Chương 8: Ngọn Đèn Giữ Hồn Cháy Suốt Trăm Năm
Hố địa ngục, cách chỗ chúng tôi dựng lều trại chỉ chừng vài trăm mét, đến bên rìa nhìn xuống là thấy một cái hồ hình tròn lõm sâu dưới mặt đất vài chục mét. mặt nước xanh thẫm, không biết sâu bao nhiêu.
John và Lôi Mông Đa hào hứng vỗ tay đen đét, hô lên rầm rĩ:
- Cổ quá, cổ quá!
Tiền bốn măt lại tỏ ra điểm tĩnh hơn nhiều.
- Cái này là hố địa ngục à? - Tôi hỏi Tiền bốn mắt
Tiền bốn mắt gật đầu, rồi đưa tay chỉ sang phía bên kia hồ, nơi đó có một cái hang đá vôi rất lớn:
- Lát nữa chúng ta vào trong hang xem thử...
- Bên trong có gì thế? - Đại sư huynh Trương Nhất Đao tò mò hỏi.
- Bên trong có văn hoá... của một nghìn năm trước... - Tiền bốn mắt trả lời.
- Gì cơ? - Đại sư huynh Trương Nhất Đao học hành chẳng mấy, chỉ biết viết mỗi cái tên Trương Nhất Đao của mình, tôi đoán ngay cả chữ đồ tể chắc cũng không biết viết, vì vậy không thể nói về văn hoá với anh ta.
- Tức là người thời xưa... đã từng sống ở đây, chúng ta vào trong đó khảo sát những thứ mà họ để lại... - Tiền bốn mắt vội giải thích.
- Thế thì có cái quái gì để khảo sát? - Trương Nhất Đao lừ Tiền bốn mắt một cái.
- Những thứ đó đáng giá lắm đấy, một cái bát cũng bán được mấy chục nghìn. - Lý Bưu ở sau lưng lạnh nhạt buông một câu.
- Thì ra là như vậy! Tôi đã nói rồi mà, vung tay hào phóng thuê nhiều người đến thế, té ra là ở đây có báu vật đáng tiền! - Đại sư huynh Trương Nhất Đao như đột nhiên choàng tỉnh.
- Chúng tôi đến đây là để khảo sát khoa học! - Tiền bốn mắt vội phân trần.
- Tức là mang những thứ đáng giá kia bán lấy tiền! -Đại sư huynh đốp một câu.
Tôi sợ đại sư huynh còn nói thêm những lời khó nghe nữa, vội đưa tay giật giật vạt áo anh ta. Đại sư huynh liếc tôi một cái, mới sực nhớ ra mục đích chuyển đi lần này của chúng tôi, nên không nói gì thêm nữa.
- Các anh ai muốn vào trong hang trước? Tống Đại Phúc đưa tay chỉ vào cửa hang trên vách đá.
Mọi người nhìn mặt nước thẫm xanh như mực, lạnh lẽo rợn người, lại thêm không biết trong hang có thứ gì, không ai lên tiếng. Tôi liếc nhìn Tiên bốn mắt, chỉ nói ngắn gọn:
- Tôi đi!
- Tôi cũng đi! - Đại sư huynh và nhị sư huynh đương nhiên muốn đi cùng tôi.
Tống Đại Phúc cười tít mắt , lão rất hài lòng với biểu hiện của tôi.
Rất nhanh, đã có cả chục người đồng ý vào trong hang thăm dò, Tiền bốn mắt, giáo sư John, Lý Bưu, Đại Trang Tiểu Bân... Nhưng tốp đầu tiên chỉ cho phép tám người vào trong, vì chúng tôi chỉ có hai chiếc thuyền cao su, mỗi chiếc chở được có bốn người.
Tôi và Lý Bưu, Tiền bốn mắt, đại sư huynh cùng ngồi trên một chiếc thuyền cao su, giáo sư John, nhị sư huynh, Đại Trang, Tiểu Bân bốn người ngồi trên chiếc thuyền cao su còn lại. Ba người Lý Bưu, Đại Trang, Tiểu Bân đều mang theo súng tiểu liên, mỗi người mang ba hộp đạn. Tôi không biết bên trong sẽ có gì nguy hiểm mà phải mang theo cả súng tiểu liên như thế.
Cửa hang rất lớn, hai chiếc thuyền cùng song song chèo vào. Càng đi vào trong, hơi lạnh lẽo càng tê tái, cũng mỗi lúc một thêm tối tăm, có cảm giác vách núi bất cứ lúc nào cũng có thể đè sập xuống đầu.
Trên đầu mỗi người chúng tôi đều có một ngọn đèn thợ mỏ, nhưng để tiết kiệm pin, lúc này trên mỗi thuyền chỉ có một chiếc đèn còn sáng. Chẳng mấy chốc, Tiền bốn mắt đã réo lên hớn hở:
- Đến rồi...
Một nền đá bằng phẳng rộng mười mấy mét nhô lên khỏi mặt nước khoảng hơn một thước hiện ra trước mắt. Hai con thuyền cùng cập vào, tôi và Lý Bưu nhảy lên trước, đầu tiên phải kéo dây thừng buộc con thuyến vào mỏm đả. Tôi thấy một tảng đá có thể buộc dây thừng, định phạt vẹt một miếng trên tảng đá để tiện buộc dây. Tôi thành thục vung rìu, xoay sóng rìu đập vào mép tảng đá. Rìu giáng xuống, “chát” một tiếng, một mảng đã rơi xuống, nhưng cả lưỡi rìu của tôi lại bắn vọt đi, "bõm” một tiếng rơi lọt thỏm xuống mặt nước đen ngòm. Trong tay tôi chỉ còn trơ lại cái cán gỗ.
