mat ma tay tang tu luong son

Chương I: TIN MẬT CỦA HITLER

BÍ MẬT CỦA MẬT TU GIẢ

Thấy Cường Ba ý chí đã khôi phục, mọi người đều hân hoan cổ vũ, không tránh khỏi huyên náo một hồi. Nhưng chỉ chốc lát sau đó, một cô y tá đi vào nhắc nhở, nói bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, không nên chui rúc cả vào đây như thế này, để lại một hai người chăm sóc là được rồi, những người khác phải ra ngoài hết.

Lúc này Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh trở lại sau cơn say và sau những xúc cảm kích động dồn dập, nhưng lại không biết phải mở miệng hỏi thế nào. Giáo sư Phương Tân ở đầu dây bên kia dường như nhìn thấu tâm sự của gã, khi mọi người chuẩn bị ra khỏi phòng bệnh để Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn ở lại với nhau, giọng giáo sư liền vang lên qua loa máy tính: “Cánh Nam, đại sư nữa, về số tài liệu hai người gửi cho tôi đó, tôi vẫn còn vài vấn đề muốn hỏi, hai người ở lại một chút đã nhé.”

Trương Lập đề nghị, ở gần đấy có siêu thị, mọi người ra đó mua ít đồ.

Vậy là, Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La ở lại, còn những người khác đều ra ngoài mua sắm. Trong lúc y tá vào đo huyết áp, nhiệt độ cho Trác Mộc Cường ba, Lữ Cánh Nam nói chuyện với giáo sư Phương Tân. Sau khi cô y tá đi khỏi, Trác Mộc Cường Ba nhình bóng lưng Lữ Cánh Nam, thấp giọng thì thào hỏi: “Đại sư, có một chuyện tôi không được rõ cho lắm.” Gã ngưng lại giây lát, rồi hỏi thẳng: “tl, nd trở lại giúp tôi, điều này tôi có thể lý giải được; Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương tôi cũng có thể lý giải, nhưng trường hợp của đại sư và Cánh Nam thì khiến tôi lấy làm bất ngờ. Với năng lực và bản lĩnh của hai người, hoàn toàn có thể tìm được một đội ngũ tốt hơn nhiều, cho dùn gia nhập đội tìm kiếm của nhà nước cũng không thành vấn đề gì, đúng không? Tại sao hai người lại chọn tôi?”

Lạt ma Á La đứng lên, ra đóng cửa phòng bệnh. Lữ Cánh Nam chỉ liếc một cái, như đã sớm đoán được Trác Mộc Cường Ba sẽ chất vấn chuyện này. Lạt ma Á La bước trở lại giường bệnh của Trác Mộc Cường Ba, từ tốn: “Ừm, Cường Ba thiếu gia, có một số chuyện chúng tôi vẫn chưa nói với cậu. Hiện giờ, tôi nghĩ, cũng đã đến lúc phải cho cậu biết rồi.”

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, im lặng lắng nghe. Lạt ma Á La nói: “Năm xưa, toàn bộ đạo quân Ánh Sáng biến mất trong một đêm, chuyện này tuy rất bí mật, nhưng dù sao cũng để nhiều gia tộc lớn và hoàng gia hay biết rồi, nhưng vẫn còn một chuyện bí mật hơn, thậm chí cả hoàng gia năm đó cũng không hề biết đến. Đó chính là, không phải toàn bộ đạo quân Ánh Sáng đã bỏ đi, họ vẫn còn để lại ở thế giới này một cánh quân nhỏ. Cánh quân này, toàn bộ là những đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi, vẫn còn chưa hoàn thành quá trình huấn luyện, cũng có nghĩa là, những đứa trẻ này chưa phải là chiến binh thực thụ của đạo quân Ánh Sáng, mà chỉ là lực lượng dự bị, trong đó có rất nhiều đứa, thậm chí chỉ mới vừa được chọn vào huấn luyện mà thôi. Những đứa trẻ này, hoàn toàn không hề hay biết chuyện gì đã xảy ra với các thành viên trưởng thành của đạo quân Ánh Sáng, cũng không hề biết họ cất giấu bí mật gì, có lẽ chính vì lý do đó, chúng mới bị bỏ lại, bị giấu ở một nơi vô cùng bí mật. Tương truyền, những đứa trẻ này vẫn ở lại nơi bí mật đó, tiếp tục tiếp nhận huấn luyện từ những đứa lớn hơn, còn được lệnh không được ra ngoài, phải ở nguyên tại chỗ đợi đạo quân Ánh Sáng phái người đến đón đi. Nhưng chúng cứ đợi mãi, đợi mãi đến khi trưởng thành rồi mà vẫn không nhận được bất cứ tin tức gì liên quan tới đạo quân Ánh Sáng. Bọn chúng, đã bị bỏ rơi. Về sau, khi chúng ra khỏi sơn cốc bí mật đó, cao nguyên đã dấy lên vô số cuộc tranh đoạt, chiến tranh nổ ra khắp nơi, cánh quân bị đạo quân Ánh Sáng bỏ lại này trải qua nhiều trắc trở, cuối cùng đã phát triển thành một tồ chức đặc thì, được người đời gọi là Mật tu giả, cũng chính là … chúng tôi!”

Trác Mộc Cường Ba từ đầu chí cuối vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhưng nội tâm chấn động dữ dội, nếu không phải bị băng bó khắp người, chỉ e gã đã ngồi bật dậy từ lâu rồi. Mặc dù gã cũng mang máng cảm thấy lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam hình như có liên quan gì đó với đạo quân Ánh Sáng, thậm chí còn từng nghĩ rằng học chính là hậu duệ của bộ tộc Qua Ba, nhưng đáp án của lạt ma Á La vẫn khiến gã nhất thời khó mà chấp nhận nổi, thật không ngờ bọn họ lại chính là đạo quân Ánh Sáng! Gã liếc nhìn giáo sư Phương Tân đang nói chuyện với Lữ Cánh Nam qua máytính; chắc giáo sư cũng nghe thấy cuộc trò chuyện của gã và lạt ma Á La, nhưng phản ứng của ông cho thấy rõ ràng giáo sư đã biết chuyện này từ trước rồi.

Trác Mộc Cường Ba vẫn chưahết kinh ngạc, nhưng nhìn kỹ lại thì thân thủ đó, cùng với sự hiểu biết của lạ ma Á La về bộ tộc Qua Ba cũng như đạo quân Ánh Sáng, lẽ ra gã phải nghĩ ra từ lâu rồi mới đúng, chẳng qua là từ đó tới giờ gã vẫn luôn cảm thấy khả năng này khó có thể xảy ra mà thôi. Tại sao đạo quân Ánh Sáng bỏ rơi họ? Vì họ không hề biết chuyện xảy ra năm đó hay sao? Hay vì đạo quân không muốn để lũ trẽ bị cuốn vào vòng xoáy tranh đoạt ấy? Tại sao lại không đưa lũ trẻ đó trở về nơi quần cư của bộ tộc Qua Ba? Có điều, rất hiển nhiên là năm đó đạo quân Ánh Sáng không hề muốn người trong bộ tộc mình biết chuyện, vậy thì chuyện không đưa lũ trẻ về cũng có thể lý giải rồi. Nhưng, giờ mấy người lạt ma Á La muốn tìm đạo quân Ánh Sáng để làm gỉ? Muốn đòi họ cho một lời giải thích về vận mệnh bị bỏ rơi của mình ngày đó hay sao? Chỉ trong chốc lát, vô số câu hỏi cùng lúc ùn lên trong óc gã.

Lạt ma Á La như nhìn thấu tâm tư của Trác Mộc Cường Ba, lại nói tiếp: “Đạo quân Ánh Sáng năm đó không chỉ mang đi tất cả châu báu trong Tứ Phương miếu, mà còn toàn bộ kinh điển nữa. Nếu trong Tứ Phương miếu chỉ cất giữ điển tịch của Bản giáo và Phật giáo thì cũng chẳng sao, nhưng ở đó còn cất giấu cả giáo lý duy nhất và toàn bộ nghi thức điển lễ của Qua Ba tộc chúng tôi. Công việc truyền thừa tín ngưỡng trong Qua Ba tộc trước nay đều do Đại Bản Ba và các tế sư thuộc hạ của mình hoàn thành, đồng thời họ cũng là người phụ trách giải đáp những nghi hoặc trong lòng tộc nhân và những thắc mắc về giáo lý, giáo nghĩa. Nhưng khi đạo quân Án Sáng biến mất, họ cũng biến mất theo. Cậu biết rồi đó, người Qua Ba không có chữ viết, đại đa số binh sĩ của đạo quân Ánh Sáng cũng không biết chữ.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, điều này thì gã hiểu được, hơn nữa, ở thời cổ đại một vị quân vương chỉ cần đạo quân hùng mạnh của mình có thể nghe hiểu mệnh lệnh và chấp hành mệnh lệnh là đã đủ lắm rồi, không cần binh sĩ phải có đầu óc thông minh, tri thức uyên bác để làm gì.

Lạt ma Á La lại kể tiếp: “Duy chỉ có những binh sĩ canh gác Tứ Phương miếu, vì được tiếp xúc và bảo quản điển tịch, có một số rất ít người đã biết chữ, đồng thời còn ghi chép lại những giáo lý được Đại Bản Ba truyền dạy, phụng thờ làm thánh đển, đem bảo tồn chung với những kinh sách khác trong Tứ Phương miếu. Bộ Thánh điển đó, chính là toàn bộ tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba chúng tôi, và cũng là bộ duy nhất còn sót lại trên đời này.”

Trác Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ: “Cũng có nghĩa là, hai người muốn tìm lại …”

Pháp sư Á La (*) nói: “Tín ngưỡng của chúng tôi vốn từng trải qua một thời kỳ phồn vinh, không thể nào không có dấu vết gì trong lịch sử được, ít ra thì cũng phải có vị trí nhất định trong giới tôn giáo rối ren phức tạp thời đó mới đúng. Nhưng chính vì hơn trăm năm loạn lạc sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật, tôn giáo của chúng tôi và Bạc Ba La thần miếu đã bị lịch sử triệt để lãng quên. Sau này, tôn giáo của chúng tôi cũng giống như nhiều tôn giáo bị biến mất khác, chỉ có thể tìm được một số ít phục tàng trong đống hoang tàn đổ nát bị tàn phá bởi ngọn lửa của chiến tranh. Nhưng chúng tôi đã mất đi cả tên tôn giáo mình, quên cả giáo nghĩa, giáo lý, chỉ còn lại một số ít những người tu hành địa vị thấp kém, chỉ biết tuân theo phương cách các bậc tiền bối để lại, dựa vào những kinh sách thiếu đầu thiếu đuôi mà lẳng lặng tu hành. Giờ đây, tôn giáo của chúng tôi giống như Phật giáo không có Phật pháp, Cơ Đốc giáo không có Kinh thánh vậy. Một thời gian rất dài, những người tu hành thậm chí không còn biết tại sao mình lại tu luyện như vậy, tu luyện như vậy để làm gì. Trong rất nhiều ký lục tu hành của các bậc tiền bối viết kín đặc hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Hơn một nghìn năm nay, chúng tôi vẫn luôn đi tìm lại Thánh điển của mình, không hề từ bỏ.”

Trác Mộc Cường Ba thận trọng đưa mắt liếc Lữ Cánh Nam một cái, rồi hạ giọng hỏi: “Vậy Cánh Nam cũng là người Qua Ba à?”

“Không, Lữ Cánh Nam tuy là Mật tu giả, nhưng lại không phải là người Qua Ba, cô ấy thuộc về dòng ngoài. Thực ra, chuyện Mật tu giả chúng tôi là hậu duệ của đạo quân Ánh Sáng và bộ tộc Qua Ba, ban đầu cô ấy cũng không hề hay biết, sau khi đến thôn Công Bố, cô ấy mới dần hiểu được sự tình. Vì Mật tu giả không có điện đường của tôn giáo mình, nên từ rất lâu về trước, tổ tiên chúng tôi đã dung nhập vào các tôn giáo khác, đồng thời lan tỏa ra các tổ chức tôn giáo xung quanh. Đến giờ thì cả mấy hệ phái lớn của Phật giáo Tạng truyền đều có Mật tu giả. Tại Ấn Độ, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á cũng có Mật tu giả. Phát triển từ đó đến nay, các Mật tu giả dòng ngoài đã rất đông, có điều, họ tuyệt đối không hề hay biết chút gì về ngọn nguồn cũng như truyền thừa của đạo quân Ánh Sáng hết.” Nói đến đây, pháp sư Á La hai mắt sáng rực lên, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba, tiếp lời: “Những chuyện này, chúng tôi từ đó tới giờ vẫn chưa nói với cậu , chính là vì từ khi nhà thám hiểm người anh tên Morton Stanley kia bỗng dưng xuất hiện, các tổ chức, các nhóm người tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu quả thực quá nhiều, nếu để bọn họ biết được thân phận của chúng tôi thì … Vì vậy, chuyện này ngoài cậu và giáo sư Phương Tân ra, những người khác …”

“Tôi biết rồi.” Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ý của pháp sư Á La, liền hứa sẽ bảo mật. Đoạn gã lại hỏi: “Nói như vậy là, lúc trước pháp sư nói với chúng tôi rằng mình không hiểu biết gì về tôn giáo thần bí kia, thì ra chỉ không muốn chúng tôi biết được thân phận thật sự của các vị thôi?”

“Không,” pháp sư Á La cải chính: “Đám Mật tu giả bị bỏ rơi chúng tôi đã hoàn toàn mất đi những gì liên quan đến tôn giáo trước kia, vì vậy, cũng có thể nói là căn bản không hiểu gì về nó hết. tôn giáo được hình thành khi nào, hưng thịnh vào đời nào, giáo lý như thế nào, phân thuộc ra sao, đã từng làm được những gì, tất cả những điều ấy chúng tôi đều hoàn toàn không hề hay biết. Còn như đảo Huyền Không Tự, một công trình huy hoàng rực rỡ như thế mà chúng tôi cũng chẳng biết nó ở nơi đâu. Chẳng qua chỉ là xem được hình vẽ trong một vài kinh sách tản mát còn sót lại mà thôi. Còn cả Cánh Cửa Sinh Mệnh ở thôn Công Bố nữa, đó có lẽ là một thành đàn trong Giáo, những người sáng lập ra thôn Công Bố, cũng là đồng bào trong Giáo … nhưng chúng tôi đã đứt liên lạc từ gần nghìn năm nay rồi. Cả những thứ cổ trùng đó nữa, kinh sách ghi chéo về thứ này cực kỳ ít, mà đại đa số đều đã bị thất lạc cả. Còn như giống dây leo trong đảo Huyền Không Tự, rồi tử vong trùng, không khí nén, hồ cường toan … chúng tôi cũng như các cậu thôi, nghe cũng chưa từng nghe tới chứ đừng nói là hiểu biết về chúng.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ thở dài một tiếng, lại nói: “Nhưng pháo sư vẫn chưa trả lời tôi, tại sao hai người lại sẵn lòng giúp đỡ tôi như vậy? Hiện giờ điều kiện của chúng tôi so với đội chuyên gia của nhà nước thì kém nhiều lắm cơ mà?”

“Bởi vì cậu là Thánh sứ!” Pháp sư Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba nhăn mặt nhíu mày dưới lớp băng bó, nói bằng giọng khẳng định: “Kỳ thực, trong đám Mật tu giả chúng tôi, từ xưa đã có lời đồn như vậy. Chỉ có Thánh sứ mới mở được cánh cửa lớn của Bạc Ba La thần miếu. Vì vậy, bất kể thế nào, chúng tôi cũng sẽ dốc hết sức giúp đỡ cậu, trừ phi cậu muốn bỏ cuộc.”

Các trưởng lão thôn Công Bố xưa nay vốn không chịu gặp mặt người ngoài, chính là sau khi gặp mặt pháp sư Á La mới đồng ý tiếp gã. Trác Mộc Cường Ba tức thì nhớ lại được chuyện này, vội hỏi: “Đúng rồi, pháp sư, hai người và dân thôn Công Bố chắc cùng một tôn giáo đúng không? Vậy tại sao họ nghĩ tôi là Thánh sứ thế? Mà cả Merkin nữa, sao hắn cũng thành Thánh sứ được?”

“Không biết nữa.” Pháp sư Á La cười khổ lắc đầu: “Cường Ba thiếu gia, cậu vẫn chưa hiểu, chúng tôi đã không liên hệ gì với nhau hơn một nghìn năm nay rồi, bọn họ không biết đến sự tồn tại của chúng tôi, chúng tôi cũng không biết rằng có họ tồn tại trên đời này. Lời thề mà họ tuân thủ ấy là do tổ tiên truyền lại, vì vậy, bất cứ ai cũng không thể thăm dò bí mật của họ được. Có điều, theo suy đoán của tôi, những người gọi là Thánh sứ có lẽ là một quần thể đặc thù, giống như một trăm nghìn người mới có một người thuộc nhóm máu AB âm tính vậy. Nhưng quần thể này, không chỉ có một hoặc hai thôi, bằng không thì không thể nào giải thích nổi, tại sao cả trong đám người nước ngoài cũng xuất hiện Thánh sứ được.”

Cuối cùng, pháp sư Á La nói: “Giờ thì Cường Ba thiếu gia không còn nghi ngại gì nữa chứ? Tuy mục tiêu của chúng ta khác nhau, nhưng lại có chung một đích đến. Chúng tôi cần sự giúp đỡ của cậu, Cường Ba thiếu gia ạ.”

“Không, chớ nên nói vậy!” Trác Mộc Cường Ba vội đáp: “Là mọi người đang giúp đỡ tôi, pháp sư Á La, cả giáo quan nữa, không có hai người, thì không thể có tôi ngày hôm nay được …”

Lúc này, giáo sư Phương Tân đã thảo luận xong với Lữ Cánh Nam, quay sang bảo Trác Mộc Cường Ba: “Được rồi, Cường Ba à, giờ thì cậu đã rõ thân phận của pháp sư, tôi nghĩ những nghi vấn trong lòng chắc hẳn cũng đã được tháo gỡ rồi phải không? Để tôi cho cậu biết kế hoạch và các sắp xếp của chúng ta trong bước tiếp theo.”

Lữ Cánh Nam xoay máy tính về phía Trác Mộc Cường Ba, để gã nghe được rõ hơn chút nữa, Giọng giáo sư Phương Tân vang lên: “Mấy hôm nữa pháp sư Á La sẽ trở lại chỗ tôn giáo của họ để thu thập thêm tư liệu, Cánh Nam cũng phải trở về Tây Tạng, đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập cần đi mua thêm vũ khí trang bị, Nhạc Dương và Ba Tang thì đi lần theo một đầu mối khác, trong thời gian dưỡng thương, Mẫn Mẫn sẽ ở lại chăm sóc cậu.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Thầy giáo, thầy vừa nói đầu mối phải không? Chẳng phải đầu mối của chúng ta đã đứt đoạn rồi sao? Còn đầu mối gì nữa?”

Giáo sư Phương Tân ở phía bên kia bật cười đáp: “Cậu có điều chưa biết rồi, Cường Ba à. Mặc dù những đầu mối rõ ràng nhất đều đã đứt đoạn, nhưng các đầu mối khác thì vẫn có thể tiếp tục lần theo. Chẳng những vậy, giờ đây đầu mối của chúng ta còn nhiều hơn trước kia rất nhiều nữa.”

Nhìn bộ dạng như muốn ngồi bật dậy của Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân liền giải thích: “Vì lúc đó chúng ta giải tán bất ngờ quá, nên rất nhiều đầu mối còn chưa kịp chỉnh lý sắp xếp lại, thời gian sau này thì lại không thể nào liên lạc được với cậu. Cậu thử nghĩ lại xem, những văn bản chúng ta chụp trong địa cung ở châu Mỹ chẳng phải là vẫn chưa dịch được hết hay sao? Còn nữa, Cổ Cách kim thư mà các chuyên gia cho chúng ta, cũng mới chỉ dịch được có phần đầu tiên, không đúng à? Chúng ta không thể dịch được toàn bộ, không có nghĩa là các chuyên gia cũng đình đốn không thể tiến lên. Vừa nãy tôi và Cánh Nam chính là thảo luận về những bản dịch mới đó đấy. Hơn nữa, chúng ta còn có mấy đầu mối khác nữa …”

Đang nói chuyện thì mấy người bọn Trương Lập quay lại, túi lớn túi nhỏ các thức ăn dinh dưỡng và hoa quả chất đầy giường. Cả bọn đang cao hứng vui vẻ thì thầm đùa cợt mấy câu gì đó, chợt nghe Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, chúng ta phát hiện ra đầu mối gì mới hả? Sao tôi không thấy có gì nhỉ.”

Nhạc Dương kéo một chiếc ghế xếp ngồi xuống, một tay đặt lên thành ghế, đầu gục xuống tay, không chút khác khí nhận quả dương mai Đường Mẫn đưa cho, vừa nhét vào miệng nhồm nhoàm vừa nói: “Cường Ba thiếu gia, còn nhớ cái xác chết của tên lính Nazi đó không? Chúng ta tìm được trong cái xác ấy một bao thuốc có chữ viết, anh vẫn nhớ chứ?”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi “ừm” một tiếng, gật đầu. Nhạc Dương tiếp lời: “Giáo sư Phương Tân đã nhờ chuyên gia dịch được rồi. Đầu mối này thì cả tổ chuyên gia cũng không biết đâu đấy.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, sững sờ nói: “Không … không trình lên trên à?”

Chỉ nghe Nhạc Dương gãi đầu đáp: “Chuyện này à, lúc đó đi cũng hơi vội, nói giải tán là giải tán luôn, nên tôi quên béng đi mất.”

Giáo sư Phương Tân nói:” “Trong thời gian tinh thần cậu bị sa sút, tôi đã tìm các chuyên gia giải nghĩa những văn tự đó, chúng được viết bằng mật mã quân Đức thường sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai, muốn đọc cũng phải tốn không ít công sức. Giờ chúng ta đã biết ý nghĩa của mặt chữ là: trở lại căn cứ địa số 3, tìm kiếm, phá giải – Chỉ một câu như thế thôi. Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện được một số đầu mối khác trên bao thuốc đó. Thời gian sản xuất của boa thuốc là khoảng năm 1945, cũng là năm quân Đức chiến bại, như vậy có nghĩa là, rất có khả năng bọ họ chưa trở về căn cứ địa, còn chuyện tìm kiếm, và phá giải cái gì, theo tôi, cần phải tiến hành điều tra kỹ hơn. Trên thực tế, chúng tôi đã tra xét được một số rồi. Năm đó đảng Nazi cho xây dựng mấy căn cứ trên đất Tây Tạng, chỉ có điều tấm bản đồ chú thích vị trí của chúng giờ có lẽ đang lưu trữ bên Nga. Chỉ cần tìm được vị trí của căn cứ số 3, nói không chừng chúng ta sẽ có thêm phát hiện gì mới cũng nên. À, đúng rồi, còn một đầu mối quan trọng nữa, Trương Lập đã mang đến cho cậu rồi đây.”

Trương Lập đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, lẳng lặng lấy ra một quyển sổ ghi chép bìa da màu đen dày cộp, đặt lên ngực gã. Trác Mộc Cường Ba thoáng sững sờ, rồi sực nhớ ra, kêu lên kinh ngạc: “Nhật ký của Đường Thọ!” Chỉ thấy Mẫn Mẫn bên cạnh gã khẽ gật đầu. Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ ngồi bật dậy, suýt chút nữa làm những vết thương khắp người vỡ ra.

“Các cậu phát hiện ở đâu thế?”

Trương Lập và Nhạc Dương nhìn nhau cười cười: “Nói thế nào nhỉ? Có thể coi như là ông trời gởi tặng cho cũng được. Lúc mới về bệnh viện, vì bị giải tán gấp quá nên cũng không kịp kể cho kỹ càng với mọi người.” Sau đó, hai anh chàng liền thuật lại một lượt chuyện mình gặp hiểm nguy trên đường trở lại Tây phong đới, rồi bị gió thổi đi thế nào, rơi xuống lều bạt thế nào. Trác Mộc Cường Ba nghe xong mới biết cuốn nhật ký của Đường Thọ này quả nhiên xuất hiện rất ly kỳ. Gã cười cười nói: “Sao các cậu không giao ra cho cấp trên?”

Trả lời với trích dẫn

Trương Lập hạ giọng thì thầm: “Dù sao thì cũng có ai biết đâu?”

Nhạc Dương biện bạch: “Cái này lẽ ra phải là tài sản cá nhân của Mẫn Mẫn chứ!”

Trác Mộc Cường Ba cầm cuốn nhật ký lên, không thể chờ được, chỉ muốn lật tìm những ghi chéo có liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, nhưng lật giở mấy chục trang rồi cũng không thấy gì. Trương Lập đứng bên cạnh bèn giải thích: “Không cần tìm đâu, Cường Ba thiếu gia, mấy trang đó bị người ta xé đi rồi. Chắc là lúc đầu có ba nhân viên kiểm lâm rời khỏi trạm bảo hộ Khả Khả Tây Lý, họ có lẽ đã lần theo những gì ghi trong nhật ký mà đến được rừng tháp băng, nhưng khi chúng tôi phát hiện ra cuốn nhật ký này thì chỉ có hai cái xác thôi. Cũng có nghĩa là, còn một kẻ khác, kẻ này đã thoát khỏi lũ rắn trắng. Hắn chỉ mang theo những trang thiết thực nhất, đến cả cuốn nhật ký này, hắn cũng chê quá nặng nề mà chỉ xé mấy trang có liên quan. Chúng tôi đã xem đi xem lại rồi, chỉ có những trải nghiệm mạo hiểm của Đường Thọ ở các nơi khác thôi, không hề có bất kỳ nội dung nào đề cập đến Bạc Ba La thần miếu cả.”

Trác Mộc Cường Ba cụt hứng gập cuốn nhật ký lại, nói: “Thì ra là thế!”

Nhạc Dương liền cổ động tinh thần: “Nhưng cũng đừng nản lòng thế, Cường Ba thiếu gia, anh vẫn chưa xem kỹ cuốn nhật ký đó mà, nội dung trong đó giúp chúng ta rất nhiều đấy. Đường Thọ đã mua loại vũ khí, trang bị nào ở nước nào thông qua mối chợ đen nào, tất cả đều được ghi chép rất kỹ càng trong cuốn nhật ký. Đối với chúng ta mà nói, bản thân điều này đã là một sự giúp đỡ không nhỏ rồi. Có một số công cụ anh ta nhắc đến trong nhật ký còn tiên tiến hơn, thực dụng hơn loại mà chúng ta từng sử dụng. Còn có cả một số đồ tự chế nữa, đến Trương Lập cũng không thể không thừa nhận, anh trai Mẫn Mẫn đích thực là một thiên tài. Không ai có thể ngờ rằng, anh ta có thể tự chế ra những trang thiết bị hoàn mỹ như vậy.

Nhắc đến Đường Thọ, ánh mắt Đường Mẫn tối sầm đi, anh trai cô giờ này vẫn không biết lưu lạc ở chốn nào.

Trương Lập bổ sung thêm: “Không sai, có cuốn nhật ký này, chúng ta coi như đã có một quyển đại toàn thư về trang bị cao cấp khi tiến vào vùng hoang vu không bóng người, tiết kiệm rất nhiều công sức khi mua sắm thiết bị khí giới. Hơn nữa, Đường Thọ còn có thói quen tổng kết một cách ngắn gọn đơn giản. Mỗi khi kết thúc một hành trình mạo hiểm, anh ta đều tổng kết lại bằng mấy chữ. Anh nhìn phía trước kia xem, anh ta kể lại chuyện một mình vào động băng, cũng gặp phải lũ chuột khủng khiếp ấy, lại còn có cả băng lở nữa, so với những gì chúng ta trải qua thì không hề thua kém một chút nào, nhưng tổng kết của anh ta chỉ là “dễ hơn so với dự tính”, có vậy thôi. Rừng nguyên sinh ở Phi châu trong miêu tả của anh ta còn hung hiểm hơn rừng nhiệt đới Amazon chúng ta đã băng qua nhiều, vậy mà anh ta chỉ tổng kết bằng có ba chữ “cũng tạm được”. Anh ta xông vào một ngôi mộ Pharaoh vẫn chưa được khai quật ở Ai Cập, cũng gặp phải cạm bẫy chẳng thua kém gì trong đảo Huyền Không Tự. Người Ai Cập cổ đại lợi dụng thực vật mục nát phân hủy để chế tạo khí độc, lợi dụng sức chảy của cát để tạo ra vô số cạm bẫy, ngoài ra còn dùng chuỗi thức ăn liên hoàn để nuôi dưỡng nhiều loài động vật thích hợp sống trong cát, …. Nhưng Đường Thọ bình luận lần mạo hiểm ấy như thế nào chứ “tương đối kích thích”, có bốn chữ thôi. Thế nhưng, anh thử giở trang cuối cùng ra xem xem, mấy chữ chưa bị xé đi ấy, chắc đó là những chữ cuối cùng Đường Thọ viết trước khi rút lui đấy.”

ĐỘI TRƯỞNG TRÁC MỘC CƯỜNG BA

Trác Mộc Cường Ba lật tìm đến trang cuối cùng, quả nhiên phía trước có dấu vết bị giật đi mất mấy trang, câu cuối cùng kia chỉ ngắn ngủn có vài chữ: “Đáng sợ quá! Không thể nào qua được … đến rồi …” Mấy chữ này đều viết rất tháu, đặt biệt là chữ rồi cuối cùng, nét chữ nghiêng nghiêng ngả ngả, vạch 1 nét ngang rách cả giấy, so với chữ viết cương nghị mạnh mẽ ở phía trên của Đường Thọ thì thật như hai người hoàn toàn khác nhau viết ra. Có thể nhận thấy, lúc Đường Thô ngấm ngầm viết lại những trải nghiệm của mình, bàn tay vẫn không ngừng run rẩy, rốt cuộc là anh ta đã nhìn thấy thứ gì chứ? Trác Mộc Cường Ba nhớ tới Ba Tang, và cái gã điên ở Mông Hà kia nữa, tất cả các hành vi điên khùng quái đản của họ lại xuất hiện trong đầu gã một lần nữa.

Trương Lập cảm khái thở dài: “Từ các đoạn ghi chép trước đó của Đường Thọ, có thể thấy năng lực của anh ta chắc là cao hơn trình độ hiện nay của chúng ta nhiều, thậm chí tôi còn có cảm giác, thân thủ của người này dường như còn nhanh nhẹn hơn cả pháp sư Á La. Còn tri thức của anh ta tì đúng là gần như bao la vạn tượng, không có gì là không biết. Thật khó mà tưởng tượng nổi, anh ta lại chỉ ngang tầm tuổi tôi thôi đấy.”

Nhạc Dương liếc mắt sang Đường Mẫn, nói: “Anh đừng có mà ở đây nói xằng bậy dọa người ta nữa, nếu một người như thế mà còn bị khiếp hãi đến … đến tinh thần sụp đổ, vậy thì chúng ta làm sao mà đi được chứ?”

Đường Mẫn lắc đầu: “Không … mọi người còn chưa hiểu anh trai tôi đâu, anh ấy còn mạnh hơn những gì mọi người có thể tưởng tượng nhiều. Tôi còn nhớ, có lần tôi từng thấy anh ấy tập luyện, hồi trước cũng không biết là huấn luyện kiểu gì, giờ nhớ lại rồi, hình như là mang nặng năm mươi cân leo vách đá một tay hay sao đó.”

“Bốc phét!” Nhạc Dương liếc nhìn Đường Mẫn, điệu bộ như thể muốn nói: “tôi chẳng tin đâu.”. Đường Mẫn dẩu môi lên lườm anh chàng một cái.

Trương Lập nói: “Chuyện này không quan trọng. Tôi cũng thừa nhận đúng là anh ta mạnh hơn chúng ta thật. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất giữa chúng ta và Đường Thọ chính là, anh ta lúc nào cũng một mình đi mạo hiểm, còn chúng ta là cả một nhóm người. Đây chính là ưu thế của chúng ta đó.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ngoài chuyện này ra, còn thân phận Thánh sứ của cậu nữa, cộng các điểm này thì chúng ta có ưu thế hơn. Giờ cậu đã nắm rõ toàn bộ tình hình rồi chứ! Vậy thì, chúng ta cứ tiến hành theo phân công ban đầu thôi. Tư liệu từ thời thế chiến II chắc là đã được giải mật. Trước mắt chúng tôi vẫn đang thử liên hệ với phía Nga coi sao, Nhạc Dương và Ba Tang sẽ phụ trách mặt này. Hai người sẽ sang Mat-txơ-va một chuyến, để xem có lấy được bản photo bản đồ của quân Đức hay không.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy, vậy thì sau khi lành vết thương, tôi sẽ làm gì?”

Giáo sư Phương Tân cười nói: “Cậu ấy à! Không càn đợi vết thương lành hằn đâu. Tôi sẽ chuyển hết các thông tin chúng ta đang có và sau này sẽ có cho cậu qua mạng, hai chúng ta cùng phối hợp tìm ra các đầu mối, sau đó thì phải xem cậu có thể dẫn dắt mọi người tìn được Bạc Ba La thần miếu hay không thôi, đội trưởng!”

Đội trưởng!” Trác Mộc Cường Ba ngây người, chỉ vào mặt mình: “Tôi ư? Tôi làm đội trưởng?” Chỉ thấy mọi người xung quanh gã đều gật đầu mỉm cười.

Giáo sư Phương Tân nói: “Trong một nhóm, cấn phải có người ra lệnh, bằng không tất cả sẽ không thể nào xuất phát được. Đây là kết quả do mọi người cùng thương thảo, cậu tương đối thích hợp với vị trí này. Hãy cố mà phát huy tài năng lãnh đạo của mình đi nhé!”

Trương Lập cũng nói: “Cường Ba thiếu gia, anh làm đội trưởng cũng hợp lắm mà, có gì không ổn đâu chứ?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không được, không được! Nếu là một mình tôi đi tìm thần miếu, có lẽ tôi sẽ gánh vác trách nhiệm nặng nề này thật. Nhưng sau khi ở với mọi người một thời gian lâu như thế, tôi cũng đã hiểu rõ từng người rồi. Nếu luận về thân thủ, tôi không thể so bì với pháp sư Á La và giáo quan Lữ Cánh Nam; còn luận khả năng cơ biến, tôi cũng không bằng Trương Lập, Nhạc Dương; luận về học thức, tôi lại càng không theo kịp thầy giáo và đội trưởng Hồ Dương, nếu để tôi là người ra lệnh sẽ chẳng có lợi gì cho mọi người đâu. Trước nay giáo quan vẫn lãnh đạo chúng ta mà, nên để cô ấy tiếp tục đảm nhiệm vị trí đó mới đúng.”

Lữ Cánh Nam nói: “Tôi đã không còn là giáo quan của mọi người nữa rồi, cũng không còn gì mới hơn để dạy các bạn nữa. Giờ tôi chỉ là một thành viên trong nhóm mà thôi. Hiệu suất và tỉ lệ thành công của một đội ngũ quyết định bở năng lực chấp hành mệnh lệnh của lãnh đạo, cần phải tuyệt đối phục tùng mọi sự sắp xếp của lãnh đạo. Trên chiến trường, dù là cấp trên lệnh cho mình đi hy sinh cũng không thể có bất cứ chút do dự nào. Nếu để tôi đảm nhiệm vai trò này …” Cô liếc mắt sang nhìn Trương Lập và Nhạc Dương, đoạn tiếp lời: “Trước tiên là hai cậu lính này sẽ không ngừng chất vấn. Anh còn nhớ trên đường họ đã đặt ra với tôi bao nhiêu câu hỏi hay không? Dưới sự dẫn dắt của tôi, đội ngũ này đã quen thói tản mạn thiếu tập trung rồi. Nếu tiếp tục để tôi dẫn đội, sẽ chỉ tiếp tục tản mạn nữa thôi. Còn anh, Cường Ba thiếu gian, không biết anh có để ý thấy hay không? Những kiến nghị hoặc yêu cầu anh đưa ra, bọn họ đều tức thì y lời thực hiện mà chẳng hề hỏi xem tại sao. Cái gọi là khí chất lãnh đạo có liên quan rất chặt chẽ với tướng mạo và hình thể. Anh chính là người có thứ khí chất ấy. Khí chất khiến người ta sẵn lòng phục tùng, sẵn lòng đi theo. Hơn nữa, năng lực xét đoán toàn cục của anh cũng không thua bất cứ người nào ở đây cả. Chẳng qua là khi mới bắt đầu, những thứ anh được tiếp xúc vẫn còn quá ít, vẫn còn nằm trong quá trình học tập mài giũa, nên mới không chịu dễ dàng phát biểu ý kiến mà thôi. Giờ đây, mọi ngườii đã đứng cùng một vị trí, những ưu thế của anh liền nổi bật hẳn lên. Tôi tin rằng dưới sự dẫn dắt của anh, chúng ta sẽ không đi lầm đường lạc lối đâu.”

Nói xong, cô lại nhìn sang phía Đường Mẫn, trong ánh mắt thoáng lộ vẻ bất lực. Trác Mộc Cường Ba vẫn nói: “Vậy thì, có thể để đội trưởng Hồ Dương dẫn dắt mọi người mà! Kinh nghiệm thám hiểm nơi hoang dã của đội trưởng hết sức phong phú. Từ trước đến nay anh ấy luôn là người dẫn đầu, anh ấy …”

Đội trưởng Hồ Dương vội ngắt lời gã: “Này, đừng có dát vàng lên mặt tôi nữa. Cậu tưởng đây là việc gì chứ? Tôi không làm đâu. Tôi chẳng qua chỉ có một chút xíu kinh nghiệm khảo sát khoa học ở vùng cực địa thôi, còn rừng rậm nguyên sinh hay gì gì khác thì chưa đi bao giờ cả. Hơn nữa, tôi vào nhóm sau mọi người, đến lúc đó chỉ huy bất lợi, chắc chắn sẽ bị mắng chửi thê thảm cho mà xem.” Anh bước lên phía trước vỗ vỗ lên bờ vai quấn băng chằng chịt của Trác Mộc Cường Ba, nói: “Cậu cứ yên tâm mà làm cái chức đội trưởng tiền đồ rộng mở này đi, đừng đùn đi đẩy lại nữa. Theo tôi ấy à, ngoài làm đội trưởng ra thì cậu chẳng còn làm được việc gì khác nữa đâu.

Giáo sư Phương Tân nói: “Đã nghe thấy chưa? Cậu vốn đã có thể coi là người khởi xướng hành động lần này, đến cả tôi còn bị kéo vào vũng nước này rồi còn gì. Giờ cậu có muốn không phụ trách cũng không được nữa, mạng của mọi người, đều giao cả cho cậu đấy.”

Ngay tức khắc, Trương Lập là người đầu tiên hưởng ứng. Anh chàng vỗ vỗ lên tay Trác Mộc Cường Ba một cách tượng trưng, nói: “Giao cả cho anh đấy, đội trưởng!”

Nhạc Dương cũng cười cười đập tay vào tay Trác Mộc Cường Ba nói: “Mạng của tôi cũng giao cho anh đây, Cường Ba thiếu gia.”

Đường Mẫn nhẹ nhàng luồn tay vào lớp băng, ánh mắt kiên nghị của cô như thể đang nói: “Sống làm người của anh, chết làm ma của anh.”

Lữ Cánh Nam bắt tay Trác Mộc Cường Ba mạnh đến nỗi gã thấy hơi đau. Ánh mắt ấy .. ánh mắt ấy sai giống Đường Mẫn thế. Trác Mộc Cường Ba lắc mạnh đầu, còn ánh mắt gì nữa chứ, chắc chắn là mình hiểu lầm rồi, ôi, lại hiểu lầm nữa rồi.

Ba Tang cũng bước lại gần, vẫn lạnh lùng như từ trước đến nay: “Tôi đã hức với anh trai là sẽ lấy tính mạng này ra bảo vệ cậu.” …

Nhìn vào những ánh mắt tràn đầy lòng tin và sự tín nhiệm dành cho mình, sóng lòng Trác Mộc Cường Ba dâng trào cuồn cuộn, lập tức cảm thấy trách nhiệm và áp lực đè nặng trên vai.

Mọi người ở lại bệnh viện với Trác Mộc Cường Ba thêm một ngày, lần lượt kể ra những chuyện vụn vặt mình gặp phải sau khi giải tán. Chỉ riêng Trác Mộc Cường Ba đã chôn vùi những trải nghiệm khắc cốt ghi tâm ấy xuống đáy lòng, thành ra mọi người cũng không nhắc đến nữa. Buổi tối, bác sĩ lại tới cảnh cáo Trác Mộc Cường Ba phải giữ yên tĩnh, nghỉ ngơi cho sớm, cả bọn mới chia tay nhau tản đi, lại nói sáng sớm mai sẽ quay lại, duy chỉ có Đường Mẫn ở lại chăm sóc gã. Trác Mộc Cường Ba phát hiện ra, từ sau khi Đường Mẫn rời xa mình, lần trở lại này dường như càng tỏ ra quấn quýt dựa dẫm vào gã nhiều hơn, tựa hồ sẵn sàng sinh ly tử biệt bất cứ lúc nào vậy. Bản tính trẻ con rốt cuộc vẫn không thay đổi chút nào, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ. Nhân lúc mình đang bị thương nặng, Đường Mẫn mềm lòng, gã vội hỏi cho rõ ràng, xem rốt cuộc lúc ở trên núi tuyết mình đã làm sai chuyện gì, tại sao cô lại tức giận bỏ đi như thế.

Chẳng ngờ, nghe Trác Mộc Cường Ba truy vấn chuyện ấy, Đường Mẫn bỗng hỏi lại gã một cách hết sức nghiêm túc, hết sức chính thức: “Anh Cường Ba, anh nói thật với em đi! Rốt cuộc là anh có, trong lòng anh có một chút, một chút tình cảm nào với giáo quan hay không? Em biết, trước giờ giáo quan vẫn có ý với anh, em không phải là con mù, lẽ nào lại không nhìn ra được chứ?”

Trác Mộc Cường Ba đáp như chém đinh chặt sắt: “Không có, xưa nay anh chưa từng nghĩ đến chuyện đó, em chắc cũng phải hiểu anh chứ, đã bao giờ anh hai lòng ba dạ đâu? Có phải, có phải vì chuyện này, và lần đó … nên em mới giận dữ phải không?”

Đường Mẫn nói: “Anh, anh … hôm đó, anh nói lẽ ra phải làm như vậy từ sớm rồi … Anh .. anh … có phải đã muốn làm vậy từ lâu lắm rồi đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba thầm thót giật mình, thì ra là nói sai câu này, đồng thời gã cũng ngấm ngầm suy nghĩ, lẽ nào trong tiềm thức của bản thân, thật sự đã nghĩ như thế hay sao? Không đúng, không thể có suy nghĩ ấy trong đầu được, chắc chắn mình một lòng một dạ với Mẫn Mẫn mà. Từ khi xuất hiện trong cuộc đời mình, cô ấy đã chiếm cứ toàn bộ cuộc sống của mình rồi. Mẫn Mẫn hiểu được ý người, hết sức tâm đầu ý hợp với mình, lại có thể vì mình mà không từ vất vả nhọc nhằm, liều chết quên sống, mình sao có thể nghĩ đến một người đàn bà nào khác ngoài cô ấy được nữa chứ.

