chuong 4

lin, Link bắt đầu hành động. Mượn ống bễ và bơm nén khí từ xưởng đàn ống của cha, ông tạo ra một thiết bị thu nhỏ lại các thành phần thiết yếu của một máy bay trong khoảng không gian chỉ rộng hơn cái bồn tắm một chút. Nó có đôi cánh ngắn, dày, đuôi nhỏ, bảng điều khiển và một động cơ điện giúp thiết bị đảo cánh, lao xuống và chuyển hướng tương ứng với sự điều khiển của phi công. Một chiếc đèn nhỏ ở mũi thiết bị sáng lên khi phi công mắc lỗi. Link đặt tên cho nó là “Thiết bị đào tạo bay của Link” và đăng quảng cáo: ông sẽ dạy cách bay thông thường và cách bay dựa vào các dụng cụ đo lường – đó chính là khả năng bay khi không nhìn thấy gì trong sương mù và bão, chỉ dựa vào các thiết bị đo. Ông sẽ dạy cho các phi công có thể bay được trong khoảng thời gian chỉ bằng một một nửa phương pháp huấn luyện thông thường và với chi phí thấp hơn.

Phải nói rằng thế giới đã coi thường thiết bị huấn luyện bay của Link một cách thái quá. Thực tế là cả thế giới nhìn thiết bị đó với một lời tuyên bố phũ phàng: “Không.” Không một ai trong số những người Link tiếp xúc tỏ ra quan tâm đến thiết bị của ông – từ các học viện quân đội đến các trường đào tạo phi công tư nhân, thậm chí cả các nhà vận động chính trị. Cuối cùng thì bạn có thể học lái máy bay như thế nào khi ở trong món đồ chơi trẻ con này? Không một nhà chức trách nào ngoài Văn phòng Sáng chế Mỹ tuyên bố “một thiết bị giải trí độc đáo và có ích.” Và thế là thiết bị đó cứ như thể được dành cho giải trí thật. Trong khi Link bán được 15 thiết bị cho các công viên để họ làm máy bay trò chơi bằng tiền xu, chỉ có 2 chiếc đến được với các cơ sở đào tạo thực sự: một cho Trường đào tạo phi công của Hải quân tại Pensacola, Florida và một chiếc được bán chịu cho đơn vị Phòng vệ Quốc gia New Jersey ở Newark. Đến đầu những năm 30, Link phải cho một thiết bị của mình lên xe tải và chở đến bãi họp chợ của hạt để cho thuê với giá 25 xu mỗi lần chơi. Khi hãng vận chuyển thư tín theo đường hàng không Fiasco bị hủy bỏ hợp đồng vào mùa đông năm 1934, một nhóm thuộc Lực lượng Không quân Mỹ đã gần như trở nên tuyệt vọng. Casey Jones, một phi công kỳ cựu, người đã từng đào tạo rất nhiều phi công cho quân đội, nhắc tới thiết bị của Link và thuyết phục một nhóm sỹ quan của Lực lượng Không quân Mỹ xem xét lại vấn đề này. Đầu tháng 3, Link được triệu tập từ nơi ông sống ở Cortland, New York đến Newark để diễn giải về thiết bị huấn luyện mà ông đã bán chịu cho đơn vị Phòng vệ Quốc gia. Ngày hẹn gặp hôm đó có khá nhiều mây, tầm nhìn gần như bằng không, gió lớn và mưa to. Các chỉ huy của Lực lượng Không quân Mỹ, lúc này đã khá quen với những hậu quả có thể xảy ra của những mối nguy hiểm trên, phỏng đoán rằng sẽ không có phi công nào, dù dũng cảm hay thành thạo đến đâu, có thể bay trong thời tiết đó. Họ đang rời khỏi sân bay thì nghe thấy tiếng động cơ ở phía trên những đám mây đang dần dần thấp xuống. Máy bay của Link xuất hiện như một bóng ma, dần hiện ra chỉ cách đường băng vài mét, rồi đáp xuống đất một cách hoàn hảo và lăn bánh về phía các tướng lĩnh đang sững sờ. Anh chàng gầy gò trên máy bay trông không giống Lindbergh nhưng có thể bay như Lindbergh vậy – và chỉ dựa vào các thiết bị