có vẻ ngơ ngác không hiểu gì, thì nói với cậu vật này vô cùng quý giá, bảo cậu phải mau cảm ơn Ngọc Phi Yến.

Ngọc Phi Yến thầm đắc ý trong lòng, đang định nhận Karaweik là đồng hương, rồi nhân cơ hội này khiến hội Tư Mã Khôi thu nạp mình vào nhóm. Ai ngờ Tư Mã Khôi nhìn cũng chẳng thèm nhìn miếng ngọc phỉ thúy gia truyền của cô ả, quay ngoắt sang hỏi Ngọc Phi Yến: “Không có công lao mà nhận bổng lộc, e rằng ăn không ngon, ngủ không yên. Thằng nhóc Chủ Nhật này là anh em của tôi và La Đại Hải, cô tặng cho nó vật quý giá như vậy, thì bọn tôi cũng phải tặng lại cô một vật mới phải đạo chứ”.

Ngọc Phi Yến biết thái độ này của Tư Mã Khôi tức là anh không chịu nhận lễ, đang ngầm tỏ ra bất cần, liền thầm nghĩ: “Gã tiểu tử này trên người có vật gì đáng đem ra so sánh với miếng ngọc gia truyền của tổ tiên nhà mình, mà dám mặt dày mang ra đáp lễ?”

Tư Mã Khôi đọc được ý nghĩ của cô ả, liền bảo cô đừng coi thường người ta quá đáng như thế, chớ quên thuyền rách cũng còn có ba ngàn cái đinh, gia tộc họ Thắng nhà cô có món đồ chơi gia truyền, thì chúng tôi cũng có vật ông bà cụ kị để lại chứ, nói xong liền quay sang La Đại Hải liếc mắt ra dấu, ý bảo anh hãy lôi vật nhà mình ra cho Ngọc Phi Yến được mở rộng tầm nhìn.

Từ trước đến nay La Đại Hải và Tư Mã Khôi làm việc rất ăn ý, anh gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi lộn ngược toàn bộ các túi trái phải trước sau trên người, cuối cùng cũng lôi ra được một cây móc ngoáy tai bằng đồng có khắc hoa văn, xem công nghệ có vẻ như là sản phẩm thủ công bản địa của người Miến Điện, tuy nhìn có vẻ khá tinh sảo, màu sắc có vẻ cũng đã lâu năm, nhưng ngắm thế nào thì cũng vẫn là loại hàng chợ, mang ra đặt ngang hàng với báu vật hiếm có khác thường của Ngọc Phi Yến, quả thực trông rõ rẻ tiền, kém phẩm chất, vật này thì có giá trị gì? Nếu lỡ rơi trên đường, sợ rằng của chẳng có ai thèm nhặt.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến nhìn chiếc ngoáy tai bằng đồng với con mắt đầy vẻ khinh thường, miệt thị, thì vờ cười nhạt một tiếng, nói với cô ả: “Thủ lĩnh! Chắc cô không hiểu về hàng họ lắm thì phải, có phải cô cho rằng vật trong tay anh em bọn tôi chẳng đáng hai hào mua cái lỗ đít gà không? Tạm thời chưa vội luận bàn đến việc đắt rẻ, nó thực sự không phải vật tầm thường đâu. Thực ra chắc cô không biết đấy thôi, chứ lúc cuối thời Thanh đầu những năm Dân Quốc, nó được mang ra từ đại nội hoàng cung đấy. Bao nhiêu năm qua, nó là bảo vật nhét đáy hòm nhà Hải ngọng, nếu chẳng phải đem tặng cho nhân vật có thân phận cao quý như cô, thì chúng tôi có sống chết gì cũng chả chịu mang ra đâu”.

La Đại Hải ở bên cạnh cũng giúp đánh trống gõ mõ, hai khóe mắt hoen hoen đỏ như thể đang xúc động dạt dào, ngậm nước mắt khuyên can Tư Mã Khôi: “Người anh em! Tớ suy đi tính lại, vẫn thấy không nỡ xa rời nó, chúng ta làm như vậy thực sự….thực sự rất có lỗi với tổ tông đó”. Nó đoạn liền định lấy vật đang ở trong tay Tư Mã Khôi mang đi.