Trác Mộc Cường Ba đã hiểu đầu đuôi sự việc, bèn chất vấn ngược lại: “Chúng ta quen nhau đâu phải một hai ngày, sao em lại nảy ra những suy nghĩ vô duyên vô cớ như thế? Mẫn Mẫn, em không còn là cô bé con nữa mà đã thành người lớn rồi, em phải biết rằng giữa những người yêu nhau cần phải tin tưởng lẫn nhau. Chúng ta phải đem mạng mình giao cho nhau, đồng sinh cộng tử thì mới có thể đi tiếp được, em không nên nghi ngờ anh như thế!”

Đường Mẫn dịu dàng phủ phục lên ngực Trác Mộc Cường Ba, sống mũi cay cay, lẩm bẩm nói: “Cường Ba à, anh có biết không? Em sợ lắm ấy! Em sợ có một ngày nào đó, anh sẽ rời xa em! Em xin anh đấy, đừng bao giờ bỏ rơi em được không, đừng bỏ mặc em! Em biết, em chỉ biết khóc lóc thôi! Chẳng giúp gì được anh cả! Em … em không xứng với anh như là giáo quan, em cũng không giỏi giang được như cô ấy, em chỉ có anh thôi … em thực sự sợ mất anh lắm …” Đang nói, đội nhiên cô khóc nấc lên ri rỉ.

Trác Mộc Cường Ba vuốt ve mái tóc xanh mềm mượt của cô, nhẹ nhàng nói: “Em làm sao vậy? Tại sao lại không tin ở bản thân mình như thế? Trong mắt em, tình yêu của chúng ta mong manh yếu đuối, không chịu được một chút khảo nghiệm như vậy hay sao? Hay là, ngày mai chúng ta lập tức đi đăng ký kết hôn, em thấy có được không?”

Đường Mẫn ngẩng đầu lên, lau lau gương mặt xinh xắn, đang khóc lại bật cười khúc khích, rồi lắc đầu nói: “Không, em không muốn như thế, cảm giác cứ như ép hôn anh không bằng. Nhưng mà, sau khi tìm được Bạc Ba La thần miếu, em muốn anh … đường đường chính chính cầu hôn người ta, phải tổ chức hôn lễ thật lớn vào nữa! Anh nói xem có được không?”

Nhìn vào đôi mắt đầy vẻ khẩn nài của Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba nâng gương mặt yêu kiều nhỏ nhắn ấy lên, ánh mắt ấy, và đôi mắt năm xưa sao mà giống nhau đến thế. Ánh mắt ấy, gã thực không thể nào từ chối được: “Ừm, anh hứa với em, em thích ra biển du lịch phải không? Chúng ta có thể sang Croatia mua một hòn đảo nhỏ, trời trong gió nhẹ thì ta cùng cưỡi thuyền ra biển, còn có thể nuôi chó con, dê con trên đảo nữa. Đó sẽ là thế giới của riêng hai chúng ta thôi. Chúng ta sẽ cùng nhau dựng xây nó, em có thích không?”

Hai mắt Đường Mẫn long lanh những giọt lệ hạnh phú, gật đầu mạnh. Thấy khúc mắt trong lòng người yêu đã được tháo gỡ, Trác Mộc Cường Ba cũng được an ủi phần nào, đồng thời cũng không khỏi lo lắng, Bạc Ba La thần miếu, Bạc Ba La thần miếu mà dễ tìm như vậy hay sao! Thời điểm tốt nhất đã lỡ mất rồi, làm sao bọn gã có thể leo lên núi tuyết được nữa đây? Nơi đó, căn bản là không thể nào leo lên được! Nghĩ tới đây, gã thực nôn nóng muốn liên lạc lại với giáo sư Phương Tân lần nữa, dẫu có đầy đủ trang thiết bị, nhưng làm sao vượt qua Tây Phong đới một lần nữa đây? Còn cả màn sương mù mờ mịt phủ kín đất trời kia nữa, lẽ nào giáo sư Phương Tân đã có phương cách gì mới?

Trác Mộc Cường Ba vừa vỗ về được Đường Mẫn yên lòng, cánh cửa phòng bệnh đã bị đẩy mở. Hóa ra là Lữ Cánh Nam đi rồi quay trở lại. Đường Mẫn liền quay sang rót cho cô một cốc nước lọc. Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Có chuyện này, tôi muốn nói riêng với anh.”

Đường Mẫn cũng hiểu chuyện, liền nói: “Phải rồi, anh Cường Ba, anh muốn ăn đêm đúng không? Em ra ngoài mua đồ về cho anh nhé! Hai người cứ nói chuyện đi!” Đi ra đến cửa, cô liền liếc về phía Trác Mộc Cường Ba một cái nhìn cảnh cáo, nếu không phải Trác Mộc Cường Ba đang bị băng kín mít từ đầu tới chân, nhất định Lữ Cánh Nam sẽ nhận ra gã đã vã mồ hôi đầm đìa. Mãi tới lúc bước chân Đường Mẫn đi xa rồi, Trác Mộc Cường Ba mới dần bình tĩnh trở lại, đồng thời cũng biết, giáo quan đến tìm mình vào giờ này, chắc chắn là có chuyện gì đặc biệt quan trọng lắm, bèn nói: “Mời cô ngồi, giáo quan”

“Mẫn Mẫn không sao chứ? Hình như vừa khóc à?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, không có gì đâu. Giáo quan có chuyện gì vậy?”

Lữ Cánh Nam nói: “Lần này, vì anh đã là đội trưởng, nên có hai chuyện tôi cần phải nói cho anh biết. Thứ nhất, chính là chuyện lần trước tôi từng nói với anh rồi. Trong đội của chúng ta, không chừng có một hoặc một vài người là quân nằm vùng của các tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu khác, giờ anh đã là người phụ trách chung, tôi và pháp sư Á La hy vọng rằng, những tin tức tư liện mà anh nhận được từ các nguồn khác nhau, chỉ giới hạn hai người là anh và giáo sư Phương Tân được biết, không nên tiết lộ cho người thứ ba …”

Việc này, chính là điều mà Trác Mộc Cường Ba cảm thấy phản cảm nhất, gã lạnh lùng nói: “Giống như hồi trước các vị vẫn làm phải không? Cứ để mọi người mù mù mờ mờ chẳng biết gì đi theo là được, không cần biết sẽ phải đi đâu, cũng không biết là phải tìm cái gì? Xin lỗi, chuyện này tôi không làm được. Lữ giáo quan, cô đã bao giờ từng nghĩ, cả đội này, mỗi một con người đều đã sẵn sàng giao tính mệnh mình vào tay Trác Mộc Cường Ba tôi, chúng ta ai ai cũng đều vùng vẫy đấu tranh trên lằn sinh tử mới sống được cho tới ngày hôm nay. Họ có lý do gì để lừa gạt tôi chứ? Có lý do gì để bán đứng tất cả mọi người chứ? Vì cớ gì mà họ lại không thể biết những thông tin chúng ta đã nắm trong tay chứ? Vì cớ gì mà không thể biết nơi chúng ta sẽ đi chứ? Lữ giáo quan, nói thật lòng với cô, trước giờ tôi luôn rất khó chịu với cách làm này của mọi người. Lần leo núi tuyết thất bại này, một phần nguyên nhân chính là do tin tức không được rõ ràng đó.”

Lữ Cánh Nam nói: “Anh có biết không? Lần trước ở đảo Huyền Không Tự, pháp sư Á La đãđảo Huyền Không Tự, pháp sư Á La đã xác nhận, người đàn ông đang chuẩn bị mở cánh cửa cấm kỵ mà chúng ta gặp trong địa cung Maya, chính là một tên trong nhóm của Merkin. Chuyện này không phải trùng hợp, mà là bọn Merkin nắm rõ được hành tung của chúng ta.”

Trác Mộc Cường Ba nói cứng: “Lần đó không phải là chúng ta đã bị nghe trộm sao? Giáo quan sao có thể khẳng định chắc chắn là do người của chúng ta tiết lộ ra chứ? Còn nữa, chẳng phải các vị vẫn luôn nghi ngờ tất cả mọi người khác trong nhóm sao? Lần này sao lại không nghi ngờ tôi nữa vậy?”

Lữ Cánh Nam khẽ cắn môi, tựa hồ đang chuẩn bị nói gì đó với y, song cuối cùng vẫn ghìm lại được, chỉ thấp giọng nói: “Không phải, thực ra chúng tôi chưa từng nghi ngờ anh và giáo sư Phương Tân, người chúng tôi nghi ngờ là người khác …”

Trác Mộc Cường Ba cười nhạt nói: “Hừ, đủ rồi. Tôi thật không sao hiểu nổi, mọi người đều là chiến hữu cùng sống cùng chết, vậy mà lại nghi kỵ lẫn nhau, như vậy thì hợp tác phỏng còn ý nghĩa gì nữa chứ? Lữ Cánh Nam, tôi hỏi cô, nếu tôi và cô hợp tác làm ăn, nhưng chỉ cần cô đưa tiền cho tôi, rồi tôi cứ nói đi nói lại với tôi rằng, nhất định là sẽ kiếm được tiền. Nhưng tôi kiếm tiền như thế nào, giờ đã làm được những gì rồi, nhất loạt những điều ấy tôi đều không nói với cô, vậy thì cô sẽ nghĩ sao? Sẽ không cần nghĩ ngợi gì mà đưa tiền cho tôi luôn hả? Đấy mới chỉ là nói chuyện làm ăn đơn giản, còn chuyện mà chúng ta đang phải đối mặt đây, là việc bất cứ lúc nào cũng có thể nguy đến tính mạng, một hành động tập thể như vậy, sao tôi dám có gì che giấu với các thành viên trong đội được chứ? Theo tôi thấy, chắc là cô đã làm công tác bảo mật cho nhà nước lâu quá rồi đấy!”

Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi thỏa hiệp: “Vậy cũng được. Nếu anh vẫn kiên trì phong cách xử sự của mình, tôi cũng chỉ còn cách nói thực với anh, những thông tin về tôn giáo của chúng tôi cung cấp cho anh sẽ không toàn diện nữa, mà là có lựa chọn, đồng thời, chúng tôi vẫn hy vọng anh có thể giúp chúng tôi bảo mật, như vậy có được không?

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, về những thông tin liên quan đến tôn giáo các vị, tôi có thể đảm bảo với cô, sẽ chỉ có tôi và giáo sư Phương Tân biết được những thông tin này. Nhưng còn đầu mối dẫn đến Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta phát hiện, đã nắm được, tôi nhất định sẽ để tất cả mọi người trong đội cùng được biết.”

Lữ Cánh Nam lẩm bẩm nói: “Vậy được, còn chuyện thứ hai …” Hai hàng lông mày cô nhíu chặt lại, rõ ràng có vẻ rất bất an. Trác Mộc Cường Ba chỉ lặng yên, chờ cô nói tiếp.

Cuối cùng, sau một hồi do dự thật lâu, Lữ Cánh Nam mới cắn cắn môi như thể hạ quyết tâm gì đó, nói: “Cường Ba thiếu gia, tuy cơ thể anh vẫn chưa xuất hiện dị trạng gì, nhưng về mặt thể chất thì đã xảy ra những thay đổi vi tế, những vi sinh vật ấy sẽ ảnh hưởng đến lượng dưỡng khí được vận chuyển tới các tế bào trong cơ thể anh, tình trạng này đang diễn ra và không thể nào xoay chuyển được. Anh muốn giữ được sức khỏe như trước đây, thì cần phải cải thiện ở mặt khác.”

Trác Mộc Cường Ba không ngờ chuyện thứ hai cô muốn nói lại có liên quan đến sức khỏe của mình, vội hỏi: “Làm thế nào? Uống thuốc hả?”

“Không.” Lữ Cánh Nam nói: “Đây mới là mục đích chính tối nay tôi tới tìm anh. Kể từ hôm nay, tôi sẽ dạy anh … hô hấp”

“Hô hấp?” Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói, bất giác nhớ lại thí nghiệm hô hấp mà trước đây pháp sư Á La bảo mình làm.

“Không sai.” Lữ Cánh Nam khẳng định: “Hô hấp, là bản năng sinh tồn mà mỗi người đều học được ngay sau khi được cắt nhau thai, chính vì đây là một thứ bản năng, nên trong mắt người bình thường, hô hấp đã trở thành một việc bình thường đến không thể còn gì bình thường hơn. Nhưng sự thực thì, hô hấp có thể tạo ra thay đổi rất lớn đối với thể chất của một con người. Môn khí công trong Trung y coi trọng luyện một hơi thở, trong y học có những chứng bệnh như hô hấp khó khăn, trúng độc hô hấp tính kiềm, trúng độc hô hấp tính a xít, còn cả phương pháp hô hấp đặc biệt ở vùng cao mà chúng tôi huấn luyện cho mọi người nữa. Hô hấp có quan hệ cực kỳ mật thiết đến cơ thể người. Thông qua hô hấp, thậm chí anh còn đạt được sức mạnh lớn hơn cả huấn luyện cơ bắp đơn thuần nữa. Đồng thời cũng hoàn thiện môi trường nội thể, đạt được trạng thái tinh thần tốt hơn và khả năng phản ứng mẫn tiệp hơn.”

Nói đoạn, Lữ Cánh Nam đặt một cái hộp vuông bằng giấy bìa lên đầu giường Trác Mộc Cường Ba, mở hộp ra, bên trong hình như là một chiếc áo ghi lê thể thao, và cả một tập giấy viết tay nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đây là gì vậy?”

HÔ HẤP

Lữ Cánh Nam nói: "Đây là áo lót đàn hồi có thể tự động co rút điều khiển bằng chip điện tử. Đợi sau khi các vết thương lành lặn, anh hãy mặc vào. Nó có thể giúp anh khống chế nhịp thở và mức độ nông sâu của hơi thở, trong thời gian đầu sẽ hỗ trợ anh rất nhiều, khi đã quen với kiểu hô hấp này rồi thì không cần dùng đến nữa. Còn những tài liệu chép tay này là một số điều tâm đắc của tôi khi nghiên cứu phương pháp hô hấp của Mật tu giả, anh phải học thuộc lòng nó trước. Phương pháp hô hấp mà tôi sắp dạy cho anh đây... Ừm...đó là một phương pháp rèn luyện thân thể do tội tự lĩnh ngộ ra, hoàn toàn không có bất cứ quan hệ gì với tôn giáo của chúng tôi cả, anh có thể yên tâm mà tu luyện."

Tuy Lữ Cánh Nam nói như vậy, nhưng trong lòng Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, đây rõ ràng là chuyện giấu đầu lòi đuôi, làm gì có phương pháp tự mình lĩnh ngộ cơ chứ, đó nhất định là cơ sở nền tảng của Mật tu, còn gã thì ngay cả khảo hạch mang tính thử nghiệm cũng không thể vượt qua được. Còn tập giấy chép tay kia thì càng không cần phải nói, rõ ràng chính là những thứ pháp sư Á La ngày ngày minh tưởng mà ghi chép lại sau chuyến đi Đảo Huyền Không tự. Xem ra, rõ ràng là pháp sư Á La đã ủy thác cho Lữ Cánh Nam truyền thụ cho gã, vậy mà cô cứ nằng nặc nói là tự mình lĩnh ngộ. Không biết tôn giáo thần bí này có quy định gì về chuyện tùy tiện truyền thụ pháp môn cơ bản cho người ngoài hay không, nhưng cứ nhìn cung cách ứng xử cần trọng của họ thường ngày thì có thể thấy, Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La nhất định là đã mạo hiểm rất lớn khi làm vậy.

Lữ Cánh Nam nói tiếp: "Phương pháp này thuộc về một nhánh của Mật tông, cũng là bắt đầu từ Thất đại sát khắc la, sát khắc la, hay còn gọi là kháp khắc la, hoặc sát khắc thụy, dịch ý tiếng Phạn là luân xa, cũng chính là bảy mạch lớn trong cơ thể con người. Theo cách nói của Mật tu giả chúng tôi, cơ thể người có bảy đại mạch luân, ba đại kinh mạch, đây chính là học thuyết kinh mạch đặc biệt chỉ riêng vùng Tây Tạng chúng ta và khu vực xung quanh mới có, tương đồng với kỳ kinh bát mạch và bảy trăm linh hai huyệt vị của khí công Trung Nguyên, nhưng lại là hai hệ thống hoàn toàn khác nhau. Nền tảng chia làm khí, mạch, luân, điểm. Khí trong có thể người chia làm hai loại lớn, lần lượt là căn bản khí và chi phân khí, mỗi loại lại chia làm năm loại nhỏ. Khi là động năng của sinh mệnh, nếu có trở ngại sai khác gì, tất sẽ sinh ra bệnh tật. Mạch là quỹ đạo mà khí vận hành trong đó, có thể chia ra làm ba loại. Thứ nhất là thủy mạch: từ đỉnh đầu chạy xuống đến tủy sống và các mạch nhánh khác, là loại mạch màu trắng. Bạch sắc thủy mạch có hai vạn bốn nghìn đường. Thứ hai là huyết mạch: từ giữa thân thể vươn lên trên, tựa như một cây mã não đỏ, thuộc loại tĩnh mạch có hai màu đen trắng. Hắc bạch tĩnh mạch có hai vạn bốn nghìn đường. Thứ ba là khí mach: khí huyết tương hợp vận hành, cùng hướng lên trên như hắc bạch tĩnh mạch, khí huyết mạch màu đỏ, thuộc loại động mạch. Hồng huyết động mạch có hai vạn bốn nghìn đường..."

Lữ Cánh Nam nhắc đi nhắc lại mấy lần, yêu cầu Trác Mộc Cường Ba bắt buộc phải nhỡ thật kỹ các tinh yếu về khí, mạch, luân, điểm. Tuy nhiên một lúc gã chẳng thể nào ghi nhớ được hết lượng thông tin lớn như thế. Lữ Cánh Nam cũng không quá khắt khe, bảo không sao, sau này sẽ đến giúp gã học thuộc, nhưng tối hôm nay thì Trác Mộc Cường Ba cần phải nhớ cho rõ hướng đi của mấy đường mệnh mạch chủ yếu và phương pháp chuyển động của các mạch luân, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của minh tưởng và ý thức. Cuối cùng nói: "Có câu, mạch vi phong sở thừa, chính là muốn nói mạch dựa vào ý thức để hoàn thành, nó chịu sự khống chế của ý thức, vì vậy, trước tiên anh cần phải kiên trì dùng ý niệm tưởng tượng mỗi ngày mấy lượt rằng, mạch luân hay luân xa ở dưới cùng của anh đang chầm chậm chuyển động ngược chiều kim đồng hồ, thời gian minh tưởng không giới hạn, nhưng nhất định phải cảm giác được, khi nào nới mà anh tưởng tượng kia dần dần phát nhiệt nóng lên thì dừng. Sáng sớm tỉnh dậy, trước giờ cơm trưa, trước khi đi ngủ, ba khoảng thời gian này là vô cùng quan trọng, anh nhất định phải nhớ cho kỹ. Thời gian còn lại, tốt nhất cũng cứ theo cách tôi đã trình bày cho mà minh tưởng, trước sau không nên cách nhau quá gần, cũng không nên cách qua xa. Hôm nay chỉ nói đến vậy thôi, tôi đi luôn đây."

Trác Mộc Cường Ba thấy Lữ Cánh Nam đứng lên, cũng biết thời gian không còn sớm sủa gì nữa, bèn nói: "Cám ơn cô, thực sự rất cám ơn cô, nhờ cô chuyển lời cảm ơn đến cả pháp sư Á La nữa. Giờ tôi đang như thế này, không thể tiễn cô ra ngoài được rồi."

Lữ Cánh Nam hờ hững nói với vẻ chán nản thất vọng: "Cần gì phải khách khí thế." Cô quay người đi, thấy Đường Mẫn vẫn chưa trở lại, lúc ra tới cửa rồi lại nói: "Chuyện về hô hấp hôm nay, Cường Ba thiếu gia, tôi hy vọng... tốt nhất anh không nói với bất cứ ai."

Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ngay ra, chuyện lén truyền phương pháp Mật tu này nhất định là đại kỵ của các Mật tu giả, đến cả pháp sư Á La cũng không dám đích thân truyền thụ, mà để Lữ Cánh Nam thay mình làm việc đó. Lữ Cánh Nam rốt cuộc đã phải liều thế nào... thôi bỏ đi, không nghĩ nữa, Lữ Cánh Nam truyền thụ xong khẩu quyết và phương pháp rồi mới nói vậy, tức là đã tự đẩy chính bản thân mình bước vào con đường không thể quay về, gã còn làm được gì nữa chứ. Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Tôi hiểu, tôi hứa với cô."

Lữ Cánh Nam ngoảnh đầu lại, nói với giọng hơi pha lẫn chút hồ nghi: "Tôi nói là, bất cứ ai! Kể cả thầy giáo của anh và..."

Trác Mộc Cường Ba gật đầu cam đoan: "Tôi hiểu rồi, nhất định sẽ giữ kín."

Lữ Cánh Nam mỉm cười như thể được an ủi, đẩy cửa đi ra. Nhìn theo bóng lưng cô xa dần, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ với lòng: "Cánh Nam và Mẫn Mẫn dường như là hai thái cực hoàn toàn ngược, cô ấy làm chuyện gì cũng đều dứt khoát nhanh nhẹn, không hề ngượng ngịu gượng gạo chút nào, nhưng mà, cô làm vậy, thật không đáng chút nào..." Từ sau bận đó, Lữ Cánh Nam thường ngấm ngầm chỉ dẫn cho Trác Mộc Cường Ba cách hô hấp, hít thở, cho tới khi gã hoàn toàn nắm được phương pháp hô hấp đặc biệt ấy. Nhưng đó là việc sau này, tạm thời không nhắc đến ở đây.

Lữ Cánh Nam đi rồi, Mẫn Mẫn vẫn chưa quay lại, cũng chẳng biết có phải cô lại đi nói chuyện gì đó với Lữ Cánh Nam rồi hay không, Trác Mộc Cường Ba cũng chẳng buồn nghĩ ngợi, chỉ đưa bàn tay quấn đầy băng gạc ấn lên con chuột máy tính, tìm giáo sư Phương Tân để nói ra những nghi vấn của mình khi nãy.

Đã kết nối thành công. Trong cửa sổ webcam, giáo sư Phương Tân đeo kính lão, đang ngồi ở đầu giường sắp xếp một đống tài liệu lớn. Nghe xong câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba, ông cười cười nói: "Đúng là sức người không thể nào đi xuyên gió ở khu vực ấy thật, nhưng ai bảo là chúng ta vẫn phải băng qua Tây Phong đới đâu?"

"Nhưng mà, không đi băng qua dài gió Tây ấy, làm sao chúng ta tìm được lối vào địa điểm đó? Chẳng lẽ, còn con đường nào khác nữa ư?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Vì cậu vẫn chưa bình phục, nên tôi định mấy hôm nữa mới cho cậu biết tình hình hiện tại của chúng ta, nhưng cậu đã nôn nóng muốn biết như vậy thì nói luôn cũng được. Cường Ba à, cậu có cảm thấy mình đã lơ là xem nhẹ điều gì không?"

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Điều gì kia?"

Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: "Cậu thử nghĩ mà xem, Lữ Cánh Nam đã miêu tả ngọn núi tuyết ấy với chúng ta như thế nào chứ? Hàng năm, từ đầu tháng Năm đến trung tuần tháng Chín là mùa mưa ở đó, gió mùa Đông Nam dữ dội tạo thành khí hậu cực kỳ khắc nghiệt. Từ trung tuần tháng Mười một đến trung tuần tháng Hai năm sau, khí hậu lại bị dòng không khí lạnh Tây Bắc mạnh mẽ khống chế, nhưng mà, cậu thử nhớ lại một chút xem nào, ban đầu cậu kể với tôi, Đường Thọ, Ba Tang đã tới vùng tịnh thổ ấy vào khoảng thời gian nào vậy?"

Trác Mộc Cương Ba ngẩn người ra mất một lúc, hình như lúc đó đúng là gã cũng biết thời gian bọn Ba Tang tìm được nơi ấy, có điều, sự việc trôi qua quá lâu, gã sớm đã quên mất tiêu rồi, nhưng có một điểm thì chắc chắn là gã nhớ rất rõ, bọn Ba Tang đã từng nhiều lần đi qua nơi đó, hơn nữa gió Tây mà Ba Tang và đám đồng bọn săn trộm của anh ta gặp phải ở Tây Phong đới rõ ràng là không cùng đẳng cấp với đợt gió bọn gã đụng phải trong chuyến đi trước. Đi bộ mười lăm ngày trời trong sức gió thế dẫu là siêu nhân cũng không làm được.

Giáo sư Phương Tân nhắc nhở gã: "Quên mất rồi hả? Vậy thì để tôi trả lời cho cậu. Dựa theo những ghi chép trước đây và những gì Mẫn Mẫn, Ba Tang nhớ được, Đường Thọ được phát hiện vào khoảng tháng Sáu, còn bọn Ba Tang thì đã đi qua đó rất nhiều lần, hơn nữa lần nào cũng bình yên trở về, chỉ có lần cuối cùng mới bị tiêu diệt toàn bộ mà thôi. Nơi mà họ phát hiện ra, là do một người trong bọn họ ngẫu nhiên trượt chân rơi xuống, lại vẫn dùng bộ đàm liên lạc với nhau được, còn chỗ chúng ta đi thì thế nào chứ? Căn bản không thể bật được các thiết bị điện tử lên, điều này có ý nghĩa gì nào?"

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ: "Có lẽ nào, nơi chúng ts đi và nơi họ tình cờ phát hiện ra, không phải là một?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Cũng có khả năng này, có điều, chúng ta còn có thể giải thích theo một cách khác, đó chính là, Ba Tang và Đường Thọ đã cùng đến một nơi, nhưng nơi mà chúng ta tìm được lần này, không phải!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng tấm bản đồ đó... tấm bản đồ phát hiện được trong Đảo Huyền Không tự! Lẽ nào các chuyên gia đã phán đoán sai? Hay là, nơi chúng ta tìm đến đó mới là Bạc Ba La thần miếu thực sự, còn địa điểm mà Ba Tạng và Đường Thọ phát hiện chỉ là một nơi khác? Thầy giáo, tôi bắt đầu thấy lẫn lộn rồi, rốt cuộc là như thế nào vậy?"

Giáo sư Phương Tân lấy đầu ngón tay gõ gõ vào ống kính webcam, Trác Mộc Cường Ba cảm giác như ông đang gõ lên trán mình, bất giác hơi lùi về sau một chút. Chỉ nghe giáo sư mỉm cười nói: "Cậu ấy à! Giờ mới nghĩ tới vẫn đề này! Đây! Đây chính là điểm mà chúng ta đã bỏ sót, tất cả chúng ta, tất cả chúng ta đều không để ý đến điểm này!" Giáo sư Phương Tân ngưng lại giây lát rồi tiếp lời: "Sau khi tấm bản đồ chúng ta lấy được trong Đảo Huyền Không tự được các chuyên gia nghiệm chứng, dường như không một ai nghĩ ngờ tính xác thực của nó, tất cả đều cứ rập khuôn theo bản đồ ấy, mãi cho tới khi nhìn thấy những xác chết treo ngược trong khe băng nứt, tôi mới sực nghĩ ra, nếu tấm bản đồ ấy là giả thì sao..."

Trác Mộc Cường Ba lập tức nói: "Nhưng mà, các chuyên gia đã giám định rồi, tấm bản đồ đó rõ ràng là cổ vật từ nghìn năm trước cơ mà!"

Giáo sư Phương Tân nói: "Không sai, tấm bản đồ đó đúng là cổ vật từ nghìn năm trước, nhưng thử nghĩ lại những cạm bẫy mà chúng ta gặp phải ở Cánh cửa Sinh mệnh, ở Đảo Huyền Không tự mà xem, trí tuệ của người xưa bao la phức tạp nhường nào. Ai có thể đảm bảo tấm bản đồ không phải là vật do những người Qua Ba bảo vệ Bạc Ba La thần miếu từ ngàn năm trước ngụy trang tạo ra chứ? Hơn nữa, cậu lại nghĩ lại cho kỹ xem, tấm bản đồ đó lấy ở đâu ra vậy?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "La pháp sư Á La đoạt được trong tay Merkin..." Gã lập tức sực hiểu ra, thốt lên: "A, tên Merkin đó..."

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: "Rất có khả năng này. Phải biết là, chúng ta là những người đầu tiến đến được tế đàn Mạn Đà La, nhưng lúc đó, chúng ta đâu có phát hiện được gì. Vậy bọn Merkin tìm thấy tấm bản đồ ấy ở chỗ nào được? Về sau, theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, tấm bản đồ đó và tấm bản đồ chúng ta phát hiện ra trong mật thất Cổ Cách có khả năng được làm từ cùng một bộ da sói. Đây cũng là vấn đề mà tôi với Hồ Dương cứ tranh luận mãi, nghĩ mãi mà cũng chưa tìm được lời giải thích nào hợp lý. Giờ nghĩ lại, nếu nói tấm bản đồ trong tay chúng ta, vốn chính là tấm bản đồ mà Stanley đã từng lấy đi khỏi mất thất Cổ Cách, cũng chính là tấm bản đồ từng khiến vô số tổ chức và thế lực tranh đoạt rồi cuối cùng biến mất và không rõ lưu lạc nơi nào thì sao? Nếu như vậy, chúng ta sẽ không khó lý giải tại sao dọc đường đi lại phát hiện ra nhiều xác chết như thế, đó chính là thi thể của những người thám hiểm trước, bời vì chúng ta đã đi lại còn đường của tất cả những kẻ đi trước ấy!"

Giáo sư Phương Tân nói một tràn như súng liên thanh, làm Trác Mộc Cương Ba nghe mà ong hết cả đầu, quan hệ bên trong rắc rối lằng nhằng, vòng qua vòng lại lúc thì là bản đồ của bọn gã, lúc lại là bản đồ của bọn Merkin, một lúc sau thì lại biến thành tấm bản đồ mà vô số kẻ đi tì Bạc Ba La thần miếu từng ra sức tranh đoạt, rốt cuộc tấm bản đồ nào là tấm bản đồ nào đây? Gã gãi đầu gãi tai nói: "Đợi... đợi chút đã, thầy giáo." Gã sắp xếp lại tư duy, đoạn mới nói: "Thầy giáo, để tôi lặp lại ý thầy đã nhé. Thầy muốn nói, tấm bản đồ mà chúng ta cướp được trong tay Merkin ở Đảo Huyền Không tự, vốn chính là tấm bản đồ đã bị Morton Stanley lấy đi trong mật thất Cổ Cách, cũng chính là tấm bản đồ mà vô số đội thám hiểm trước chúng ta đã lấy làm căn cứ để đi tìm Bạc Ba la thần miếu, bởi vậy, các chuyên gia mới đưa ra hai kết luận rằng hai tấm bản đồ ấy được làm từ cùng một bộ da sói. Tấm bản đồ trong tay chúng ta, vốn chỉ là một cái bẫy do Merkin bày ra mà thôi?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu khẳng định: "Không sai, như vậy là đã có thể giải thích tại sao các chuyên gia lại đưa ra kết luận hai tấm bản đồ được làm từ cùng một bộ da sói, bởi vì chúng vốn được đặt ở cùng một nới, chứ không phải phân tán ở hai nơi khác nhau và cách nhau mấy trăm năm; đồng thời cũng giải thích được tại sao dọc đường lại phát hiện ra nhiều xác chết đến thế, bởi vì người ta sớm đã dựa theo tấm bản đồ ấy mà đi tìm Bạc Ba La thần miếu từ lâu lắm rồi, và tất cả đều thất bại hết."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhưng tại sao hắn lại làm vậy chứ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Rất đơn giản, nếu tấm bản đồ này là do Merkin cố ý chuẩn bị cho chúng ta, thì chắc chắn hắn đã đến núi tuyết đó rồi. Hơn nữa, hắn cũng biết nơi đó đáng sợ đến thế nào, đồng thời cũng biết được rằng, ở đó căn bản không thể nào tìm được lối vào Bạc Ba La thần miếu. Hắn làm như vậy, chỉ có một mục đích thôi, chính là muốn khiến cho chúng ta thất bại! Cậu thử nghĩ xem, chúng ta đang điều tra hắn, hắn cũng đang điều tra chúng ta, từ trước tới nay cũng chỉ có hai nhóm chúng ta và hắn là đã đến địa cung Maya, và phát hiện ra những đầu mối mới đó mà tìm đến Đảo Huyền Không tự, nếu nói có phát hiện gì mang tính đột phá, thì cũng chỉ có thể là một trong hai nhóm này mà thôi. Tôi đoán, có lẽ hắn cũng biết rõ đội ngũ của chúng ta không thể thất bại được, một khi thất bại, sẽ lập tức phải đối mặt với nguy cơ bị giải tán. Chúng ta mà bị giải tán, thì bọn hắn sẽ trở thành đội ngũ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu có thực lực nhất còn lại, cơ hội là người đầu tiên phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu của hắn sẽ lớn hơn rất nhiều. Cậu nghĩ thử xem, nói như vậy có lý không?"

Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra một lúc, không ngờ bên trong chuyện này lại có lý lẽ phức tạp đến thế. Nghe giáo sư nói xong, gã liền như người bừng tỉnh khỏi cơn mông, nhưng vẫn cứ cảm thấy bên trong hãy còn điểm gì đó chưa được ổn lắm, nhưng rồi rốt cuộc là điểm nào thì gã lại không sao nói ra được. Trong lúc đó, giáo sư Phương Tân cũng thoáng ngẩn ngơ, thầm tự nhủ: "Vậy thì, hắn theo dõi chúng ta lên núi tuyết phỏng có ý nghĩa gì? Lẽ nào, hắn phải thấy chúng ta tất cả đều chôn thây nơi núi tuyết ấy mới can tâm hay sao? Cần gì phải thế chứ?"

Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, rồi nói tiếp: "Còn nữa, từ tấm bản đồ ấy, ta có thể suy đoán được nguyên nhân đội của chúng ta bị giải tán."

"Hả?" Trác Mộc Cường Ba lại thần người ra.

Giáo sư Phương Tân liền mỉm cười giải thích: "Còn nhớ chuyện Ngải Lực Khắc rời khỏi đội không? Lúc đó tôi đã nói với cậu như thế nào nhỉ, đó là một tín hiệu, từ lúc đó lãnh đạo cấp trên đã chuẩn bị giải tán nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta rồi. Bởi vì việc thành lập nhóm của chúng ta, bản thân đã chỉ là một hành động mang tính thử nghiệm, một nơi đã tìm kiếm cả hơn một trăm năm vẫn chưa thấy bóng dáng đâu, một nơi mà vô số các tổ chức chuyên nghiệp cũng không thể nào tìm được, đâu dễ dàng gì bị một nhóm toàn dân không chuyên như chúng ta tìm thấy chứ, chỉ vì lúc đó đột nhiên xuất hiện quyển trục từ nước ngoài trở về Trung Quốc, tất cả ai cũng mang tâm thái muốn thử một phen xem sao nên mới thành lập ra nhóm này mà thôi. Họ đã cho chúng ta thời gian hơn một năm mà vẫn chẳng có bất kì tiến triển gì, vậy thì, đội ngũ này cũng phải bị thủ tiêu thôi, mà tấm bản đồ trong tay chúng ta, chính là được phát hiện trong thời gian ấy..."

Giáo sư Phương Tân gỡ cặp kính lão xuống lau lau cho sạch, tiếp lời: "Còn nhớ chuyện đội trưởng Hồ Dương kể không? Người chiến hữu đó của anh ta từ mười mấy năm trước đã tới núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, cũng có nghĩa là, nhà nước sớm đã tổ chức đội khảo sát khoa học tham hiểm con đường này rồi, chỉ có điều, lần đó đã thất bại. Mà trong cả quá trình, chắc chắn là không chỉ có một lần đến khảo sắt, bởi vậy, khi các chuyên gia đối chiếu ra được vị trí cụ thể của tấm bản đồ này, họ sẽ nghĩ như thế nào chứ? Thì ra lăn ộn hai năm trời, rốt cuộc vẫn phải đến cái nơi đó hay sao?"

Trác Mộc Cường Ba nhìn gương mặt giáo sư Phương Tân trong màn hình máy tính một hồi thật lâu. Những chuyện này từ trước đến nay gã đều chưa từng nghĩ đến, giờ nhớ lại, mới thấy đúng là có lý thật. Đội của bọn họ đã thành lập được hơn hai năm, đầu mối duy nhất điều tra ra được, không ngờ lại là thứ đã bị phát hiện từ mười mấy hoặc thậm chí là mấy mươi năm trước, coi như là chẳng có bất cứ cống hiền gì mà chỉ lãng phí tài nguyên con người của cuộc gia. Vậy tại sao cấp trên cứ chần chừ mãi không giải tán chứ? Đó chắc chắn là kết quả tranh đấu không ngừng của Lữ Cánh Nam. Vừa nghĩ tới Lữ Cánh Nam, Trác Mộc Cường Ba vội gạt hết những suy nghĩ ấy ra khỏi đầu, nhìn ống kính webcam lẩm bẩm nói: "Tôi không ngờ lại là như thế..."

Giáo sư Phương Tân nói: "Tôi biết, đây chính là khuyết điểm của cậu, lúc nào cũng thích nghĩ sự việc theo chiều hướng đơn giản, chỉ nhìn vào bề mặt, là một người làm việc theo cảm tính. Nếu muốn trở thành đại trí giả giống như cha cậu, cậu cần phải nhìn thấu qua bề mặt của sự việc, phát hiện huyền cơ ẩn tàng bên trong. Rất nhiều sự việc nhìn bên ngoài tưởng chừng như không hề liên quan, kỳ thực lại có trăm mối ngàn mối liên hệ với nhau. Một con bướm ở châu Mỹ đập cánh, có thể dẫn đến hình hành một trận cuồng phong trên Thái Bình Dương. Cậu có biết không, từ trước khi nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta được thành lập, Đức Nhân lão gia sớm đã dự đoán được lần thất bại này. Ông ấy từng nói với tôi, không phải việc do mình đích thân làm, thì không thể nào thành công được. Cho đến ngày hôm nay, tôi mới thực sự hiểu được hàm nghĩa của câu nói ấy."

Lời của giáo sư Phương Tân tựa một tia sét giữa đêm đen, Trác Mộc Cường Ba như người sực tỉnh khỏi cơn mộng mị. Hai năm nay cứ theo đội ngũ này bôn ba khắp bốn phương, gã cơ hồ đã quen với việc phục tùng mệnh lệnh mà quên mất chuyện tự mình suy xét, giờ đây nhớ lại các chi tiết nhỏ nhặt, mới thấy không ngờ trước đây bọn gã đã trồng xuống bao nhiêu mầm thất bại để dẫn đến kết cục ngày hôm nay. Đồng thời, gã cũng giật bắn mình, vội nói: "Nếu tấm bản đồ này là giả, vậy thì tấm bản đồ thầy tìm được trong mật thất Cổ Cách lúc cuối cùng chẳng phải là..."

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: "Ừm, trước mắt vẫn còn đang nghiên cứu, tôi đã xin ý kiến của rất nhiều chuyên gia về hình tượng học, chuyên gia phá giải mật mã, chuyên gia thám hiểm, chuyên gia tôn giáo... vân vân... nhưng không một người nào hiểu. Tất cả đều chung một ý kiến, rằng ngoài bản đồ giao thông ở các đô thị lớn và hiện đại ra, không thể có một tấm bản đồ nào vẽ kiểu như thế cả, đặc biệt là bản đồ chỉ đường đến một nơi nào đó. Hôm nay cậu bị thương nặng như vậy, tốt nhất hãy nghỉ ngơi cho sớm một chút, còn nhiều thông tin khác, tôi sẽ trao đổi với cậu sau. Bên trong chuyện này còn rất nhiều vấn đề mà chúng ta chưa thể giải đáp, nhưng giờ đã nắm được quyền chủ động trở lại, thì phải phát huy trí tuệ của bản thân cho hết mức hết nhẽ mà giải đáp câu đố của người xưa để lại. Muộn quá rồi, cứ thế này..."

Đêm hôm đó, Trác Mộc Cường Ba trằn trọc không yên, cứ băn khoăn suy nghĩ mãi về những lời giáo sư Phương Tân đã nói. Phải nhìn thấy những thứ ẩn sau bề mặt của sự việc, dường như gã dự cảm được tất cả những chuyện này có điều gì đó không ổn cho lắm, cảm giác này gã đã có từ rất lâu rồi, từ lúc nào vậy nhỉ? À, đúng rồi, là từ lúc Babatou kể về những kẻ định vô hình, nhưng mà, rốt cuộc là có điều gì không ổn chứ? Kẻ địch vô hình? Merkin? Lúc này tên đó đang ở đâu? Đang làm gì?

NGHI VẤN TRONG KIM THƯ

"Ắt xì... ắt xì..." Merkin liên tiếp nhảy mũi mấy cái liền. Soares đứng bên cạnh cười nhạt hỏi: "Sức khỏe như anh mà cũng có lúc bị cảm à?"

Merkin nói: "Làm gì có chuyện đó, chỉ tại thời tiết khô hanh quá, trong mũi cứ ngứa ngáy thôi. À, phải đấy, nghiên cứu của anh ra sao rồi?"

Soares bực bội lắc đầu: "Đừng nhắc nữa, không phải là thứ sinh vật trong tưởng tượng của tôi, lại tốn công vô ích cắm đầu cắm cổ hơn nửa năm trời, còn anh? Anh vẫn đợi tình hình từ phía đám người kia à?"

Merkin đáp: "Đúng vậy. Cũng chẳng còn chuyện gì khác để làm."

Soares hờ hững nói: "Nghe đồn, anh đang chuẩn bị rao bán hai khu đất ở Mỹ hả, chuyện làm ăn thế nào vậy?"

Merkin nói: "Không có gì, gần đây nhầm lẫn mất hai lần, thành ra tổn thất hơi lớn, cần tiền mặt gấp để bồi thường."

Soares nói: "Ừm, dự tính phải đền bao nhiêu?"

Merkin nói: "Khoảng ba trăm triệu gì đấy."

Soares bật cười: "Không ngờ chuyên gia giám thưởng như anh mà cũng có lúc nhìn lầm cơ à."

Merkin cười khổ nói: "Trong cái ngành châu báu cổ vật này, dù người lợi hại đến mấy cũng không dám tự xưng là trăm phần trăm chuẩn xác, đây vốn đã là ngành có nhiều hàng giả nhất từ khi nhân loại có lịch sự đến nay mà. Có điều cũng chẳng can hệ gì, chỉ cần có thể tìm thấy được Bạc Ba La thần miếu thì dẫu phải táng gia bại sản tôi cũng không sợ."

Soares cười cười, đột nhiên nói: "Đúng rồi, Ben, tấm bản đồ đó... đúng là anh nhặt được dưới đất hả?"

Merkin gật đầu khẳng định: "Đúng thế, tôi đã gạt anh lúc nào đâu, hơn nữa, cơ quan cạm bẫy ở đó phức tạp như vậy, sau khi cạm bẫy khởi động, người lợi hại thế nào chăng nữa cũng không thể nào vượt qua được, chỗ như thế lẽ nào lại là nơi tùy tiện ra vào được chứ? Theo lý mà nói, tấm bản đồ đó không thể là đồ giả được, vậy mà chúng mãi vẫn không tìm được nơi ấy, hơn nửa năm nay cũng chẳng đi đâu hết. Cái tên Trác Mộc Cường Ba đó lại còn đột nhiên biến mất, chính mấy tên đồng bọn cũng không tìm được hắn, tôi đây cũng lấy làm kỳ lạ."

Soares nở một nụ cười hờ hững, chẳng bộc lộ cảm xúc gì, nhổm người đứng lên, bước tới bên cạnh ô cửa sổ kiểu Pháp: "Cứ tiếp tục thế này mãi thì ích lợi gì? Tìm trăm phương ngàn kế để chúng có được tấm bản đồ đó, kết quả là chúng vẫn không tìm được gì. Lẽ nào thật sự không có chút đầu mối gì hay sao?"