Tôi sững người, thầm nghĩ chuyện này thật quái đản. Nhưng không có ai nhìn thấy.
Đại sư huynh cũng đã nhảy lên, tay cầm sợi thừng đưa cho tôi, tôi bèn buộc chặt lại. Mọi người lần lượt nhảy lên, phóng mắt nhìn vào trong, cách đó chừng mười mấy mét xuất hiện một cánh cửa.
Nói chính xác hơn, đó không phải là một cánh cửa, mà là một tấm chăn che trước một cửa hang. Rất rõ ràng, trước kia từng có người ở đây.
Mọi người lập tức phấn khởi thấy rõ.
Lý Bưu sải vài bước đã chạy đến nơi. Tay vừa chạm phải, bỗng "soạt soạt soạt", cả tấm chăn vụn nát thành trăm nghìn mảnh, rơi lả tả xuống trước mặt Lý Bưu, khiến hắn hoàng hồn lùi liền mấy bước. Thì ra do tấm chăn quá cũ kỹ, đã mục nát từ lâu, vừa có ngoại lực tác động vào, lập tức mủn nát.
Đèn thợ mỏ chiếu vào, chỉ thấy bên phài chồng chất hàng đống bạc trắng và vàng, bên trái là cung tên, đao cong sáng loáng, mảnh vụn da dê rải rác đầy mặt đất. Hiển nhiên, năm tháng lâu đời, những chiếc túi da dê đựng vàng đựng bạc kia đã mục nát như cám.
- Ôi! Ngọn roi của thượng đế! - John thốt lên kinh ngạc
- Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi! - Lý Bưu, Tiến bốn mắt, Đại Trang, Tiểu Bân cùng reo hò sung sướng.
Chỉ có tôi, đại sư huynh và nhị sư huynh là không có phản ứng gì, vì đấy không phải thứ chúng tôi muốn tìm. Vàng bạc đầy đất, đối với chúng tôi, cũng chắng khác gì đá sỏi.
John vừa giơ máy ảnh chụp lia lịa, vừa nói với Tiền bốn mắt:
- Anh Tiền, không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là cánh quân tây chinh người Mông Cổ, không may đi nhầm vào khe chết chóc, rồi cất giấu những vàng bạc cướp được ở nơi này...
Tiền bốn mắt cũng vô cùng kích động:
- Đúng vậy! Đám cung tên, đao cong, da dê nát vụn đã đủ để chứng mính, lời ngài nói hoàn toàn chính xác!
Lý Bưu và Đại Trang đã xộc vào trong từ nãy, tham lam vơ lấy những thỏi vàng, không muốn buông tay.
Tiền bốn mắt rất mực điềm tĩnh, nói với bọn họ:
- Anh hãy cầm một thỏi vàng ra trước, đưa cho sếp Tống xem…
- Được! - Lý Bưu và Đại Trang leo lên thuyền cao su chèo ra phía ngoài.
Đại sư huynh chẳng buồn để mắt đến vàng bạc, anh ta nhặt một cây đao cong lên, giơ ngay trước mắt, rồi buột miệng kêu lên một tiếng :
- Đao tốt!
- Đại sư huynh, dao của anh là dao giết lợn, giết dê, còn đao ở đây là đao giết người… - Tiên bốn mắt nói.
- Con dao của tôi cũng từng giết người rồi đấy! - Đại sư huynh hậm hực.
- Con dao của anh chưa giết nhiều người bằng những cây đao này. - Tiền bốn mắt nói - Tôi đoán rằng, mỗi một cây đao ở đây đã giết không dưới một trăm người...
- Nhiều thế cơ à? -Đại sư huynh hít ngược một hơi khí lạnh.
- Anh có biết người Mông Cổ đã giết bao nhiêu người không? - Tiền bốn mắt hỏi vặn lại.
- Bao nhiêu? - Đại sư huynh hấp tấp hỏi.
- Hai trăm triệu! - Tiền bốn mắt gằn mạnh từng chữ.
- Hai trăm triệu là bao nhiêu? - Đại sư huynh chẳng có khái niệm gì về hai trăm triệu, đưa con mắt ngơ ngác nhìn tôi - Này Vẹo, hai trăm triệu là bao nhiêu?
- Nhiều lắm! - Nếư như mỗi ngày anh giết mười nghìn người, thì phải giết tới hai mươi nghìn ngày, cũng chính là năm mươi lăm năm. Tôi giúp anh ta tính toán qua loa.
- Ôi cha mẹ ơi! - Đại sư huynh kinh hãi kêu lên - Đúng là có hơi nhiều thật…
- Ở đây có một cánh cửa! - Tiểu Bân đang múa máy chân tay trong đống vàng bạc, đột nhiên phát hiện ra trên vách đá có một cánh cửa được đóng bằng gỗ, liền đưa chân đá một cái.
"Roác!" Cánh của lập tức vỡ tan tành.
- Á... - Tiểu Bân rú lên thảm thiết , ngã ngửa xuống đất. Trước ngực hắn cắm ba mũi tên, ngập đến nửa thân tên, trên cổ lại một mũi, cơ thể hắn lập tức co giật rùng rùng.
- Có cặm bẫy... - Tôi hét lên, mấy người đều dạt sang bên cạnh theo phản xạ.
Từ trong có họng Tiểu Bân bật ra những tiếng kêu rên tuy khẽ nhưng vô cùng khủng khiểp, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp chặt lấy cổ hắn. Những ngọn đèn thợ mỏ của chúng tôi đều chiếu cả vào hắn.
