Chương 2 - Đường hầm dưới lòng đất
Ngày 20 tháng 3 năm 2032, đó là một đêm đáng nhớ nhất trong cuộc đời mỗi chúng tôi. Vầng trăng trên cao bị đám mây mỏng che một phần, soi xuống nhân gian một thứ ánh sáng mờ mờ biến khung cảnh quanh ngôi đền càng trở nên âm u, lạnh lẽo. Bóng cây đa già trên gò đất đổ xuống mặt đường những hình thù kỳ dị, sương đêm là là trên mặt nước giếng Ngọc khiến mọi thứ càng thêm huyễn hoặc. Chúng tôi chuẩn bị một vài đồ đạc cần thiết như thức ăn nhanh, nước uống, đèn pin, súng và một ít thuốc nổ mua được ở chợ đen từ mấy ngày hôm nay. Cả đám ngồi trên bậc thềm ở cửa đền chờ thời cơ. Trước đó khi nghe người bảo vệ kia kể về chàng thanh niên mất tích bí hiểm, chúng tôi đã suy ra có thể thời gian hoạt động của lối vào trùng với thời điểm hoàng đạo Sao Kim Quỹ chiếu mệnh. Trong cuốn hồi ký có ghi hôm ấy là trước ngày sinh nhật của ông Jean một ngày, tôi nhớ có lần hỏi Sophie về ngày sinh nhật của cụ nội cô ấy thì nghe được cô ấy bảo là ngày 18 tháng 5 năm 1923 lại chiếu sang lịch vạn niên thì phát hiện quả là trùng hợp. Từ đó chúng tôi suy ra kết quả như trên. Nếu không có gì thay đổi thì đêm nay lối vào lại mở ra một lần nữa, thế nên hiện giờ chúng tôi đang co ro ôm gối đợi thỏ.
Tôi liếc nhìn đồng hồ đã thấy kim phút điểm 23 giờ 50 phút, trong lòng không khỏi sốt sắng. Chắc không chỉ mình tôi có cảm giác này, tôi quay sang nhìn ba người kia chỉ thấy sự háo hức của họ đang chuyển dần sang vẻ thất vọng.
“Cậu nói xem, liệu đêm nay có xảy ra không? Sao im ắng quá vậy?” Vẫn là An cất tiếng trước.
“Chờ tiếp đi.” Bình đang nhắm mắt dưỡng thần, thản nhiên đáp.
Bình là một thanh niên hơn tôi hai tuổi, quê ở vùng núi Thái Nguyên sang Pháp sống với bố từ năm mười tám tuổi. Gia đình anh ta có truyền thống bốn đời làm nghề thầy mo, đến đời bố anh ta do một sự việc không hay xảy ra trong quá khứ nên ông quyết định bỏ nghề rồi đi theo ông chú sang Pháp làm ăn. Bình ở lại với mẹ tại quê nhà, thừa hưởng cái nghề truyền thống đã ngấm vào máu của dòng họ Mai, anh ta được ông nội truyền dạy cho các thuật phong thủy. Tuy nhiên, đối với Bình đó không phải là một nghề mà chỉ đơn giản là sự hứng thú với huyền thuật của bản thân nên anh ta không đi theo nghề như các đời trước. Học xong cấp ba, Bình cùng mẹ sang Pháp sống cùng bố và theo học một trường đại học về kiến trúc. Tôi quen Bình trong một group về phong thủy Việt Nam trên Facebook, thấy kiến thức và sự am hiểu rất rộng của anh ta nên tôi đã có ý định rủ rê anh ta vào chuyến đi này. Không ngờ anh ta sau khi đọc cuốn hồi ký liền đồng ý ngay.
Tôi lật cổ tay, xem giờ lần nữa thì thấy tròn mười hai giờ. Ngước lên trời cao, đám mây mỏng kia đã trôi đi mất từ lúc nào để lộ ra vầng trăng rọi thẳng đứng xuống mặt giếng một đường ánh sáng kỳ diệu. Bóng trăng dưới nước nằm ở chính giữa mặt giếng phản chiếu lại ánh sáng hắt lên thành giếng một màu bàng bạc. Đứng từ xa nhìn sẽ thấy miệng giếng đang phát sáng như thể dưới đó có một đèn pha chiếu lên vậy, tất cả chúng tôi đều không giấu nổi sự kinh ngạc, cảm giác phấn khích bắt đầu lan đến từng dây thần kinh. Hẳn là sắp có chuyện kỳ thú xảy ra, chúng tôi dường như đều nín thở chờ đợi, không ai nói một lời nào.
Mặt nước giếng xáo động mạnh mẽ, sau đó rút dần về phía đáy một cách cực kỳ nhanh chóng, để lộ ra bậc thang đá bám vào thành giếng dẫn xuống phía dưới. Hóa ra là vậy, chúng tôi đứng trên thành giếng nhìn xuống chỉ thấy lóa mắt, không rõ đáy sâu bao nhiêu.
“Các cậu xem, không nhìn được bên dưới. Có nên xuống không?” Việt lên tiếng.
“Tất nhiên là có rồi.” Tôi đáp, liếc nhìn vẻ mặt của hai người còn lại dường như không ý kiến gì.
Ánh trăng trên cao nhạt dần, có nguy cơ sắp vụt tắt. Tôi đoán nếu chúng tôi không mau đi xuống thì sẽ chẳng có cơ hội nào nữa, liền sốt ruột thúc giục.
“Mau lên, nước sắp dâng lên rồi.”
Ba người kia còn đang ngây người khi nghe tôi nói thế liền sực tỉnh, vội vã xách ba lô lên vai chuẩn bị đi xuống. Bình là người lớn tuổi và gan dạ nhất nên anh ta đi trước dẫn đường, sau đó là An, Việt và tôi bám theo áo nhau mà lần mò từng bậc thang. Dĩ nhiên bởi thứ ánh sáng kia rất mạnh nên chúng tôi không thể nào mở mắt mà đi được, chỉ có cách vừa nhắm mắt vừa mò mẩm chẳng khác nào kẻ khiếm thị. Bậc thang đá khá nhỏ chỉ vừa đặt một bàn chân nên mỗi chúng tôi đều phải hết sức cẩn trọng, sai một bước là cả đám đi đời. Thời gian lẳng lặng trôi, chẳng rõ đã xuống được bao nhiêu bậc nhưng tôi cảm giác rất sâu, càng xuống phía dưới không khí càng ẩm thấp, lành lạnh sởn da gà.
Tôi đoán chắc khoảng gần hai tiếng trôi qua cũng nên, do phải đi kiểu rón rén nên đầu gối bắt đầu có cảm giác mỏi nhức. Không gian xung quanh vốn im ắng từ lúc chúng tôi xuống giếng bất chợt vang lên một tiếng kêu của Bình, sau đó là tiếng va chạm của đá từ dưới vọng lên. Tôi sứng sốt hỏi vội:
“Sao thế?”
Không phải Bình đáp mà là Việt:
“Không sao, anh Bình dẫm phải viên sỏi trên bậc thang.”
“Nghe tiếng vọng lên chắc chúng ta sắp tới đáy rồi thì phải.” Tôi đoán.
“Đúng thế.” Việt đáp, sau đó lại nói tiếp. “À mà, cậu mở mắt ra được rồi đấy.”
Nghe Việt nói xong, tôi nghi ngờ:
“Sao vậy?”
“Cứ mở ra rồi biết.”
Tôi từ từ mở mắt ra, thứ ánh sáng kia chẳng rõ đã biến mất từ lúc nào, xung quanh chỉ thấy một màn đêm đen kịt bao trùm. Phía trước Bình cầm đèn pin dẫn đường, cũng không nói câu gì. Chúng tôi tiếp tục giữ im lặng lần theo từng bậc thang đi xuống, đến khi nghe được có tiếng khua nước, lại ngó xuống thấy ánh sáng từ đèn pin phản chiếu loang loáng trên bề mặt thì tôi biết mình đã tới đáy.
“Các cậu xem, hết đường rồi.” An lần đầu tiên lên tiếng sau khi nhìn ngang ngó dọc.
Tôi bước xuống bậc cuối cùng, nước bên dưới khá nông chỉ chạm đến mắt cá chân nhưng rất lạnh. Từ dưới này nhìn lên chỉ thấy một màu đen hun hút, chẳng trông thấy miệng giếng đâu nữa. Bật đèn pin rọi một lượt, tôi phát hiện xung quanh là thành giếng rất rộng có khi bán kính khoảng hơn chục mét, hình trụ được xây bằng đá, phủ đầy rêu phong. Chúng tôi đứng một chỗ xem xét nhưng tầm nhìn bị sương mở che khuất không thể trông rõ những nơi khác, rọi đèn pin vào chỉ thấy mờ mờ ảo ảo.
“Chúng ta tản ra tìm xem có lối đi nào không?”
Việt nêu ý kiến, cả đám nhìn nhau gật đầu đồng ý rồi mỗi người phăng phăng đèn pin đi về các hướng khác nhau. Một tay tôi cầm đèn pin, tay còn lại bám sát vào bờ tường mò mẫm từng viên gạch xem liệu có cơ quan nào không nhưng rốt cuộc chẳng có chút dấu hiệu của sự dịch chuyển nào cả. Tuy nhiên, tôi phát hiện ra một điều kỳ lạ là thành giếng từ độ cao từ vai tôi trở lên hoàn toàn khô khốc, không giống như từng chứa nước. Chẳng rõ ba người kia có khám phá ra được gì không, trong lúc tôi có chút hụt hẫng trong lòng thì đột nhiên nghe thấy tiếng hét của An vọng lại từ phía bên trái.
Ngay lập tức, tôi nghe thấy tiếng chân đạp nước rất mạnh từ các phía khác, cảm nhận có sự chẳng lành tôi vội soi đèn pin rồi mau chóng hướng về bên trái mà đi. Lúc đến nơi chỉ thấy đôi mắt An mở căng hết cỡ, gương mặt xanh lét, cắt không còn giọt máu. Không biết cô ta đã gặp phải thứ gì mà thành ra thế này? Tôi tiến đến gần vỗ mạnh vào vai cho cô ta tỉnh táo hơn. Lát sau tiếng khua nước vọng lại càng gần, kèm theo là ánh sáng phát ra từ đèn pin. Bình và Việt hẳn cũng giống tôi, dự cảm không hay nên chạy về hướng này.
“Sao vậy?” Bình hỏi.
An dường như tỉnh táo so với vài giây trước, tuy trấn tĩnh lại nhưng cô ta vẫn không tài nào nói cho tròn tiếng được.
“Cái… cái đó… tay người.”
Vừa nói vừa chỉ về phía bức tường thành giếng làm chúng tôi đều đưa mắt về phía đó quan sát. Cả ba chiếc đèn pin đều rọi thẳng vào thành giếng, sau khi nhìn rõ thứ trên tường thì tôi không giấu nổi sự kinh ngạc xen lẫn một chút sợ hãi, thậm chí còn rợn tóc gáy. Thảo nào, vẻ mặt An lại biểu hiện quá lên như vậy.
Trên bức tường đá là những ngón tay người nhô ra, các đốt ngón tay cong cong tựa hồ muốn túm lấy thứ gì đến gần. Những “ngón tay” mang màu sắc thâm tím, đầu ngón có màu trắng đục chẳng khác nào tay của người mới chết vài ngày. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ sẽ thấy những “ngón tay” ấy không đều đặn, có ngón rất dài, có ngón cụt lủn, có ngón mập, có ngón ốm nhưng nhìn chung bọn chúng đều được phủ một lớp lông tơ quanh bề mặt, tiến đến gần sẽ ngửi được mùi khăm khắm của xác chết. Tôi thở phảo, tự cười giễu mình trong lòng. Thật ra thứ này không phải là ngón tay người chết mà đơn giản nó là một loại nấm cực độc mà người ta thường gọi với một cái tên rất hay:
“Bàn tay tử thần?” Việt sấn đến gần từ khi nào, cậu ta dường như quá quen thuộc với loại thực vật này.
“Cái gì?” An sửng sốt.
“Cẩn thận, thứ này cực kỳ độc. Chạm vào là đi đời đấy.” Tôi cảnh báo.
“Rốt cuộc nó có phải là tay người chết không?” An tiếp tục tò mò, dường như cô ta không còn cảm thấy sợ nữa.
“Không phải, đó chỉ là một loại nấm có hình dạng giống tay người thôi. Bên ngoài phủ một lớp lông kịch độc, chỉ cần chạm vào là chết ngay sau ba giây.” Bình giải đáp.
Thì ra trong nhóm chỉ có An là không biết loài thực vật này. Đúng thế, bàn tay tử thần chính là một trong những loài nấm độc nhất thế giới. Có điều, trong lòng tôi lại dấy lên một nghi vấn: Tại sao loại nấm này lại xuất hiện ở đây?
“Các cậu có phát hiện được gì không?” Việt hỏi.
Tôi lắc lắc đầu, chưa biết có nên nói cho họ nghe phát hiện của mình không thì Bình đã lên tiếng trước:
“Ở đằng kia có một bức tượng ếch bằng đá cẩm thạch trơn nhẵn.”
“Thật hả? Tôi cũng phát hiện một con ếch ở hướng kia.” Vừa nói Việt vừa chỉ tay về phía đối diện.
“Lạ nhỉ? Sao lại có thứ này ở đây?”
Giữa cuộc trò chuyện của Việt và Bình, bỗng An đưa ra một câu hỏi có phần không ăn khớp lắm khiến chúng tôi đều đưa mắt hướng về cô ta thì thấy An đang đứng sát bờ tường nhìn chăm chú thứ gì đó. Ở giữa đám nấm hình ngón tay người chết tự dưng xuất hiện một miếng vải bị xé, bám trên tường thì đúng là không phải chuyện bình thường. Tuy chúng tôi không thể đến gần hơn để nhìn, nhưng khi chiếu đèn vào thì ai cũng thấy rõ đó là miếng vải kẻ caro xanh đỏ. Rõ ràng nhắc tới loại vải này thì chỉ người hiện đại mới có, trùng hợp hơn là cậu thanh niên trong câu chuyện của gã bảo vệ cũng mặc áo caro. Vậy phải chăng hai chuyện này có mối liên hệ nào đó? Lẽ nào cậu thanh niên kia đã từng đến đây, vậy cậu ta đâu?
“Xuyên tường ư?” An thắc mắc một cách khó hiểu. “Cậu thanh niên kia lẽ nào biết thuật xuyên tường?”
Việt thờ phì một cái, khẽ nhếch môi cười cũng chẳng rõ vì cái gì.
“Nếu tôi đoán không lầm thì thứ chúng ta cần tìm chính là chỗ này?”
“Ý cậu là?” Tôi ngờ vực.
“Đúng vậy, cửa vào chính là chỗ này.” Việt nói một câu chắc nịch. “Các cậu xem, các vách tường đều xây kín bưng nhưng miếng vải này lại vuông góc với tường. Vậy có thế kết luận chỗ này có một cánh cổng.”
“Vấn đề là làm sao mở được?” Tôi hỏi.
“Cái này… có lẽ phải có cơ quan nào đó, các cậu tìm thêm xem có gì đáng ngờ không?” Việt liếc nhìn xung quanh rồi nói.
Rốt cuộc chúng tôi lại chia nhau ra tìm kiếm cơ quan, tôi lần theo các bức tường gõ gõ kiểm tra có rỗng không nhưng âm thanh phát ra lại giống đặc ruột. Suy xét lại thì dưới đáy giếng này trừ hai bức tượng ếch kia ra thì chẳng có gì đáng ngờ, chúng tôi tụ về chỗ con ếch soi kỹ lại lần nữa. Tượng ếch chỉ to bằng con cún, thân được điêu khắc khá tỉ mỉ từng đường nét hoa văn mây nước, trên lưng còn khắc chữ “Dương”. Hai con mắt to đen xì, bóng loáng hơi lồi ra trông cực kỳ sống động. Duy có một điểm kỳ lạ là miệng ếch ngậm một chiếc gương đồng, chúng tôi lại cùng sang chỗ con ếch còn lại thì phát hiện quả nhiên giống nhau như đúc chỉ khác trên lưng khắc chữ “Âm”.
“Du! Cậu ra chỗ con ếch kia chiếu đèn vào gương đồng một góc 90 độ hướng về phía này.”
Bình đột nhiên bảo tôi làm vậy thì hẳn anh ta đã có suy tính, tôi không ngần ngại mà làm theo lời anh ta. Tôi gật đầu rồi trở lại vị trí đặt con ếch thứ nhất, chiếu đèn pin vào gương đồng một góc đúng 90 độ. Từ phía đối diện, Bình cũng làm vậy. Chiếc gương đồng phản quang hắt ra ánh sáng màu vàng kim nhờ nhờ, từ chỗ tôi điểm cuối cùng của ánh sáng vàng là trên bức tường nấm độc hội tụ với ánh sáng từ phía Bình làm lộ ra một vòng tròn âm dương kỳ quái. Lúc này, tôi thật sự kinh ngạc chẳng hiểu nổi làm sao nó có thể hiện ra như thế được?
“Việt, cậu hãy xoay vòng đó đúng bốn mươi chín vòng cho tôi.”
Việt nhìn Bình đầy nghi hoặc nhưng rồi cũng làm theo lời anh ta. Hắn dùng xẻng gấp gạt bớt đám nấm độc xuống rồi cẩn trọng thò tay vào nhẹ nhàng xoay vòng tròn âm dương. Không gian trong đáy giếng bỗng trầm lắng, tôi chỉ còn nghe được tiếng thở của mỗi người và tiếng đá cọ vào nhau mỗi lần Việt xoay. Lần thứ bốn mươi chín kết thúc, tôi nghe thấy rõ mồn một tiếng chuyển động của hai mảng tường thành khi tách sang hai bên để lộ ra một đường hầm bí mật sâu thăm thẳm. Trong lòng tôi mừng rỡ còn hơn vớ được vàng.
“Hay quá, làm sao anh biết cách mở vậy?” An hướng về phía Bình mà thắc mắc.
“À, chỉ là ăn may thôi.” Bình đáp một cách thản nhiên rồi lảng sang chuyện khác. “Đi mau kẻo cửa đóng bây giờ.”
Tôi là người đi cuối cùng trước khi cánh cửa đóng lại, trong đầu lúc này lại dấy lên nhiều mối nghi ngờ. Bình, rốt cuộc anh là ai?
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top