đo. Link bắt đầu trình diễn thiết bị của mình, và đây là một trong những trường hợp có ghi chép đầu tiên nói về một thế lực tầm thường đã đánh bại truyền thống của quân đội. Các sỹ quan đã hiểu được những tiềm năng chiếc máy này ẩn chứa. Các vị tướng đã đặt lô hàng thiết bị của Link đầu tiên. Bảy năm sau, Thế chiến thứ II bắt đầu cùng với nhu cầu đào tạo hàng nghìn con người trẻ tuổi không có chút kỹ năng lái máy bay thành phi công càng nhanh chóng, càng an toàn càng tốt. Nhu cầu đó đã được đáp ứng bởi 10.000 thiết bị của Link; và đến cuối cuộc chiến, nửa triệu phi công đã dành hàng triệu giờ trong cái mà họ yêu quý gọi là “Hộp xanh”*. Năm 1947, Lực lượng Không quân Mỹ (USAAC) đổi tên thành Không lực Hoa kỳ (USAF), và Link tiếp tục chế tạo các thiết bị mô phỏng cho máy bay phản lực, máy bay ném bom, và cả một số mô-đun cho tàu thám hiểm mặt trăng Apollo. Thiết bị huấn luyện bay của Edwin Link đã hoạt động hiệu quả bởi cùng một lý do như bạn đã ghi được số điểm cao hơn 3 lần trong bài kiểm tra của Bjork. Thiết bị của Link cho phép các phi công được tập luyện sâu hơn, được dừng lại, nỗ lực, mắc lỗi và học từ những lỗi đó. Khi ở vài giờ trong cỗ máy trên, một phi công có thể “cất cánh” và “hạ cánh” vài chục lần. Anh ta có thể lao xuống, làm máy bay bị chết máy, và phục hồi lại, dành hàng giờ để thích nghi với điểm nhạy cảm tại rìa tới hạn của khả năng theo những cách mà anh ta không bao giờ dám thực hiện trong một máy bay thật. Các phi công của Lực lượng Không quân Mỹ được đào tạo nhờ thiết bị của Link không hề dũng cảm hay thông minh hơn những người đã thiệt mạng trong các vụ tai nạn máy bay. Chỉ đơn giản là họ có cơ hội tập luyện sâu hơn mà thôi. 

Ý tưởng về tập luyện sâu tạo ra quan điểm hoàn hảo khi đào tạo các nghề nguy hiểm như phi công chiến đấu và nhà du hành vũ trụ. Tuy nhiên, sẽ thú vị hơn khi chúng ta áp dụng nó cho những dạng kỹ năng khác. Ví dụ, cho các cầu thủ bóng đá Brazil chẳng hạn. VŨ KHÍ BÍ MẬT CỦA BRAZIL Giống như nhiều người hâm mộ thể thao trên toàn thế giới, huấn luyện viên bóng đá Simon Clifford bị các kỹ năng siêu phàm của các cầu thủ Brazil làm cho mê hoặc. Tuy nhiên, không giống hầu hết những người khác, ông quyết định tới Brazil để xem liệu mình có thể tìm ra phương pháp mà họ đã dùng để phát triển những kỹ năng đó hay không. Một khởi đầu tham vọng, bất thường khác của Clifford. Ông đã tích góp được toàn bộ kinh nghiệm huấn luyện của mình tại một trường tiểu học Công giáo tại một khu vực không phải là mảnh đất màu mỡ cho bóng đá thuộc Leeds, nước Anh. Do đó, Clifford không phải người mà bạn có thể coi là bình thường. Ông cao lớn, đẹp trai và bảnh bao. Từ ông tỏa ra sự tự tin đầy thuyết phục mà người ta thường liên tưởng tới các nhà truyền giáo và các vị hoàng đế. (Vào năm khoảng 20 tuổi, Clifford đã bị chấn thương nặng trong một tai nạn bóng đá kỳ lạ – bị tổn thương nội tạng, cắt bỏ một bên thận – và có lẽ, kết quả là ông sống thêm mỗi ngày với sự nhiệt huyết hơi thái quá.) Mùa hè năm 1997, khi 26 tuổi, Clifford vay 8.000 đô-la từ Hội Giáo viên và tới Brazil với chiếc ba-lô trên lưng, máy quay phim và cuốn sổ tay kín đặc số điện thoại mà ông đã xin được từ một cầu thủ nước này. 