Ngọc Phi Yến vốn dĩ cho rằng Tư Mã Khôi đang định giở trò với mình, nhưng nhìn sắc mặt trịnh trọng của bọn họ, quả không phải làm giả, chẳng lẽ mình lại nhìn lầm thật, nhưng xét cả tình và lý, thì đều nói không thông, chỉ đành hỏi lại: “Làm sao trong hoàng cung lại có loại hàng chợ này?”

Tư Mã Khôi cố tình ra vẻ bất lực nói: “Chúng tôi nói đến đâu thì biết đến đấy, hôm nay tôi kể lai lịch gốc gác của nó cho cô biết cũng chẳng hề gì, nhưng cô tuyệt đối không được loan truyền ra ngoài, vì đây chẳng phải chuyện gì phong quang cho lắm”. Ngọc Phi Yến càng cảm thấy quái dị hơn, bên trong còn có thể ẩn chứa chuyện gì không phong quang nữa đây? Thì nhìn thấy Tư Mã Khôi thò tay chỉ La Đại Hải, rồi trầm giọng nói với cô: “Chẳng giấu gì cô, cô đừng thấy Hải ngọng nói giọng khẩu âm Đông Bắc mà cho rằng cậu ta là người Đông Bắc, kỳ thực tổ tông mấy đời nhà Hải ngọng đều là người Bắc Kinh, dưới gốc rễ hoàng thành Bắc Kinh từ trước đến nay đều là nơi ngọa hổ tàng long, loại cao nhân nào mà chẳng có? Ông nội nhà Hải ngọng cũng không phải nhân vật tầm thường, mà là vị đại thái giám cuối cùng của vương triều Mãn Thanh, tên là Tiểu Đức Hải. Còn về vật này thì lai lịch càng không phải bàn, đó là vật ông nội Tiểu Đức Hải thuận tay dắt bò, tiện cầm luôn ra ngoài, lúc theo hoàng đế Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành đấy”.

La Đại Hải nghe xong suýt chút nữa thì ngất xỉu, chửi thầm trong bụng: “Tiên sư thằng Khôi, cậu đúng là đồ một bụng nước bẩn, thấy lời là chiếm, tớ đếch thấy ai thất đức hơn cậu, có ông nội nhà cậu mới là mẹ nó thái giám ấy”. Nói là nói vậy, chứ đến nước này, anh cũng đành tiếp tục nhăn mặt, thở dài than vãn với Ngọc Phi Yến: “ Cô nghe người ta nói thế cũng chẳng sao, nhưng đã nghe thì phải nghe cho rõ đầu cua tai nheo, thực ra nội tôi ông già chẳng phải hạng trộm cắp, tiện tay lấy đồ của người đâu, chỉ là muốn lưu lại chút kỷ niệm, cái này gọi là làm người không được quên gốc gác, sau khi nước Đại Thanh của chúng ta không còn, ông già ngày nào cũng lôi cái ngoáy dáy tai này ra lễ đủ ba lạy, khấu đầu đủ chín cái, ông già vào cung từ lúc sáu tuổi, hầu hạ thái hậu và hoàng thượng quá nửa đời người, mãi đến lúc chết vẫn chưa quên tận trung với chủ đấy….”. Nói đến câu cuối cùng, dường như hoài niệm lại chuyện cũ, cảm xúc dâng trào đến nỗi nghẹn ngào chẳng nói thành lời.

Tư Mã Khôi liền vội vàng cất lời an ủi: “Nô tài mà làm được đến như vậy, thì cũng coi là chẳng còn gì phải hổ thẹn với chủ nữa rồi”.

Ngọc Phi Yến nghe đến đây thì càng sinh nghi: “Ông Tiểu Đức Hải đã là thái giám trong Tử Cấm Thành, hơn nữa lại tịnh thân, vào làm quan lúc mới sáu tuổi, thì làm gì còn sinh con đẻ cháu được nữa?”