"Không." Merkin nói: "Tôi không chỉ lần theo các đầu mối, mà cả người nữa. Anh biết đấy, thứ tôi thực sự muốn tìm..."

Lúc này, Max bỗng hớn hở chạy xồng xộc vào, reo lên mừng rỡ: "Ông chủ, tìm được rồi, hắn đang ở trong một bệnh viện ở Thượng Hải."

Merkin liền nói: "Sao lại ở đó?"

Max nói: "Theo tin mới nhất từ Trung Quốc chuyển về, công ty của hắn đã phá sản, đội ngũ được huấn luyện đặc biệt của bọn chúng cũng đã bị giải tán. Hớn nữa, dường như tên Trác Mộc Cường Ba ấy đã mắc phải một loại bệnh hết sức kì dị, giống như cơ thể có gắn một quả bom hẹn giờ vậy, một năm sau sẽ nổ. Với trình độ y học hiện nay vẫn chưa có cách nào chữa trị được, vậy nên hắn đã bị chấn động rất nặng, ý chỉ sa sút, tinh thần chán nản, suốt một thời gian dài chỉ ngày ngủ đêm đi, ra vào các quán rượu sàn nhảy như cơm bữa, do đó chúng ta mới không tìm được hắn. Còn nữa, nghe đồn hắn đánh nhau với một đám lưu manh du đãng mà bị thương phải nhập viện. Tôi thấy gã này không còn hi vọng gì nữa rồi."

Merkin cũng không khỏi biến đổi sắc mặt, thầm nhủ: Sao lại thành ra như vậy chứ? Lẽ nào hắn thật sự chỉ ngã một lần là không bao giờ gượng dậy nổi hay sao?

Soares nói: "Anh thấy chưa, cuối cùng lời tôi nói đã ứng nghiệm rồi, nếu bọn chúng mà tìm được Bạc Ba La thần miếu, tôi sẽ đi hôn đít lừa ngay lắp tự."

Merkin lại hỏi: "Vậy là cho đến lúc này, hắn cũng chưa hồi phục à?"

Max lắc đầu: "Cũng không phải, hình như sau khi những tên khác trong đội tìm được hắn, tình hình đã có chút biến chuyển theo chiều hướng tốt hơn. Nhưng tôi cảm thấy khả năng bọn chúng tiếp tục đi tìm Bạc Ba La thần miếu không lớn lắm. Đã ra đến nông nỗi này rồi, nếu còn tiếp tục tìm kiếm, chỉ sợ e sẽ rơi vào cảnh cùng đường mạt lộ, muôn đời cũng không thể trở mình. Nếu đổi lại là tôi, tôi tuyệt đối không tiếp tục tìm kiếm nữa đâu."

Hai hàng lông mày nhíu chặt của Merkin đã hơi giãn ra phần nào, tủm tỉm cười nói: "Đáng tiếc, mày không phải là Trác Mộc Cường Ba. Tao hiểu con người hắn, hắn không phải là loại người dễ dàng bỏ cuộc như thế đâu, nếu hắn mà bỏ cuộc thì đã không phải là Trác Mộc Cường Ba rồi. Hơn nữa, những chiến hữu cũ của Trác Mộc Cường Ba tìm hắn làm gì cơ chứ? Nhất định là để cổ vũ hắn tiếp tục tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi. Cả đám người ấy đều không bỏ cuộc đâu, tên nào tên nấy đều có mục đích riêng cả, khà khà, đúng là càng lúc càng thấy thú vị. Nhớ kỹ, lần liên hệ sau, phải nói với người của chúng ta, trước khi tìm được Bạc Ba La thần miếu thì đừng có liên lạc lại nữa, giờ đã không còn là hành động được chính phủ Trung Quốc ủng hộ nữa, mà là hành động tự phát, chắc chắn chúng sẽ cẩn thận hơn nhiều, chỉ cần hơi bất cẩn một chút là có khả năng bị vạch trần thân phận ngay."

Max cung kính nói: "Vâng, ông chủ." Hắn do dự giây lát, rồi lại nói: "Ông chủ, hình như đã có gì sai sót, hình như có mấy tổ chức tương đối lớn đã nhận được một số thông tin, biết được rằng bọn Trác Mộc Cường Ba đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hơn nữa còn từng được chính phủ Trung Quốc ra mặt ủng hộ nữa."

"Cái gì!" Merkin giật mình chấn động thốt lên: "Rốt cuộc là chuyện gì? Tin tức để lộ ra ở chỗ nào vậy?"

"Chuyện này, vẫn chưa được rõ..." Max cúi gằm mặt liếc trộm ông chủ một cái, dè dặt nói.

"Điều tra! Dứt khoát phải điều tra cho tao!"

Sáng sớm hôm sau, người đầu tiên đến bệnh viện không ngờ là pháp sư Á La. Ông không hề nhắc nửa lời đến chuyện hô hấp hít thở, tỏ ý hoàn toàn không hay biết gì chuyện này. Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện phơi trần ra, nhưng gã thầm nhủ trong bụng, vẫn phải nói với pháp sư về vấn đề tín ngưỡng trong tôn giáo của họ, tư tưởng hạt nhân tà ác ấy, tốt hơn hết là không nên đi tìm nữa thì hơn.

Pháp sư Á Là nghe Trác Mộc Cường Ba thuật lại những suy đoán của Đức Nhân lão gia về giáo nghĩa của tôn giáo đó xong, liền mỉm cười bảo: "Tuy rằng Đức Nhân lão gia luôn là bậc đại trí giả mà tôi vô cùng kính phục, nhưng về vấn đề này, tôi lại không tán đồng quan điểm của ông ấy. Phật và chúng sinh bình đẳng không chỉ là tín ngưỡng trong tôn giáo của chúng tôi, mà cũng là tín ngưỡng của một số tôn giáo bí mật khác nữa, ý nghĩa của nó vốn cũng tương đồng như quan niệm chúng sinh bình đẳng mà thôi, chỉ có điều, thứ mà chúng tôi tin tưởng vào đó, là một xã hội đại đồng hơn nữa. Trong xã hội ấy, thần Phật và chúng sinh đều bình đẳng, thông qua nỗ lực tu luyện của bản thân, hết thảy chúng sinh, từ cao cao tại thượng như quân vương, thừa tướng, hay thấp hèn như loài sâu loài kiến, ai ai cũng đều có thể tu luyện thành Phật. Cường Ba thiếu gia không thể nào nói, tín ngưỡng như vậy là tà ác phải không?"

Trác Mộc Cường Ba đưa tay gãi gãi lên má qua lần băng vải. Pháp sư Á La lại tiếp lời: "Quan điểm 'ta vốn là Phật' lại càng dễ giải thích hớn, ý chỉ rằng, người người đều có một trái tim từ bi hỷ xả, phổ độ chúng sinh, cứu người cứu mình, còn khát vọng muốn được trường sinh bất lão, sở hữu sức mạnh phá hoại tất thảy mà Trác Mộc Cường Ba nghĩ tới kia không thể nào xem 'ta vốn là Phật' được, mà phải gọi là 'ta vốn là Ma' mới đúng."

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, hình như giải thích như vậy cũng rất thông, bởi thế mà xưa nay gã đều cảm thấy những chuyện trong tôn giáo rất phiền phức, bảo tốt thì là tốt, bảo xấu thì tức là xấu, giải thích thế nào cũng xong, đành phải chờ xem năng lực lý giải của mỗi người như thế nào thôi vậy. Những điều pháp sư Á La nói cũng không phải là không có lý lẽ, nhưng nghĩ đến huyết trì, cùng những thứ được thấy, được nghe ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy thật tà ác, ít nhất thì cũng không thể gọi là từ bi được. Pháp sư Á La lại nói: "Tôi biết trong lòng cậu đang nghĩ gì. Huyết trì và các tượng Phật tướng mạo hung hãn đó, dường như chắc đến mười mươi là vật sở hữu của ta giáo, nhưng thực ra lại không phải như vậy. Huyết trì lấy máu người làm nhiên liệu, lại phải đặt các cơ quan nội tạng ở các vị trí khác nhau mới có thể khởi động, điều này... điều này chắc là Cường Ba thiếu gia có thể lý giải được. Ở Tây Tạng thời xưa, địa vị xã hội của con người được phân biệt hết sức rõ rệt, những người nông nô ở tầng lớp thấp kém nhất, gần như là không có địa vị gì để mà nói cả, từ khoảnh khắc được sinh ra trên đời này, sinh mạng của họ, và cả của cha mẹ và tổ tiên nhà họ, đều thuộc về chủ nhân cả. Thân thể của họ cũng thường được dùng để làm cống phẩm để hiến sinh cho các loại lễ khác nhau. Chắc là Cường Ba thiếu gia cũng biết điều này chứ nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba im như thóc, không nói một lời. Từ nhỏ gã đã nghe chú La Ba kể chuyện, hồi trước giải phóng, nông nô Tây Tạng đúng là chẳng hề có chút địa vị nào cả.

Pháp sư Á La lại nói: "Nghi thức này, thực ra chỉ là một tập tục xấu còn sót lại từ xã hội nguyên thủy nhất của loài người. Trong thời cổ đại từ ngàn vạn năm về trước, con người thảy đều singf bái sức mạnh hủy diệt đất trời của đại tự nhiên, vả lại, cũng không thể có những nhận thức khoa học về chu kỳ sinh lý của bản thân mình, bọn họ thường hay lựa chọn tế lễ bằng máu tanh để khẩn cầu được ban cho sức mạnh lớn lao. Đồng thời, trong tiềm thức của họ, một số xúc cảm tiêu tục dồn nén đã lâu cũng được phát tiết trong những dịp tế lễ này. Không chỉ ở khu vực Tây Tạng chúng ta, mà người cổ đại trên toàn thế giới đều có những nghi thức tương tự như vậy, bao gồm cả Maya ở châu Mỹ mà cậu đã từng đến, Trung Nguyên cổ đại, châu Á cổ đại, châu Phi cổ đại, mức độ tanh máu và tàn bạo đều không thua kém huyết trì, chỉ có điều, cùng với sự phát triển của nền văn minh, chúng đã dần dần biến mất, mỗi vùng lại có một kiểu truyền thừa khác nhau mà thôi. Còn Tây Tạng chúng ta, nằm trong môi trường tương đối khép kín trong một thời gian dài, tập tục xấu này mới được truyền thừa khá lâu đời như thế. Tuy vậy, điều này cũng không thể nói lên rằng nó tà ác, mà đơn giản chỉ là một vết sẹo để lại trong lịch sự nhân loại mà thôi. Còn những tượng Phật tạo hình hung ác kia ư, Cường Ba thiếu gia có thể tới bất cứ ngôi chùa miếu nào để quan sát, làm gì có chùa nào là không có tượng hung thần ác Phật dùng để trấn yêu phục ma, cách gọi chính xác của những tượng Phật ấy phải là Phẫn nộ tướng của Bồ Tát và Kim Cương. Ngoài ra trong cả Mật pháp lẫn Hiển pháp, cũng không thiếu gì tượng Kim Cương lấy các bộ phận trên cơ thể người làm vật cầm trên tay, trong đó nhiều nhất chính là xương sọ, kế đó là tim người, da người. Tại sao lại khắc tạc ra tượng Phật có hình dạng như thế chứ? Đó không phải để nói rằng Phật ăn thịt người, mà là biểu đạt sự răn đe và trừng phạt đối với kẻ ác, làm chuyện ác nhiều, chưa cần xuống tới địa ngục, khi còn đang sống cũng sẽ bị Phẫn nộ Kim Cương hoặc Bồ Tát mổ bụng lấy tim, lột da cắt đầu. Còn tôn giáo trước đây của chúng tôi, có lẽ đã lấy việc trấn thủ ngọn nguồn cái ác làm nhiệm vụ, vì vậy nên tạo hình các tượng Bồ Tát đều có đặc biệt hung dữ hơn một chút, bằng không thì khó mà trấn áp được ác ma." Pháp sư Á La thấp giọng xuống nói: "Tôi tin rằng, giáo lý của tôn giáo chúng tôi tin theo, tuyệt đối không phải là những điều tà ác đâu!"

Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Tôi cảm thấy, cha mình nói rất có lý, nhưng mà hôm nay nghe pháp sư nói, lại cũng thấy rất có lý, chúng ta không nên tùy tiện phán xét tư tưởng của cổ nhân một cách bậy bạ. Tư tưởng của người xưa có lẽ là trung tính, những người khác nhau sau khi xem xong lại có những cảm ngộ khác nhau, dẫu là giáo lý dẫn dắt con người ta hướng thiện tới đâu, đến tay những kẻ tà ác thì cũng bị lý giải thành tư tưởng tà ác mà thôi."

Pháp sư Á La nở một nụ cười, nói: "Cường Ba thiếu gia quả là người nhìn xa trông rộng, tôi biết là vậy mà."

Không lâu sau, Trương Lập cũng vừa đến, vừa vào phòng đã đưa tay chào theo lối nhà binh, rồi cười cợt hỏi: "Đội trưởng, hôm nay có sắp xếp gì không?"

Trác Mộc Cường Ba cũng gượng gạo cười, đáp: "Cậu nhìn bộ dạng của tôi như vậy, nhúc nhích còn chẳng nổi, lại còn chẳng hiểu chuyện gì, cứ đợi đấy đay, xem thầy giáo có phân công gì không. Sao mọi người không đến cùng một lượt vậy?"

Trương Lập đáp: "Thói quen mỗi người mỗi khác, giống như đại sư Á La đây, dậy sớm còn hơn cả tôi nữa, còn thằng nhóc Nhạc Dương kia thì chỉ ngủ suốt cả ngày, thật không hiểu làm sao mà cậu ta lại được huấn luyện thành lính trinh sát nữa. Hừm, e là hôm nay giáo sư Phương Tân sẽ bảo chúng tôi đi thu thập các tài liệu về đấy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo sẽ là đầu não chỉ huy của chúng ta, theo tôi, chắc mọi người đều không có ý kiến gì với sự phân công của thầy ấy đâu. Có điều, nói thực lòng, tôi không hy vọng mọi người bắt đầu hành động nhanh như vậy chút nào, mong rằng trong lúc dưỡng thương, mọi người có thể ở lại với tôi thêm vài ngày. Cậu biết đấy, ở chỗ này, tôi vẫn còn bị thương nặng lắm." Nói đoạn, gã đưa bàn tay băng bó gõ gõ lên bộ ngực cũng băng bó chằng chịt.

Trương Lập vỗ vỗ lên ngực Trác Mộc Cường Ba, nói: "Chuyện này thì đơn giản thôi, một hai năm nữa, anh và cô Mẫn Mẫn sinh thêm ba bốn đứa thì chỗ này có bị thương gì cũng lành hết cả thôi!"

Vừa lúc đó, Đường Mẫn bước vào, nghe thấy câu cuối cùng, lập tức giận giữ trách móc: "Anh nói cái gì đấy, Trương Lập! Anh coi tôi là cái thứ gì chứ hả!" Nói xong, liền vung tay nắm đấm lên. Trương Lập cười ha hả, vội lách người sang một bên né tránh cú đánh của cô.

Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La mỉm cười nhìn hai người đuổi bắt nhau. Trác Mộc Cường Ba bỗng cảm thấy tim mình đau thắt lại... cảm xúc này... tại sao cảnh tượng trước mắt lại khiến gã cảm thấy đau lòng như vậy chứ? Đúng rồi, gã cũng từng có một thời trẻ dại, lúc ấy vó một cô bé con ngày nào cũng bám lẵng nhẵng theo lưng gã, không bao giờ chịu rời xa, lại cũng rất hay giận dỗi nũng nịu, em gái...

Đường Mẫn không bắt được Trương Lập, liền quay sang mách với Trác Mộc Cường Ba: "Cường Ba à, anh xem đội viên của anh kìa, bây giờ, anh ta bắt nạt em mà anh còn chẳng bênh, nếu mà... nếu mà, sau... sau này thì làm sao?"

Trương Lập nói: "Ủa? Cô Mẫn Mẫn không nói hết lời rồi, có phải muốn nói, sau này kết hôn thì làm sao đúng không?"

"Anh..." Đường Mẫn lại nhảy dựng lên đuổi theo Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba khẽ đằng hắng trong cổ họng, nói: "Được rồi, Trương Lập, xét tình hình này, với tư cách đội trưởng, tôi phạt cậu đi mua đồ ăn sáng cho mọi người. Đồ ăn trong căng tin bệnh viện thực là khó nuốt quá đi mất."

Đường Mẫn nói: "Bên kia đường có tiệm Vĩnh Hòa Đại Dương(1), sữa đậu nanhf bánh quẩy ở đó cũng khá ngon, hôm qua tôi vừa ăn ở đấy rồi."

Đợi mọi người lần lượt đến đủ, phòng bệnh lại ồn ào thêm một phen nữa. Giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba, đã đến lúc mọi người bắt tay hành động rồi. Vậy là theo kế hoạch đã vạch ra từ trước, tất cả lại phân tán một lần nữa. Có điều lần này đã không còn cảm giác âu sầu buồn bã khi biệt ly mấy tháng trước, mà người nào người nấy cũng đều hừng hực lòng tin cả.

Mấy ngày tiếp sau đó, Trác Mộc Cường Ba nhận được một lượng thông tin rất lớn từ chỗ giáo sư Phương Tân chuyển qua, bao gồm cả quá trình tỉ mỉ của việc phá giải mật mã trên bao thuốc lá, bản phân tích cuốn nhật ký của Đường Thọ, những tiến triển mới nhất trong quá trình phân tích tư liệu mang ở Maya về, bản dịch mới nhất của Cổ Cách kim thư, còn tối tối gã lại phải học thuộc khẩu quyết Mật tu, thử dùng ý thức cảm nhận hướng đi của luân xa. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy, đây cũng là một sự khiêu chiến với khả năng ghi nhớ của gã.

-*-*-

(1) Một thương hiệu thức ăn nhanh kiểu Trung Quốc rất nổi tiếng.

Trước khi vết thương của Trác Mộc Cường Ba lành hẳn, Đường Mẫn là người phụ trách chăm sóc việc ăn uống tắm giặt của gã. Mới chỉ mấy ngày ngắn ngủi bên nhau mà tình cảm của hai người đã càng thêm thân thiết, như keo như sơn.

Trong rất nhiều đầu mối, đầu mối có quan hệ mật thiết nhất với họ, và cũng là điều Trác Mộc Cường Ba quan tâm nhất, không là gì khác ngoài bản dịch mới nhất của Cổ Cách kim thư. Vì các chuyên gia giải dịch theo từng đoạn một, hơn nữa Lữ Cánh Nam cũng phải thông qua nhiều kênh phức tạp rối rắm mới có được những bản dịch này, nên bản dịch trong tay gã bây giờ, cũng chỉ là một số đoạn tản mát không liền mạch.

Có điều, thông qua những đoạn văn tản mát này, bọn họ đã lờ mờ phán đoán ra được, vị sứ giả ấy tổng cộng xuất hiện ba lần trong lịch sự Cổ Cách. Đoạn nhắc đến chuyện sứ giả mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mà họ biết được từ trước, đã là lần xuất hiện thứ hai của vị sứ giả này rồi. Trong những gì sứ giả nói, lộ ra rằng ông đã từng đến Cổ Cách trước đây. Còn nữa, khi sứ giả mang theo tín vật vượt đường xa vạn dặm đến miền đất khác, từng có ước định với quốc vương, nếu như vẫn còn sống, nhất định sẽ trở về hội kiến với quốc vương thêm lần nữa. Chỉ tiếc một điều là, phần nửa sau giải đáp câu hỏi rốt cuộc sứ giả có trở lại hay không của Cổ Cách kim thư cho đến giờ vẫn không ai biết đang lưu lạc nơi nào.

Cả giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba đều không tùy tiện đem Tây Thánh sứ được nhắc đến trong Cổ Cách kim thư và hai vị Thánh sứ được các vị trưởng lão ở thôn Công Bố thừa nhận, vì cũng chính là Merkin và Trác Mộc Cường Ba, đánh đồng với nhau. Bởi vì, dựa theo những gì dịch từ cổ ngữ, vị Thánh sứ này được chọn trong những bậc đại trí, hoặc giả có huyết thống cao quý thần chủng. Chẳng những thế, vị Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng này không hề được ghi chép trong Cổ Cách kim thư, căn bản không thể tìm thấy truyền thừa lịch sử của ông ta, nên chỉ có thể coi là một phỏng đoán mà thôi. Nếu trực tiếp liên hệ so sánh ông ta với hai người bọn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, thì thật là thiếu chứng cứ lịch sử.

Một điều nữa khiến Trác Mộc Cường Ba càng thêm chấn động và kinh ngạc là khi đó, vị Cổ Cách vương Y Tây Ốc Bá kia chẳng những là nhà tài trợ cho sứ giả mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến nơi chân trời góc biển, mà còn có liên quan tới một món thánh vật khác nữa. Từ những đoạn văn dịch không liền mạch, có thể đưa ra một kết luận mơ hồ rằng, ước định của sứ giả và quốc vương khi ấy là, ông ta mang theo một trong ba món tín vật vượt đường xa đến đầu bên kia của góc biển chân trời, còn quốc vương cũng bí mật phái đi một vị sứ giả khác, mang theo một tín vật nữa, đến một nơi xa xăm góc biển chân trời khác. Còn chuyện quốc vương có hoàn thành ước định kia hay không thì trong bản dịch không nhắc cụ thể tận tường, mà dường như đã ẩn giấu đầu mối vào sự kiện quốc vương phái đi hai mươi người con xuất sắc nhất của Cổ Cách đến phương Tây. Ở bên dưới đoạn văn dịch một cách hàm hồ khó hiểu này, giáo sư Phương Tân đã cạch một đường bằng bút đỏ, đồng thời chú thích ở bên cạnh: vào khoảng năm 975 đến 981 sau Công nguyên, sự kiện Cổ Cách vương phái đi hai mươi mốt thiếu niên thông huệ nhất đến Thiên Trúc học Phật, lịch sử và ẩn ngữ ám thị dường như có một sự trùng khớp nào đó.

Còn vấn đề hơn hai mươi thiếu niên Cổ Cách ấy có mang theo thứ gì hay không, thì trong Cổ Cách kim thư không hề nói rõ. Giáo sư Phương Tân đã cẩn thận tiến hành sắp xếp lại những tư liệu lịch sử có thể tra ra được, liên quan đến hơn hai mươi thiếu niên sang Thiên Trúc học Phật kia. Căn cứ theo các tư liệu ấy, các thiếu niên đó đã xuất phát một cách rất bí mật, vì vậy thời gian cụ thể không sao xác định được, mà rốt cuộc họ đã đi đâu cũng không sao làm rõ được, chỉ biết rằng hơn hai mươi người ra đi, cuối cùng còn có hai người sống trở về. Hai người này bái A Để Hiệp(1) đại sư làm thầy, về sau trở thành những dịch giả nổi tiếng nhất trong lịch sử Cổ Cách. Quãng thời gian bọn họ ra nước ngoài cầu Phật cũng khoảng chừng hơn mười năm, không hề ngắn hơn quang thời gian mà vị sứ giả vượt Thái Bình Dương tiến về phía Đông kia là mấy đâu.

Còn về món tín vật thứ ba, trong những đoạn dịch rời rạc họ đang có vẫn chưa thể phát hiện ra bất cứ đầu mối nào liên quan đến nó. Rốt cuộc là nó đã được giao cho người khác, hay bị hủy diệt, hay vẫn còn lại ở đất Tạng, không một ai có thể đoán chắc được, chỉ biết rằng vị sứ giả kia đã từng nói có ba món tín vật mà thôi.

Tuy nhiên từ bản dịch xuất hiện ba nghi vấn. Thứ nhất, thái độ của sứ giả đối với ba món tín vật; từ một vài đoạn, có thể thấy rằng mục đích của sứ giả là muốn giao chúng cho ba người khác nhau, nhưng trong một số đoạn thì hoàn toàn khác hẳn, sứ giả muốn giấu hai nhóm tín vật đi, tốt nhất là có thể chia ra hai nới chân trời góc biển, vĩnh viễn không bao giờ để tái hợp. Sự thay đổi thái độ này vừa đột ngột vừa ly kỳ, đồng thời trong toàn bộ các đoạn dịch vẫn chưa tìm được bất cứ nguyên nhân hay bối cảnh nào có thể khiến thái độ của sứ giả có chuyển biến, đây quả là một điều khiến người ta không sao nghĩ thông cho nổi. Giáo sư Phương Tân bảo Trác Mộc Cường Ba, nói theo kiểu đùa cợt của Nhạc Dương, thì là với những tư liệu họ hiện có trong tay, chỉ có thể đưa ra kết luận rằng vị sứ giả ấy đã mắc chứng bệnh tâm thần phân liệt cực kì nghiêm trọng.

Điểm thứ hai, là thái độ của Cổ Cách vương đối với tín vật. Một số đoạn thì nói, quốc vương cực kỳ tôn kính sứ giả, đã chấp hành vô điều kiện tất cả các yêu cầu của sứ giả. Nhưng một số đoạn khác lại kể quốc vương ngấm ngầm sai người ngăn trở, phá rối sứ giả. Chẳng trách trước đây Lữ Cánh Nam nói với chúng ta rằng sứ giả muốn giao tín vật cho người khác, còn quốc vương lại muốn giữ tín vật lại. Sự thực thì cả các chuyên gia cũng chưa hiểu được rốt cuộc chuyện này là hư thế nào nữa.

Điểm nghi vấn thứ ba cũng có liên quan đến tín vật. Tổng hợp tất cả các đoạn văn mà họ có lại, có thể thấy bản dịch ngầm ám chỉ rằng món tín vật thứ hai ngoài Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia, đã được quốc vương sai người bí mật đưa đi nơi khác. Đồng thời trong đó lại có hai ba đoạn đặc biệt chỉ ra rằng món tín vật ấy là một tấm bản đồ và đã được quốc vương giữ lại. Đem gộp xác đoạn này lại đối chiếu, so sánh, thực khiến người ta không thể hiểu thực hư thế nào, chỉ còn biết chờ đợi các chuyên gia dịch toàn bộ nội dung của Cổ Cách kim thư ra thôi vậy.

Ngoài chuyện này ra, các tư liệu thời Thế chiến II mà bọn giáo sư Phương Tân tra ra trong lúc phá giải mật mã của quân Đức Quốc xã cũng khơi gợi được sự tò mò và hứng thú của Trác Mộc Cường Ba. Gã vẫn còn lờ mờ nhớ được, từ rất lâu trước đó, Lữ Cánh Nam đã nhắc rằng nước Anh từng có được các tư liệu của Morton Stanley, nhưng sau Thế chiến I các tư liệu này đã bất ngờ biến mất, về sau không biết vì nguyên nhân gì mà chúng lại lọt vào tay người Đức. Có điều, hồi đó Lữ Cánh Nam chỉ nói thoáng qua một câu, không giải thích rõ. Về sau, trong tư liệu của bọn gã cũng không hề có những giải thích hay phân tích gì về phương diện này. Lần này, giáo sư Phương Tân đã bắt tay vào điều tra một cách kỹ lưỡng hồ sơ của Hitler và một số quan chức cấp cao của đảng Nazi, đồng thời bổ sung vào đó các suy đoán của cá nhân ông, khiên Trác Mộc Cường Ba lại có nhận thức mới về vấn đề này.

-*-*-

(1) Hay còn gọi là Atisa

TIN MẬT CỦA HITLER

Giáo sư Phương Tân viết trong tài liệu như thế này: "Không nghi ngờ gì nữa, Hitler là một kẻ cuồng tín sùng bái năng lực siêu nhiên, tư tưởng này đã thúc giục y cùng một số quan chức cấp cao cũng sùng bái năng lực siêu nhiên khác, tiến hành nhiều hoạt động bí mật, bao gồm cả việc thành lập lực lượng Waffen-SS và Hiệp hội Di sản Tổ tiên, rồi những hành động tìm kiếm Chén Thánh, Mũi Giáo Thần Thánh, nghiên cứu văn tự cổ, đặc biệt là sự kiện Tây Tạng..."

Thủa nhỏ, Adolf Hitler không hề có chí hướng cao xa gì, y chỉ một lòng muốn trở thành nhà nghệ thuật, đồng thời vì vậy mà nảy sinh tư tưởng học lệch rất nặng nề. Thời trung học, y đã từng bị lưu ban vì không đủ điểm môn Số học và Tự nhiên, về sau lại không đủ điểm môn Tiếng Pháp nên không thể tiếp tục học theo trường trung học hệ sáu năm, phải chuyển sang học ở trường trung học hệ bốn năm. Sau khi cha y qua đời, Hitler mới tốt nghiệp trung học cơ sở, nhưng không muốn tiếp tục học lên trung học phổ thông, mà quyết định bắt đầu cuộc sống của nhà nghệ thuật như vẫn hằng nung nấu. Y bỏ nhà đến Vienna, và được bầu không khí nghệ thuật ở đó hun đúc, bồi dưỡng. Hitler vốn định xin vào học trong Học viện nghệ thuật Vienna, đáng tiếc là học lực của y kém, không được chấp nhận học. Sau đó, mẹ y lại qua đời vì bệnh ung thư vú, Hitler sau khi đã tiêu sạch khoản tiền thừa kế của cha để lại, không muốn phải sống bằng nghề khuân vác thuê, lại cũng chẳng có sở trường hay nghề ngỗng gì, cuối cùng trở thành một gã lang thang ở thành Vienna.

Năm 1909, cuộc đời Hitler gặp phải bước ngoặt đầu tiên, một người bạn đề nghị Hitler vẽ một số bức bưu thiếp, và đồng ý mang đi bán hộ. Nghe nói việc tiêu thụ cũng không tệ chút nào, gã lang thang cuối cùng đã thuê được một căn hộ độc thân với giá rẻ, đồng thời bắt đầu không phaor lo lắng về chuyện ăn uống nữa. Khi đó, Hitler vừa tròn hai mươi tuổi, theo cách nói hiện nay, thì chính là một gã "thanh niên phấn khích". Sau khi giải quyết được vấn đề ăn no mặc ấm, y có thời gian và cơ hội tiếp xúc với một lượng lớn sách. Có lẽ được di truyền huyết thống của người cha làm công chức, từ nhỏ Hitler đã đặc biệt mẫn cảm với chính trị, trong các thư tịch y tìm đọc, có rất nhiều sách báo tài liệu nói về chủ đề chính trị và các chủ nghĩa khác nhau. Có một điều rất khó tin là, Hitler đã từng nghiên cứu rất kỹ lượng về chủ nghĩa Max.

Tuy nhiên, trong tư liệu của giáo sư Phương Tân có nhấn mạnh đến một tập sách khác, gọi là tạp chí Viên ngọc Đông Phương. Đó thực ra là một tờ tạp chí do một vị giáo đồ Thiên Chúa giáo La Mã biên soạn, nội dung chủ đạo là những sự việc ly kì và huyền ảo, đầy rẫy màu sắc văn hoá tính dục và chủ nghĩa chủng tộc, và chỉ được phát hành hạn chế ở vài khu vực trong nước Áo, nhưng lại khơi gợi được hứng thú mạnh mẽ từ rất nhiều thanh niên trẻ tuổi mà Hitler là một trong số đó. Y không thể nào dứt khỏi những cuốn tập chí này, mỗi kỳ đều phải mua cho bằng được, có thể xếp vào hạng fan cuồng. Trong cuốn tạp chí này, có rất nhiều thông tin nhắc đến người Aryan thuần chủng tóc vàng mắt xanh, cho họ là giống người cao quý nhất, đồng thời phản đối "giao tạp với những dân tộc thấp kém", đặc biệt là người Do Thái, bởi đó là một dân tộc "trụy lạc tột cùng". Ngoài ra, trong các kỳ tạp chí còn góp nhặt đủ kiểu sự kiện linh dị kỳ quái và sức mạnh thần bí trên khắp thế giới, cùng với đó là những câu chuyện mang tính chất truyền kì của các nhà thám hiểm và khảo cổ, đối với các loại pháp thuật phù thủy siêu nặng lực cũng có những giải thích thoạt nhìn có vẻ khá là tường tận. Giáo sư Phương Tân đã bình luận rằng: "Đây vốn chỉ là trò bịp tạo ra để thu hút độc giả, nhưng Hitler lại cực kỳ tin tưởng, đồng thời bắt đầu ảo tưởng rằng mình sở hữu huyết thống thuần chủng của người Aryan và đủ các loại siêu nặng lực mà người thường không thể nào tưởng tượng nổi. Về sau, trong Thế chiến I, hạ sĩ Hitler nhận nhiệm vụ sĩ quan truyền lệnh, đã có mấy lần hút chết mà vẫn thoát được, vậy là y lại càng tin vào thân phận của mình hơn. Y nhận định bản thân là "người được Chúa trời giao cho nhiệm vụ lớn", bản thân đang chỉ chờ đợi "một thời cơ đến" mà thôi.

Ảnh hưởng của tạp chí Viên ngọc Đông Phương đối với tư tưởng của Hitler vượt xa bất cứ sách vở tài liệu nào khác. Trong mấy năm sau đó, dưới ảnh hưởng của cuốn tạp chí này, Hitler đã dần hình thành nên thế giới quan chính trị của mình, mà theo giáo sư Phương Tân, thì cuốn tạp chí này là"ngọn nguồn tư tưởng điên loạn của Hitler" về sau. Trác Mộc Cường Ba lập tức băn khoăn, không hiểu trong cuốn tạp chí đó có nhắc tới Morton Stanley hay chuyện gì liên quan tới Bạc Ba La thần miếu hay không. Giáo sư Phương Tân trả lời gã rằng, họ từng cố kiếm lại những số tạp chí ấy, nhưng quy mô phát hành tạp chí vào thời ấy cũng không lớn lắm, nên cuối cùng chỉ tìm được một số duy nhất trong thư viện Anh quốc. Trong số tạp chí ấy, có nhắc đến lá cờ chữ Vạn, nhắc đến văn tự cổ và sức mạnh thần bí ẩn chứa trong nó, nhưng cũng không loại trừ các số tạp chí khác đã từng góp nhặt những chuyện thâm cung bí sử của Morton Stanley. Bởi vì cuốn tạp chí tên gọi Viên ngọc Phương Đông này, chủ yếu là thu thập các sự kiện thần bí và cổ xưa ở phương Đông, đặc biệt tập trung vào lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ. Trong số tạp chí mà giáo sư Phương Tân tìm thấy, có đăng tải một đoạn trích trong Du ký của Marco Polo nữa.

Trong các tài liệu lịch sử còn đề cập đến bước ngoặt thứ hai trong cuộc đời Hitler. Sau khi nước Đức thất bại trong Thế chiến I, làn sóng của cuộc cách mạng tháng Mười lan khắp nước Đức. Ở Munich đã thành lập "Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Bavaria". Sang năm sau, một hội đồng điều tra được thành lập để tra xét chính quyền Xô viết ngắn ngủi xuất hiện ở Munich do kẻ nào cầm đầu. Chính vì chuyện này mà Hitler được chính phủ Đức coi trọng. Năm 1919, sau khi chính phủ Đức bị ép phải ký điều ước Versailles, bị yêu cầu chỉ được giữ một trăm nghìn người trong quân đội. Để đảm bảo sự trung thành của cánh quần còn sót lại này, chính phủ Đức đã không thể không thành lập một hội đồng giám sát, phụ trách điều tra những hoạt động chính trị lật đổ có thể xuất hiện trong quân đội và cộng đồng công nhân. Hitler trở thành thành viên của hội đồng này. Thành viên trong hội đồng giám sát được huấn luyện đặc biệt, sau đó bí mật phái đến "trinh sát" các đoàn thể xã hội khác nhau. Vậy là Hitler có cơ hội ngấm ngầm tiếp xúc bí mật với các thế lực và các nguồn tư tưởng khác nhau, trong đó có tổ chức cực đoan nổi tiếng nhất thời kỳ này - tổ chức "Cực Bắc".

Sau khi Thế chiến I kết thúc, nước Đức chìm vào khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội. Trong tình hình này, một bộ phận binh sĩ giải ngũ và thanh niên nước Đức vẫn nung nấu phẫn nộ và cảm thấy xấu hổ nhục nhã vì nước Đức đã thất bại, do đó mà có vô số các thế lực cực đoan nổi lên như nấm mọc sau mưa. Những kẻ này rêu rao khắp nơi về năng lực siêu tự nhiên, bày tỏ mong muốn phục hưng ý chí đế quốc của nước Đức và dân tộc Aryan. "Cực Bắc" nằm trong vài tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất thời bấy giờ.

Các tín đồ của "Cực Bắc" tuyên bố "Cực Bắc" là một vùng đất băng tuyết bao phủ, ở đó có một quốc gia, ở đó, vẫn còn người Aryan thuần chủng sinh sống, bọn họ có sức mạnh siêu nhân, nhưng vì một tai họa mà đã hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới, bởi thế trong suốt một thời gian dài không được ai biết đến. Tương truyền, những người này ẩn náu ở một khu vực thần bí ngầm dưới lòng đất, chỉ có một con đường bí mật nối thông lên mặt đất. Muốn đi tới đo, phải vượt qua sông băng ngàn năm, đi vào một đường hầm tối tăm...

Hitler cực kỳ tin vào quan điểm này, y đã lợi dụng thân phận đặc biệt của mình để tham dự các hoạt động của tổ chức "Cực Bắc", đồng thời đã mấy lần lên diễn thuyết...

Giáo sư Phương Tân đã phân tích bên lề như sau: "Luận thuyết người Aryan là chủng người siêu đẳng mà tổ chức "Cực Bắc" đưa ra có ảnh hưởng rất lớn đối với Hitler và những người thanh niên Đức cùng thời với y, và càng củng cố thêm niềm tin của Hitler đối với chủng người Aryan siêu việt..." "Vị trí địa lý được miêu tả trong luận thuyết của "Cực Bắc" trùng khớp với Tây Tạng, có lẽ đã làm nền tảng để sau này Hitler mấy lần phái đội thám hiểm tới đất Tạng..." "Có lẽ đây chính là nguyên hình câu chuyện người Aryan là hậu duệ của Thần tộc Atlantis mà Hitler và Heintich Himmler tạo ra..."

Phần cuối tư liệu có một đoạn miêu tả của Platon về truyền thuyết Altantis. Năm 580 trước Công nguyên, vĩ nhân Athen cổ đại Solon(*), sau khi chế định cho thành Athen một bộ pháp điển vĩ đại, đã đến thủ đô Ai Cập cổ Sái, giao lưu với các vị học giả và hiền triết. Ở đó, Solon đã hội kiến với Hippo. Hippo cho Solon xem các chứng cứ về Thần tộc Altantis, vậy là Solon đã đem câu chuyện này truyền cho các đời sau và sau nữa, cuối cùng truyền đến Platon. Platon liền viết câu chuyện truyền kỳ liên quan tới Atlantis này ra, và được mọi người truyền tụng rộng rãi.

Trong câu chuyện đo, Atlantis là một đảo quốc, tọa lạc trên cây trụ Hercules, bên ngoài là biển Tây Hải sóng lớn cuộn trời, cũng chính là phía Tây eo biển Gibraltar(**) ngày nay, nằm giữa Đại Tây Dương mênh mông, diện tích khoảng 207.2 mét vuông. Nơi đó khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú, khoa học kỹ thuật rất phát triển. Cách đây khoảng mười nghìn năm, cổ nhân đã xây dựng vương quốc Atlantis ở trên đảo, xã hội ở đó gần như không tưởng, thành trì hùng vĩ tráng lệ, cung điện hoa lệ cao lớn và các miếu đền đều dùng vàng, bạc, đồng và ngà voi để xây dựng, trên đảo còn có hệ thống kênh dẫn nước đi khắp mọi nơi, những cây cầu hoàn mỹ, bến cảng ngày đêm nhộn nhịp, người ở đó ai ai cũng được an cư lạc nghiệp, sản vật phong phú đến độ dùng mãi không thể nào hết. Mặc dù trên đảo có mười hai quốc gia, nhưng cả mười hai quốc gia này đều dùng chung một bộ pháp điển, có mười hai vị quốc vương, nhưng tất cả đều một lòng thờ Hải thần công chính và thánh minh làm chúa tể trên đảo. Chỉ đáng tiếc, ngày vui ngắn chẳng tày gang, cuộc sống của người dân trên đảo Atlantis mỗi lúc một hủ bại trụy lac, cuối cùng đã làm Hải thần nổi trận lôi đình, khiến cho toàn bộ đảo quốc xinh đẹp giàu có, và sở hữu nên văn minh phát triển cao độ thời tiền sử này chìm xuông đáy biển sau chỉ trong có một đêm.

-*-*-

(*) Solon, người đã tạo ra bộ luật Solon, được coi là thành tố đầu tiên hình thành nên nền dân chủ trong lịch sử thế giới.

(**) Eo biển phân cách hai lục địa châu Âu và châu Phi, nối Địa Trung Hải với Đại Tây Dương

Atlantis có tồn tại thực hay không, từ khi Platon viết ra truyền thuyết này, hậu thế vẫn không ngừng tranh luận suốt hơn hai nghìn năm, cho đến nay vẫn còn một số ít các học giả đang tìm kiếm vị trí chính xác của đảo Atlantis, và cũng đã tìm được rất nhiều chứng cứ thuyết phục. Đến khoảng giữa thế kỷ mười chín, người được xưng tụng là "Cha đẻ của ngành Atlantis học", nhà khảo cổ người Mỹ Ignatius Dennelly còn đề ra mười ba nguyên tắc liên quan tới đại lục Atlantis. Trong đó có nói rằng Vườn Eden được miêu tả trong Sáng Thế Ký chính là chỉ đại lục Atlantis, trong thần thoại Ai Cập và Maya, có những veest tích sùng bái thần Mặt trời của người Atlantis; các kỹ thuật khoa học cổ xưa nhất châu Âu, chẳng hạn như thuật chế luyện kim đồng, cũng bắt nguồn từ Atlantis; nguyên hình của tất nhiều mẫu tự trong văn tự châu Âu, cũng bắt nguồn từ Atlantis; người Atlantis là tổ tiên của người Ấn Độ, người Semites(*) và các dân tộc ở châu Âu; hơn mười nghìn năm trước, vì một biến động lớn mà Atlantis chìm sâu xuống đáy biển, nhưng vẫn còn một số ít cư dân đã lên thuyền thoát đi được, và để lại truyền thuyết về Đại Hồng Thủy từ thời Thượng cổ.

Về sau, chính Himmler, trợ thủ từng được Hitler tín nhiệm nhất, thủ lĩnh lực lượng SS, đã lựa ý hùa theo cấp trên của y mà cải biên thành câu chuyện về người Ayran. Trong câu chuyện này, vị trí và môi trường của Atlantis không thay đổi, có điều, người Atlantis mà Platon nhắc đến, đã bị Himmler khẳng định chính là tổ tiên của người Aryan, và y gọi họ bằng cái tên Thần tộc Aryan. Những người thuộc bộ tộc thần thành này đều cao trên ba mét, tóc màu vàng kim, mắt xanh thẫm màu nước biến, da trắng nõn, sống mũi cao, khuôn mặt thon dài, phản ứng cực kỳ nhanh nhẹn, sức mạnh vô cùng, đao kiếm súng đạn đều không thể gây thương tổn, lại còn sở hữu những siêu năng lực kiểu như có thể dùng ý niệm điều khiển đồ vật. Trong câu chuyện của Himmler, vì đại lục Atlantis bị chìm xuống biển sau, nên Thần tộc Aryan đã buộc phải rời bỏ đất tổ, đồng thời phân thành hai nhánh, một nhánh lên bờ ở vùng gần biển Ấn Độ, nhánh còn lại lên bờ ở Caucasus(**), trở thành tổ tiên của người Aryan ngày nay. Himmler cho rằng, vì số lượng người thuộc Thần tộc Aryan thoát khỏi thảm họa rất ít ỏi, để có thể tiếp tục sinh sôi nảy nở, họ không thể không tạp giao với các dân tộc tầm thường thấp kém khác, để rồi cuối cùng mất đi sức mạnh thần thánh. Vì vậy y chỉ ra rằng, chỉ cần những người Aryan thuần chủng giao phối với nhau, trải qua nhiều đời nỗ lực, ắt sẽ có thể khôi phục được sức mạnh xưa kia, và tạo ra một đội quân Aryan vô địch.