Khi đến nơi, Clifford dành hầu như toàn bộ thời gian để khám phá thành phố São Paolo đông đúc, ban đêm ông ngủ tại những nhà ở tập thể đầy gián, và ông say mê ghi chép hàng ngày. Ông đã gặp nhiều điều mà ông nghĩ là sẽ thấy: sự đam mê, truyền thống, các trung tâm huấn luyện được tổ chức bài bản, các buổi tập luyện nhiều giờ. (Các cầu thủ tuổi vị thành niên tại các học viện bóng đá của Brazil tập 20 giờ một tuần, trong khi ở Anh thời lượng đó chỉ là 5 tiếng một tuần.) Ông nhìn thấy sự nghèo khổ cùng cực của các khu nhà ổ chuột và sự tuyệt vọng trong mắt các cầu thủ. Nhưng Clifford cũng nhìn thấy một điều mà ông không ngờ tới: một trò chơi kỳ lạ. Nó tương tự bóng đá, thứ bóng đá được chơi trong một phòng điện thoại công cộng và các cầu thủ có uống thuốc kích thích. Quả bóng có kích thước bằng một nửa nhưng nặng gấp đôi bình thường; do đó nó khó có thể nảy lên được. Các cầu thủ tập luyện, không phải trên sân cỏ rộng mênh mông, mà một khoảng sân bằng bê-tông và đất bẩn có kích thước chỉ bằng một cái sân bóng rổ. Mỗi bên, thay vì có 11 cầu thủ, chỉ có 5 hoặc 6 người. Trong nhịp độ và tốc độ điên cuồng, trò chơi có vẻ giống bóng rổ hay khúc côn cầu hơn là bóng đá: nó gồm hàng loạt kỹ thuật phức tạp: những cú chuyền bóng nhanh có kiểm soát và hành động không ngừng từ đầu đến cuối. Trò chơi được gọi là futebol de salão, tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa “bóng đá trong phòng”. Hiện thân hiện đại của nó là bóng đá futsal. “Rõ ràng đây chính là nơi các kỹ năng Brazil ra đời,” Clifford nói. “Giống như tìm thấy liên kết còn thiếu vậy.” 