Tư Mã Khôi vội vàng che đậy hộ Hải ngọng, nói sau khi công công Tiểu Đức Hải xuất cung, chẳng phải ông ấy vẫn phải thành gia sống nốt quãng đời còn lại sao? Kết quả là ông ấy lấy một cung nữ già làm vợ, rồi nhận nuôi một đứa con trai lúc tuổi già xế bóng, để còn giúp mình dưỡng già đưa ma, tuy không phải cha đẻ, nhưng tình cảm cha con thân thiết chẳng chê vào đâu được, cái đó gọi là “không phải ruột thịt, mà còn hơn ruột thịt”, đây chính là điểm khiến người ta cảm động nhất trong gia đình nhà La Đại Hải.

Ngọc Phi Yến nhẹ gật đầu, trong lòng vẫn còn rất nhiều nghi hoặc không giải đáp được, bèn hỏi: “Vị công công Tiểu Đức Hải đã định lấy một vật trong cung ra ngoài, sao chẳng lấy vàng bạc ngọc ngà, hoặc chí ít cũng là tranh chữ, đồ cổ, mà lại lấy cái móc ngoáy tai mang về lót dưới đáy hòm?”

Tư Mã Khôi lại khua môi múa mép bịa một hồi, nói cô đừng coi thường cái móc ngoáy tai bằng đồng chính hiệu này, những bảo vật quốc gia đều danh tiếng đúng với thực tế, vì sao ư? Bởi vì nhìn một vật cổ, cô không thể phán đoán nó sang hèn dựa vào chất liệu, mà trước tiên phải xem giá trị lịch sử, thứ đến mới là giá trị nghệ thuật của nó.

Nghe nói từ thời Đại Minh, Hồng Vũ Đế nổi dậy, tắm máu trăm trận, cuối cùng cũng đẩy lùi nhà Nguyên lui về phía bắc sa mạc Gobi, phục hồi sơn hà nhà Hán chúng ta, sau loạn Yến Vương dẫn quân tạo phản, Hán Chiêu Đế giành được ngôi báu dựng đô ở Bắc Kinh, chăm lo trị quốc, nhờ thế đất nước được hưởng thái bình, trải qua bao nhật nguyệt vần vũ, vật đổi sao rời, việc này gọi là “hoa thơm không thường nở, cảnh đẹp chẳng thường thấy”, đến những năm cuối triều đại nhà Minh, triều đình thất chính, trong nhiễu ngoài loạn, dân chúng không thể yên ổn sinh sống, đầu tiên là Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh, bức tử hoàng đế Sùng Trinh ở núi Môi Sơn, thay đổi triều đại thời thế, thiên hạ bách tính cứ ngỡ từ nay lại được an cư lạc nghiệp, đâu ngờ lại xuất hiện tên Tổng binh Ngô Tam Quế nổi giận vì bị cướp mất hồng nhan tri kỷ, đã mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn vào, đội quân giáp sắt giương cao bát kỳ hành quân như gió cuốn tiến về Nam, đi đến đâu thắng như chẻ tre đến đó, cứ thế hùng cứ Trung Nguyên, nước Đại Thanh vẫn dựng đô ở Bắc Kinh, cô có biết vì sao không? Chỉ bởi vì vị hoàng đế Mãn Thanh đó cũng nhìn trúng ý địa hình Bắc Kinh của chúng ta, rõ ràng không phải hạng tầm thường, đất này phía bắc ngậm núi Yến Sơn, phía tây tiếp giáp núi Thái Sơn, Hành Sơn, phía Đông nuốt biển Bột Hải, phía nam trấn áp sông Hạ Thủy, núi Hoa Sơn, quả thật có thể gọi đây là “kim phủ thiên thành”, là nền móng không thể lung lay của vạn cổ ngàn năm.