Ngoài ra, trong câu chuyện của mình, Himmler còn nói rõ rằng, những người thuộc Thần tộc Aryan lên bờ ở gần vùng biển Ấn Đọ, cuối cùng đã dừng chân ở khu vực nằm giữa Tây Tạng và Ấn Độ ngày nay, cũng chính là dãy núi Himalaya và vùng phụ cận, đồng thời giải thích, vì đã trải qua một lần bị nhấn chìm cả hòn đảo, nên đề phòng sự kiện ấy tái diễn, họ lựa chọn cao nguyên cao nhất thế giới làm quê hương mình. Ngoài ra, Himmler còn nói, vùng đất cực Bắc từng náo động một thời, chính là dãy núi Himalaya ngày nay, y lại nói, vùng cực Bắc thực ra không chỉ vùng đất cực địa ở phương Bắc, mà là chỉ một nơi cực lạnh, bị băng che tuyết phủ.

-*-*-

(*) Nhóm người được tương truyền là hậu duệ của người con trai cả của Noah (bao gồm người Do Thái, người Ả Rập, người Akkad, người Phoenicia)

(**) Vùng giữa biển Đen và biển Caspi

Cuối cùng, giáo sư Phương Tân nói: "Dựa trên các luận điệu của tạp chí Viên ngọc Đông Phương và câu chuyện của Himmler, năm 1938, Hitler mới đồng ý để Himmler cử đội khảo sát đến Tây Tạng, tìm kiếm tổ tiên của người Aryan." Ngoài ra, giáo sư nêu rất nhiều nghi vấn, chẳng hạn như "trình độ văn học của Himmler không hề cao, nhưng cau chuyện về người Aryan và Tây Tạng cùng với những luận điệu đang thịnh hành ở nước Đức thời bấy giờ lại nối tiếp trước sau, logic cực kỳ rõ ràng, khiến những người không hiểu chân tướng sự việc rất dễ nảy sinh cảm giác thừa nhận đây là một luận điểm đúng. Nhưng thứ luận thuyết này do ai sáng tác ra? Hoặc, tài liệu về "tính xác thực của các tư liệu ghi lại sự kiện quân Đức hai lần tiến vào Tây Tạng" lại có chú thích bên lề như sau: "Sau chiến tranh, tài liệu của quân Đức do hai nước Liên Xô và Mỹ chia nhau bảo quản, một số tài liệu bí mật phải chờ đến năm 2045 mới được giải mật, hoặc sẽ giữ bí mật mãi mãi. Theo thông tin chính thức thì hầu hết các tài liệu quân Đức vơ vét được trong lần đầu tiên đến Tây Tạng đã bị hủy hoại trong một trận hỏa hoạn lớn vào năm 1945, về tính chân thực của sự việc này, cần phải đợi điều tra lại."

Giới thiệu về Hitler xong, phần tài liệu tiếp theo lại nhắc đến các quan chức cấp cao khác của Đức Quốc Xã, như Himmler và Hermann Goring. Đám này tất cả đều tin vào sức mạnh siêu tự nhiên. Himmler thì nhiệt thành say mê với các loại thực nghiệm ma pháp huyền bi, còn Hermann Goring thì là một kẻ si mê thuật chiêm tinh đến phát cuồng. Trác Mộc Cường Ba đọc mà thấy tức cười, thật không ngờ cả cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ hai lại do những kẻ như vậy gây ra. Có lẽ đây chính là cái mà người ta gọi lag "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" vậy.

Ba ngày sau, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa thể nhấc nổi người dậy. Nhìn một đống tài liệu mà giáo sư Phương Tân gửi cho, gã thầm nghĩ đây là thành quả mấy tháng trời vất vả của ông, còn bản thân gã thì mấy tháng nay đã làm được những gì chứ? Nghĩ tới đây, gã không khỏi cảm thấy có chút áy náy không yên. Mẫn Mẫn ngồi ở đầu giường quan sát, lẽ nào lại không nhận ra được tâm trạng của Trác Mộc Cường Ba, liền dịu dàng nồng nàn áp đầu gã vào ngực mình, nhẹ nhàng nói: "Sao vậy, vẫn đang nghĩ đến những chuyện không vui kia à?"

Trác Mộc Cường Ba cười khổ đáp: "Nói ra thì thật hổ thẹn, anh còn chẳng bằng em, khi mọi người vẫn chưa bỏ cuộc, anh lại đã nảy ý dứt áo ra đi, anh..."

Đường Mẫn đè ngón tay lên môi Trác Mộc Cường Ba, khẽ thì thảo: "Không, trong mắt em, anh là người đàn ông kiên cường nhất, tất cả chỉ tại em quá bừa bãi, tùy tiện, khi anh cần giúp đỡ nhất em lại không ở bên cạnh. Em vẫn không sao tưởng tượng nổi, anh đã làm thế nào mà vượt qua được bao nhiêu nỗi khổ cực nhọc nhằn ấy. Đối với em, một người đàn ông bị thương chảy máu mà không kêu rên cũng chẳng đáng là gì, nhưng khi anh ta bị người khác đổ oan uổng, bị người già, đàn bà, trẻ em mắng nhiếc làm nhục, thậm chí là hiếp đáp, bắt nạt, mà vẫn lặng lẽ chịu đựng, gánh vác trách nhiệm vốn không thuộc về mình, đó mới thực sự là tinh thần kiên nhẫn bất khuất, đó mới thực sự là anh, mới thực sự là Trác Mộc Cường Ba. Cũng may, những chuyện ấy đều đã qua rồi..." Cô nhìn thẳng vào đôi mắt đã trải nhiều bể dâu của Trác Mộc Cường Ba, ôm chặt lấy cổ gã, khẽ nói: "Kể cho anh nghe một câu chuyện nhé."

"Ừm?" Trác Mộc Cường Ba áp mặt vào bầu ngực mềm mại của Đường Mẫn, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác an toàn xưa nay chưa từng có, tựa như trở lại thủa ấu thơ vậy.

Đường Mẫn nói: "Anh có biết lũ ong bắp cày không? Thể hình của chúng lớn hơn ong mật rất nhiều, nhưng đôi cánh của chúng lại rất nhỏ, hơn nữa tỉ lệ giữa ngực và bụng không được cân đối lắm. Dựa trên nghiên cứu phân tích của các nhà khoa học, dù đưa ra giả thuyết và thí nghiệm thế nào, những con ong bắp cày ấy cũng không thể nào bay lên được. Nhưng trên thực tế, ong bắp cày lại có thể bay lượn rất ổn định. Đối với hiện tượng không thể giải thích này, các nhà khoa học đều hết sức bất lực, cuối cùng chỉ có thể trả lời rằng, đó là vì chúng muốn bay, vì vậy, chúng đã bay được."

Giọng nói trong trẻo ngọt ngào của Đường Mẫn, tựa như người mẹ hàng đêm ngồi ở đầu giường kể chuyện cho con trẻ đi ngủ, Trác Mộc Cường Ba bất giác nhoẻn cười, chút buồn bực còn lại trong lòng cuối cùng cũng tan biến như mây khói, tâm trạng tựa như vạt nắng ngoài cửa sổ, chiếu xuyên qua tầng mây xuống mặt đất. "Câu chuyện của em rất giống với một câu ngạn ngữ ở quê anh". Trác Mộc Cường Ba nói: "Ở quê anh, người ta nói, con chim ưng bay cao nhất, không phải dựa vào đôi cánh, mà là nhờ vào ý chí của nó. Cám ơn em, thế mà từ trước tới nay anh không biết, thì ra Mẫn Mẫn của anh còn biết kể chuyện nữa cơ đấy."

Ánh mắt Đường Mẫn bỗng trở nên ảm đạm, lẩm bẩm nói: "Đây là câu chuyện hồi trước anh trai em kể." Trái tim Trác Mộc Cường Ba cũng trĩu xuống, đang định nói mấy câu an ủi cô, Mẫn Mẫn lại đột nhiên nói: "Ối! Em phải đi lấy thuốc cho anh, ngoan ngoãn ở đây đi nhé."

Mẫn Mẫn vừa ra cửa, phòng bệnh liền xuất hiện một vị khách không mời, dáng người lùn mật, bộ mặt tròn phây phây toe toét cười, tay xách giỏ hoa quả. Trác Mộc Cường Ba tưởng hắn ta vào nhầm phòng.

Không ngờ, tên béo đó lập tức nói: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, chào ông, không biết ông còn nhớ tôi không?" Một tháng trước, chúng ta đã gặp mặt một lần, lúc đó là tôi không đúng, tôi không biết cảnh ngộ của ông lại khiến người ta thương cảm đến thế. Ôi, cũng chỉ tại tôi làm việc lỗ mãng quá, ai lại đi tìm ông vào thời điểm như thế kia chứ, chẳng trách ông đối xử với tôi như thế."

Trác Mộc Cường Ba nghe người mới đến tự giới thiệu tên tuổi, rồi lại lẩm bẩm như đang tự nói một mình, mãi vẫn không sao nhớ ra nổi gã béo ục ịch này là ai. Y cứ thế đi thẳng đến giường bệnh, thái độ như thể một người bạn thân thiết của gã, rồi bắt đầu bày biện hoa quả lên bàn, lại nói: "Thực ra, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cũng không cần chán nản, chỉ cần tìm được Bạc Ba La thần miếu, ông sợ gì không có vốn liếng..."

Y vừa nói tới Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ ngay. Chính vào lúc gã đang đau khổ nhất, tên béo này đã đến đòi nói chuyện thần miếu thế nọ thế kia với gã, đã bị gã đuổi thẳng ra cửa ngay, không ngờ bây giờ lại tìm đến nữa. Trác Mộc Cường Ba bực tức nói: "Tôi đã bảo rồi, tôi chẳng hề biết thần miếu thần miếc gì cả, anh hà tất cứ phải bám lẵng nhẵng theo không chịu buông tha như thế chứ?"

Tên béo cười cười: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh là người hiểu chuyện, hà tất cứ phải che giấu đám dân đen chúng tôi làm gì. Tôi biết, công ty của ông đã phá sản, vì vậy mới rơi vào tình trawngj cùng quẫn, một số đầu mối vốn đã tìm được cũng đứt đoạn..."

Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, đang định đuổi khách thì tên béo lại cười giả lả, nói: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông chớ vội khó chịu như vây, để tôi cho ông xem một số thứ, xem xong, tôi sẽ cho ông biết thêm một số sự việc nữa, đến lúc ấy, nói không chừng Trác Mộc Cường Ba tiên sinh sẽ thay đổi cách nhìn đối với chúng tôi cũng nên."

VỊ KHÁCH BẤT NGỜ

Tên béo lấy trong giỏ hoa quả ra một cái máy to cỡ chiếc máy ảnh, kéo rèm cửa xuống, hướng cái máy về phía tường và bật lên, hoá ra là một chiếc máy chiếu mini, trên tường nhanh chóng xuất hiện bức ảnh đầu tiên. Đó là một món trang sức đeo cổ, dùng sợi bạc tơ vàng dệt thành, khảm rất nhiều bảo thạch, ánh sáng lấp lánh, hoa lệ mà tôn quý. Từ hình thức và hoa văn trang trí, Trác Mộc Cường Ba vừa thoạt nhìn nhận ra ngay là một món trang sức đậm màu sắc dân tộc Tạng, chỉ các phụ nữ quý tộc mới được đeo, tiếng Tạng gọi là Cách Kim. Tên béo bắt đầu giới thiệu nội dung bức ảnh: "Thứ này tổng cộng nặng một nghìn sáu trăm bốn mươi sáu gram, khảm tất cả một trăm linh tám viên phỉ thúy hàng cực phẩm, hai mươi tám viên kim cương xanh, trung bình từ tám cara trở lên. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, đây có lẽ là tác phẩm nghệ thuật thuộc về hoàng gia Tây Tạng vào khoảng những năm 800 sau Công nguyên. Năm 2000, món trang sức này đã được mua với giá 200 triệu đô la Mỹ ở sàn đấu giá ngầm Detroit."

Bức ảnh thứ hai, là một cây quyền trượng màu vàng kim, chạm khắc chi chít những hình tiểu quỷ. Đáng kinh ngạc nhaart, là đoạn trên cùng có gắn một viên bảo thạch đỏ như lửa, to bằng quả trứng gà. Cơ mặt tên béo hơi giật giật, hắn kích động nói: "Cây Phục ma quyền trượng này tổng cộng có bảy đốt, thân trượng được đúc bằng Tử kim, bên trong có lỗ rỗng, khi có chùm ánh sáng chiếu vào phần dưới, viên hồng bảo thạch trên đầu trượng sẽ hiện lên các hình vẽ tả cảnh tận thế, bảo thạch sáng rực đã thuộc hàng quý hiếm rồi, nhưng sự tinh xảo trong cấu tạo, sự tinh tế của người nghệ nhân mới khiến cho người ta phải thán phục không thôi. Năm 1993, đã có người mua nó với giá 130 triệu đô la Mỹ ở sàn đấu giá ngầm Tokyo."

Bức ảnh thứ ba, là tượng kim thân của một vị nữ Phật, tên béo nói: "Đây là tượng Indrĩ trong Thất Mẫu Thiên(*), ngồi xếp bằng trên đài sen, tay trái nắm lại, dựng ngón cái lên, tạo thành Chùy ấn, toàn bộ cao năm mươi sáu xăng ti mét, trọng lượng hai mươi tám ki lô gam, viên bảo thạch trên trán, được giám định là ruby 'máu bồ câu' cực kỳ quý hiếm, trọng lượng lên đến 15 cara. Thần kỳ nhất là, cho đến nay vẫn chưa thể tìm ra được một vết rạn trên đó, năm 1996, đã bán ra với giá 207 triệu 630 nghìn đô la Mỹ ở sàn đấu giá ngầm California."

Những bức ảnh các tác phẩm nghệ thuật cực kỳ tinh xảo, và hoa lệ lần lượt xuất hiện trước mắt Trác Mộc Cường Ba, mỗi món đều khiến người ta phải thốt lên kinh ngạc. Nhìn cấu tạo và hình dáng của những bảo vật ấy, Trác Mộc Cường Ba biết đây đều là vật báu của Tây Tạng, chỉ có điều gã vẫn chưa biết tên béo này cho mình xem những thứ ấy với ý đồ gì. Sau khi chiếu một lượt hai mươi mốt bức ảnh, tên béo mới dừng lại, quan sát xem cặp mắt Trác Mộc Cường Ba có sáng lên hay không.

Trác Mộc Cường Ba vẫn hờ hững chẳng tỏ thái độ gì, hỏi: "Tôi thừa nhận, đây đều là những món báu vật thuộc hàng cực phẩm, nhưng, anh cho tôi xem mấy thứ này là có ý đồ gì vậy?"

Tên béo cười toe toét nói: "Tôi tin rằng Trác Mộc Cường Ba tiên sinh đây hẳn phải có ấn tượng sâu sắc với cái tên Morton Stanley. Những món châu báu này, chính là do nhà thám hiểm vĩ đại nhất giai đoạn cuối thế kỷ mười tám, đầu thế kỷ mười chín, Morton Stanley phát hiện ra ở Tây Tạng. Những thứ hôm nay tôi giới thiệu với ông chỉ là một phần nhỏ có tính chất đại diện, còn một số lượng lớn các báu vật khác vẫn chưa xuất hiện, được rất nhiều nhà sưu tầm lớn trên thế giới coi là báu vật tuyệt thế mà cất giấu vô cùng cẩn thận. Phải biết rằng, số báu vật mà ngài Morton Stanley phát hiện được ở Tây Tạng hồi đó, đã phải dùng đơn vị tấn để tính toán. Khi ấy, ông ta từng nói một câu hùng hồn rằng, số châu báu ông ta tìm thấy đó, đủ để mua cả đế quốc Anh! Xin nhớ cho, tuy răng hồi đã đó có rất nhiều thuộc địa giành được độc lập, nhưng đế quốc Anh mà ngài Morton Stanley đó nói, là chỉ cả đế quốc Anh mà mặt trời không bao giờ lặn trên đó, bao gồm cả các thuộc địa như Mỹ và Australia!"

Trác Mộc Cường Ba nhìn vẻ mặt sục sôi của tên béo, lòng đau như có dao cắt. Những thứ này, vốn đều thuộc về Tây Tạng, thuộc về Trung Quốc, tên béo này là người Trung Quốc, vậy mà lại cảm thấy kích động sung sướng khi người ta lấy đi bảo vật của đất nước mình như thế này ư?

Tên béo lại nhấn giọng nói: "Đồng thời, ngài Morton Stanley còn đầy tiếc nuối nói rằng, những thứ ông ta tìm ra được đó, chỉ là hạt cát trên bãi biển, còn viên ngọc thực sự thì ông ta vẫn chưa tìm ra được, ông ta vẫn còn thiếu một chút nữa, chỉ thiếu một chút đầu mối nữa mà thôi! Tất cả những gì ông thấy ngày hôm nay, đều chỉ là cỏ rác, còn thứ mà chúng tôi muốn tìm kiếm, là viên ngọc thực sự kia! Là viên ngọc cơ, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ!"

Trác Mộc Cường Ba quyết định sẽ cự tuyệt bất cứ lời thỉnh cầu nào của tên béo này, chỉ vì gương mặt nanh ác đã kích động quá độ mà biến dạng kia, và cả đôi mắt đỏ rực ngọn lửa tham lam ấy nữa. Trác Mộc Cường Ba cố ra vẻ kích động, kêu lên: "Thật sao? Các vị muốn tìm những vật báu còn quý giá hơn cả những món này hay sao? Tôi thật ngưỡng mộ quá! Vậy, chắc là các vị đã có đầu mối rồi? Có thể cho tôi biết chút gì đó được không? Nếu không quá khó khăn, tôi cũng muốn đi theo các vị đó!"

Tên béo cười nhạt, như thể đang muốn nói, rằng kỹ thuật diễn xuất của Trác Mộc Cường Ba quá vụng về kém cỏi. Y đảo tròng mắt: "Đương nhiên, nếu Trác Mộc Cường Ba tiên sinh đây chịu hợp tác, chúng tôi có thể cung cấp cho ông rất nhiều đầu mối. Trước tiên, xin mời ông xem thứ này đã..." Nói đoạn, y ấn nút trên cái máy. Trác Mộc Cường Ba mặc dù đã cố gắng trấn tĩnh, nhưng cũng không sao ghìm nổi, phải ngồi bật dậy, cánh tay khẽ run lên

-*-*-

(*) Chỉ quyền thuộc của Diệm Ma Thiên hoặc Đại Hắc Thiên, còn gọi là Thất Nữ Quỷ, hay Thất Ma Đát Lý Thiên, Thất Mẫu Nữ Thiên, Thất Tỉ Muội, Thất Mẫu. Đại Nhật Kinh, quyển mười sáu có ghi chép, Thất Mẫu là quyền thuộc của Diệm Ma Thiên; phần giải nghĩa trong Đại Nhật Kinh có chép tên của bảy vị như sau: Cămundã, Kauverĩ, Visnavĩ, Kaumărĩ, Indrĩ,

Tấm ảnh đó, không phải gì khác, chính là tấm bản đồ chỉ đường đến Bạc Ba La thần miếu mà bọn gã đã tốn không biết bao nhiêu sức lực, mồ hôi và cả máu mới tìm được trong Đảo Huyền Không tự. Thoạt nhìn chất liệu có vẻ như là hoàn toàn trùng khớp. Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra, đó là một tấm bản đồ phục chế, cũng có nghĩa là, bản đồ bạn gã phát hiện ttrong Đảo Huyền Không tự, đích xác chính là tấm bản đồ năm xưa Morton Stanley đã mang đi khỏi mật thất Cổ Cách. Merkin đã cố ý khiến bọn gã tự đạp chân vào bẫy... bản đồ giả!

Tên béo nở một nụ cười, tỏ ý tất cả đều nằm trong dự đoán của ta rồi, thân thiết nói: "Xem ra, Trác Mộc Cường Ba có vẻ rất kinh ngạc khi thấy tấm bản đồ này thì phải. Tôi biết, khoảng thời gian trước, các vị vừa mới đến đại tuyết sơn, chính là lần theo đầu mối của tấm bản đồ này đúng không? Năm đó, ngày Morton Stanley cũng đi theo tấm bản đồ này, không may đã mất mạng trên núi tuyết. Về sau, có vô số đoàn thám hiểm bí mật lên ngọn núi đó, cũng đều đã không còn mạng mà trở về nữa. Có lẽ, đối với chính phủ Trung Quốc chúng ta, đây là lần đầu tiên tấm bản đồ này xuất hiện. Nhưng trên thực tế, trong một số tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài, tấm bản đồ này đã không còn là bí mật trọng đại gì nữa rồi, ít nhất cho đến nay cũng phải có tới bảy tám tấm bản đồ phục chế lưu lạc trong tay các nhóm mạo hiểm khác nhau. Chỉ có điều, từ sau Đại chiến thế giới thứ hai, chưa ai nhìn thấy bản đồ gốc cả, vì vậy cũng không ai có thể phán đoán được tính chân thực của nó. Chắc rằng, Trác Mộc Cường Ba cũng bị tấm bản đồ này đánh lừa, nên mới dẫn đến lần thất bại lớn vừa qua phải không?"

Tên béo này nắm hành tung của bọn gã quá rõ, Trác Mộc Cường Ba không thể không cẩn thận thăm dò: "Rốt cuộc các người là ai vậy?"

Tên béo đó đắc ý cười cười nói: "Cuối cùng cũng hỏi vào chủ đề chính rồi. Thực không dám giấu, tôi chỉ là một tên chạy vặt đưa tin, tổ chức mà tôi làm đại diện đây, tuyệt đối có thực lực hợp tác với các vị. Chúng tôi nắm giữ một lượng lớn thông tin liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, bao gồm cả một số thư tín của ngài Morton Stanley, bản ghi chép hồi ức của bạn bè ông ta, còn có cả hướng đi của một số món báu vật do ông ta mang về nước Anh, hướng đi của bản đồ và quá trình nó bị phục chế sau Thế chiến II, những bí mật nội bộ đã được sửa chữa... Tất cả những điều đó, chúng tôi đều có những hiểu biết nhất định tôi có thể nói với ông như vậy, trong bảy mươi ba tổ chức lớn đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trên toàn thế giới, thực lực của chúng tôi, có thể xếp vào hàng Top 10 đó."

Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa bị lời nói của y làm chấn động, không khác nào một đứa trẻ sơ sinh lần đầu tiên phát hiện ra diện mạo thực sự của thế giới này. Toàn thế giới, không ngờ lại có đến bảy mươi ba tổ chức lớn đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vậy thì các tổ chức nhỏ há chẳng phải là không thể nào đếm hết hay sao? Chẳng những vậy, người ta lại còn đưa ra cả bảng xếp hạng nữa. Trác Mộc Cường Ba chỉ cảm thấy bọn gã thực ra không hề hiểu Bạc Ba La thần miếu như bọn gã đã lầm tưởng, thậm chí không thể được coi là lính mới trong hàng ngũ những kẻ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trên toàn thế thới và thực lực của họ, gã tuyệt nhiên không hay biết một chút nào!

Tên béo mân mê cằm, nói tiếp: "Thế nào hả, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, từ những tài liệu hôm nay tôi mang đến giới thiệu với ông, chắc ông đã biết, tôi không hề gạt ông. Chúng tôi biết, ông đã đến một số nơi, đó là những nơi chúng tôi vẫn chưa tìm ra được, chỉ cần ông chịu giao ra tài liệu về những nơi ấy để chia sẻ với mọi người, nói không chừng, chúng ta sẽ nhanh chóng tìm được Bạc Ba La thần miếu, lúc đó thì..."

Gương mặt phì nộn của tên béo sáng bừng lên, dường như đã nhìn thấy một kho báu khổng lồ không đếm xuể. Bộ dạng ngất ngây say đắm như người đang vào trang thái cao trào cực khoái ấy khiến Trác Mộc Cường Ba muốn nôn mửa, nhưng gã cần phải biết nhiều hơn nữa, bèn ngắt lời tên béo, hỏi: "Tôi không hiểu, tại sao các vị lại tìm đến tôi? Các vị nghe được những thông tin sai sự thật đó ở đâu ra vậy?"

Tên béo nói: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông không cần tự ngụy trang mình trước mặt tôi làm gì, nguồn thông tin của chúng tôi là cực kỳ đáng tin cậy. Còn về tại sao lại tìm ông ư, đó là bởi... ông là người Trung Quốc đầu tiên không dùng thân phận cán bộ nhà nước đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu! Tổ chức mà tôi làm đại diện không có hy vọng hợp tác được với chính phủ Trung Quốc, nhưng ông thì khác, ông là người tự do. Hơn nữa, trước đó, ông từng tham gia vào tổ chức tìm kiếm của chính phủ trong một thời gian dài. Thông tin về nơi mà các vị đã tới ấy, chắc hẳn là có thể giúp rất nhiều cho tất cả các tổ chức đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hơn nữa, tôi được biết, những nơi ấy hình như đã không còn tồn tại nữa. Vậy không tìm ông thì chúng tôi biết tìm ai bây giờ? Hơn nữa, với điều kiện trước mắt của Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông cũng cần người hợp tác. Ông không có tiền, cũng không có tài trợ, cả sức người sức của đều không, mà những thứ này, chúng tôi đều có thể cung cấp đầy đủ. Và chu toàn, chỉ cần ông đổi lại bằng những điều ông nghe được, thấy được trong hành trình của mình mà thôi. Thậm chí, ông có thể không cần đi đến nơi đó cũng được, kho báu tìm được sẽ chia cho ông theo tỉ lệ bảy ba. Ba phần mười kho báu trong Bạc Ba La thần miếu đó! Đó là một tài sản tiêu cả mười đời, hay thậm chí là trăm đời cũng không hết đó!"

Trác Mộc Cường Ba đã chẳng còn tâm tư đâu mà khó chịu với tên béo này nữa rồi, gã chỉ đang suy nghĩ, những thế lực nước ngoài này hình như đã vượt xa tầm tưởng tượng của gã, rốt cuộc là tin tức lộ ra từ đâu chứ? Còn cả tên Merkin nữa, trong bảng xếp hạng các thế lực nước ngoài ấy thì hắn ở vị trí nào?

Tên béo vẫn tiếp tục khích tướng, cổ động: "Phải biết rằng, hiện nay mọi người đều cho rằng vị trí của Bạc Ba La thần miếu nằm ở khu vực giao giới vẫn chưa phân định rõ ràng là thuộc về lãnh thổ nước nào. Ở những chỗ như thế, chẳng có chính phủ nào can dự được cả, gióng như vụ công ty thăm dò biển Odýsseia trục vớt được xác tàu đắm Tây Ban Nha ở vùng biển quốc tế vậy, tất cả tài sản đó đều chỉ thuộc về người phát hiện, dư luận quốc tế cũng không thể phản đối gì. Lần đó, công ty Odýsseia mới phát hiện được bấy nhiêu báu vật, còn lần này, thứ mà chúng ta phát hiện, đơn vị tính không nên dùng hàng trăm triệu đô la nữa, mà phải dùng trăm tỉ! Trăm tỉ đô la! Phải tính bằng hàng trăm tỉ đô la Mỹ đấy! Trăm tỉ! Trăm tỉ!" Tên béo nói mà nước bọt bắn tung tóe, kích động đến độ không sao kiềm chế nổi, tay chân đã hơi co giật.

Một hồi lâu sau, y thấy Trác Mộc Cường Ba vẫn không hề có phản ứng gì, cuối cùng cũng ngừng hoa chân mua tay khoe khoang phét lác, ra vẻ rầu rầu thông cảm nói: "Tôi biết, sự việc thất bại lần này đã tác động rất lớn đến Trác Mộc Cường Ba tiên sinh. Không cần nôn nóng, chúng tôi có thể cho ông thời gian để suy nghĩ. Đây là số điện thoại của tôi, nếu ông nhớ ra hoặc nghĩ đến điều gì đó, xin hãy gọi số này. Đương nhiên, tôi hy vọng nhận được câu trả lời của ông trong thời gian ngắn nhất. Trác Mộc Cường Ba, lần này cơ hội ngàn năm có một đó, thật hy vong rằng ông có thể suy nghĩ cho kỹ càng!"

Trác Mộc Cường Ba vẫn đang ngây người ra, tên béo đã sắp xếp lại giỏ hoa quả, cầm một quả táo lên cắn nhồm nhoàm, vừa nhai vừa nói: "Thật đúng là, chuyện này mà phải tay tôi, thì..." Lúc này Đường Mẫn đã đi lấy thuốc trở lại, tên béo liền đứng lên nói: "Nhất định phải nghĩ cho kỹ nhé, à, phải rồi, cũng chúc cho sức khỏe của ông chóng ngày hồi phục." Đi ra tới cửa, y còn giơ tay lên làm hiệu, ý bảo nhớ điện thoại cho tôi.

Đường Mẫn ngạc nhiên hỏi: "Người đó là ai thế?"

Trác Mộc Cường Ba tựa như người vừa bừng tỉnh cơn mộng, thở hắt ra một hơi dài: "Hừ... sự việc... càng lúc càng trở nên phức tạp rồi!"

Gã lập tức liên lạc với giáo sư Phương Tân, thuật lại tóm tắt một lượt những gì vừa diễn ra, nhưng giáo sư Phương Tân lại không tỏ vẻ kinh ngạc cho lắm, chỉ nói: "Đúng rồi, theo tài liệu của Lữ Cánh Nam cung cấp, và theo những gì tôi nghe ngóng được khi liên lạc với các chuyên gia nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu, trên toàn thế giới, rốt cuộc là có bao nhiêu tổ chức đang đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì nước ta cũng không rõ cho lắm, nhưng không thể nghi ngờ một sự thật rằng, số lượng những tổ chức như thế rất nhiều. Đây cũng là điều mà Lữ Cánh Nam trước nay vẫn luôn nhấn mạnh, chính là nguyên nhân chủ yếu tại sao phải giữ bí mật việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của chúng ta. Lần này, bọn họ tìm đến cậu, chứng tỏ hành động của chúng ta đã bị tiết lộ rồi. Bây giờ, trước mặt chúng ta đang đặt ra hai vấn đề, thứ nhất, là phải phát hiện ra nguồn tiết lộ thông tin mật, bằng không, chúng ta sẽ không dám có hành động tiếp theo. Thứ hai, làm sao để ganh đua với các tổ chức khác cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Đa số bọn họ đều là những thế lực nước ngoài, tôi thấy khả năng hợp tác là không lớn lắm. Vấn đề chính là, nếu đã có một tổ chức tìm đến cậu rồi, sau này sẽ còn nhiều hơn nữa ùn ùn không ngớt kéo đến tận cửa nhà cậu, khi ấy cậu phải ứng phó ra sao? Bây giờ thì vẫn khách khí lễ độ hòng moi thông tin từ miệng cậu, tới lúc cần thiết, nói không chừng bọn họ sẽ bất chấp thủ đoạn, không tiếc trả bất cứ giá nào mà hành đông. Đối với họ, Bạc Ba La thần miếu... thật không phải chỉ là một sự quyến rũ thông thường đâu."

Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu thấy đau đầu, muốn giải quyết vấn đề thứ hai này quả thực rất hao tâm tổn trí. Đường Mẫn liền thử phân tích: "Liệu có phải là từ cấp trên tiết lộ ra không?"

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Không, không thể nào, công tác bảo mật của nước ta có thể nói là còn tốt hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới, nếu bọn họ có thể lấy được thông tin từ tầng lớp lãnh đạo thì đã không tìm đến chúng ta làm gì rồi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "À, Merkin? Liệu đây có phải là một âm mưu khác của hắn không?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Không giống cho lắm, từ mấy lần đối đầu trước cho thấy, hắn luôn náu mình trong bóng tối, dường như còn sợ bị người khác biết đến mình đang tìm kiếm thần miếu hơn cả chúng ta nữa. Chẳng những vậy, chỉ cần là người hơi có đầu óc một chút đều biết rằng, chuyện có đầu mối để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu ấy, càng nên bí mật càng tốt. Merkin không ngu xuẩn đến nỗi tự mình tuồn thông tin ra ngoài đâu. Còn nữa, tên béo kia đã tự báo thân phận, chứng tỏ rằng bọn hắn và tên Ben không phải cùng một bọn."

Trác Mộc Cường Ba khẳng định: "Chắc không phải là người của chúng ta tiết lộ ra đâu."

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Ừm, tôi cũng không cho là vậy, đối phương chỉ biết một số thông tin ngoài lề như chuyện công ty của cậu bị phá sản, nhưng không biết về tình trạng sức khỏe dị thường của cậu, thông tin có lẽ do người nào đó chúng ta từng tiếp xúc để lộ ra ngoài, phải không? Lẽ nào..."

Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Sao vậy? Thầy nghĩ ra được gì rồi, thầy giáo?"

Giáo sư Phương Tân chép miệng nói: "Thôi bỏ đi, giờ cậu cần dưỡng thương cho tốt đã, chuyện này tôi sẽ điều tra cho rõ ràng. Quan trọng nhất bây giờ là, làm sao để những kẻ như tên béo kia không tìm đến nữa."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi sẽ lập tức làm thủ tục xuất viện, để họ không tìm được nữa."

"Không, không, không." Giáo sư Phương Tân vội nói: "Ngàn vạn lần không được làm vậy. Như thế chỉ khiến đám người ấy càng tin rằng cậu nắm giữ đầu mối gì quan trọng lắm. Không chỗ nào mà những thế lực ấy không len lỏi vào được, cậu càng tránh càng không thoát khỏi bọn họ. Giờ việc cần làm, chính là tiếp tục làm ra vẻ sa sút tinh thần, ở bệnh viện không cần làm gì cả, nếu tên béo đó lại tiếp tục tìm đến, cậu có thể giả bộ vẫn chưa hết kinh hoàng, tiết lộ một số điều chúng ta gặp phải ở núi Tư Tất Kiệt Mạc ở mức độ thích hợp, để bọn hắn cho rằng cậu đã không còn quyết tâm đứng lên lần nữa, hy vọng như vậy sẽ làm nhạt đi phần nào lòng hiếu kỳ của hắn. Chỉ có điều, sau này khi đội của chúng ta bắt tay hành động, cần phải cẩn thận hơn nữa. Thôi được rồi, bây giờ tôi sẽ gửi cho cậu thêm một phần tài liệu nữa, là nghiên cứu của một nhóm chuyên gia khác về văn tự khắc trên bia đá, đồ vật của người Maya. À, còn cả thứ này nữa, ở đây có tài liệu về nguyên mẫu và xuất xứ của nghệ thuật tạo hình tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh, cậu cũng nên đọc cho kỹ vào."

Nhắc đến Cánh cửa Sinh mệnh, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ tới Đa Cát. Gã lấy ra ba món đồ của Đa Cát để lại, một viên hồng bảo thạch, một khối Thiên châu, và còn có một con tằm bằng ngọc nữa, bao giờ thì trả những thứ này cho Ca Ca, lúc đó phải nói gì với cô đây?

Hai ngày sau đó, tên béo kia không thấy trở lại nữa, nhưng Trác Mộc Cường Ba tin rằng, hắn tuyệt đối không yên tâm mà chờ điện thoại của gã. Các vết thương trên người Trác Mộc Cường Ba dần dần khép miệng, đã có thể xuống giường đi lại. Gã không thể chờ đợi được, chỉ muốn ra ngoài hoạt động cho giãn gân giãn cốt. Gã cũng đồng thời suy nghĩ về phương pháp hô hấp Lữ Cánh Nam chỉ dạy cho mình, tuy vẫn chưa cảm nhận được trong cơ thể có bánh xe bánh xiếc gì chuyển động, nhưng tinh thần tự giác thì đặc biệt tốt như chưa từng thấy.

Hôm đó Đường Mẫn vừa giúp gã thay thuốc xong, nói rằng vết thương đã bắt đầu lên da non, Trác Mộc Cường Ba không sao nhịn nổi nữa, nhân lúc Đường Mẫn ra ngoài, gã liền tung mình xuống giường, chạy lấy đà mấy bước, rồi liên tiếp đạp lên bức tường trắng của bệnh viện năm sáu bước, người dần lên cao, đầu gần như đã chạm đến trần nhà mới đảo người lộn một vòng nhẹ nhàng hạ xuống đất. Sau đó, gã lại ra chính giữa phòng bệnh, rồi hơi nhún nhảy hai chân, bật vọt lên, vươn tay ra, đã dễ dàng chọc vào khe hở của lỗ thông khí điều hòa tổng, một tay treo mình lơ lửng trên không. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy hết sức hài lòng với tình trạng hồi phục của mình, nhìn khoảng cách giữa khe thông khí điều hòa với bức tường, ước chừng không hơn ba mét, tính khí trẻ con lại chợt nổi lên, gã liền cong người ngược lên, giẫm vào trần nhà, ngắm chuẩn hướng bức tường rồi đạp mạnh một cái, thân thể liền bắn vút đi như mũi tên tời dây cung. Khi đầu ngón tay chạm đến bức tường, thân thể liền trở nên mềm nhũn, gã dùng bàn tay tản xung lực, dán người sát vào mặt tường, chầm chậm trượt xuống như con thằn lằn. Ngoảnh đầu nhìn lại, thấy tấm thép chắn trên lỗ không khí điều hòa đã bị đạp cho biến dạng. Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, nghiêng người tạo thành một góc nghiêng ba mươi độ, đột nhiên tăng tốc, chạy dọc theo mặt tường lên đến cách mặt đất chừng ba mét, ước chừng như đã đi xa được khoảng mười mét, khi hai chân không thể nào bám lên mặt tường được nữa, trọng tâm người gã liền hơi lệch đi, hai tay và hai chân cùng lúc xòe rộng, thân thể cố định trên khung cửa giữa phòng bệnh và khoảng sân nhỏ có lan can chìa ra ngoài.

Nhìn ánh mặt trời rực rỡ, cây cỏ xanh tươi bên ngoài, thi thoảng lại có tiếng chim hót véo von, hai tay Trác Mộc Cường Ba hơi buông lỏng, hai chân đạp mạnh, cả người liền xoay một vòng trên không trung lộn ra bên ngoài lan can, rồi cứ ở nguyên vị trí bấp bênh muốn rơi xuống ấy, gã vươn tay phải ngược về phía sau bám lấy lan can của khoảng sân nhỏ đón nắng, cả người lơ lửng trên mười hai tầng lầu. Ngắm phong cảnh trong tư thế này cũng thật là đặc sắc, Trác Mộc Cường Ba hưng phấn thầm nhủ, bên dưới kia là người qua kẻ lại, khung cảnh bệnh viện này cũng rất u nhã, nếu thi thoảng có thể hoạt động một chút cho giãn gân giãn cốt thế này thì thật tốt biết mấy. Trác Mộc Cường Ba đang nghĩ ngợi, đột nhiên tay lơi ra, cả người lập tức rơi tự do từ tầng mười hai xuống. Ý niệm vừa động, gã đã sực nhớ ra: "Chết rồi, Mẫn Mẫn sắp quay lại."

Đà rơi tự do mới hình thành, tmcn đã đột nhiên xoay người trên không trung, hai tay nhanh chóng bám chắc vào mép lan can của khoảng sân chìa ra đón nắng ở tầng dưới, bên trong không có bệnh nhân nào, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: "Cũng may là chưa làm người khác kinh hãi." Hai tay gã chống xuống, cả người liền trồng cây chuối bên mép lan can. Với chiều cao của gã, hai chân vừa hay có thể móc ngược lên lan can tầng trên, Trác Mộc Cường Ba dang rộng hai chân ra, cố định thân thể vào lan can tầng trên, rồi buông tay ra, cả người liền cong lên như người đang nằm sấp ngồi dậy, bám lấy lan can phòng bệnh của mình, lộn một vòng, lăn trở vào bên trong, động tác nhanh nhẹn khéo léo như khỉ vượn

CHƯƠNG 40: SỬ LIỆU BÍ MẬT VỀ VIỆC QUÂN ĐỨC TIẾN VÀO TÂY TẠNG

Trước mắt, các tài liệu văn thư chính thức đã được giải mật, thể hiện rõ rằng, năm 1937, có một đội đặc công Nazi được Hitler và trợ lý hàng đầu của ông ta là Himmler đặc phái, bí mật xâm nhập Tây Tạng. Bọn họ ở Tây Tạng suốt một năm, vẽ được rất nhiều bản đồ, còn quay phim chụp ảnh nữa. Kế hoạch đó được gọi là Cực Bắc. Hitler tin rằng tổ tiên của người Aryan bắt nguồn từ đó, nền văn minh Atlantis đã biến mất cũng ở đó, chỗ ấy là trục trung tâm của địa cầu, thay đổi trục trung tâm này, ắt sẽ có thể thay đổi chiều quay trái đất, cũng như vận mệnh của tất cả các quốc gia trên hành tinh này

-*-*-

TÒA THÀNH KHẮC ĐÁ

Trác Mộc Cường Ba vừa trở lại giường bệnh thì Đường Mẫn đẩy cửa bước vào, vừa thấy tấm chắn lỗ thông khí điều hòa chính giữa trần nhà biến dạng, và dấu chân chi chít trên tường, cô lập tức hiểu ra Trác Mộc Cường Ba vừa làm gì. Cô trách móc: "

Anh xem anh kìa, chẳng khác nào đứa trẻ cả, em đã bảo bao nhiêu lần rồi, vết thương của anh vừa mới lên lành, có mấy chỗ còn chưa cắt chỉ nữa, cứ làm loạn lên như thế, vết thương có thể vỡ ra bất kì lúc nào đấy."

Trác Mộc Cường Ba cười hì hì, bật người dậy kéo Đường Mẫn lại nói: "Em xem đi, anh nằm lì trên giường không cử động nhúc nhích gì mấy hôm liền rồi, thực sự là khó chịu bức bối lắm mới vẫn động chút cho giãn gân cốt thôi. Em nói xem, có phải anh thuộc loại thừa tinh lực hay không? Sớm biết thế này, anh đã cùng đi Moscow với mấy người nhóm Ba Tang rồi, đột nhiên anh lại rất muốn đi Moscow, đã lâu lắm rồi không trở lại nơi ấy rồi."

Đường Mẫn véo tai Trác Mộc Cường Ba nói: "Anh ấy à, chính vì không tự quản nổi mình, nên mới cần có em để quản lý anh!"

Trác Mộc Cường Ba xoay mặt Đường Mẫn lại, thì thầm nói: "Giờ sức khỏe của anh cũng đã hồi phục kha khá rồi, hay là, đằng nào bây giờ cũng không có ai đến..." Đường Mẫn "ậm ừ" mấy tiếng, dường như muốn rút người ra khỏi vòng tay Trác Mộc Cường Ba, nhưng lại chỉ nhúc nhích mấy cái rồi không phản kháng gì nữa.