Futsal đã được sáng tạo vào năm 1930 như một phương án tập luyện vào ngày mưa của một huấn luyện viên người Uruguay. Người Brazil nhanh chóng nắm lấy và soạn ra những luật lệ đầu tiên vào năm 1930. Từ đó, trò chơi này đã lan rộng giống như một loại virus, đặc biệt tại những thành phố đông đúc của Brazil, và nó nhanh chóng chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt trong văn hóa thể thao của đất nước này. Những nước khác cũng chơi futsal, nhưng Brazil trở thành nước duy nhất bị ám ảnh bởi futsal, một phần bởi trò chơi này có thể chơi được ở bất cứ nơi đâu (một lợi thế không nhỏ tại đất nước mà sân cỏ rất hiếm). Futsal phát triển để điều khiển những đam mê của trẻ em Brazil theo cách mà bóng rổ kiểm soát trẻ em thành phố ở nước Mỹ. Theo Vicente Figueiredo, tác giả cuốn Lịch sử của Futebol de Salão, Brazil độc chiếm loại hình thể thao này, họ đã thắng 35 trong số 38 giải đấu quốc tế. Nhưng con số đó chỉ gợi ý thời gian, nỗ lực và năng lượng mà Brazil đổ vào trò chơi kỳ lạ “cây nhà, lá vườn” này. Như Alex Bellos, tác giả cuốn Bóng đá phong cách Brazil đã viết, futsal “được coi là vườn ươm của tâm hồn Brazil.” Sự “ươm mầm” này được phản ánh trong tiểu sử của các cầu thủ bóng đá. Từ Pelé trở về trước, gần như mọi cầu thủ vĩ đại nào của Brazil cũng chơi futsal khi còn là một đứa trẻ, đầu tiên là tại khu dân cư họ sống, sau đó là tại các học viện bóng đá của Brazil. Tại đây, trẻ em trong độ tuổi từ 7 đến 12 dành 3 ngày mỗi tuần để chơi futsal. Một cầu thủ Brazil đỉnh cao chơi futsal hàng nghìn giờ đồng hồ. Ví dụ như, Juninho đã từng nói anh chưa bao giờ đá một quả bóng đúng kích cỡ trên sân cỏ trước khi 14 tuổi. Đến năm 12 tuổi, Robinho đã dành một nửa thời gian tập luyện của mình cho futsal.* Giống như một người làm rượu vang nhận ra một giống nho ngon, một người sành sỏi như tiến sỹ Emilio Miranda, giáo sư về bóng đá tại Đại học São Paolo, nhận thấy fulsat gắn liền vớơi từng mánh khóe trong bóng đá của các cầu thủ Brazil nổi tiếng. Kỹ thuật rê bóng elastico của Ronaldinho giống như chơi con lắc yo-yo chẳng đã trở nên phổ biến rồi sao? Nó khởi nguồn từ futsal. Bàn thắng nhờ cú vẩy bóng bằng mũi chân của Ronaldo trong World CupCúp Thế giới 2002 thì sao? Lại futsal. Các kỹ thuật d’espero, el barret và vaselina thì sao? Tất cả đều từ futsal. Khi tôi nói với Miranda rằng tôi hình dung người Brazil sáng tạo ra các kỹ năng khi chơi bóng trên bãi biển, ông phá lên cười. “Các nhà báo thường bay đến đây, đến bãi biển, chụp ảnh và viết nên các câu chuyện. Nhưng các cầu thủ lớn không đến từ bãi biển. Họ đến từ các sân tập futsal.” 

Một nguyên nhân khác thuộc về toán học. Theo một nghiên cứu của Đại học Liverpool, các cầu thủ futsal chạm bóng nhiều hơn rất nhiều so với cầu thủ bóng đá bình thường – nhiều hơn 6 lần mỗi phút. Bóng càng nhỏ, càng nặng càng đòi hỏi những hành động phải chính xác hơn – như các huấn luyện viên đã nói, bạn không thể thoát khỏi vị trí bị kèm chặt bằng cách đá bóng sang phía sân của đối phương. Động tác chuyền bóng sắc nét là tối quan trọng: toàn bộ trò chơi chỉ là tìm kiếm các khe hở và khoảng trống, nhanh chóng kết hợp với các cầu thủ khác. Kiểm soát và quan sát bóng là vấn đề sống còn, đến khi các cầu thủ futsal chơi bóng đá với tất cả các yếu tố đúng tiêu chuẩn, họ cảm thấy như đang có hàng vài héc-ta khoảng trống để thể hiện. Khi quan