Máu chảy ra từ cổ họng hắn, lại có màu đen.
- Mũi tên có độc! - Tiền bốn mắt lập cập đấy gọng kính lên.
Thân xác Tiểu Bân đã bất động, rồi cẳng chân duỗi thẳng, thế là rồi đời!
- Chết rồi, chết nhanh quá! - Đại sư huynh lẩm bẩm. Tôi ngẩng đầu nhìn vào trong, trong lòng thốt lên mừng rỡ, vì tôi đã nhìn thấy ánh đèn…
John, Tiền bốn mắt, đại sư huynh, nhị sư huynh cùng kêu lên kinh ngạc.
- Tắt đèn đi! -Tôi quát lớn.
Tất cả đèn thợ mỏ đến tắt phụt, chỉ thấy cách đó không xa, một ngọn đèn đang lặng lẽ cháy, chiếu sáng trong bóng tối mịt mù.
.- Đèn vĩnh cửu, đèn vĩnh cửu, đèn vĩnh cửu… Cuối cùng tôi cũng đã phát hiện ra kỳ tích lớn thứ mười trên thế giới, kỳ tích này là có thật… - John chụp ngay lấy Tiền bốn mắt đang đứng bên cạnh, kích động đến nhảy cẫng lên.
- Vẹo ơi, đúng là đây rồi! Đúng là đây rồi! - Đại sư huynh và nhị sư huynh cùng reo lên hớn hở.
Tôi lao vọt luôn vào trong, quên bẫng luôn chuyện Tiểu Bân vừa chết vì trúng tên độc từ cạm bẫy, tôi chỉ muốn đến ngay chỗ ngọn đèn vĩnh cửu để xem xem dưới đó là gì, tôi chỉ muốn cứu Lâm Tiểu Ngộ, mà quên bẫng tất cả.
- Nguy hiểm... - John kinh hãi rú lên.
Nhưng tôi đã lao vào trong mất rồi. Không hề có cạm bẫy. Đại sư huynh và nhị sư huynh cũng định xông vào, nhưng nghe thẩy tiếng rú của John, lập tức khựng lại. Lúc này, tôi cũng thình lình bừng tỉnh, vội vã quay đầu hét lên với đại sư huynh và nhị sư huynh:
- Hai anh đừng vào… để tôi nhìn kỹ đã...
Tôi bật đèn thợ mỏ lên, phát hiện ra bên trong là một lòng hang không lớn, chỉ sâu chừng năm mét, rộng chừng ba mét. Trên vách đá có một khám thờ, trong khám thờ là ngọn đèn đang cháy, dưới khám thờ chỉ có một chiếc ghế, trên chiếc ghế có một người nữa nằm nửa ngồi, quần áo quấn chặt lấy thân, khuôn mặt trắng như tờ giấy, mở trừng hai con mắt lạnh lẽo rùng rợn.
Tôi giật bắn mình.
Nhưng rồi tôi nhanh chóng trấn tĩnh lại. Tôi từng cùng ông ngoại đitrong quen tủ yh cùng ỏng ngoại đi đào mộ, xác chết trong quan tài vẫn tươi như người sống. Nhưng người này rõ ràng đã chết nhiều năm, nhưng thi thể không hề thối rữa, mà khô quắt lại.
Tôi lập tức nhớ tới ông ngoại, ông ngoại cũng đặt một chiếc ghế bên cạnh quan tài bà ngoại. Sau khi ông chết, tôi đã đặt ông lên chiếc ghế, cũng không khác là bao so với cái xác khô
Tôi lại nhìn chiếc ghế, cũng na ná như chiếc ghế của ông ngoại, đều là vài thanh gỗ sơ sài đóng thành.
Lẽ nào đây là một tiền bối đồng nghiệp?
Tôi nhìn lên khám thờ, lập tức khẳng định được, đây đích thực là một vị đồng nghiệp. Vì ở giữa khám thờ là một ngọn đèn, bên cạnh còn đặt hai món đồ lề: một chiếc rìu và một cây thước thẳng. Đây gần như là những đồ lề mang tính tượng trưng cho giới thợ mộc chúng tôi.
- Tiền bối, đệ tử không có ý mạo phạm, chỉ vì muốn cứu bạn gái, nên mới đến quấy nhiễu sự thanh tịnh của tiền bối, xin lão đại nhân rộng lượng bỏ qua! - Tôi cung kính chắp tay vái cái xác khô ba vái, rồi mới bước từng bước lại gần. Khám thờ dày chừng hai ba tấc, rộng chừng ba thước, nhô ra khỏi vách đá khoảng bốn thước, còn cái xác khô ngồi phía dưới khám thờ khoảng một thước.
Lăn dù cách một lớp đá, nhưng tôi vẫn cảm giác được ánh mắt lạnh lẽo âm u của cái xác khô đang dõi theo tôi.
Cây đèn trên khám thờ to bằng miệng bát, bên trong chứa đầy một thứ dầu đen sì sì, ở giữa là một sợi bấc to cỡ ngón tay, ánh đèn bằng hạt đậu, nhưng qui lạ ở chỗ, vẫn có thể soi rõ mồn một cảnh tượng xung quanh.
Tôi thấy cây đèn có vẻ như được làm từ đất bùn, hoặc là một nguyên liệu nào đó mà tôi không biết, hình dạng cũng hao hao như ngọn đèn mà ông ngoại thắp trước quan tài mẹ tôi. Hơn nữa, trên mép ngoài của cây đèn còn có vài ký hiệu, nhưng tôi chẳng nhận ra được cái nào.