"Cộc cộc cộ... có ai không?" Giọng tên béo vang lên thật không hợp một chút nào. Đường Mẫn vội vàng chỉnh lại đầu tóc rối bù, Trác Mộc Cường Ba cố nuốt đầy một bụng tức, nằm lại xuống giường, theo như sự chỉ đạo của giáo sư Phương Tân. Giờ đây gã cần phải làm một kẻ thất bại cùng cực, vì bị thất bại liên tiếp mà trở nên sa sút tinh thần.

Tên béo bước vào đã cười toe toét nói: "Ồ, ở đây hết cả à, xem ra Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cũng đỡ nhiều rồi đấy nhỉ." Y cố làm bộ trấn định, nhưng vẻ nôn nóng trong ánh mắt kia thì không thể giấu nối Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba uể oải nói: "Sau khi anh đi, tôi nghĩ rất nhiều, tuy rằng những món châu báu ấy cũng có sức hấp dẫn rất lớn, ừm, nhưng trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, tôi cũng đã hiểu ra rồi, quý giá nhất vẫn là mạng sống của mình. Tôi không còn hứng thú gì với những thứ anh nói nữa, giờ chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống cho tốt thôi, nếu anh cứ cố chấp muốn có được những báu vật ấy, tôi chỉ còn biết thành thật tặng anh một lời khuyên... chớ nên vì kho báu trong tưởng tượng mà để mất tính mạng thật của mình!"

Tên béo thấy Trác Mộc Cường Ba nói năng có vẻ dịu đi, vội vàng thuận thế đưa đẩy: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, rõ ràng là ông vẫn chưa hiểu hết ý của tôi rồi. Chúng tôi chỉ cần một số thông tin và các tài liệu, nếu ông có thể cung cấp, chúng tôi sẽ tặng cho ông một món tiền lớn, đảm bảo nửa đời về sau ông không cần phải không nghĩ gì nữa, ngày ngày có thể nằm trên ghế dài mà thưởng thức các cô gái xinh đẹp trên bãi biển, thật tự do thoải mái biết bao. Ông không cần phải đích thân đi đến nơi đó, chỉ cần thông tin ông cung cấp cho chúng tôi chính xác, đáng tin cậy, chúng tôi sẽ đền đáp hậu hĩnh, thế nào hả? Nếu ông đồng ý, xin báo cho một con số, để xem chúng tôi có thể khiến ông hài lòng hay không?"

Trác Mộc Cường Ba muốn báo ra một con số để đối phương biết khó mà lui, bèn tiện mồm đáp: "Năm tỷ", định nói xong thì quan sát sắc mặt của tên béo, nếu thấy y có chút gì do dự, sẽ lập tức bồi thêm một câu, đây chính là tổng tài sản năm đó của công ty gã, kỳ thực, con số ấy đã gấp năm mươi lần giá trị thực của công ty gã rồi.

"Được, quyết định vậy đi." Không ngờ, tên béo kia không nghĩ ngợi gì đã nhận lời luôn. Trác Mộc Cường Ba liền nói: "Tôi nói là đô la Mỹ đó!"

Tên béo cười là giả nói: "Đương nhiên là đô la Mỹ rồi, nếu là nhân dân tệ thì chúng tôi cũng không có cách nào mà đổi được nhiều tiền như thế đâu. Nhưng có điều..." Y lại nói: "Tôi cần phải xác nhận xem thông tin mà Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cung cấp có đáng với cái giá ấy không trước đã, yêu cầu này không có gì là quá đáng chứ?"

Trác Mộc Cường Ba tùy tiện chọn ra một phần những việc đã trải qua để kể lại, như ở châu Mỹ thì chủ yếu nói về rừng rậm, ở Tây Tâng hầu như chỉ nói về môi trường, hoàn cảnh địa lý ở Mặc Thoát, những chỗ quan trọng gã chỉ lướt qua một chút, về các tượng Phật thì hoàn toàn là ghép chỗ này một chút, ghép chỗ kia một chút, thậm chí bản thân gã cũng chưa nhìn thấy các tượng Phật ấy bao giờ nữa. Riêng về các cơ quan cạm bẫy, Trác Mộc Cường Ba gắng sức lục lọi trong các tiểu thuyết thám hiểm và phim ảnh khoa học viễn tưởng mình từng xem qua, có chỗ nói nhanh qua, suýt chút nữa thì lỡ miệng kể ra cả pháo laze nữa. Có điều, những gì ở núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc thì gã nói ra đến năm phần sự thực, cứ nửa thật nửa giả như vậy, khiến người nghe thật khó tài nào mà phân biệt nổi.

Tất cả những chuyện này xảy ra trong hơn hai năm, Trác Mộc Cường Ba tổng cộng chỉ nói mất có hơn ba phút đồng hồ. Tên béo dùng bút ghi âm điện tử ghi lại toàn bộ. Kể xong, Trác Mộc Cường Ba liền nói: "Có nhiêu đó vậy thôi."

Tên béo nhìn gã với ánh mắt nghi hoặc: "Không đến nỗi vậy chứ, nghe nói Trác Mộc Cường Ba tiên sinh từng ở trong đội ngũ của nhà nước Trung Quốc hơn hai năm, lẽ nào những việc trải qua chỉ có bao nhiêu đấy thôi?"

Trác Mộc Cường Ba sực nhớ đến Ba Tang, gương mặt liền lộ nét đau khổ vật vã: "Dĩ nhiên, những điều tôi biết không chỉ có vậy, nhưng... nhưng... đó... đó là những thứ tôi không muốn nhớ lại nữa, tôi không biết nên nói như thế nào, nhưng cứ hễ nghĩ lại đến những chuyện ấy, tôi lại... tôi lại... a... đau đầu quá! Đầu tôi, đầu tôi đau quá!"

Đường Mẫn vội phối hợp, nắm chặt tay Trác Mộc Cường Ba, lo lắng nói: "Sao vậy? Anh không sao chứ? Có cần em đi gọi bác sĩ không?"

Tên béo kia liền ân cần hỏi han: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông phải nhẫn nại, nhất định phải cố gắng nhớ lại những chuyện kia mới được, đó mới là nội dung quan trọng nhất đấy!"

Trác Mộc Cường Ba lấy tay ôm chặt lấy đầu, một lúc sau lại bấu chặt vào ga trải giường, lăn qua lăn lại một lúc lâu, miệng cứ kêu mãi không ngớt: "Không được, đau đầu quá! Á!..." Tên béo gí sát chiếc bút thu âm vào miệng Trác Mộc Cường Ba, cố bức ép: "Cố nhớ một chút thôi, một chút thôi cũng được!"

Đường Mẫn đột nhiên chộp lấy chiếc gối trên đầu giường, đập tới tấp vào đầu vào mặt tên béo, vừa vung chân múa tay, vừa khóc lóc kêu gào: "Anh ấy đã như vậy rồi, các người còn muốn ép nữa hay sao! Rốt cuộc ông có còn là con người nữa không! Cút đi! Cút đi! Cút ra ngoài cho tôi!"

Tên béo bấy giờ mới chần chừ đi ra, nét mặt đầy vẻ không can tâm: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông hãy nghỉ ngơi cho khỏe, tôi... hai ba ngày nữa sẽ qua tìm ông, nhất định ông phải nhớ lại đấy..."

"Cút đi!" Một chiếc gối bay tới, làm cửa phòng đóng sập lại. Trác Mộc Cường Ba thở phào một hơi nói: "Em đi gọi bác sĩ, tiện thể xem hắn đã đi hay chưa."

Đường Mẫn ngẩng đầu lên, nước mắt đầm đìa, bộ dạng trông thật đáng thương vô cùng. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận lau vệt nước mắt trên gương mặt bầu bĩnh của cô, kinh ngạc nói: "Không phải đấy chứ, em khóc thật đấy à? Công chúa nhỏ, sao nhiều nhiều nước mắt thế không biết? Lẽ nào em đã trở thành... mà bọn Trương Lập cứ nói ấy..."

Đường Mẫn cắn cắn môi, véo mũi Trác Mộc Cường Ba một cái: "Anh còn nói nữa, đều tại anh cả thôi! Em còn tưởng anh... anh thực sự... anh còn trêu người ta nữa..." Nói đoạn, sống mũi cô lại thấy cay cay, như thể muốn khóc òa lên tới nơi.

Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Được rồi, được rồi, thì ra là anh diễn xuất giống thật quá à. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, Mẫn Mẫn của anh đúng là có thiên tài biểu diễn đấy nhé, nếu em mà tham gia vào giới nghệ thuật, nói không chừng lại trở thành nghệ sĩ nổi tiếng cũng nên." Đường Mẫn nghe câu ấy xong mới đổi giận làm vui, đang khóc lại nhoẻn miệng cười.

Sau khi xác định tên béo đã đi hẳn rồi, Trác Mộc Cường Ba lại liên lạc với giáo sư Phương Tân. Nghe gã kể lại mọi chuyện, giáo sư nói: "Cậu nói xem, tại sao tên béo ấy lại tỏ ra lo lắng bất an như vậy nhỉ?" Trác Mộc Cường Ba vừa mở miệng định nói, giáo sư Phương Tân đã lại nhắc nhở: "Nhớ kỹ, nhìn sự việc phải nhìn thứ ẩn giấu đằng sau nó."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi biết, thông tin đã lan truyền ra. Những kẻ biết được tin này chắc chắn là không chỉ có mình bọn hắn. Hắn cần phải lấy được thông tin từ tôi trước khi các tổ chức khác tìm thấy, vì vậy mới không thể nào ung dung cho được."

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói; "Đúng vậy, còn có một khả năng nữa, đó là có tổ chức khác đã để ý đến cậu, chỉ có điều bọn họ vẫn đang ngấm ngầm xung đột, nói không chừng, ở những chỗ chúng ta không thấy được, các thế lực này đã đi đến giai đoạn nước lửa xung khắc, đang chuẩn bị đánh nhau một trận tưng bừng rồi cũng nên."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Còn một điểm nữa, khi tôi đưa ra con số năm tỉ đô la Mỹ với tên béo ấy, hắn không cần nghĩ ngợi gì đã nhận lời luôn. Chuyện này, xét về tình, về lý đều không ổn lắm, rõ ràng là chúng đã lòi đuôi ra rồi."

Giáo sư Phương Tân nói: "Ừm, nói vậy nghĩa là sao?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Lúc đưa ra con số năm tỉ, tôi cũng đã suy tính rồi. Thầy giáo, thầy nghĩ thử xem, có năm tỉ đô la Mỹ rồi, muốn làm gì mà chẳng được, tại sao lạo cứ phải đi tìm cái ngôi thần miếu xa xăm mờ mịt ấy làm gì chứ, ngoại trừ thằng ngốc ra, họa may chỉ có thằng điên mới đi làm chuyện kiểu như thế. Hơn nữa, tên béo đó tự dưng mình cũng chỉ là một người đưa tin mà thôi, hắn có quyền quyết định gì mà dễ dàng chấp thuận trả một cái giá khá lớn như vậy cơ chứ. Vì vậy, tôi cho rằng, ý đồ của bọn chúng là, bất kể tôi đưa ra điều kiện hay yêu cầu gì, trước tiên cứ chấp nhận đã, mục đích chỉ là thấy được thông tin từ chỗ tôi, bất cứ thông tin nào cũng được. Có điều, tên béo ấy làm lộ liễu quá, ngược lại mới để lộ ra sơ hở."

Giáo sư Phương Tân cười cười nói: "Xem ra những ngày này cậu cũng không nằm không trong bệnh viện, cuối cùng đã dần dần hồi phục được năng lực tự tư duy rồi. Nhưng vậy vẫn chưa đủ đâu, muốn trở thành người quyết sách, cậu cần phải nghĩ được nhiều hơn nữa, xa hơn nữa. Mấy ngày tới, mấy người bọn Trương Lập sẽ qua Thượng Hải, rồi tới Lhasa, lúc đó thương thế của cậu chắc cũng đỡ nhiều rồi, có thể cùng bọn họ trở về. Nhớ kỹ, lúc đi đừng có kéo theo mấy cái đuôi nữa đấy!"

Trác Mộc Cường Ba hiểu, giáo sư Phương Tân bảo gã đừng để các thế lực nước ngoài cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu kia bám theo về Tây Tạnh, bèn gật đầu đồng ý. Tối hôm đó, giáo sư Phương Tân lại liên lạc với Trác Mộc Cường Ba, nói đã sắp xếp được một phần tư liệu mới. Trác Mộc Cường Ba vội bật mạng lên, liền được giáo sư gửi cho bản chụp của mấy quyển trục. Vừa nhìn những văn tự ấy, gã lập tức hiểu ra, lại có một phần Cổ Cách kim thư nữa được dịch ra.

Giáo sư Phương Tân nói: "Không sai, đến giờ tôi nới biết, thì ra lúc chúng ta xin gia nhập đội huấn luyện đặc biệt của nhà nước, một phần nội dung của quyển trục này cũng vừa khéo về với tổ quốc, chính là phần nhắc đến quốc vương và sứ giả đó. Còn trước khi chúng ta sang châu Mỹ, các chuyên gia lại phá giải thêm được đoạn sứ giả mang theo Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến nơi chân trời góc biển. Dựa vào những tài liệu chúng ta hiện đang nắm trong tay, có thể đưa ra kết luận rằng, quyển trục này, rất có khả năng là vật đã bị Morton Stanley mang đi từ vương triều Cổ Cách. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể dựa vào hành trình hơn trăm năm trước của Morton Stanley để đưa ra một kết luận đại thể. Morton Stanley đã tới Cánh cửa Sinh mệnh. Ở đó, ông ta đã phát hiện ra đầu mối quan trọng. Để không ai biết được những đầu mối này, ông ta đã vơ vét những vàng bạc châu báu, và phóng hỏa thiêu đốt sạch mọi dấu vết. Những dấu vết ấy có lẽ là chỉ đến Đảo Huyền Không tự, thế nhưng Morton Stanley vốn không hiểu biết gì về lịch sử Mật giáo Tây Tạng, nên đã tưởng lầm đó chính là vương triều Cổ Cách, mà sự thực thì, Đảo Huyền Không tự cũng ở ngay bên dưới lòng đất di chỉ Cổ Cách. Vì vậy, Morton Stanley đã lần theo đầu mối đến Cổ Cách, mang đi toàn bộ châu báu của vương triều, bao gồm cả những quyển trục đó, và cả tấm bản đồ nữa. Chuyện sau này ra sao, thì mọi người đều biết cả rồi."

Trác Mộc Cường Ba nghe giáo sư Phương Tân phân tích xong, cảm thấy hết sức rộng mở thông suốt, liền gật đầu nói: "Thì ra là vây, bởi vì ở Cánh cửa Sinh mệnh và vương triều Cổ Cách đều có thể thấy sự sùng bái hết mực đối với Đảo Huyền Không tự và Bạc Ba La thần miếu, vì vậy Morton Stanley mới tin rằng, những gì ông ta tìm thấy chẳng qua chỉ là hạt cát trong sa mạc, còn viên ngọc thực ra vẫn đang ẩn giấu ở đâu đó, trên đất Tây Tạng này."

Giáo sư Phương Tân nói: "Bên trên có một đoạn ghi chép, viết rằng, trước khi vương triều Cổ Cách được thành lập, nơi đó vốn là lãnh địa của vương triều Tượng Hùng. Có lẽ cũng là dựa theo các ghi chép trong văn thư của Tượng Hùng, rằng, Tượng Hùng vương đã từng phát hiện ra thần tích ở đây, vì vậy mới chọn đất này làm nơi dựng đô lập nước. Cái gọi là 'thần tích' đó, theo tôi đoán có thể chính là tiền thân của Đảo Huyền Không tự, ở đó có một đại hiệp cốc bên dưới lòng đất, có nham động và bích họa, những bức tranh chì than mà chúng ta phát hiện, có lẽ là do những người thượng cổ sống trong hang động ở hai bên vách núi trong thời kỳ dầu tiên để lại. Đối với người Tượng Hùng mà nói, đây chắc chắn là thần tích, mà vương triều Tượng Hùng thì lại tin theo Bản giáo cổ đại, không khó để tưởng tượng rằng, tôn giáo thần bí của pháp sư Á La, có lẽ đã dựa trên cơ sở các hang động của người xưa, để xây dựng nên Đảo Huyền Không tự từ thời vương triều Tượng Hùng."

Trác Mộc Cường Ba không kìm nổi phát ra một tiếng kêu khe khẽ. Những điều ấy, quả là rất có khả năng xảy ra.

Giáo sư Phương Tân tiếp lời: "Người Cổ Cách biết rằng người Tượng Hùng có một tòa cung điện thần kỳ, nhưng họ lại không sao tìm được lối vào Đảo Huyền Không tự, có còn nhớ đường hầm chúng ta phát hiện được trong đàn tế Mạn Đà La cuối cùng không? Đó chính là nơi tiếp giáp giữa Đảo Huyền Không tự và di chỉ Cổ Cách. Tôi tin rằng, các vị Cổ Cách vương cũng nghĩ, tòa thần miếu ấy có lẽ chính là ở dưới lòng đất, nên bao đời vẫn không ngừng bí mật đào bới bên trong căn mật thất cuối cùng đó. Thật đáng tiếc, họ chỉ còn cách Đảo Huyền Không tự có nửa mét nữa thôi. Như vậy là tất cả các đầu mối lịch sử đã được kết nối với nhau rồi. Ôi, lịch sử thời viễn cổ, những trang sử thần bí đã bị lãng quên..." Giáo sư Phương Tân không khỏi cảm thán thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nín thở, nhất thời cũng không nói được lời nào.

Cuối cùng, giáo sư Phương Tân thở dài một hơi, đoạn nói: "Được rồi, đại thể các đầu mối là vậy đấy. Ở đây đều là những nội dung tôi phân tích dựa trên cơ sở một nửa là suy đoán, muốn nghiệm chứng thì vẫn còn thiếu rất nhiều căn cứ lịch sử. Có điều, chuyện này không quan trọng lắm, cậu chỉ cần hiểu được cũng đủ rồi. Tối nay, chủ yếu là tôi muốn cho cậu xem thứ này, cậu xem đi..." Ông nói xong, liền cho phóng đại một đoạn văn tự trên màn hình lên, bên dưới còn gạch đỏ làm ký hiệu, chỗ này là câu chuyện về quốc vương và sứ giả mà Lữ Cánh Nam từng nói với chúng ta, đây cậu xem đi, "quốc vương cho vời thợ giỏi đến, hàng ngày từ sáu giờ đến bảy giờ sáng, phục chế Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu". Còn ở đây nữa, "sau khi hoàn thành, quốc vương rất không hài lòng, nói với đám thợ thuyền rằng 'Đồ đá rất dễ mục nát, thành bảo phải trường tồn vĩnh cửu'." Hai đoạn này có ý nghĩa gì chứ?

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Tại sao là sáu giờ đến bảy giờ sáng hàng ngày?"

Giáo sư Phương Tân gật đầu: "Tốt lắm, tại sao lại là từ sáu giờ đến bảy giờ sáng? Vấn đề này rất đáng để chúng ta suy nghĩ tìm hiểu. Khoảng thời gian này, có lẽ là lúc mặt trời lên khỏi đường chân trời. Còn nữa, tòa thành này được khắc tạc trên một tảng đá khổng lồ, cũng có nghĩa là, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu này là một hình lập thể có thể nhìn thấy được, kỳ thực, không chỉ có thể dịch ra là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, mà dịch thành Cung điện phát ra ánh sáng, hay Vùng đất thần thánh phản quang đều được cả. Vì vậy, chúng ta có thể suy đoán một cách sơ bộ rằng, cổ nhân đã vận dụng kỹ thuật phản xa, chiết xạ ánh sáng, có lẽ là gần như kỹ thuật chúng ta đã nhìn thấy ở Cự thạch trận Cổ Cách. Còn câu nói, đã núi dễ mục nát, thành bảo mãi trường tồn của quốc vương là chỉ ý gì nhỉ? Có phải muốn nói rawngs, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy, có thể giữ được còn bền lâu hơn cả đá núi hay không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Còn đầu mối nào khác không?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Còn mấy chỗ nữa, cũng ẩn chứa hoặc ám thị nội dung gì đó, nhưng giờ chúng ta không thảo luận chuyện ấy vội. Cậu có biết lúc tôi vừa đọc được những miêu tả bức điêu khắc trên đá, đã nghĩ đến điều gì không?"

"Điều gì?"

"Cậu xem đoạn phim này đi, trong đó là những hình ảnh chúng ta ghi lại được trong mật thất dưới lòng đất của vương triều Cổ Cách đấy."

Mật thất Cổ Cách lấp lóa ánh sáng mờ nhạt phát ra từ đèn trên mũ, bên trong đã bị vơ vét sạch sẽ, chỉ còn lại hai món đồ vật, chính là chiếc bàn đá hình vuông gắn liền với nền đất và một khối điêu khắc lớn bị sa hoá nghiêm trọng, không thể nhìn ra hình dạng ban đầu nữa. Bấy giờ Trác Mộc Cường Ba cuống cuồng lo lắng cho Đường Mẫn, hoàn toàn không hề chú ý đến những thứ đó, về sau xem lại phim ghi hình, đa phần đều là tua lại những hình ản giáo sư Phương Tân quay được trong ba tầng cung điện, riêng đoạn phim trong mật thất Cổ Cách không khiến gã chú ý nhiều lắm. Bây giờ, nghe giáo sư Phương Tân giải đáp nghi vấn, rồi xem lại khối đá lớn bị sa hoá nghiêm trọng kia, gã bất giác ngạc nhiên thốt lên: "Lẽ nào, thầy giáo muốn nói, tảng đá này, chính là..."

Giáo sư Phương Tân nói: "Nếu nói tất cả châu báu vàng bạc, quyển trục và một tấm bản đồ đã bị Morton Stanley mang đi khỏi mật thất này, và cả một tấm bản đồ chúng ra phát hiện được nữa, hai tấm một thật một giả đều liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, thì khối đá đã bị sa hoá đến không còn hình dạng ban đầu này, rất có khả năng chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mà Cổ Cách vương lưu giữ lại đó."

Trác Mộc Cường Ba nửa kinh ngạc pha lẫn mừng rỡ, nửa lại tiếc nuối không thôi, nói: "Nếu đúng là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, thì nó đã mất đi hình dáng ban đầu rồi, chúng ta đâu có thu hoạch được gì chứ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Không phải vậy, tuy có một bộ phận đã bị sa hoá, nhưng hình thái đại thể vẫn còn, cậu nhìn bàn đá này đi, từ độ cao và độ nghiêng vẫn chưa bị sa hoá này có thể thấy, hiển nhiên nó không phải là hình gò đống, mà có lẽ là vùng núi, bằng không thì cũng là khe nứt hay địa hào." Màn hình dừng lại trên một hình ảnh liền sau đó được giáo sư Phương Tân cho phóng to lên, chỉ thấy bên bàn đá, hiện ra một đường rãnh nhỏ. "Tôi đã hỏi ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhìn những dấu vết chưa hoàn toàn bị sa hoá, chỗ cao gồ lên này, rõ ràng có những vết lõm, sau khi được các chuyên gia xác nhận kỹ càng, ít nhất là có ba đường rãnh như thế, nếu chúng vươn ra khỏi vách đá, có lẽ là địa mạo cao nguyên có thể hình thành nên địa hình ba bậc mà không xảy ra đứt gãy, ít nhất cũng phải là núi đá hoa cương kiên cố. Cũng không loại trừ khả năng là do nham thạch núi lửa chúng ta đã thấy ở đại hiệp cốc dưới lòng đất tạo nên. Còn nguyên một nửa bên kia bàn đá đã được làm phẳng, nhìn không ra bất cứ dấu vết chạm trổ điêu khắc nào. Cấu trúc này, làm chúng ra nghiêng về nhận định rằng đây là địa hình khe nứt, nhưng rất kỳ lạ. Tôi sẽ tiếp tục nhờ các chuyên gia và học giả ngành địa lý, xem họ có đưa ra được kiến nghị gì hay không. Giờ thì cậu đã hiểu chưa? Tuy rằng nhìn bề ngoài thì không có đầu mối gì, nhưng chúng ta đang ở trong một thời đại bùng nổ thông tin, kể cả từ những thứ chúng ta không thể tìm được bất cứ đầu mối gì, các chuyên gia cũng có thể vận dụng kiến thức chuyên môn để cung cấp được những thông tin cực kỳ quý giá."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tốt quá rồi, nếu trong tay chúng ta nắm được càng nhiều thông tin, đầu mối cũng sẽ mỗi lúc một nhiều thêm."

Giáo sư Phương Tân nói: "Đúng vậy, còn một manh mối này nữa, theo các chuyên gia nghiên cứu nền văn mình Maya, họ đã có những thành quả mang tính đột phá trong việc tìm hiểu về mấy hình vẽ mà chúng ta không thể nào hiểu nổi trong địa cung Maya. Mấy ngày tới, họ sẽ giở bản kết luận mới đến, thật may là có mấy ông bạn cũ ấy. Được rồi, hôm nay tới đây thôi, cậu nghiên cứu kỹ những hình chụp quyển trục ấy xem có phát hiện ra được đầu mối gì mới không?"

Đếm hôm đó, Trác Mộc Cường Ba thức trắng để xem các bản dịch từ quyển trục. Các nội dung về Cổ Cách vương và vị sứ giả kia không nhiều lắm, nhưng đều là cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, có một điểm mà gã nghĩ mãi cũng không hiểu nổi, tại sao vị sứ giả kia lại đột nhiên thay đổi thái độ, tách các tín vật kia, chia ra cất giấu, thậm chí còn có ý khiến chúng vĩnh viễn không bao giờ thấy ánh mặt trời, mà lại không hủy hoại đi, có phải là cố ý trêu cợt người ta hay không?

CUỘC TRÙNG PHÙNG BẤT NGỜ

Cứ vậy lại hai ngày nữa trôi qua, sức khỏe Trác Mộc Cường Ba gần như đã hoàn toàn hồi phục. Gã định xuất viện luôn, nhưng các bác sĩ rất kiên trì, nhất quyết đòi gã ở lại theo dõi thêm một ngày nữa. Mặt khác, bọn Nhạc Dương, Trương Lập cũng chưa thấy trở lại, thành thử Trác Mộc Cường Ba đành đồng ý nằm viện thêm một ngày nữa.

Nhàn rỗi vô sự, gã bèn cũng Mẫn Mẫn tản bộ mấy vòng ngoài bãi cỏ, ý là định thực hiện mấy bài tập dạng hồi phục, nhưng Mẫn Mẫn lại cảnh cáo gã không được quá khoa trương, những bài tập kiểu như vậy chắc chắn sẽ khiến người ta bu lại xem. Trác Mộc Cường Ba đành tùy tiện ưỡn ngực vươn tay vươn chân, rồi vung tay đấm về phía trước vài cái, toàn thân tràn trề một nguồn sinh lực vô hạn, chỉ muốn tìm nơi nào đó để phát tiết bớt. Đột nhiên, trong đầu gã lóe lên một ý nghĩ, lẽ nào, tất cả đều do hô hấp mà ra hay sao?

Nhân lúc giữa trưa vắng người, Trác Mộc Cường Ba liền một mình đến trung tâm điều dưỡng người già của bệnh viện. Ở đây, gã kinh ngạc phát hiện ra, trước đây gã chỉ kéo xà một nghìn cái đã hết hơi rồi, giờ không ngờ đã làm đến hơn một nghìn ba trăm cái mà vẫn hoàn toàn không hề thấy mệt mỏi gì. Gã ngạc nhiên quan sát tay mình, cơ bắp không hề to hơn trước chút nào, không lẽ chỉ có thay đổi tần suất nhịp thở và mức độ nông sâu của hơi thở mà đã khiến cơ thể biến đổi nhiều đến như vậy hay sao? Trác Mộc Cường Ba tự hiểu, thời gian gã minh tưởng thực ra rất ít, còn rất xa mới đạt được yêu cầu của Lữ Cánh Nam, hiện giờ, gã vẫn hoàn toàn chưa có cảm giác gì về luân xa mà cô nói đến cả. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, khi trong cơ thể có một luân xa bắt đầu chầm chậm chuyển động, thì mới thực sự tiến vào một cảnh giới khác. Đó là một cảnh giới khác hẳn với những người chỉ rèn luyện thể lực thông thường, không thể nào dùng ngôn ngữ mà biểu đạt được. Trác Mộc Cường Ba lại càng kiên định minh tưởng hơn, nếu muốn tìm thấy những thứ mình hằng tìm kiếm, muốn bảo vệ những thứ mà mình không muốn mất đi, thì phải trở nên mạnh, mạnh hơn nữa!

Trở về bệnh viện, Trác Mộc Cường Ba chuẩn bị đi bộ về phòng bệnh, thì thấy trước cửa phòng CT cạnh cầu thang tầng ba có một bác sĩ đang cầm tấm phim CT nói gì đó với một người bệnh, trên cả dãy hành lang chỉ còn lại ba người bọn họ. Trác Mộc Cường Ba vốn định rẽ ngoặt, lên cầu thang đi tiếp luôn, bỗng nhiên, tất cả dường như đều trở nên im ắng! Trác Mộc Cường Ba chưa từng có cảm giác này, tựa như khoảng không gian xung quanh gã đã hoàn toàn bị tách lìa khỏi thế giới bên ngoài, thời không dừng lại không tiếp diễn nữa, một cảm giác nguy hiểm lạ thường bao bọc xung quanh gã. Cảm giác ấy thật mạnh mẽ, thậm chí còn khiến gã không thể nào tiến thêm dù chỉ một bước, cứ như tử thần đã bước đến sát sau lưng, hơi thở của cái chết đã phả và sau gáy. Trác Mộc Cường Ba không hiểu, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, cái gì đã khiến tự sâu bên trong gã dâng trào cảm giác sợ hãi khủng khiếp đến vậy. Khi gã cho rằng mình đã đủ mạnh rồi, lại đột nhiên cảm thấy không còn chút sức lực để kháng cự, chỉ còn nước để mặc người ta chém giết, linh hồn vùng vẫy như muốn thoát ra khỏi thân thể, mỗi tế bào cơ hồ đều không còn chịu sự khống chế của ý thức nữa. Gã tự ra lệnh cho chính mình: "Cử động đi, cử động đi, nhúc nhích đầu ngón tay thôi cũng được!" Nhưng toàn thân gã cứng đờ, như thể đã bị trúng phải phép định thân, cả chớp mắt một cái cũng không thể được. Trong khoảnh khắc ấy, chẳng khác nào linh hồn và thể xác đã hoàn toàn tách lìa nhau ra.

Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy người bệnh kia quay lưng về phía mình, bác sĩ đeo khẩu trang, kính mắt và đội mũ. Hai người đang nói chuyện gì đó, gã vẫn nghe thấy tiếng họ, nhưng thân thể lại bị ghìm cứng ở đây, tựa hồ như không còn thuộc về gã nữa. Không, tay bác sĩ kia đang nhìn gã! Ánh mắt ấy! Ánh mắt trong đôi mắt ấy sao lại như thế chứ? Giễu cợt? Châm biếm? Mỉa mai? Thương hại? Không, nhất định là ảo giác! Rốt cuộc là sao vây;? Thân thể của gã làm sao vậy? Nhúc nhích đi!

Cả quá trình này có lẽ chỉ kéo dài chừng một hai giây đồng hồ, nhưng một hai giây ấy lại khiến Trác Mộc Cường Ba chấn động rất lớn, cả hơi thở cũng trở nên rối loạn, nhịp tim đập nhanh như ngựa phi nước đại, tới khi tay bác sĩ kia quay người đi vào phòng CT, cả người gã mới rũ xuống như bị hạ đường huyết, gã gượng dựa vào tay vịn cầu thang, rốt cuộc cũng không ngất đi.

Lúc này, người bệnh kia cũng quay người lại. Trác Mộc Cường Ba thấy quen quen, hình như đã gặp người đó ở đâu rồi, gặp ở đâu nhỉ? Tên anh ta là gì? Nhưng lúc này tim gã vẫn đang đập loạn nhịp, máu dồn lên não không đủ, nghĩ vắt cả óc cũng không sao nhớ ra nổi.

Người bệnh kia rõ ràng cũng từng gặp Trác Mộc Cường Ba rồi, liền nở một nụ cười như muốn nói, "khéo thật", rồi đi về phía gã.

Cuối cùng, khi anh ta còn cách gã chưa đầy hai bước, Trác Mộc Cường Ba mới sực nhớ ra, đồng thời gọi tên đối phương: "Vương Hựu?"

Người đó chính là tay phượt Vương Hựu được bọn Trác Mộc Cường Ba cứu trong địa cung Maya. Lúc đó bọn họ chỉ ở với nhau có một ngày rưỡi rồi Vương Hựu về nước luôn, từ đó đến giờ không có liên hệ gì, không ngờ lại gặp nhau ở bệnh viện thế này. Vương Hựu cười khổ nói: "Cuối cũng anh cũng tìm đến rồi, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh."

Trác Mộc Cường Ba thầm ngẩn ra, câu này nghĩa là gì vậy? Chỉ nghe Vương Hựu lại tiếp lời: "Tôi biết, sớm muộn gì các vị cũng sẽ tìm đến tôi thôi, chỉ không ngờ là lại lâu như thế cơ đấy."

Nhịp tim Trác Mộc Cường Ba đã dần trở lại bình thường, liền hùa theo hai câu nói mập mờ của Vương Hựu đáp: "Thì ra anh cũng biết rồi."

Vương Hựu vẫn để đầu cua như trước, nhưng hàng ria con kiến thì đã cạo sạch, nhìn trông hao gầy hơn trước nhiều. Anh ta nói: "Tôi đoán ra được, các vị không phải là du khách bình thường, lần đó đến tòa cung điện ấy, tuyệt đối không chỉ là để thám hiểm. Sau khi trở về, tôi nhớ lại mới thấy, thân thủ, kỹ thuật, tri thức và trang bị của các vị đều tuyệt đối không giống với người thường, vậy nên tôi mới đoán, các vị tới chỗ ấy, chắc là để tìm kiếm thứ gì đó. Nhưng mà... các vị cũng không rõ rốt cuộc là mình cần tìm thứ gì, có phải không?"

Vừa gặp phải một tên béo, Trác Mộc Cường Ba bất giác trở nên cẩn trọng, thầm nhủ: "Kẻ tên Vương Hựu này rốt cuộc là ai? Sao anh ta biết được những chuyện này?" Gã bắt đầu nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhất sau khi gặp Vương Hựu lần đầu tiên, cuối cùng, gã bỗng sức nhớ ra, tấm gương bằng đồng! Tấm gương bằng đồng có khắc chi chít Tạng ngữ, Vương Hựu nói là mua ở Bogota, lẽ nào là...

Vương Hựu thấy Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói gì, tưởng gã bực bội trong lòng, liền giải thích: "Lúc đó không phải tôi cố ý gạt anh đâu, có điều, tôi thực sự rất tò mò với món đồ ấy. Tôi cũng không biết tại sao ở trong địa cung Maya lại xuất hiện một tấm gương đồng giống như là của Trung Quốc chúng ta."

Gương mặt Trác Mộc Cường Ba trơ ra như gỗ, nhưng tim thì đã bắt đầu đập mạnh dồn dập. Quả nhiên là tấm gương đồng ấy, hôm đó gã không hề nhìn lầm, chữ khắc trên tấm gương đó chính là chữ Tạng. Nói như vây, nghĩa là nó và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nhất định có mối liên hệ gì đó.

Vương Hựu vấn đang lẩm bẩm như thể tự nói với chính mình: "Tôi biết, các vị cứu mạng tôi, nhưng tôi cũng không biết lúc đấy mình bị sao nữa, hình như, hình như có một giọng nói nào đó vang lên trong đầu, bảo tôi nhất định phải mang tấm gương ấy trở về. Vừa về đến Trung Quốc, tôi lập tức đi tìm rất nhiều chuyên gia, nhưng kết quả giám định của họ đều nói rằng, đó là một tấm gương đồng bình thường đời Đường, đồ làm thủ công tinh tế, giữ được tương đối hoàn hảo, chỉ hiềm nỗi mặt sau bằng chì, giá thị trường không được cao lắm, nếu là gương thời Chiến quốc mà bảo tồn hoàn hảo như vậy, giá sẽ cao hơn rất nhiều. Chỉ có một nhà sưu tập già nói rằng đây là món đồ tốt..." Nói tới đây, Vương Hựu cũng giống như Trác Mộc Cường Ba, chìm sâu vào hồi ức và trầm tư.

Chuyện hôm ấy dù thế nào Vương Hựu cũng không sao quên được... Nhà sưu tập họ Trần là chuyên gia giám thưởng gương đồng hàng đầu trong nước, nghe nói cả nhưng tấm gương đồng mà Bảo tàng Cố Cung không thể giám định, đều phải mời vị lão tiên sinh đó tới xem xét. Nghe xong câu chuyện của anh ta, tiên sinh không tỏ ra hứng thú gì cho lắm. Nhưng khi Vương Hựu lấy tấm gương ra, Trần lão tiên sinh vội vàng đứng bật dậy, đổi cặp mắt kính khác, hai tay nâng tấm gương, miệng cứ: "Được... được... được..." mãi không thôi, rồi tắt thở mà chết. Nếu không phải các bác sĩ pháp y khẳng định ông ta chết vì tâm lực cạn kiệt, e rằng Vương Hựu cũng khó thoát khỏi can hệ. Thế nhưng, ngoài vị chuyên gia có uy tín nhất này nói tấm gương đồng ấy tốt, những người khác đều nói đây chỉ là một tấm gương đồng tầm thường, những thứ tương tự vậy có cả ngàn chiếc trôi nổi, ước chừng giá thị trường cao nhất cũng không quá năm vạn nhân dân tệ. Còn vị Trần lão tiên sinh kia thì lại chỉ kêu được có ba tiếng "Được", rồi duỗi tay rời khỏi nhân gian, chưa kịp nói là rốt cuộc nó "được" ở điểm nào. Từ đó trở đi, tấm gương đồng ấy trở thành thắc mắc lớn nhất trong lòng Vương Hựu.

Nghĩ tới đây, Vương Hựu bất giác cất tiếng hỏi: "Có thể nói cho tôi biết, thứ đó rốt cuộc là cái gì hay không?"

Trác Mộc Cường Ba thì đang suy nghĩ: "Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu? Bản thân cái tên này có ý nghĩa gì chứ? Vương Hựu cầm đi một tấm gương đồng, ánh sáng, gương? Lẽ nào sẽ có một tòa thành xuất hiện? Lẽ nào là... kỹ thuật dựng hình lập thể trong không gian bằng tia laze? Giống như cở Cực Nam miếu vậy, không không không, người xưa không thể nào có kỹ thuật này được. Nhưng mà, nếu nói khối đá lớn trong mật thất Cổ Cách là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu phục chế lại, thì, vật này cũng lớn quá, dựa vào sức một mình vị sứ giả kia làm sao mang tới tận châu Mỹ xa xôi được? Ngoài dùng kỹ thuật chiếu hình ra, còn có huyền cơ gì trong đó nữa đây?"

Vương Hựu nói: "Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh?"

Trác Mộc Cường Ba thốt lên: "Hả, cái gì? Đi! Đưa tôi đi xem tấm gương đồng ấy ngay."

Vương Hựu xua tay nói: "E rằng không được, tấm gương ấy không ở đây, mà ở trong tủ bảo hiểm của một ngân hàng ở tại Thâm Quyến, hay là anh cùng trở về Thâm Quyến với tôi đi."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đợi tôi, tôi sẽ lập tức làm thủ tục xuất viện."

"Lần này lại bị thương ở đâu thế? Có thể tiết lộ chút gì không?"

"Ngoài phố, đánh nhau với người ta. Còn anh? Đến Thượng Hải khám bệnh gì à?"

"Không, kiểm tra thân thể bình thường thôi, còn người tôi đây, kỳ thực xưa nay đều rất coi trong sức khỏe, cứ cách một thời gian lại đến bệnh viện này kiểm tra toàn thân, hồi trước Tổng công ty còn ở Thượng Hải đã làm cả thẻ khám sức khỏe ở bệnh viện này."

"Vừa nãy tôi thấy anh và tay bác sĩ kia đang nói chuyện gì đó."

"À, tay bác sĩ ấy, cảm giác hình như rất giống một người bạn đi phượt trước đây, nên nói mấy câu thế thôi."

Trác Mộc Cường Ba bảo Đường Mẫn lập tức đi làm thủ tục ra viện, còn mình thì ngầm liên lạc với giáo sư Phương Tân.

"Cái gì hả? Tấm gương? Phát hiện trong địa cung Maya à!"

"Vâng, tôi sẽ lập tức đi Thâm Quyến, xem rốt cuộc là chuyện gì. Hiện giờ, hình như anh ta vẫn cứ ngỡ là chúng ta đã biết chuyện, ngược lại còn hỏi tôi đó là thứ gì. Phải rồi, thầy giáo, có thể điểu tra thân thế tên Vương Hựu này được không, tôi muốn tìm hiểu về anh ta một chút."

"Bảo Mẫn Mẫn đợi một chút, tạm thời không nên làm thủ tục vội, để cô ấy ở lại đây đợi, một mình câu đi Thâm Quyến thôi, hiểu ý tôi không?"

Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh ngộ, gật đầu đồng ý, rồi lại nói với giáo sư Phương Tân về cảm giác như bị định thân trước lúc thấy Vương Hựu, cuối cùng, gã nói: "Giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn thấy sợ hãi rụng rời, cảm giác như thể tính mạng và linh hồn mình đều nằm trong tay người khác vậy."

Giáo sư Phương Tân nói: "Trước đây có cảm giác như vậy bao giờ chưa?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chưa từng, trước đây khi có cảm giác nguy hiểm, giống như có con cá chạch luồn lách trên xương sống, lần này cảm giác hoàn toàn khác, đáng sợ hơn nhiều."

Giáo sư Phương Tân liền nói: "Thân thể hoàn toàn không nhúc nhích được cơ à, không ngờ lại có cảm giác như thế. Vậy đi, tạm thời không nghĩ đến nó nữa, cậu phải tạm giữ tâm trạng thoải mái. Theo tôi, chắc là cậu cảm thấy áp lực đè nặng lên mình quá lớn, sức khỏe lại chưa hoàn toàn hồi phục nên mới có tình trạng ấy. Tuy tôi bảo cậu phải suy nghĩ nhiều, nhưng cũng không nên nghĩ ngợi nhiều quá, loạn quá, phải từng bước một và có tiết chế, để có cái nhìn toàn cục. Tạm thời gác chuyện này lại, cậu cứ coi như nó chưa từng xảy ra đi, còn gì nghi vấn, đợi khi nào cậu từ Thâm Quyến trở về chúng ta sẽ thảo luận."