Từ khi Mãn Thanh làm chủ Bắc Kinh đến nay, liên tiếp mấy đời minh quân thánh chủ, thấu thời độ thế, trọng dụng hiền tài, dân no nước đủ, trọng thị canh nông, bình định mọi cuộc phản loạn, ba phen quét sạch, cuối cùng cũng khiến bốn biển thống nhất, vạn dân quy thuận, nào ngờ, sau thời Khang Hy, Càn Long trị vì đất nước, lại chẳng ngăn cản nổi sự luân chuyển thịnh suy, phong vân biến đổi, cuối cùng cương triều bại hoại, đại cục hỗn loạn đến nỗi không thể dàn xếp nổi nữa, mắt nhìn liên quân tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu buộc phải hoảng loạn chạy trốn, trên đường khênh kiệu tháo chạy, thời tiết hanh khô, nước non thiếu thốn, mặt trời chói chang xuyên suốt tầng không, tịnh chẳng bóng mây, lão Phật gia trong người bốc hỏa, tai ù mắt mỏi, nỗi khổ chẳng thể nói thành lời, ngự y chữa trị nhiều phương pháp nhưng vẫn vô hiệu, đúng lúc sắp sửa hấp hối lìa đời, may mà có một vị cung sử theo hầu dâng lên một cái móc ngoáy tai lung linh bát bảo mà nước Xiêm từng cống tặng trước đây, sau khi được chính tay tổng quản thái giám Lý Liên Anh ngoáy tai lấy dáy ra, mang cục dáy đặt lên bàn cân, thấy nặng hơn hai hoa, Từ Hy thái hậu hạ được nội hỏa trong người, phút chốc cảm thấy tinh thần sảng khoái, tai thông mắt rõ, bởi vậy mà sống lại, trở về Bắc Kinh chủ trương nghị hòa với bọn giặc tây, ký kết hiệp ước Tân Hợi.

Có thể nói nếu lúc đó Từ Hi thái hậu không được ngoáy tai, thì bà ta đã chẳng thể bảo toàn tính mạng trở về kinh thành. Nếu bà ta không trở về, thì công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất của hoàng đế Quang Tự rất có thể đã thành công, còn ông cũng không cần uất ức đến phát bệnh, để rồi cuối cùng rơi vào thảm cảnh nuốt hận lìa đời. Có ai ngờ, chỉ mỗi chiếc móc ngoáy tai bé tí tẹo, lại trở thành vật chứng lịch sử chứng kiến sự thay đổi biến hóa của phong vân và những năm cuối của thời vãn Thanh bị tước quyền đoạt nước. Chẳng trách sau đó Lý Hồng Chương đại nhân lại cảm thán: “Nhọc nhằn thân ngựa đóng yên cương/ Đại sự chưa thành chết còn vương/ Ba trăm năm nước nhà suy bại/ Lủng lẳng xác dân treo dọc đường/ Thu phong bảo kiếm thầm rơi lệ/ Tà dương rọi bóng bức thành tường/ Ngoáy tai móc đồng, một báu vật(Vốn là: Phiêu du bốn bể lòng trĩu nặng)/ Đồng bào ơi hỡi, hãy lên đường”.

Đến lúc này Ngọc Phi Yến cuối cùng cũng hiểu, thì ra Tư Mã Khôi nói nhiều như thế, chẳng qua chỉ muốn thể hiện món đồ chơi rách của anh ta có giá trị phi thường, đủ sức ngang hàng với mảnh ngọc bội phỉ thúy mà mình vừa mang tặng Karaweik, tấm chân tình sâu nặng toàn tâm toàn ý phơi ra bị gã tạt một gáo nước lạnh. Đúng là minh châu bảo ngọc rơi vào tay kẻ mù, lòng tốt bị coi là lòng lang dạ sói. Càng nghĩ, cô ả càng tức lộn ruột, không nhịn nổi, đôi hàng lông mày thanh tú dựng đứng lên: “Anh coi thường tôi thế cơ à?”