Tôi nhìn kỹ lại, có bảy ký hiệu, giống như thứ văn tự thời cổ đại.
Tôi lại nhìn cây rìu ở trên khám thờ, rồi không hiểu tại sao, tự nhiên tôi lại đưa tay ra cầm lấy. Lưỡi rìu rộng một thước, hàn quang lấp loáng, thân rìu chừng tám tấc, đen bóng, cẫn gỗ dài chừng ba tấc. Mặc dù thoạt nhìn có vẻ đã rất lâu đời, nhưng trên cán gỗ không hề có dấu hiện mục nát.
Bên cạnh là một cây thước, một cây thước một thước bốn tấc tư đúng tiêu chuẩn, được làm từ gỗ, dày chừng nửa phân, cầm trong tay có cảm giác vô cùng quen thuộc.
Tôi nghĩ, chiếc rìu của mình đã rơi mất rồi, vừa hay có cây dìu này để sử dụng, bèn giắt luôn vào thắt lưng, tay còn lại cầm thước gỗ, lúc này tôi mới nhớ tới lời của Lâm Tiểu Ngộ: Nghìn dặm về tây, dưới chân núi thần, cảnh cửa địa ngục, một ngọn đèn cháy suốt nghìn năm... Tiếp đó, rõ ràng nàng vẫn còn lời muốn nói, nhưng chưa kịp nói ra, vậy thì, nàng muốn nói tiếp điều gì đây?
Tôi đang mải suy nghĩ, John đã đi tới bên cạnh tôi, vừa giơ máy ảnh chụp ngọn đèn, vừa lẩm nhẩm một cách xúc động:
- Kỳ tích, kỳ tích, đúng là kỳ tích! Tôi đã tìm thấy một trong mười kỳ quan của thế giới…
- Ngọn đèn này có gì bí mật nhỉ? - Tôi đang khổ sở suy nghĩ tìm câu trả lời, thấy ông ta kích động như vậy chắc hẳn là phải biết nhiều hơn tôi, nên tôi hỏi John.
John đáp:
- Thei ghi chép của các nhà sử học, trên cổng miếu thần Mặt Trời ở Ai Cập có thắp một ngọn đèn, không cần thêm bất cứ nhiên liệu nào, bất kể mưa gió sấm chớp ra sao, cũng không bao giờ tắt, nhưng về sau lại bị một gã lính dốt nát dùng tên bắn rụng.
Vào năm 1400 sau Công nguyên, một toán trộm mộ đã mở phần mộ của quốc vương La Mã cổ đại Pallas, phát hiện bên trong có một ngọn đèn với nắp chụp pha lê vô cùng tinh xảo, đặt trong một chiếc bát gốm, trong bát chứa đầy một chất lỏng màu đen, ngọn đèn đã cháy trong hầm mộ suốt hơn hai nghìn năm...
Năm 1534 sau Công nguyên, vua nước Anh Henry 8 đã mở phần mộ của cha hoàng đế La Mã Constantine, phát hiện bên trong có một ngọn đèn còn đang cháy sáng, ngọn đèn này đã cháy suốt một nghìn hai trăm năm.
Năm 1540 sau Công nguyên, giáo hoàng La Mã Paul đệ tam đã mở phần mộ của con gái chính trị gia La Mã cổ đại Cicero, phát hiện ra trong mộ có một ngọn đèn đã cháy suốt một nghìn năm trăm tám mươi tư năm.
Johhn kể lể một thôi một hồi làu làu như cháo chảy, rồi nghiêm trang nói tiếp:
- Nhưng tất cả đều chỉ là truyền thuyết, hoặc là ghi chép trên sách vở, không hề có vật thực để lại, nên không thể chứng minh về sự tồn tại của đèn vĩnh cửu. Hôm nay, tôi đã có thể chứng minh đèn vĩnh cửu thực sự tồn tại… Ngọn đèn này, chí ít cũng đã cháy bảy trăm năm mươi đến tám trăm năm rồi … Anh nói xem, một ngọn đèn, trong tình trạng không hề được thêm bất cứ nhiên liệu nào, mà vẫn có thể cháy suốt tám trăm năm, anh có thế tưởng tượng được một kỳ tích như thế không?
Tôi lắc đầu. Tôi chẳng hề quan tâm tới khảo sát khoa học, tôi chỉ quan tâm đến người con gái của tôi, tôi đang nghĩ làm thế nào mới có thể mang được ngọn đèn kia đi đây? Nhưng bên ngoài, toàn bộ đều là người của Tống Đại Phúc, ít nhất cũng đển mười mấy khẩu súng, phải đối phó vởi họ thế nào?
- Đèn vĩnh cửu còn được gọi là đèn giữ hồn, thông thường, loại đèn này xuất hiện bên trong phần mộ của người chết, đúng là kỳ tích! Thật khiến người ta khó lòng tin nổi... - John còn đang chụp ảnh tanh tách, bỗng từ bên ngoài vọng lại những tiếng kêu rú vô cùng khủng khiếp.
Tôi quay ngoắt đầu lại, chỉ thấy đại sư huynh và nhị sư chạy trở ra, nhoáng cái đã hùng hục chạy vào, hét lớn:
- Vẹo, đi mau, đi mau... - Giọng họ sợ hãi cuống cuồng. Đại sư huynh và nhị sư huynh đều là những kẻ không sợ trời không sợ đất, nếu như không phâi sự việc cực kỳ nguy cấp, họ tuyệt đối sẽ không hoảng loạn đến vậy.