sát các trò chơi ngoài trời chuyên nghiệp tại São Paolo cùng Tiến sỹ Miranda, ông đã chỉ cho tôi biết cầu thủ nào đã từng chơi futsal: dựa trên cách cầu thủ đó giữ bóng, họ không quan tâm rằng đối thủ đã áp sát đến mức độ nào. Như Miranda tổng kết lại, “không có thời gian và không có không gian tạo ra các kỹ năng tốt hơn. Futsal chính là phòng thí nghiệm quốc gia dành cho sự ứng biến.” Nói cách khác, bóng đá Brazil khác với tất cả các kiểu bóng đá khác trên thế giới, bởi Brazil sử dụng một hình thức thể thao tương đương với thiết bị huấn luyện của Link. Futsal cô đọng các kỹ năng thiết yếu của bóng đá trong một chiếc hộp nhỏ; nó đặt các cầu thủ trong khu vực tập luyện sâu, mắc lỗi và sửa lỗi, không ngừng tạo ra những giải pháp cho các vấn đề diễn ra dồn dập. Cầu thủ chạm bóng nhiều hơn 600% sẽ học được nhanh hơn, mà không hề nhận ra điều đó. Khi chơi trò chơi ngoài trời trong không gian rộng lớn, độ nảy của bóng tốt hơn (tại đó, ít nhất là theo suy nghĩ của tôi, các cầu thủ dẫn bóng cũng giống như Clarissa chơi bản “Sông Danube xanh”). Nói rõ hơn: futsal không phải là nguyên nhân duy nhất khiến bóng đá Brazil trở nên vĩ đại. Các lý do khác thường được nhắc tới – khí hậu, sự đam mê và sự nghèo đói – cũng rất quan trọng. Nhưng futsal chính là yếu tố đòn bẩy mà thông qua đó các yếu tố khác truyền được tác động của mình. Khi Simon Clifford nhìn thấy futsal, ông đã vô cùng phấn khích. Ông trở lại Anh, bỏ việc giảng dạy và lập nên Liên đoàn Futsal Quốc tế tại một căn phòng trống trong chính nhà của mình, phát triển một chương trình bóng đá cho trẻ em lứa tuổi tiểu học và trung học phổ thông mà ông gọi là Trường Bóng đá Brazil. Ông xây dựng một loạt các hình thức tập luyện chặt chẽ, tỉ mỉ dựa trên cách di chduyển của futsal. Các cầu thủ của ông, phần lớn đến từ khu vực nghèo và khó khăn của Leeds, bắt đầu bằng việc bắt chước Zico và Ronaldinho. Để tạo môi trường học tập thật chính xác, Clifford bật nhạc samba từ máy cát-xét. 

Hãy lùi lại một chút và có cái nhìn khách quan với những việc mà Clifford đang làm. Ông đang tiến hành một thí nghiệm để xem liệu nhà máy sản xuất những đôi chân trị giá hàng triệu đô-la của Brazil có thể ghép vào một mảnh đất hoàn toàn xa lạ thông qua trò chơi nhỏ có vẻ như ngốc nghếch này hay không. Ông đang đánh cược rằng chơi futsal sẽ tạo ra một hình ảnh sinh động của phép màu Brazil để nó bám rễ và phát triển tại mảnh đất Leeds đầy bụi bặm và giá lạnh này. Khi người dân của Leeds nghe nói đến kế hoạch của Clifford, họ coi như mình đang được thư giãn nhẹ nhàng. Khi trực tiếp chứng kiến trường bóng đá của ông hoạt động, họ gần như suýt chết vì cười trước cảnh tượng: vài chục đứa trẻ Yorkshire xanh xao, má ửng hồng, cổ rụt lại đang đá những quả bóng nhỏ rất nặng và học những kỹ thuật lạ lùng theo điệu nhạc samba. Chỉ có tiếng cười nhạo, trừ một chi tiết – Clifford đã đúng. Bốn năm sau, đội bóng đá U14 của Clifford đã đánh bại đội tuyển quốc gia U14 của Scotland; đội tiếp tục đánh bại đội tuyển quốc gia U14 của Ireland. Một trong những cậu bé Leeds đó, chàng hậu vệ có tên Micah Richards, hiện đang chơi cho đội tuyển quốc gia Anh. Trường Bóng đá Brazil của Clifford đã được mở rộng tới vài chục quốc gia trên thế giới. Clifford nói rằng ngày càng có nhiều ngôi sao đang bắt đầu tỏa sáng. 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #code#matma