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bị mình chọc tức đến nỗi gò má chuyển màu trắng bệch, nước mắt ầng ậng trực trào ra khỏi mi, trong lòng anh cũng không khỏi cảm thấy ái ngại, liền nói thẳng với cô cho rõ chuyện. Tư Mã Khôi khuyên nhủ cô cứ nhận lấy đi, tuy vật này không thể sánh với những vật cô từng nhìn thấy dưới mộ cổ, nhưng châu chấu đã nhảy vào chảo mỡ, ít nhiều gì thì cũng thành thức ăn mặn. Hơn nữa cô cũng đừng tốn công phí sức lôi kéo bọn tôi nhập hội làm gì, bao nhiêu năm nay, chưa có người nào sống sót thoát ra khỏi sơn cốc trong núi Dã Nhân. Lùi một vạn bước mà nói, cho dù chúng ta thực sự may mắn giữ được cái mạng mà ra được, tôi cũng chỉ hi vọng cô hãy thực hiện lời hứa lúc trước, dẫn Karaweik cao chạy xa bay, còn về chuyện ba người bọn tôi, cô đừng can thiệp vào nữa.

Thì ra ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt trước khi gặp nạn “Đỉa Campuchia” ăn thịt người, đã suy nghĩ rất kỹ, cho dù ba người mình may mắn mang được mạng sống rời khỏi núi Dã Nhân, thì cũng không định trốn ra nước ngoài. Bởi vì sang bên đó, trên người chẳng có sở trường, cũng chẳng có nổi nghề nghiệp nuôi thân, vì kế sinh nhai, chắc chắn sẽ bị người khác khống chế, sớm muộn gì mà chẳng theo Ngọc Phi Yến trở thành dân “Hối tử” trộm mộ.

Nghĩ đến kết cục mà hội Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp phải nhận, có thể thấy đúng thực “Người chết vì của, chim chết vì mồi”, bọn họ đều là những kẻ được người ta bỏ nhiều tiền ra thuê, kết quả bị chết oan uổng, bất minh trong cánh rừng nguyên sinh đoạt tuyệt với thế giới bên ngoài. Làm những phi vụ mang sọ dừa giắt trong cạp quần như vậy, ai dám đảm bảo một ngày nào đó chẳng gặp vận rủi, đâm đầu vào tay “hồn ma chết bất đắc kỳ tử” mà đền luôn tính mệnh. Nếu phải bán mạng cho bọn tài phiệt vì chút tiền bạc, để đến cuối cùng chết nhục nhã chẳng khác nào một con chó, thì chẳng thà cứ vượt biên trở về đất nước, đáng bị bắn thì chịu bắn, đáng bị ngồi nhà đá thì ngồi nhà đá, như vậy còn thoải mái, dễ chịu hơn nhiều.

Ngọc Phi Yến nghe mấy lời của Tư Mã Khôi, cơn thịnh nộ trong lòng cũng nguôi ngoai đi chút ít, nhưng vẫn còn chưa hết giận anh, đang lúc định nói với anh câu gì, đột nhiên một âm thanh cực mạnh từ đáy sơn cốc dội lên, mọi người biết chắc có chuyện chẳng lành sắp xảy ra, liền vội vàng thò người xuống nhìn, chỉ thấy trong lớp sương mù bí ẩn dày đặc phía dưới chân, phát ra mấy luồng sáng cực mạnh, không những vậy nó còn vô cùng chói mắt.

Ánh sáng cực mạnh chói lòa, xuyên qua từng tầng sương dày, lúc mờ lúc tỏ không ngừng lay động, nó dao động lắc lư liên tục khiến người ta hoa hết cả mắt, cùng với đó là âm thanh quái dị cứ “răng rắc răng rắc” như tiếng thân cây cổ thụ mục nát đang bị đổ sụp gãy gập, nghe mà sởn gai ốc, anh ngẫm nghĩ: “Mấy luồng sáng trong sương dày trông chói sáng lóa mắt thế kia, có khi phải mạnh gấp mười lần ánh sáng của đèn chiếu Halogen, chắc chắn không thể là ánh sáng của sinh vật. Lại còn âm thanh giống như tiếng cành gãy, rung lên từng đợt dưới khe cốc, đang di chuyển đi lên với tốc độ chóng mặt nữa chứ, rốt cục là vật thể gì phát ra tiếng động đó nhỉ?”

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #troc