Tiền bốn mắt cũng kinh hoàng tột độ, gào lên rối rít:
- Anh Vẹo, giáo sư, đi mau...
John đột ngột giơ tay ra, nắm lấy cây đèn. Bàn tay vừa nhấc ngọn đèn lên, tôi lập tức cảm thấy phía dưới rung chuyển, phiến đá thình lình bật ngược trở lên, đập thẳng vào cánh tay giáo sư John. Ngọn đèn bị quật bay vọt lên không, lóe lên một cái, rồi rơi thẳng xuống đất, "choang" một tiếng, vỡ thành trăm mảnh.
Cùng lúc đó, chúng tôi cảm thấy mọi thứ đang rung chuyển dữ dội, giống như trời đất đảo điên, không thể đứng vững. Tôi ngã dúi dụi xuống đất, cảm giác thấy bên cạnh có một thân người lăn long lóc tới, đưa tay sờ thử, là một thi hài lạnh toát, cứng đờ đờ.
Thứ tôi mò phải, chính là bàn tay của cái xác chết khô, vị tiền bối đông nghiệp của tôi.
Trên bàn tay còn nắm một vật, một cuộn gì đó hình tròn, dài chừng bốn năm tấc, to cỡ chén rượu, chạm vào cảm giác hơi mềm mềm.
Tôi chẳng kịp nghĩ nhiều, tiện tay rút luôn ra, nhét vào trong túi áo.
Cơ thể tôi bị một cánh tay to tướng nhấc bổng lên, không cần nói cũng biết là nhị sư huynh Ngưu Thợ Đá của tôi. Anh ta một tay xách tôi, một tay xách giáo sư John, xoạc cẳng lao vọt ra ngoài. Đại sư huynh đã đứng trên con thuyền cao su, Tiền bốn mắt ngồi sụp trên đó, mặt mũi tái xanh tái xám. Bên tai nghe có tiếng sóng vỗ oàm oạp.
Mặt hồ lúc nãy còn phẳng lặng là thế, bây giờ sóng lớn cuồn cuộn…
Tôi cũng đã lấy lại bình tĩnh, ba huynh đệ chúng tôi chèo thuyền trối chết, con thuyền cao su lao đi như bay.
Phía trước mỗi lúc một sáng rạng, hiện lên trước mắt chúng tôi là một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, nước hồ phun trào cuồn cuộn lên cao, sắc nước khi nãy còn xanh thẫm giờ đã đỏ rừng rực như máu tươi…
Chính giữa mặt hồ, một con thuyền cao su lật sấp. Một cái bè bằng gỗ và mấy bộ quần áo nổi lều bều trên mặt nước, lộn nhào theo sóng. Trên bờ hồ xa xa là đám người của đội khảo sát, đang cuống quýt gào thét om sòm.
Đại sư huynh và nhị sư huynh dốc hết sức chèo thuyền, tôi quay đầu lại nhìn, thấy sau lưng một con sóng khổng lồ đang vọt thẳng lên không, hệt như một giống ác ma đang há ngoác cái miệng rộng khủng, đuổi sát theo con thuyền của chúng tôi. Chúng tôi đã sắp sửa bị nó nuốt chửng đến nơi. Tuy nhiên, con sóng khổng lồ trỗi dậy cũng đồng thời đẩy thuyền của chúng tôi lao về phía bờ như tên bắn.
Cuối cùng, con thuyền cao su của chúng tôi đã bị sóng hất đến rìa bờ. Đại sư huynh và nhị sư huynh cùng xoạc cẳng nhảy vọt lên trên, tôi, Tiền bốn mắt và giáo sư John bị con thuyền lật úp chụp kín ở rìa bờ.
Con sóng dữ đẩy lên rồi giật xuống, con thuyền lại bị ngược trở lên. Tôi tung chân đá văng con thuyền, giơ tay chụp lấy Tiền bốn mắt. Tiền bốn mắt và giáo sư John đang ôm cứng lấy nhau, trượt xoành xoạch xuống dưới!
Bàn tay còn lại của tôi nắm chặt lấy một mòm đá, ba người chúng tôi treo lủng lẳng trên đó.
Lại thêm một con sóng khổng lồ ập tới. Đúng vào khoảnh khắc đó, đại sư huynh đã chộp được tay tôi, vận sức lực sĩ, kéo thật lực lên trên, lôi tuột cả ba người chúng tôi bay lên hai mét. Mặc dù con sóng đã đập lên ba người chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn không bị sóng cuốn xuống hồ.
Nhị sư huynh cũng lao đến, xách ngược Tiền bốn mắt và giáo sư John ném thẳng lên trên. Trên tay tôi không còn người nữa, nhẹ nhõm hơn nhiều, vội vàng nhảy vọt lên bờ, thế là an toàn...
Nước hồ vọt lên cao đến một hai trượng, giống như phía dưới có một con yêu quái khổng lồ đang khuấy đảo.
Trong không khí sặc sụa một thứ mùi xóc mũi.
- Núi lửa sắp phun rồi, chạy mau! - Giáo sư John hét lên thất thanh. Chúng tôi đều ù té chạy, phía sau có tiếng nổ uỳnh uỳnh, một luồng sóng bỏng rát ập thắng đến sau lưng...
Chúng tôi vắt chân lên cổ chạy một mạch vài trăm mét mới dám quay đầu nhìn lại, chỉ thấy giữa hồ có một cột nước đỏ rừng rực phun thẳng lên trời, như thọc cả vào mây, sau đó toé ta, rơi rào rào xuống, khắp bầu trời một màu đỏ rực...
Lẽ nào cái hố địa ngục kia chính là một miệng núi lửa?
Mặt đất rung lắc dữ dội, từ phía dưới vọng lên tiếng rạn nứt nghe rất khủng khiếp, những ngọn núi ở phía xa theo nhau đổ xuống ầm ầm.
Động đất!
Tất cả mọi người rúm lại với nhau trong cơn kinh hoàng tột độ, may mà chỗ chúng tôi đang đứng là mặt đất bằng phẳng, đá tảng, đất bùn đổ xuống từ các sườn núi hai bên không làm tổn thương đến chúng tôi.
Mười mấy phút sau, vùng núi lại trở về với tĩnh lặng.
Tôi trèo lên một chỗ tương đối cao, nhìn về phía cái hồ vừa nãy, nó gần như đã bị lấp kín bởi đất đá lở xuống từ hai bờ...
Mọi người trở về nơi cắm trại. Khu lều cũng được dựng ở nơi đất bằng phẳng rộng rãi, nên lều trại, thực phẩm vẫn còn nguyên, nhưng hơn chục con ngựa đều đã sợ hãi bỏ chạy hết sạch.
Tống Đại Phúc vẫn cười, nhưng lão cười còn khó coi hơn cả khóc, than thở không ngớt miệng:
- Lần này lỗ to rồi, lần này lỗ to rồi...
Lúc này, chúng tôi mới biết, sau khi Đại Trang và Lý Bưu trở ra, Đại Trang đã kết thêm một chiếc bè gỗ, muốn đưa thêm người vào trong hang, nhưng mặt hồ bỗng cuộn sóng lớn, ngả màu đỏ rực, một con thuyền cao su và chiếc bè gổ bị lật nhào, tất cả mọi người trên đó đều rơi xuống nước, không ai ngoi được lên bờ...
Tiền bốn mắt thoát chết trong gang tấc, vẫn chưa thể hoàn hồn. Giáo sư Lôi Mông Đa tìm cho John một chiếc áo khoác khác để thay. Giản sư John lắc đầu liên tục, không ngớt thở ngắn than dài.
- Giáo sư, trong đấy có gì thế? - Giáo sư Lôi Mông Đa cất giọng quan tâm.
- Vàng bạc nhiều không đếm xuể... Những thứ này đều không đáng tiếc, đáng tiếc nhất là tôi đã phát hiện ra một ngọn đèn đã cháy suốt tám trăm năm… - Giáo sư John đau xót kể lại.
- Cái gì? Một ngọn đèn đã cháy suốt tám trăm năm? - Giáo sư Lôi Mông Đa kinh ngạc hỏi lại.
- Đúng! - Giáo sư John gắng trấn tĩnh lại- Những tư liệu trước đây chúng ta có được, tất cả đều là truyền thuyết, hoặc là ghi chép trong sách vở, không hề có vật thực lưu lại, không thể chứng minh trên thế giới này liệu có ngọn đèn cháy hàng trăm năm, hàng nghìn năm hay không. Hôm nay, tôi đã tận mắt nhìn thấy, tôi đã có thể chứng minh, trên thế giới này thực sự tồn tại ngọn đèn có thể cháy hàng trăm hàng nghìn năm. Nhưng thật đáng tiếc, cây đèn bỗng nhiên vỡ vụn, giống hệt như những lần phát hiện trước đây, mặc dù đã tìm ra đèn vĩnh cửu, nhưng lần nào cũng xảy ra những việc bất ngờ, khiến cây đèn bị phá huỷ...
- Ngài chắc chắn là đèn đã vỡ? - Lôi Mông Đa vội hỏi.
- Chắc chắn, tôi nhặt được mấy mảnh... - Giáo sư John móc ra mấy mảnh vụn màu đen, to bằng móng tay từ trong túi ra, bên trên dính đầy một thứ chất lỏng đen quánh, ánh mắt của ông ta loé lên những tia sáng kỳ dị - Chúng ta mang những thứ này về, với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay, rất có thể sẽ xác định được vật liệu làm đèn và dầu đốt. Khi đó, chúng ta sẽ có thể vén lên những bí mật về đèn vĩnh cửu...
Trong lúc hai người họ trò chuyện, tôi và đại sư huynh, nhị sư huynh ngồi bệt trên đất nghỉ ngơi. Tôi nghe rất rõ cuộc trò chuyện giữa họ, hơn nữa, tôi còn cảm giác được giáo sư Lôi Mông Đa thi thoảng lại liếc trộm chúng tôi.
Tôi vô thức sờ tay vào thứ ở trong túi, bây giờ tôi vẫn chưa biết nó là thứ gì. Đương nhiên, tôi tuyệt đối sẽ không giao nó cho họ.
Tôi nghĩ, chúng tôi đã đến lúc phải trở vê.
Quả nhiên, Tiền bốn mắt đã giơ chiếc loa lên, hô lớn:
- Mọi người chuẩn bị thu dọn đồ đạc, trở về theo đường cũ!
Trong lúc thu dọn lều trại, tôi nhìn qua một lượt, phát hiện đội của chúng tôi chỉ còn khoảng hơn sáu chục người.
Trên đường trở về, mọi người ai nấy đều nóng ruột chỉ muốn đi thật nhanh, chắng ai nói câu nào, nhưng vẻ hưng phấn vẫn bừng bừng trên từng nét mặt. Dù sao cũng vừa trải qua một kiếp nạn sinh tử, có thể sống sót trở về đã là điều hạnh phúc lớn nhất.
Khi trời sập tối, Tiền bốn mắt đành phải để mọi người hạ trại. Lần này dựng tám cái lều, hai lều dùng để nhốt ngựa, những lều còn lại đều chen chúc mười mấy con người. Tống Đại Phúc, John, Lôi Mông Đa, Tiền bốn mắt, Lý Bưu ở chung một lều.
Tôi, đại sư huynh, nhị sư huynh, nhóc Tứ Xuyên ở chung với mấy người anh em khác.
Ăn cơm xong, đại sư huynh hỏi tôi:
- Lần này chẳng thu hoạch được gì, trở về vợ cậu biết làm thế nào đây?
Tôi vội đưa mắt ra hiệu cho đại sư huynh đừng nói nữa vì tất cả những người còn lại trong lều đều là người của Tống Đại Phúc thuê về, chưa biết chừng sẽ mách lẻo lại lời nói của chúng tôi cho lão ta nghe, gây ra phiên phức không đáng có!
Đại sư huynh lập tức ngậm miệng.
Trời mỗi lúc càng thêm tối tăm, bên ngoài mỗi lúc càng thêm lạnh lẽo, trong khe núi, vọng lên tiếng tru của một con sói cô độc.
Trong lòng tôi vẫn băn khoăn về thứ mà mình đã lấy được ra, nên không hề cảm thấy buồn ngủ. Tôi nằm trong túi ngủ, mắt nhìn về phía khe hở nơi cửa lều, tai dỏng lên lắng nghe động tĩnh của những người bên cạnh.
Dần dà, tiếng ngáy nổi lên bốn phía.
Tôi với lấy một chiếc đèn pin, tay cầm rìu, khẽ khàng lẻn ra khỏi lều. Bên ngoài lạnh tê tái, nhưng không tối lắm bầu trời không trăng, nhưng lác đác vài ngôi sao lấp lánh.
Tôi cảnh giác nhìn khắp xung quanh một lượt, để chắc chắn không có người nào.
Tôi lặng lẽ đi đến phía sau một gò cát, ngồi thụp xuống, vội vàng móc thứ ở trong túi ra, hấp tấp giơ đèn pin lên soi. Là một dải lụa màu trắng được cuộn rất chặt.
Tôi đặt chiếc đèn pin trong tay xuống để soi, nhẹ nhàng gỡ cuộn lụa ra. Tôi chỉ mở ra chừng nữa thước, thấy bên trên chi chít những hàng ký tư rất đỗi kỳ lạ, tôi chẳng nhận ra nổi lấy một chữ.
Tôi không gỡ tiếp nữa, nếu như trải toàn bộ ra, tôi đoán nó phải dài tới cả mét.
Đây là một bức tranh chữ, hay là một cuốn sách? Tôi chăm chú nhìn kỹ mấy ký tự đầu tiên, ghi nhớ lấy một ký tự đơn giản nhất, sau đó cuộn dải lụa lại như cũ, nhét vào túi áo trong.
Tôi đứng dậy phía sau gò cát, nhìn thấy phía xa xa, có hai đốm sáng xanh lè, không cần nói cũng biết đó chính là một con sói.
Tôi xách rìu lên, nhanh chóng sải bước về lều.
Con sói cũng bám theo.
Tôi bước vào trong lều, buộc chặt bạt cửa lều lại, thở phào một hơi dài. Bây giờ, tôi có thể yên tâm đánh một giấc...
Trong cơn mơ màng, dường như tôi đã trở về nhà, đi trên con đường mòn quen thuộc rậm rì cỏ dại.
Từ phía xa, con Mực lao vọt tới, nó ra đón tôi. Phía sau nó, một cô gái tóc dài thướt tha, áo váy phất phơ trong gió cũng đang chạy về phía tôi...
- Tiểu Ngộ...
- Anh Vẹo...
Tôi và nàng ôm chặt lấy nhau, sau đó lăn mình vào cô dại, hôn nhau nồng nhiệt, yêu nhau cuồng say, chằng cần phải nói gì, nói gì cũng là thừa thãi…
Sau đó, tôi nâng khuôn mặt nàng lên, nghiêm túc nói:
- Tiểu Ngộ, anh trở vê rồi. Từ nay về sau, chúng ta vĩnh viễn không bao giờ xa nhau nữa!
Nàng gật đầu. Đột nhiên, tôi kinh ngạc phát hiện ra, khuôn mặt tôi đang nâng trên tay, không phải là Tiểu Ngộ, mà là Tân Ai Ni. Chẳng phải cô ấy đã chết rồi ư? Tôi còn đích thân làm cho cô ấy một cỗ quan tài kia mà!
- Sao lại là cô? Tại sao lại là cô?
Đôi mắt sáng ngời của cô đột nhiên tối sầm xuống, hơi khép lại, hàng mi khẽ lay động, hai dòng nước mắt từ lăn xuống đôi má trắng mịn như tuyết.
Đó không phải là nước mắt, mà là máu tươi!
Tôi giật mình choàng tỉnh, ngồi bật dậy, ngây người bất động.
Bên cạnh vấn là tiếng ngáy pho pho.
Tôi sờ lên môi mình, dường như trên môi vẫn còn phảng phất mùi hương con gái. Lâm Tiểu Ngộ, Tần Ái Ni! Tại sao tôi lại nghĩ đến cô ta? Một người con gái vốn chẳng có mấy dính dáng tới mình. Cô ấy đã chết rồi, tôi chẳng qua chỉ làm cho cô ta một cỗ quan tài mà thôi!
Nhưng giấc mơ khi nãy sao lại sinh động đến vậy, chẳng khác nào là sự thực!
Tôi đang mải nghĩ ngợi, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng khóc, là tiếng khóc khe khẽ của con gái, theo gió bay tới, lúc ẩn lúc hiện, lúc có lúc không, dường như từ một nơi rất xa vọng đến.
Nửa đêm khuya khoắt, ai khóc ở đây? Là mấy cô gái đi cùng đoàn với chúng tôi ư? Tôi chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức xách rìu chạy ra ngoài. Bên ngoài căn lều, dưới ánh sao đêm lạnh lẽo, một cô gái đầu tóc xõa tung, áo quần trắng toát đang đứng lù lù trước cửa lều số một.
- Ai? - Tôi quát lên một tiếng, nhưng lại cảm thấy âm thanh bật ra từ cổ họng nghe nhỏ xíu!
Cô gải đột ngột quay phắt lại, một khuôn mặt trắng bệch, một khóe miệng đỏ máu, đôi mắt hung dữ tựa móc câu.
Chính là Tiểu Thiện!
Chẳng phải Tiểu Thiện đã bỏ trốn cùng Hoàng Đại Tiên rồi hay sao? Tại sao lại quay lại? Không thể nào!
Tôi còn chưa kịp phản ửng, cô ta thoắt một cái đã lao thẳng vào trong lều như một tia sáng trắng. Đột nhiên, trong lều thứ nhất súng nổ đùng đoàng...
- Bắn chết mày! Bắn chết mày! Bắn chết mày... - Một người đàn ông ôm cây tiểu liên từ trong lều lao vọt ra ngoài, nửa thân trên trần trùng trục, nửa thân dưới mặc độc cái quần lót. Người này tôi biết, chính là người anh em Vương Lôi của Lý Bưu.
Từ trong lều thứ nhất vọng lên những tiếng gào thét rầm rĩ, nhũng người còn lại cũng nhao nhao chạy vọt ra.
Vương Lôi rối rít chạy quanh trước lều, đạn trong súng đã bắn hết sạch, nhưng trong miệng vẫn phát ra những tiểng " pằng pằng” của đạn khạc khỏi nòng. Hắn vừa chạy, vừa hét toáng:
- Bắn chết mày! Bắn chết mày! Bắn chết mày...
Đại sư huynh và nhị sư huynh cũng đã giật mình tỉnh giấc, chạy ra đứng hai bên tôi, hỏi:
- Xảy ra chuyện gì thế?
- Không biết!
- Vương Lôi! - Lý Bưu chạy ra từ một căn lều khác, quát lên như sấm.
- Yêu quái, tao đánh chết mày! - Vương Lôi lao thẳng về phía Lý Bưu.
- Vương Lôi, làm trò gì thế? - Lý Bưu vô cùng kinh hãi. Vương Lôi bổ nhào tới, đập thẳng cây tiểu liên về phía Lý Bưu. Lý Bưu né sang bên, xoạc chân quét ngang, khiến Vương Lôi ngã nhào. Vài tay vệ sĩ khác lao tới, ấn chặt Vương Lôi xuống đất.
Vương Lôi nằm trên đất giãy giụa điên cuồng:
- Yêu quái, tao đánh chết mày, tao đánh chết mày...
- Thằng này bị ma nhập rồi! - Đại sư huynh buông một câu, chỉ mấy bước đã chạy đến nơi, túm lấy cổ áo Vương Lôi nhấc lên. Mặc dù còn mấy tay vệ sĩ đang đề nghiến hắn xuống, nhưng đại sư huynh vừa lôi một cái, đã nhấc bổng được hắn lên.
"Bốp! Bốp!” Đại sư huynh trái phải giương cung, giáng cho hai cái bạt tai. Vương Lôi “á” lên một tiếng thảm thiết, thân xác mềm nhũn ngã phịch xuống đất.
Tử căn lều số một bò ra một thân người máu me bê bết, vừa lết, vừa gào lên kinh hãi:
- Chết rồi, chết hết rồi! Chết rồi, chết hết rồi…
Chúng tôi đổ dồn đến phía trước căn lều số một, nhìn qua khe cửa, thấy bên trong xác chết ngổn ngang, máu chảy đầy đất. Lúc nãy, nguyên một băng đạn của Vương Lôi đều đã bắn hết vào trong, khiến toàn bộ những kẻ trong lều đều mất mạng.
Mọi người không ai không bủn rủn.
- Xảy ra chuyện gì thế? - Đột nhiên, mọi người nghe thấy một tiếng kêu kinh ngạc. Quay đầu lại nhìn, thấy Vương Lôi mình trần như nhộng, đứng phía sau đám người, vẻ mặt ngơ ngác.
Rõ ràng, hắn đã quên sạch sành sanh những chuyện vừa gây ra ban nãy.
Mọi người theo phản xạ dạt hết sang một bên, cứ như tránh né ôn thần.
Vương Lôi bỗng rùng mình một cái, lúc này hắn mới phát hiện ra mình không mặc quần áo, lại càng sửng sốt cực độ.
Lý Bưu cầm một chiếc áo khoác trùm lên người hắn. Vương Lôi ngẩn ngơ nhìn Lý Bưu, hỏi:
- Anh Bưu, đã xảy ra chuyện gì? Sao lại chết nhiều người thế?
Lý Bưu sắc mặt lạnh tanh, xua tay nói:
- Người anh em, không có chuyện gì đâu! - Sau đó quay sang một người anh em khác là Trần Thạch, nói - Người anh em, dẫn anh này vào trong lều của tôi, lấy mấy cái quần áo cho anh ấy mặc…
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top