Trong kho ngầm dưới lòng đất của một ngân hàng ở Thâm Quyến, tấm gương đồng cổ phác ấy xuất hiện trong tay Trác Mộc Cường Ba, gã chợt thấy dâng lên một cảm giác quen thuộc. Những đường nét này, những hoa văn nayg, tạo hình điêu khắc phía sau tấm gương đồng,tựa như người thân lâu ngày không gặp có cảm giác như máu chảy trong người, chỉ cần nhìn qua một lần cũng nhận ra được. Khi trong lòng dâng lên cảm giác này, Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy khó tin, lúc ở trong địa cung, gã hoàn toàn không để ý, hôm nay xem lại tỉ mỉ, không ngờ cảm giác đó lại xuất hiện. Nhất định là gã đã từng thấy ở đâu đó rồi, cũng hoa văn này, hình vẽ này, nhưng là đã thấy ở đâu chứ nhỉ? Lẽ nào trong mơ? Gã không để ý tới sự ngăn cản của Vương Hự, tháo găng tay ra, dùng đầu ngón tay trực tiếp cảm nhận đến mặt gương trơn như lụa, cảm giác quen thuộc đó lại càng mạnh mẽ bội phần. Đây là một tấm gương đồng hình tròn, mặt gương vẫn còn như mới, màu sác trắng thuần, tay cầm có chạm hình rồng, bên ngoài là khối vuông khắc hoa văn chìm, viền ngoài có đinh nhũ, bốn góc có bốn miếng lá thị vươn ra bọc lấy viền gương, chia làm bốn phần, mỗi phần là một con thú lành, trong đó có một con giống chim, còn lại đều không nhìn ra là giống thú gì, bên ngoài bốn con thú là một vòng hoa văn hình dây thừng, ngoài nữa lại có mười hai con thú vây quanh, cũng đều rất trừu tượng, khó có thể nhận ra, ở giữa viền thêm hoa văn hình bông sen, bên ngoài lại có một diềm hoa văn hình dây thừng nữa, còn phức tạp hơn cả bên trong, giữa biển lớn mênh mông cuộn sóng, tựa hồ như có vô số hình con thú đang ẩn hiện. Kế đó, viền bên ngoài lại là một vòng hoa văn hình dây thừng, rồi một vòng đầy những vạch và chấm nhìn như Hà Lạc đồ, tiếp đó lại viền thêm một vòng hoa văn dây thừng, càng ra phía ngoài hình khắc lại càng phức tạp. Cuối cùng, ở vòng ngoài cùng mặt phía sau tấm gương, là những ký hiệu khá giống với chữ Tạng, giờ cầm treo tay quan sát kỹ mới thấy không hoàn toàn giống cho lắm, sự khác biệt giữa những ký hiệu này và chữ Tạng cũng khá giống với sự khác biệt giữa chữ Tây Hạ và chữ Hán vậy, đều là chữ vuông, thiên bàng, bộ thủ(*) và kết cấu nét bút đều như nhau, nhưng ý nghĩa thì lại không ai hiểu được. Trác Mộc Cường Ba cũng hoàn toàn không hiểu được hàm nghĩa của những ký hiệu vòng ngoài cùng này. Nhưng, cả những ký hiệu đó, gã cũng cảm thấy hết sức quen thuộc, tựa như đã từng thấy ở đâu đó rồi, chỉ là, gã nghĩ vắt óc cũng không tài nào nhớ ra nổi.

Vương Hựu hỏi: "Thế nào? Giờ đã có thể nói với tôi tấm gương này có gì đặc biệt hay chưa vậy?"

Trác Mộc Cường Ba xoay chuyển, lật đi lật lại tấm gương. Gã đã xem kỹ đến không thể nào kỹ hơn được nữa rồi, nhưng muốn nói tấm gương này có điểm nào đặc biệt dị thường, thì gã cũng chẳng khác gì Vương Hựu, hoàn toàn không hề có bất cứ manh mối nào.

Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn ánh đèn u ám của kho ngầm dưới lòng đất, nói:: "Cầm ra chỗ có ánh sáng mặt trời xem sao."

Vương Hựu nói: "Anh bảo, nó sẽ phản xạ ra hình ảnh gì dưới ánh nắng ư? Không thể nào, tôi đã thử đi thử lại rất nhiều lần rồi."

Trước sự khăng khăng cương quyết của Trác Mộc Cường Ba, Vương Hựu cuối cùng cũng mang tấm gương ra khỏi kho ngầm.

-*-*-

(*) Đây là những thành phần ghép thành một chữ Hán.

Nhà Vương Hựu tương đối khá giả, một căn biệt thự nhỏ hai tầng có cả vườn, phía sau còn có một hồ bơi hai trăm mét vuông, trong ga ra xếp ba chiếc xe hơi hiệu khác nhau, đều là loại mã lực lớn, khí thải nhiều.

Trên sân thượng tầng hai, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu điều chỉnh tấm gương đồng, hứng ánh mặt trời. Tấm gương đồng hắt lên tường một đĩa ánh sáng bằng đúng kích thước của nó, nhìn hết sức rõ nét, đừng nói là có hình ảnh gì, mà ngay cả một chút quầng mờ mờ cũng không có. Trác Mộc Cường Ba cố định chiếc gương trên mặt bàn, bước tới sát chân tường, cẩn thận quan sát đĩa ánh sáng đó, nhưng đĩa ánh sáng thì vẫn là đĩa ánh sáng, lấp lóa chói mắt, ngoài ra không có gì cả. Vương Hựu cầm hai hộp Red Bull đặt lên bàn uống nước bằng thủy tinh, lại nói: "Không có tác dụng gì đâu, tôi bảo rồi mà, tôi đã nghiên cứu tấm gương này rất kỹ lưỡng, thậm chí còn làm cả quét hình 3D của những hình khắc phía sau nó nữa, nhưng vẫn chẳng phát hiện ra điểm gì đặc biệt cả. Tôi tưởng các vị ít nhiều cũng biết gì đó, thì ra là cũng không biết gì nốt."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi phải mang nó về các chuyên gia nghiên cứu."

"Không được." Vương Hựu đứng lên nói: "Tuy rằng các vị đã cứu tôi trong địa cung Maya, những tôi cũng phải mất rất nhiều công sức mới mang được món đồ này trở về Trung Quốc, tôi đã nộp đơn xin bảo vệ tài sản tổ tiên rồi. Hiện tại, về mặt pháp luật mà nói, nó thuộc về tổ tiên của tôi truyền lại, tôi không thể để người khác mang nó đi đâu được."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Điều kiện của anh là..."

Vương Hựu cười cười, dang rộng hai tay chỉ vào căn phòng khách rộng lớn: "Anh xem tôi đấy, chẳng thiếu gì cả nữa..." Nhìn ánh mắt của Trác Mộc Cường Ba, anh ta lại cười cười, nói tiếp: "Phải, tôi có một yêu cầu, chỉ có một thôi. Tôi muốn các vị dẫn tôi đi cùng."

"Anh nói cái gì!" Trác Mộc Cường Ba cả kinh, yêu cầu này nằm ngoài khả năng tưởng tượng của gã: "Không thể được!"

"Tại sao không thể được! Anh được, tôi lại không được sao?" Vương Hựu nói: "Sau khi về nước, tôi đã tìm kiếm thông tin về anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, không ngờ anh cũng là tổng giám đốc của một công ty lớn. Hà hà, anh có biết lúc đó tôi đã nghĩ như thế nào hay không? Một ông chủ có tài sản hơn trăm triệu như thế, lại bỏ cả cuộc sống an nhàn không chịu hưởng thụ, anh ta đến rừng rậm châu Mỹ làm gì chứ nhỉ? Rốt cuộc là anh ta đang tìm kiếm thứ gì? Sau khi biết được thân phận của anh, tôi liền hiểu ngay, chúng ta là cùng một loại người."

Vương Hựu nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, nói: "Chúng ta đều sở hữu tài sản mà những người khác mong cầu, cuộc sống vật chất đã được thỏa mãn đầy đủ, nhưng đó hoàn toàn không phải là những thứ chúng ta muốn, những nhu cầu tầng thấp đã được thỏa mãn, những thứ chúng ta cần là giá trị của chính con người mình. Khi thị trường nhà cao ốc bùng nổ, công ty bất động sản của tôi đã đưa tài sản cá nhân của tôi lần đầu tiên liệt vào hàng ngũ những người có trên một trăm triệu, lúc đó tôi không cảm thấy hưng phấn và kích động gì cho lắm. Đó cũng chính là lúc tôi biết được rằng, những thứ ấy không thể thỏa mãn được tôi nữa rồi. Khoái cảm khi con số ấy tăng lên, còn xa mới bì kịp sự thích thích mạnh mẽ khi tôi đặt chân lên đỉnh núi tuyết, dang rộng cánh tay mà thỏa sức hét hò. Điều quan trọng nhất của sinh mệnh không phải là chinh phục, mà là phấn đấu, cái người ta hưởng thụ trong đời không phải kết quả, mà là quá trình. Mười mấy năm nay, trước sau tôi đã leo lên đỉnh Kilimanjaro, đỉnh Phú Sĩ, núi tuyết Ha Ba, đỉnh Chomolungma, anh biết đấy, mục tiêu của người leo núi thường là ngọn sao cao hơn ngọn trước, không ngừng vượt qua những ngọn núi cáo hơn, hiểm yếu hơn. Vì vậy, khi thấy ảnh chân dung anh trên tạp chí, tôi lập tức cảm thấy thân thiết lạ thường, chúng ta đúng là cùng một loại người."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không, chúng ta không giống nhau."

Vương Hựu nói: "Có gì mà không giống nhau? Để tôi nghĩ xem nào, tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư, không ngại khó khăn vất vả, vượt ngàn dặm đường xa xôi đến rừng rậm nguyên sinh châu Mỹ, còn chui vào cả địa cung đầy cạm bẫy của người Máy. Ừm, theo tôi, thứ mà các vị đang tìm kiếm, chắc chắn là không hề đơn giản. Phải biết là, tòa địa cung Maya ấy là nơi hiểm yếu nhất mà tôi từng đặt chân đến đấy. Kể từ đó, tôi đã luôn để ý dõi theo anh, nhưng hành tung của anh luôn là một câu đố, có điều, như vậy lại càng khiến tôi thêm hứng thú. Về sau, tôi xem được trên mạng, các vị xuất hiện ở vùng Trát Đạt, Tây Tạng, tất cả đều bị thương cực nặng, các phóng viên vốn định phỏng vấn điều tra sâu hơn nữa, nhưng không hiểu sao lại đột nhiên ngừng lại. Tôi biết, các vị vẫn đang tìm kiếm thứ đó, nhưng đến giờ cũng chưa tìm thấy. Từ lúc đó, tôi đã chuẩn bị liên lạc với anh rồi, nhưng khi tôi đến bệnh viện Lhasa thì tất cả các vị đều đã biến mất một cách thần bí. Mỗi lần đi lướt qua nhau như thế, là mỗi lần tội lại giậm chân tiếc nuối đó. Lần này, nói gì thì tôi cũng kiên quyết đến cùng, nếu cho cho tôi đi cùng, vậy thì công tác nghiên cứu của các vị với tấm gương này cũng kết thúc ở đây được rồi."

SỰ KIÊN TRÌ CỦA VƯƠNG HỰU

Trác Mộc Cường Ba dở khóc dở cười, không biết tay Vương Hựu này thật chỉ muốn đi theo bọn gã thám hiểm hay là còn mục đích gì khác. Gã thử tìm cách dập đi ý nghĩ hoang đường của anh ta, nghiêm túc nói: "Anh có biết cúng tôi làm sao mới trở về được không?"

"Thập tử nhất sinh thôi mà." Vương Hựu lộ ra vẻ mặt như thể muốn nói, tôi sớm đã biết là anh sẽ nói vậy rồi, đoạn nói: "Những nơi tôi đã đi, cũng đều là những chỗ cực kỳ hiểm yếu, hơn nữa, tôi đã mấy lần tham gia đoàn phượt tự tổ chức rồi, trước khi xuất phát, việc đầu tiên chúng tôi làm chính là viết di chúc và tuyên bố miễn trách nhiệm, lần này cũng sẽ làm như vậy, nếu sau này tôi xảy ra chuyện gì bất trắc, tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng gì đến các vị. Tại sao lại nhìn tôi với ánh mắt ấy chứ? Lẽ nào anh nghĩ tôi còn điên hơn cả anh nữa hay sao? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Không phải anh đã tìm kiếm hơn hai năm nay rồi hay sao? Trong thời gian ấy, những lần trải qua khảo nghiệm sinh tử chỉ sợ không phải chỉ có một thôi, đúng không? Tại sao anh vẫn muốn tiếp tục tìm kiếm nữa chứ?

Nhìn bộ dạng á khẩu không biết nói gì của Trác Mộc Cường Ba, Vương Hựu lại cười cười tiếp tục hùng hồn diễn thuyết: "Không sai, ngoài kia có rất nhiều người không hiểu chúng ta, cho rằng chúng ta là những kẻ điên cuồng, có một đống tiền rồi không chịu sống xa hoa sung sướng, lại đi khắp nơi khiêu chiến cái gọi là cực hạn của sinh mệnh, lại còn có kẻ nói, chúng ta là bọn tiêu tiền để tìm cái chết. Kỳ thực, những người như thế không có cách nào cảm nhận được cuộc sống của chúng ta, hàng ngày, họ đã bận tối mắt tối mũi vì những nhu cầu thiết yếu cuộc sống, vì cái ăn cái mặt, lấy đâu ra thời gian mà suy nghĩ về ý nghĩa của đời người nữa chứ, còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã nhảy ra khỏi cái vòng luẩn quẩn chạy quanh vì thức ăn, vì quần áo đó rồi, chúng ta có rất nhiều tinh lực và thời gian, cũng có cả cơ sở vật chất tương đối để nghĩ về vấn đề của cuộc đời, rốt cuộc là trong đời này, chúng ta cần tìm kiếm điều gì chứ. Tôi đoán, thời gian nghĩ về vấn đề này của anh chắc còn nhiều hơn tôi nhiều, phải không? Nói thực lòng, thứ tôi theo đuổi không chỉ có cảm giác kích thích. Những gì trải qua trong vô số lần thám hiểm, đã gọi cho tôi những suy tư về cuộc sống, giúp tôi lĩnh ngộ được rất nhiều vấn đề thuộc phạm trù triết học nhân sinh. Khi trở về, tôi lại đem những gì mình lĩnh ngộ được vận dụng vào việc quản lý doanh nghiệp, bây giờ doanh nghiệp của tôi đang phát triển với tốc độ chưa từng có đây này. Anh thấy đấy, tôi đã nói rồi mà, chúng ta là cùng một loại người, anh có phương hướng tìm kiếm của anh, tôi cũng có mục đích của tôi, không phải chúng ta đang lãng phí sinh mệnh, mà chỉ là đang thực hiện điều mình muốn làm thôi. Tôi đã muốn làm, thì tôi sẽ làm bằng được, không cần biết hậu quả của thất bại như thế nào, cũng không tính toán được mất, chỉ cần tôi đã làm rồi, thì sẽ không hối hận nữa, đây chính là triết lý nhân sinh của tôi. Tôi nghĩ, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh chắc cũng như vậy, có phải không?

Trác Mộc Cường Ba không thể không thừa nhận, mình cũng có nhiều điểm giống những gì anh ta nói, thế nhưng, chuyện đi tìm Bạc Ba La thần miếu thì tay Vương Hựu này không khỏi có hơi quá cố chấp. Anh ta vốn chẳng biết chuyện gì, đã nhất định đòi tham gia vào một nhóm mạo hiểm, hoàn toàn coi mạo hiểm như một lạc thú của đời người, và hưởng thụ cả quá trình ấy, hành vi thuần túy vì mạo hiểm như thế, Trác Mộc Cường Ba tự nhận thấy mình vẫn chưa đạt được tới cảnh giới đó. Thế nhưng, những hành vi trước đây của gã, hình như cũng không gì khác với những điều Vương Hựu vừa nói, duy chỉ có một điểm khác, đó là không viết di chúc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Nếu tôi kiên quyết nói không thì sao?"

Vương Hựu chán nản nhìn tấm gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba: "Vậy thì tôi cũng kiên quyết nói không."

Trác Mộc Cường Ba giơ tấm gương lên ve vẩy: "Cái này?"

Vương Hựu nở một nụ cười nơi khoé miệng, đột nhiên xông tới, bàn tay nắm chặt lại như lưỡi dao, dừng lại trên cổ họng Trác Mộc Cường Ba, rồi rút về, chỉnh lại nếp áo: "Chớ nên coi thường, tôi từng học không thủ đạo rồi đấy."

Trác Mộc Cường Ba nhầm nhủ: "Chậm quá, nếu không phải tôi nhận ra bàn tay anh sẽ dừng lại, chỉ e thân thế anh đã bay ra ngoài xa mười mét rồi."

Câu trả lời của Trác Mộc Cường Ba dành cho Vương Hựu là, bàn tay gã chợt vươn ra, nhấc bổng cả người anh ta lên, Vương Hựu chỉ thấy trước mắt hoa lên, hai chân đã rời khỏi mặt đất. Trác Mộc Cường Ba lại đặt gã xuống, buông tay trái ra, nói: "Câu 'không' ấy của anh, xem ra không nặng cho lắm."

Vương Hựu sửa lại cổ áo, mỉm cười nói: "Tôi biết, thân thủ của các vị đều rất cao cường, từ lúc ở trong địa cung tôi đã biết rồi, nhưng điều đó chẳng nói lên gì cả. Nếu anh nghĩ có thể dùng vũ lực cướp nó đi, tôi sẽ lập tức báo cảnh sát, trừ phi anh giết tôi ngay tại đây." Dứt lời, an ta ngồi xuống sofa, thái độ như thể mặc tình Trác Mộc Cường Ba muốn làm gì thì làm, "Anh cứ suy nghĩ cho kỹ càng đi."

Trác Mộc Cường Ba không ngờ Vương Hựu sẽ uy hiếp mình theo cách ấy, nhất thời cũng thấy đau đầu. Gã nói: "Anh không hề biết chúng tôi đang làm gì đâu."

Câu trở lời của Vương Hựu càng khiến gã kinh ngạc hơn. "Tôi biết chứ." Anh ta nhấn giọng nói từng chữ một: "Mảnh tịnh thổ cuối cùng còn lại trên thế gian này, một nơi còn thuần khiết hơn cả vườn Địa đàng, còn cao quý hơn thế giới cực lạc ở Tây Thiên, một nơi mà vô số tín đồ dành cả đời mong mỏi tìm kiếm, Hương Ba La!"

Trác Mộc Cường Ba ngẩn đờ người ra. Vương Hựu làm sao mà biết được chuyện này? Gã vội hỏi: "Anh còn biết những gì nữa?"

Vương Hựu chỉ vào tấm gương đồng, nói: "Tôi đã bảo rồi mà, tôi đã nghiên cứu nó rất nhiều. Ngay từ đầu tôi đã biết, đây là vật của Tây Tạng, hoa văn và hình chạm trên đó đều có nét đặc sắc rất riêng của dân tộc Tạng. Còn anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ, anh cũng là người Tạng, tập đoàn nuôi luyện danh khuyển của anh cũng nhờ vào chó ngao Tây Tạng mà phất lên. Vì vậy, tôi đã điều tra nghiên cứu, biết rằng anh đã từng bảy lần một mình đi sâu vào những nơi hiểm yếu không có dấu chân người để tìm kiếm các giống cho nổi tiếng thế giới, ban đầu tôi cũng cho rằng, lần này anh cũng đang tìm một con chó cực phẩm mà thôi. Nhưng gần đây tôi mới biết, thì ra, các vị không chỉ đơn giản là đang tìm danh khuyển, thứ các vị tìm chính là Hương Ba La, thánh địa thần bí nhất, thiêng liêng nhất trong lịch sử Tây Tạng."

Trác Mộc Cường Ba cơ hồ như muốn nhấc Vương Hựu lên lần nữa, nhưng cuối cùng cũng tự kìm được chính mình không ra tay, chỉ bình tĩnh nói: "Từ đâu mà anh biết được chuyện này?"

Vương Hựu nửa cười nửa không nói: "Chuyện này ấy à, tôi tự có kênh thông tin của mình chứ. Tôi vẫn luôn băn khoăn, làm sao mà tấm gương đồng này lại từ Tây Tạng đến tận một nơi xa xôi hẻo lánh như Maya vậy? Nó có phải là một đầu mối quan trong trọng cuộc tìm kiếm của các vị hay không? Hôm nay, anh đã giải đáp vấn đề này cho tôi rồi." Nói tới đây, Vương Hựu không nhìn Trác Mộc Cường Ba nữa, mà lẩm bẩm như thể đang tự nói với mình: "Trong đời tôi đã đi qua rất nhiều nơi, leo núi tuyết, vượt thảo nguyên, nhưng thánh địa trong truyền thuyết rốt cuộc như thế nào thì tôi còn chưa được thấy. Tôi đã đến Bố Đạt La cung, cảm giác nơi đó mang đến cho tôi, gọi là chấn động, rung cảm gì cũng được. Về sau lại đền thành cổ Maya, tôi mới biết được đỉnh cao của kiến trúc nhân loại là gì, nhưng dựa vào hành vi của các vị mà suy đoán, tôi biết, những nơi đó so với Hương Ba La đều chẳng là gì cả. Hương Ba La là một nơi mà tôi không thể tưởng tượng được rằng có tồn tại trên đời. Nếu đã biết rằng có một nơi như thế tồn tại, thì tôi nhất định phải tới đó thưởng ngoạn, không để cuộc đời mình có bất kỳ cảm giác tiếc nuối gì. Đây cũng là tín điều làm người của tôi."

Trác Mộc Cường Ba không ngờ rằng Vương Hựu cũng có thể thông qua các kênh khác mà biết được nơi bọn gã muốn đi rất có thể là Hương Ba La trong truyền thuyết, nhưng gã vẫn kiên trì thuyết phục: "Lẽ nào anh đã quên cảnh ngộ trong địa cung Maya rồi? Sau bận đó, anh không rút ra được bài học gì hay sao? Với điều kiện sức khỏe như anh, sao có..."

"Xin chớ có quên, lúc đó tôi đã ở một mình trong không gian tối đen như mực hơn bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Bất cứ người nào gặp phải tình cảnh đó, cũng đều ngấp nghé bên bờ vực sụp đổ cả về tinh thần lẫn thể lực thôi."

"Không thể được, tuyệt đối không thể được, đây là tôi nghĩ cho bản thân anh thôi..."

"Đừng nói chắc thế, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ. Tôi không cần gì hết, chỉ muốn xem xem thế nào thôi. Hơn nữa tôi biết, công ty của anh đã phá sản, nếu anh muốn tiếp tục tìm kiếm nơi ấy, ắt cần phải có hỗ trợ về mặt kinh phí, tôi có thể cung cấp..."

Trác Mộc Cường Ba cương quyết cự tuyệt: "Không... anh vẫn không hiểu, anh hoàn toàn không hiểu chúng tôi sắp phải đối mặt với điều gì đâu. Anh tưởng chỉ đi du lịch, đi thám hiểm một chuyến, đơn giản vậy thôi sao? Tôi chỉ có thể nói với anh thế này, hành trình của chúng tôi không giống với bất cứ đoàn phượt nào mà an từng tham gia. Bất kể ra sao, tôi cũng không chấp nhận đề nghị của anh." Trác Mộc Cường Ba tiến sát lại gần Vương Hựu, mặt đối mặt với anh ta, gằn giọng nói: "Muốn chết, thì đi tìm tòa nhà sáu mươi tầng mà nhảy xuống, như vậy còn dứt khoát nhanh gọn hơn!"

Vương Hựu vẫn chỉ cười cười như không, đang chuẩn bị nói tiếp, thì điện thoại di động của Trác Mộc Cường Ba đổ chuông. Gã vừa bắt máy, liền nghe Đường Mẫn nói: "Bọn Nhạc Dương ở Nga về rồi, tình hình không được tốt lắm, bao giờ anh trở lại đây thế?"

Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn Vương Hựu một cái, đoạn nói: "Chỗ anh cũng vậy, anh về luôn đây, chắc là vẫn còn chuyến bay, đợi về rồi nói chuyện sau."

Đường Mẫn nói: "Chú ý an toàn, anh phải bay chuyến đêm đấy."

Trác Mộc Cường Ba gác máy, lại đưa mắt nhìn Vương Hựu, cặp mắt của tay thương nhân tinh ranh này vẫn mở trừng trừng không chớp nhìn vào tấm gương đồng trên tay gã. Ánh mắt ấy tựa như đang nói: "Muốn mang nó đi hả, vậy thì, mang theo cả tôi nữa."

Trác Mộc Cường Ba biết, có nói nữa cũng chẳng có kết quả gì, không hiểu Vương Hựu biết được tin tức ở đâu, giờ đã dồn ép gã không còn nước nào nữa, đành phải về thương lượng nghĩ cách với mọi người trước vậy. Gã giơ tấm gương lên chụp lại toàn bộ vào điện thoại, Vương Hựu cũng không ngăn cản, chỉ không để gã mang nó đi mà thôi. Lúc chia tay, Trác Mộc Cường Ba ném lại một câu quen dùng trong giới thương nghiệp: "Cho tôi thời gian ba ngày, tôi phải thương lượng với những người khác đã." Ra tới cửa, gã lại nói: "Anh đang đùa với lửa đó!"

Vương Hựu cười cười: "Từ thủa nhỏ tôi đã thích nghịch lửa rồi." Anh ta biết, trong cuộc đàm phán này, mình đã giành được ưu thế tuyết đối.

Trong bệnh viện, Nhạc Dương bừng bừng phẫn nộ nói: "Thằng cha ấy thật đúng là, rõ ràng đã nói trước rồi, đột nhiên lại tăng giá, lại còn tăng lên tới những 30%, thế chẳng phải là muốn chơi chúng ta còn gì? Cũng may là chúng ta còn chưa giao tiền cọc cho hắn đấy."

Tình hình liên quan đến tấm bản đồ, Trác Mộc Cường Ba đã biết được chút ít từ chỗ giáo sư Phương Tân. Sau khi giải được mật mã văn tự trên bao thuốc lá, giáo sư Phương Tân và mấy người đã thông qua nhiều kênh khác nhau, thăm dò tìm kiếm thông tin về một loạt kế hoạch của Đức Quốc xã tiến hành ở Tây Tạng trong thời gian đó. Trước mắt, các tài liệu văn thư chính thức đã được giải mật, thể hiện rõ rằng, năm 1937, có một đội đặc công Nazi được Hitler và trợ lý hàng đầu của ông ta là Himmler đặc phái, bí mật xâm nhập Tây Tạng. Bọn họ ở Tây Tạng suốt một năm, vẽ được rất nhiều bản đồ, còn quay phim chụp ảnh nữa. Kế hoạch đó được gọi à Cực Bắc. Hitler tin rằng tổ tiên của người Aryan bắt nguồn từ đó, nền văn mình Atlantis đã biến mất cũng ở đó, chỗ ấy là trục trung tâm của địa cầu, thay đổi trục trung tâm này, ắt sẽ có thể thay đổi chiều quay trái đất, cũng như vận mệnh của tất cả các quốc gia trên hành tinh này. Nghe nói, đảng Quốc xã vẫn không ngừng tìm kiếm lối vào một nơi nữa được gọi là Shambhala, đồng thời còn dựa vào các tư liệu vẽ được năm 1938, tiếp tục tiến vào Tây Tạng lần nữa trong năm 1943, nhưng về số lượng người, địa điểm của cả hai cuộc hành trình này họ đều không thể tìm được thông tin gì cụ thể. Theo các tư liệu chính thức, khi nước Đức chiến bại năm 1945, tất cả các tư liệu liên quan tới lối vào Shambhala đều đã bị tiêu hủy.

Bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm hiểu, cái gọi là Hương Ba La, Shambhala, chẳng qua chỉ là do phát âm khác nhau khi dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức, còn địa điểm mà các tư liệu này chỉ đến, chắc chắn là cùng một nơi. Đó rốt cuộc là một nơi như thế nào, mà khiến vô số người trở nên điền cuồng như thế?

Các tư liệu mà giáo sư Phương Tân đã tìm kiếm và thu thập khắp nơi cho thấy rằng, sau chiến tranh, số tài liệu về hành động của Đức Quốc xã ở Tây Tạng đã bị Liên Xô và Mỹ chia làm hai, nghe nói, đến năm 2045 mới tới hạn giải mật. Giáo sư Phương Tân vốn đã nhờ các mối quan hệ của mình, xem có thể liên lạc với người làm trong kho hồ sơ, nhờ giúp kiểm tra xem các tư liệu liên quan tới ba khu căn cứ đó xem sao, không ngờ, sau mấy ngày liên lạc với tay một quản lý người Nga, bên kia phúc đáp nói rằng, một phần trong đó đã được giải mật, trước mắt các chuyên gia trong nước đã nghiên cứu, nếu giá cả hợp lý, anh ta có thể sao chụp mang ra. Mấy người giáo sư Phương Tân tất nhiên là mừng rỡ vô cùng. Ban đầu, giá cả đã thương lượng ổn thỏa, nhưng khi bọn Nhạc Dương sang Nga, tay quản lý đó lại đột nhiên giở quẻ, nâng giá lên tới mức bọn họ không thể chấp nhận, rồi visa du lịch của Nhạc Dương, Ba Tang hết hạn, đành phải trở về công cốc.

Nghe Nhạc Dương kể xong, Trác Mộc Cường Ba nói: "Giáo sư Phương Tân biết chưa?"

Nhạc Dương đáp: "Biết rồi, nhưng ông ấy bảo chúng tôi nghe ý kiến anh."

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Ý kiến của tôi là... mặc xác hắn, nếu hắn gọi điện tới nữa, thì ngấm ngầm tỏ ra rằng chúng ta không cần tấm bản đồ đó nữa, cảm ơn ý tốt, nếu hắn không chấp nhận, thì giảm giá xuống còn một nửa, nếu hắn vẫn không thỏa mãn, lại tiếp tục hạ giá, khi nào hắn đồng ý thì thôi."

Nhạc Dương ngạc nhiên hỏi: "Ủa, không phải vậy chứ, giảm giá xuống còn một nửa, như vậy hắn ta chịu được sao?"

Trác Mộc Cường Ba tự tin vỗ vỗ vai Nhạc Dương nói: "Cứ làm như tôi nói là được. Nghỉ ngơi đi đã, trời sắp sáng rồi."

Cả bọn nghỉ ngơi đến trưa mới liên lạc với giáo sư Phương Tân, thuật lại một lượt về tình hình chiếc gương đồng. Giáo sư xem qua hình ảnh chụp từ máy di động của Trác Mộc Cường Ba, rồi chau mày nói: "Tuy chưa dám khẳng định có phải là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay không, nhưng nhất định có mối liên hệ rất lớn, thân phận Tây Tạng của nó đã được chứng minh rồi. Chỉ có điều những ký hiệu ở mặt sau tấm gương ấy, ừm, giống như một dạng văn tự lai tạp giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại, nhưng mà, đúng là chúng ta chưa từng thấy bao giờ, có lẽ phải nhờ đến các chuyên gia mất. Ừm, anh ta nhất quyết không chịu nhả ra à?"

Trác Mộc Cường Ba gật đầu đáp: "Đúng vậy, anh ta nằng nặc đòi chúng ta dẫn theo, thì mới chịu giao tấm gương đồng ấy ra."

Giáo sư Phương Tân nói: "Bây giờ tôi sẽ gửi cho mọi người tài liệu về tên Vương Hựu ấy... Vương Hựu, sinh năm 1962, người Mai Châu, Quảng Đông, tốt nghiệp chuyên ngành Kinh tế Xã hội học Đại học Phúc Đán, trước năm 25 tuổi đã làm nhiều ngành nghề khác nhau, chủ yếu là cán bộ cấp trung của các công ty lớn, năm 87, hùn vốn với người khác lập ra công ty Xây dựng Nhà Đất Kiến Hưng, giữ chức tổng giám đốc điều hành kiêm chủ tịch hội đồng quản trị, năm 89 đổi tên thành công ty Cổ phần Trách nhiệm Hữu hạn Khai thác và Phát triển Nhà Vạn Hưng Thâm Quyến, sang năm tiếp theo thì cổ phiếu lên sàn, năm 97 đã thu mua các công ty nhà đất như Đông Quân, Thành Hưng, Xương Long, trở thành thủ lĩnh trong bất động sản Thâm Quyến. Năm 98, anh ta trở thành lãnh đạo doanh nghiệp đầu tiên chính phục đỉnh Chomolungma, từ đó trở đi luôn được người ta để ý. Nhưng trước đó, anh ta đã từng lên đỉnh mấy ngọn núi nổi tiếng ở nước ngoài, trong giới leo núi cũng có chút danh tiếng nho nhỏ. Dựa vào hồ sơ này có thể thấy, tinh lực của anh ta chủ yếu đều tập trung vào việc quản lý công ty và leo núi, chắc là không có ham muốn hay mưu đồ gì với Bạc Ba La thần miếu. Vương Hựu này chỉ là một doanh nhân và người yêu thích mạo hiểm bình thường mà thôi. Giờ cậu có dự định gì không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Cũng khá hóc búa, sau khi mang tấm gương đồng đó trở về Trung Quốc, anh ta đã nộp đơn xin bảo hộ tài sản tổ tiên, hiện giờ pháp luật quy định việc bảo về tài sản của công dân rất tỉ mỉ nghiêm ngặt, vì vậy xét về khía cạnh pháp luật, tấm gương đó là của anh ta, dù nhà nước muốn trưng dụng thì cũng phải được anh ta đồng ý trước đã. Hơn nữa, từ cách nói năng của tay Vương Hựu đó, không khó nhận ra, anh ta đã quyết tâm muốn đi theo chúng ta cho bằng được rồi."

Đường Mẫn nói: "Tại sao không thể cho anh ta cùng đi chứ?"

Cặp mắt Nhạc Dương sáng bừng lên, gật đầu khen phải: "Đúng đấy, anh ta còn hứa sẽ giúp chúng ta về mặt tài chính nữa mà."

Trác Mộc Cường Ba nhíu mày nhìn hai người một cái, lắc đầu nói: "Không được, anh ta chưa được huấn luyện chính quy, cho đi theo chúng ta chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết, sao có thể làm vậy được chứ?"

Nhạc Dương lập tức nghĩ đi xa hơn: "Thì có thể huấn luyện cho anh ta là được mà! Dù sao thì chúng ta cũng không phải..."

"Hừm!" giáo sư Phương Tân trong máy tính khẽ đằng hắng một tiếng, Nhạc Dương mới ngậm miệng lại. Chỉ nghe giáo sư nói: "Như vậy đi, chuyện này để chúng tôi xử lý, tạm thời cậu không cần phải lo lắng nữa."

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nhìn những người đứng cạnh mình. Từ những hành vi khác thường của Đường Mẫn và Nhạc Dương, gã nhận ra hình như họ còn điều gì đó đang giấu mình.

Lúc này, Ba Tang chợt lạnh lùng lên tiếng: "Nếu không được, thì trực tiếp làm thịt hắn ta là xong."

"Không được!" Trác Mộc Cường Ba vội chặn đứng suy nghĩ nguy hiểm ấy của Ba Tang lại: "Tuy ở trong rừng nhiệt đới châu Mỹ và Đảo Huyền Không tự, chúng ta đã sử dụng vũ khí cũng như giao chiến với kẻ địch, nhưng đó là hành vi tự vệ trong lúc bất đắc dĩ mà thôi, chúng ta đâu phải phần tử khủng bố, sao có thể làm những chuyện phạm pháp được. Có phải đang đánh trận đâu, Ba Tang, anh không được lúc nào cũng có suy nghĩ là đang chiến tranh như thế."

Ba Tang xòe hai tay ra, ý muốn nói, không được thì thôi.

Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Giờ việc làm tôi lo lắng nhất không phải tấm gương đồng, mà là tin tức rốt cuộc rò rỉ ra từ đâu? Cả người như Vương Hựu mà cũng biết được chúng ta đang tìm Bạc Ba La thần miếu, cứ tiếp tục thế này, phiền phức của chúng ta sẽ mỗi lúc một nhiều thêm đấy."

Nhạc Dương chợt nói: "Cường Ba thiếu gia, anh nói xem người ở Nga kia có khi nào cũng biết chúng ta đang lần theo manh mối đi tìm Bạc Ba La thần miếu, nên mới nâng giá lên cao thế không?"

Đường Mẫn thốt lên: "Không đến nỗi lan truyền đi xa thế chứ."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: "Có phải đã biết gì hay không, đợi điện thoại của hắn ta là biết."

Ngày hôm sau, phía Nga đã bắn tin sang, dò hỏi bọn họ dự tính thế nào. Nhạc Dương theo lời Trác Mộc Cường Ba dặn dò, khéo léo từ chối đối phương. Ba Tang làm phiên dịch, còn ngấm ngầm ám thị rằng họ không cần đến tấm bản đồ ấy nữa, kết quả là bên kia vừa nghe như vậy đã cuống lên, chất vấn bọn Nhạc Dương sao lại lật lọng. Nhạc Dương bèn lịch sự đáp lời, ấy là do ông lật lọng trước, mọi người chẳng qua chỉ là bánh ít đi thì bánh quy lại thôi. Bên kia vẫn không can tâm, lại tiếp tục hỏi bọn họ có thể ra giá mua phần tài liệu ấy hay không. Nhạc Dương liền thừa cơ ép giá, trải qua một hồi thương lượng co kéo, cuối cùng cũng quyết định được, lần này giá chỉ còn 60% giá ban đầu tay kia đã từng thương lượng với giáo sư Phương Tân.

Ba Tang vừa gác điện thoại, Nhạc Dương đã không nén nổi mừng rỡ hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Cường Ba thiếu gia, anh đúng là liệu sự như thần, làm sao anh biết được hắn sẽ bán hạ giá thế?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Động não một chút xem, anh lính trinh sát. Còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không. Lần đó, trên xe lửa cậu đã vận dung tư tuy tinh tế và khả năng quan sát hơn người để bắt được tên trộm ấy như thế nào nhỉ? Kỳ thực chuyện này nói trắng ra thì rất đơn giản, khi sang Nga lần đầu tiên, các cậu tương đối gấp gáp, còn tay quản lí hồ sơ kia thì vẫn nghi ngờ mức độ thành tín của các cậu, hắn ta còn chưa có bản sao hồ sơ đó trong tay nữa. Tới lúc gặp mặt các cậu, và nhìn thấy tiền, hắn mới khẳng định được rằng các cậu thực sự cần những tài liệu đó. Sau lần gặp mặt đó, hắn mới chính thức bắt đầu nghĩ cách lấy được bản sao các tài liệu ấy, thế nhưng, tuy nói rằng số tài liệu đó đã được giải mật một phần, nhưng muốn có bản sao và được mang ra ngoài lại cũng không phải chuyện dễ dàng chút nào. Vậy là, hắn liền nâng giá lên với các cậu, làm như vậy là có hai mục đích; thứ nhất, là để kéo dài thời gian giao hàng, trong khi các cậu suy nghĩ về giá cả, hắn mới có đủ thời gian để đi sao chép tài liệu; thứ hai, thử thăm dò tầm quan trọng của số tài liệu ấy với các cậu, nếu các cậu rất cần đến chúng, hắn sẽ còn điều chỉnh giá cả một cách thích hợp. Hôm nay nay đã gọi điện sang đây, chứng tỏ rằng hắn đã có được số tài liệu ấy rồi, nhưng các cậu lại tỏ ra không quan tâm lắm, khiến hắn vô cùng bối rối. Nếu các cậu không cần nữa, thì số tài liệu đó nói trắng ra chỉ là một đống giấy vụn, chẳng đáng một xu. Vì vậy, dù là các cậu ra giá thế nào, chỉ cần cao hơn giá bán giấy phế loại là hắn đã thỏa mãn lắm rồi."

Nhạc Dương bừng tỉnh ngộ nói: "Thì ra là thế, tôi không nghĩ được sâu xa đến thế."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhìn việc gì cũng không thể nhìn bề mặt, phải nhìn thấy thứ đằng sau bề mặt đó mới được, đã biết chưa?" Trước ánh mắt sùng bái ngất ngây của Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt liếc nhìn chiếc máy tính xách tay vẫn đang mở đó, thổ lộ ra chân tướng: "Thầy giáo nói đấy."

Nhạc Dương gãi gãi đầu: "Xem ra, chúng tôi lại phải đi một chuyến nữa rồi..."

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không, lần này cậu không cần đi, tôi sẽ đi với Ba Tang." Gã vung tay vung chân cho giãn gân giãn cốt, cảm giác sức khỏe của mình tốt hơn bao giờ hết, "Vết thương của tôi đã khỏi hẳn rồi, tôi muốn đích thân đi lấy tấm bản đồ và những tài liệu khác về đây."

Nhạc Dương thắc mắc: "Vậy tôi làm gì?"

Trác Mộc Cường Ba quay người đi nói: "Tôi đi làm thủ tục xuất cảnh, còn cậu nghĩ cách xử lý tay Vương Hựu đó đi!"

Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: "Cái gì mà xử lý chứ? Hắn ta là đàn ông mà! Cường Ba thiếu gia, tôi không xử lý được đâu! Đợi chút nào..."

Đường Mẫn thấy Trác Mộc Cường Ba rất quyết tâm, biết không thể ngăn gã lại được, đành thấp giọng nói: "Vậy em và Nhạc Dương quay lại Lhasa trước đợi mọi người, anh phải cẩn thận, chú ý an toàn đấy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ừm, anh đi mấy ngày rồi về, nhớ tự chăm sóc cho mình, ở nhà phải ngoan ngoãn không được chạy lung tung, biết chưa hả?"

ĐÊM MOSCOW

Mùa đông Moscow rất lạnh, những hàng bạch dương thẳng đều tăm tắp bên ngoài sân bay quốc tế Sheremetyevo mang lại cho Trác Mộc Cường Ba cảm giác bất khuất quật cường. Thả bộ bước đi trên phố Baumanskaya, gã có cảm giác như lại trở về núi tuyết. Tuy gã đã không còn ho nữa, nhưng mỗi lần hít thở thứ không khí lạnh như băng này, cứ cảm giác như trong phổi có gì đó là lạ, kiểu như thiếu thứ gì đó, nhưng hô hấp vẫn hết sức bình thường. Trác Mộc Cường Ba bất giác thầm nhủ: "Lẽ nào cổ độc đang phát tác theo một phương thức mà chúng ta không biết đến?" Tính thời gian ra thì mạng gã chỉ còn lại khoảng chưa đầy mười tháng nữa thôi.

Gã và Ba Tang ở một khách sạn nhỏ, hẹn tay kia gặp mặt vào trưa ngày hôm sau. Vì cả hai đều không thông thuộc Moscow nên địa điểm gặp mặt do phía bên kia quy định. Trước yêu cầu của tay kia, họ phải tìm một cái sân thượng nhà cao tầng làm địa điểm giao dịch, nghe nói như vậy mới khó bị người ta theo dỗi, cũng ít có khả năng bị mai phục. Tuy Trác Mộc Cường Ba thầm giễu cợt đối phương quá mẫn cảm, nhưng cũng vẫn chấp nhận theo yêu cầu ấy. Theo như Ba Tang giới thiệu, người này tên là Aleksandrovich, nhân viên quản lý hồ sơ lịch sử quân sự quốc gia của nước Nga, rất thích chơi cá ngựa, trước đây từng bị người khác tổ cáo đã bán văn kiện cơ mật của nhà nước để trả tiền thua cá ngựa, nhưng vì các cơ quản hữu quan của Nga không tìm được bằng chứng gì, nên chỉ coi như có người cố ý vu khống hãm hại, nên y vẫn tiếp tục làm công việc quản lý hồ sơ lịch sử quân sự ấy.

Dọc đường, không hiểu sao Trác Mộc Cường Ba lại nhớ đến lời cảnh cáo của Lữ Cánh Nam, nên tương đối lưu ý đến cử chỉ của Ba Tang, nhưng tất cả đều không có gì khác thường, gã hoàn toàn không nhận ra bất cứ điều gì bấn ổn. Đồng thời, trong tâm trí Trác Mộc Cường Ba cũng có một âm thanh không ngừng nhắc nhở rằng, Ba Tang chẳng qua chỉ không thích nói chuyện mà thôi, không nên vô duyên vô cớ đi nghi ngờ người ta như thế.

Sau một phen tìm kiếm, bọn họ chọn được một tòa nhà hai mươi tầng nằm trên con phố buôn bán đông đúc gần Quảng trường Đỏ, xây dựng theo kiểu kiến trúc dạng trang sách truyền thống. Sở dĩ chọn nơi đây, vì nó thuộc khu buôn bán, các tầng và thang máy đều có người qua lại, lên nóc nhà cũng không bị ai để ý. Mấy tầng dưới là cửa hàng, từ tầng năm trở lên là văn phòng, ngoài cửa sổ gắn từng dãy điều hòa san sát, nhìn từ dưới lên, phần chính giữa trang sách là một cầu thang sắt màu xanh dùng làm lối thoát khẩn cấp.

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang dễ dàng lên đến sân thượng. Bốn góc sân thượng có buộc bốn quả khí cầu rất lớn, bên trên tấm băng rôn quảng cáo. Hai người đi quanh sân một lượt, chỉ thấy các công trình xung quanh đa phần đều cao ngang bằng hoặc thấp hơn một chút, không có chỗ nào cao hơn để có thể nhìn trộm xuống. Sân thượng này hình chữ nhật, chạy theo hướng từ Đông sang Tây, mặt phía Đông hướng về phía con phố lớn tấp nập, mặt phía Tây dựa lưng vào khu dân cư, còn hai mặt Nam Bắc là hai tòa nhà cao tầng cùng loại, cách nhau chừng hai chục mét, ở giữa toàn là các ki ốt một tầng để buôn bán, thang cấp cứu khi có hỏa hoạn đều ở giữa hai mặt Nam Bắc này. Trác Mộc Cường Ba đứng bên mặt phía Nam, quan sát tòa nhà cao tầng đằng xa, lấy làm hài lòng với địa điểm giao dịch này, tầm nhìn rộng, không khí trong lành. Gã cúi người, nhìn thấy bên ngoài các cửa sổ gắn đầy những cục điều hòa, bỗng chợt dâng lên cảm giác xung động dữ dội, chỉ muốn nhảy xuống dưới. Gã biết, ít nhất cũng có năm cách không cần dùng cầu thang mà có thể nhanh chóng xuống dưới tầng trệt, nhưng tại sao lại có cảm giác xung đột ấy thì Trác Mộc Cường Ba không sao hiểu nổi. Đúng lúc đó, gã chợt cảm thấy hình như mình bị người khác nhìn trộm, nhưng trên sân thượng này, ngoài gã và Ba Tang ra, đâu có người thứ ba nào nữa? Trác Mộc Cường Ba lấy lại bình tĩnh, liếc khoé mắt nhìn sang phía Ba Tang, chỉ thấy anh ta cũng đang ở bên mặt phía Đông cúi người quan sát, không hề có cử động gì lại thường. Cảm giác bị nhìn trộm của gã lúc này cũng đã tan biến, đành thầm nhủ: "Lẽ nào là ảo giác?"

Hai người quan sát hoàn cảnh xung quanh xong xuôi, bèn quyết định chọn nơi này làm địa điểm giao dịch, rồi hẹn với Aleksandrovich, sau đó lại ra phố Kalinin chọn mua vài đồ dùng cần thiết. Ba Tang mua cho mình và Trác Mộc Cường Ba mỗi người một con dao găm mô phỏng theo dao của quân đội Nga, nói là để đề phòng bất trắc. Trác Mộc Cường Ba vốn định nhắc nhở Ba Tang, họ không thể mang những thứ này về nước được, mua cũng vô dụng thôi, nhưng nhìn nét mặt của anh ta, gã đành nhận lấy cất đi. Gã có cảm giác, trong tâm trí người đàn ông này, đâu đâu cũng là chiến trường, bất cứ lúc nào cũng là thời chiến cả.

Lúc ra khỏi phố Kalinin, cả hai đã khoác lên mình một chiếc măng tô da màu đen, có thắt lưng, may phỏng theo kiểu áo quân dụng, đường nét lạnh lùng cũng như ánh mắt coi khinh tử thần trên gương mặt họ khiến người đi đường đều không khỏi liếc mắt nhìn trộm. Trên đường về khách sạn, họ trông thây một đám thanh niên đang đứng vây quanh một cây cột đèn. Một người đang dùng cả hai tay ôm chặt cột đèn, thân thể song song với mặt đất, phất phow trong không trung như lá cờ, đám còn lại đều đứng vây xung quanh quan sát. Người đi đường ai nấy đều mặc áo quần dày sụ, nhưng đám thanh niên ấy lại chỉ mặc mỗi bộ đồ thể thao mỏng manh, đứa nào đứa nấy đều chỉ tầm mười bảy mười tám tuổi, xỏ lỗ tai lỗ mũi, đầu tóc nhuộm năm sáu màu sặc sỡ. "Đang làm cái gì vậy? Biểu diễn đường phố à?" Ba Tang không cầm được buột miệng hỏi.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: "Không, có lẽ là một trào lưu thể thao mới gì đó, nghe nói bây giờ trong đám thanh niên đang thịnh nhất là môn chạy Parkour(*) của Pháp. Đây có lẽ là một kiểu huấn luyện sức lực và khả năng thăng bằng cơ thể thôi, khá giống một số hạng mục huấn luyện cơ sở của chúng ta vậy, không phải sao?" Trác Mộc Cường Ba vô ý liếc nhìn gã thanh niên đang treo ngang người lơ lửng trên không trung, chợt phát hiện ra đối phương cũng đang nhìn mình chằm chằm, thấy gã nhìn qua, ánh mắt sáng lấp lóa đó liền nhìn ngay sang chỗ khác.

Lại thấy một thanh niên khác đạp vào chiếc cửa sắt cuốn đã đóng chặt bên đường, chạy trên đó hai bước dài, kế đó lộn nhào một vòng, nhẹ nhàng hạ xuống đất. Mấy gã trẻ tuổi khác đứng cạnh cười vang cổ vũ. "Đúng là giống thật." Ba Tang nói, ngoảnh đầu nhìn cánh cửa đó một cái, thầm đoán chắc mình có thể liên tiếp đạp năm bước vượt qua tầng hai, thẳng lên đến tầng thứ ba.

Trở về khách sạn, hai người bàn bạc, quyết định đề phòng có biến, sau khi lấy được tài liệu sẽ quét luôn vào máy tính, rồi gửi thư điện tử về cho giáo sư Phương Tân, còn bản sao giấy thì sẽ hủy luôn tại chỗ. Sau đó, Trác Mộc Cường Ba gọi điện cho giáo sư Phương Tân, biết được Đường Mẫn và Nhạc Dương đã về đến Lhasa, pháp sư Á La biết chuyện tấm gương đồng cũng đang trên đường tới Lhasa, nhưng vì chỗ của bọn họ k tiện tàu xe, nên sợ rằng sẽ tới chậm một chút. Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân nói chuyện về sự thay đổi của nước Nga, rồi báo tin bình an, bày tỏ nỗi nhớ với Mẫn Mẫn một hồi, cuối cùng mới đi ngủ. Đến nửa đêm, gã vẫn trằn trọc, mơ thấy Ba Tang cầm một thanh đao, mặt mũi hung tợn chém thẳng về mình. Trác Mộc Cường Ba giật bắn người sực tỉnh, ngồi bật dậy, liếc sang giường kia thì không thấy bóng Ba Tang đâu, lại thêm một phen kinh hãi nữa!

Trác Mộc Cường Ba tung mình xuống giường, chỉ thấy quần áo Ba Tang cũng đã biến đâu mất, đang đoán già đoán non thì chợt thấy ngoài sân có một cái bóng đang đứng, không phải Ba Tang thì còn ai vào đây nữa. Trác Mộc Cường Ba mặc quần áo vào, cũng bước ra ngoài. Chỉ thấy Ba Tang đang ngẩng đầu ngắm trăng, cái bóng lẻ loi như bị ánh trăng tạc thành một pho tượng, ánh mắt cao ngạo lạnh lùng toát lên một vẻ quen thuộc lạ thường. Khoảnh khắc ấy, tựa như cái bóng của Lang vương năm xưa bỗng hiển hiện trước mắt, ký ức của Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa bị đánh thức.

Cũng buồn bã thê lương như thế, nó cứ ngoảnh lại nhìn đàn sói mình đã từng thống lĩnh, cô độc bước đi, cái bóng loạng choạng lê bước trên con đường núi gập ghềnh khúc khuỷnh, sườn núi dốc cao ngất, bốn chân lão Lang vương hơi run rẩy, nhưng vẫn dựa vào nghị lực tuyệt đối của mình, bước một bước lại trượt một bước, rồi lại thêm một bước, khó nhọc lên đỉnh núi, bởi vì... nơi đó là nơi nó thuộc về, mỗi đời sói đầu đàn, đều cao ngạo chọn đỉnh núi ấy, đỉnh núi cao nhất, hiểm yếu nhất, gần với mặt trắng nhất ấy.

Cuối cùng, nó cũng lên được đỉnh núi cao ngất, đúng lúc trăng trọn vành vạnh. Nhìn vầng nguyệt giữa bầu không gian tối tăm, Lang vương hú lên một tràng dài "hú hú hú..." Âm thanh lập tức vọng khắp cả núi non trùng điệp, càng trở nên thê lương bi thống vạn phần. Lão Lang vương dùng hết sức lực cuối cùng, bốn chân bám chặt vào vách đá cứng như sắp thép, thân hình sừng sững như một pho tượng, cả cái bóng oai hùng của con sói già đã được bao bọc trọn vẹn trong ánh trăng vặc. Ngẩng đầu tru trăng, than khóc lúc lâm chung, đây chính là tập tục đã truyền thừa ngàn vạn năm nay của họ nhà sói, mỗi con sói đều chọn phương thức cao ngạo, cô độc này để ra đi, đứng ở nơi mình đã hoành hành khắp chốn núi rừng, đứng ở nơi mình đã từng thống lĩnh bầy đàn chiến đấu, khi vầng trăng kia lặn xuống, chúng sẽ chầm chậm nằm rạp xuống đất, nghếch đầu về hướng của của bầy đàn, chầm chậm nhắm nghiền đôi mắt lại.

(*) Đôi khi viết tắt là PK, hoặc l'art du déplacement (nghệ thuật di chuyển), môn thể thao vận động với mục đích chỉ dùng sức người, di chuyển từ nơi này sang nơi khác một cách hiệu quả và nhanh nhất. Điều này có nghĩa là, vận động viên có thể lợi dụng mọi hoàn cảnh xung quanh để vượt qua các chướng ngại vật và đến đích.

Ba Tang làm hồi ức của Trác Mộc Cường Ba bị đứng đoạn, giọng nói băng lạnh của anh ta nghe tựa như tuyết đọng lại nơi ngoại ô Moscow này vậy: "Sao vậy, cũng không ngủ được à?"

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: "Nửa đêm bị giật mình, tỉnh luôn."

Ba Tang đột nhiên hỏi: "Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, thế nào mới gọi là hạnh phúc?"

Trác Mộc Cường Ba cười cười nói: "Anh thật biết chọn đúng người, với những gì tôi đã từng trải qua, tôi chỉ có thể cho anh biết cái gì gọi là hạnh phúc thôi... hạnh phúc ấy à..." Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn vầng trăng còn chưa tròn trên không, dưới ánh trăng vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy hàng bạch dương phía xa xa, cảm thán thốt lên: "Có lẽ... buông bỏ tất cả những gì bất hạnh, chính là hạnh phúc."

"Ừm, buông bỏ tất cả những gì bất hạnh." Ba Tang nhếch mép cười, lại ngước đầu nhìn về phía vầng trăng sáng, tựa hồ như ở nơi đó, anh ta có thể cảm nhận thấy hạnh phúc. Trác Mộc Cường Ba chống hai tay lên lan can, cũng ngước nhìn trăng sáng một hồi thật lâu. Hai người đàn ông đứng sánh vai bên nhau, trầm mặc không nói một lời, chỉ nhìn trăng sáng, chỉ nhìn màn đêm.

Hồi lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới đột nhiên hỏi: "Ngày mai có tuyết rơi không nhỉ?"

Ba Tang lắc đầu: "Không, ngày mai sẽ có mặt trời."

Trác Mộc Cường Ba khẽ nhắm hờ mắt lại, tưởng tượng cảm giác ấm áp của mặt trời mùa đông, thầm nhủ: "Có lẽ, đây cũng là một thứ hạnh phúc."

Lại một lúc lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới lên tiếng hỏi tiếp: "Ba Tang..."

"Ừ?"

"Anh... anh thực sự vì báo đáp ân tình của gia đình tôi với anh trai nên mới đến giúp đỡ chứ? Có phải vì nguyên nhân nào khác nữa không?"

"Khác? Nguyên nhân gì?"

"Chẳng hạn như, có người cho anh một món tiền lớn, để anh theo dõi chúng tôi, mang thông tin về chúng tôi gửi cho y."

"Nếu tôi nói là có, anh sẽ xử trí ra sao?" Giọng Ba Tang tựa như một cơn gió lạnh heo hút, anh ta ngoảnh đầu lại, nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt tựa như ánh mắt của loài sói.

Trác Mộc Cường Ba trấn tĩnh nhìn thẳng vào Ba Tang, nhìn vào đôi mắt lạnh lùng như sói ấy, bình tĩnh nói: "Tôi không biết." Gã ngẩng đầu lên ngắm trăng, thở dài một tiếng: "Nói thực lòng nếu thực sự xảy ra chuyện như thế, tôi cũng chưa nghĩ ra sẽ phải xử trí ra sao nữa. Chỉ có điều vấn đề này đã ở trong lòng tôi từ lâu lắm rồi, tôi cần phải hỏi ra mới được. Tôi thực không hy vọng, trong đội ngũ của chúng ta lại xuất hiện một kẻ bán đứng đồng đội. Mọi người đều được vận mệnh tập hợp lại bên nhau, cần phải giúp đỡ lẫn nhau, dựa dẫm vào nhau mới có thể sinh tồn được. Nếu người nào có tâm địa phản bội, ắt sẽ đưa tất cả những người còn lại đi vào bóng tối. Tôi cần phải tin tưởng một trăm phần trăm vào các thành viên trong đội của mình, đồng thời cũng hy vọng mọi người tin tưởng tôi một trăm phần trăm, như vậy, đội của chúng ta mới có thể cùng nhau vượt qua gian khó, vượt mọi cản trở để đạt được mục đích của mình."

Gã lại đưa mắt nhìn Ba Tang, nét mặt bình lặng như nước: "Kỳ thực, ngay từ khi giáo quan Lữ Cánh Nam nghi trong chúng ta có người mật báo tin tức, tôi đã nghĩ ngay tới anh. Thân phận của anh tương đối đặc biệt, hơn nữa, khi chúng tôi tới tìm anh lần đầu tiên, anh cũng không chịu hợp tác. Bình thường anh lại trầm mặc ít nói, hay ở một mình một chỗ, người duy nhất nói chuyện được với anh, e rằng chỉ có mỗi đội trưởng Hồ Dương thôi. Tôi nghĩ, giáo quan chú trọng huấn luyện cho anh quan sát thiên tượng, mà không phải hạng mục nào khác là cũng có suy nghĩ của cô ấy. Thế nhưng, đội ngũ này lại không thể thiếu anh được, nghĩ lại lúc ở Đảo Huyền Không tự, nếu không có anh kịp thời tỉnh ngộ, sự sống chết của thầy giáo và Mẫn Mẫn cũng khó mà biết được thế nào. Chúng tôi cực kỳ cần đến sự giúp đỡ của anh, vì vậy, tôi mong anh có thể thành thực trả lời câu hỏi này của tôi, rốt cuộc anh có làm chuyện gì không phải với mọi người không vậy?"

Nghe những lời Trác Mộc Cường Ba nói, Ba Tang trước tiên lạnh lùng hờ hững, rồi sau đó cười gằn lạnh lẽo, khoé miệng giật giật như thể đã chuẩn bị nói gì đó, nhưng rồi khi nghe tiếp, anh ta lại trầm ngâm, cắn chặt răng, tựa như đang vùng vẫy đấu tranh gì đó, cuối cùng, đôi mắt sáng rực hung quang của loài sói ấy dần dần tan, chảy ra trước ánh mắt trong vắt như nước suối của Trác Mộc Cường Ba

"Tôi không làm." Ba Tang đưa ra một câu trả lời như thế, kế đó lại nói: "Kỳ thực lần đó tôi..."

Trác Mộc Cường Ba ngăn anh ta lại: "Như vậy là đủ rồi." Gã đặt hai tay lên vai Ba Tang, kiên định mà mạnh mẽ khẳng định: "Tôi tin anh."

Ba Tang nghi hoặc ngẩng đầu lên, chỉ thấy trong đôi mắt đen láy của Trác Mộc Cường Ba có một vầng trăng sáng, anh ta kinh ngạc nhận ra, trong tâm tưởng mình bỗng dâng trào lên một tia sợ hãi. Ba Tang biết, khi Cường Ba thiếu gia đã nói ra ba chữ ấy, có nghĩa là, cho dù trước đây mình đã từng làm gì, hoặc gã đã từng nghĩ những gì, tất cả đều không còn quan trọng nữa. Sự tín nhiệm này, là sự tín nhiệm tuyệt đối có thể bao dung hết thảy, trước khi tìm thấy anh trai ruột của mình, sự tín nhiệm đó, chỉ tồn tại ở trong nhóm người ấy, anh ta gọi bọn họ là... chiến hữu. Tất cả vì cùng chung cảnh ngộ mà tụ hợp lại với nhau, chỉ có ở trên chiến trường, trong vô số lần chiến đấu sinh tử đào luyện, mới có thể kết mối gắn bó,cùng tình nghĩa có thể vì nhau mà quên đi chính bản thân mình như thế. Trước giờ, Ba Tang vẫn luôn nhận định rằng, toàn bộ chiến hữu của mình đã mất mạng trong chiến đấu, nhưng giờ đây, một câu nói của Trác Mộc Cường Ba đã khiến anh ta lại một lần nữa cảm nhận được, mình đã tìm thấy một đội ngũ mới, một đám chiến hữu mới. Những người đó ở ngay bên cạnh anh ta, khi anh ta bị thương, sẽ bất chấp bản thân mà xông lên chặn lấy quả lựu đạn đang bay tới, khi anh ta mệt mỏi, sẽ có người canh giấc, giúp anh ta xua đuổi lũ dã thú, rắn rết độc trùng xung quanh, không cần phải lo lắng nguy hiểm bất thình lình ập xuống, không cần phải lo lắng mà say ngủ trong đêm đen. Thì ra, khi được người khác tin tưởng, cũng là một thứ hạnh phúc.

Trác Mộc Cường Ba như trút được gánh nặng, ánh mắt ấy, và cả giọng nói ấy của gã, đã không còn một chút nghi vấn nào nữa: "Không cần giải thích gì hết cả, anh đã đưa ra câu trả lời, như vậy là đủ lắm rồi. Hà, biết được anh không phải là kẻ bí mật báo tin cho bọn chúng, tâm trạng tôi cũng dễ chịu hơn nhiều lắm. Ừm, còn một lúc lâu nữa trời mới sáng, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi, ngày mai lấy được số tài liệu đó xong chúng ta sẽ về nước luôn."

Nhìn bộ dạng thoải nái của Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang không khỏi mỉm cười: "... con bò Yak trên núi."

"Cái gì?"

"Ý tôi là, anh cứ hỏi thẳng thừng như vậy, nếu tôi thật sự là kẻ bí mật bắn tin cho đối phương kia, làm sao lại thật thà trả lời anh chứ? Nói không chừng, còn vì câu nói đó, mà sinh lòng muốn giết anh nữa thì sao?"

"Kha kha, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình là người rất thông minh, thậm chí có lúc còn làm việc rất kém cỏi nữa, nhưng tôi chính là tôi, tôi kiên trì và tin tưởng." Trác Mộc Cường Ba đã đi vào đến cửa, quay đầu ra nói: "Anh cũng nên tin vào mọi người, bất kể là lúc nào, chúng ta cũng đều là một nhóm. Anh có biết Bộc Tồn Hân không? Anh ta đã từng nói rằng, tâm hồn mỗi con người đều như một cánh cửa sổ, anh mở nó ra, ánh dương mới chiếu vào trong được."

Nhìn bóng lưng cao lớn của Trác Mộc Cường Ba, bàn tay nắm chặt thành nắm đấm của Ba Tang chầm chậm thả lỏng, nhưng bàn tay kia lại nắm chặt lại, một giọng nói từ tận đáy lòng vẳng lên, dần dần chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí anh ta "Tôi tin anh! Tôi tin anh! Tôi tin anh!..." Ba Tang lẩm bẩm nói: "Cường Ba thiếu gia..."

Chiều hôm sau, hai người đến sân thượng tòa nhà cao tầng đợi Aleksandrovich. Ráng hồng vừa dâng lên nơi cuối chân trời, Aleksandrovich đến đúng hẹn. Tay người Nga này cao một mét chín, mái tóc vàng nhạt ánh lên sắc bàng bạc, tuy nói là mắt diều mũi cú vọ, nhưng gương mặt lại như đàn bà con gái được chăm chút cẩn thận, trắng hồng trơn mướt, còn tướng mạo rất giống với tiên nhân bạch phát đồng nhan trong thần thoại Trung Quốc.

Aleksandrovich kẹp dưới nách một xấp báo, tay xách cặp tài liệu, vừa lên sân thượng đã nhìn chằm chằm vào cái ba lô trong tay Ba Tang, y biết rõ, bên trong toàn là tiền mặt. Trác Mộc Cường Ba nói: "Ông Aleksandrovich thật đúng giờ." Ba Tang liền dịch lại cho bên kia.

Aleksandrovich đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, đoán định không có mai phục, khi ấy mới nhìn kỹ hai đối tượng giao dịch mặc áo da đen, nửa đùa nửa thật nói: "Nếu không nhìn tướng mạo hai người, tôi còn tưởng mình giao dịch với mafia cơ đấy." Nhưng Ba Tang không tỏ vẻ gì, cũng không cười hùa theo, thái độ lạnh lùng ấy khiến Aleksandrovich không khỏi giật thót mình, thầm nhủ chắc không đến nỗi là mafia thật đấy chứ.

Ba Tang mở túi ra, bên trong xếp ngay ngắn từng cọc từng cọc tiền mặt, nói: "Tiền ở đây, đồ đâu?"

Aleksandrovich giơ cặp tài liệu lên. Đúng lúc đó, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cùng giật mình cảnh giác. Có người ở sau lưng họ đang nói bằng tiếng Nga: "Không được cử động!" Aleksandrovich biến sắc, hai tay chầm chậm giơ lên cao. Kẻ kia lặp lại: "Không được cử động, tao bảo mày không được cử động cơ mà!" Aleksandrovich nhìn hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, kêu lên: "Các người bán đứng tôi hả!"

Ba Tang nói: "Chó chết, chúng tôi vừa mới đến đây một ngày, rõ ràng là ông bị người ta để ý từ trước rồi! Đúng là cái thằng ngu!"

Trác Mộc Cường Ba thầm suy tính, trên sân thượng này vốn không có người nào, lúc tới đây bọn gã đã kiểm tra kỹ một lượt rồi, rõ ràng người này vừa leo tường lên đây. Không ổn, hắn đang vòng qua chỗ bọn gã, hình như muốn cướp món đò trong tay Aleksandrovich. Chuyện là thế nào vậy? Ừm, tên tóc đỏ này, hôm qua gã đã thấy trên phố! Hắn ở trong đám thanh niên chơi môn Parkour đó!

Ba Tang thì vẫn để ý quan sát từng cử động của gã thanh niên tóc đỏ. Hắn cầm trong tay một khẩu súng lục lớn, đang chầm chậm tiên lại gần chỗ Aleksandrovich, luôn miệng bảo Aleksandrovich không được nhúc nhích, còn nói thêm một số lời lẽ đầy uy hiếp nữa. Ba Tang thầm suy tính, nhìn hành động của tên này thì chắc là tay mới, có lẽ là lần đầu tiên cầm súng uy hiếp người ta? Hắn cầm súng gì vậy? Loại tự lắp ráp? Nhìn còn lớn hơn cả súng Desert Eagle một cỡ nữa, chắc là phải nặng lắm, nhưng trông hắn...

"Súng đó là đồ giả! Súng đồ chơi!" Ba Tang dùng tiếng Nga nhắc nhở Aleksandrovich, nhưng tay này đã bị thanh niên tóc đỏ kia áp sát, giơ tay giật lấy cặp tài liệu, rồi xoay người bỏ chạy, đồng thời ném khẩu súng đồ chơi ấy về phía Trác Mộc Cường Ba. Hắn không chạy xuống cầu thang, mà xông thẳng ra rìa sân thượng. Ba Tang thầm giật mình kinh ngạc: "Khốn khiếp, chẳng lẽ hắn muốn nhảy thẳng xuống? Đây là nhà cao hai mươi tầng cơ mà!"

Nhưng Trác Mộc Cường Ba thì đã có chuẩn bị tâm lý, gã cũng hơi hiểu biết một chút về môn chạy Parkour này. Nó bắt nguồn từ một phong trào thể thao ở Pháp giai đoạn những năm 80, không dựa vào bất cứ công cụ gì, chỉ sử dụng năng lực thân thể để vượt qua các loại chướng ngại vật khác nhau. Về sau nó đã phát triển thành một môn thể thao mạo hiểm rất được thanh thiếu niên ưa thích, hết sức giống với mấy môn khinh công dạng phi thiềm tẩu bích của Trung Quốc. Người luyện môn này thông thường đều có thể chạy nhanh giữa các khu nhà, hành lang trong thành phố như trên đất bằng. Gã lớn tiếng hét lên: "Đuổi theo, hắn là dân chơi Parkour, sở trường lớn nhất chính là leo tường và nhảy qua các nhà cao tầng đấy."

CUỘC RƯỢT ĐUỔI TRONG THÀNH PHỐ

Gã thanh niên tóc đỏ cướp xong cặp đựng tài liệu, trông như thể muốn dồn sức nhảy ra ngoài sân thượng, kỳ thực lại hết sức khéo léo xoay ngoắt người, một tay bám vào lan can, tay kia đưa cặp tài liệu lên miệng ngậm, ngắm chuẩn phương hướng, buông tay ra, rồi trượt xuống tầng dưới. Lúc đó, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang mới bắt đầu cất bước.

Hai người chạy tới sát lan can thì tên cướp đã xuống được năm tầng lầu, hai tay bám vào mép ngoài của sổ, hai chân tựa sát vào tường, thân thể đung đưa hai ba lượt như khỉ chuyền cành, tay buông ta, kế đó lại chụp lấy, cả người đã rơi xuống mép cửa sổ tầng dưới nữa. Ba Tang nói: "Nhanh thật!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Mùa đông các cửa sổ đều đóng chặt, hắn không thể nào chui cửa sổ vào bên trong được, đuổi kịp không?"

Ba Tang cười gằn: "Hừ, hừ..." đoạn bỏ ba lô xuống, một tay chống lên lan can, cả người đã lao ra bên ngoài, lại nghe "bình" một tiếng, chỉ thấy anh ta đã rơi xuống cục điều hòa treo bên ngoài một cách chuẩn xác, kế đó lại hướng sang bên trái, nhắm về phía cục điều hòa tầng dưới nhảy xuống.

Trác Mộc Cường Ba quan sát, thấy tuy Ba Tang nhanh hơn gã thanh niên nọ, nhưng so ra thì cũng không nhanh hơn được bao nhiêu, như vậy ắt sẽ để tên tóc đỏ ấy chạy mất. Gã ngẩng đầu lên, liền trông thấy quả khí cầu có treo băng rôn quảng cáo bên cạnh, lập tức không nghĩ ngợi gì, giật tấm băng rôn ấy quấn vào cổ tay, rút dao ra cắt đứt dây buộc, nhảy thẳng xuống.

Ba người trước sau nhảy từ trên sân thượng xuống, Aleksandrovich mới nhật mình sực tỉnh khỏi cơn khiếp hồn bạt vía, thở hổn hển như trâu. Ddoot nhiên hai mắt y sáng bừng lên, ồ, bọn họ bỏ tiền lại đây rồi. Y nhặt đống tiền rơi rải rác lên, lút ca lút cút đi xuống cầu thang.

Trác Mộc Cường Ba lợi dụng quả khí cầu làm giảm trọng lượng của mình, hai chân guồng chạy trên mặt tường dốc đứng, chẳng mấy chốc đã vượt qua Ba Tang đang nhảy qua nhảy lại trên các cục điều hòa nhiệt độ, vùn vụt xông thẳng xuống.

Gã thanh niên tóc đỏ xuống đến tầng trệt, đang chạy băng băng trên nóc dãy ki ốt một tầng, mới guồng chân chưa được mười mét, Trác Mộc Cường Ba đã xuống tới mặt đường, lập tức nghiêng vai lăn một vòng, kế đó buông quả khí cầu quấn nơi cổ tay ra, dốc toàn lực truy kích. Nghe thấy tiếng chạm đất, gã thanh niên tóc đỏ không ngờ có người lại nhanh như vậy, bất giác kinh ngạc ngoảnh đầu lại, nhưng khi hắn nhìn thấy hai chân Trác Mộc Cường Ba, liền lập tức cười gằn lạnh lẽo, giày da! Vì ở Moscow rất lạnh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều đi giày da cao cổ có lọt lông bên trong, dùng để đá người ta thì rất mạnh, nhưng chạy bộ thì thực không dễ chút nào.

Trên nóc dãy ki ốt bằng phẳng, Trác Mộc Cường Ba thân thể cao lớn, chẳng mấy chốc đã kéo gần được khoảng cách với gã thanh niên tóc đỏ, nhưng đúng lúc sắp bắt được hắn, đối phương lại đã hất văng cặp tài liệu sang phía Đông, còn mình thì xoay người chạy sang hướng Bắc. Ở phía kia sớm đã có một thanh niên nhuộm tóc xanh đứng đợi tiếp ứng, dùng một cái tút bằng vải buồm hứng lấy cặp tài liệu, đeo lên lưng rồi chạy theo hướng khác. Trác Mộc Cường Ba đành bỏ mặc cho gã tóc đỏ chạy mất, xoay người chuyển hướng đuổi theo tên nhuộm tóc xanh.

Gã thanh niên tóc xanh kia còn gầy nhẳng hơn gã tóc đỏ, nhìn thoáng qua thì thấy quần áo cũng mỏng manh hơn, nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc đã chạy vút qua khu ki ốt chỉ có một tầng lầu đối diện là một tòa nhà cao hai mươi tầng khác, ở giữa vắt ngang một con ngõ nhỏ cho người đi bộ, rộng chừng năm mét. Gã thanh niên tóc xanh không dừng lại, chạy đến mép dãy ki ốt liền tung người nhảy vút lên, vượt qua con ngõ rộng năm mét, rơi xuống dãy bồn hoa tầng của một tòa nhà cao tầng đối diện, rồi tiếp tục chạy dọc theo hành lang. Trác Mộc Cường Ba vẫn bám chặt không rời, tung người nhảy vút qua con ngõ, Ba Tang theo sát phía sau.

Phía trước hành lang ngoài rìa ấy có một bức tường cao ba mét chia làm hai khu vực, gã thanh niên thuộm tóc xanh đạp lên tường hai bước, kế đó vươn tay trái ra ấn lên toàn bộ bờ tường, tay phải cũng đồng thời vung lên bám vào, thân thể vừa trầm xuống, hai tay đã vận lực ấn mạnh, hai chân đồng thời đạp xuống, cả người liền bắn vọt sang phía bên kia tường, không hề dừng lại một khoảnh khắc nào. Trác Mộc Cường Ba cũng đến trước bức tường, kế đó đạp chân chạy trên mặt tường hai bước, rồi bỗng "soạt" một tiếng, cả người trượt xuống, thân thể mất thăng bằng, đầu đập vào tường đánh "bốp" một cái, lúc này gã mới nhận ra mình đang đi giày da, không bám được vào mặt tường. Ba Tang cũng đã chạy tới, không hề dừng lại, chạy lướt qua Trác Mộc Cường Ba, chỉ buông lại một câu "cẩn thận đấy", rồi chạy ra rìa ngoài hành lang, giơ tay về phía bức tường, vận sức ẩy mạnh, thân thể liền như con quay lướt dọc mặt tường xoay một vòng, chớp mắt cái đã sang phía bên kia.

Trác Mộc Cường Ba xoa xoa chỗ sưng trên trán, làu bàu mắng một tiếng: "Ngu thật", rồi theo Ba Tang trượt ra phía rìa ngoài bức tường để sang phía bên kia.

Xung quanh tầng một của tòa nhà này đều có một hành lang rìa rộng chừng một mét, đặt đèn chiếu sáng, biển quảng cáo và các vật trang trí. Gã thanh niên kia chạy lên chạy xuống giữa đủ các chướng ngại vật ấy, thân thể lướt đi vun vút như cá bơi trong nước. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đuổi theo muốn hụt cả hơi, chạy, nhảy, vọt lên cao, dịch người trong khoảnh khắc, phải vận dụng mọi biến hoá của thân thể mới tránh được các chướng ngại vật mà không làm ảnh hưởng đến tốc độ đôi chân.

Đoạn hành lang phía trước bỗng xuất hiện khoảng trống lớn, bên trên là một hộp quảng cáo rất lớn, tựa như ban đầu để treo tấm biển quảng cáo này lên, người ta đã phải đập bỏ một khoảng hành lang, chỉ để lại một chút rìa ngoài rộng chưa đầy mười xăng ti mét. Khoảng trống này dài tới bảy tám mét, chạy nước rút nhảy vọt qua e khó qua nổi. Ba Tang đang chạy phía sau lưng gã thanh niên, không khỏi có cảm giác muốn xem hắn băng qua thế nào. Chỉ thấy gã thanh niên đó xông tới chỗ hổng, đà lao vẫn tiếp tục, có điều trong tâm bỗng nhiên hạ thấp, cả người bò sát nền hành lang, dùng cả tay lẫn chân, thoạt trông cứ như con tinh tinh đang chạy vậy. Kế đó, hắn vươn tay trái chân phải lên trước, rồi chuyển qua tay phải chân trái, cứ thế chạy trên mép rìa hành lang rộng chưa ddaaf mười xăng ti mét, linh hoạt không khác gì một con mèo.

Miêu bộ! Ba Tang thoáng ngẩn người, kế đó cũng guồng chân chạy trên mép rìa rộng chưa đầy mười xăng ti mét ấy, nhưng anh ta không chạy theo kiểu miêu bộ giống gã thanh niên, mới được bảy tám bước, tới được giữa chỗ hụt, thân thể đột nhiên mất thăng bằng rơi xuống, cũng may hai tay đã bám được vào mép, đành treo người lơ lửng như vậy, rồi tiếp tục bò qua, tốc độ chậm đi đáng kể.

Trác Mộc Cường Ba đuổi sát đằng sau, lúc gã thanh niên tóc xanh khom người chạy theo kiểu mèo, gã đã suy nghĩ xem mình làm sao để vượt qua được khoảng trống ấy. Đôi giày da gã đang đi không có sức đàn hồi, chạy đà nhảy qua là không thể, còn chạy qua trên mép kiểu kia thì gã không thành thạo bằng đối phương. Nhưng ngay sau đó, ánh mắt gã hướng về phía tấm biển quảng cái treo trên đỉnh đầu. Bên dưới tấm quảng cáo ấy là một giá đỡ bằng thép, nhảy từ mép bên này chắc có thể tới được chỗ đó. Trác Mộc Cường Ba vừa guồng chân chạy vừa thầm tính toán, cuối cùng, khi gã chạy đến chỗ mép gãy đó, liền tung mình nhảy vút lên cao, hai tay vươn ra tóm lấy giá sắt đỡ bên dưới tấm biển quảng cáo, đà lao về phía trước không hề chậm lại. Lúc ấy, phần eo hông và hai tay gã cùng lúc phát lực, đẩy thân người về phía trước như đang đu xà đơn, đồng thời buông tay ra, cả người liền vượt lên cao một khoảng, lao về phía trước lộn vòng bảy trăm hai mươi độ, nhẹ nhàng vượt qua khoảng cách bảy mét. Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nói với Ba Tang vẫn đang đu người ở rìa hành lang: "Ba Tang, cố lên nào, chúng ta không thể để một thằng nhóc qua mặt như thế được."

Gã thanh niên nhuôm tóc xanh cũng không thể ngờ hai người phía sau lại đuổi rát đến vậy, vừa bỏ rơi được một người, người khác lại đuổi theo sát sạt, không khỏi phát hoảng, thầm nhủ không hiểu hai gã áo đen này là loại người gì. Người cho bọn hắn tiền có nói đối phương cũng là cao thủ chạy Parkour thế này đâu chứ.

Lại vượt qua một con ngõ rộng chừng năm mét, phía trước đã không còn chướng ngại vật gì nữa, mà chạy trên đường cái thì ưu thế tuyệt đối thuộc về bọn Trác Mộc Cường Ba, tuy nhiên gã thanh niên tóc xanh không hề hoảng loạn, vung chiếc cặp lên ném vèo đi. Bên tòa nhà đối diện liền có người mở toang cửa sổ, đón lấy chiếc cặp, đoạn xoay người chạy lên lầu. Gã tóc xanh kêu lên: "Kalin, còn cậu thôi đấy!" Tới đây, hắn đã nghiêng người nhảy xuống mặt đường, co giò chạy thẳng một mạch. Hắn biết thể lực mình đã tiêu hao gần hết trong mười phút truy đuổi rượt bắt vừa rồi, giờ chỉ còn dựa cả vào Kalin nữa thôi, cậu ta cũng là người giỏi nhất trong cả bọn.

"Chó chết!" Ba Tang chửi đổng một câu, con phố rộng quá, không thể nào nhảy vọt qua được. Anh ta đang suy tính thì thấy Trác Mộc Cường Ba chạy phía trước chẳng nghĩ ngợi gi, dồn sức nhảy vọt lên, bám lấy thanh ngang của cột đèn đường, đu quanh một vòng, rồi cả người cuộn tròn lộn nhào liên tiếp sáu bảy vòng trên không trung, vượt qua khoảng cách sáu bảy mét, đột nhiên duỗi thẳng ra, chụp lấy thanh ngang của cột đèn đường phía đối diện, lại đu quanh một vòng nữa,phá cửa sổ lao vào trong nhà. Hai mắt Ba Tang lập tức sáng rỡ, cũng làm theo y như vậy mà sang phía bên kia.

Gã thanh niên tóc xanh đang kinh hoảng ngoảnh đầu lại xem mình có bị đuổi theo hay không, liền trông thấy Trác Mộc Cường Ba đu người lộn nhào trên không trung, vượt qua con phố rộng mà mình không thể vượt qua nổi, thầm giật mình chấn động, tự nhủ không hiểu đó là kỹ thuật kiểu gì? Kế đó, Ba Tang cũng lộn nhào băng qua. Gã tóc xanh thấy vậy, trong lòng thậm chí còn dâng lên cảm giác sùng bái: "trời đất, lẽ nào hai ống chú này chính là người sáng tạo ra môn chạy Pakour hay sao?" Hắn ta nào có biết, chính kỹ thuật lộn người qua khoảng không, tóm lấy vật đỡ, rồi lại tiếp lục lộn nhào như thế cực kỳ nguy hiểm, chỉ hơi bất cẩn một chút là sẽ rơi xuống ngay, không luyện tập cả ngàn lần vạn lần thì tuyệt đối không thể vận dụng thành thục thoải mái như Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang được. Kỹ xảo này, chính là thứ Lữ Cánh Nam bắt họ học của các vận động viên môn thể dục dụng cụ.

Gã thanh niên bắt được chiếc cặp tài liệu vẫn chạy một mạch lên cầu thang, giữ khoảng cách một tầng rưỡi với Trác Mộc Cường Ba. Hắn đã tính toán, mười tầng đầu tiên thì mình có ưu thế, có lẽ sẽ nhanh chóng kéo giãn khoảng cách, mười tầng tiếp theo, tốc độ hai bên giữ ở trạng thái cân bằng, còn mười tầng sau cùng, có lẽ mình sẽ bị hai người kia đuổi kịp, nhưng lúc ấy chỉ cần lên được sân thượng thì trời đất đã là của hắn, chẳng còn phải sợ gì nữa.

Không ngờ, chỉ mới leo được năm tầng, khoảng cách giữa hắn và Trác Mộc Cường Ba chỉ còn một tầng lầu. Chưa đến tầng thứ mười lăm, hắn đã thấy Trác Mộc Cường Ba ở phía sau, chiếc áo da đen phần phật, đôi mắt khiến người ta run rẩy tận tâm hồn. Chẳng những thế, phía sau còn có tiếng bước chân của một người khác đang giẫm thình thịch trên các bậc thang. Gã thanh niên đeo cặp ấy không khỏi hoảng hồn, thầm nhủ: "Thể lực hai ông chú này sao mà tốt thế không biết? Trong cái cặp này rốt cuộc là thứ gì vậy nhỉ? Sớm biết thế thì đã không nhận lời tay kia rồi, mỗi chút tiền còm mà mệt đứt cả hơi."

Trác Mộc Cường Ba cũng đã nhìn thấy gã thanh niên đeo cặp ở phía trước, một tên nhuộm tóc màu xanh lam. Gã nhớ lại, đó chính là tên đã giữ thăng bằng trên cột đèn ở đầu phố hôm qua, rồi cả cảm giác bị người ta nhìn trộm lúc gã ở trên sân thượng hôm trước... Lẽ nào bọn gã đã bị người ta theo dõi?

Lại lên thêm hai tầng nữa, gã thanh niên tên Kalin thấy tình thế không ổn, liền không chạy lên cầu thang nữa mà rẽ vào hành lang. Chỗ này đã là khu dân cư, hắn ngắm chuẩn ô cửa sổ thông gió phía trên cửa ra vào của một nhà dân, đột nhiên đạp chân vào bức tường bên trái hành lang, mượn lực bật lên bức tường bên phải, rồi lại đạp chân vào tường bên trái, bắn sang phía tường bên phải, cứ liên tiếp như vậy ba lần, cộng với đà lao về phía trước, hai chân hắn đã thuận thế nhét qua cửa sổ thông gió ấy, tựa như rắn về hang, thoắt cái chui tọt cả người vào trong. Toàn bộ các động tác hết sức liền mạch, cả Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi ngấm ngầm tán thưởng.

Ở cửa thông gió đấy rất nhỏ, Trác Mộc Cường Ba không thể chui vào, nhưng gã cũng có cách riêng của mình, cánh cửa ghép bằng mấy tấm gỗ ván ấy đã cũ rích cũ mèm, sắp lìa ra đến nơi. Gã cứ nhằm thằng vào cánh cửa xông thẳng tới, chỉ nghe "ầm" một tiếng, trên của liền để lại một lỗ hổng hơi giống hình người, Trác Mộc Cường Ba đã ở bên trong.

Trong nhà không có người, Trác Mộc Cường Ba thò đầu vào trong quan sát, chỉ thấy gã thanh niên tên là Kalin đã chui ra ngoài cửa sổ, đang leo lên chỗ cao hơn. Trác Mộc Cường Ba cũng lao ra theo hắn.

Ngoài tầng thứ mười hai, Kalin bám vào chấn song cửa sổ, tiếp tục leo lên trên, trong đầu thầm nhủ: "Giờ thì không đuổi được tôi nữa rồi hai ông chú ạ, tôi là cao thủ leo trèo được mệnh danh là 'chuyên gia leo vách đá' đấy nhé." Nhưng khi hắn ngoảnh đầu xuống nhìn, liền giật mình kinh hãi, suýt chút nữa thì rơi. Hai "ông chú" kia vẫn giữ khoảng cách bám theo phía sau, tốc độ leo bám thậm chí còn nhanh hơn cả mình, đặc biệt là ông chú thân hình cao lớn khôi vĩ, hầu như không cần suy nghĩ gì đã có thể tìm thấy đường leo bám trên bức tường gần như không có chỗ bám tay ấy, những chỗ hắn không thể vượt qua nổi, ông chú đó cũng vươn tay ra một cái, đã chộp được một chỗ gồ ra nhỏ xíu, kế đó đu người một cái, nhẹ nhàng băng qua như khỉ vượn vậy.

Lúc này những người đi đường bên dưới cũng đã bắt đầu chú ý đến ba kẻ đang leo bám phía bên ngoài tòa nhà cao tầng, chỉ thấy hai cái bóng đen một cái bóng trắng tựa như là ba con nhện dịch chuyển cực nhanh trên mặt ngoài trơn nhẵn như gương của tòa nhà. Vô khối người đã kêu rú lên kinh ngạc, còn có người móc điện thoại di động ra báo cảnh sát, nhưng đa phần đều dừng chân ngước lên nhìn. "Mẹ ơi, mẹ ơi." Một chú bé tầm sáu bảy tuổi chỉ lên tòa nhà, nói với mẹ nói: "Nhìn kìa mẹ, Người Nhện đấy, mẹ ơi."

Mẹ thằng bé vội gắt con trai: "Không, chẳng có người nhện người nhiếc gì cả, đó là lũ trẻ con hư đốn không nghe lời. Con cấm không được học theo đấy nhé. Không học hành đến nơi đến chốn sau này mới như thế, chẳng ai thích những đứa trẻ hư thế đâu."

Kalin rõ ràng rất quen thuộc với "tuyến đường" bên ngoài tòa nhà này. Mấy lần Trác Mộc Cường Ba đã đuổi sát lắm rồi, nhưng hắn vẫn có thể linh hoạt tránh được, thoắt lên thoắt xuống nhảy nhót trên mép bờ tường dựng đứng, chẳng mấy chốc đã leo lên được sân thượng. Trác Mộc Cường Ba cũng nhảy lên theo. Kalin guồng chân tăng tốc chạy như điên trên sân thượng, gia tốc trong khoảnh khắc không ngờ còn nhanh hơn cả Trác Mộc Cường Ba, kế đó bắt đầu nhảy từ sân thượng tpaf nhà này sang sân thượng tòa nhà khác. Ba cái bóng nhanh như ba ánh chớp, thoắt ẩn thoắt hiện. Các kiến trúc cao thấp nhấp nhô trong thành phố giờ đã thành sân chơi đuổi bắt của ba người. Từ sân thượng tòa nhà này nhảy sang sân thượng tòa nhà khác, rồi lại từ sân thượng tòa nhà khác nhảy qua cửa sổ, leo cầu thang chạy lên, hoặc bám tường leo lên, từ nóc nhà nhảy xuống hàng hiên, sau đó lại từ hành lang hoặc cửa sổ leo lên nóc nhà, bất cứ chướng ngại vật nào cũng không thể ngăn cản được bước chạy của cả ba. Những địa hình hiểm yếu mà người thường nghĩ rằng không thể vượt qua, trong mắt họ lại chẳng khác gì trên đất bằng. Xà nhà, ống khói, giá sắt, cầu thang treo, hành lang... tất cả đều trở thành công cụ của họ, thành những điểm đặt chân hoàn hảo, để họ hết lần này đến lần khác nhảy những cú vượt quá cực hạn con người. Gã thanh niên tên Kalin kia đúng là linh hoạt và nhảy nhót tốt hơn hai gã đầu tiên nhiều, đã mấy lần Trác Mộc Cường Ba tưởng chừng như chỉ vươn tay ra là chộp được hắn, vậy mà lần nào hắn cũng né được trong gang tấc. Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm bực bội.

Chỉ thoắt cái, ba người đã tới trước một khối nhà lớn hình chữ "U", tòa nhà chính cao chừng bảy mươi tầng, hai bên gắn với hai tòa nhà phụ tựa như hai cánh tay vươn ra, cánh bên phải cao chừng bốn mươi tầng, cánh bên trái cao khoảng ba mươi tầng, giữa hai cánh tay cách nhau khoảng ba chục mét có lẻ. Kalin và hai người bọn Trác Mộc Cường Ba nhảy từ một tòa nhà cao gần sáu mươi tầng ở bên phải sang sân thượng của "cánh tay" bên trái, nhưng hắn dường như không hề có ý định dừng lại, trông bộ dạng vẫn như thể đang chuẩn bị tiếp tục nhảy nữa. Lúc ở trên không Trác Mộc Cường Ba đã nhìn thấy độ cao chênh lệch và khoảng cách giữa hai tòa nhà, trong lòng không khỏi lấy làm nghi hoặc. Chẳng lẽ gã thanh niên này định nhảy qua luôn hay sao? Chỉ chênh nhau chừng mười mét chiều cao mà phải vượt qua khoảng không rộng tới ba mươi mét, dù là pháp sư Á La e rằng cũng khó mà nhảy qua được.

Gã thanh niên tên Kalin ấy lao vút ra như cá nhảy, thân thể vọt ra ngoài khoảng không, chỉ bay ra xa được chừng mười mét đã bắt đầu rơi xuống thấp hơn độ cao của tòa nhà đối diện. Đúng lúc đó, chỉ thấy hắn rút ở thắt lưng ra một cuộn dây nylon, dùng sức quăng mạnh, tung ra một cái móc câu nhỏ. Móc câu mang theo sợi dây nylon vẽ một đường cong trên không trung, móc một cách chuẩn xác vào mép tòa nhà phía trước. Kalin đu mình trên không một cái, kế đó bay vút qua. Còn Trác Mộc Cường Ba lại đành chỉ phanh kít lại ở rìa sân thượng tòa nhà bên kia, thần người nhìn toàn bộ cảnh tượng đó. Ba Tang cũng đã đuổi theo tới nơi, tức tối giạm chân nói: "Khốn khiếp, không ngờ thằng nhóc còn chiêu này, nếu chúng ta vẫn còn dây móc thì..."

Gã thanh niên kia hết sức thành thục lão luyện, nhanh chóng đeo bám leo lên nóc tòa nhà bên kia, hướng về phía Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cười toét miệng, nói mấy câu tiếng Nga mà Trác Mộc Cường Ba nghe chẳng hiểu gì. Kỹ thuật quăng dây móc vật trên không trung này chính là tuyệt kỹ thành danh của Kalin. Chiêu này hắn học theo Người Nhện Alan Robert mà luyện thành. Hai tòa nhà phụ hai bên cách biệt hẳn với tòa nhà chính, vì vậy, giờ Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang muốn đuổi theo, ắt phải nghĩ cách xuống đất trước, sau đó lại leo thêm ba chục tầng lầu nữa đi lên, tốc độ dù có nhanh đến mấy cũng phải mất hai mươi phút đồng hồ mới xong. Mà trong hai mươi phút đó, Kalin đã chạy mất tăm mất tích từ lâu rồi. Nhìn gã thanh niên tóc xanh lam bên tòa nhà đối diện đang lè lưỡi làm mặt quỷ trêu mình, Ba Tang tức sôi cả lên. Trác Mộc Cường Ba ngược lại tỏ ra khá bình tình, không có giày đế cong trợ lực đàn hồi, cũng không có dây móc, muốn nhảy thẳng qua khoảng cách xa như thế này là điếu bất khả; chạy xuống leo đường cầu thang tuyệt đối là cách tệ nhất trong những cách có thể; hai tòa nhà phụ ngăn cách với tòa nhà chính bằng tường thủy tinh, có thể đập vỡ mà xông qua, nhưng làm như vậy sẽ phải chạy qua hành lang, còn phải xuống mười tầng nhà nữa. Chỉ cần gã thanh niên kia hút khỏi tầm mắt hai người, giữa thành phố mênh mông này muốn tìm lại hắn thì thật chẳng khác nào mò kim đáy biển. Chính giữa tòa nhà chính có hai tấm pano cỡ lớn buông từ nóc nhà xuống, cách hai tòa nhà ở hai bên chừng sáu bảy mét gì đó, ngoài ra chính giữa tòa nhà chính còn gắn một tấm huy hiệu bằng đồng rất lớn, hình như là logo của công ty thì phải. Cái logo đồng khổng lồ ấy được treo khoảng tầng ba lăm, tuy nói là hình trong nhưng chỗ đặt chân được cũng phải đến gần hai mét. Vấn đề duy nhất còn lại là đôi giày gã đang đi vốn không thể chạy dọc trên bờ tường được! Hết cách này tới cách khác hiện ra trong óc Trác Mộc Cường Ba, nhưng rồi tất cả đều bị gã gạt đi tuy chỉ trong một tích tắc ngắn ngủi thôi, nhưng ít nhất gã cũng đã nghĩ đến năm sáu phương án khác nhau, khốn nỗi không phương án nào có thể thực hiện được. Trác Mộc Cường Ba bực bội đạp mạnh chân, vỡ cả ô cửa kính ngăn giữa tòa nhà chính với khu nhà phụ bên trái.

Vừa khéo trùng hợp, khi ô cửa kính ấy vỡ tung ra, Trác Mộc Cường Ba mới kinh ngạc phát hiện bên trong đó xếp ngay ngắn cả một chồng hộp giấy. Mặc dù không nhận ra được chữ trên hộp, nhưng hình vẽ bên ngoài đã thể hiện rõ thứ ở bên trong, thêm nữa lúc đo Ba Tang cũng vừa lên tiếng: "Giày bóng rổ chuyên nghiệp! Của Adidas..." Không ngờ ở đây lại có một kho để giày. Trác Mộc Cường Ba tiện tay giật bung một hộp ra, vừa khéo đúng cỡ của gã. Lúc này Kalin đã vẫy ta chào tạm biệt, xoay người chầm chậm bỏ đi, dù sao thì hắn đã chạy nãy giờ cũng đã mệt lử ra rồi.

"Đợi đấy!" Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng thay giày bóng rổ chuyên nghiệp có độ đàn hồi rất tốt kia vào, hai chân giẫm xuống đất nhảy hai ba lượt. Ba Tang cũng thay một đôi giày khác, miệng hỏi: "Có nhảy qua được không?"

"Không nhảy qua được." Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn tòa nhà chính vắt ngang giữa hai tòa nhà phụ, rồi lại đưa mắt nhìn gã thanh niên nhuộm tóc xanh đang vừa quay người đi vài bước vừa ngoảnh lại nhìn, tự tin nói: "Nhưng tôi chạy qua đó được."

Lùi lại chừng hai chục mét, chạy lấy đà rồi gia tốc trong chớp mắt, sau đó men theo bờ tường bốc dần người lên cao, chạy tà tà trên mặt tường, "bịch bịch bịch bịch" chỉ trong chớp mắt gã đã chạy ngang trên tường được bảy mét. Lúc này người Trác Mộc Cường Ba bắt đầu rơi dần xuống, nhưng tay gã đã kịp vươn dài ra, chộp lấy tấm pano cỡ lớn treo lơ lửng từ trên nóc nhà xuống, chân vẫn không ngừng guồng quay, tiếp tục chạy trên mặt tường dựng đứng, thoắt cái đã thêm được hơn chục mét nữa. Gã ngắm đúng vào vị trí của chiếc logo khổng lồ, rồi buông tay ra thả người rơi xuống đó, đồng thời vẫn không ngừng chạy, chỉ coi đó là điểm đặt chân, rồi lại tiếp tục nhún chân bật lên lần nữa, đoạn đạp chân lên tường chạy tiếp. Lúc người trầm xuống, gã lại chụp lấy tấm pano khổng lồ bên phải, mượn lực đó mà tăng dần độ cao trong khi đạp chân lên tường chạy, lao thẳng lên nóc tòa nhà đối diện.

Một loạt động tác liên hoàn đó khiến Ba Tang cứ trố mắt đờ người ra nhìn. Mặc dù đó là những động tác cơ bản anh ta đều biết hết, nhưng chạy liền một mạch qua như vậy, trong địa hình và hoàn cảnh như thé... Ba Tang hơi do dự trong khoảnh khắc, đành thở dài chạy vào tòa nhà chính theo lỗ hổng Trác Mộc Cường Ba phá ra.

Lúc Kalin ngoảnh đầu lại lần nữa, hắn thần người ra... Hai ông chú đang giẫm chân tức tối vì không có cách gì đối phó ở tòa nhà đối diện đã biến mất, còn ở mép rìa sân thượng tòa nhà hắn đang đứng, một "ông chú" đang thò đầu lên như bóng ma. Làm cách nào ông ta vượt qua được khoảnh cách đó vậy? Kalin không sao tưởng tượng nổi, cũng không thể lý giải nổi, một cảm giác lành lạnh xuất phát ở sâu thẳm nội tâm, từ gót chân chạy lan đi khắp cơ thể. Hắn không kịp nghĩ ngợi cho kỹ càng hơn, lập tức xoay người tiếp tục chạy. Hai người lại tiếp tục cuộc đuổi bắt trong thành phố đầy những cao ốc san sát, chỉ có điều lần này hoàn cảnh đã tuyệt đối thay đổi.

CẠM BẪY

Chạy bộ một thời gian dài, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy thân thể mình nóng lên, lại nhảy qua một tòa nhà cao tầng khác, cả người đang ở giữa không trung, gã chợt giật mình, thân thể cũng chỉ mới hơi nóng lên. Nhưng mà, rõ ràng là gã đã chạy được cả một quãng dài như vậy kia mà. Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy Ba Tang đã cởi áo da, chẳng rõ quẳng đi đâu mất rồi, bộ dạng hình như đã thấm mệt. Còn gã, tại sao không thấy mình thở dốc, cảm giác ấy, tựa như cá tự do thở trong nước, chim chao liệng theo gió trên bầu trời, chạy như thế rồi mà lẽ nào vẫn chưa đến cực hạn của thể lực gã chứ?

Trác Mộc Cường Ba khống chế thân thể xoay chuyển trên không trung một vòng - thân thể gã làm độc tác đó một cách hết sức tự nhiên. Chỉ hơi nóng thôi sao, chẳng lẽ nào, gã vẫn chưa dùng hết sức hay sao? Gã liếc nhìn cái đầu nhuộm xanh lam phía trước, tựa như ấy là ngọn lửa thiêu thân không ngừng bập bùng, bập bùng. Muốn đuổi kịp hắn, phải nhanh hơn nữa, nhanh hơn nữa, nhanh hơn nữa...

Lồng ngực phập phồng với biên độ lớn của Trác Mộc Cường Ba không ngờ đã làm bật tung hàng cúc của chiếc áo da đen. Áo da hứng gió xòe rồng ra như áo choàng, nhìn gã chẳng khác gì một con hắc ưng đang sải cánh. Đó không phải là chạy nữa, mà là gã bắt đầu bay lượn, bay lượn giữa thành phố đông đúc, băng qua các nhà cao tầng, bên trong cơ thể trào dâng một cảm giác sướng khoái lạ thường xưa nay chưa từng có, chính là thứ cảm giác này, đây mới là cảm giác tự do thực thụ! Năm tòa nhà cao tầng liền nhau xếp thành hình bậc thang, chiều cao chênh nhau từ bảy mét đến mười lăm mét. Kalin nhảy trên cao xuống, nghiêng vai lộn một vòng rồi lại guồng chân chạy, sau đó nhảy xuống "bậc thang" tiếp theo, gặp chỗ cao hơn mười mét, hắn phải dùng dây thừng móc trượt xuống một nửa rồi mới nhảy. Trác Mộc Cường Ba thì không, gã xòe rộng chiếc áo da đen ra như cánh dơi, nâng cả người trượt xuống về phía trước, dù là độ cao trên mười mét gã cũng nhảy thẳng xuống, nghiêng người lăn tròn dưới đất, đứng bật dậy lại tiếp tục truy đuổi.

Giữa hai tòa nhà có một khe hở rộng chừng hai mét, Kalin hít sâu một hơi, nằm ngang người ra, tay chân cùng choãi thẳng thành hình chữ "nhất" gác lên giữa khe hở ấy, cánh tay và gót chân cùng lúc cẩn thận nhích dần xuống dưới. Trác Mộc Cường Ba cao lớn hơn đối phương nhiều, hai cánh tay gã dang ra, hai chân đạp mạnh, đứng thẳng người giữa khe hở thành hình một chữ "đại", tay chân hơi lơi ra một chút, dùng tay giữ phương hướng, hai chân khống chế lực độ, cứ thế trượt xuống.

Đến một chỗ sân trời giữa các tầng lầu, Kalin phi thân lao thằng xuống, đến giữa chừng lại quăng dây móc lên bám ngược vào chỗ sân trời ấy, mượn lực dây kéo mà trượt thẳng xuống gần hai chục mét. Trác Mộc Cường Ba đuổi tới mép sân trời, nhân lúc Kalin còn chưa kịp thu dây lại, ngắm chuẩn độ cao của đối phương, liền vung dao cắt lìa cái móc ở đầu sợi dây đi, thầm nhủ: "Không còn cái móc này, để xem ngươi còn trò gì nữa."

Kalin vừa chạm đất, ngẩng đầu lên nhìn thấy Trác Mộc Cường Ba, cũng tự nhủ: "Không có dây móc nữa, để xem ông chú nhảy thế nào, chẳng lẽ cao hai ba chục mét thế này cũng định nhảy thẳng xuống luôn hay sao?"

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba liếc mắt qua hai bên một lượt, rồi chạy về phía tòa nhà bên trái, đảo người nhảy ra phía mặt bên ngoài, sao vẫn không rơi xuống thế nhỉ? Kalin tự hỏi và ngước mắt lên nhìn kỹ lại, liền thấy tay phải Trác Mộc Cường Ba đã vươn thẳng ra, bám chặt lấy một tấm quảng cáo lớn bên ngoài, xé ra một vệt dài, rồi cứ thế thả mình xuống như kéo dây ròng rọc, không nhanh mà cũng chẳng chậm. Cách mặt đất chừng khoảng mười lăm mét, tấm quảng cáo đã bị xé tới đoạn cuối cùng, thân thể Trác Mộc Cường Ba liền đu đưa một cái, kéo cả tấm vài quảng cáo sang nhanh bên trái, thân thể trên không trung sững lại, tay đã buông lơi, vừa khéo lại chụp lấy một tấm quảng cáo khác. Trong mắt Kalin, cái bóng màu đen ấy tựa như loài yêu ma trong cơn ác mộng không ngừng áp sát đến chỗ mình.

Trác Mộc Cường Ba chạy như bay trên tường, sải chân được hơn chục bước, hết một tấm quảng cáo, tay buông ra, lại vươn lên giật lấy tấm quảng cáo khác, đu qua khoảng cách giữa các tầng, tiếp tục sải chân chạy dọc tường, buông tay ra, lại vươn lên, cổ tay quấn một vòng, nghe "soạt" một tiếng đã trượt xuống mười mét.

Đáng sợ quá, chạy nhanh theo phương ngang trên mặt tường thẳng đứng, đây mà là chạy Pakour ư, phải nói là đang bay mới đúng! Hai chân Kalin đã bắt đầu mềm nhũn ra, cố nhiên do thân thể bị thoát lực gây nên, nhưng cảnh tượng xảy ra trước mắt, cũng khiến gã bị chấn động không hề nhỏ chút nào.

Chạy, Kalin vẫn chưa thoát hẳn khỏi cơn kinh hãi, nhưng cuối cùng cũng nhúc nhích được đôi chân. Lúc này, hắn chỉ muốn bỏ chạy, thậm chí còn quên cả mình đang làm gì, quên mất tại sao những người kia lại đang đuổi theo mình. Trong đầu chỉ không ngừng tự chất vẫn, không ngừng suy nghĩ: "Mình là quán quân cuộc thì chạy Pakour toàn châu Âu cơ mà, tại sao, tại sao lại không thể cắt đuôi được hai người đó, tại sao chứ?"

Nhà cửa bắt đầu thấp dần, khoảng cách kéo dãn ra, Kalin đạp hai bức tưởng hai bên trái phải, tót lên một sân trời cao chừng năm mét, phóng mắt nhìn ra xa, không khỏi mừng thầm trong bụng: "Đúng là ở đây rồi, chỉ cần đến được đây..."

Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba đã ở sau lưng hắn rồi, nhưng gã không dừng lại mà tung người nhảy vọt qua đỉnh đầu Kalin, chắn ngay trước mặt. Kalin vội vàng xoay người nhìn lại, nhưng Ba Tang cũng đã từ một căn nhà khác nhảy sang, bịt kín lối thoát.

Hai người một trước một sau kẹp Kalin vào giữa, mà cũng chỉ có hai phía ấy là có nóc nhà đẻ nhảy xuống được, hai bên trái phải đều là mặt phố rộng raix. Chiều cao của nhà cao tầng cô lập này chênh lệch những ba bốn chục mét so với các kiến trúc ở hai bên trái phải, mà kết cấu nhà kiểu có sân trời bên ngoài mặt tường này hắn cũng không quen thuộc lắm. Hắn đã bị dồn vào đường chết.

Ba Tang thở hồng hộc, không khí băng lạnh của Moscow ngấm vào tận phổi. Kalin phải chống hai tay vào đầu gối mới đứng vững nổi. Duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba là vẫn ngạo nghễ đứng thẳng. Tuy tim gã cũng bị loạn nhịp mất một lúc, nhưng cách thức hô hấp kỳ lạ kia đã khiến nhịp tim gã trở lại bình thường nhanh chóng ngay sau khi ngừng chạy, không cần hít thở sâu mà cũng không cảm thấy tức thở. Ba Tang nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba. Không thể nào hiểu nổi, chạy như vạy mà không hề thở dốc, trong những người anh ta từng gặp, e rằng chỉ có pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam mới làm được mà thôi. Rốt cuộc bên trong cơ thể Cường Ba thiếu gia đã có biến đổi gì? Lẽ nào, trong khi ăn mòn sinh mệnh, cổ trùng cũng đồng thời mang đến cho anh ta thể năng xưa nay chưa từng có hay sao?

"Chạy đi, sao không chạy nữa?" Biết rõ là đối phương không hiểu, Trác Mộc Cường Ba vẫn lớn tiếng gầm lên như sấm động, nhướn mày lạnh lùng tiến đến.

Tuy nghe không hiểu gì, nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ rồi, Kalin sợ hãi cởi chiếc túi sau lưng ném cho Trác Mộc Cường Ba, đồng thời ôm đầu kêu lên: "Không liên quan tới tôi, tôi không biết gì cả, có người trả tiền thuê chúng tôi làm thôi, không liên quan gì đến tôi cả!" Trước khí thế như hung thần ác sát của Trác Mộc Cường Ba, hắn đã không còn dám phản kháng nữa. Ba Tang cũng vội vàng dịch lại cho gã nghe.

Trác Mộc Cường Ba dường như không hề có ý định buông tha cho Kalin, một tay bắt lấy cái túi đeo vai, chân vẫn sải những bước rộng tiến sát lại gần đối phương, chộp lấy gã thanh niên đáng thương đang run như cầy sấy, đưa lên quá đầu, rồi bước ra ngoài rìa khoảng sân trời, lớn tiếng hỏi: "Kẻ nào sai mày làm? Kẻ nào hả?"

Ba Tang dịch câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba sang tiếng Nga, trong lòng đồng thời cũng lấy làm kinh ngạc, chuyện này hoàn toàn phù hợp với phong cách hành sự của anh ta, nhưng còn, Cường Ba thiếu gia, đây vẫn là Cường Ba thiếu gia đấy chứ? Thời gian họ không gặp nhau đâu có dài, vậy mà Cường Ba thiếu gia trước mắt anh ta tựa hồ đã đột nhiên biến thành một con người khác, thể lực dồi dào, thân thủ mẫn tiệp, tính tình nóng nảy dễ nổi giận hơn trước rất nhiều.

Kalin kinh sợ kêu lên: "Tôi không biết, có người, có người cho chúng tôi khoản tiền, rồi bảo chúng tôi theo hai chú, nói là có một món đồ, chỉ cần cướp về là được, còn đâu tôi không biết gì nữa cả, không biết bên trong cái cặp ấy là thứ gì nữa, thật sự là tôi không biết mà."

Ba Tang dịch lại sang tiếng Trung, Trác Mộc Cường Ba vẫn không tin, gằn giọng hỏi: "Người đó tên gì? Hắn hẹn với chúng mày như thế nào? Gặp mặt ở đâu? Chúng mày có bao nhiêu người? Đang ở đâu?" Gã nhấc Kalin lên lắc mạnh như múa gậy, đến Ba Tang cũng không nhịn được mà lên tiếng khuyên giải: "Cường Ba thiếu gí, Cường Ba thiếu gia! Hắn sắp ngất xỉu mất rồi, mau dừng tay lại! Hắn có phải kẻ thù của chúng ta đâu!"

Trác Mộc Cường Ba nghe vậy thì giật bắn người kinh hãi, vội đặt gã thanh niên đã trợn mắt trắng dã ấy xuống, trong lòng cũng lấy làm bất an, thầm nhủ: "Mình làm sao vậy nhỉ? Cơn giận vừa nãy, không ngờ lại khiến mình không kiềm chế nổi." Gã sửng sốt nhìn đôi bàn tay mình, cảm nhận được một cách rõ ràng, phương pháp hô hấp đặc biệt ấy không chỉ bổ sung thể lực cho mình, mà còn là một sự bổ sung về tinh lực, toàn thân gã đều tràn đầy tinh lực, nhưng đồng thời có một cảm giác thèm khát được phát tiết dấy lên mãnh liệt trong tâm thức gã. Từ sau lần ẩu đả trong quán rượu đó, gã tựa như con sói nếm được máu tanh, lúc nào cũng muốn phát tiết cho trút hết bao bất mãn trong lòng ra, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?

Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn xung quanh. Xa xa có mấy dãy núi nhấp nhô, màu trắng phủ kín khắp mặt đất, thì ra bọn họ đã chạy một mạch từ trung tâm Moscow ra đến tận ngoại ô, bao nhiêu là nhà lầu chằng chịt hỗn tạp như vậy, có đúng là bọn gã vừa chạy vừa nhảy một mạch từ xa như thế ra đến tận đây hay không? Nhưng mà, tại sao, tại sao vẫn cảm thấy không đủ, tinh lực vẫn dồi dào hừng hực, vẫn muốn trút hết ra như vậy nhỉ?

Ba Tang đón lấy chiếc túi, mở ra kiếm tra, đoạn nói: "Đi thôi, lấy được thứ cần lấy rồi, xem ra chúng ta bị người ta để ý rồi, tốt nhất nên về nước cho nhanh mới được."

Lời còn chưa dứt, đã nghe "vù" một tiếng sướt qua tai. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều hết sức quen thuộc với âm thanh này, chính là tiếng đầu đạn xé gió. Hai người vội cúi đầu nhìn ra phía trước. Chỉ thấy phát súng đó đã bắn chết gã thanh niên tên Kalin đang nằm đờ ra không thể cử động kia. Trác Mộc Cường Ba nói: "Mau rời khỏi chỗ này mau, xuống dưới, xuống dưới!"

Hai người rời khỏi khoảng sân trời, nhảy xuống mặt đường. Ngoại ô Moscow vắng lắng như những vùng nông thôn bình thường khác. Rừng bạch kim xa xa phác nên một đường cong màu đen mờ mịt, không thể thấy rõ kẻ địch mai phục ở chỗ nào, cũng không thể biết đạn sẽ bắn từ hướng nào ra, hai người chỉ còn cách cố gắng tìm vật chắn mà lén lút tiến lên. Lúc này họ mới nhận ra, trên đường phố khu ngoại ô này không hề có lấy một bóng người đi lại, cả không gian toát lên vẻ trống trải đến kì dị. Ba Tang nói: "Xem ra, bọn chúng đã có chuẩn bị từ trước, cố ý muốn dụ chúng ta tới đây. Lạ thật, sao chúng có thể chuẩn bị chu đáo thế được nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chắc là từ lúc chúng ta rời khỏi Trung Quốc, không, ngay từ trước khi rời khỏi Trung Quốc, chúng ta đã bị theo dõi rồi. Xem ra bọn chúng vẫn chưa chịu buông, vẫn tin rằng tôi đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Chúng ta sơ ý rồi, đáng chết thật!"

Ba Tang ấn tay lên cán dao găm quân dụng, nói: "Giờ làm sao?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Cẩn thận rời khỏi đây, nếu đến được khu vực nội thành thì chúng không dám làm bừa nữa đâu. Theo lý mà nói, chắc chúng không dám tùy tiện giết chết chúng ta đâu. Có lẽ là sẽ dùng vũ lực để ép chúng ta nhập bọn đó."

"Dùng vũ lực?" Trên gương mặt Ba Tang nở ra một nụ cười lạnh lẽo: "Vậy thì tốt."

Những kẻ ngăn cản nhanh chóng xuất hiện trên phố. Đó là mười mấy tên đô con dữ tướng người Nga, tên nào tên nấy cao hơn mét chín, khoác trên người quần áo mùa đông dày sụ trông lại càng khôi vĩ vạm vỡ, thoạt nhìn cứ như mười mấy ngọn núi nhỏ. Trong đám đô con lực lưỡng ấy, có một cái bóng trông hết sức bé nhỏ, chẳng phải ai khác, mà chính là tên béo người Trung Quốc đã năm lần bảy lượt đến tìm Trác Mộc Cường Ba. Đứng giữa đám đô vật, trông y hệt như một chú lún béo quay như quả bòng, gương mặt mũm mĩm cười tươi như hoa nở. Chỉ nghe y cất tiếng nói: "Không ngờ lại gặp nhau rồi, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh! Ông gạt tôi khổ quá, tôi còn tưởng ông bỏ cuộc thật rồi cơ đấy, những câu chuyện ông kể đó, e rằng cũng chẳng có chuyện gì là thật phải không?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Tôi cũng không ngờ, một người đưa tin lại có quyền lực lớn như vậy, theo đến tận đây, thật là mệt cho ông quá rồi."

Tên béo vẫn chưa bỏ cuộc, lại cất lời khuyên giải: "Tôi không hiểu nổi, tại sao ông lại không nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng tôi chứ? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Hợp tác với chúng tôi đi, đây đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp đó."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu chúng tôi nói không, ông sẽ không để chúng tôi rời khỏi đây đúng không?"

Tên béo lắc đầu nói: "Nếu là như vậy, thì thật đáng tiếc quá." Dứt lời liền vẫy tay làm hiệu, cả đám đô vật sau lưng liền khom người xuống tấn, tư thế như không thể lay chuyển được vậy.

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, ngoài mặt tỏ ra hết sức bình tĩnh, nhưng trong lòng lại trào dâng lên một thứ khát vọng quái lạ. Gã luôn phải dồn nén bản thân, cảnh cáo bản thân, không được khát máu, không được chủ trương bảo lực, không được... Nhưng Ba Tang bên cạnh thì đã không kìm nén nổi nữa, xông thẳng lên trước, quát lớn: "Đánh thì đánh đi, còn lằng nhằng gì nữa!"

Cú đấm đầu tiên của anh ta nhằm vào tên béo hãy còn chưa kịp lùi lại kia, tương thẳng vào mặt hắn. Tên béo đang thương há miệng phun ra hai cái răng to tướng, mũi bẹp dí lệch sang một bên, không thể tóe miệng cười làm bộ hòa nhã dễ gần kia được nữa. Kế đó, Ba Tang lại đạp một cần lên đầu gối một gã đô vật vừa xuống tấn, lộn người trên không trưng tung ra một cú đá móc, gót giày táng mạnh vào cằm tên đo vật. Có điều ưu thế về thể hình của tên đô vật quá rõ rệt, cú đã cực mạnh ấy cũng không thể làm hắn ngã ra được, ngược lại còn tống ra một nắm đấm sắt, hất văng Ba Tang bay ngược trở lại. Ba Tang rơi xuống đất, lăn tròn một vòng rồi lại đứng bật lên, cũng không khỏi đưa tay xoa chỗ mạng sườn bị đấm trúng. Cú đấm ấy cũng thật mạnh, nếu không có lớp quần áo mùa đông dày sụ bên ngoài, chỉ sợ xương sườn đã bị đấm gãy mất rồi. Nhưng chỉ thoắt cái anh ta đã lại xông lên, đối mặt với tên đô vật cao hơn mình cả hai cái đầu mà chẳng hề sợ hãi một chút nào.

Máu nóng sôi lên sùng sục bên trong Trác Mộc Cường Ba. Bàn tay gã đã không tự chủ được mà nắm chặt lại thành quả đấm. Gã đã cố ép mình phải buông lỏng tay ra, nhưng rồi lại nhanh chóng nắm chặt lại, bàn tay hơi run run vì kích động. Như thế này vẫn dễ chịu hơn. Đám đô vật trông thấy tay Trác Mộc Cường Ba run lên, tưởng gã đang sợ hại, liền có hai tên xông tới, một trái một phải làm thành thế gọng kìm, điệu bộ có vẻ rất khinh miệt. Trác Mộc Cường Ba lúc ấy đang suy nghĩ, phát súng trên sân trời vừa nãy chắc là phải bắn từ khoảng ngoài xa năm trăm mét, ở đây chắc cũng không chỉ có mấy tên này, xem ra đối phương đã bố trí thiên la địa võng cả rồi. Thật là, có cần phải làm to chuyện ra thế này không chứ?"

Nắm đấm phải to bằng cái bình bát bay tới, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên khom lưng về phía trước, đầu cúi xuống, tránh khỏi nắm đấm ấy, kế đó chân trái quét ra một đường. Tên đô vật bên phải đứng chưa vững, nã bổ ngửa ra. Tên bên trái vẫn xem thường Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghĩ là đồng bọn bị trượt chân. Không ngờ, ngay sau đó cả người Trác Mộc Cường Ba đã xoay một vòng ngc chiều kim đồng hồ, sức mạnh toàn thân dồn cả vào nắm đấm bàn tay phải, mạnh mẽ lút cả vào cơ thịt tên đô vật ngã ngửa mà chưa chạm đất. Thân thể cao một mét chín, nặng gần 200kg ấy lại bị một cú đấm của gã đánh cho nhảy tung lên. Nương theo đà, tay trái Trác Mộc Cường Ba nâng bổng cả tên đô vật nặng hơn mình gấp bội ấy lên. Nhìn gã lúc này chẳng khác nào một người bình thg, tướng mạo ko có j đặc sắc mà lại nâng bổng được cả một con bò mộng vậy. Đừng nói là cả đám đô vật đều trố mắt ra, thậm chí cả Ba Tang cũng ngây ra trong khoảnh khắc. Anh ta chỉ bíêt Cường Ba thiếu gia rất khoẻ, có lẽ là người có sức mạnh nhất trong đội, nhưng cũng ko thể ngờ, gã lại mạnh đến mức ấy.

Trác Mộc Cường Ba giơ gã đô vật ấy lên quay một vòng, đẩy bật một tên khác lên tăng viện, kế đó liền vung tay ném mạnh, viên đạn thịt khổng lồ lập tức khiến bốn năm tên đô vật ngã nhào. Tên béo mới tỉnh lại sau cơn đau nghiến răng thấu lên tận óc, vừa hay lại trông thấy cảnh tượng ấy, cả người lạnh toát, thầm nhủ, xem ra mình vẫn đánh giá thấp thực lực của đối phương, ko biết có nên quân tử phòng thân, tạm thời rút lui trước hay ko đây?

Trác Mộc Cường Ba đứng sừng sững như trái núi, chẳng buồn đưa mắt nhìn đám đô vật ngã dúi dụi, chỉ liếc xuống cổ tay mình một cái, chính là cảm giác này đây, thân thể gã đang phát ra tín hiệu, nó cần được phát tiết, cần được xả hết ra. Đã nhiều năm nay, gã ko dồn hết toàn lực đấm ra một cú như thế. Cú đấm vừa nãy, cảm giác cũng ko tệ chút nào. Thân hình Trác Mộc Cường Ba chợt nhích động, áp sát tên đô vật bên trái, hơi nghiêng người đi tránh khỏi cú đấm thẳng, eo gập xuống, lại tránh cú đấm móc. Lúc này Trác Mộc Cường Ba đã ở ngay trước mặt tên đô vật cao hơn gã cả một cái đầu kia, một tay chụp lấy thắt lưng, một tay tóm cổ áo, “hầy”, lại một tên đô vật khác bị nhấc bổng trên ko, kế đó, lại là một viên đạn pháo thịt người to tướng ném vút ra.

Cả lũ đô vật đều vô cùng kinh hãi, không ngờ gã đàn ông người Trung Quốc này có sức bật đáng sợ đến vậy. Hai tên đầu tiên vừa có phản ứng, lao thẳng người tới định tông vào Trác Mộc Cường Ba. Hai ngọn núi di động, hai con voi rừng đang chạy sầm sập như điên cuồng, bước chạy sải rộng, làm cả mặt đất cũng chấn động rung lên khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba không lùi bứơc, mà ngược lại còn tiến lên, lao thẳng về hai con thú khổng lồ ấy.

Ba Tang vừa lộn một vòng dưới đất, tránh khỏi cú đấm của một tên đô vật khác, ngoảnh mặt nhìn sang thấy Trác Mộc Cường Ba đang lao vào hai tên đô vật thể hình lớn hơn gấp bội, bèn thầm nhủ: “Rốt cuộc Cường ba thiếu gia muốn làm gì vậy? Kiểu va đập trực tiếp thế này anh ta chả có chút ưu thế hình thể gì cả, huống hồ chúng còn lấy hai chọi một.”

Khoảng cách mỗi lúc một rút ngắn, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đột nhiên quỳ thụp xuống trượt đi trên mặt đất, xuyên qua khoảng trống giữa hai tên đô vật, đồng thời hai cánh tay vươn sang hai bên, chặn đứng hai đôi chân voi, vừa dồn sức vào cánh tay, hai tên đô vật liền tức thì ngã bổ chửng theo thế “chó ăn phân”. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, xách ngược hai cẳng chân lên, tay trái hất, tay phải vung, cả hai con thú khổng lồ liền lập tức lăn lông lốc, đến ở đâu thì quay về đấy.

Trác Mộc Cường Ba ngạo nghễ đứng trong làn gió đêm, chỉ ra một ngón tay lướt trên cả mặt đám đô vật, rồi lớn tiếng nói bằng tiếng Anh:” Tên tiếp theo!”

Âm thành vang trong gió, đám đô vâth chẳng còn tên nào tự nguyện xông lên trước nữa. Trác Mộc Cường Ba hơi cúi đầu, hai mắt sáng rực lên, sắc bén như hai lưỡi dao lướt qua, nhìn xoáy vào cả bọn: “Nếu không ai qua đây, vậy thì…” Thân hình gã đột nhiên tăng tốc, bắn vọt về phía đám đô vật.

Một cánh tay sắt như cốt thép chìa ra khỏi tảng bê tông. Trác Mộc Cường Ba nghiêng người né tránh thế công của đối phương, giẫm chân nhảy vọt lên, bàn chân phải đạp vào đầu gối của một tên đô vật, xoay người tung chân trái đá ngay một cước vào cánh tay vươn ra của hắn, liền sau đó gót chân phải gã lại giật mạnh về sau, trúng mặt một tên khác. Rồi gã lại lùi về một bước, giẫm lên vai tên đô vật, lộn một vòng trên không, thuận tay giật mạnh, bám vào cổ một tên xông tới cứu viện đồng bọn, lợi dụng thế rơi của mình khiến hắn ngã bổ ngửa chổng bốn vó lên trời, kế đó vung tay chặt xuống cổ họng tên đô vật một cái, khiến hắn ta phải đưa hai tay lên ôm cổ một hồi lâu cũng thở không ra hơi. Trác Mộc Cường Ba chạm đất, tay phải chống xuống ấn mạnh, tránh khỏi một cước đạp tới, đồng thời dùng một cánh tay chống đỡ cả người, trồng cây chuối, hai chân liên tiếp đã vào cùng một vị trí bên phải gãy của một tên đô vật bảy phát liền, tuy không đá cho đối phương ngã lăn ra được, nhưng cũng khiến hắn xây xẩm mặt mày, đầu váng mắt hoa.

Kế đó gã đảo người đúng thẳng dậy tức thì bồi thêm một đấm cực mạnh, khiến ten khổng lồ ấy loạng choạng lùi lại mấy bước liền. Chưa hết, Trác Mộc Cường Ba lại phi thên lên tương cho hắn một cước nữa, khiến cả tấm thân kềnh càng ấy rơi thẳng vào trong hốc, đồng thời cũng giải vây luôn cho ba Tang. Thân thể gã lúc này phản ứng nhanh hơn bất cứ lúc nào khác, sức mạnh, cũng lớn hơn bất cứ lúc nào trước đây. Trác Mộc Cường Ba tung hoành đảo lượn giữa một đám khổng lồ cao gần hai mét, xuất kì bất ý, công kỳ vô bị, thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma. Bọn đô vật kia, tên nào tên nấy đều chưa bao giờ gặp phải lối đánh quái dị như vậy, thoắt bên này, thoắt cái đã ở bên kia, vừa mới trông thấy đối phương, thân thể đã dính đòn của gã, nắm đấm của mình vừa vung lên, kẻ địch đã biến mất tăm mất tích, mà nắm đấm của gã người Trung Quốc ấy cũng hết sức quái dị, lúc thì cứng như bê tông cốt théo, trúng phải một đòn mà chẳng khác nào bị xe tông, có lúc nắm đấm ấy lại mềm nhũn vô lực, hoặc về sau mới phát lực, khi bọn hắn định phản kích thì kẻ địch đã mượn sức nắm đấm ấy bật ngc ra xa. Rốt cuộc là tên nào tên nấy đều khoẻ như trâu mộng mà cứ liên tiếp đánh vào khoảng không.

Chân trái Trác Mộc Cường Ba đá trúng mạng sườn một tên đô vật, mượn lực bắn lên, chân phải lại giẫm vào ngực một tên khác. Trước khi nắm đấm của đối phương kịp vung tới, hai tay nắm chặt, đập mạnh xuống đầu một tên đang hùng hục xông đến, rồi lại nương đà đó lộn nhào trên ko, tránh khỏi đòn đánh lén phía sau, nhẹ nhàng hạ xuống mặt đất. Bàn tay gã lơi ra, rồi lại nắm chặt lần nữa, vẫn chưa đủ, hai chân gã giẫm mạnh xuống đất một cái, cả người liền xông thẳng đến như mũi tên rời dây cung. Đảo người đá quét, xông lên xuốn tấn đánh trực diện, xoay ngược người đá lạt, xoay tròn thúc cùi chỏ, nhào phía trước, lộn phía sau, xoay người ba trăm sáu mươi độ, bảy trăm hai mươi độ, một trăm tám mươi độ, vẫn chưa đủ! Hai bàn tay Trác Mộc Cường Ba lúc nắm lúc xoè, xoay ngang xoay dọc, tả xung hữu đột, có những động tác bình thường thậm chí gã còn chẳng nghĩ đến bao giờ, vậy mà trong chiến đấu lại sử dụng hết sức thuần thục mà sảng khoái. Đối với gã, đây gần như đã là một thân thể mới, một cảm giác xưa nay chưa từng có trào dâng lên khắp tâm thức. Những kỹ thuật leo vách đá, trèo tường, đeo trọng vật nhảy nhót, cầm nã thủ, đấu cận chiến, và cả mấy môn gã quen thuộc từ lâu như Thái Cực, Suất Túc, kéo co… tất cả đều dung hợp làm một, trở thành một phương pháp đánh ngã kẻ địch cực kì hiệu quả do gã sáng tạo ra.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: