mat danh azet
HANG MA
Hang ma lại có ma xuất hiện.Lời đồn thổi nhanh như gió, nhẹ như gió, luồn lách vào từng hang cùng ngõ hẻm, nơi gốc cây, bụi ruối, nơi xó bếp, góc nhà. Lời đồn loang đi như lũ. Ầm ầm, ào ào. Mấy bản xung quanh hang ma ngơ ngác. Bóng ma lởn vởn trong đầu, trong giấc ngủ. Bóng ma ngồi cạnh người, cùng ăn chung trong bữa cơm. Bóng ma trùm lên làng, lên bản. Nơi đâu người ta cũng có thể nhìn thấy ma. Nhìn mặt ai cũng thấy ma. Hố mắt, bánh má ai cũng hốc hác vì lo sợ. Nhìn những chiếc lá phật phờ bay, nhiều người hồn vía đã bay lên tới chín tầng trời, rơi xuống mười tầng địa ngục. Mặt xanh nanh vàng vì bóng ma ở hang ma cứ lởn vởn đè trong tâm trí.
Lão Tảng đứng dạng te he trên bến, ngay trên bờ ngầm Ní Nà ngoác cái miệng cá ngão ra nói oang oang.
- Con ma trên hang ma lần này kinh tởm lắm. Trông nó to như trái núi Bái. Miệng nó ngoác ra thè cái lưỡi đỏ đòng đọc, nhểu toàn máu là máu. Tối tối ma trong hang kéo đàn kéo lũ ra ngoài bay kín trời. Nghe lão Tảng nói, nhìn cái miệng lão trễ ra, sức nặng về thông tin hang ma có ma càng làm cho người dân thêm tin vào câu chuyện và thêm sợ về các điều đang diễn ra. Đánh mắt nhìn mọi người. Như để khẳng định và tăng sức nặng cho những lời nói của lão vừa đưa ra. Lão Tảng nhìn sang mụ Đoác.- Mọi người cứ hỏi mụ Đoác mà xem. Tối qua mụ Đoác còn bị ma nó vần cho mệt bở hơi tai ra đấy.
Người các bản bên chân núi chả ai lạ gì lão Tảng.
Lão Tảng có tấm thân to như hộ pháp. Người lão to đến mức, mấy bà bảo lão to hổ ăn cả tuần không hết thịt. Lão hay nói. Cái gì vướng vào mắt là thế nào lão cũng phải nói ra bằng được. Mọi cái vào mắt lão là thể nào cũng ra đằng mồm. Cái gì qua tai lão cũng biết chui ra đằng miệng. Lão mà chưa nói ra được, cái miệng lão ngứa ngáy, khó chịu lắm. Cái ngứa miệng này của lão không giống lối ăn phải khoai, phải ráy. Cái ngứa miệng của lão, như có cái gì vương vướng trong mồm, như cái kiểu người ta ăn dính răng. Cái dính răng này nó không thể lấy que tăm mà xỉa rồi lấy ra được. Nó bám vào như dán keo da trâu, đào khoét, bới, chọc cũng không lấy ra được. Nó nằm trong miệng, ngứa ngáy rồi làm tổ cho vi trùng. Cái đau, cái ngứa quá bằng làm đau răng nhức mắt. Không những thế, mỗi khi mở miệng, mùi hôi, thối thoát ra. Người nào ngồi, đứng đối diện để nghe thì chả khác nào phải đứng cạnh hố phân mà người ta hay ủ để đem ra ruộng vãi. Bên cạnh cái tật ngứa mồm, lão Tảng còn phải cái thích thuốc phiện. Mỗi khi lão vác súng, xách nỏ đi săn thì khi về, thế nào cũng có con chồn, con cáo trên tay, con chim đeo bên sườn. Cũng vì mắt lão tinh nên nhìn thấy con thú nhanh và cái gì lọt vào mắt cũng nhanh. Với lão Tảng, việc săn bắt con chồn, con cáo, bắn con chim trên rừng chẳng khác gì người ta thò tay vào lấy đồng xu trong túi áo. Lão nổi tiếng là tay săn bắt có nghề nhất trong khu Yên Hưng. Ngày trước, cụ Chu, người mà lão cả đời cúc cung tận tụy phục vụ. Cậu Lềnh người mà lão được cụ Chu giao cho trách nhiệm bảo vệ. Mỗi khi cụ chủ hay cậu động hớn lên, thích ăn thịt con gì, chẳng cần đợi lâu, lão xách khẩu súng vào rừng. Khi lão về, cụ Chu hay cậu Lềnh đã có thịt thú ăn theo ý thích. Từ ngày cụ Chu chết, cậu Lềnh bỏ nhà đi đâu biệt tăm, lão sống một mình và vẫn đi vào rừng săn bắt thú về bán lấy tiền mua thuốc cho bản thân lão hút. Lão làm được bao nhiêu, săn được bao nhiêu, tất tần tật số tiền kiếm được đều chui qua nõ điếu vào trong ống họng lão hết. Mụ Đoác thỉnh thoảng lại sang ở với lão. Mỗi lần như thế, trông cái mặt lão tớn lên, ra vẻ sung sướng lắm.Ngày còn trẻ, lão là kẻ tôi tớ của nhà cụ Chu. Ngày đấy lão chả khác gì con chó trông nhà cho chủ. Cụ Chu đi đâu tha lão đi theo. Trời mưa, lão đi trước để tìm đường. Gặp chỗ nước, chỗ vũng, lão cõng cụ Chu đi qua chỗ lầy, chỗ nhão. Qua suối, cụ Chu chưa mở miệng lão đã biết ghé vai đưa cụ Chu qua. Vượt dốc, tay lão dắt ngựa cho cụ Chu đi. Gặp ngày chợ phiên, vui bạn, khi cụ Chu say. Lão bám đuôi ngựa để đi theo phòng khi cụ Chu trên đường về nhà có trúng gió, trúng độc đã có lão giúp cho. Sau này khi cách mạng giành được chính quyền, nhà cụ Chu bị cách mạng đem chia cho dân nghèo thì lão cũng thôi làm con chó cho nhà cụ Chu.
Lão cả đời làm tôi làm tớ cho nhà cụ Chu mà lão quên cả việc lấy vợ. Ngày lão còn trẻ, cũng có đôi ba lần cụ Chu cho lão đi theo. Thấy mắt lão nhìn đàn bà, con gái như hổ đói nhìn thấy con lợn béo, con quạ nhìn thấy con gà con. Những lúc như thế, cụ Chu cũng bảo sẽ kiếm cho lão đứa đàn bà để lão được biết cái sung sướng của thằng đàn ông. Nhưng rồi, cụ Chu chưa kịp kiếm cho lão con đàn bà để lão biết được cái sung sướng của đời thì cụ đã chết. Cụ để lại lời hứa sống cùng lão. Tất nhiên, cụ Chu đâu có biết. Cái sung sướng của đời người thì bà Năm của cụ đã cho lão biết rồi. Riêng cái việc đó đã trói lão làm tôi tớ, làm con chó giữ nhà cho cụ cả đời rồi mà không một lời kêu ca hay đòi hỏi gì.
Miệng cụ Chu nói với lão thế thôi. Chứ thực lòng cụ Chu thấy cái cuống họng của lão Tảng, mỗi khi gặp đàn bà, con gái là cụ lo lão cướp mất mấy con vợ của cụ. Nhìn thấy đàn bà con gái, cuống họng lão Tảng nhô lên thụt xuống còn hơn cả con ngựa đực dậm móng khi thấy con ngựa cái thả ra cái hơi mùa động đực. Cụ Chu nói thế chẳng qua cụ muốn để lão còn cúc cung cho mình nên phải nói khéo thế. Chuyện cụ nghĩ thế, nói thế chả biết lão có hay không. Nhưng thấy cụ nói thế là lão đã thấy khắp người sướng rân rân. Cũng có đôi ba lần lão nói xa, nói gần việc cụ tìm cho lão con đàn bà để được biết cái sung sướng của thằng đàn ông. Rồi không thấy cụ nói gì, lão chép miệng cho qua. Lão đã có bà Năm cho cái sung sướng làm kiếp đàn ông rồi. Vì thế mà đến bây giờ, khi da mặt đã nhăn như cái vỏ cây, lão vẫn chưa có vợ. Và hình như lão cũng không còn thích lấy vợ. Nếu lão lấy vợ thì lấy gì để làm đồ dẫn cưới. Cả đời lão đi theo nhà cụ Chu. Lão có được cái gì để ra cho riêng mình. Lão chỉ là con ngựa thôi. Khoẻ thì cho người cưỡi, yếu thì người thịt. Cũng có nhiều người đàn bà mê lão nhưng lại không muốn bắt lão về làm chồng. Thấy lão mắc bệnh ngứa mồm, lại hau háu khi nhìn thấy con gái nên ngại. Lấy về có khi lão lại đi làm con ngựa cho nhà khác. Nếu không có cái tật ngứa mồm, ngứa miệng như thế thì lão là người đàn ông có khối người đàn bà mê. Đã có nhiều lần người già nói về lão như thế này. - Lão Tảng là con ngựa giống tốt. Cái vó nó lúc nào cũng muốn đi. Cái ngực nó trông như ức con ngựa đực thế kia là khoẻ lắm. Đứa nào lấy nó thì con nhiều như đàn lợn. Nhung nhúc, nhung nhúc.Lão Tảng nói chưa dứt miệng, mụ Đoác đứng kế bên cũng trễ cái miệng ra hùa theo.
- Eo ơi. Mấy tối nay, tối nào tôi cũng thấy ma nó về cứ vần tôi suốt đêm. Tôi còn nghe rõ tiếng con ma thở hổn hà hổn hển.
Nghe mụ Đoác nói mọi người bưng miệng cười. Người mụ nhão như bún, thịt nhẽo như con lợn sề. Mụ tắm, cái vú của mụ thỗn thện, vắt vẻo, lẳng bên nọ, ngọ ngoạy bên kia như quả mướp thối. Trông chả khác gì miếng thịt trâu chết. Người thì có ai thiết. Có chăng, chỉ ma mới thích mụ nên nó mới vần. Thằng đàn ông nào mà ngủ với mụ thà về nhà, chui vào chuồng, ôm con lợn sề mà ngủ còn thấy thích hơn. Vần người mụ cho mỏi tay và hỏng con giống đi chắc. Mụ Đoác cũng là kẻ tôi tớ của nhà cụ Chu cùng thời với lão Tảng. Mụ cũng là đồ chơi của cụ Chu một thời. Khi cụ Chu no xôi chán chè thì mụ bị cụ Chu đẩy ra ngoài chuồng lợn, chuồng ngựa cùng với lão Tảng. Có một chuyện mà lão Tảng luôn phải tự nhủ lòng mình sống để dạ chết mang theo nếu còn muốn sống và muốn khi chết còn có đất chôn. Cái chuyện ấy thì chẳng phải lão mà ngay bà Năm của cụ Chu cũng thế. Nhiều khi lão nghĩ. Cứ giả thử trời có mắt đi thì với lão, trời cao đất dầy ắt cũng biết đường mà giúp lão. Chuyện của lão và bà Năm, vợ cụ Chu, trời cũng phải xui hai kẻ khốn khó biết im cái miệng, biết giữ cái mồm.Theo thói quen, hôm nào đi các bản quanh vùng cúng cho các nhà dân về là cụ Chu lại ngồi đánh tổ tôm với các cụ tiên chỉ trong làng. Không chơi thì thôi chứ chơi là các cụ chơi thâu đêm tới sáng, trôi ngày trôi tháng. Không ít lần, các cụ chơi kéo ngày sang đêm tới tám chín ngày đêm liền. Đêm nào như thế là bọn tôi tớ trong nhà phải phục vụ các cụ cho đến bao giờ các cụ rã hội mới thôi. Miệng người ăn lắm cũng quen, hút lắm cũng nghiện, sai lắm cũng thấy khoái. Chập choạng tối, khi màn sương còn mờ mờ, con gà mới dẫn con lên chuồng là các cụ đã ngồi.
Cả đời cụ Chu có hai cái thú thích nhất là chơi tổ tôm và bắt gái. Ở cụ, có lẽ là chuyện bắt con gái, những đứa còn đang hơ hớ về làm vợ là cái máu mà có thay cụ cũng chả đổi được. Nhiều người, lão Tảng thấy cụ Chu bắt về mà phát thèm. Mỗi khi cụ bắt được đứa con gái nào về, người mà cụ Chu duy nhất cho phép ra vào phục vụ và canh gác là lão Tảng. Chỉ nhìn thấy cái bắp chân, cái đùi trắng hơn hớn, cái vú chắc như mông con ngựa là người lão nổi da gà ngứa ngáy lắm. Nhất là khi lão lại nghe thấy tiếng rên hư hử thì lão không thể chịu được. Chỗ nào trong người lão cũng nổi phồng lên ngứa ngáy và thèm muốn. Lúc đầu lão không dám xem. Lão sợ lắm. Cụ Chu mà thấy được thì lão chỉ có nước bị chôn sống. Mỗi khi cụ bảo lão: Tối nay mày đứng ngoài gác cửa cho cụ. Cụ Chu chỉ cần nói thế là lão biết phải tăm tắp làm theo.
Đứng canh cho cụ ngoài cửa, lão không dám cả ngọ ngoạy, không dám vạt cả con muỗi cứ bu vào cổ, vào tay mà châm, chích. Cụ Chu có tin lão, có quý lão và có thương lão cụ mới sai bảo thế. Lão nghĩ sao thì lão làm vậy. Lão nghĩ. Kẻ tôi tớ, người ở nhà cụ thiếu gì mà chỉ có lão được cụ sai bảo thế. Cụ đã tin lão thì lão cũng phải hết lòng phục vụ cụ. Cái lý ở đời là người thương ta thì ta thương lại người. Lão cứ nghĩ thiển cận. Khi lão đói, có ai cho lão bát cơm, có nghĩa là đã cứu sống lão. Lão sống thì cái mạng của lão đã là của người ấy. Mạng sống đã là của người ta thì người ta muốn băm, muốn vằm như thế nào là tuỳ thích. Với cụ Chu cũng thế. Lão được cụ Chu nhặt về cho cơm ăn, cho hầu hạ thì tất nhiên, cái mạng của lão là của cụ rồi. Cúc cung phục vụ cụ là nghĩa vụ của lão. Và bản thân lão cũng thấy sướng, sướng lắm khi được cụ Chu tin cậy giao việc. Thế rồi, có một đêm. Chiều ấy cụ bắt nợ một nhà ở dưới bản Lồng Tồng về được đứa con gái. Đêm ấy cụ cũng cho gọi lão lên gác cửa. Cô gái trước lúc bị cụ bắt nợ đã có lời hẹn với một chàng trai và họ đã thề nguyện sống với nhau đến trọn kiếp. Khi cụ vào thì bị cô gái chống cự. Bị cô gái chống trả quyết liệt nên cụ không thể làm được chuyện kia. Cụ cho gọi lão vào giúp. Khi vào, lão thấy cô gái còn trẻ quá, quần áo bị xé nát, rách tơi tả. Cô ngồi nép vào trong xó nhà, hai tay giữ chặt lấy ngực. Lão lao đến, giúp cụ vật cô gái xuống giường để cho cụ hành sự. Được chứng kiến toàn bộ cuộc truy hoan của cụ. Khi giúp cụ làm được chuyện kia thì lão thấy toàn thân căng cứng và cơn thèm khát nhục dục của lão lên đến tột độ. Khi cụ làm xong, đuổi lão ra rồi khoá, nhốt cô gái lại trong phòng. Đợi cụ đi khuất, lão quay lại. Lúc ấy, cái chỗ con giống người lão cũng còn căng cứng lắm. Lão cũng thèm muốn được như cụ. Nhưng bản tính của kẻ tôi tớ làm lão không dám. Lão chỉ biết ôm cái cột để cho đỡ cơn thèm khát.Khi lão ôm cột để cho đỡ cơn thèm khát. Lão đâu có biết. Mọi hành động của lão không qua được mắt bà Năm. Khi lão từ trong phòng bước ra để mặc cụ Chu với cô gái cụ mới bắt về, cơn thèm khát làm lão không chịu được. Lão cứ ôm lấy cái cột mà nhấn ra nhấn vào nghiến ngấu. Bà Năm biết. Đợi cho cụ đi khuất, bà Năm cho gọi lên. Những khát thèm của lão được bà Năm đáp ứng. Và cũng từ đó, mỗi khi bà mong muốn hay thèm khát cái mùi đàn ông, lão lại được bà cho gọi. Lão trở thành con giống đực của riêng bà. Còn cụ Chu. Vì còn mải đi làm ăn và các bà khác đòi, lại ham thú chơi tổ tôm với các cụ tiên chỉ trong làng. Mỗi khi về được đến nhà, cụ hầu như không biết được chuyện của lão với bà Năm.
Mặc dù, lão là con giống đực của bà Năm nhưng mỗi lần nhớ đến cảnh giúp cụ hôm nào là lão lại thấy người nó rạo rực, bứt rứt, rất khó chịu. Có nhiều lúc lão đã nghĩ. Cả đời lão giá chỉ được ngủ một đêm với những đứa con gái ấy rồi có ném vào vạc dầu hay vứt cho chó nó gặm lão cũng thấy mãn nguyện.
Nghe lão Tảng và con mụ Đoác nhểu cái mồm ra nói, mấy người còn đang thỗn thễn dưới suối vội bước lên bờ quáng quàng quẩy gánh củi đi về. Họ sợ tối không về đến nhà, gặp phải con ma trên hang ma thì khốn nạn. Hang ma thì chả ai còn lạ gì. Chuyện hang ma đã được các già kể đời này qua đời khác, nhiều như cây trên rừng, dài như suối, rậm như cỏ. Lời đồn trên hang ma có ma trở lại cứ thế theo gió bay đi. Câu chuyện về con ma cũng hư hư thực thực. Câu chuyện từ miệng người này nhảy qua miệng người khác. Mỗi lần như thế thì con ma cũng đã khác đi rồi. Chỉ có điều, mỗi lần như thế thì chuyện con ma ở hang ma càng nghe càng kinh hãi hơn. Bóng ma trên hang ma thực sự như hòn đá đè lên cả vùng núi Bái. Con ma trên hang ma lúc mang mặt người, khi mang mặt rắn, mặt chó, mặt ngựa. Dẫu mang khuôn mặt gì thì từ miệng con ma cũng ròng ròng máu tanh nồng, nhểu xuống cánh rừng núi Bái, ngấm vào đất, thấm vào nước, đem đến cho người dân cái chết, bệnh tật.Chuyện ma trên hang ma trở lại người ta chưa biết đúng sai đến đâu. Nhưng chuyện ma hang ma về bắt người các bản bên chân núi Bái đã xảy ra rồi. Ai cũng đã biết, đã thấy. Cái đận đó, người chết không kịp chôn, chất đống như đống củi góc rừng.
2
BỨC MẬT ĐIỆN LÚC NỬA ĐÊM
Thiếu tá Trịnh Toàn rời bàn làm việc. Ông nhẹ nhàng bước ra phía cửa sổ. Phía ngoài khơi những cơn gió đẩy hơi nước về lành lạnh. Ông giơ tay cài lại chiếc cúc áo cổ. Hướng mắt về phía biển. Trên vịnh, những ngọn đèn của vạn chài hắt vào đêm thứ ánh sáng bàng bạc, mỏng như tờ giấy. Xen trong tiếng rì rào của sóng biển là tiếng lá ri ri từ rặng phi lao chắn sóng vọng về. Đưa tay vuốt lại mái tóc bị gió làm lật nếp, ông khép cửa rồi bước về bàn làm việc. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu hiu hắt vàng vàng chiếu xuống bức điện mật của Ban Công an nhân dân vũ trang Trung ương vừa gửi. Ông đưa tay lấy tờ công điện, ghé sát vào ánh đèn. Ông đọc chậm rãi như đếm từng con chữ trên trang giấy.Cách đây có mấy tháng, trong hội nghị quán triệt nghị quyết của Ban bí thư và họp triển khai kế hoạch công tác những năm tiếp theo. Trong bản báo cáo tham luận, ngay đồng chí Bộ trưởng cũng đã nhận định về tình hình hoạt động và các diễn biến sắp tới. Ông biết. Khi trong miền Nam, tình hình đấu tranh cách mạng lên cao, kẻ địch sớm muộn cũng tìm cách phá hoại và chúng cũng sẽ đẩy mạnh các hoạt động ra miền Bắc.
Sau khi lê máy chém đến từng nhà, từng ngõ ngách với chính sách nhổ tận gốc trốc tận rễ mầm mống cộng sản của chính quyền Ngô Đình Diệm đã vấp phải sự chống đối không chỉ của quần chúng nhân dân miền Nam mà còn ở ngay quan thầy bên kia đại dương. Rà từng ngõ, gõ từng nhà để tận diệt cộng sản không thành mà phong trào đấu tranh đòi thống nhất đất nước lại càng làm cho nội bộ chính quyền gia đình trị của Ngô Đình Diệm thêm chia rẽ.
Theo thông báo của trên trong buổi nói chuyện thời sự cho cán bộ cao cấp. Ban chấp hành Trung ương cũng đã nhận định. Để giữ vai trò của mình ở bán đảo Đông Dương, quan thầy Mỹ đã tính chuyện phải thay ngựa giữa dòng. Song dù là chính quyền gia đình trị của Ngô Đình Diệm hay chính quyền do Mỹ dựng nên thì bản chất của chúng cũng không hề thay đổi. Không những chỉ thay quân đổi chủ mà chính quyền Mỹ cũng đã đưa quân trực tiếp vào miền Nam. Chính quyền Mỹ đã lộ mặt can thiệp sâu vào Đông Dương. Năm 1960, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của chính quyền Mỹ đã trực tiếp tăng cường các hoạt động triển khai lực lượng viễn chinh vào khu vực Bắc miền Nam và Lào. Động thái trên của Mỹ thực sự muốn duy trì sự có mặt của mình ở Đông Nam Á. Cũng do tình hình trong chiến trường miền Nam đang có chiều hướng bất lợi cho chính quyền Mỹ duy trì sự có mặt của mình ở miền Nam, tất yếu chúng sẽ tìm mọi cách để xâm nhập ra miền Bắc. Bản thân Tổng thống Ken - nơ - đi cũng đã có ý định sẽ can thiệp vào miền Bắc trong thời gian tới. Nếu theo tính toán thì chỉ trong vòng hai đến ba năm nữa là Mỹ sẽ trực tiếp can thiệp ra miền Bắc. Việc cho người xâm nhập ra miền Bắc là chúng nhằm mục đích nắm được các chủ trương của cách mạng, các mục tiêu của cuộc đấu tranh ở miền Nam. Con đường để nắm được những thông tin này là hoạt động gián điệp. Ngay bản thân thực dân Pháp. Mặc dù phải chấp nhận thua trên chiến trường nhưng khi rút khỏi miền Bắc, chúng đã cài cắm một lực lượng rất đông các điệp viên ở lại miền Bắc. Ngay Hải Phòng thực dân Pháp cũng đã cài cắm ở lại hàng chục tên với mục đích nằm chờ cho đến khi được lệnh hành động mà các cơ quan an ninh của chúng ta đã khám phá và tiêu diệt.Đồng chí Bộ trưởng cũng đã chỉ rõ phương thức hoạt động của địch thời gian tới có thể tập trung vào hoạt động gián điệp, biệt kích kết hợp với phá hoại từ bên trong và đánh phá từ bên ngoài. Đồng chí Bộ trưởng cũng chỉ rõ cách thức xâm nhập và đối tượng xâm nhập.
Do khác biệt về văn hoá giữa hai miền Nam Bắc, đối tượng đầu tiên mà địch có thể tung vào hoạt động có thể chủ yếu là những người đã ở phía Bắc, chạy theo địch di cư vào Nam năm 1954. Đây là đối tượng chủ yếu người theo đạo thiên chúa giáo. Ngày đó do bị địch tung tin chúa đã vào Nam nên nhiều gia đình ở các khu thiên chúa giáo đã theo chúa vào Nam. Những người chạy theo chúa vào Nam cũng chủ yếu là những người sùng tín kính chúa nhưng nhận thức còn hạn chế. Trong Kinh thánh cũng đã từng khẳng định. Chúa ở khắp mọi nơi, chúa trên đầu mọi người, ở đâu kính chúa thì ở đó có chúa. Nếu cứ theo lời của chúa dạy thì chúa đâu có di cư vào Nam. Sau khi quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, hòng có dịp quay trở lại xâm lược nên các thế lực phản động và thù địch đã tung ra tin chúa chạy vào Nam để lôi kéo số đồng bào theo đạo thiên chúa vào theo để gây mất ổn định xã hội. Song, xét về mặt chiến lược thì khi những người này theo chúa vào Nam cũng là lực lượng mà về lâu về dài chúng có thể lợi dụng để đánh trở lại. Lúc đó, bọn phản động, gián điệp mà trước khi rút chạy bọn tình báo đã cài cắm lại để phục vụ cho chiến dịch hậu chiến sẽ kết hợp với lực lượng đánh trả về hoạt động gây rối, xây dựng địa bàn hoạt động.
Đối tượng thứ hai mà bọn phản động có thể đánh trở lại là những đối tượng do bất mãn chế độ hay gia đình có người bị phía cách mạng trừng trị, mang sẵn lòng hận thù. Nhất là những đối tượng trong gia đình có người thân, do những sai lầm trong quá trình cải tạo xã hội của chế độ xử lý. Những đối tượng này sẽ được các cơ quan tình báo tuyển lựa đào tạo rồi đánh trở lại. Đây là những đối tượng nắm rõ tâm lý, đời sống sinh hoạt cũng như các phong tục tập quán ở địa phương. Những đối tượng này thường có cơ sở sẵn là người nhà, người thân trong dòng tộc. Khi xâm nhập trở lại thì chúng phải bám vào những người này để hoạt động và hợp thức hoá nhân thân. Đối tượng thứ ba mà địch có thể đánh trở lại miền Bắc để hoạt động sẽ là các đối tượng xuất thân từ bọn du thủ du thực, đầu trộm đuôi cướp. Bọn này hoạt động thường manh động, liều lĩnh. Nhưng để hoạt động độc lập ít khi xảy ra.Trong phiên họp triển khai kế hoạch bảo vệ an ninh nội bộ đồng chí Bộ trưởng cũng đã chỉ rõ cách thức xâm nhập của các loại đối tượng. Với phương thức xâm nhập qua con đường ngoại giao là khó có thể xảy ra và thời gian hoạt động không kéo dài. Trường hợp này chủ yếu vào để móc nối, dựng lại các cơ sở ngầm hoặc giao nhiệm vụ, cung cấp tài chính là chủ yếu. Muốn có thời gian để tạo cơ sở thì chỉ có con đường đột nhập bí mật và đội lốt tên tuổi một người khác. Khả năng này thường xảy ra vì trong những năm chiến tranh, việc người dân di chuyển nơi cư trú, chạy loạn từ nơi này đến nơi khác rồi ở lại theo quan niệm, đất lành chim đậu.
Hướng xâm nhập bằng con đường bất hợp pháp khả năng xảy ra bằng đường biển, đường bộ và đường không. Trong ba hướng có thể xâm nhập thì hướng đường biển thường được các cơ quan tình báo áp dụng. Nhất là trong trường hợp Việt Nam lại có bờ biển dài, phức tạp, có nhiều hang thiên tạo. Khí hậu vùng biển của miền Bắc Việt nam cũng là điều kiện để cho các hoạt động xâm nhập có điều kiện thực hiện. Về mùa đông, tuyến biển phía Bắc thường có sương mù, gió mùa. Về mùa hè thường xuyên có gió Nam, sóng lớn. Hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản của Việt Nam cũng còn rất nhiều hạn chế. Người dân chủ yếu hoạt động đánh bắt ven bờ chứ chưa có điều kiện vươn xa. Phía biển lại có hạm đội Thái Bình Dương khống chế và bao bọc phía ngoài. Ngay trong hội nghị quán triệt nghị quyết, đồng chí Bộ trưởng cũng đã có ý nhắc nhở các tỉnh có tuyến biển cần chú trọng và xây dựng kế hoạch phòng chống các hoạt động xâm nhập gián điệp, biệt kích từ phía biển.
Sau buổi học tập triển khai nghị quyết, trên đường về cơ quan, đồng chí chính uỷ Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương vỗ vai nhắc nhở. - Ban chỉ huy xác định địa bàn Yên Hưng của cậu là địa bàn trọng điểm, hướng trọng điểm. Tình hình có nhiều diễn biến phức tạp khó lường. Đồng chí về lại dưới đó, cố gắng quán triệt, tổ chức thực hiện cho tốt, đạt hiệu quả.Chính uỷ đưa bàn tay về phía trước, xòe ra.
- Kẻ địch thì lắm mưu ma chước quỷ. Chúng sẽ không từ thủ đoạn nào để đạt được mục đích đâu. Chúng bất chấp tất cả. Nhưng cậu đừng lo. Vỏ quýt dầy thì đã có móng tay nhọn.
Nói đoạn, ông nắm bàn tay lại như nắm đấm. - Thế nào. Khó khăn đấy, nhưng làm được chứ?- Vâng. Chúng tôi sẽ cố gắng. Chính uỷ cứ yên tâm.
Trả lời đồng chí chính uỷ thế nhưng trong lòng Trịnh Toàn bộn bề lo lắng.
Chính uỷ nhìn Trịnh Toàn vừa như thông cảm mà cũng như vừa chia sẻ khó khăn. Chính uỷ đùa. - Sao lại chúng tôi? Tôi sẽ cố gắng chứ? Nhiệm vụ của mình mà lại lôi cả mọi người vào là sao?Chính uỷ cười động viên.
- Nói vui vậy thôi. Các đồng chí cứ yên tâm. Có gì Ban chỉ huy Trung ương sẽ hỗ trợ các đồng chí hết khả năng. Trách nhiệm chung mà. Tất cả vì sự nghiệp giành thắng lợi của cách mạng. Các đồng chí cứ có niềm tin là sẽ làm được tất cả. Niềm tin. Nhớ đấy. Chỉ có niềm tin sắt son thôi thì chúng ta mới giành được thắng lợi. Khó khăn như giành chính quyền mà chúng ta còn làm được. Những khó khăn này đã ăn thua gì. Hãy tin vào điều đó.
Thiếu tá Trịnh Toàn lật tờ mật lệnh sấp xuống bàn. Trịnh Toàn không nghĩ những dự báo ấy lại trở thành sự thật nhanh đến mức như thế này. Ông với tay cầm chiếc điếu cày, nhồi thuốc định hút rồi lại thôi. Ông đi lại phía chiếc điện thoại hữu tuyến. Ông nhìn đồng hồ. Lúc này đã là mười hai giờ đêm. Dừng lại một chút bên chiếc điện thoại, ông đưa tay phẩy phẩy như ý tự trách mình quá lo lắng và nóng ruột. Đã bao nhiêu lần ông phải cố gắng điều chỉnh thói quen nóng nảy của mình để cho các hoạt động trầm đi. Chẳng qua cũng vì công việc. Anh em cán bộ chiến sĩ cũng hiểu ông vì công việc. Nhưng ông biết. Cán bộ chiến sĩ cũng như ông cả, cũng là con người, cũng bằng da bằng thịt. Vì nhiệm vụ, vì công việc được giao, họ không bao giờ và không hề kêu ca một lời mà luôn chấp hành và làm tốt những nhiệm vụ của ông giao cho. Tuy biết tấm lòng của cán bộ đối với ông như thế nhưng Trịnh Toàn tự biết bản thân mình không vì thế mà không nghĩ đến công việc được giao. Trịnh Toàn lấy tay lật đi lật lại tờ mật điện. Trên đã thông báo cho biết thời gian tới khả năng địch sẽ tung các toán gián điệp, biệt kích quay trở lại miền Bắc để hoạt động chống phá. Bức mật điện cũng nhận định khả năng nhiều chuyến xâm nhập sắp tới sẽ theo đường biển. Cơ sở từ bên ngoài báo về, xâm nhập lần này lại có rất nhiều khả năng xảy ra trên địa bàn ở tỉnh Yên Hưng nơi mà ông đang phải chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ. Toán xâm nhập đợt này cũng rất khác, đối tượng khi xâm nhập sẽ hoạt động đơn tuyến vì thế mà tính chất hoạt động của đối tượng sẽ rất khó cho công tác điều tra, truy bắt. Phải chăng cũng vì đối tượng khi xâm nhập chỉ có một mình mà có mật danh là AZET?AZET là ai? Có quan hệ gì với địa phương? Là người ở vùng Yên Hưng hay ở tỉnh khác đến? Mục đích nhiệm vụ chính của đối tượng khi thực hiện chuyến xâm nhập được giao? Ngoài đối tượng xâm nhập ra có cơ sở của các cơ quan tình báo cài cắm lại hay không? Ông với bút, rút tờ giấy ghi nhanh nội dung công việc triển khai cho cuộc họp đột xuất sáng mai. Làm xong các công việc, ông nhìn lại đồng hồ. Từ phía mấy dãy nhà nép bên chân núi, tiếng gà gáy chuyển canh tư.
3
TRÊN ĐỈNH CON CÓC
Cứ theo các câu chuyện truyền miệng, hang ma không chỉ còn là sự huyễn hoặc mà đã là một sự sợ hãi và là nỗi lo của nhiều người. Câu chuyện được thêu dệt qua người này sang người khác ngày càng thêm huyền bí và đáng sợ. Theo miệng lão Tảng và mụ Đoác thì mấy hôm nay trên hang ma đêm đêm thường xuyên xuất hiện những bóng ma trơi bay lập lòe, lởn vởn trong khu rừng. Chúng bay rất nhanh. Đằng sau đường bay chỉ để lại những ánh sáng như vệt sao băng. Những vệt sao băng ấy cũng chỉ nhỏ như một tàn đóm khi người ta hút thuốc lào, búng que đóm quá tay làm bật văng ra xa. Những bóng ma trơi này không chỉ có vào những đêm mưa thâm tối trời mà đêm nào nó cũng xuất hiện. Vào những đêm tối trời, có mưa lâm râm thì những ánh lửa trông mờ mờ, nhoè nhoẹt, phất pha phất phơ. Những đốm sáng thi thoảng lại bùng lên rồi lịm xuống. Lúc sáng, lúc mờ rất quái đản và cũng đầy bí ẩn. Những lúc như thế, trông bóng sáng không khác gì mặt người, dài nghêu, vàng vọt của sự chết chóc. Phải ngày nắng ráo, những bóng ma bay vật vờ, lơ lửng tà tà ngọn cây. Những lúc ấy, bóng ma lại giống hình mặt con trăn gió, quăng mình rào rào từ cây này sang cây khác. Từ dưới chân núi Bái nhìn lên, những bóng ma chả khác gì làn khói mấy người đi nương đốt củi nướng sắn, nướng khoai làm khói bay lên vào các chiều. Những sợi khói mỏng tang như tờ giấy phất phơ bay, lúc cuộn lên, lúc xoắn lại lẩn vào trong màu xanh xanh thâm thẫm của cây rừng. Còn vào những đêm trăng sáng, những bóng ma trơi ấy có màu vàng vàng, đo đỏ. Màu lửa của ma như màu lưu huỳnh cháy. Nhìn lâu, những vệt màu đỏ đòng đọc như máu chảy loang lổ rồi lại nhểu từng giọt, từng giọt xuống đất.Những con ma xuất hiện trên hang ma lần này không như những lần người dân nhìn thấy. Mỗi khi có vệt lửa ma xuất hiện, mấy người cứng bóng vía kéo nhau ra đứng xem. Người nào cũng đều thấy, phía trước các ánh lửa bay phơ phất ấy là một vệt màu hồng, đỏ ngoe đỏ ngoét, dài như cái lưỡi con rắn ngo ngoe phía trước. Bọn trẻ con lúc đầu nghe người lớn kháo nhau cũng túm gấu áo bố, áo mẹ ra xem. Khi nhìn vệt sáng đỏ như máu, đứa nào đứa nấy sợ vãi cả đái ra quần. Có nhiều bà, nhiều chị khi nhìn thấy thế cũng sợ, giật mình vội ngồi thụp xuống, theo cái lối ngồi tránh bị chó đuổi mỗi khi vào nhà ai đó có con chó dữ. Không kịp tránh con cái đang bám dưới chân, váy của các bà, các chị trùm cả lên đầu lũ trẻ. Đôi mắt ngơ ngác, sợ sệt, thất hồn.
Hang ma trở thành nỗi khiếp sợ cho mọi người trong các bản xung quanh. Nhiều gia đình đã rậm rịch dạm bán nhà để chuyển đi nơi khác. Thậm chí có một vài gia đình đã bồng bế con cái, bấu vúi, đìu íu bỏ bản đi nơi khác, để mặc ruộng nương, vườn tược cho cỏ mọc.
Vào những lúc trên hang ma xuất hiện những đốm sáng như thế, chó của mấy bản nằm xung quanh hang ma trong khu núi Bái sủa inh ỏi. Có nhiều con sủa tiếng tru đập vào vách núi âm âm u u vọng ra nghe dờn dợn như tiếng của bầy chó sói bị săn đuổi tìm bầy đàn. Tiếng tru kéo dài, dài mãi. Tiếng của chó sủa hay tiếng của ma cũng không biết được. Một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn. Chuyện hang ma có ma trở lại theo gió bay đi, theo mưa rơi xuống rồi theo nước trôi đi tiếp. Vết dầu loang cứ loang mãi. Vết dầu bắt lửa cháy. Lúc đầu còn cháy âm ỉ sau rồi cứ thế lan mãi ra, bốc ngùn ngụt thành cả rừng lửa. Đến khi vết dầu loang cháy lâu, bốc cao như núi. Ngọn núi Bái phủ một màu chết chóc lên cả một khoảng không gian rộng lớn của miền sơn cước. Ngồi đâu, làm gì, ngay cả nghĩ gì cũng chỉ xoay quanh chuyện hang ma. Hang ma chập chờn ngay cả trong giấc ngủ. Chúng thè cái lưỡi đỏ đòng đọc những máu là máu, liếm lên mặt, lên người. Mỗi khi cái lưỡi đỏ đòng đọc ấy liếm đến đâu, chỗ đó ròng ròng máu, lở loét, nham nhở, tanh tưởi. Đêm đêm tiếng hú, tiếng kêu cầu cứu, khiếp đảm từ các giấc mơ phủ lên các làng bên hang ma. Chuyện trên hang ma có ma làm những người dân ở bản La Khê không còn mấy người dám vào rừng. Sợ ma một thì cái chuyện ngày xưa lại trở về làm người dân sợ mười. Cái nỗi sợ nó ám ảnh và đeo bám vào trong mỗi người dân ở quanh khu hang ma từ miệng người già kể lại được dịp bùng phát. Bởi từ những câu chuyện của người già kể lại, từ người trung niên, đã ăn hết cả mấy chục mùa sắn, nương khoai, đã làm mất cả bao mùa ngô, mùa lúa qua cái bụng chỉ nhỏ như cái quần, cái lù cở đến lũ trẻ mới nứt mắt, còn cởi truồng. Lời kể chuyện, truyền từ miệng người này sang đến miệng kẻ khác nó đã sinh sôi, nảy nở ra biết bao cái mà người nghe không biết thực, biết hư ở đâu, ở chỗ nào.Mỗi lần có ma xuất hiện, người ta lại thấy lão Tảng lù lù vác cái mặt đến. Mũi lão thính hơn cả mũi con chó đi săn. Thấy đâu có người bàn kháo nhau chuyện ma là lão lại có mặt.
- Hôm qua tôi thấy con ma có khuôn mặt như cô gái đấy.
- Lão nhìn thấy thật không? Mọi người nhao nhao hỏi. - Không nhìn thấy mà tôi nói được à. Nói dối để trời bắt tội mà lội xuống sông, xuống suối à.Lão Tảng thề.
- Tôi mà nói dối thì trời đánh cho chết mất xác. Nếu có chết rồi thì cũng không có đất chôn. Xác để cho chó, cho dũi, cho dòi bọ nó đục.
- Thế lão thấy nó giống ai? Hay nó giống cái con mụ Đoác của lão? - Ôi. Nó giống con mụ Đoác làm sao được. Mụ Đoác nếu có làm ma thì cũng là ma già rồi. Con ma này còn trẻ lắm. Ma con gái mà.- Không giống mụ Đoác của lão thì nó giống ai?
- Tôi không biết được. Chỉ thấy con ma này trẻ, xinh ơi là xinh. Mặt nó trắng như mây trên núi Bái ấy. Môi nó đỏ như hoa thôi. Tóc nó cũng trắng, dài lắm. Khi nó bay, mái tóc ấy cứ cuồn cuộn đằng sau như gió cuốn. Đang trắng thế mà nó chuyển ngay thành màu đỏ như máu. Lúc đó tôi tưởng nó vãi cả máu vào mặt ấy chứ.
- Lão có thấy nó giống mặt cô Lù không? - Tôi có nhìn rõ được mặt con ma đâu. Nhưng nhìn kỹ. Ờ ờ. Nó cũng hao hao giống mặt cô Lù thì phải. Nó…Lão vừa nói thế, chưa hết câu đã thấy phèn phẹt cái mặt mụ Đoác bên cạnh. Mụ Đoác lườm lão. Cái miệng dẩu ra.
- Này lão. Lão ngứa mồm quá rồi đấy. Lão không sợ đêm về cô quật lão hộc máu tươi ra hay sao?
Lão Tảng nghe thế nhăn nhở cười. - Ối giời. Cô mà về vật tôi. Có mà tôi vật cho cô bở hơi tai ra chứ chả chơi à. Mà vật cô có khi lại còn thích hơn vật mụ ấy chứ.Mụ Đoác sa sầm nét mặt.
- Lão còn muốn sống hay là lão muốn được làm thức ăn cho giun, cho dế đấy. Lão không còn nhớ cái gì nữa à?
Nghe mụ Đoác nói thế. Lão Tảng im miệng, mặt nghệt ra. Lão len lén nhìn mụ. - Ờ ờ. Thì coi như tôi chưa nói gì.- Lão vừa nói xong, mép chưa kịp khô mà nói là coi như chưa nói gì là làm sao. Lão không thiết sống nữa rồi.
- Thôi mà. Thủi thui cái mồm. Thủi thui cái mồm.
Vừa nói, lão vừa lấy tay tự vả vào mặt mình bèn bẹt. Mấy người đứng quanh nhìn lão ngán ngẩm. Mụ Đoác thấy thế càng được nước lấn tới. - Lão cứ ngứa mồm lắm vào. Sao cũng có ngày thần thánh cũng không cứu nổi cái mạng lão. Đến lúc đó, có chó nó ỉa vào mộ lão chứ đừng nghĩ có được người cắm cho bát cơm quả trứng.- Thì tôi nói chỉ có tôi với mụ cùng vài ba người chứ có ai đâu mà lo. Nếu cậu…
Lão vừa thốt ra tiếng cậu khỏi miệng đã vội lấy tay bịt lại. Lần này thì lão sợ thật. Cái mặt lão tái mét, thâm sì. Mụ Đoác hậm hụi bỏ đi. Lão Tảng vội vàng lẹt bẹt chạy theo. Trông lão chạy, dáng cun cút thật tội nghiệp.
Câu chuyện hang ma vốn đã là nỗi lo lắng của bao người thì bây giờ nó càng là nỗi khiếp sợ của cả vùng, của cả bao tộc người sống quanh núi Bái. Không một người dân nào sống quanh núi Bái là không nghe, không biết đến cái chết tức tưởi của cô Lù nơi cửa hang. Câu chuyện và cái chết của cô Lù ngày nào vì oan khuất vẫn treo lơ lửng ngay trước mắt của người dân ở bản.Cách đây mấy chục năm, người già của bản La Khê nằm dưới chân núi Bái, gần hang ma vẫn còn nhớ và còn mang nặng nỗi sợ hãi và dấu ấn nặng nề khi chứng kiến cái chết tức tưởi, đày oan khiên của cô Lù, người phụ nữ đẹp nhất bản vì sự bạc tình của cậu Lềnh. Bà con ở bản không ai nghĩ cô Lù lại phải chịu nỗi buồn đau như thế. Lúc nào người dân bản cũng cứ như còn nhìn thấy cô Lù treo cổ lủng lẳng ngay trước mắt vậy.
Cái ngày cô Lù treo cổ chết trước cửa hang, ma ở hang ma lại xuất hiện trở lại. Năm đó, cả bản La Khê có tới hàng chục nhà mắc bệnh. Bệnh gì không ai biết. Chỉ biết người bị mắc bệnh, miệng sùi bọt như chỗ thác nước đổ, từng tảng bọt đùn ra miệng, chảy ướt hết áo. Khi nào miệng không còn sủi bọt nữa, ngáp mấy cái là chết. Người chết nhiều quá, không kịp chôn, chả kịp đóng ván, để chảy nước ra đầy nhà, đành phải cuốn vào cái chiếu, đêm đem ra rừng vứt hoặc bỏ đấy cho quạ nó rỉa. Có nhiều nhà, đem người chết vứt ngoài rừng. Mấy hôm sau ra, chả còn thấy người đâu, chỉ có đống mối to lù lù trước mặt. Cái đận đó, dân làng La Khê cũng bỏ làng mà đi vãn đến quá nửa. Thiên hạ kháo nhau, cô Lù chết oan chết ức nên về bắt tội dân làng.
Bây giờ hang ma lại có ma xuất hiện. Biết đâu đấy. Hồn ma cô Lù lại về bắt tội dân làng thì sao? Mặt ma thì chưa ai biết nhưng cái hạn dân làng phải gánh thì không một ai không biết. Tránh mưa, tránh nắng chứ có ai tránh được hạn của đời. Hồn ma cô Lù mà về thật thì có ai gánh được hạn này. Cô Lù không muốn cho mọi người ở thì mọi người đi. Đất rừng còn rộng, lo gì không có chỗ dung thân. Khi bên dưới phía biển, người dân kháo nhau về chuyện ma trên hang ma. Người các bản xung quanh chân núi Bái rục rịch bán nhà chuyển đi nơi khác vì núi Bái lại xuất hiện có ma thì Phan Lềnh, ngồi trên đỉnh núi Bái, chỗ chóp có hình con cóc lầm rầm chửi thề.Phan Lềnh nép sát người xuống khóm cây tập tàng cạnh mỏm đá trên đỉnh Con Cóc. Người duy nhất biết vì sao mà tự nhiên lại xảy ra chuyện các bản bên chân núi Bái nhao nhao chuyển nhà vì cái chuyện hang ma có ma xuất hiện trở lại là Phan Lềnh. Cả dải đất của nhà Phan Lềnh một thuở ngày nào mà Phan Lềnh luôn khao khát lấy lại khi công việc hoàn thành có nguy cơ bị phá sản. Phan Lềnh thấy người nóng bừng bừng, chả khác gì bị ai đem hơ trên ngọn lửa. Phan Lềnh chỉ muốn làm cái gì đó cho hả cơn tức giận. Phan Lềnh túm lấy mấy cái thân cây tập tàng, mọc lúp xúp trước mặt bẻ gẫy gập. Khi mấy khóm cây trước mặt bị Phan Lềnh phá nát. Phan Lềnh giật mình thấy nằm tơ hơ trên đất. Cấp trên trước khi đưa trở lại đã nói với Phan Lềnh rất nhiều đến việc phải biết giấu cái tức, cái nóng nảy đi mới có thể làm được nên nghiệp lớn. Không phải Phan Lềnh không biết mà cái bực tức không thể kìm lại được. Ngày còn tham gia trong đoàn thể, Phan Lềnh còn nhớ lắm câu chuyện của một viên quan văn.
Chuyện rằng. Ngày xưa có một ông quan văn đi qua đường. Có cậu bé đang ngồi trên cành cây thấy vậy vạch quần ra đái. Khi lính bắt cậu bé từ trên cành cây xuống. Mặc dù bị đứa trẻ đái ướt quần áo nhưng ông quan văn đó không hề đánh mắng mà còn rút tiền ra cho. Rồi ông quan văn đó dặn.
- Lần sau, thấy ai đi qua, cháu cứ đái vào đầu người đó. Người đó sẽ cho tiền. Rồi lần khác, đứa trẻ ấy cũng thấy có một ông quan đi qua. Tưởng lại được tiền như lần trước, leo lên cây đái xuống. Khi bị lính bắt xuống đưa trình trước mặt quan. Vị quan hôm đó không phải quan văn mà là quan võ. Vị quan đó không nói không rằng, rút kiếm chặt đầu. Phan Lềnh biết. Cái khác nhau cơ bản của người làm quan văn và quan võ chính là chỗ đó. Quan văn đã biết kìm nén cái bực tức lại mà dùng tay người khác để trừng trị.Phan Lềnh bò thụt lùi, giật lùi chui vào cái hang Con Cóc có hình tổ sâu trên đỉnh núi Bái.
Tựa lưng vào hốc đá, Phan Lềnh chửi thề. Tay đấm mạnh xuống đám lá khô mới vơ vội về trải làm chỗ ngủ.
Đêm ập xuống. Cả bóng đêm rồi cả dãy núi Bái, cả đỉnh Con Cóc như cái nơm, úp chụp lấy Phan Lềnh. Phan Lềnh nghiến hai hàm rằng vào nhau kèn kẹt.4
KÝ ỨC CỦA LÒNG HẬN THÙ
Khi khoác chiếc tay nải về đến đầu làng, Phan Lềnh thấy phía sân đình làng người bu đen bu đỏ. Thấy cảnh đó, Phan Lềnh bụng bảo dạ, chắc làng đang có chuyện lớn. Với tính cách của người làm báo, khi trên đường về, Phan Lềnh chỉ có mong muốn được nằm ngủ lấy lại sức. Nhưng về đến đầu làng, thấy chuyện ấy, Phan Lềnh không chịu được, khoác chiếc tay nải vào xem. Tính cho đến nay, Phan Lềnh đã phải đi bộ cả tuần trời mới về được đến đây. Ngày đi đêm nghỉ, khát đâu xuống sông xuống suối, đói đâu tìm vào nhà dân xin ăn. Cái ý chí khắc đi khắc đến của người cán bộ những ngày đầu cách mạng đã rèn cho Phan Lềnh điều đó. Chiếc tay nải tòng teng trên vai với bộ quần áo nâu nhiều lúc cũng làm cho đôi vai của Phan Lềnh mỏi đến rời rã. Bàn chân không muốn bước nhưng cái mong muốn được gặp gia đình thôi thúc Phan Lềnh. Đã quá lâu rồi Phan Lềnh chưa về nhà. Những tháng năm làm việc, công tác trên vùng rừng Việt Bắc, có công có việc thì thôi chứ được một phút thảnh thơi, Phan Lềnh lại nhớ nhà đến nôn nao. Con chim có tổ, con người có tông. Dẫu những năm tháng ở nhà Phan Lềnh cũng chẳng có vui nào nhưng cái tình gia đình thì khi đi xa rồi Phan Lềnh nhận ra nó thật lớn, thật thiêng liêng.
Không kịp về nhà, Phan Lềnh ghé vào sân đình nơi cả làng, cả tổng đang tập trung. Tiếng quát, tiếng chửi, tiếng la ó rầm rầm, huyên náo. Trong đám đông, thỉnh thoảng lại có những cánh tay giơ lên. Trong cả rừng cánh tay ấy nào là đòn gánh, đòn càn, liềm gặt đưa lên đưa xuống tua túa. Mỗi khi cả rừng cánh tay, cả rừng đòn gánh, đòn càn, cả rừng liềm hái giơ lên là một đợt sóng trỗi dậy. Những đợt sóng của lòng người từ âm thanh hừng hực lòng căm giận, lòng uất ức. Những con sóng lòng người ấy có thể nhấn chìm tất cả, phá nát tất cả mà không có thể có một vật gì che chắn, che đỡ được. Đã từng làm cán bộ tuyên giáo, Phan Lềnh biết. Cách mạng giành thắng lợi cũng chính là nhờ biết phát động những đợt sóng như thế này. Một lãnh tụ của nước bạn cũng đã từng nói: Quần chúng chỉ là con số không. Cán bộ là con số một. Nếu các con số không có dài đến bao nhiêu thì cũng vô giá trị. Nhưng nếu có người cán bộ biết khơi dậy, xếp hàng các con số đó theo trật tự và người cán bộ đứng đầu, dẫn dắt dãy con số quần chúng đã xếp hàng theo trật tự thì sẽ là một sức mạnh. Sức mạnh đầy ý nghĩa. Một sức mạnh như sóng dậy triều dâng. Trong học thuyết của mình, Mác và Ăng ghen cũng đã nói đến sức mạnh của quần chúng. Muốn giành được thắng lợi bằng bạo lực cách mạng thì cách mạng không thể không có sức mạnh của quần chúng. Chính vì thế mà Mác và Ăng ghen cũng đã từng khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chỉ có sức mạnh của quần chúng mới làm nên sự thắng lợi của cách mạng. Tất nhiên, muốn phát huy và giành được thắng lợi thì người cán bộ phải biết vận dụng và phát huy sức mạnh ấy đúng lúc, đúng chỗ, biết tận dụng thời cơ, biết làm cú huých cho cỗ máy ấy vận hành. Khi cỗ máy ấy đã vận hành, nghĩa là đã chạy rồi thì để chạy trôi chảy người cán bộ lại phải biết hướng vào một mục tiêu. Mục tiêu ấy chính là lợi ích của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân xét trên một bình diện nào đó nó là những củ khoai tây lăn lóc mỗi nơi một củ. Khi sự phân tán đó còn xảy ra thì nó không có sức mạnh. Nhưng khi mỗi củ khoai lăn lóc đó được một ai đó tập trung lại, dồn nó vào một chiếc bao tải, lấy lợi ích của nó làm phương châm hành động, lấy quyền lợi làm mục tiêu để chiến đấu thì nó sẽ trở thành một sức mạnh như hòn đá tảng.Những lý thuyết của học thuyết Mác, những bài học từ các đợt tập huấn chỉnh huấn chỉnh quân đã cho Phan Lềnh nhận ra được nhiều điều. Những vấn đề trên cũng đã được ngay chính bản thân Phan Lềnh lên lớp, đi giảng giải cho nhiều nơi, cho nhiều người nghe. Trong lịch sử của loài người để lại, có cuộc chiến tranh nào mà vắng được sức mạnh của quần chúng, vắng mặt tham gia của quần chúng lao động. Chính họ và chỉ có họ mới làm được cuộc cách mạng. Và cũng chính họ, khi quyền lợi kinh tế, quyền lợi vật chất mà các thế hệ cha ông họ, bản thân họ đã đổ xương máu để giành lấy bị xâm hại thì họ lại đứng lên. Họ đứng lên khi có một cá nhân hay một tập thể nào đó tìm ra được những yêu cầu mục đích đáp ứng được mong mỏi của họ. Và thế là một cuộc cách mạng mới lại nảy sinh. Cứ thế, lịch sử loài người mới trải qua năm hình thái kinh tế xã hội. Mỗi lần thay đổi là một sự phát triển. Từ chế độ nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ. Từ chiếm hữu nô lệ chuyển lên chế độ phong kiến. Từ chế độ phong kiến bước lên chủ nghĩa tư bản. Và bây giờ là quá trình từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong mỗi bước chuyển hình thái kinh tế ấy là một cuộc cách mạng mà quần chúng nhân dân là người đã tham gia và làm nên.
Lịch sử của mọi cuộc cách mạng là sự hy sinh của tầng tầng lớp lớp nhân dân lao động. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc giúp Lê Thái tổ giành lại được đất nước từ tay quân xâm lược nhà Minh cũng đã từng nói: Lật thuyền là dân. Đẩy thuyền là dân. Lật thuyền mới biết sức dân như nước. Phan Lềnh cũng còn nhớ, có một nhà thơ cách mạng đã từng viết: Sóng xô sóng đẩy, sóng dậy thuyền đi. Con sóng là quần chúng và con thuyền là cách mạng. Con thuyền cách mạng có thể vượt được trùng khơi là nhờ có lớp lớp các con sóng nhân dân.
Những con sóng ấy đang tràn về quê của Phan Lềnh. Tràn vào làng của Phan Lềnh. Chỉ nhìn những rừng đòn càn, đòn gánh, rừng liềm, rừng hái với trùng trùng điệp điệp lời hô vang như sấm là Phan Lềnh biết. Con sóng cách mạng ở làng quê của Phan Lềnh rồi sẽ cuốn đi tất cả. Những rác rưởi của xã hội cũ sẽ không còn đất sinh sống, không còn nơi để tồn tại. Đứng từ xa, lắng nghe những tiếng hô: Đả đảo bọn địa chủ. Đả đảo bọn tay sai. Đảng lao động Việt Nam muôn năm. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm. Phan Lềnh biết. Một cuộc sống mới đã tràn đến quê Phan Lềnh. Những tiếng hô như sấm dậy, đập vào núi, vọng vào rừng, lan toả đi muôn nơi, kéo người từ trong xó nhà góc bếp đi ra, lôi người từ rừng thẳm thung sâu mà về. Tiếng hô âm âm lặn vào đất gọi sự trỗi dậy. Tiếng hô bay bổng lên trời xanh, bao trùm niềm vui sướng lên muôn cuộc đời lầm than tăm tối. Ngọn lửa cách mạng ngày nào mới nhen còn lom dom cháy thì bây giờ, nó đã thành rừng, bốc cao hơn núi. Ngọn lửa cháy từ lòng căm giận là ngọn lửa thiêu. Nó sẽ đốt trụi, thiêu cháy hết những gì nó tràn qua. Phan Lềnh hiểu hơn ai hết điều đó. Ngay từ những lúc đứng trên mô đất, thân cây, mỏm đá, xếp chân bằng tròn hay ngồi xổm bên bếp lửa nhà dân để giảng giải về sức mạnh của quần chúng, Phan Lềnh đã nhận ra và hiểu ra điều đó hơn ai hết.Chưa cần bước chân vào đến sân đình, chỉ nhìn cả rừng cánh tay, cả rừng đòn gánh, đòn càn, cả rừng liềm, rừng hái cùng rùng rùng lời hô vang các khẩu hiệu như sóng dập, như bão nhồi, Phan Lềnh cũng đủ biết cái gì đang diễn ra, đang xảy ra ngoài sân đình. Bây giờ đang trong giai đoạn cả nước tập trung đấu tranh trừng trị bọn địa chủ, cường hào gian ác, hại dân hại nước. Đất nước này, dân tộc này không thể chấp nhận có những loại người cùng chung máu đỏ da vàng mà có lối sống như thế. Chúng sống trên mồ hôi nước mắt của người dân. Khi chúng sống phè phỡn trên lụa là gấm vóc, thóc lúa chứa đầy nhà chật kho thì có tới hơn hai triệu đồng bào phải chết đói, nằm phơi xác dọc đường. Nạn chết đói năm cách mạng giành chính quyền là bằng chứng tội ác mà chúng không thể chối cãi. Phải tiêu diệt bọn phản động, bọn cường hào gian ác, bọn làm tay sai cho giặc, coi mạng sống của đồng bào, nền độc lập của dân tộc như cỏ rác, không bằng cuộc sống của chúng. Phải tiêu diệt. Triệt tận gốc, trốc tận rễ những mầm mống tay sai phản dân hại nước như thế.
Sức mạnh của rừng người cuốn Phan Lềnh đi. Phan Lềnh cũng buột miệng hô theo tiếng hô của rừng người: Đả đảo, đả đảo! Muôn năm. Muôn năm! Miệng hô, tay rẽ, chân lách đám đông, Phan Lềnh cố len vào bên trong.
Ngày Phan Lềnh còn ở nhà, chỉ nhìn thấy Phan Lềnh là mọi người, người nào người nấy đã tránh ra nhường lối. Nhưng hôm nay khác. Mọi người không những không nhường lối cho vào mà còn nhìn với ánh mắt đầy căm hận. Phan Lềnh tự nhủ lòng, nghĩ. Phan Lềnh đi xa nhà đã quá lâu đâu mà người làng không nhận ra. Thời gian còn ngắn, cuộc sống có vất vả, sinh hoạt có thiếu thốn thì cũng đâu có thể làm cho mọi người không nhận ra được mình. Nhìn vào khuôn mặt ông bà nông dân, Phan Lềnh nhận thấy trong ánh mắt của họ, người nào người nấy đều có lửa. Những ngọn lửa cháy rừng rực. Những ngọn lửa ấy như muốn thiêu, muốn đốt Phan Lềnh. Năm tháng đã đổi khác và con người cũng đã đổi khác rồi sao? Cách mạng đã làm thay đổi tất cả người dân quê của Phan Lềnh rồi sao? Những ông bà nông dân một thời đi làm thuê, cày thuê, đến xin xỏ bố Phan Lềnh cho công cho việc ngày nào cũng đã thay đổi rồi sao? Phan Lềnh vừa cố lách vào vòng trong vừa nghĩ về những ánh mắt mà Phan Lềnh đã nhìn thấy, nhận thấy. Vào được đến bên vòng trong Phan Lềnh tự nhiên thấy mọi người im lặng. Phút im lặng của trận bão mới, phút chuyển gió giữa hai đợt gió của mỗi cơn bão. Mỗi khi có gió bão, bao giờ cơn bão cũng thổi đủ bốn hướng. Mỗi khi chuyển hướng gió khác, bao giờ cũng có một khoảng lặng. Khoảng lặng đến kinh ngạc. Những lúc ấy không có một tý gió gọi là. Cây cối đứng im phăng phắc. Nhưng cũng chỉ một thoáng thôi, một thoáng rất nhanh gió lại quật về. Và cũng chính những trận gió ấy sẽ làm đổ cây, nhổ bật gốc, vặn xoắn ngôi nhà, đẩy tất cả cảnh vật và con người vào trong tâm bão. Tâm bão đi qua rồi thì khó còn có thể có cái gì đứng vững.Quỳ dưới sân là bố Phan Lềnh, cụ chủ Chu. Hai tay lão Chu bị trói giật cánh khuỷu. Cái đầu hói của cụ Chu còn sót vài ba sợi tóc dài phủ xuống che kín mặt. Ngồi sau cái bàn kê trên bậc sân đình là lão Mai và lão Dung. Phan Lềnh không lạ gì hai con người này. Vào những khi giáp hạt, nhà lão Mai và lão Dung thường đến nhà Phan Lềnh để xin cụ Chu cho việc làm để kiếm sống. Nhà hai người này con nhiều như gà, như lợn nên lúc nào cũng đói, cũng rách. Dưới con mắt của Phan Lềnh, hai lão Mai và lão Dung không xứng cả làm tôi tớ trong nhà. Với Phan Lềnh, hai lão Mai và lão Dung chỉ là con vật tốt giống không hơn không kém.
Không kịp nghĩ gì, Phan Lềnh lao vào giữa sân, nơi đám đông đang bu đen bu đỏ. Chiếc tay nải vuột khỏi vai.
- Bố. Sao bố lại nên nông nỗi này? Hả. Ai cho các người bắt bố tôi. Hả? Phan Lềnh phủ phục xuống chân cụ Chu. Đôi mắt ngầu đỏ, hằn rõ những tia máu nhỏ chạy vằn vện trong mắt. Ngay lúc đó, tiếng gào thét lại ầm lên.- Trói cổ thằng con nó lại. Bố nó là quân địa chủ. Nó cũng là quân địa chủ. Trói gô cổ nó lại…
Ngồi trong hốc đá trên đỉnh Con Cóc, Phan Lềnh bỗng nhớ lại chuyện cũ. Nhớ đến rừng đòn gánh, đòn càn, rừng liềm rừng hái cùng tua tủa những cánh tay giơ lên giữa rầm rầm lời hô như bão dậy, như muốn chụp lấy Phan Lềnh mà xé ra từng mảnh.
Phan Lềnh chợt rùng mình. Bất giác, co hai tay ôm lấy ngực, Phan Lềnh ngồi tựa vào hốc đá. Mồ hôi rịn trên trán. Phan Lềnh thấy đói. Bụng sôi lục bục như lỗ nước đùn chỗ ruộng lầy. Phan Lềnh ngửa mặt nhìn trời đoán thời gian. Sao đến bay giờ mà chưa thấy lão Tảng đến. Dặn đi dặn lại lão bao nhiêu lần rồi mà lão vẫn chưa chừa cái tội ngứa mồm. Đúng là đồ ngu. Ếch chết tại miệng. Đã nói rồi mà vẫn chứng nào tật đó. Phan Lềnh còn lạ gì những người cán bộ. Phan Lềnh có thể thuộc đến trong vỏ ngoài lõi của họ rồi. Chẳng gì thì Phan Lềnh cũng đã có một thời ăn sắn, ăn khoai, đắp chung chăn cùng họ.Có tiếng sột soạt trong lùm cây bên cạnh cửa hang. Với tay cầm khẩu súng, Phan Lềnh nép vào vách, giấu hẳn mình vào khe đá. Một cái đầu tóc bết vón lại nhô ra. Mắt lấm lét nhìn vào trong hang. Cái đầu cất tiếng gọi nhỏ.
- Cậu ơi!
Một mũi súng đen ngòm đua ra, tỳ sát vào má.- Sao bây giờ mới lên. Lão định để tao chết đói ở đây đấy à?- Dạ. Con đi sớm nhưng tranh thủ thăm mấy cái bẫy nên lên muộn. Cậu thông cảm, tha cho con.
Đỡ nắm xôi lão Tảng lấy từ trong cái típ ra. Phan Lềnh lừ mắt.
- Lão cần tiền đến thế cơ à? Có cần thêm tao đưa cho? - Dạ. Không. Tiền cậu chủ cho con vẫn còn chưa dùng hết. Cậu bỏ quá cho con. Con nhớ rồi.Vừa ăn, Phan Lềnh vừa gườm gườm nhìn.
- Lão nhớ đấy. Đi đứng cho đúng giờ. Lão mà còn bén mảng, lởn vởn ở khu này vì mấy con cầy, con cáo. Lão sẽ biết tay tao. Lúc đó đừng có trách tao không nói trước.
- Dạ. Con nhớ. - Lần này về, nhớ tranh thủ xem bà và cậu Đô, cậu Đồ thế nào nhé. Có gì nói lại cho tao đấy. Rõ chưa?- Dạ. Con nhớ rồi.
- Mà lão cũng bớt tội ngứa mồm đi. Làm kheo khéo vào kẻo lại đưa bọn công an lên đây thì lão chết.
- Cái đấy cậu chủ yên tâm. Con đi vào rừng thường xuyên nên có mấy ai để ý. Có chăng chỉ có chó nó mới để ý đến con. - Dặn phòng xa lão thế. Làm gì cũng phải cẩn thận đấy. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ là không còn đất sống đâu.- Dạ. Cậu chủ cứ yên tâm.
- Được rồi. Lát nữa về. Nhớ mấy việc tao dặn.
-Dạ.
VÉN MÀN BÓNG ĐÊM
Mọi thông tin về hang ma có ma ngày càng dồn về Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang Yên Hưng một nhiều thêm. Kéo tấm màn ri đô sang bên, Tô Hồng Dân, trưởng ban trinh sát ban công an nhân dân vũ trang Yên Hưng nhìn như dán mắt vào cái điểm chấm có dấu khoanh tròn tròn trên bản đồ khu vực có quyết tâm chiến đấu của đơn vị. Trên tấm bản đồ chỉ có mầu xanh thẫm, cùng các đường nâu nâu vàng vàng nhỏ, mảnh như sợi chỉ vắt loằng ngoằng tầng tầng lớp lớp. Nhìn vào bản đồ, những dấu hiệu trên cho người xem nhận ra đây là khu rừng rậm và có độ cao nhất trong cả khu vực. Nếu từ độ cao này, đứng trên đó có thể quan sát được toàn bộ khu vực rộng tới hàng chục ki lô mét vuông. Mặc dù chưa có dịp đặt chân lên điểm cao này, nhưng những gì mà các nhà đo vẽ bản đồ thể hiện cũng đủ cho Tô Hồng Dân nhận ra sự gian khổ và nguy hiểm khi lên đây. Hướng có hang ma cũng là hướng trọng điểm, địa bàn trọng điểm trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị biên giới của đơn vị.
Nhìn kỹ lại một lần nữa tấm bản đồ trước khi kéo tấm màn ri đô che đi, Tô Hồng Dân mở tủ hồ sơ tài liệu. Toàn bộ tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho đến bố trí dân cư, đời sống văn hoá, kinh tế của các bản xung quanh chân núi và trong khu vực cũng vừa được anh em bổ sung song các con số còn rất sơ sài, gần như còn trống trơn. Ngồi lại bàn làm việc, Tô Hồng Dân đưa hai tay lên bóp bóp trán. Tô Hồng Dân cố nhớ lại những điều đã biết rồi xâu chuỗi, lắp ghép nó thành một sự thống nhất theo trình tự. Bản La Khê nằm trong khu vực địa bàn nội địa đất liền. Nếu cắt theo đường chim bay, từ bản La Khê ra đến khu vực biên giới biển khoảng mười lăm ki lô mét. Nếu cũng từ bản La Khê đi lên hướng biên giới đất liền khoảng hai, ba mươi cây số. Đường chim bay là thế nhưng nếu đi bộ từ bản La Khê ra đến biển phải mất ngày đi bộ và đi ra biên giới đường bộ thì cũng phải mất từ hai đến ba ngày đường.Các bản nằm xung quanh chân núi Bái chủ yếu là đồng bào dân tộc. Do nằm xa các khu trung tâm văn hoá xã hội và chính trị nên sự tác động của các chế tài luật pháp hầu như không có tác dụng. Mọi hoạt động trong quan hệ đều ứng xử theo phong tục tập quán của mỗi dân tộc và các dòng tộc trong vùng. Trong những năm thực dân Pháp còn cai trị, chủ yếu các quan lại cấp phủ, huyện đều dựa vào những người có chức sắc trong bản và dân tộc. Thời kỳ kháng chiến, nơi đây là vùng răng lược, đan xen giữa vùng tề và vùng theo Việt Minh.
Do sống trong vùng sâu nên trình độ dân trí còn thấp, đời sống sinh hoạt vật chất chủ yếu dựa vào tự cung tự cấp và tự nhiên. Người dân ở đây, ra khỏi nhà ngửa mặt là núi, cúi mặt là suối, quanh năm suốt tháng chỉ biết vào rừng săn bắt con cày, con cáo, lũ gà rừng, con chim, con dũi, trồng lúa, trồng ngô, trồng khoai. Ngọn núi Bái cao ngất ngưởng lúc nào cũng có sương phủ trắng bao quanh. Vượt qua dãy núi là sang bên kia, nơi con người cũng mang dòng máu giống nhau nhưng đã nói thứ tiếng nói của nước khác, đất khác.
Sáng, khi sương mù còn phủ kín cả bản, cách nhau bước chân không nhận ra người, tiếng con gà gáy nhòe hơi nước, khản giọng vì lạnh thì người phụ nữ đã phải lên nương. Lên được đến nương, khi đó sương đã kéo nhau lên tận đỉnh núi Con Cóc. Buông cái lù cở khỏi vai, đưa tay gạt mồ hôi mặt, cái tay đã phải cuốc cho đến khi cái lưng thấy mỏi, cái tay thấy nhức, cái áo thấy ướt mới dừng để lấy nắm cơm gói trong túm lá dong ra ăn. Ấy là đã trưa. Lúc này ông mặt trời mới vừa ló ra khỏi đám mây dầy như cái nệm chăn bông gòn, bông gạo. Miếng cơm chưa nuốt trôi khỏi cổ, hớp nước vừa vào đến miệng đã lại tay cuốc, tay cào cho đến tối mò tối sà mới quàng cái lù cở lên vai về bản. Về đến bản, chui vào nhà, nổi vội cái bếp lửa, nấu xong được nồi cơm, bát canh, lùa qua miệng, chùi hai bàn chân vào nhau, ngả lưng lên cái chõng tre là hai mắt đã dính chặt vào nhau. Cái ăn, cái uống hằng ngày kéo cuộc sống của người dân xuống đất, lẫn vào cây ngô, cây khoai. Ngẩng đầu lên đầu ngày khi sương còn mờ nhọ, ướt mặt người. Làm cho đến cuối ngày, ngẩng mặt lên đã lại một màu đêm. Vào một sáng, khi lớp sương mù vừa kịp cho mặt trời he hé chiếu vài ba tia nắng xuống vạt đồi, cả làng La Khê thất kinh khi nghe tin cô Lù treo cổ tự tử ở cửa hang ma. Già làng không kịp tắt bếp, rút củi, người lớn quăng cuốc ngoài nương, lũ trẻ để mặc trâu ngoài rừng, bọn con trai, con gái đùm úm kéo nhau chạy về hang ma.Ngay chính giữa cửa hang ma, cô Lù tự cuốn một sợi dây sắn rừng quanh cổ, đầu dây phía trên buộc vào cái gốc cây si mọc thò ra cửa hang. Đám rễ cây si chảy xủ xuê xuống che gần hết hang. Đám rễ cây si mà lũ trẻ trâu thường bám vào đó đu mỗi trưa đi tìm trâu hay xua trâu về nhà. Chùm rễ cây si phơ phất lắc lư, đẩy qua đẩy lại che khuất người cô Lù.
Phía trên, chỗ cái thòng lọng dây sắn rừng thít vào cổ cô Lù, cái đầu của cô Lù ngật sang một bên. Mái tóc mọi ngày cô quấn, giấu trong chiếc khăn đội đầu nay xổ xuống, bám rối vào chùm rễ si. Mắt cô Lù trợn tròn, xám ngoét. Miệng cô Lù còn ngậm cái lưỡi bị đùn ra thâm như miếng thịt trâu. Bám vào cái đầu lưỡi thâm đi đỉ ấy là cả một bầy nhặng bu đen. Phía dưới sợi dây cuốn cổ là cả cái thân cô Lù thả rủ xê, thõng thượt. Hai cánh tay cô Lù buông xuôi, dọc theo thân người. Bàn tay cô cong cong như bàn tay khỉ. Hai bàn chân của cô Lù thẳng đuồn đuỗn chúc xuống dưới. Từ các đầu ngón chân, ngón tay, nước vàng vàng từ người cô chảy ra nhỏ từng giọt tóc tách rơi xuống. Cạp váy của cô bễ xuống vướng vào hai bên mông, chiếc áo co tớn lên, làm trật ra cái bụng của cô có những lỗ thủng mà nước từ trong thỉnh thoảng lại ộc ra, chảy xuống cái váy rồi rơi xuống nền đất mặt cửa hang.
Phía đất dưới cửa hang, thẳng chỗ cô Lù treo mình, ruồi bu đen, đặc như bầy ong. Mỗi lúc có ai rẽ đám rễ cây si để đến gần xem xác cô Lù, lũ ruồi chả khác gì bầy ong bị động tổ nhao nhao bay ra ngoài. Trên người cô, chỗ cái bụng trật ra trắng hêu hếu như cái da con lợn bị dội nước làm thịt, từ các lỗ thủng bụng cô Lù, các con bọ vón cục thỉnh thoảng lại rơi xuống chỗ nước làm bầy ruồi nhao nhao bay lên. Tiếng ao ao của bầy nhặng vỗ cánh nghe ai oán, thổn thức, nức nở.
Từ trên người cô Lù, các búi dòi rơi xuống chạm mặt vũng nước lẹt bẹt. Khi rơi xuống đất, đám dòi bọ lại xục mình vào vũng nước, vón cục. Có nhiều con bò cả ra bốn xung quanh. Chúng bò ra xa một đoạn rồi lại lần tìm theo các vệt nước quay trở lại vũng nước vàng vàng từ người cô Lù nhểu xuống. Mùi thối rữa, khăm khắm, từ người cô Lù thoát ra, mùi từ vũng nước vàng vàng của bầy ruồi hắt lên tanh tanh nồng nặc, sặc sụa.
Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma đã xảy ra lâu lắm rồi. Cô Lù chết từ bao giờ không ai biết, Tô Hồng Dân cũng như anh em cán bộ chiến sĩ trong đồn chỉ nghe người dân trong bản nói lại, kể lại. Rồi cả chuyện cô Lù chết về bắt dân làng chết theo cũng là chuyện mà mọi người, chỉ được nghe mà không được thấy. Mọi người chỉ biết rằng, khu vực núi Bái, cánh rừng bên chân núi Bái, không có mấy người dám ra vào săn bắn hay trồng cấy cái gì. Nay, không biết từ đâu, người xung quanh núi Bái lại rộ lên chuyện hang ma có ma. Người dân ở bản La Khê lại rục rịch đưa cả nhà đi tránh. Bỏ bê ruộng nương cho cỏ mọc. Sau khi đã lật giở lại hồ sơ trong khu vực, trưởng ban trinh sát tỉnh Tô Hồng Dân cho gọi A Lò và Tự Kim lên phòng làm việc. Anh cũng cho gọi đội trưởng đội đội trinh sát địa bàn lên để trực tiếp báo cáo. Đợi mọi người ngồi xuống ghế, Tô Hồng Dân hỏi ngay.- Mấy đồng chí có nghe thấy tin tức tình hình gì đang xảy ra trên địa bàn núi Bái, khu vực bản La Khê không?
A Lò, Tự Kim đưa mắt nhìn đội trưởng trinh sát địa bàn ra ý chưa hiểu trưởng ban trinh sát tỉnh hỏi cái gì.
- Báo cáo trưởng ban trinh sát. Anh em ở cơ sở báo về vẫn bình thường ạ. Trưởng ban hỏi về vấn đề gì cơ? Nghe thế, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân đập tay xuống bàn, cáu.- Các đồng chí nói bình thường là bình thường như thế nào? Hãy nói cho tôi biết cái bình thường của các đồng chí đi. Nói tôi nghe xem nào?
A Lò, Tự Kim và đội trưởng đội trinh sát đỏ bừng mặt. Mọi người biết, khi trưởng ban trinh sát hỏi thế là thể nào cũng đã có chuyện gì xảy ra. Nhưng trong lòng chưa biết là ý trưởng ban trinh sát hỏi về vấn đề gì.
- Các đồng chí nói tôi nghe tình hình địa bàn có xảy ra chuyện gì không? Lúc này thì mọi người đã hiểu rõ ý của Tô Hồng Dân. A Lò và Tự Kim nháy mắt ra hiệu đội trưởng đội trinh sát nói trước.- Báo cáo trưởng ban trinh sát. Địa bàn báo về là cơ bản không có gì lớn. Tình hình an ninh cơ bản ổn định.
- Thế đồng chí có biết, dân ở bản La Khê đang rục rịch bồng bế chồng con gia đình đi không?
- Dạ. Có biết. - Biết mà địa bàn vẫn cơ bản ổn định là sao? Hả?- Báo cáo trưởng ban…
Không để cho đội trưởng trinh sát nói hết, Tô Hồng Dân lúc này thực sự thấy bực mình. Tô Hồng Dân nhìn sang phía A Lò và Tự Kim.
- Thế hai đồng chí có biết chuyện gì không? Nghe trưởng ban trinh sát hỏi, cả A Lò và Tự Kim lúng búng.- Chuyện dân bản La Khê rục rịch bỏ đi, theo chúng tôi được biết là do có tin đồn hang ma có ma. Dân sợ lại xảy ra như trước kia.
- Thế các đồng chí có biết từ đâu, ai là người tung ra tin này không?
- Dạ. Chúng tôi mới chỉ nghe nhưng chưa xác minh được. - Thế đến bao giờ thì xác minh được. Mai, ngày kia hay sang năm hả? Hay là thôi. Cái gì xảy ra cũng chỉ nghe mà không cần làm, không cần điều tra xác minh?Đến lúc này thì cả A Lò, Tự Kim và đội trưởng trinh sát địa bàn đã đoán ra. Việc hang ma có ma, việc người dân La Khê bỏ bản đi không còn là chuyện nhỏ nữa mà là chuyện lớn.
Sự việc như thế mà khi hỏi, cán bộ chiến sĩ chỉ trả lời chung chung nên Tô Hồng Dân thực sự khó chịu. Tô Hồng Dân thấy bực bội trong người. Nỗi bực tức không kìm giữ được, bộc ra ngoài.
Chỉ tay thẳng vào mặt cả ba người, Tô Hồng Dân nói mà như quát. - Ngay ngày mai, cả ba đồng chí phải đi xác minh cụ thể và phải kết luận cho tôi rõ. Ai? Ở đâu tung ra tin hang ma có ma? Dân bản bỏ bản đi có phải vì tin này không? Có bao nhiêu nhà đã đi? Bao nhiêu nhà sắp đi? Bao nhiêu nhà còn ở lại bản? Đã làm cái thằng công an ấy. Cái gì chỉ hơi khác bình thường là phải nắm ngay, phải có kết luận ngay. Nắm thật chắc đến tận gốc rễ ấy. Cứ ậm ờ ậm ờ rồi có ngày, thổ phỉ nó mang mìn vào tận đây nó đặt, mang súng vào tận đây nó bắn. Lúc đó rồi mới biết. Đằng này. Tình hình gần như rối tung lên mà còn bình thường với chả bình thường.Nói đoạn, Tô Hồng Dân ngồi phịch xuống ghế. Cả ba người còn chưa hết bàng hoàng, đứng chôn chân bên bàn.
- Các anh không đi làm ngay còn đứng đực ra đấy làm gì? Hả?
- Báo cáo trưởng ban… - Báo báo cái gì. Báo báo cái con…Lúc nào cũng chỉ báo cáo với báo mèo. Làm thì như đĩ chơi giăng mà báo cáo cho lắm.A Lò, Tự Kim và đội trưởng trinh sát vội đi nhanh ra ngoài. Đi như chạy.
Nhìn theo bóng ba chiến sĩ thuộc quyền, lòng Tô Hồng Dân buồn rười rượi. Linh tính mách bảo, chuyện hang ma có ma, chuyện dân bản La Khê bỏ đi không chỉ đơn thuần là tin đồn, không hẳn là sự lo lắng sợ sệt. Đằng sau nó là vấn đề hệ trọng mà bây giờ, Tô Hồng Dân chưa thể đọc tên, nói rõ ra bản chất của nó được. Nó là cái gì? Hình thù của nó ra sao? Tất cả còn nằm trong bóng tối.
6BÓNG MA Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma vì ai, vì cái gì thì dân làng La Khê chẳng cần phải ai nói cũng biết. Chuyện cô Lù thích thằng Lềnh, ngủ với thằng Lềnh có chửa rồi nó bỏ trốn đi đâu biệt tăm biệt tích thì cả bản đều biết. Tục làng nó thế. Trai gái thích nhau cứ thích, yêu nhau cứ yêu, cho nhau cứ cho nhưng không được để có con. Con cái là của trời, có rồi thì phải sinh, phải nuôi. Không sinh được, không nuôi được thì phải chết. Nếu không muốn chết thì bỏ làng mà đi. Làng bản không có người như thế. Nếu ở bản nào có kẻ đó thì bản sẽ phải chịu trời phạt làm cho đói khổ, chết chóc. Nếu không chết cũng ốm quặt ốm quẹo, bệnh tật đeo bám suốt đời.
Cô Lù vì yêu thằng Lềnh, thích thằng Lềnh, cho thằng Lềnh cái sinh con của mình nhưng nó lại bỏ bản đi thì cô Lù phải tự tìm đến cái chết thôi. Bản không thương, bản không tiếc. Những người như thế không phải là người của bản. Nó là con ma rừng đầu thai vào người mà thành. Nó chết đi càng không phải bắt tội người bản được.Bản cũng không lạ gì nhà thằng Lềnh. Ông thằng Lềnh là thày mo của cả khu rừng bên chân núi Bái. Ông nó đêm đêm ngày ngày đi cúng cho nhà ai có bệnh, có hạn, có lễ. Khi đi tay không nhưng khi về đã có gà cắp nách, có dê kéo tay, có lợn nhốt trong rọ, có bạc giắt cạp quần. Vì ông nó kiếm được nhiều tiền, lấy được nhiều lợn, nhiều gà, nhiều dê của các nhà người bệnh mà trong nhà ông nó lúc nào cũng có gà đầy sân, lợn đầy vườn, dê khắp núi. Nhà ông nó là nhà giàu có nhất nhì trong vùng núi Bái. Đứng từ trên đỉnh Con Cóc, đưa mắt nhìn xa khi nào không thấy người, không rõ cây mới hết đất của nhà ông nó. Vì ông nó giầu thế nên khi quân Pháp đưa lính lên đây cũng phải vào xin ông nó đất để dựng trại cho lính ở. Thằng quan hai ngày nào cũng có mặt ở nhà ông nó uống rượu, ăn thịt thú rừng và chơi gái bản. Ông nó thích đứa con gái nào là đứa đó phải về làm vợ, lau chân, rửa mình, ôm ông nó ngủ cho không lạnh. Đứa con gái của bản nào mà lấy được con cháu nhà ông nó là có khác gì con chuột tìm được cái hang để ở. Mà cái hang này lại có nhiều thóc, còn hơn tìm được các đọn lúa treo trên gác bếp. Cũng chính vì thế mà vợ của ông nó đông hàng đàn, con nhiều hàng đống, còn cháu chắt dòng họ nhà nó đông như cỏ dại. Cỏ dại nhà nó vương vào đâu là ở đó nảy mầm, ăn sâu bám rễ, mọc nhanh chả mấy chốc mà đã thành rừng.
Hết đời ông lại đến đời bố nó. Bố thằng Lềnh cũng làm thày mo. Bố nó có khuôn mặt của dơi, tay của khỉ, chân của loài cáo nhưng cái con giống thì của loài ngựa, loài sơn dương. Người trong bản trên xóm dưới sợ bố nó hơn sợ cọp. Bố nó còn thuê cả lính về ở, canh gác vòng trong vòng ngoài. Bố nó làm nghề thày mo, thầy cúng nhưng người trong bản thấy bố nó chẳng mấy khi ở trong vùng. Bố nó thường xuyên sang bên kia buôn bán với người bên kia biên giới. Đã có nhiều người theo bố nó sang bên kia biên giới nhưng người trong bản không thấy trở về bản bao giờ nữa. Người trong bản kháo nhau, hình như bố nó buôn bán bạch phiến với người ở bên kia biên giới. Đúng sai ra làm sao không biết nhưng bố nó chỉ cần nghe phong thanh thôi, rằng người nọ, người kia nói thế này thế khác thì chỉ một thời gian sau người đó đã không thấy có mặt ở trong bản nữa. Sống đầy đọa còn khổ gấp trăm nghìn lần chết nhanh. Nhưng vì cái sống, vì muốn thân xác và người nhà không chịu cảnh đọa đầy nên ai cũng im lặng chẳng dám nói xa, nói gần. Cái sự mưu sinh nó trói buộc con người ta vào trong vòng cương toả vô hình của bố thằng Lềnh đưa ra.
Từ ngày ông nó mất, bố nó lên thay cai quản cơ ngơi tài sản thì đất nhà nó càng rộng, người ăn người ở nhà nó càng đông, trâu bò nhà nó đầy rừng, con lợn con gà nhà nó đếm mỏi mồm chưa hết. Đi đến đâu, làm cái gì, từ hòn đá trên núi, con cá dưới khe đến cái cây mọc bên lối đi, bãi phân trên vách núi cũng là của nhà thằng Lềnh cả. Của cải nhà nó không để đâu cho hết. Sau khi làm cho cô Lù có chửa, cái bụng cứ to đẫy ra, ềnh ễnh, ọc ạch đi thì thằng Lềnh tìm đường trốn mất tăm mất tích. Cô Lù vì sợ già làng bắt phạt mà phải ra cửa hang treo cổ. Cô treo cổ, chết thối trên cây, cái bụng có đứa trẻ bị dòi, bọ ăn nhung nhúc, từng búi rơi lét bét xuống đất được người già lấy làm câu chuyện răn dạy con cháu. Năm này qua năm khác, tháng này qua tháng khác, câu chuyện được kể từ xó bếp đến chân cầu thang, theo mồm người lên nương, vào núi.Thói đời, câu chuyện qua miệng người nó như cái cây, chỉ từ một cái hạt nhỏ tin hin bằng móng tay, bắt rễ vào đất, mọc mầm, nảy lá rồi cứ thế ăn sâu bám rễ vào đất mà lớn lên. Qua gió câu chuyện một sinh mười, qua đất câu chuyện sinh ra một trăm nhưng qua miệng người thì nó sinh ra hàng nghìn, hàng vạn câu chuyện khác. Nó như cái cây mọc rễ rồi từ một cây thành hai cây, hai cây thành bốn cây, bốn cây thành mười sáu cây. Cứ thế, chả mấy chốc nó đã thành rừng, trùm kín cả núi, trùm kín cả người. Nếu câu chuyện mà lại qua miệng kẻ ác thì nó nhiều lắm, nhiều vô kể, chặt không hết, đếm không hết. Nhiều vô thiên rủng. Lúc ấy nó chả khác gì cơn gió độc luồn lách, chui rúc vào đến tận xó bếp, góc nhà, chuồng lợn chuồng gà, nó bám vào cả từng chân lông của lũ dê thả trên núi.
Chuyện cô Lù treo cổ chết ở cửa hang ma cũng thế. Nó qua miệng người, qua bao nhiêu năm, qua bao nhiêu tháng người nghe không còn biết đâu là thực, đâu là giả, u u minh minh như rừng, như đất, như người. Lũ trẻ lớn lên thành người lớn, người lớn già đi thành đất, thành cát. Chuyện cô Lù treo cổ chết ở hang ma có thật hay không có thật chỉ có trời biết, đất biết. Bởi cho đến bây giờ, người trong bản, quanh chân núi Bái có hỏi người già rằng cô Lù người bản nào, cô có xinh hay không xinh, cha mẹ cô là ai. Chịu. Chỉ tay lên núi. Lên kia mà hỏi thần rừng. Thần rừng biết đấy. Thần rừng, thần đất nói lại cho mà nghe. Nhưng mọi người tin. Tin chứ. Cô Lù bị thằng Lềnh nó làm cho cái bụng to lên cũng vì tham nhà nó giầu, cái tai ham nghe lời nó nói. Tiếng nó nói như con chim hót thế thì cô Lù chết mê chết mệt là phải thôi.
Bọn con gái bây giờ cũng thế cả. Nó không chịu nhìn bằng mắt, chúng nó chỉ thích nhìn bằng tai thôi. Con chó sói ngoài rừng, khôn thế, liều lĩnh là thế mà cũng chết vì bả đấy thôi. Cái bả làm ra có mùi thơm nên cái mũi chỉ ngửi thấy thơm mà con mắt có nhìn thấy cái cạm người gài bên dưới đâu. Tai thính nhưng không biết phân biệt tiếng động độc, mũi thính chỉ ngửi thấy mùi thơm mà không ngửi thấy mùi thuốc độc, mắt sáng nhưng không nhìn ra cái ác, cái chết bên trong thì chết thôi, thì bị bắt làm thịt thôi. Trách ai được, mắng ai được. Có mắng thì hãy mắng mình ngu ấy. Già làng kể chuyện bao giờ cũng nói thế mà.Tự Kim và A Lò vừa nghe già bản kể vừa vội vàng ghi chép vào cuốn sổ tay. Câu chuyện cô Lù chết nếu theo già bản kể cũng khó mà xác định được thực hư thế nào. Nhưng có thực nhà thằng Lềnh như thế không? Nhà thằng Lềnh có bao nhiêu người? Tại sao thằng Lềnh lại bỏ nhà đi? Nó đi đâu? Làm gì? Đi từ bao giờ? Trước kia thằng Lềnh là người như thế nào? Có nghĩa là phải hỏi cho rõ tất cả. Rồi hang ma nữa. Phải lên hang ma. Lên tận nơi xem cái hang đó như thế nào? Có đúng là hang ma có ma không? Nếu không có ma thì cái gì phát ra lửa đêm đêm?
Sau một lúc đắn đó tính toán, Tự Kim và A Lò quyết định phải lên xác định hang ma trước. Xong việc trên hang ma sẽ đi xác minh thân phận của Lềnh.
7
CHUYỆN CỦA VỊ CHỈ HUY TRƯỞNG Vừa chợp mắt thiu thiu ngủ, Thiếu tá Trịnh Toàn đã nghe tiếng kẻng báo thức. Ông choàng dậy, mặc quần dài rồi đi xuống dưới sân cùng tập thể dục với anh em cán bộ chiến sĩ. Ông đưa mắt nhìn quanh. Chính trị viên Song Hoa cũng đã đứng đầu hàng phía bên phải đang cùng anh em cán bộ chiến sĩ dàn hàng đội hình tập thể dục. Đợi cho sĩ quan trực ban điều hành tập xong ba bài võ thể dục, Thiếu tá Trịnh Toàn đi nhanh về phía chính trị viên Song Hoa. Chính trị viên Song Hoa cũng nhận ra chỉ huy trưởng đang đi về phía mình. Ông đứng lại có ý chờ. Đến bên chính trị viên Song Hoa, Thiếu tá Trịnh Toàn nói nhỏ chỉ đủ để hai người nghe.- Ăn sáng xong, anh đến phòng tôi. Tôi có việc muốn trao đổi với anh.
Nhìn nét mặt của chỉ huy trưởng, chính trị viên Song Hoa biết có chuyện quan trọng. Là con người thẳng thắn, bộc trực nên ông biết, chỉ huy trưởng nếu có việc quan trọng là rất khó giấu. Khi có những việc quan trọng, Trịnh Toàn thường mất ngủ. Chỉ nhìn vào hai mắt là Song Hoa có thể đoán được tối qua đã có việc gì xảy ra.
- Đêm qua anh lại không ngủ à? - Vâng. Tôi không ngủ được. Tôi cũng đã định gọi điện mời anh sang phòng tôi ngay tối qua.- Thế sao anh không gọi. Tối qua tôi cũng có ngủ được đâu.
- Thôi. Anh cứ đi ăn cùng với anh em xong rồi đến tôi cũng được. Tôi cũng phải ăn miếng gì lót bụng chứ tối qua thức khuya, không có gì đấm bụng bây giờ cũng đang xót ruột.
Nói đoạn, Thiếu tá Trịnh Toàn đi nhanh về phòng. Đứng nhìn theo dáng đi của chỉ huy trưởng, Song Hoa tự nhiên thấy nhói đau vùng ngực. Anh vươn tay lên cao, hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra. Anh cứ làm như thế bốn năm lần nữa rồi thư thả đi về phòng nghỉ của mình. Trưởng thành từ người lính, tham gia nhiều chiến dịch trong chiến tranh vệ quốc, lòng nhiệt tình cách mạng có thừa nhưng Trịnh Toàn lại quá nóng nẩy. Ở ông nhược điểm lớn nhất có lẽ là quá lo lắng công việc. Trách nhiệm với công việc là cần thiết của người lãnh đạo, chỉ huy nhưng nếu lúc nào cũng sôi lên sùng sục như nồi nước sôi thì có khi lại hỏng việc. Ở Trịnh Toàn khi có công có việc là chỉ muốn làm ngay, làm cho xong. Ông luôn ở hai thái cực của lòng tốt và sự kiên quyết. Chính trị viên Song Hoa biết, để công việc trôi chảy và có đủ độ chín, không ai khác, ông sẽ phải là người điều chỉnh.Trước khi về nhận nhiệm vụ ở đơn vị, Chính uỷ Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương cũng đã cho gọi ông lên phòng để trao đổi riêng. Chính uỷ cũng có nhắc nhở ông về việc phải điều chỉnh và giữ được mối quan hệ đoàn kết mật thiết giữa chỉ huy và chính trị. Ông thân mật bảo.
- Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương tin tưởng cậu nên mới đưa cậu về phụ trách chính trị ở đơn vị Yên Hưng. Trịnh Toàn là người có tài, năng nổ, nhiệt huyết nhưng tính tình rất nóng nảy. Là người chỉ huy nóng nảy là cần thiết nhưng nóng quá là hỏng việc đấy.
Ông cười nhỏ nhẹ - Về làm cùng với Trịnh Toàn, bao giờ hai người cãi nhau nhớ gọi điện cho mình nhé.Cũng trưởng thành từ người nông dân khoác áo lính, chính trị viên Song Hoa biết mình phải làm gì. Muốn anh em cán bộ chiến sĩ làm việc tốt thì phải yêu thương anh em cán bộ chiến sĩ. Song Hoa vẫn nhớ đinh ninh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: Cán bộ là cái gốc của công việc. Công việc thành hay bại cũng đều do cán bộ mà ra. Trước khi chia tay chính uỷ về nhận nhiệm vụ, Song Hoa cũng đã hứa với chính uỷ sẽ xứng đáng niềm tin cậy của Ban công an vũ trang Trung ương giao cũng như niềm tin và tình cảm của chính uỷ gửi gắm.
Thấy Trịnh Toàn sáng ra đã nói với mình như thế, Song Hoa biết có chuyện quan trọng. Sống với nhau, công tác với nhau, thường xuyên bàn bạc trao đổi công việc nên với Trịnh Toàn, Song Hoa chỉ cần nghe giọng nói, chỉ cần quan sát nét mặt, thậm chí chỉ cần qua thái độ biểu đạt của giọng nói là đã có thể đoán định được mức độ quan trọng của câu chuyện mà hai người sắp nói với nhau.
Ngày đầu tiên, khi Song Hoa bước chân về đến đơn vị, vừa trông thấy nhau, Trịnh Toàn đã nói. - Anh về đúng lúc lắm. Tôi đang đau đầu về chuyện đơn vị ở trên nhà Tròn đây. Nếu anh không mệt, ta ngồi trao đổi luôn.Vừa chân ướt chân ráo về đến đơn vị, chưa nắm được tình hình chung cũng như đặc thù của từng đơn vị. Đơn vị nào yếu cái gì, mạnh cái gì, con người, công việc, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ ra sao. Ngay chuyện ăn ở sinh hoạt, tác phong, thái độ nhận thức của anh em cấp dưới như thế nào ông cũng chưa nắm được. Chuyện riêng tư, tâm tư nguyện vọng của cán bộ chiến sĩ cũng yêu cầu ông phải nắm chắc. Có nắm chắc thì ông mới có thể quản lý, giáo dục cho anh em được.
Biết là nếu có ngồi nghe cũng chỉ là ngồi nghe, nhưng nếu vừa về mà không ngồi lại khi được đề nghị thì cũng bất nhã. Chính trị viên Song Hoa nhún nhường.
- Vâng. Có chuyện gì thế anh? - Mấy thằng ở đơn vị nhà Tròn suốt ngày lên đòi đi vào Nam chiến đấu. Tôi nói mãi không được. Anh về rồi, xem có cách nào trị cho cánh này một trận mới được. Biết là trong chiến trường cần nhưng ai cũng cứ đòi đi thì ở ngoài này để cho chó nó trông coi à.Mặc dù chưa có lấy một ngày công tác ở đơn vị nhưng Song Hoa biết. Tâm tư chung của tất cả anh em trong các đơn vị hiện nay là như thế. Từ ngày thành lập lực lượng đến nay, tâm tư của anh em cán bộ chiến sĩ vẫn còn những lăn tăn suy nghĩ. Chuyện lăn tăn này là đáng mừng chứ có gì quan trọng quá đâu mà lo. Cả nước đang sôi sục khí thế cách mạng. Các thế hệ thanh niên nô nức lên đường tham gia đi theo cách mạng. Ngay bản thân ông cũng đâu có muốn ở lại hậu phương như thế này. Nhưng vì nhiệm vụ của cách mạng giao, vì sự nghiệp chung nên ông phải chấp hành.
Để giảm hỏa trong người Trịnh Toàn, ông nhẹ nhàng.
- Vâng. Anh cứ để đấy rồi tôi sẽ trao đổi với anh em sau. Chưa để ông nói hết câu, Trịnh Toàn đã sồn sồn.- Anh nói thế thì chờ đến bao giờ. Tụi này cứ gọi lên quạt cho chúng một trận. Suy bì với chả suy bì. Vớ vẩn. Lập trường giai cấp để đâu không biết.
Đã được Chính uỷ Ban công an nhân dân vũ trang Trung ương nói cho biết trước nên Song Hoa không thấy bất ngờ nhưng thực bụng ông cũng thấy khó chịu. Làm gì thì làm nhưng cũng phải để ông có thời gian nắm bắt tâm tư nguyện vọng chung rồi mới làm. Biết thế nên Song Hoa điềm tĩnh nói nhỏ nhẹ để yên lòng Trịnh Toàn.
- Thôi được rồi. Anh để ngày mai tôi sẽ xuống đơn vị gặp gỡ mấy tay ngang ngạnh cho anh. Anh cứ yên tâm đi. Chuyện đó để tôi lo. - Được rồi. Anh muốn làm gì thì anh làm nhưng anh mà không làm cứng là tụi này được thể lại càng làm quá lên là nát bét đơn vị đấy. Tôi là tôi cứ cho gọi lên, bắt viết kiểm điểm là im hết. Người cách mạng là phải nhận bất cứ nhiệm vụ gì và hoàn thành xuất sắc. Nghe tin có anh về nên tôi còn để lại chưa cho gọi lên đấy.- Thôi được rồi. Anh cứ để chuyện này tôi lo.
Nói đoạn, Song Hoa cười vui vẻ.
- Anh định cho tôi ngủ ở đâu đây? Cho tôi rửa cái mặt đã chứ. Hôm sau ông xuống, ngồi trao đổi với anh em cán bộ chiến sĩ, mọi việc lại đâu vào đấy.Biết tính Trịnh Toàn, xuống bếp ăn vội lưng cơm, Song Hoa đi lên phòng chỉ huy trưởng.
8
BÍ MẬT NÚI BÁI
Sau khi đã xuống bản La Khê nắm lại tình hình và nghe người dân quanh vùng kể về câu chuyện thời gian gần đây xảy ra trên hang ma. Gặp gỡ các già làng để nghe các già làng nói cho hay về những gì già làng biết hang ma. Tự Kim và A Lò quyết định tìm đường lên tận hang ma xem thực tế.
Đứng từ xa nhìn lại, núi Bái trông như hình con trăn đang trườn mình săn mồi. Mỏm núi phía Đông trông chính diện không khác gì con rắn hổ mang chúa đang ngoác miệng, bành cổ cong lên trong tư thế mổ. Cú mổ quyết định tiêu diệt con mồi. Càng đến gần, núi Bái trông lại giống con voi nằm phủ phục, bái vọng về phía biển. Theo truyền thuyết kể lại, vùng núi Bái ngày xưa nguyên là vùng đầm lầy. Đây là nơi sinh sống chủ yếu của các loài thân giáp. Trong đầm lầy có rất nhiều rắn và cá sấu. Vào một năm, trời làm hạn hán, cả khu đầm lầy khô nẻ, cây cối chết khô. Những người dân quanh vùng lúc đó còn có thể đi ra đầm lấy cây khô về làm củi. Vì đầm lầy khô hạn, không còn chỗ trú ẩn, các loài cũng theo nhau đi dần về phía biển. Duy lúc đó, có một ổ rắn chúa vừa mới nở. Vì mới sinh nên đàn rắn con không thể theo đàn ra đi nên con rắn chúa đành phải ở lại cùng các con chịu cảnh chết dần chết mòn. Khi sức đã tàn, lực đã kiệt vì nắng, nóng, hạn hán đói khát thì con rắn hổ mang chúa lại gặp cảnh một đàn quạ đi kiếm ăn trên các xác thối. Đàn quạ phát hiện thấy tổ rắn, tường là đã chết chúng sà xuống. Để bảo vệ đàn con, con rắn chúa cố vươn người lên lấy hết sức bảo vệ đàn con. Thấy con rắn quá to, quá hung dữ và nếu tấn công sẽ gặp nguy hiểm, bầy quạ bay đi tìm thức ăn trên các thân xác đã chết thối khác. Chính cái cố gắng cuối cùng bảo vệ đàn con của con rắn chúa đã vắt kiệt chút sức lực còn lại cuối cùng của nó. Con rắn chúa chết trong thế vươn cổ, bạnh mang. Năm tháng qua đi chỗ đất hình con rắn chúa gượng sức cứu đàn con của nó thành dãy núi chúa. Cái hang ma chính là miệng con rắn hổ mang chúa. Đầu nó vẫn hướng về phía bầy đàn kéo nhau xuôi biển.Lại có chuyện khác kể rằng, vùng núi Bái ngày xưa là cánh rừng rậm. Trong rừng có rất nhiều loài thú nói được tiếng người cùng chung sống. Năm đó các loài muông thú đang sống vui vẻ hạnh phúc, quây quần bên nhau thì có một bầy khỉ ở đâu kéo đến. Bầy khỉ đi đến đâu phá phách và trêu ghẹo, trộm cắp của cải tài sản của các loài muông thú khác chỗ đó. Hoa quả bầy khỉ hái ăn không hết ném đầy rừng. chúng còn kéo nhau vặt lá bẻ cành chất đầy mặt đất. Cây cối trơ trụi, đất trơ ra mặc cho mưa xối, nắng nung. Cả cánh rừng đang thanh bình bỗng chốc trở thành tiêu điều xơ xác có nguy cơ trở thành hoang mạc. Vì sự phá phách của bày khỉ mà đã có nhiều loài bỏ rừng ra đi tìm đến một vùng đất mới. Để bảo vệ cánh rừng, bảo vệ cho các loài khác đang chung sống, các loài muông thú trong khu núi Bái mở đại hội để bầu thủ lĩnh đứng lên đánh dẹp loài khỉ phá hoại. Trong tất cả các loài sinh sống trong vùng thì chỉ có voi là to hơn cả. Voi được cả bầy đàn các loài muông thú trong khu rừng bầu làm thủ lĩnh.
Vì voi cả tin vào cơ thể của mình nên không nghĩ bầy khỉ mới đến là những kẻ mưu mẹo và đầy gian giảo. Biết được các loài thú trong rừng đang tìm cách đánh đuổi giòng giống nhà khỉ ra khỏi cánh rừng, bầy khỉ đã đào sẵn một cái hố. Mới sáng sớm, khi sương còn chưa tan thì bầy khỉ đã đến khiêu khích tuyên chiến. Voi thủ lĩnh lao ra. Lũ khỉ vừa đánh trả vừa khiêu khích trêu chọc. Voi cứ một mình tả xung hữu đột giữa bầy khỉ. Vừa đánh, lũ khỉ vừa giả thua rút chạy về hướng cái hố đã đào sẵn. Chủ quan khinh địch, voi sa hai chân trước xuống hố. Đúng lúc đó, bầy khỉ kéo cả đàn cả đống đến tấn công. Lúc ấy, voi to lớn và hùng dũng đến đâu cũng đành bó tay chịu chết. Lũ khỉ thi nhau cắn vào đầu voi. Chiếc đầu to lớn của voi thủ lĩnh chẳng mấy chốc bị bọn khỉ đột cắt gọn. Khi nghe tiếng voi bị tấn công gầm lên, muôn loài chạy ra ứng cứu thì con voi thủ lĩnh của muông thú trong cánh rừng đã bị lũ khỉ tha mất cái đầu. Vì thương tiếc người thủ lĩnh, các loài thú đã khuôn đá về đắp mộ cho con voi thủ lĩnh. Núi Bái chính là ngôi mộ của con voi thủ lĩnh khi xưa. Hang ma chính là thân con voi mà qua năm tháng đã tạo nên. Tên núi Bái cũng có ý là lòng ngưỡng mộ của muôn loài muông thú nơi đây với voi thủ lĩnh. Và cũng chính vì thế mà hang ma trông có hình con voi phục. Núi Bái còn có tên là núi Voi Phục.
Những ngày trước cách mạng, cả khu rừng này thuộc đất nhà Phan Lềnh. Núi Bái cũng là đất nhà Phan Lềnh. Sau này, khi quân Pháp lên đây, vì rừng rậm và có nhiều loài thú độc nên bọn lính cũng chỉ dám đóng quân ở dưới chân núi, quẩn quanh nhà ông, nhà bố Phan Lềnh. Chỉ đến khi cô Lù treo cổ tự tử ở cửa hang. Cái miệng bành rộng của con hổ chúa khi xưa có tên hang ma bắt đầu từ đó. Và cho đến lúc đó, người làng mới dám bước lên khu rừng này. Nghe già làng kể cho nghe câu chuyện về sự tích hang ma, Tự Kim và A Lò quyết định lên núi Bái để khảo sát thực tế hang ma. Men theo bìa rừng, Tự Kim và A Lò đi lên. Đặt từng bước chân lên lớp lá rụng, ngai ngái mùi ải mục. Thỉnh thoảng lại có tiếng đập cánh hoảng hốt của con chim bị đánh động bay lên. Tiếng trăn gió quăng mình trên cây rào rào. Những thân cây mốc rêu bám xanh từ gốc lên ngọn. Những cành tầm gửi rủ xủ xuê xuống la đà trên mặt đất. Hơi nước, hơi sương, hơi lá cây mục hoang hoải.Ngồi nghỉ bên hốc đá, Tự Kim đưa ống tay quyệt mồ hôi. Tự Kim đưa mắt nhìn A Lò. A Lò hai tay ôm khẩu súng CKC trong lòng, mắt nhìn lên tán lá.
Đan xen giữa các thân cây, những tấm mạng nhện nhằng nhịt, to như cái nong cái nia. Nằm giữa mỗi tấm mạng nhện đó, những con nhện to như ngón chân cái, đen trùi trũi. Mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi qua, những tấm lưới được chúng dệt lại phập phồng, phập phồng.
9
MÓC NỐI Phan Lềnh ngồi trên đỉnh Con Cóc đưa mắt nhìn. Phan Lềnh tiếc một thời mà cha mẹ và Phan Lềnh đã sống. Cả khu đất rừng nhìn hết tầm mắt này trước đây là của nhà Phan Lềnh. Những ngày mà mọi người chỉ cần nghe tên Phan Lềnh đã phải cúc cung tận tụy phục vụ. Phan Lềnh đã vào lọt được đúng như kế hoạch của cấp trên. Nhiệm vụ của Phan Lềnh bây giờ là làm sao móc nối, xây dựng được một hệ thống giúp việc. Nếu cứ theo những gì Phan Lềnh được huấn luyện và đào tạo thì những người Phan Lềnh nhắm đến đầu tiên phải là người nhà, bạn bè và có họ hàng thân thích. Nghĩ là thế nhưng Phan Lềnh vẫn sợ thời gian làm cho con người ta thay lòng đổi dạ. Ở đời Phan Lềnh cũng đã được chứng kiến qua nhiều chuyện như thế rồi. Người đời vẫn cứ bảo: Khuyển mã tri tình. Phan Lềnh nghĩ. Ấy là người xưa nói thế thôi, chứ chỉ cần đổi chủ là một thời gian sau con chó cũng sẽ sẵn sàng cắn xé chủ cũ nếu chủ mới ra lệnh, con ngựa cũng sẽ không còn nghe lệnh của chủ cũ. Phan Lềnh biết, xét cho đến cùng thì cũng chỉ vì miếng ăn mà ra cả. Sự trung thành hay phản bội cũng bắt nguồn từ miếng ăn, cái áo mặc. Loài thú còn thế thì với Phan Lềnh, con người còn đáng sợ hơn. Muốn móc nối, sử dụng được Phan Lềnh phải kiểm tra và thử thách. Nhưng kiểm tra như thế nào, móc nối lại ra sao thì Phan Lềnh còn chưa biết phải làm từ đâu và bắt đầu từ chỗ nào.Phan Lềnh tiếc cuộc sống một thời và cũng không thể nào quên được cái chết của bố. Phan Lềnh quyết đòi lại sự công bằng. Cứ mỗi khi nghĩ đến bố là lòng Phan Lềnh lại sôi lên. Phan Lềnh đã tự nhủ lòng mình. Phan Lềnh phải báo thù được cho bố, phải lấy lại được mảnh đất mà cha ông đã có. Phan Lềnh nhớ đến những chiều lão Tảng đưa Phan Lềnh vào rừng. Nhớ lão Tảng đưa vào rừng săn thú. Tất cả mọi cái sống trên vùng đất này là của nhà Phan Lềnh. Kể cả mấy đứa con gái dưới bản. Nếu Phan Lềnh thích là Phan Lềnh có thể bắt về làm vợ bất cứ lúc nào. Có một lần, theo bố đi cúng. Trên đường đi, bố Phan Lềnh lấy tay khoát một đường ngang mặt. Bố bảo với Phan Lềnh rằng, tất cả sẽ là của Phan Lềnh. Sau này với cơ ngơi tài sản này, Phan Lềnh sẽ được làm vua ở xứ Yên Hưng. Mảnh đất Yên Hưng sẽ là của dòng họ nhà Phan Lềnh.
Phan Lềnh không thể nghĩ được chuyến trở lại của Phan Lềnh lại thuận chiều xuôi gió như thế này. Phan Lềnh nhớ lắm. Nhớ không thể quên được hình ảnh bố Phan Lềnh thắt cổ tự tử ở trên chiếc xà nhà của gia đình.
Không nghĩ đến thì thôi, mỗi khi nghĩ đến lòng Phan Lềnh lại như có lửa đốt. Phan Lềnh căm thù tất cả. Lúc nào trong lòng Phan Lềnh cũng chỉ ngùn ngụt ngọn lửa vì đâu mà nhà Phan Lềnh nên nông nỗi này? Vì đâu mà bố Phan Lềnh phải thắt cổ mà chết? Phan Lềnh muốn tìm lại mảnh đất này để giết chúng nó trả thù cho bố. Lòng nghĩ thế nhưng có lúc Phan Lềnh đã tự hỏi xem vì sao lại có chuỵên xảy ra như thế. Có phải vì bố Phan Lềnh đã làm những chuyện như những gì mà lão Mai và lão Dung nói không? Lòng Phan Lềnh rối như tơ vò.Đang ngủ, Phan Lềnh nghe có tiếng gọi.
- Cậu ơi! Cậu ơi! Ông cho tìm cậu.
Phan Lềnh nằm nghe như tiếng lão Tảng. Kệ. Phan Lềnh cứ nằm ườn ra. Tiếng gọi mỗi lúc dồn dập hơn. Tiếng gọi như thúc vào tai. Đạp cửa cái rầm. Phan Lềnh bước ra cửa thì không ai khác đúng là lão Tảng thật. Lão đang đứng khép nép bên cửa, hai tay giấu vào đầu gối, lưng còng còng, cái cổ cúi xuống. Thân xác lão to như con bê che chắn hết cả một chỗ. - Có việc gì mà gọi lắm thế.- Dạ. Ông cho gọi cậu ạ.
- Có việc gì?
- Dạ. Con không biết. - Nói tao đang ngủ.- Dạ. Ông bảo phải gọi cậu dậy và bảo cậu phải lên ngay. Ông chờ.
- Cứ về phòng ông đi rồi tao lên.
- Dạ. Nói xong Phan Lềnh lại chui vào phòng nằm ngủ. Lão Tảng vẫn hai tay giấu giữa hai đầu gối, đầu cúi xuống, đứng chờ. Lão Tảng đợi một lúc lâu vẫn không thấy Lềnh ra, lại cất tiếng gọi.- Cậu ơi. Cậu dậy đi. Ông cho tìm cậu.
Lần này bước ra, nét mặt Phan Lềnh khó đăm đăm. Rõ ghét. Trông cái mặt lão Tảng, Phan Lềnh chỉ muốn đấm cho mấy nhát. Bực vì đang ngủ bị đánh thức dậy nhưng Phan Lềnh biết tính bố. Ông ấy đã cho gọi mà không đến thì chết đòn.
Lệt sệt theo chân lão Tảng đi lên. Vừa đi Phan Lềnh vừa lủng bủng nói thầm trong miệng. Nhìn cái dáng của lão Tảng cun cút đi phía trước, Phan Lềnh thấy ngứa mắt quá. Phan Lềnh đi nhanh lên đuổi kịp lão Tảng. Như tiện chân, Phan Lềnh giơ chân đá vào đít lão Tảng. Bị đá bất ngờ, lão Tảng giật mình nhìn cậu chủ. - Mày đi như thế chả hoá ra mày là người dẫn đường cho tao à. Tao có mù đâu mà không biết đường.- Dạ. Con mời cậu đi trước. Con xin cậu tha tội.
Bước vượt lên, Phan Lềnh hinh hích cười. Phan Lềnh thấy đá lão Tảng phí. Phan Lềnh có đánh vậy chứ đánh nữa thì lão Tảng cũng chả dám hở miệng than trách một câu. Bỗng dưng, Phan Lềnh thấy thương cho lão Tảng. Sống như lão Tảng cũng chán, cũng buồn và thật nhục. Một lão to lớn như voi mà phải sợ một người nhỏ bé như Phan Lềnh. Tất nhiên là Phan Lềnh không thể hiểu được vì sao lão Tảng phải như thế. Phan Lềnh cũng không cần hiểu làm gì. Phan Lềnh chỉ thấy được người khác cung phụng là thích.
Vừa thấy Phan Lềnh vào cửa, cụ Chu đã hỏi. - Sao tao bảo mày lên mà bây giờ mới thấy mặt.Phan Lềnh không nói gì, đưa mắt nhìn quanh. Cụ Chu đang ngồi với bốn năm người khác. Những người này Phan Lềnh chả lạ gì. Lão tóc dài cuốn khăn xếp là ông chánh tổng của làng Bái. Người có đôi mắt kèm nhèm như gián rấm là lão hương của làng Đục. Còn người nhỏ loắt quắt có cái tai như tai chuột là ông tuần làng Nòm. Người ngồi xếp bằng, tay dài như tay vượn là cụ bá của làng Khê. Mấy người này thường tụ tập ở nhà Phan Lềnh để chơi tổ tôm.
- Bố đang chơi gọi con lên có việc gì?
- Thế tao không có việc, không cho gọi mày lên được à? Lão Chu nghe con nói thế, nét mặt nổi đỏ rần rật. Ở đời này lão chưa biết sợ ai. Ngay mấy ông quan tây, súng ống đầy mình, đi đâu cũng có lính kè kè bên cạnh mà còn phải sợ lão, chịu lão. Hổ không ăn thịt con chứ nếu không lão đã xé xác thằng ôn dịch này ra cho hả giận.- Tao cho gọi mày lên để chia bài cho các cụ.
- Tôi không chia bài. Các ông thích chơi thì chia lấy mà chơi.
Vừa nghe con nói thế, lão ném bộ bài xuống chiếu, mắt gườm gườm nhìn Phan Lềnh. Lão Chu ngoái đầu ra ngoài hỏi lại. - Mày vừa nói cái gì? Mày có giỏi nói lại cho tao nghe lại xem?Dứt lời, lão Chu lấy cả cái bát uống nước ném thẳng vào người Phan Lềnh. Lão Tảng lao đến, hứng trọn cả cái bát vào ngực. Lấy hai tay ôm ngực, lão Tảng quỳ vội xuống chắp hai tay vái lão Chu. Miệng lão Tảng rên rỉ.
- Thưa cụ. Cậu con vừa ngủ dậy nên chưa kịp ăn. Cụ bỏ quá cho để cậu con ăn xong rồi lại hầu các cụ.
Nhớ lại chuyện cũ, Phan Lềnh nghĩ người mà Phan Lềnh phải móc nối, xây dựng cơ sở sẽ là lão Tảng. Dẫu sao thì Phan Lềnh và lão Tảng cũng đã có một thời gắn bó chủ tớ với nhau. Lão Tảng như con ma xó, chỗ nào ở đây lão cũng biết. Chỉ qua lão Tảng, Phan Lềnh mới có cơ hội tìm lại được những người mà Phan Lềnh có ý định xây dựng. Từ lão Tảng, Phan Lềnh sẽ móc nối lại qua các mối quan hệ cũ. Con người tâm tính như lá cây. Cuộc đời đã dậy cho Phan Lềnh biết sự thật về con người mà cái giá Phan Lềnh phải trả. Phan Lềnh không bao giờ có thể quên chuyện của mấy thằng chỉ huy ở trung tâm huấn luyện. Nghề nghiệp của Phan Lềnh chỉ có một niềm tin duy nhất, đó là chính bản thân mình. Và thậm chí phải có những khi, ngay bản thân mình cũng cần phải nghi ngờ. Niềm tin sẽ cho người ta đến nhanh cái chết. Chỉ có sự nghi ngờ mới cho người ta sự tồn tại. Bạn bè, người thân ba ngày gặp lại còn cần phải xem xét và nghi ngờ. Đằng này, Phan Lềnh đã đi không đặt chân về mảnh đất này gần sáu năm rồi, từ cái ngày Phan Lềnh chứng kiến cảnh người cha của Phan Lềnh treo cổ ở gian giữa ngôi nhà. Sự ra đi và quyết chí báo thù như đám lửa ngày đêm cứ âm ỉ cháy đốt lòng Phan Lềnh. Những ngày trong trại huấn luyện, những đêm một mình nhớ lại một thời xa xưa của đời ông cha nhà Phan Lềnh, những lời giáo huấn về sự trả thù của chế độ luôn thúc dục Phan Lềnh trở về. Và Phan Lềnh đã về.Đặt chân lên mảnh đất cũ, Phan Lềnh càng nóng lòng được báo thù. Mặc dù bước đầu một mình phải lo toan và tính toán, phải chui rúc như con cú con cáo, mấy lần suýt sa vào tay bọn công an nhưng ngọn lửa báo thù trong lòng Phan Lềnh không nguội lạnh. Phan Lềnh càng thấy nó lớn lên từng ngày, từng giờ. Dẫu nóng ruột vì công việc tiến triển quá chậm nhưng Phan Lềnh biết, thời gian chính là lực lượng, là sức mạnh. Biết chờ đợi, biết chịu đựng, biết chấp nhận cũng là tiền đề cho sự thắng lợi. Đồng tiền có thể mua được tất cả. Lợi ích cá nhân luôn và mãi sẽ là thước đo cho sự trung thành. Sự trung thành đó là vì sự tồn tại của mỗi cá nhân.
Ngồi tính toán các bước sắp tới. Nhớ đến lão Tảng, Phan Lềnh ngửa mặt lên trời cười. Tiếng cười thoảng đi như gió. Rồi Phan Lềnh lủng bủng chửi. Tiếng chửi cũng chỉ văng ra đến cuống họng rồi giắt lại đó, không buột ra khỏi miệng.
- Mẹ cha cái lão Tảng. Không biết lão còn ở làng không? Hay là lão lại chết dí ở đâu rồi? Lão như con chó đực. Thấy chó cái là cuống lên rồi bám theo mà mất mặt. Chửi thế nhưng Phan Lềnh biết. Lúc này chỗ dựa duy nhất của Phan Lềnh là lão Tảng. Phan Lềnh ngồi lim dim mắt tính cách bắt gặp, chắp nối lại với lão Tảng.CUỘC HỘI Ý CHỚP NHOÁNG
Để đỡ phải đi lại mất thời gian, khi đi xuống bếp ăn sáng, Song Hoa mang cuốn sổ tay công tác đi theo. Xuống bếp ăn vội ăn vàng mấy củ khoai luộc tiêu chuẩn bữa sáng, Song Hoa chỉ kịp lấy cái tăm rồi đi thẳng vào phòng Trịnh Toàn.
Bước chân vào đến phòng Trịnh Toàn. Song Hoa đã thấy Trịnh Toàn có ý ngồi chờ bên chiếc bàn làm việc. Nhìn chiếc bàn làm việc của Trịnh Toàn mà lòng Song Hoa ái ngại. Chiếc bàn đã cũ đến mức không thể cũ hơn. Bốn chân bàn mọt ăn ruỗng, nham nhở, lở loét. Một vài chỗ đã bung cả ra, lớp vỏ gỗ bên ngoài bị mọt ăn mỏng như tờ giấy, phật phờ, phật phờ bay mỗi khi có cơn gió vô tình thổi qua.
Trong những năm đầu thành lập lực lượng, khó khăn chồng chất khó khăn. Nào xây dựng lực lượng, nào củng cố tư tưởng, rồi xây dựng lập đồn dựng trạm. Không đụng đến thì thôi, hễ đụng đến đâu là cả núi công việc đến đó. Lực lượng khó khăn nên trang thiết bị phục vụ cho công tác của người cán bộ cũng còn tạm bợ và thiếu thốn. Cũng may, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ hiểu và tư tưởng tốt nên khó khăn là thế vẫn không có ai kêu ca, lời ra tiếng vào hay than vãn gì cả. Song Hoa biết, đó cũng chính là sự cảm thông của đội ngũ cán bộ chiến sĩ đối với các ông, những người làm chỉ huy mà không có lời nào diễn tả được. Tay vừa rót nước chè xanh từ chiếc ấm tích cậu công vụ mới pha ra mời, Trịnh Toàn nêu ý kiến ngay. Vẫn cái giọng ầm ầm như sấm, như bão.- Công việc nhiều quá. Thôi anh thông cảm. Vừa uống nước ta vừa trao đổi luôn.
Ở với nhau, cộng tác cùng nhau đã được ba bốn năm, anh còn lạ gì. Cũng vì công việc cả mà những người lính mới gặp nhau ở đây. Mỗi người mỗi nơi, nếu không vì sự nghiệp cách mạng thì ai nấy một nơi, chắc gì đã biết nhau. Vì công việc chung mà gặp nhau, ở cùng nhau và làm việc cùng nhau cũng là cái mừng. Hiểu nhau rồi mà còn khách sáo quá. Song Hoa định nói nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, lại thôi.
- Có việc gì mà cần kíp thế anh? - Tôi vừa nhận được tối qua điện của Ban Công an Trung ương gửi xuống. Do tình hình cách mạng có những chuyển biến mới. Khả năng tới, các lực lượng chống đối sẽ tập trung vào hoạt động phá hoại cách mạng với các hình thức khác. Có nhiều khả năng địch sẽ tung các toán hoạt động gián điệp, biệt kích vào miền Bắc để làm nhiệm vụ móc nối, xây dựng cơ sở để thu thập thông tin tình báo kết hợp với phá hoại các mục tiêu kinh tế, chính trị để gây thanh thế, làm mất niềm tin trong nhân dân, từ đó làm mất ổn định chính trị trong xã hội. Ban Công an Trung ương điện xuống nhắc nhở các đơn vị xây dựng kế hoạch tác chiến, sẵn sàng đánh trả các hoạt động trên.Việc các đối tượng phản cách mạng lợi dụng vào thời điểm đất nước vừa mới giành lại được hoà bình để tăng cường các hoạt động chống phá như gây bạo loạn, cài cắm người chui sâu vào bộ máy nhà nước, nổ mìn đánh phá các mục tiêu quan trọng như kinh tế, chính trị không còn là những dự báo mà đã là vấn đề nóng của cách mạng cần tập trung giải quyết. Những nơi quan trọng như nhà máy, xí nghiệp, công sở làm việc, cầu cống sẽ là mục tiêu đầu tiên mà các lực lượng chống phá chọn làm mục tiêu phá hoại. Việc bọn phản động lợi dụng trong lúc cách mạng còn gặp nhiều khó khăn để đánh phá, gây tiếng vang, gây mất niềm tin, tạo sự nghi ngờ trong nhân dân là tất yếu. Nhưng chúng là ai, là những người nào? Danh tính của các đối tượng thì không chỉ có thể cảm nhận bằng cảm tính mà phải bằng lý trí và sự kiên trì, năng lực nắm bắt tổng hợp tình hình, sàng lọc đối tượng, gạn đục khơi trong để có kết luận chính xác.
Song Hoa nhớ lắm. Hình ảnh Bác Hồ đến dự hôm làm lễ thành lập lực lượng công an nhân dân vũ trang. Sau khi nói chuyện với cán bộ chiến sĩ toàn lực lượng, Bác còn làm thơ tặng có ý nhắc nhở và cũng là phương châm, nguyên tắc cho hoạt động của toàn lực lượng.
Đoàn kết cảnh giác Liêm chính kiệm cầnHoàn thành nhiệm vụ
Khắc phục khó khăn
Dũng cảm trước địch Vì nước quên thânTrung thành với Đảng
Tận tuỵ với dân.
Lời thơ của Người mộc mạc nhưng thật chí lý chí tình. Mới đây, trong hội nghị quán triệt nghị quyết, Đảng uỷ Ban Công an Trung ương cũng đã nhấn mạnh việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống các loại tội phạm, trong đó, đồng chí chính uỷ lực lượng cũng nhắc nhiều đến việc các đơn vị cơ sở trên các tuyến biên giới cần tập trung xây dựng kế hoạch chống gián điệp, biệt kích và các loại tội phạm mới.Theo phân tích và chủ trương của lực lượng, đối tượng xâm nhập vào miền Bắc sẽ là các đối tượng phản động, có nợ máu với cách mạng. Một loại đối tượng nữa mà kẻ địch có thể lợi dụng đó là những người bỏ vào vào Nam những năm 1954 khi chúng phao tin chúa chạy vào Nam. Đây là những người dân lương thiện, nhưng bị địch lợi dụng lòng tin vào chúa mà kích động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Một đối tượng nữa mà kẻ địch có thể tung vào miền Bắc là những đối tượng theo con đường ngoại giao. Và đối tượng cuối cùng có thể xảy ra là bọn tề nguỵ, lính tinh nhuệ được chủ thầy đào tạo huấn luyện để xâm nhập vào miền Bắc.
Trong số các đối trên, Đảng ủy ban Công an Trung ương cũng nhấn mạnh đến đối tượng có thâm thù với cách mạng. Đối tượng này có thể trong gia đình có người đi theo giặc đã bị các lực lượng an ninh thời chín năm trừng trị. Cũng có thể là những người đã có những tham gia trong hoạt động cách mạng nhưng vì gia đình chịu những thiệt thòi, sai lầm từ trong cải cách nên đem lòng báo thù. Từ chỗ là người của các mạng đã quay súng trở thành kẻ phản bội lại lợi ích của dân tộc, của đất nước, đang tâm làm tay sai cho giặc. Trong tất cả các loại đối tượng thì đây là đối tượng nguy hiểm nhất. Thực chất đối tượng này có lý luận, đã nắm vững các chủ trương và nghiệp vụ của ta, biết đặc điểm của các dân tộc, biết phong tục tập quán, có sẵn cơ sở và có mối quan hệ rất gần gũi và thân mật với người dân nơi địa bàn chúng trở lại hoạt động. Trong số những người dân của địa bàn chúng quay lại hoạt động có nhiều người mang ơn đối tượng. Vì thế, khi đối tượng này trở lại, rất dễ được người dân bao bọc và tin tưởng nghe theo. Đây chính là những đối tượng như con rắn nằm trong tay áo. Chúng biết thu mình song cũng sẵn sàng tấn công để tiêu diệt ta khi có sơ hở chủ quan.
Trong khi quán triệt đồng chí chính uỷ cũng đã nói rõ hướng xâm nhập. Dù là đối tượng nào thì hướng xâm nhập cũng đều xuất phát từ đường bộ, đường không và đường biển. Lực lượng công an nhân dân vũ trang là người lính gác cửa của đất nước, sẽ là lực lượng đầu tiên giáp mặt với các đối tượng này. Địa bàn các đối tượng này hoạt động sẽ chủ yếu là rừng núi để dễ lẩn trốn và ẩn nấp khi bị phát hiện. Khi đã vào được sâu trong nội địa thì các đối tượng xâm nhập sẽ tìm cách móc nối với các đối tượng do phòng nhì của Pháp còn cài cắm lại hoặc sẽ móc nối với người thân để củng cố và xây dựng mạng lưới mới. Gia đình, bạn bè, người thân sẽ là mục tiêu đầu tiên mà các đối tượng này nhắm tới. Đồng chí chính uỷ cũng nhắc nhở cấp uỷ các đơn vị quan tâm đến xây dựng đơn vị vì đây là giai đoạn mà lực lượng mới được thành lập. Khó khăn còn nhiều, kinh nghiệm công tác còn hạn chế, nghiệp vụ chưa được chuyên sâu, đời sống cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn. Đội ngũ cán bộ chiến sĩ nhiệt tình cách mạng song cơ bản còn quá trẻ, dễ bốc đồng, thái quá. Chính từ những tồn tại đó sẽ là nơi cho các đối tượng xâm nhập lợi dụng để thực hiện hoạt động chống phá cách mạng.
Cầm bức điện mật của Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Trung ương gửi cho Ban công an nhân dân vũ trang các tỉnh về việc có một đối tượng được đánh trở lại có mật danh ARET. Theo nhận định thì đối tượng có nhiều khả năng xâm nhập vào miền Bắc theo tuyến biển trong khu vực Đông Bắc. Vậy đối tượng này sẽ xâm nhập bằng phương tiện gì? Thời điểm xâm nhập? Địa bàn đổ bộ xâm nhập? Âm mưu thủ đoạn xâm nhập? Phương tiện mang theo khi xâm nhập? Có biết bao nhiêu câu hỏi mà đang chờ phải giải quyết và trả lời. Thời gian không chờ đợi. Công việc không chờ đợi. Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu như thế nào? Những ai sẽ trực tiếp tham gia lực lượng trong tổ công tác?
Nhìn chỉ huy trưởng Trịnh Toàn thỉnh thoảng lại lấy hai tay bóp bóp hai bên thái dương, những nếp nhăn sớm trên trán hằn rõ những đường nếp. Hai hốc mắt thâm quầng vì mất ngủ. Để trấn tĩnh và cũng là cách để tìm ra phương pháp xây dựng kế hoạch chính xác, chặt chẽ, kéo Trịnh Toàn ra khỏi những lo lắng, Song Hoa nhấp chén nước, nói nhẹ nhàng. - Có lẽ tôi cho triệu tập họp đảng uỷ bất thường để lấy ý kiến của nhiều người. Tình hình như thế này là yêu cầu công việc gấp gáp lắm rồi. Anh thấy sao?Vẫn hai tay bóp bóp hai bên thái dương, Trịnh Toàn không trả lời ngay. Dường như Trịnh Toàn muốn kiểm tra lại những suy nghĩ của mình lần cuối cùng phương án tác chiến. Sau một quãng im lặng, Trịnh Toàn hạ giọng nói như nói thầm.
- Tôi cũng nghĩ có khi phải làm theo cách của anh thôi.
- Anh cứ nghĩ cho kỹ thêm. Tôi cũng sẽ nghĩ thêm. Có gì tối tôi và anh ta lại ngồi lại với nhau một chút nữa. Bao giờ tôi và anh thống nhất thì lúc đó sẽ thông báo cho các đồng chí trong cấp uỷ cũng chưa muộn. Như tạm thời tìm được lối thoát đối với công việc, Trịnh Toàn đứng lên đi lại phía tủ cá nhân. Anh lấy ra một nậm đựng rượu. Rót ra hai chiếc chén mắt trâu men mầu nâu nâu.- Mấy hôm trước, tôi về qua nhà, mụ vợ có dúi cho nậm rượu. Rượu nhà nấu. Anh uống với tôi chén nhé. Rượu vợ tôi nấu đấy. Uống chút cho thông máu.
Cầm chén rượu Trịnh Toàn đưa, Song Hoa chợt nhớ vợ và con đến nao lòng. Đã lâu quá rồi, hơn năm nay vì công việc cuốn đi mà Song Hoa chưa có dịp ghé về thăm nhà. Người phụ nữ có chồng đi công tác xa thật khổ, nhất là với những người lính như các anh, năm tháng biền biệt, ngay nỗi nhớ cũng chỉ thoáng qua, bất chợt.
11 CHIẾC BƠI CHÈO VÔ CHỦ Sắp xếp được các tập hồ sơ vào tủ, Trịnh Toàn đứng lên vươn vai định xuống sân chơi mấy séc bóng bàn. Đã lâu rồi ông không có thời gian để chơi bóng bàn nữa. Hôm qua khi vừa đi kiểm tra các đơn vị triển khai kế hoạch tác chiến mới từ mấy huyện về qua sân, thấy ông, mấy anh em cảnh vệ mời vào chơi mấy séc bóng. Đến khi cầm vợt, cắt mấy đường bóng ông mới thấy cổ tay đã cứng, đường cắt bóng cũng đã không còn chặt, mắt cũng không còn tinh và khả năng phán đoán đường bóng cũng đã xuống. Thế mới hay, cái gì không ôn luyện thường xuyên thì sớm hay muộn cũng kém. Các cụ ngày xưa dạy: Văn ôn võ luyện chẳng sai chút nào.Cởi áo mắc lên chiếc móc tự làm bằng thanh gỗ đóng tạm trên đầu giường. Quay ra đến cửa, chiếc điện thoại lại réo lên. Trịnh Toàn tay vẫn còn cầm chiếc vợt, quay lại bàn, nhấc máy.
- Tôi Trịnh Toàn nghe đây.
Tiếng nói bên kia đầu dây của trưởng ban trinh sát gấp gáp. - Báo cáo thủ trưởng. Theo nguồn tin từ cơ sở ở làng Vàng báo về. Một ngư dân ở làng Vàng vừa nhặt được chiếc bơi chèo lạ trôi trên biển.- Các cậu đã cho xác minh nguồn tin chưa?
- Dạ. Chưa. Chúng em tưởng…
- Tại sao lại chưa? Tưởng cái con khỉ. Đưa ngay trinh sát xuống xác minh. Làm xong báo cáo tôi ngay. Sáng mai phải có báo cáo. Rõ chưa? Định dập máy thì Trịnh Toàn nghĩ thế nào đó hạ giọng nói nhỏ nhẹ.- Thôi. Cho anh em trinh sát xuống làng Vàng ngay nhé. Thu thập được gì cứ điện về cho tôi ngay. Bất kể lúc nào. Nửa đêm cũng nhớ phải báo cáo đấy.
- Rõ. Thưa thủ trưởng.
- Thưa gửi cái gì. Cho trinh sát làm ngay đi nhé. Tôi chờ tin các cậu đấy. Cúp máy, Trịnh Toàn đặt chiếc vợt lên mặt bàn rồi ngồi xuống. Với tay nhấc máy anh định quay gọi trao đổi với chính trị viên Song Hoa. Thế này là thế nào? Đảng uỷ đã có nghị quyết, chương trình công tác, kế hoạch công tác đã triển khai học tập quán triệt. Chẳng lẽ việc học tập quán triệt không thấm, không ngấm vào tư tưởng của anh em. Hay là việc học tập quán triệt chưa rõ, chưa cụ thể về những vấn đề sắp tới? Tính chủ quan hay là sự non kém về ý thức nghiệp vụ? Do công việc củng cố xây dựng quá nhiều mà anh em chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nghị quyết đưa ra.Với tay nhấc máy điện thoại. Trịnh Toàn định điện trao đổi với chính trị viên Song Hoa song nghĩ thế nào lại thôi. Đặt máy xuống. Trịnh Toàn với tay lấy chiếc áo, khoác vào rồi ra đóng cửa.Trịnh Toàn không muốn có ai quấy rầy mình vào lúc này.
Chuyện trên hang ma lại có ma xuất hiện. Một số gia đình ở mấy bản xung quanh chân núi đã bỏ nhà chuyển đi nơi khác. Tình hình xã hội và an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn có nhiều chiều hướng diễn biến phức tạp. Trịnh Toàn đã điện hỏi ban chỉ huy đồn Yên Hồng ba bốn ngày nay mà vẫn chưa nhận được thông tin trả lời hay báo cáo gửi về. Tình hình chưa nắm được nguyên nhân, chưa làm rõ được mục đích và chưa có giải pháp cụ thể thì khó lòng mà khắc phục được. Trịnh Toàn có nghe báo cáo là Tự Kim và A Lò đã xuống các bản nắm tình hình nhưng sao mà lâu thế. Trịnh Toàn định để qua ngày hôm nay mà chưa có báo cáo của đồn Yên Hồng ông sẽ cho triệu đồn trưởng Trần Minh Hồng về trực tiếp báo cáo và cũng phải quát cho cậu này một trận. Làm ăn kiểu dung dăng dung dẻ thế này có mà bốc ruốc. Trịnh Toàn rất bực nhưng ông cố nén lại để chờ tình hình thực tế như thế nào.Chuyện hang ma có ma làm người dân bất ổn trong sinh hoạt chưa giải quyết xong thì lại có báo cáo vào thứ bẩy tuần trước, bộ phận trinh sát vô tình phát hiện được sóng lạ qua việc dò sóng đài phát thanh phát hiện ra. Khoảng thời gian diễn ra là rất ngắn, rất nhanh và không có âm thanh vì phát trùng vào chương trình thời sự của đài tiếng nói. Lúc đầu anh em chỉ tưởng là sóng phát thanh bị nhiễu nên chưa chú ý. Đến ngày hôm qua, cũng đúng vào thứ bẩy, cũng thời gian phát sóng chương trình thời sự của đài tiếng nói anh em lại thấy có tín hiệu sóng nhiễu. Việc có tín hiệu sóng lạ ấy là do thời tiết, do chất lượng của đài thu thanh hay là do cái gì? Chuyện này cũng đã làm Trịnh Toàn rất bực mình. Chuyện như thế mà anh em chỉ nghĩ đơn giản nên đã không báo cáo với ông. Chỉ đến khi thấy anh em xì xào bàn tán, biết chuyện Trịnh Toàn hỏi anh em mới báo cáo.
Các chuyện chưa xong thì bây giờ lại có chuyện ngư dân làng Vàng nhặt được chiếc bơi chèo lạ trôi trên biển. Chiếc bơi chèo loại gì, chất lượng gỗ làm bơi chèo, dài ngắn ra làm sao? Có dấu vết gì để lại trên bơi chèo không? Việc hang ma có ma trở lại. Việc phát hiện có tín hiệu sóng lạ chèn vào sóng phát thanh. Chuyện nhặt được chiếc bơi chèo trôi trên biển. Tất cả là như thế nào? Có liên quan đến điện mật báo kẻ mang mật danh AZET hay không? Nếu từ núi Bái, bản La Khê gần khu vực hang ma xuống đến biển, nơi ngư dân làng Vàng nhặt được chiếc bơi chèo đi bộ cũng phải mất trọn ngày đường?
Trịnh Toàn nhấc máy điện cho cơ quan văn thư, quản lý hồ sơ mang lên cho anh tập danh sách các đối tượng trong diện quản lý sưu tra trên địa bàn. Trịnh Toàn hy vọng mong manh tìm ra được chút dây liên lạc hay thông tin nào đó từ chuyện này. Biết đâu, thời gian đã qua vẫn chưa đủ để cho mỗi con người tu tỉnh, tìm ra cho mình một lẽ sống mới. 12 NGƯỜI BẠN CŨ Chiều muộn, một vài ba chiếc thuyền câu đã rời bến. Phía cuối trời, những đám mây vàng ệch như nghệ.Theo dân gian truyền lại, những ngày nào mà phía chân trời có nhưng áng mây vàng như nghệ, tối đến trời mù sương là những ngày của cá đi ăn đàn. Nếu ai tốt số, gặp đàn cá như thế, nếu có gọi cả làng chài đến đánh bắt cũng không hết. Cũng vì thế mà các thuyền đã rời bến đi ra khơi. Mấy hôm nay trời mù sương. Theo kinh nghiệm của ngư dân, những ngày mù trời thế này là biển rất nhiều cá. Trời mù đến mức, sáng ra, Trịnh Toàn phải đóng cửa sổ phía quay ra biển. Mấy chiếc thuyền còn nằm trên bến dập dềnh dập dềnh theo sóng. Theo Trịnh Toàn, kiếp ngư dân có lẽ là kiếp khổ nhất. Trịnh Toàn không thể hiểu được từ bao giờ con người đã xuống biển để tìm kế sinh nhai. Trong lịch sử của loài người chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu hay viết sách về quá trình hình thành của làng chài ven biển. Nếu con người có quá trình hình thành, tiến hoá từ loài khỉ thì cuộc sống bước đầu không thể là nơi biển cả. Ở với biển cả, nắng, nóng, sóng, gió, bão mà con người luôn phải đối mặt. Muốn tồn tại ở biển, con người cũng không thể sống đơn lẻ. Sống ở biển cả là phải sống theo tập thể, lối sống bầy đàn. Sự sống và cái chết luôn rình rập bên mình.
Trịnh Toàn nghĩ, có lẽ đã từ lâu lắm rồi, khi loài người còn sinh sống bằng cách bám theo dọc các con sông để sống. Thời gian qua đi, con người nhiều lên, sự phân chia lãnh thổ cát cứ và tranh giành quyền lực cùng sự sống đã làm cho con người cứ lân theo dòng chảy của các con suối con sông mà lần ra biển cả. Lúc đầu có khi chỉ là những sợi dây đan vào nhau làm tấm lưới, hoặc cái cành cây vót nhọn đầu làm cái lao xiên cá, cái tay tre buộc vào đầu sợi dây buộc túm chút mồi làm chiếc cần câu. Cứ thế con người trải qua năm tháng làm quen dần với biển.
Thả mình thư thả đi trên bãi cát. Những con sóng xô vào bờ rồi lại theo nhau đẩy ra xa. Những hạt cát mịn màng lười biếng nằm thườn thượt nô đùa cùng sóng nước. Sát bên bờ cát, mấy chiếc thuyền câu xô ra rồi lại trồi vào. Chiếc dây neo cũng khi chùng khi căng. Bất giác Trịnh Toàn mỉm cười một mình. Nhìn dây neo khi chùng khi căng Trịnh Toàn cười một mình vì ông chợt nhớ đến cái triết lý sống ở đời. Cái dây buộc mà vấn chặt quá rồi cũng đứt, buộc lỏng quá rồi cũng hỏng. Chùng quá cũng khó mà tồn tại. Căng quá có khi lại đứt. Biết khi nào chùng khi nào căng đây? Cái thuyền câu dập dềnh kia không thể theo sóng mà ra xa song cũng không thể thoát được cảnh bám mé bờ có lẽ cũng vì cái dây khi chùng khi căng kia chăng? Trịnh Toàn đứng nhìn mấy chiếc thuyền câu nghĩ ngợi.Chọn một chiếc thuyền câu ven bờ Trịnh Toàn bước lên. Ngồi trong lòng thuyền đang hì hụi xâu lại tay lưới là người đàn ông để trần, da đen sạm, mái tóc cắt cua. Bộ râu quai nón chưa cạo mờ mờ xanh. Các cơ bắp nổi u nổi cục như dây thừng dây chão. Chỉ ngẩng lên nhìn Trịnh Toàn một thoáng rất nhanh, người đàn ông lại cúi xuống với công việc.
- Chào thủ trưởng.
- Tôi có làm thủ trưởng đâu mà chào tôi thế. Người đàn ông vẫn không ngẩng lên, miệng trả lời.- Làng chài này ai mà không biết ông là Trịnh Toàn. Chỉ huy trưởng của ban công an nhân dân vũ trang. Chắc chiều nay thủ trưởng lại có việc nên mới xuống làng chài thăm thú thế này?
Vì không nhìn trực diện được khuôn mặt người nói chuyện, Trịnh Toàn không thể nào đoán tuổi. Người sông nước thường già trước tuổi. Nếu chỉ nhìn bên ngoài mà phán đoán tuổi tác của người đối diện với mình khi nói chuyện thì thường rất dễ bị sai. Một thoáng khó chịu vì thái độ của người chủ thuyền nhưng rồi cũng rất nhanh Trịnh Toàn nhận ra suy nghĩ ấy là không phải. Người đàn ông này đang chuẩn bị gấp để đi biển nên việc Trịnh Toàn đến lúc này cũng đã là một sự phiền toái cho người tiếp chuyện. Như để kiểm tra lại một chút khả năng trí nhớ của mình, Trịnh Toàn không trả lời ngay. Trịnh Toàn có cảm giác đã nghe giọng người này ở đâu đó. Giọng nói rất nặng, khi nói có tiếng gió rít bên trong cuống họng. Cái lối nói chuỵên không nhìn trực diện vào người mình đang giao tiếp thường là những con người có rất nhiều tính toán và thường khôn ngoan. Trông mặt bắt hình dong nhưng không để cho nhìn mặt có nghĩa là con người này muốn giấu điều gì đó hoặc giả là người không muốn giao tiếp, một con người kín đáo. Với những người như thế này, lượng thông tin thường rất ít nhưng độ xác thực của thông tin thu được lại rất cao.
Nhìn kỹ lại người đàn ông đang tiếp chuyện, Trịnh Toàn quyết định gợi thêm vài ba câu chuyện khác để củng cố thông tin vừa chợt loé lên theo trí nhớ và sự phán đoán. Trịnh Toàn đưa ra câu hỏi mà như không hỏi. - Anh làm có một mình thôi à. Vợ đâu? Anh đang định đi câu hay đi lưới đấy?Vẫn giữ nguyên thế ngồi, người đàn ông trả lời mà cũng không ra trả lời. Sự trả lời đã ở ngay trong câu hỏi.
- Thủ trưởng biết rồi còn hỏi.
Để chủ động trong giao tiếp, Trịnh Toàn vịn hai tay vào be thuyền rồi nhún chân nhẩy vào trong lòng thuyền. Trịnh Toàn ngồi xuống khung ngang phía trước, đối diện với đối tượng. Đưa tay cầm tấm lưới lên tay, Trịnh Toàn rỡ các đám lưới bị rối. Anh nhặt các que củi nhỏ hay rều rác còn vướng trên tay lưới. Thấy đôi ba chỗ lưới bị rách, như tiện tay, Trịnh Toàn với tay cầm chiếc ghim đang đặt cạnh người đàn ông ngồi phía trước. Trịnh Toàn thắt mối rồi vá lại các chỗ lưới bị rách. Bàn tay Trịnh Toàn luồn ghim, thắt mối thoăn thoắt. Nhìn bàn tay Trịnh Toàn vá lưới. Tất cả các hành động của Trịnh Toàn, người đàn ông không bỏ sót một chi tiết nào. Ngay từ bước chân khi Trịnh Toàn bước lên thuyền và chủ động gỡ lưới. Để cho Trịnh Toàn vá xong mấy mắt lưới rách. Người đàn ông lên tiếng. - Thủ trưởng vẫn còn nhớ công việc của làng chài nhỉ. Tôi tưởng thủ trưởng đi làm cán bộ, làm cách mạng, làm to rồi thì thủ trưởng đã quên hết rồi chứ?Nói xong, người đàn ông trễ chiếc nón che gần kín cả khuân mặt ra khỏi đầu. Ngồi trước mặt Trịnh Toàn không ai khác mà chính là người bạn thuở nhỏ thường ăn chung củ khoai nướng, củ sắn luộc ngày Trịnh Toàn còn ở quê.
Dường như để cho Trịnh Toàn có đủ thời gian nhớ lại những ký ức một thời. Người đàn ông bỏ tay lưới xuống sàn, nhìn Trịnh Toàn cười.
- Thủ trưởng đã nhận ra ai chưa? Gần như nhao người về phía trước, Trịnh Toàn xô lại ôm chặt người đàn ông trong tay.- Trần Kiên.
Trịnh Toàn ôm riết, ghì chặt lấy Trần Kiên trong vòng tay. Trần Kiên cũng vui ra mặt, lấy tay đập đập lên lưng Trịnh Toàn.
- Tôi tưởng ông bây giờ đang làm trong Nam hay ở đâu chứ. Sao lại sống ở đây thế này? Nhìn sâu vào mắt bạn, Trần Kiên nói giọng chỉ đủ hai người nghe.- Ngày đó cả gia đình phải bỏ làng quê mà đi. Những tưởng cuộc sống sẽ khấm khá hơn. Ai ngờ. Kiếp khổ vẫn hoàn khổ.
Nói đoạn, Trần Kiên dừng lại như cố nén những cảm xúc của một thời lam lũ đang ùa đến. Thu gọn lưới lại, Trần Kiên nắm tay Trịnh Toàn kéo xuống ngồi cùng trên thanh ngang con thuyền. Cả hai nhìn về phía xa. Nơi một thời mà họ đã sống.
Bỗng Trịnh Toàn buông tay vá lưới. Cuối chiếc thuyền, dắt sát bên be cạnh mạn phải con thuyền là chiếc bơi chèo rất khác. Những chiếc bơi chèo của người dân địa phương thường được làm bằng gỗ cây xoan. Phía mũi chiếc bơi chèo người ta hay cắt thẳng. Chỗ tay cầm, khúc gỗ nắm thường dài. Trên thân bơi chèo, người ta thường tạo sống vì thế trông bơi chèo giống sống lưng con trâu, hơi gồ lên để tạo độ cứng khi quạt nước. Còn chiếc bơi chèo dắt bên mạn của be thuyền mũi bơi chèo lại hơi vuốt nhọn. Tay nắm bơi chèo không có gióng ngang để nắm. Thân bơi chèo không có sống chạy gồ lên. Màu gỗ của chiếc bơi chèo không phải màu của loại gỗ xoan. Trịnh Toàn đã định buông tay lưới đứng lên nhưng rồi thôi. Nếu Trịnh Toàn hỏi ngay hay lại xem ngay sẽ là điều không hay, một sự bất nhã. Coi như không có chuyện gì. Trịnh Toàn vẫn vừa vá lưới vừa hỏi chuyện.- Anh dạo này làm ăn có được không?
- Vẫn thế thôi. Người ta thế nào thì tôi thế ấy. Trần Kiên thủng thẳng đáp.
- Anh có hay đi đánh bắt xa không? - Có một thân một mình, đi xa không được. Muốn đi xa phải có bạn. Mà dạo này sóng gió nhiều lắm.Rồi như nhận ra có điều gì trong câu hỏi của Trịnh Toàn. Trần Kiên hỏi lại.
- Có chuyện gì sao?
Nghe Trần Kiên hỏi lại. Trịnh Toàn giật mình, nghĩ. Thằng cha này vẫn khôn quá. Ngày xưa, lúc mấy đứa chơi đánh trận giả, phe nào có Trần Kiên là cầm chắc thắng. Trần Kiên ngày đó luôn là đứa nghĩ ra những mưu mẹo mà phe đối phương thường bị bất ngờ. Có nhiều khi, Trịnh Toàn có cảm giác Trần Kiên đọc được cả suy nghĩ của người khác. Không những chỉ là người mưu trí, thông minh mà Trần Kiên cũng là người rất dũng cảm và liều lĩnh. - Không có chuyện gì đâu. Chẳng qua là thấy anh có cái bơi chèo kiểu mới quá. Nghĩ là anh đi làm xa nên học được được cách làm ăn mới của người thiên hạ thôi.13
KẺ BỎ QUÊ
Trần Kiên và Trịnh Toàn cùng sinh ra ở làng. Ngày mẹ Trịnh Toàn đẻ rơi ông ở ngoài đồng thì bà mẹ Trần Kiên cũng đẻ rơi ông ở bến sông của làng. Mặc dù gia đình Trần Kiên làm nghề sông nước nhưng cuộc sống của gia đình cũng gần như là người của làng. Quanh năm suốt tháng, gia đình nhà Trần Kiên chỉ chài lưới trên khúc sông Sứ chạy qua làng của Trịnh Toàn. Người trong làng đã quen với tiếng gõ mạn thả lưới lanh canh của nhà Trần Kiên mỗi đêm. Nhiều khi, đêm hôm khuya khoắt, vào mùa cá đẻ, người làng vẫn nghe rõ cả tiếng lanh canh của chiếc thuyền nan đi đánh cá của nhà Trần Kiên. Cuộc sống của gia đình nhà Trần Kiên trở thành một phần của làng Trịnh Toàn từ bao giờ ông cũng không biết nữa.
Tuy hai gia đình, kẻ trên bờ người dưới sông nhưng mọi trò chơi của bọn trẻ trong làng luôn có mặt của Trần Kiên. Vào mỗi chiều, khi cưỡi nhong nhong trên lưng con trâu mộng, Trịnh Toàn thường có ý đưa Trần Kiên lên ngồi cùng trên lưng trâu. Khi cả lũ lùa trâu xuống sông tắm, cả lũ í ới chơi trò đánh trận giả hay thả vịt ra bắt phe nào cũng muốn có Trần Kiên. Hôm nào Trần Kiên phải theo gia đình đi đánh cá ở khúc sông xa, đứa nào cũng nhớ và hôm đó, cả lũ chỉ thả trâu xong là lùa về chuồng ngay. Trong các trò chơi sông nước, không có Trần Kiên bọn trẻ thấy mất vui. Rồi năm đó, nắng lắm, nắng nóng như có người mang lửa mà đổ xuống đồng. Cả cánh Cựa Gà, Quai Xanh cây lúa đang lên mơn mởn mà cháy khô. Nếu có ai cầm vào cây lúa, thân cây đã nát vụn ra thành tro. Cái đói rình rập tận cửa mỗi nhà. Nhà Trịnh Toàn cũng chịu chung cái cảnh của làng của nước. Mẹ Trịnh Toàn cứ vào các ngày chợ phiên mồng một, mồng ba, mồng năm, mồng bẩy, cứ năm giờ sáng đã lại đòn gánh trên vai le te đi lên mãi chợ Tây để mua gánh khoai về. Bà phải đi chợ sớm để mua chứ đi muộn, chợ vãn thì có tiền cũng không thể nào mua được. Mua tranh bán cướp để giành cái sống. Không những thế, nhà Trịnh Toàn chỉ làm độc một nghề nông, đồng tiền có được là nhờ bán khóm tre, bụi mây, quả chuối mà có. Đồng tiền không dư dật nên bà càng phải đi sớm để tranh thủ mua được hàng.Khoai mua về, cả nhà cặm cụi cạo vỏ rồi thái vát như đồng xu đợi nắng đem ra phơi. Gặp nắng, những miếng khoai cong lên trông như những chiếc bánh đa vừa nướng. Những chiếc bánh đa mẩu khoai nướng này sau khi đã phơi đủ nắng được mẹ cho vào trong chiếc chum có ủ lá chuối khô. Đến bữa, bà lại lấy ra đem nấu lên cho cả nhà. Mặc dù chỉ là bữa cơm khoai nhưng mỗi người cũng chỉ được lưng lưng bát thì nồi cũng đã vét sạch. Những ngày đó là những ngày Trịnh Toàn lúc nào cũng thấy đói cồn cào gan ruột. Ăn khoai nhiều nên nóng bụng. Để cho đỡ nóng bụng, bốn mặt bờ ao cũng được mẹ đem thả rau muống nước. Ăn độn rau muống nước với khoai cho bụng đỡ cồn cào.
Dẫu bữa cơm chỉ có khoai khô cũng vẫn không thể lo cho sáu bẩy miệng ăn. Ngay ba sào vườn của nhà Trịnh Toàn cũng chỉ trồng duy nhất giống cây dong riềng. Những cây dong riềng có lẽ là loài dễ sống nhất. Đất cằn đến đâu cây cũng lên. Đất nghèo đến đâu cây cũng cho củ. Cây thương người nên cây cũng tự biết làm cho không còn sâu, bị hỏng. Chỉ từ ngày cấy mầm cây xuống đất. Đất gì thì cũng ba tháng là có thể khai thác để lấy làm thức ăn.
Trong khi cả làng, cả nước cái đói làm cho đến rã thân, rã tay, cả ngày đi đâu làm gì người làng cũng chỉ nghĩ đến cái ăn. Có mấy cụ đồ nho, Trịnh Toàn vẫn thấy ra đường miệng ngậm tăm. Nhìn bước chân của các cụ thư thả, nhẩn nha, chậm chạp như đếm từng bước một. Trịnh Toàn nghĩ trong bụng, chắc nhà các cụ không phải chịu cái cảnh đói đến mờ con mắt như nhà mình. Không nghĩ, không nhớ đến thì thôi. Mỗi khi gặp cảnh các cụ ngậm tăm đi trên đường, Trịnh Toàn lại thấy đói, bụng sôi lục bục, cái đói réo ong óc trong ruột. Những lúc đó, chỉ nhớ đến củ khoai, củ ráy, củ dong riềng mẹ luộc, vùi đống tro bếp, giấu kỹ mà chỉ có mẹ mới biết để sáng sáng, trưa trưa, tối tối phát cho mỗi người một củ. Ngọn khoai, ngọn sắn cũng vãn. Mấy rãnh khoai trồng trong vườn nhà hầu như nhánh nào cũng bị cấu ngọn. Anh em Trịnh Toàn đi hái rau khoai đến mức ngọn rau còn không kịp nẩy mầm. Cũng trong khi cả làng chỉ lo chạy đói thì người làng cũng không còn thấy tiếng lanh canh, lanh canh sáng sáng của nhà chài bên bến sông. Khi no đủ, khi vui vẻ, khi cái đói không là nỗi lo canh cánh trong đầu thì mọi âm thanh của cuộc sống, mọi vui buồn của con người cũng dễ trở nên thân thuộc và là một điểm nhấn, điểm để cho người ta thấy vui, thấy hạnh phúc. Còn khi đói, tất cả, dù đó là khúc hát trong đêm hội, thậm chí giải yếm lưng xanh của mấy nhà trò trong gánh hát làng Đông vẫn thường là nơi hò hẹn, nơi tụ tập của đàn ông đàn bà, phụ nữ trẻ em, là cái nằm trong giấc mơ của mấy anh thanh niên thì cũng trở nên vô vị và vô nghĩa. Nó trở thành thứ kệch cỡm nhất của cuộc đời.Nhà Trần Kiên bỏ đi đâu không ai biết. Thi thoảng cũng có người nhắc đến khi tối tối mấy ông mấy bà sang nhà Trịnh Toàn uống nước thì cũng có rắng đến. Nhất là mấy bác cao niên, mấy cụ cao tuổi. Sau tuần nước chè xanh mà mẹ hãm trong chiếc dành tích, chiếc điếu bát sôi lên lọc ọc, mấy bác ngồi chép miệng rắng đến.
·
Không biết cái nhà chài đi đâu lâu nay mà không thấy về bến.·Đói kém thế này. Người ta cũng phải đi tìm nơi sống chứ. Mảnh đất làng mình cứ bám đây mãi làm sao mà sống.
·Nghe đâu nhà nó ra biển rồi theo con nước chạy vào Nam rồi.
- Không phải. Nhà nó nghèo quá. Thằng bố nó đưa cả nhà đi miền ngược rồi. Thôi thì mỗi người một ý, mỗi người một câu, song tựu trung không ai biết là nhà Trần Kiên bỏ con sông làng, bến sông quê đi đâu không ai biết.14
ĐÊM TRẮNG
Sau khi chia tay Trần Kiên ở bến về, Trịnh Toàn không sao ngủ được. Trịnh Toàn ra ngoài bàn, với tay lấy gói chè Thanh Hương mới được cậu công vụ sáng nay mang đến theo tiêu chuẩn. Bao nhiêu năm rồi Trịnh Toàn đã không gặp lại Trần Kiên. Người Hán có câu: Một ngày không gặp còn bạn. Ba ngày không gặp phải xem lại bạn. Tất nhiên người Trung Quốc nói có lý của họ. Trong cuộc sống mưu sinh, vì miếng cơm manh áo, không phải không có những chuyện đau lòng xảy ra. Trịnh Toàn biết. Một số đối tượng nguyên trước đây cũng là người tốt nhưng có lẽ do một lý do nào đấy, vì cuộc sống khó khăn, vì có sự bất hòa trong cuộc sống, thậm chí có khi chỉ là sự kích động, xúi dục của ai đó mà trở thành kẻ làm tay sai cho người khác. Khi tay đã nhúng chàm thì nếu có nhận ra sai sót, có muốn sửa chữa, thay đổi cũng rất khó. Họ bị ràng buộc, bị khống chế. Trần Kiên dù là bạn với Trịnh Toàn từ nhỏ nhưng những tháng năm qua, Trần Kiên đi đâu, làm gì Trịnh Toàn không biết. Trịnh Toàn cũng không thể ngờ lại gặp lại Trần Kiên trong hoàn cảnh như thế này.
Có tiếng gõ cửa dè dặt bên ngoài. Trịnh Toàn không đưa mắt nhìn ra. Cầm chén nước trên tay, ông xoay xoay trước mặt, vẫn ngồi tại chỗ nói vọng ra.- Vào đi.Cánh cửa hé mở. Cậu công vụ thập thò ngoài cửa.
- Báo cáo thủ trưởng. Có hai đồng chí A Lò và Tự Kim muốn gặp thủ trưởng.
- Hai đồng chí đó về từ bao giờ? Tại sao bây giờ mới báo? - Hai đồng chí đó về chiều nay. Lúc đó thủ trưởng đi vắng. Em đã đưa hai đồng chí đó ra nhà khách nghỉ để chờ ý kiến của thủ trưởng.Đặt chén nước xuống bàn, Trịnh Toàn nhìn cậu chiến sĩ công vụ.
- Ra gọi hai đồng chí đó vào đây cho tôi gặp.
- Báo cáo rõ. Cậu công vụ vội vàng quay gót. Trịnh Toàn xúc ấm rồi trở lại ghế. Trịnh Toàn không làm sao thoát ra được chuyện chiều nay. Trịnh Toàn không biết được đây là sự trùng lặp ngẫu nhiên hay là sự vô tình trong đời mà ông gặp lại. Phải chăng đây cũng là cái duyên ở đời mà để cho ông gặp lại Trần Kiên.Thực ra, không phải Trịnh Toàn không biết về gia cảnh của nhà Trần Kiên ngày đó. Có điều, khi câu chuyện xảy ra thì Trịnh Toàn không đủ khả năng để đánh giá nhận xét những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Nhận thức là cả quá trình. Quá trình nhận thức lại phụ thuộc vào khả năng của mỗi người. Người thông minh thì khả năng nhận thức nhanh. Người khả năng nhận thức chậm thì quá trình nhận thức được bản chất của vấn đề sẽ chậm. Cái ngày đó, đứng thậm thò bậu cửa nghe các cụ nói chuyện về gia đình nhà Trần Kiên, Trịnh Toàn đâu dám có ý kiến. Mặc dù ngày đó Trịnh Toàn nghe các cụ nói chỉ thấy nó không đúng với những gì mà Trịnh Toàn nhìn thấy, nghe thấy mà thôi.
Cái hôm Trịnh Toàn nấp nghe chuyện các cụ thì thào về gia đình Trần Kiên. Nghe các cụ nói, Trịnh Toàn thấy rất lạ. Trước ngày mà cả gia đình Trần Kiên đưa cả nhà rời khúc sông chảy qua làng đi đâu thì chính cái chiều hôm đó Trịnh Toàn đi chăn trâu về qua bến sông đã được chứng kiến cảnh người làng quây trên bờ dưới sông la mắng chửi rủa nhà Trần Kiên. Sau khi đưa trâu về chuồng, Trịnh Toàn chạy trở lại bến sông, nơi mọi người bu đen bu đỏ đang xỉa xói vào ngôi nhà thuyền của gia đình Trần Kiên. Trịnh Toàn không nhìn thấy Trần Kiên đâu mà chỉ nhìn thấy bố Trần Kiên, cởi trần ngồi ở trong khoang nhà thuyền, đầu gục xuống như người mắc lỗi bị đòn chịu trận. Khi mà người làng chửi cổ đã khàn, giọng đã lạc, có đôi ba người ngồi bệt bên bậc lên xuống bến thở hổn hển, khi đó Trịnh Toàn mới thấy bố Trần Kiên đi ra. Ông đứng trên mui thuyền, nhìn mọi người một thoáng rồi nhìn xuống giọng nói lí nhí, đầy hờn tủi và xấu hổ.
- Tôi biết tôi là kẻ ăn cắp, đáng phải tội chết. Tôi không dám đổ lỗi vì sao nhưng tôi cũng xin làng rộng lòng tha thứ. Vì sự sống của đứa con tôi mà tôi đã làm như thế. Từ nay tôi xin không bao giờ như thế và sẽ không để mọi người trong làng nhìn thấy tôi ở đây nữa. Tôi chỉ xin làng thứ lỗi cho tôi những gì tôi đã làm. Khi bố Trần Kiên nói xong, ông không chui vào căn nhà thuyền mà cứ đứng trên mui nghe người làng rỉa rói. Chiếc áo nâu bạc ông mặc bị rách phía đường cạp gấu phơ phất bay. Người ông còng xuống, mấy miếng vải rách che qua đầu gối. Ông cứ đứng lòng khòng, mặt cúi gằm lặng im nghe người làng mắng chửi. Cả nhà ông núp trong căn nhà thuyền không một động cựa. Con chó vàng vẫn thường theo Trần Kiên cùng nhóm trẻ trong làng đi ra đồng đào hang săn bắt chuột ngó đầu lên trên sạp, thỉnh thoảng lại sủa lên đôi ba tiếng. Tiếng sủa của nó cũng ngắt quãng, hụt hơi chứ không kéo dài ra dáng cậy gần nhà. Tiếng sủa ư ử như của kẻ có lỗi cố thanh minh, nói cho mọi người hay vì sao mắc lỗi.Sau khi người làng đã mắng nhiếc chán chê, kéo nhau ra về. Ngay đêm hôm đó bố Trần Kiên đưa cả nhà đi đâu không rõ. Mặc dù lúc đó tuổi Trịnh Toàn còn nhỏ, cái tuổi mà bố Trịnh Toàn thường bảo vắt mũi chưa sạch. Câu chuyện của gia đình nhà Trần Kiên tuy Trịnh Toàn không rõ như các bậc cao niên trong làng nhưng trong lòng cũng thấy áy náy. Trịnh Toàn cảm thấy phía sau chuyện này chắc có điều gì rất khó nói mà bố Trần Kiên không muốn nói ra. Ông lặng lẽ chấp nhận, lặng lẽ chịu đựng và lặng lẽ đưa nhà từ bỏ khúc sông mà đời ông và gia đình ông gắn bó. Nỗi đau của đời người có lẽ là phải rứt bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, phải từ bỏ những ký ức cuộc đời. Chấp nhận làm kẻ tha hương, chấp nhận làm kẻ vô gia cư là nỗi đau mà không cuộc đời nào, không một ai mong muốn.
Câu chuyện gia đình Trần Kiên bỏ khúc sông làng ra đi rộn rạo một vài ba ngày rồi cũng lắng xuống. Cười ba năm chứ ai cười được ba đời. Cuộc sống mưu sinh, lo miếng ăn cửa miệng cũng làm cho người làng dần quên đi câu chuyện xưa. Có khi nào chợt nhớ, người ta lại nhắc đến như là một ký ức buồn. Nhất là khi nhà ai có việc, khách khứa tiệc tùng muốn có mớ cá tươi người ta lại nhắc đến. Con cá thì tươi mà lòng người lại héo. Có một vài ba người vì tình thâm giao cũng có ý tìm hiểu câu chuyện. Họ muốn biết sự thật, một sự thật như sự kiểm định về nhận xét và đánh giá con người. Cuộc đời có ai nắm tay đến tối, gối đầu đến sáng. Dẫu biết vậy nhưng cái xấu xa không thể nơi nào cũng bén rễ mọc cây. Cỏ dại thì vẫn là cỏ dại. Cỏ dại chẳng cần đất chúng vẫn có thể mọc lên, thậm chí chúng vẫn có thể đông đàn dài lũ. Có khi, lũ cỏ dại còn lấn át cả cây cao bóng cả. Nhưng họ tin, tin vào những việc mà gia đình Trần Kiên làm.
Một đêm, theo thói quen, cứ bao giờ tuần trăng đầy là bố Trịnh Toàn lại mang chiếu ra trải trên hè. Mẹ Trịnh Toàn lại hãm ấm nước chè tươi, ủ vào trong cái dành tích rồi luộc lấy nồi khoai để các cụ trong xóm sang ngồi chơi xơi nước và cũng là để câu trò câu chuyện cho đỡ nhạt miệng. Bao giờ cũng thế, bên ấm chè, cái điếu bát, rổ khoai luộc, các cụ lại thường ôn cố tri tân, lấy câu chuyện mà đời đã trải làm câu chuyện để kể cho con cháu nghe, biết mà học hành, tu tỉnh. Hết chuyện làng trên xóm dưới rồi đến chuyện cây lúa củ khoai. Trên bậc hè nhà Trịnh Toàn là cả một xã hội thu nhỏ. Đặt bát nước chè xanh từ tay mẹ, cụ Bá, người cao tuổi nhất trong thôn ước ao.- Lâu quá rồi không được bát canh cá mương nấu dưa chua.
Nghe cụ Bá nhắc thế, bố Trịnh Toàn biết ý cụ Bá lại nhắc đến chuyện nhà Trần Kiên. Cũng phải nói thực lòng, bố Trịnh Toàn cũng không sao biết được vì cái gì, vì đâu mà gia đình Trần Kiên phải đến nông nỗi bỏ bến mà đi. Người trên bờ có cái nhà, mảnh đất để ở. Như con chim có tổ. Đi hôm về sớm, đi sáng về tối, thậm chí có lưu lạc đến đâu rồi cũng tìm về. Bởi trong con người, trong tâm thức của kẻ đó, có nơi chôn nhau cắt rốn, có cái bát hương thờ gia tiên, ông bà cha mẹ mà biết lối về. Con người kể nghĩ cũng lạ. Khi đã sinh ra ở đâu rồi là sống chết cũng không rứt bỏ được. Cóc chết ba năm quay đầu về núi.
Người đời sống trên cạn là thế. Mảnh đất chết luôn níu kéo con người ta về. Có tấc đất căm dùi, có mảnh đất để chôn khi nhắm mắt là con người đã bằng lòng với cuộc sống. Còn người làng chài, ông không hiểu được. Ông chỉ biết rằng, với họ, nay đây mai đó. Thích thì ở, không thích thì chỉ cần cầm cái sào lên, đẩy đi là coi như xong. Người làng chài, cái ăn từ sông, cái uống từ sông và ngay khi chết cũng lại về sông. Sống ngâm xương, chết ngâm da nhưng xem ra, với họ, họ chấp nhận tất cả. Hình như với họ, vui ở, dở đi, buồn tránh. Nhưng mà, ở đời đâu chỉ có đơn giản, thích tránh là tránh được. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Phúc đến rồi đi không quay trở lại, còn họa, không chỉ một lần mà đến mà còn đến nữa. Cái chuyện ở đời, giậu đổ bìm leo. Phù thịnh chứ có ai phù suy. Ấy thế mà, sau ba bốn chục năm, tự nhiên Trịnh Toàn lại gặp lại Trần Kiên. Trời xui đất khiến hay cái duyên của đời mà Trịnh Toàn và Trần Kiên có được. Trịnh Toàn không biết đây là điều hay hay là điều không hay. Lòng Trịnh Toàn bề bộn bao nỗi nghĩ suy. Cái bơi chèo lạ mà Trịnh Toàn nhìn thấy trong lòng thuyền của Trần Kiên là như thế nào? Liệu nó có liên quan đến những gì mà ông đang phải đau đầu vì nó không? Con người Trần Kiên có còn là Trần Kiên của những năm tháng xa xưa? Và ông, những suy nghĩ của mình, những phán đoán có là sự phũ phàng của những người bạn xưa với nhau?Trịnh Toàn thấy nóng bừng bên tai. Ông tự thấy hổ thẹn với chính những suy nghĩ của mình về bạn. Với ông, sự xấu xa và hèn hạ không phải cứ làm điều ác cho người mà chỉ có suy nghĩ, gieo rắc thậm chí đổ tiếng ác cho người thì đã là một tội lỗi và là điều đáng xấu hổ. Liêm sỉ của con người không cho phép làm những điều đó. Một ai, không biết liêm sỉ trong suy nghĩ thì cũng là kẻ không biết liêm sỉ trong hành động. Không biết liêm sỉ trong hành động đã là điều tối kỵ. Vô liêm sỉ trong tâm tưởng thì là điều xấu xa, không thể chấp nhận được. Ở đời, Trịnh Toàn sợ nhất đó chính là sự khuyết tật của tâm hồn.
Nghĩ là thế nhưng bản thân Trịnh Toàn cũng không thể dám chắc rằng những năm tháng qua, những điều ngang trái đã xảy ra với gia đình Trần Kiên không có tác động hay ảnh hưởng gì đến tâm tư, tình cảm của Trần Kiên. Người Trung Hoa có câu: Bạn xa một ngày còn tin, bạn xa hai ngày phải hỏi, bạn xa ba ngày phải xem xét lại. Con người trong cuộc sống xã hội là một chuỗi phức tạp. Tình người có khi một chuyến đò nên ngãi nhưng cũng có khi, sống cả đời bên nhau đâu có nhận ra thù. Trong mỗi con người, cái thiện, cái ác luôn tồn tại. Cái thiện không biết làm điều ác. Nhưng ngược lại, cái ác lại luôn tìm cách để thực hiện. Thậm chí, cái ác còn tạo điều kiện, hoàn cảnh để cho cái ác thực hiện được nhanh hơn. Chính vì thế mà cái ác luôn đạt được mục đích, còn cái thiện để đạt được mục đích, lúc nào cũng phải có thời gian dài hơn, lâu hơn và vất vả hơn. Các cụ xưa còn dậy, nhân chi sơ tính bản thiện. Khi sinh ra, mọi người đều như nhau, có ai mặc quần, mặc áo chui ra khỏi lòng mẹ đâu. Ấy thế mà, năm tháng làm đổi thay, cuộc sống mưu sinh làm đổi thay, cái ác cứ lặng lẽ thấm vào mỗi con người để rồi sâu gốc bền rễ trong tâm tưởng. Khi cỏ độc đã có đất mọc, có mấy người nhổ được nó ra khỏi đầu. Và thế là cái ác có cơ hội mà phát triển.
Càng nghĩ Trịnh Toàn càng thấy rối. Ông thấy trong người bí bách khó chịu. Trịnh Toàn cảm thấy như có cái gì đang nặng trĩu đè lên ông. Ông nằm vật lên giường. Ngước mặt nhìn lên trần. Những tia nắng sáng yếu ớt lọt qua hàng ngói rọi xuống. Trong tia sáng những hạt bụi nhỏ li ti bay bay. Những hạt bụi rất nhỏ, nếu không có chút ánh sáng nhỏ nhoi ấy thì làm sao mắt thường ông có thể nhìn ra được. Những điều đang lẩn khuất trong bóng đêm, nếu không có ánh sáng chúng cũng được màn đêm đồng lõa. Chính bóng đêm và chỉ có bóng đêm mới có thể làm mảnh đất dung thân của cái ác. Bóng đêm là đồng minh, là kẻ cùng hội cùng thuyền của cái ác. Muốn đưa được cái ác ra trước mặt, chỉ có ánh sáng. Kẻ mang mật danh AZET kia cũng thế. Nó là ai, nó là người thế nào? Trong bóng đêm, khuôn mặt nó bị chìm lấp nhưng Trịnh Toàn tin, sớm muộn ông cũng sẽ tìm ra. Ông tin điều đó như ông tin vào chính ông vậy.Bật người dậy khỏi giường, Trịnh Toàn đi nhanh ra cửa. Nhìn sang cửa nhà chính trị viên Song Hoa. Cửa phòng chính trị viên Song Hoa vẫn mở.
Phải có nghị quyết chuyên đề. Phải bàn bạc kỹ với chính trị viên để xây dựng quyết tâm. Phải tập trung cao độ lực lượng làm rõ tất cả. Trịnh Toàn biết. Cuộc chiến đã thực sự bắt đầu chứ không còn là sự đón bắt hay phỏng đoán nữa. Cuộc chiến đã rõ trước mắt nhưng Trịnh Toàn chỉ chưa nhìn thấy mặt nó như thế nào, chưa hình dung được nó ra làm sao. Nhưng Trịnh Toàn tin. Rất tin. Cuộc chiến đã thực sự lôi Trịnh Toàn vào cuộc. Trịnh Toàn chỉ chưa biết nói với chính trị viên Song Hoa ra làm sao để Song Hoa hiểu được sự việc. Trịnh Toàn rất hiểu tâm tư cũng như phong cách làm việc của Song Hoa. Ở Song Hoa, chu đáo, tận tình, cụ thể, tỷ mỷ nhưng lại rất cầu toàn. Trịnh Toàn bây giờ cần biết bao sự ủng hộ và sự hỗ trợ từ Song Hoa. Chỉ có sự ủng hộ và hỗ trợ cao độ từ Song Hoa thì công việc mới có thể thành công. Chỉ cần Trịnh Toàn và Song Hoa vênh nhau là chắc chắn mọi sự sẽ đổ bể.
Không cần cả gõ cửa, cũng chẳng cần chào, Trịnh Toàn đi vào phòng chính trị viên Song Hoa, tự kéo ghế ngồi. Vừa ngồi, Trịnh Toàn vừa nói. - Tôi có việc quan trọng cần bàn với anh. Và tôi rất mong được sự ủng hộ và hỗ trợ từ anh.Vốn không lạ gì tính cách Trịnh Toàn. Chính trị viên Song Hoa với tay lấy ấm trà. Chính trị viên Song Hoa biết. Khi nào mà Trịnh Toàn có thái độ ứng xử như thế này là thế nào cũng có chuyện. Chính trị viên Song Hoa nhìn Trịnh Toàn cười, nhỏ nhẹ.
- Chuyện gì thì chuyện. Anh em mình cũng làm ấm nước đã. Trà Thái Nguyên mẹ thằng cò mới gửi ra cho. Ngon lắm.
15ĐỊNH MỆNH
Phan Lềnh cố quên đi những gì đã trải qua. Những cái Phan Lềnh đã trải qua không thể là vất vả và khổ sở. Chuyến rời nhà ra đi phải nói là nỗi nhục. Bây giờ, sau khi đã thực hiện chuyến xâm nhập, đổ bộ thành công, một mình trên hang ma, Phan Lềnh cũng không thể hiểu được Phan Lềnh đã vượt qua được những năm tháng như thế.
Phan Lềnh cũng không nghĩ chuyến đi của Phan Lềnh trở thành định mệnh của số phận. Những điều Phan Lềnh được nghe, được học, được quán triệt cứ mờ nhạt dần. Ngay cả những điều mà Phan Lềnh ngày nào ra rả nói trước mọi người cũng nhạt dần. Ngay bây giờ, trong Phan Lềnh chỉ có sự căm thù. Hình ảnh bố Phan Lềnh quỳ dưới sân van lạy, thưa gửi với những kẻ ăn người ở bằng ông, bằng bà là Phan Lềnh lại thấy máu trong người như sôi lên.Cái hang ma này với Phan Lềnh không có gì là xa lạ. Nó gắn bó với Phan Lềnh như xương thịt. Cái hôm dân làng kéo nhau ra hang ma để nhìn cái xác cô Lù chảy nước bong bóc xuống đất. Phan Lềnh hôm đó không dám đến gần, chỉ ngồi nấp trên ngọn cây để nghe ngóng. Phan Lềnh nghe được hết, nhìn được hết, biết hết. Những điều dân bản nói đó, với Phan Lềnh không là cái gì. Có muốn kết tội Phan Lềnh cũng không được. Không có bằng chứng, không có dấu vết. Tất cả chỉ là phán đoán, lời đồn thổi. Phan Lềnh ngồi ôm lấy ngọn cây. Bất giác, Phan Lềnh nhìn xuống chân rồi nhìn tay. Phan Lềnh như thấy da Phan Lềnh cũng mang màu da của cây.
Phan Lềnh không thể tin được có lúc cuộc đời Phan Lềnh lại chuyển qua những bước thăng trầm như thế này. Phan Lềnh không thể nào quên được những năm tháng còn nhỏ được bố cưng chiều nhất là được lão Tảng bảo cho cách săn bắn cái nỏ, mũi tên. Ngày đó Phan Lềnh là nhất nhà. Có đôi lúc bố Phan Lềnh đi làng trên, bản dưới về có thế này thế khác với Phan Lềnh. Thậm chí có hôm lôi Phan Lềnh ra quất cho vài ba roi nhưng ông vẫn là người cưng chiều Phan Lềnh nhất. Ai mà dám ho he, cọ cựa với Phan Lềnh thì chết với ông.
Rồi Phan Lềnh đi tham gia thanh niên cứu quốc. Phan Lềnh nghĩ. Những ngày đó quả là điên cuồng và rồ dại. Mặc áo nhà, đi dầy cỏ, súng gỗ đeo vai, cả ngày lăn lộn, lang thang trong các bản, các xóm trong núi, trong rừng chui lủi để tuyên truyền lôi kéo mọi người tham gia. Phan Lềnh nhớ. Hôm Phan Lềnh đi gặp ông Thi. Ông Thi họ gì Phan Lềnh không biết, chỉ nghe nói ông là người của mặt trận. Ông Thi nói sao dân tin thế. Ông như một vị chủ soái có cả một đội quân trùng trùng dưới quyền. Ông Thi nói sao là mọi người làm theo răm rắp. Phan Lềnh thấy ông Thi oai quá. Phan Lềnh cũng chỉ muốn được như ông Thi, có kẻ hầu người hạ, mọi việc có người làm theo mà không kêu ca phàn nàn hay có ý kiến gì khác. Phan Lềnh muốn cầm đầu thiên hạ. Phan Lềnh không muốn chỉ như bố. Cả đời có tiền, có bạc, có kẻ ăn người ở, có người phục dịch nhưng cũng chỉ là đám người ăn mày ở đợ, chứ không có lấy người tử tế theo như ông Thi. Phan Lềnh nghĩ. Bố Lềnh có sướng thật đấy nhưng không có oai. Ông Thi nói là tham gia vào đây là để đánh đuổi quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược là gì, tại sao nó lại là quân xâm lược và nó có làm hại gì đến mảnh đất, cỏ cây này không thì Lềnh cũng không hiểu hết. Lềnh chỉ biết rằng, đất này là của người Việt Nam, không phải của người Pháp. Vì đất nước Việt Nam có rừng vàng, biển bạc, có nhiều tài nguyên lắm, như vùng Yên Hưng của Lềnh đó. Chúng đưa quân sang chiếm, bắt dân ta lao động là để lấy than, để chở bán đi lấy tiền hoặc đưa tàu chở về bên nước nó. Đương nhiên như thế thì không được rồi. Nhưng mà tại sao lại phải cần đông người đi theo mặt trận như thế. Ông Thi đưa hai tay lên vỗ bồm bộp rồi nói.- Đấy cậu có thấy gì không?
Ôi giời. Tưởng gì. Ông Thi vỗ hai tay vào nhau làm gì mà Lềnh không biết.
- Ông đang vỗ tay. Nghe Lềnh nói thế, ông Thi nhìn Lềnh rồi nhẹ nhàng.- Đúng rồi. Tôi vừa vỗ hai tay vào nhau. Nhưng cậu có thấy không? Để có tiếng kêu bồm bộp mà cậu nghe thấy đó cần phải có hai tay và có mười ngón tay. Vỗ tay cần nhiều ngón, làm việc lớn thì phải nhiều người.
Ông Thi nói đúng rồi. Khi sướng, Lềnh vẫn lấy hai tay vỗ vào nhau. Chuyện nhỏ, Lềnh làm suốt. Lềnh không thể nghĩ và biết được rằng chỉ có cái vỗ tay mà nó lại có nhiều ý nghĩa đến thế. Nhiều cách nói đến thế. Khi nhà có việc nặng, bố Lềnh vẫn phải bắt nhiều người khênh, vác, lôi, kéo, lăn, bẩy, kẻ hô người ứng thì mới thành. Nhưng Lềnh chưa bao giờ lại nghĩ được như thế này.
Thấy Lềnh có vẻ ngạc nhiên về cách lý giải của mình, ông Thi lại lấy tay, cầm tay Lềnh kéo vào sát tay mình. Ông đẩy ngược ống tay áo của hai người lên đến tận nách. Ông Thi hỏi Lềnh. - Cậu có thấy tay tôi với tay cậu có cái gì giống và khác nhau không?Lềnh nhìn kỹ lên cả hai tay của mình và của ông Thi. Lềnh chả thấy gì, chỉ thấy tay của ông Thi và của Lềnh khà khẳng, khà kheo, trông như que củi khô trên cây hay bên chân rào, gốc cây trong vườn. Lềnh mạnh dạn.
- Tôi chả thấy gì. Tay ông cũng như tay tôi.
Nghe Lềnh nói thế, ông Thi ngửa mặt lên trời cười ầm ầm. Ông vỗ vỗ tay lên vai Lềnh giải thích. - Tay tôi và tay cậu đúng là như nhau. Gầy nhẳng như que củi. Chỉ có khác nhau là da tay cậu trắng hơn da tay tôi. Đấy là cậu nhìn được thế thôi. Còn nhiều điểm giống nhau lắm.Lềnh nghe ông Thi nói mà giật mình. Lềnh chỉ nghĩ trong đầu là tay của ông Thi và tay mình khà khẳng khà kheo chứ không nói ra thế mà ông Thi nói trúng phóc. Ông Thi quả là giỏi quá. Lát nữa, Lềnh sẽ hỏi ông Thi xem làm sao ông có thể đọc được điều Lềnh nghĩ trong đầu. Ông Thi có lẽ phải giỏi hơn cả mấy ông thầy cúng bắt ma, mấy thầy địa lý, kính đen tròn như cái đít chén, lúc nào cũng trễ xuống đến gần miệng, tay lúc nào cũng nhăm nhăm cái bàn xoay trên tay. Càng nghe Lềnh càng thấy ông Thi giỏi. Giỏi quá. Không để đâu hết giỏi. Lềnh nghe ông Thi giải thích cái tay mà cứng hết họng. Ông Thi nói rằng. Tay ông Thi và tay Lềnh giống nhau bởi có cùng gốc gác người Việt Nam. Có cùng màu da, có cùng máu đỏ. Dài như nhau, ngón tay cũng dài như nhau. Nhất là lòng bàn tay, người nào cũng rộp dày da. Ông Thi nói, lớp da rộp dầy đó gọi là chai tay. Do người mình phải làm lụng vất vả quá nên cái da tay nó sù ra để cho đỡ đau.
Ông Thi giải thích cái tay thì đúng quá đi rồi. Nhưng sau đó ông còn nói với Lềnh là cái thằng tây, nó sang xâm lược đất nước mình, nó sang vơ vét của cải tài nguyên về đất nước nó, nó bắt đàn bà con gái Việt Nam phải lấy nó làm chồng. Vì nó không phải là người cùng dòng tộc, cùng máu đỏ da vàng như ông Thi và Lềnh. Tay nó dài như vượn, lông lá đầy tay. Da tay nó trắng chứ không nâu nâu vàng vàng hay đen đen như người Việt Nam ta. Phàm những kẻ tay dài, lông lá dầy trên tay, quyết không phải là người thương dân ta. Kẻ đó là quân xâm lược, kẻ ăn cướp bằng sức mạnh. Để giành lại đất nước, để cho người dân thoát khỏi lầm than, nhất định phải nhất thể đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập. Nghe ông Thi nói, Lềnh thấy hởi lòng hởi dạ.
Nghe ông Thi nói, Lềnh thích rồi nhưng trong lòng Lềnh cứ áy náy. Thằng Tây súng ống đầy người, còn mình, toàn tay không thì biết đánh làm sao. Lềnh lấy hết can đảm hỏi ông Thi. - Nếu tôi đi tham gia cùng ông thì súng ống đâu mà đánh nó?Ông Thi lại nhìn Lềnh ngửa mặt lên trời cười ầm ầm. Ông chỉ tay vào người Lềnh.
- Quần áo thì cậu đang mặc đó thôi. Có không quần không áo đâu mà lo. Nếu không có, vào dân xin. Dân chưa có thì lấy vỏ cây, lá cây mà che mà đậy. Ngày xưa cha ông ta cũng có vải đâu, có quần áo đâu mà vẫn dựng được nước đấy thôi. Súng thì…
Lềnh nhìn theo tay ông Thi chỉ. Nơi ấy chính là đồn giặc đang đóng . Nơi mà thằng quan hai vẫn thỉnh thoảng vào nhà Lềnh xin bố Lềnh thuốc phiện để hút. Lũ lính mỗi lần vào là khi ra khỏi cổng lại xách theo dăm ba đôi gà. - Súng ở đấy chứ đâu. Vào đấy ta cướp lấy súng về mà dùng. Chúng nó có mươi mười lăm thằng. Còn ta, có cả hàng trăm, hàng nghìn người. Mỗi người nếu đồng lòng, chỉ cần cầm viên đá ném vào chúng đã chết không sót một mống.Và chính những điều này, sau này Lềnh cũng nói với rất nhiều người như thế. Và thế là người người đi theo, nhà nhà đi theo. Từ một hai người rồi đến khi số người đi theo dòng dòng như nước lũ
NHỮNG KẺ ĐỒNG SÀNG DỊ MỘNG
Lão Tảng thập thững bước thấp bước cao đi, tay xách con chồn vừa bắn được. Con chồn này nếu lão đưa cho mụ Đoác mang đi bán kiếm cũng được ối tiền. Ờ, mà mấy bữa nay con mụ Đoác đi đâu lão không gặp. Trông mụ chả khác gì con lợn sề, vú chảy nhễu ra, da nhăn như tàu lá gấp nếp. Nhưng mà. Lão nghĩ. Mụ Đoác tuy thế nhưng mỗi lần được nằm ấp bên mụ lão thấy còn ngọt nước đáo để. Mà mụ khỏe quá. Chả lần nào mà mụ không làm lão mệt đến bở hơi tai. Bố tổ nhà nó. Lão lẩm bẩm. Mụ thấy hơi đàn ông quá bằng con hổ thấy mùi thịt lợn non. Mụ cào cấu, cắn xé, ghì lão đến ngạt thở. Tổ sư nhà nó. Đi chết mất mặt ở đâu mà không nói với lão một câu. Lần này mà gặp, lão phải xé xác mụ ra cho hả, cho bõ giận. Lão bỗng dưng thấy nhớ mùi của mụ Đoác. Cái mùi từ da mụ Đoác toát ra. Nó có vị ngai ngái của cỏ mục. Nó lại có chút hôi hôi của vỏ cây mốc. Nó cũng có chút ẩm ướt của đất ếm nắng. Mềm mềm và quyến rũ. Lão còn thấy từ cơ thể của mụ có cả mùi tanh tanh của xác thịt lũ cầy, lũ cáo mà mỗi khi lão bắn được. Nghĩ đến mụ Đoác, lão Tảng đã thấy rạo rực khắp người. Lão cảm thấy rõ những đường máu chảy trong cơ thể. Lão thấy cồm cộm dưới quần. Lão đưa tay, búng nhẹ vào chỗ quần nhô cao. Lão chửi với giọng đầy âu yếm.
- Tiên sư nhà đồ chó. Có nằm yên đấy không để bố mày còn đi. Lão rẽ đám cỏ lau cao lúp xúp đầu người. Cả cánh rừng dãy núi Bái lão có thể đọc được từng hang, từng hốc. Thỉnh thoảng lão lấy tay, gạt cành cây sim chắn trên lối đi. Hang ma lâu không có người vào chắc chồn cáo rắn rết tìm về đây trú ngụ. Lão phải lên để xem. Bị mấy cành dây leo ngáng mặt, lão lẩm bẩm chửi. Lão chửi không rõ tiếng, không rõ người. Tiếng lão chửi nghe lục bục như giọt nước rơi trên lá. Bước phăm phăm về phía trước. Cái đầu lão nghĩ. Hôm nay lão về mà gặp được con mụ Đoác, lão phải xé xác thịt mụ ra. Lão phải cho mụ Đoác biết lão thế nào. Mụ gần đây cứ nói kháy nói khỉa lão rằng lão làm mụ không bõ công cởi quần. Lần này lão quyết cho mụ biết thế nào là thằng Tảng, cho mụ hết nói kháy nói khỉa rằng bõ với chả không bõ. Lão như cảm thấy tiếng thở của mụ Đoác hổn hà hổn hển bên tai. Lão cũng cảm thấy cả hơi thở khăm khăm từ cái miệng ngoác ra như con cá ngão của mụ bên má. Lão sẽ cho mụ chết trong cánh tay lão mới được.Lão ngước mắt nhìn lên hang ma. Lão nghĩ. Cái hang này từ ngày cô Lù chết không biết cái hang ấy ra sao? Chỉ nghĩ đến hang ma là mọi người đã chết mất vía. Lão mà sợ à. Lão đã biết sợ ai. Từ ngày lão theo cụ Chu cho đến nay chỉ có thiên hạ sợ lão. Chỉ từ ngày cụ Chu thắt cổ chết thì mọi người mới coi lão chả ra cái gì. Trước mà xem. Chỉ nghe tiếng cụ Chu là đã mất vía. Lũ con gái mà nghe tin cụ xuống bản có mà, rủ nhau chạy vào rừng mất mặt. Đời rõ là khốn nạn. Đúng là vắng chủ nhà chó cũng lên mặt. Lão thấy cụ Chu cũng chẳng ra cái chó gì. Chúng nó có đấu vậy đấu nữa thì đã làm sao. Mới bị lôi ra đấu, kể tội mà đã tự thắt cổ mà chết. Rõ là chả ra cái gì. Cụ chết làm lão khổ lây.
Tự nhiên lão lại nghĩ. Chả lẽ lũ chồn cáo cũng ngửi được mùi sát khí từ lão. Lũ xúc sinh ấy cũng biết dựa vào hồn ma của cô Lù để tránh cái chết sao? Đời lão mà khốn nạn thì lão cũng còn lâu mới cho lũ xúc sinh được sống yên ổn. Có chạy đằng trời. Lũ chồn cáo gặp lão chạy trốn cái chết tìm về đây mà thoát được tay lão sao? Gần đây, lão như cảm thấy trên người có cái mùi yếm khí thoát ra từ sự chết chóc mà làm cho đi săn không còn được như trước. Cái mùi ấy đã làm cho lũ chồn cáo, rắn rết biết lão đến thì phải.
- Mả mẹ chúng nó - Lão buột miệng chửi - Có chạy đằng trời. Bố mày không thích thì thôi chứ bố mày mà thích thì chúng mày còn lâu mới thoát được. Miệng chửi chân bước, lão nhằm hướng hang ma đi tới. Đúng lúc lão vừa bước rẽ về hướng hang ma, có một cái gì đó bật đánh víu một cái. Lão chỉ kịp nghe thấy tiếng víu rất mảnh, rất nhanh thì lão đã ngã đổ vật xuống đất hai tay ôm lấy háng. Lão cảm thấy cái chỗ con giống của lão như vừa có ai xẻo. Lão cứ ôm chặt lấy háng quằn quại. Con chồn lão vừa săn được cũng bị bắn văng đi đâu mất.Lão ôm háng rồi cứ để cái thân lão lăn lóc trườn dài xuống dốc. Lăn được một đoạn, lão chợt giật mình. Cứ lăn thế này có khi lão rơi xuống vực chết mất xác. Lăn xuống dưới kia, lão chết đi còn không được như cô Lù để cho mọi người nhìn thấy những bọc giòi rơi lịch bịch xuống vũng nước vàng vàng từ cơ thể cô rơi xuống. Chết ở đó, lão chỉ làm mồi cho lũ chuột rừng. Cái lũ chuột mà khi nào thích, lão chỉ cần đưa cây nỏ trên vai. Tạch. Thế là con chuột xong đời. Lúc ấy, lão chỉ cần đi đến, cầm lấy cái mũi tên xách lên là xong. Lão giết nó nhưng quyết không để nó ăn thịt lão. Thịt lão có hôi thối đến đâu thì cũng quyết không làm mồi cho lũ xúc vật mà lão đã từng làm thịt.
Lão sợ quá, vội dạng te hai chân ra như cái chạng cây lũ trẻ hay chặt làm cái chạc bắn súng cao su. Lão trượt được một đoạn thì gốc khóm cây sim giữ lại. Ối giời ơi. Lão kêu lên. Cái chỗ con giống của lão vừa như bị ai đó cầm viên đá hay cành cây choảng thẳng vào chưa kịp hết đau thì cái gốc khóm sim lại dằn cho nó một lần nữa. Lần này thì lão không thể chịu được. Lão thấy hai con mắt nảy hoa cà hoa cải, mọi thứ quay cuồng đảo lộn tất cả. Lão chỉ kịp nghĩ, có phải cô Lù trên hang ma biết lão báng bổ định leo lên đó hay không mà trừng trị. Hay linh hồn của lũ chồn lũ cáo mà đã bị giết bao nhiêu năm nay hiện hồn trở lại bắt lão phải đền tội. Lão chỉ kịp nghĩ được vậy rồi lịm đi. Hai tay lão cũng không còn ôm khư khư lấy háng. Cái cành cây của gốc cây sim bị lão lao vào mạnh quá, chọc thẳng vào đũng quần. Cành sim bêu đũng quần lão lên.
Lão cứ nằm như thế chả biết đến khi nào. Cái đầu lão vẫn nghĩ. Chắc phen này thì linh hồn của bầy thú mà bao năm nay đã bị lão bắn chết, làm thịt sẽ tha lão về chầu ông bà ông vải. Thế là lão toi đời. Thế là trên thế gian không còn lão Tảng nghiện rượu, nghiện thuốc phiện và thích đàn bà nữa. Lão thấy tiếc cho chính lão không được hưởng hết cái sung sướng của đời. Mặc dù, đời lão đã được nếm, được ngửi rất nhiều mùi đàn bà. Tổ sư nó. Mùi đàn bà lão cứ tưởng ai cũng như ai. Hóa ra, lão thấy không giống nhau. Cái mùi chết tiệt ấy nó như mùi thuốc phiện cứ cuốn lấy lão. Nhiều lúc lão cũng thấy sức khỏe yếu đi nhiều nhưng rồi cái mùi đầy quyến rũ và hấp dẫn ấy lại dẫn dụ lão đi. Lão như kẻ mụ mị vì mùi đàn bà. Có một lần, cái ngày cụ chủ Chu còn sống. Cụ thấy lão nhìn thấy gái mắt cứ hau háu quá bằng quạ nhìn bầy gà nhiếp, con sói thấy bầy thỏ, con hổ thấy con lợn. Cụ chỉ tay vào mặt lão.- Làm cái thằng đàn ông. Thấy con đàn bà mà cứ hau háu như ăn sống nuốt tươi thế rồi cũng sớm về chầu ông bà ông vải đấy. Nó sướng vậy thôi nhưng nó là cái cưa, cắt đời thằng đàn ông. Cứ hám ăn lắm vào rồi mà chết bất đắc kỳ tử.
Kệ. Cụ nói là phận cụ. Nghe hay không là chuyện của lão. Mà lão cũng thấy cụ có chê con đàn bà nào đâu. Cụ gặp con đàn bà nào, từ trẻ đến già, từ nhũ hoa cho đến đã rữa. Cụ đã thích là cụ bắt về nuôi trong nhà đấy thôi. Thế mà cụ vẫn khỏe, da dẻ vẫn hồng hào. Ngay bà Năm của cụ mà lão được hưởng chút xái như xái thuốc phiện cũng là nhờ ơn cụ có mấy con trẻ hơn. Chứ nếu không. Đời lão cũng chả sờ được cái gấu váy, cạp quần của bà chứ nói gì đến được bà gọi vào, vuốt ve, âu yếm rồi cho ngủ cùng. Có mà cụ sợ lão khỏe hơn cụ rồi ra tước hết những con đàn bà của cụ thì có. Hì hì. Thằng đàn ông nào mà chả thế. Lão cứ suy từ bụng lão ra thôi.
Lão tỉnh lại đã thấy nằm ở trên giường của mụ Đoác. Quân khốn nạn. Cái con giống của lão đã bị cái chó chết nào quật cho một nhát làm đau điếng muốn chết cho được. Rồi lại bị cả cái gốc cây sim nó choảng thẳng vào làm lão chết giấc thế mà mụ còn sờ mó nó được. Vừa nhìn thấy lão mở mắt. Mụ Đoác đã suýt xoa. - Đau lắm không? Lại lủi đi chơi con nào chứ gì. Bỏ mụ, chê mụ già cho giời quả báo.Rõ dơ. Ấy là lão nghĩ thế thôi chứ lão còn thấy đau lắm. Lão cảm thấy cái đau nó dồn lên đến cổ, tắc ở cuống họng. Thảo nào. Các cụ vẫn thường bảo, tức như bị bóp giái thọt lên cổ.
Lim dim mắt, lão mặc kệ mụ. Bây giờ mụ có làm gì thì lão cũng phải chịu. Tay mụ Đoác vừa sờ soạng miệng mụ vừa nói lẩm nhẩm.
- Phí của giời quá. Đang nần nẫn thế mà bây giờ chỉ nhũn như con chi chi. Thế này còn làm ăn được cái nỗi gì. Nhắm mắt giả ngủ mà lão nghe mụ nói thấy lộn ruột. Phí làm sao được. Giời đã cho lão thì còn lâu mới phí. Lão đang nghĩ thế thì mụ Đoác đang lấy tay vuốt ve bên bắp đùi của lão. Bất ngờ mụ bẹo cho bắp non của lão một nhát.- Ối giời ơi.
Lão đau quá không chịu được. Mụ Đoác lấy tay xoa xoa chỗ vừa bẹo. Mụ toét cái mồm ra cười.
- Đồ phải gió. Thấy người ta làm cho lại giả ngủ. Sướng lắm đấy. Giả đâu mà giả. Đau đến tưởng chết đi được lại còn nói giả. Lão vừa định mở mồm ra cãi thì đã bị mụ Đoác lấy tay bịt lấy miệng.- Nằm im. Ai cho lão đi lên hang ma hả?
Lão cố gắng gượng người ngồi dậy. Nhìn xoáy vào mặt mụ Đoác, lão nói nhỏ.
- Ai nói mụ ta lên hang ma? - Thôi. Đừng có giỡn mụ đây. Lão đi săn về rồi định lên hang ma đúng không? Nếu không thì làm sao lão bị cái bẫy nó bật cho đúng cái con giống hả?Đúng là con mụ Đoác, mũi thính hơn mũi chó. Nhưng mà mụ ở đâu, làm gì trên đó mà biết được lão như thế.
- Thì nghĩ lên đó làm mấy con chồn, con cáo nữa rồi về nhân thể đưa mụ đi chợ. Cái hang ấy lâu nay không có người lên, rừng lại bị động nên chắc chúng trốn hết vào đó.
Mụ Đoác lấy tay vỗ như tát nhẹ vào mặt lão. Lão nheo nheo mắt tránh nhưng không được. Mụ Đoác đặt lão nằm lọt thỏm vào cái chỗ vũm sâu của cái đệm bông gòn mà mụ đã ngủ trên đó và lão cũng đã bao lần ngủ trên đó với mụ có từ đời tám hoánh nào rồi. - Ta nói cho lão biết. Lão đừng có léng phéng. Lão mà léng phéng là lão chết mất mạng đó. Không đùa được đâu?- Thế ai nói mà mụ biết ta lên đó?
- Thì cậu cho người báo chứ ai?
- Thế ai mang ta về đây? - Nếu ta không mang xác lão về đây thì chó nó tha lão về chắc. Người gì mà nặng như cối lỗ. Làm người ta phải vất vả mãi mới đưa được lên lưng con bò để đưa về. Đúng là đồ to xác mà nhỏ dé.Lão ngước mắt nhìn mụ. Ôi sao bây giờ lão thấy mụ đáng yêu đến thế. Lão quàng tay định kéo mụ nằm xuống. Mụ gạt tay lão ra, đôi mắt nhìn lão sao mà đắm đuối.
- Đồ nỡm. Còn đang sưng to như cái bát tô mà đã…
Mụ nhoẻn cười. Trong đôi mắt của mụ long lanh như sương. Kệ. Lão cười khùng khục rồi vít cổ mụ xuống, vật mụ nằm bên cạnh. Mụ Đoác lấy tay, xoa nhẹ lên má lão âu yếm. Như vô tình, bàn tay mụ trượt xuống phía dưới. Lão Tảng đưa tay đặt lên hai mông mụ Đoác. Bàn tay lão giật giật theo mỗi lần nẩy của mông. Mụ Đoác nhắm nghiền hai mắt. Hơi thở của mụ nóng rừng rực. 17LỆNH TRIỆU HỒI
Sau khi bàn bạc xong với chính trị viên Song Hoa, Trịnh Toàn quyết định triệu tập cuộc họp gấp ngay vào chiều ngày hôm sau. Trịnh Toàn cho triệu tập thành phần gồm, đồn trưởng các đồn, trưởng ban trinh sát, trưởng ban hậu cần, trưởng ban chính trị, nhân viên kỹ thuật điện tín.
Nhận được lệnh, đang ở bản La Khê, ngay từ sáng sớm, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân đã vội vã gọi chiến sĩ giám mã chuẩn bị ngựa để lên được. Trưởng ban trinh sát yêu cầu A Lò và Tự Kim cũng chuẩn bị lên đường ngay. Trước khi đi, đồng chí anh nuôi gói cho mỗi người một nắm cơm, nhét vào trong ba lô cùng ít muối vừng. Thấy cậu anh nuôi xách bình tông nước đi ra treo vào bên dây ba lô, Tô Hồng Dân ngoắc tay lại bảo.
- Cậu chuẩn bị cơm nắm và muối thôi. Nước thiếu gì. Khát xuống suối. Uống có mà no căng bụng. Tỉnh gọi về gấp. Càng gọn nhẹ càng tốt. Nhìn chiến sĩ anh nuôi có vẻ chưa yên tâm, Tô Hồng Dân nói vui.- Người chỉ cần thế thôi. Đồng chí nếu lo được thì phải lo luôn ba suất cỏ nữa mới đủ. Cậu chỉ lo cho người mà không lo cho ngựa thì để chúng tôi chạy bộ về chắc.
Nói đoạn, trưởng ban trinh sát giơ tay lên chào, giọng tếu táo.
- Báo cáo đồng chí anh nuôi. Cắt cho ba suất ăn. Báo lại chế độ ăn vào ngày mai cùng ba suất cỏ. Nói xong, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân vỗ vỗ vào mông chú ngựa tía, quàng dây cương sang bên kia, rồi đặt chân lên bàn đạp, nắm lấy cọc yên, nhún người nhảy lên. Tô Hồng Dân thúc nhẹ hai gót chân vào bên thân chú ngựa. Nhận được tín hiệu xuất phát, chú ngựa hơi nhún mình xuống rồi lao đi. Theo sau là bước chân gõ móng lọc cọc, lọc cọc của bốn nhịp móng từ đôi ngựa của A Lò và Tự Kim.Ba người ba ngựa cứ theo hướng biển lao về. Những chú ngựa cũng đã quen với con đường nên chúng chạy rất nhanh. Cứ cắt rừng mà đi. Gặp được khu đất trống, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân cùng A Lò và Tự Kim thỉnh thoảng lại sóng hàng ngang bên nhau. Mỗi khi ba chú ngựa sánh hàng ngang nhau là chúng lại khục khặc đầu lắc lư sang hai bên.
- Này. Hôm trước thủ trưởng Trịnh Toàn cho gọi hai cậu về báo cáo hang ma. Hai cậu báo cáo thủ trưởng đến đâu rồi?
Trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân quay qua bên A Lò và Tự Kim hỏi. - Thì chúng tôi báo cáo đầy đủ với thủ trưởng đúng như những gì chúng tôi đã thấy, đã biết và đã nghe.- Thế thủ trưởng có chỉ đạo ý kiến gì không?
- Thủ trưởng nghe chúng tôi báo cáo. Vừa nghe vừa ghi chép gì đấy. Nghe xong, thủ trưởng chỉ dặn là tiếp tục bám vấn đề hang ma. Thủ trưởng nói là có vấn đề đấy. Khi nào cần thì thủ trưởng sẽ gọi.
Nghe hai chiến sĩ báo cáo, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân thấy mình thật có lỗi. Từ ngày về nhận nhiệm vụ ở đây nhưng anh chưa có thời gian để đi hết địa bàn. Anh không dám đổ lỗi cho công việc nhưng rõ ràng là anh chưa biết sắp xếp như thế nào để có thể lăn lóc xuống các bản, các xóm nắm tình hình. Mọi thông tin có được chủ yếu anh đều thông qua báo cáo. Anh vẫn biết. Trong công việc cần phải có niềm tin vào cấp dưới nhưng chỉ có niềm tin không thì chưa đủ. Trong công tác lãnh đạo của Đảng cũng đã nói rất rõ. Không có kiểm tra là không có lãnh đạo. Trong lần xuống thăm và làm việc với ban công an nhân dân vũ trang của tỉnh, đồng chí Tư lệnh kiêm Chính ủy cũng có ý nhắc nhở việc triển khai kế hoạch hoạt động của các đơn vị. Đồng chí nói rõ rằng, nếu kế hoạch chỉ viết ra trên giấy thì nó mãi mãi chỉ là tờ giấy lộn. Phải triển khai cụ thể thậm chí đến từng người. Chỉ có như thế thì kế hoạch mới thực sự có kết quả và chất lượng. Tô Hồng Dân nhớ mãi câu nói khi tư lệnh kết luận buổi nói chuyện. Tư lệnh kiêm chính ủy dặn tất cả cán bộ chỉ cần làm tốt tám từ: quán, giáo, xây, chống, thái, tác, cụ, tỷ. Theo tư lệnh kiêm chính ủy, chỉ cần làm tốt tám từ này thì đã là người cán bộ tốt, đơn vị đã thành một khối thống nhất, vững vàng hơn núi, không có thế lực hay trở ngại nào ngăn nổi. Rồi tư lệnh kiêm chính ủy phân tích. Quán ở đây là quán triệt. Khi nào được quán triệt đầy đủ và sâu sắc thì khi đó mới có được nhận thức đầy đủ. Nhận thức có đầy đủ thì mới có thể có tư tưởng thông suốt và hành động chính xác. Còn giáo ở đây là giáo dục. Quán triệt sâu sắc rồi, nhận thức sâu sắc rồi thì phải giáo dục cho chiến sĩ cũng có nhận thức như mình. Nhận thức được như thế thì sẽ có sự đồng tâm hiệp lực trong công việc. Đồng tâm trong nhận thức, trong công việc chính là cái để tạo nên sức mạnh tổng hợp để có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách. Quán triệt xong, giáo dục tốt thì phải biết xây dựng. Xây dựng một ý chí, một quyết tâm. Xây dựng cho lòng mình thành chính trụ vững để làm cho mọi người nhìn vào đó, trông vào đó mà làm theo. Còn chống chính là để biết loại bỏ những vấn đề không cần thiết, trái chiều trong suy nghĩ và trong tư tưởng. làm cho tư tưởng trong sạch, thông suốt, có niềm tin vững chắc.Nói rồi, tư lệnh kiêm chính ủy ngừng ngắn. Ông đưa mắt nhìn khắp lượt hội trường. Ánh mắt bao dung và chia sẻ song cũng nghiêm khắc và quyết đoán. Ông như muốn để mọi cán bộ chiến sĩ dưới quyền có thời gian đủ hiểu và thông tỏ được những điều ông vừa nói. Trong cuộc đời binh ngũ của mình, Tô Hồng Dân không ngờ được rằng, một vị tướng, một vị tư lệnh, một cán bộ cấp cao của Đảng, của cả ngành mà dân dã và gần gũi, thông hiểu người lính đến thế. Tô Hồng Dân đưa mắt nhìn nhanh xung quanh. Anh cảm nhận thấy mọi người quanh anh ai ai cũng hướng ánh mắt lên phía đồng chí tư lệnh kiêm chính ủy để sẵn sàng chờ mệnh lệnh. Và có lẽ, chỉ cần một mệnh lệnh từ đồng chí tư lệnh kiêm chính ủy đưa ra, tất cả sẽ xung trận. Mười người như một, trăm người như một, nghìn người như một. Sức mạnh của lòng đồng tâm nhất trí.
Nhắc cốc nước đun sôi để nguội lên nhấp nhấp, tư lệnh kiêm chính ủy nói tiếp. Giọng ông vẫn hào sảng và đầy sức quyến rũ.
- Những ý trên là tôi muốn nói đến cách làm, bước đi của một công việc. Nếu các đồng chí thực hiện tốt được như thế, làm suôn sẻ những điều đó thì mới chỉ đạt được năm mươi phần trăm kết quả. Và nếu chỉ đạt được như thế, tôi dám chắc là khó lòng mà giành được thắng lợi. Mà thất bại đang chực chờ phía trước. Dưới hội trường rộ lên tiếng xì xào. Ngay Tô Hồng Dân lúc đầu cũng nghĩ, nếu một ai đó, làm tốt các nội dung trên thì đã là trên cả tuyệt vời. Và anh cũng nghĩ, khó có ai có thể làm được, hiểu được, thực hiện được một cách cặn cẽ, thấu đáo những điều tư lệnh kiêm chỉnh ủy gửi gắm, trao đổi qua cách ông nói chuyện.Như đoán được lòng mọi người, như thông tỏ được nỗi niềm vướng mắc đang cộn lên trong lòng mọi người. Ông cười.
- Nếu làm được như thế mới chỉ là người lính tuân lệnh chứ chưa phải là người chỉ huy sắc sảo và toàn diện. Và như thế cũng mới chỉ đạt được lý thuyết mà chưa có thực hành.
Tư lệnh kiêm chính ủy lại dừng ngắn. Ông nói giọng rất vui nhưng lại rất rành rõ và kiên quyết. Ông nhắc từng tiếng một. - Làm như thế người ta gọi là lý thuyết suông. Như ăn cháo không hành, ăn cơm không muối. Ấy là nói theo cách nói nhẹ. Còn nói theo cách nói của dân gian là: Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa.Ông hướng về phía dưới hội trường hỏi.
- Có đúng thế không các đồng chí?
Cả hội trường cười ồ lên khi tư lệnh kiêm chính ủy vui giọng và trêu đùa với mọi người. Đoạn ông đợi cho cả hội trường im lặng trở lại. Ông nói. - Lúc trước tôi mới nói năm mươi phần trăm tiêu chuẩn của người cán bộ. Bây giờ tôi sẽ nói năm mươi phần trăm phẩm chất còn lại. Nếu một ai hợp đủ bốn từ này nữa thì mới có thể …Nói đến đây, tư lệnh kiêm chính ủy dừng lại. Ông nhấn mạnh.
- Tôi nhấn mạnh thêm này. Nếu ai hợp đủ bốn từ này nữa thì mới có thể. Mới chỉ có thể thôi đó nhé, đạt được tương đối đầy đủ năng lực, phẩm chất của người chỉ huy. Bốn từ đó là: Thái, tác, cụ, tỷ.
Như để cho mọi người đủ thời gian nhớ được bốn từ trên, tư lệnh kiêm chính ủy phân tích. Thái ở đây được hiểu là thái độ. Làm người cán bộ luôn đòi hỏi có một thái độ chân thành, trung thực, thẳng thắn và dám chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Tác ở đây là tác phong. Tác phong của người cán bộ phải sâu sát. Nếu không sâu sát sẽ quan liêu, làm việc sẽ như chuồn chuồn đạp nước. Và chỉ có sâu sát mới đưa ra được những quyết định đúng đắn, chính xác nhất. Cụ ở đây phải được hiểu là cụ thể. Cái gì cũng phải cụ thể. Cụ thể đến từng chi tiết một, từng tình huống một. Khi lựa chọn tình huống để xử lý, người cán bộ phải lựa chọn tình huống xấu nhất. Khi anh đã chọn tình huống xấu nhất để xử lý rồi thì khi các tình huống khác kém xấu hơn xảy ra, anh sẽ đủ bình tĩnh để giải quyết. Nếu ngay cả khi tình huống xấu nhất xảy ra thì bản thân anh cũng đã biết trước, đón trước, không bị bất ngờ. Còn tỷ ở đây là tỷ mỉ. Khi ra quyết định nào đó, bản thân người cán bộ phải cảm nhận được như mình có thể nắm được, sờ được, ngửi được trong lòng tay. Và như thế, các quyết định khi anh đưa ra, có khác gì anh thò tay vào túi của mình lấy ra vật mà anh đã để. Sau khi phân tích và làm rõ từng từ ngữ, tư lệnh kiêm chính ủy cười. Ông hỏi mọi người.- Lấy vật trong túi của mình có khó không các đồng chí?
- Không khó tư lệnh ạ.
Tiếng cười, tiếng đáp lời lao xao cả hội trường. Lại đợi cho tiếng cười, lời bàn tán, câu trả lời lặng xuống tư lệnh kiêm chính ủy đưa hai tay lên xua xua, dập dập có ý nhắc mọi người im lặng để ông nói tiếp.- Có ai nhớ được tám từ tôi vừa nói không?
Cả hội trường lại xôn xao.
- Có thủ trưởng ạ. - Nhớ hết và thuộc rồi thủ trưởng ạ.Có tiếng ai nói rất to ở phía sau.
- Quán, giáo, xây, chống. Thái, tác, cụ, tỷ ạ.
Tiếng vỗ tay rầm rầm. Tư lệnh kiêm chính ủy lại đưa tay lên dập dập phía trước mặt trên bục nói chuyện. Ông tươi cười, nói vui.- Thế là tôi đã đưa các đồng chí tất cả túi gấm rồi đấy nhé. Khi nào khó khăn hay vướng mắc gì, các đồng chí cứ giở túi gấm ra xem, làm cho đúng những điều ghi trong đó. Chắc chắn thắng lợi một trăm phần trăm.
Dứt lời, tư lệnh kiêm chính ủy đưa tay lên vẫy vẫy chào mọi người.
- Chúc các đồng chí thắng lợi! Ông đi ra cửa. Bị bất ngờ, mọi người đang vỗ tay vội đứng cả dậy nhất loạt đồng thanh hô khẩu hiệu.- Chúc tư lệnh khỏe! Chúc tư lệnh khỏe!
Tư lệnh kiêm chính ủy vừa đi vừa đưa tay vẫy. Chiếc xe con đã chờ sẵn bên lối cửa ra vào. Ông bước lên xe, tiếp tục đưa tay vẫy. Chiếc xe nhẹ nhàng lăn bánh.
Mỗi khi nhớ lại cái hôm được nghe tư lệnh kiêm chính ủy trò chuyện, Tô Hồng Dân luôn cố gắng. Dù anh cố gắng đã rất nhiều nhưng anh vẫn luôn thấy mình chưa xứng đáng với những gì tư lệnh kiêm chính ủy gửi gắm trao đổi. Thì đó thôi. Từ ngày anh về nhận cương vị trưởng ban trinh sát, anh mới chỉ tập trung xây dựng đơn vị huấn luyện nghiệp vụ, kỹ chiến thuật mà anh vẫn chưa nắm được tình hình địa bàn. Anh chưa thật cụ thể trong quản lý địa bàn, chưa thật tỷ mỷ trong điều hành, nắm bắt công việc. Trong đầu Tô Hồng Dân nghĩ. Chắc lần này chỉ huy trưởng cho gọi anh và A Lò, Tự Kim về là để nhắc nhở, kiểm điểm những chuyện trên. Quay qua bên A Lò, Tự Kim, trưởng ban trinh sát Tô Hồng Dân thân mật hỏi. - Này. Hai cậu cho tớ hỏi thật nhé.- Dạ.
- Hai cậu thấy tớ thế nào?
- Tốt ạ. - Không. Ý tớ là hỏi các cậu thấy tớ có làm được không cơ?- Thì cũng rất tốt ạ.
- Thế thì tốt là tốt như thế nào?
- Thì tốt…là tốt thôi ạ. - Ôi giời. Nói như hai cậu tớ đấm thèm vào hỏi cho mất việc. Hai cậu phải nói cho rõ ra nữa cơ. Tỷ dụ như: Tác phong thế nào? Thái độ ra làm sao? Có thực sự sâu sát công việc không? Điều hành, quản lý, chỉ huy đơn vị có được không? Anh em có kêu ca, phàn nàn gì không? Có nghĩa là tất cả ấy.Thấy trưởng ban trinh sát hỏi chuyện đánh giá mà cứ như truy xét, A Lò và Tự Kim đưa mắt nhìn nhau. A Lò và Tự Kim không biết nói thế nào. Thực tình mà nói, cả hai đều thấy trưởng ban trinh sát là người rất tốt. Với anh em thì gần gũi, chân thành, chu đáo. Với công việc thì hăng say và nhiệt tình, quyết đoán. Nếu soi vào theo tiêu chuẩn sáu điều Bác Hồ dặn cán bộ chiến sĩ toàn ngành công an thì trưởng ban không có khiếm khuyết gì. Nhìn nhau, A Lò và Tự Kim nháy mắt, lắc đầu ra hiệu không nói gì. Mà trưởng ban cũng chẳng có cái gì sai sót lớn đáng phải nói. A Lò và Tự Kim biết tính trưởng ban. Cái gì cũng lo xa, cái gì cũng muốn chu toàn.
Để phá vỡ sự im lặng, A Lò lên tiếng.
- Trưởng ban hỏi nhiều quá, em chả nhớ được phải nói cái gì trước cái gì sau. Em chỉ biết mỗi việc. Trưởng ban rất tốt. Thế thôi. Trưởng ban có quát em, mắng em, chửi em thì em vẫn cứ nói thế. Thật đấy. Biết có vặn vẹo hỏi thêm cũng không được, Tô Hồng Dân thúc hai bàn đạp vào bên sườn, chú ngựa lao lên. Thấy Tô Hồng Dân phóng đi, A Lò và Tự Kim cũng vội thúc ngựa lao theo. A Lò đưa mắt nháy Tự Kim. Cả hai cũng cười mỉm.Ép mình trên thân con ngựa có bộ lông màu tía, Tô Hồng Dân trong lòng vừa vui mà cũng vừa lo. Anh em nói là rất thực bụng mình. Sự đánh giá của anh em cán bộ dưới quyền làm anh vui. Làm người cán bộ quản lý, không gì vui hơn được anh em cấp dưới tin tưởng. Dẫu A Lò và Tự Kim không nói gì cụ thể và luôn có ý tránh trả lời thẳng vào câu anh hỏi, nhưng Tô Hồng Dân biết. A Lò và Tự Kim cũng như anh em cán bộ trong đơn vị đều là những cán bộ trung thành, một lòng một dạ vì sự nghiệp cách mạng chung của Đảng. Họ đều là những người xuất thân từ mảnh ruộng, dòng sông, làm thuê làm mướn, cuộc đời gắn với cây lúa củ khoai. Vì sự nghiệp cách mạng, họ có thể xả thân bất cứ lúc nào mà không hề có sự so đo tính toán. Ở những người lính này, Tổ quốc là trên hết, cách mạng là trên hết, không có gì sánh bằng. Và anh cũng tin rằng, trong đội ngũ của Đảng, với những người trung kiên như thế này, không có khó khăn nào của cách mạng mà không thể vượt qua.
Vui là vui thế song trong lòng Tô Hồng Dân vẫn lo lắng. Cái lo của trách nhiệm. Cái lo của người chỉ huy. Anh biết trong thời gian qua, vì công việc những ngày đầu xây dựng đơn vị còn gặp quá nhiều khó khăn, vất vả, có quá nhiều vấn đề cần giải quyết nên anh chưa có thời gian để xuống cơ sở, nắm bắt thực tế cơ sở địa bàn. Anh vẫn nhớ đinh ninh lời Bác dậy. Muốn làm cách mạng thành công, phải lấy dân làm gốc. Gốc có vững thì cây mới bền. Bác cũng dạy: Các chú chỉ có hai tay hai mắt, còn nhân dân có nghìn tay, nghìn mắt. Nếu các chú làm tốt công tác dân vận, thì mọi hoạt động của kẻ địch, các chú sẽ được nhân dân báo cho biết. Vẫn biết vạn sự khởi đầu nan, song anh thấy trách nhiệm của cương vị mà anh được Đảng, nhà nước, lực lượng giao phó trao trọng trách vẫn chưa thực sự toàn tâm toàn ý. Sai đâu sửa đấy. Lần này trực tiếp ban chỉ huy tỉnh gọi về, anh sẽ thẳng thắn mạnh dạn nhận khuyết điểm, nhận trách nhiệm. Ban chỉ huy đánh giá hay nhận xét sử dụng thế nào anh cũng chấp nhận. Thấy sai mà nhận mà sửa với anh không có gì là xấu hổ. Chỉ sợ thấy sai mà không dám nhận, không kiên quyết sửa chữa mới là điều hổ thẹn và đáng xấu hổ. Làm việc thì thế nào cũng phải có sai. Có sai và biết sai để sửa chữa thì mới có thể trưởng thành được. Mỗi lần vấp ngã là một lần cho ta sự trưởng thành. Có sự thành công nào không trả giá bằng mồ hôi và nước mắt, thậm chí bằng cả máu. Có con đường nào ta đi mà chỉ có thảm hồng nếu không nói có rất nhiều chông gai và bão táp.
Chỉ nghĩ thế, lòng Tô Hồng Dân thấy thanh thản. Thúc hai gót vào bên sườn chú ngựa tía, ghì chặt dây cương, ép sát mình xuống thân ngựa. Tô Hồng Dân cảm thấy cả tiếng gió quét nhẹ bên tai, bên má. Anh không nghe thấy cả tiếng ngựa gõ móng xuống mặt đất. Chỉ còn tiếng gió mơn man. Tô Hồng Dân thấy lòng mình nhẹ nhõm. Anh như thấy mình bay trên cánh rừng, bay trong màu xanh của lá, bay trong niềm tin, bay trong lòng trung nghĩa. Phía trên đầu, trên những màu xanh ấy, líu ríu tiếng chim.18 CON ĐƯỜNG XÂM NHẬP Cả đêm qua, Thiếu tá Trịnh Toàn không tài nào ngủ được. Ông gần như thức cả đêm để tính toán các phương án và bố trí lực lượng. Nhưng điều làm ông vui nhất là có được sự nhất trí nhanh chóng của chính trị viên Song Hoa.Thiếu tá Trịnh Toàn không nghĩ việc ông quyết định tập trung toàn lực lượng để mở chuyên án lại được sự nhất trí cao độ của chính trị viên Song Hoa nhanh như thế. Đến khi bước chân vào phòng chính trị viên rồi, Trịnh Toàn lúc đó cũng không biết sẽ nói như thế nào về việc nhận định đánh giá của mình. Thật may là chính trị viên Song Hoa lại pha ấm trà. Chính nhờ có chút thời gian ngắn đợi chính trị viên xúc ấm, pha trà mà Trịnh Toàn đã tìm ra được cách trao đổi ngắn gọn nhất về những suy nghĩ của mình. Ngay bản thân Trịnh Toàn, ông cũng không nghĩ rằng ông lại có thể nói với chính trị viên một vấn đề rất quan trọng, nó có tác động rất lớn đến sự thành bại của cả đơn vị chỉ trong một vài trao đổi ngắn gọn và cụ thể đến vậy. Chính nhờ có sự nhất trí cao, nhất trí đến tuyệt đối của chính trị viên Song Hoa làm Trịnh Toàn càng tin vào sự phán đoán và quyết định của mình là chính xác, càng làm ông tin tưởng vào khả năng thắng lợi.
Mặc dù trong lòng Trịnh Toàn chưa thực sự tin vào khả năng trên địa bàn của tỉnh có sự xâm nhập của địch. Ông tin vào khả năng quản lý và nắm bắt địa bàn của các đơn vị thuộc quyền. Nếu dựa trên tính toán và thực tế của địa bàn tỉnh, khả năng kẻ địch xâm nhập vào theo đường bộ là vô cùng khó khăn và gặp rất nhiều phức tạp. Thất bại sẽ nhiều mà thành công sẽ rất ít. Bởi, muốn hay không, khi xâm nhập đường bộ vào địa bàn tỉnh thì đối tượng sẽ phải đi qua rất nhiều địa bàn và các tỉnh khác. Mà mỗi lần đi qua được các địa bàn đó, đối tượng sẽ khó mà thoát được tai mắt của các lực lượng quản lý cũng như người dân. Trong khi đó, địa bàn tỉnh Trịnh Toàn quản lý lại là nơi cánh cung vùng Đông Bắc. Việc ra vào cũng không thuận lợi như các tỉnh miền Trung, nơi giáp ranh giữa hai lực lượng đối nghịch. Còn khả năng xâm nhập qua nước thứ ba để vào địa bàn của lực lượng tỉnh ông quản lý lại càng khó khăn hơn. Mặc dù, nơi đây có địa bàn hiểm trở song việc qua lại là vô cũng phức tạp và cực kỳ nguy hiểm.
Cũng theo tính toán của Trịnh Toàn, việc đối tượng xâm nhập vào địa bàn bằng đường không là cũng khó lòng có thể xảy ra. Hiện tại, tuy các lực lượng phòng không của địa bàn trong tỉnh còn mỏng, ấy là chưa nói là gần như bằng không thì khả năng này cũng ít xảy ra. Nếu xâm nhập vào đường không, máy bay khi bay vào nhất định sẽ có nhiều người biết. Không những thế, khu vực địa bàn của tỉnh lại chủ yếu là rừng già nguyên sinh nên việc đỗ hay đáp xuống sẽ không thể xảy ra được. Nếu nhảy dù, cũng là xác suất rất thấp vì dễ gây nguy hiểm cho chính kẻ xâm nhập. Nếu đối tượng xâm nhập lại đi theo con đường ngoại giao thì khả năng này càng ít xảy ra. Tất cả các đoàn đi theo con đường ngoại giao đã được quản lý và giám sát chặt chẽ. Nếu đối tượng đi cùng đoàn, tách đoàn ra để hoạt động thì chả khác nào “lậy ông tôi ở bụi này”. Sẽ bị phát hiện và ngăn chặn ngay. Không những thế, nó còn ảnh hưởng và để lại sự mất niềm tin trong quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Dẫu gì thì gì, dù Việt Nam mới giành được độc lập, chưa được nhiều nước trên thế giới công nhận nhưng vẫn là quốc gia có chủ quyền. Hoạt động theo con đường này thì chỉ là nhất thời và thời gian ngắn, không hiệu quả và mức độ không cao.Con đường xâm nhập có thể thực hiện để vào địa bàn của tỉnh có chăng chỉ có thể là theo đường biển. Mặc dù các lực lượng trên tuyến biển đã được bố trí nhưng còn mỏng. Chỉ riêng việc trên địa bàn biển của tỉnh quản lý đã có tới hàng nghìn điểm đảo khác nhau. Phạm vi rộng, địa bàn cũng phức tạp, lực lượng quản lý mỏng là cơ hội để cho đối tượng xâm nhập có thể thành công. Mặc dù trên biển ngoài các điểm đảo ra, chủ yếu là sóng nước. Song hạn chế lớn nhất này lại chính là điểm yếu cốt tử của người quản lý và là lợi thế rất thuận cho kẻ xâm nhập. Tuy khả năng quan sát được rộng hơn nhưng lượng tàu thuyền hoạt động lại khó quản lý. Tàu thuyền hoạt động trong khu vực không chỉ có người trên địa bàn, địa phương mà còn có rất nhiều tàu thuyền của địa phương khác cũng làm ăn mưu sinh trên đó. Trong khi đó, khả năng vươn xa để kiểm tra kiểm soát của ta lại còn nhỏ và chưa đủ sức. Ban ngày còn khó quản lý chứ nói gì đến về đêm. Đêm chính là kẻ thù của người quản lý nhưng lại là bạn, là đồng minh cho kẻ xâm nhập.
Trịnh Toàn cũng nhận định, số lượng đối tượng xâm nhập, kẻ xâm nhập sẽ không nhiều. Nếu xâm nhập nhiều thì sẽ bất lợi. Chúng ta vừa giành được thắng lợi nên khí thế trong quần chúng còn rất cao. Đi xâm nhập đông là sẽ để lại dấu vết, khó lòng mà xóa cho được. Và đi đông như thế thì cũng sẽ khó mà giấu được tung tích. Rất dễ bị phát hiện. Muốn giấu được kín thì chỉ có thể đi đơn lẻ hoặc cùng lắm là một toán từ hai đến ba tên là cùng.
Từ những phân tích trên của mình, Trịnh Toàn cũng tin rằng, nếu đối tượng xâm nhập cũng khó lòng có thể là người ngoài địa bàn tỉnh. Nếu xâm nhập được phải là người thông thạo địa hình, thông thạo phong tục tập quán, thông thạo ngôn ngữ địa phương. Thông thạo được những yếu tố trên thì chỉ có thể là người nội tỉnh. Người này phải là người gốc ở địa bàn. Nếu không, đối tượng này cũng phải là người lớn lên ở đây, ăn gạo ở đây, uống nước ở đây và làm việc sinh hoạt ở trên địa bàn thời gian đủ dài mới có thể có được. Nghĩ là thế, tính toán là thế nhưng Trịnh Toàn vẫn chưa lý giải và trả lời được việc cái mái chèo mà Trịnh Toàn nhìn thấy và thu được từ thuyền nhà Trần Kiên với hiện tượng xuất hiện có ma ở hang ma. Chúng có mối quan hệ như thế nào? Giữa chúng có vấn đề gì có liên quan? Một cái xảy ra ở biển. Còn sự xuất hiện của ma ở hang ma lại trên rừng, khe núi. Khoảng cách của hai vấn đề xảy ra là rất xa. Có phải chăng đây là sự trùng lặp ngẫu nhiên hay chỉ là một. Nếu quả đúng là ngẫu nhiên thì không chỉ có một toán, một đối tượng đã xâm nhập mà sẽ phải là hai toán. Nếu là một thì đối tượng này phải là người như thế nào mới có khả năng di chuyển địa điểm nhanh chóng đến như vậy. Nghĩ đến đau đầu nhưng Trịnh Toàn vẫn chưa tìm ra được lời lý giải cho thỏa đáng hai sự việc xảy ra trên địa bàn.Việc gì đang xảy ra? Xảy ra ở đâu và như thế nào? Bởi tại làm sao lại thế? Mục đích của nó? Thời gian xảy ra ra làm sao? Một đối tượng hay nhiều đối tượng. Một toán hay hai toán đã xâm nhập? Chúng đã thật sự xâm nhập chưa hay mới chỉ là trò rung cây dọa khỉ, tung hỏa mù, đánh lạc hướng, tạo dư luận? Rất nhiều câu hỏi cứ xoáy trong đầu Trịnh Toàn bắt ông có câu trả lời.
Đi đi lại lại trong phòng một mình để tìm câu trả lời. Càng nghĩ Trịnh Toàn càng thấy mù mịt và lo lắng. Mặc dù đã được chính trị viên nhất trí nhưng nếu nhận định sai, phán đoán chệch hướng, không đúng khả năng thì uy tín và trách nhiệm sẽ không còn gì. Nhưng nếu không triển khai, cứ chờ đợi thì khi sự việc xảy ra rồi mới triển khai thì quá chậm, và uy tín cũng bằng không. Đảng đã cho chủ trương. Đây là cái thuận lợi. Song người chỉ huy lại là người quyết định. Cái đúng và cái sai, cái được và cái mất chỉ chông chênh cách nhau không được bằng sợi tóc.
Bất giác, Trịnh Toàn đưa chân đá mạnh về phía trước. Uỳnh. Chiếc cánh cửa đã cũ, mấy cái bản lề đã hoen gỉ, lung lay như răng ông lão được cơ bung ra. Cánh cửa đổ vật xuống bậc thềm. Trịnh Toàn thấy bóng người nhoáng qua. Ông chạy vội ra cửa. Đứng ngay bên cạnh chiếc cánh cửa vừa đổ xuống là chính trị viên Song Hoa. Cánh cửa đổ sập xuống làm bụi đất tung lên. Chính trị viên Song Hoa đang lấy tay che ngang mặt tránh bụi.- Ôi. Anh Song Hoa. Anh có bị làm sao không?
Đợi cho bụi tan, chính trị viên Song Hoa buông tay xuống, rũ rũ tay áo rồi phẩy phẩy bụi trên người.
- Tôi không sao? Mà cánh cửa anh làm sao lại đổ sập xuống thế? Đi đến bên, cầm tay chính trị viên, Trịnh Toàn kéo Song Hoa vào phòng.- Chắc bí cái gì, nghĩ chưa ra lại đá vào cánh cửa chứ gì?
Chính trị viên Song Hoa nhìn Trịnh Toàn. Nói rồi ông mỉm cười.
- Tội cái anh cánh cửa này lớn lắm. Nhất là mấy cậu bên hậu cần. Biết tính thủ trưởng mà làm mộng mẹo không chắc chắn. Thật là chán mớ đời cho mấy cậu này quá. Nghe chính trị viên nói vui, Trịnh Toàn cười theo.- Có mấy cái mà tôi tính chưa ra. Thói quen cứ tiện chân tiện tay. Thôi. Anh vào đây đã tôi cũng đang muốn bàn thêm với anh.
Vừa với tay lấy ấm nước, cậu chiến sĩ thập thò ngoài cửa. Vừa rót nước mời chính trị viên, Trịnh Toàn vừa nói vọng ra.
- Vào đi. Có việc gì đấy. Cậu chiến sĩ rụt rè đi vào. Đứng nép vào bên khung cửa vừa bị bung ra. Cậu chiến sĩ giơ tay chào.- Dưới đồn Mũi Ngọc vừa điện báo về thu được chiếc thuyền thúng trôi dạt. Thuyền kiểu của ngư dân miền Nam.
Không kịp cả lấy chén nước đưa cho chính trị viên, Trịnh Toàn gần như nhoai người qua bàn để nhận lấy tờ giấy điện từ tay cậu chiến sĩ. Rồi cứ thế, vừa đứng vừa đọc. Đọc xong bức điện, Trịnh Toàn đấm mạnh hai tay xuống bàn. Chiếc bàn rung lên. Mấy cái chén bật lên khỏi chiếc khay lạch cạch. Chiếc ấm tích ủ nước chè xanh cũng nảy lên rồi đổ tràn xuống bàn. Chính trị viên nhìn Trịnh Toàn mỉm cười.
- Có thế chứ. Trịnh Toàn đưa bức điện cho chính trị viên xem. Ông ngồi xuống ghế. Nét mặt tươi roi rói. Mấy nếp nhăn trên trán giãn ra. Trên đôi mắt của Trịnh Toàn sáng lấp lánh. Cậu chiến sĩ chạy vội lại đặt chiếc ấm tích cho ngay ngắn. Cậu ngơ ngác nhìn Trịnh Toàn rồi chính trị viên Song Hoa. Cậu không biết chuyện gì đang xảy ra.Xong việc, cậu lặng lẽ rời phòng Trịnh Toàn. Trước khi rời, cậu nhẹ nhàng kéo chiếc cửa đổ dựng sang bên. Gió từ cửa ùa vào. Hơi nước biển cũng mang vào theo sự mát mẻ của biển.
Đợi cho cậu chiến sĩ đi khuất, Trịnh Toàn đứng lên, đi đến bên cạnh ghế của chính trị viên Song Hoa. Buông tờ giấy điện trên tay, chính trị viên Song Hoa đặt trên mặt bàn, xoay người nhìn Trịnh Toàn.
- Lúc nãy có việc gì mà bức xúc thế? - Cũng là cái chuyện này đây anh.Đưa tay chỉ vào tờ giấy, Trịnh Toàn trả lời chính trị viên Song Hoa mà mắt vẫn như dán vào bức mật điện của đồn Mũi Ngọc báo cáo.
- Có chuyện gì đâu? Đúng như anh đánh giá nhận định thôi mà.
Trịnh Toàn nhìn chính trị viên Song Hoa cười cười. Giọng thật thà. - Chiều qua, khi tôi trao đổi với anh về chuyện có rất nhiều khả năng kẻ mang mật danh AZET đã xâm nhập vào địa bàn của chúng ta quản lý. Anh có biết lúc đó trong đầu tôi không có lấy nổi một bằng chứng nào để chứng minh rằng chuyện đó đã xảy ra chưa? Bức mật điện của Ban công an Trung ương gửi cũng mới chỉ là ý nhắc nhở, phòng xa khả năng địch xâm nhập thôi. Chứ nào đã lấy cái gì làm cơ sở kết luận đâu.Nhìn lên khuôn mặt đồng đội, chính trị viên Song Hoa vẫn còn nhận ra nét vui, thoải mái của Trịnh Toàn. Ông nhỏ nhẹ.
- Biết chứ. Tôi biết rất rõ nữa là khác.
- Biết sao anh lại nhất trí nhanh với tôi như vậy? - Thì tôi tin vào khả năng nhận định của anh. Tin vào con mắt nghề nghiệp của anh.Chính trị viên Song Hoa định nói rõ thêm nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, thôi. Bản thân Trịnh Toàn chắc cũng quá thấu hiểu hoàn cảnh của đất nước hiện tại. Tình hình địa bàn còn nhiều khó khăn. Các lực lượng triển khai bảo vệ chế độ xã hội của mình cũng còn manh nha, chưa hoàn thiện. Trong khi đó, phía miền Nam, Mĩ cũng đã đưa cả chục ngàn quân đổ vào trong này. Đây cũng chính là cơ sở hoàn cảnh thuận lợi cho kẻ địch đưa lực lượng xâm nhập. Với lại, vì chính quyền của miền Bắc cũng chưa thật vững chắc. Tuy công tác tư tưởng đã được các cấp các ngành tập trung nhưng nếu nhìn thực lực vào đời sống thì quả là đất nước còn gặp biết bao khó khăn. Chính sự khó khăn đó cũng là cơ hội để các loại tội phạm khác có điều kiện hoạt động, chống phá. Điều đáng mừng nhất và có lẽ sức mạnh duy nhất mà đất nước có lúc này chính là niềm tin. Một niềm tin sắt son vô bờ bến vào cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng và của Bác Hồ. Chính niềm tin và chỉ có niềm tin đã tạo nên sức mạnh tổng hợp mà không có thế lực thù địch nào ngăn nổi.
Chính trị viên Song Hoa cũng biết rằng. Với cương vị và trọng trách được giao, Trịnh Toàn hiểu hơn ai hết thực lực của đất nước, của lực lượng và của ngành. Nếu chỉ nghe thấy Thái Bình đã đưa năng suất lúa lên được năm tấn trên héc ta mà mừng thì đâu đã biết được những khó khăn còn rình rập trước mắt. Nếu cứ tính, tất cả các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, ở đâu, nơi nào cũng đạt được năng suất lúa như Thái Bình thì với một đòi hỏi của phía chiến trường, liệu có đủ cung cấp cho các lực lượng cán bộ chiến sĩ trong miền Nam. Một đất nước nông nghiệp, sản xuất chủ yếu là phương thức canh tác tiểu nông nhỏ lẻ, nay vào hợp tác xã, sản xuất lớn đâu đã có thể một sớm một chiều mọi việc được suôn sẻ. Phục vụ cho chiến trường, đâu chỉ có lương thực. Còn biết bao nhu cầu khác. Từ vũ khí đến đạn dược, thuốc men, quần áo, trang thiết bị khác. Tất cả chỉ trông vào hạt lúa củ khoai, tất cả chỉ trông vào giọt mồ hôi của người dân một nắng hai sương với cái cuốc cái cày mà làm nên thắng lợi.
Chính trị viên Song Hoa còn nhớ dấu ấn lần ông cùng một đoàn cán bộ về tham quan Thái Bình. Ông không thể ngờ. Mọi người trong đoàn cũng không thể ngờ. Chính những người trên mảnh đất làm nên năm tấn thóc ấy cũng còn đói, rách. Hạt lúa làm ra chia hai chia ba. Củ khoai làm ra chia năm chia bẩy. Trưa hôm ấy, ông cùng mấy người trong đoàn ghé thăm một gia đình làm nông. Đúng lúc gia đình ăn cơm. Trên mâm cơm, ngoài đĩa rau muống luộc, bát canh rau muống luộc không còn món gì khác. Bát cơm nói là độn dong, độn khoai nhưng thực ra là gạo độn dong, độn khoai. Cả bát cơm chỉ thấy toàn củ dong riềng và khoai. Bám hờ trên những miếng dong, miếng khoai đó là dăm ba hạt cơm. Có một chị trong đoàn thấy nồi cơm gia đình quá đạm bạc như thế mới hỏi.- Cháu nghe tỉnh ta năng suất lúa năm tấn một héc ta mà bữa cơm của gia đình ta vẫn thế này sao.
Bác chủ nhà buông bát, tay cầm đôi đũa vừa gắp mấy ngọn rau muống luộc vừa trả lời.
- Làm năng suất cao cũng phải để tập trung cho miền Nam chứ. Bác Hồ đã nói rồi. Dù có phải đốt cả dãy… Bác nông dân quay qua người con còn nhỏ, khoảng bẩy, tám tuổi đang gặm tước xơ từ miếng dong riềng trong bát.- Dãy gì cu Tý có nhớ không nhỉ.
- Dãy Trường Sơn. Nhắc bố mãi mà bố chả nhớ gì sất.
- Ờ ờ. Dãy Trường Sơn. Bố nhớ rồi. Bố nhớ dãy Trường Sơn rồi. Gớm. Anh nhắc cho bố anh tý mà ra dáng vênh quá. - Chả thế à. Nhắc mãi mà bố chả nhớ. Ai cũng như bố thì đất nước này nghèo lắm, khổ lắm. Bác còn nói. Chúng ta hiện nay phải tiết kiệm, còn ăn chưa no, mặc chưa đủ ấm. Chúng ta đang phải dồn sức cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Cô giáo con cũng vẫn thường nói thế đấy.Cu con của bác nông dân vục vặc lại bố. Miệng nó vẫn cố tước những xơ của bìa củ dong riềng ra. Chắc khi làm ai đó đã không gọt kỹ còn để vướng xơ lại.
Đặt bát xuống bên cạnh mâm cơm, bác nông dân đọc tiếp. Giọng đọc nghe sang sảng và đầy khí thế. Cứ hừng hực hừng hực như người sắp xung ra trận.
- Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì chúng ta cũng phải giành cho được độc lập. Chúng tôi hiểu lắm. Lời của cụ Hồ Chủ tịch dặn chúng tôi là ai cũng hiểu cả. Nước mà không độc lập thì làm sao dân có tự do, làm sao có ấm no hạnh phúc. Nếu có phải đánh đổi tất cả chúng tôi cũng xin sẵn sàng. Nói rồi bác nông dân hướng mắt sang phía mấy người trong đoàn vẻ mặt rất phấn khởi. Lúc đó, ông nghĩ, chắc bác nông dân phấn khởi lắm khi có đoàn thăm quan để bộc bạch lòng mình.Một tỉnh giàu có về năng suất như thế mà cuộc sống của người dân còn vất vả như vậy. Điều đáng mừng nhất là tất cả, từ nam phụ lão ấu, tư tưởng rất thông suốt. Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng thường nhắc nhở và đánh giá công tác tư tưởng. Chủ tịch Mao Trạch Đông luôn khẳng định rằng, tư tưởng là thống soái. Tư tưởng mà thông thì không chỉ đào sông mà nếu cần, lấp cả biển Đông cũng được.
Chính trị viên Song Hoa không muốn nhắc hay muốn nói điều đó với Trịnh Toàn. Bởi anh hiểu Trịnh Toàn.
Như để tin chắc vào điều chính trị viên Song Hoa nói. Trịnh Toàn hỏi lại. - Lúc đó chắc chắn anh tin vào điều tôi nói là thật chứ.Chính trị viên Song Hoa đưa tay nắm lấy tay Trịnh Toàn thân mật.
- Đúng là cái bố này. Tôi với anh mà không còn tin nhau thì tin ai. Thế anh nghi ngờ lòng tin của tôi sao?
Nghe chính trị viên hỏi lại như thế, Trịnh Toàn vội xua tay. - Ấy chết. Ấy chết. Không đâu. Tôi đâu dám nghĩ là anh không tin tôi. Thực lòng nhé. Lúc đó tôi không đủ tin vào chính tôi sẽ thuyết phục được anh và nhận định đánh giá của tôi đâu.Thấy thái độ Trịnh Toàn như thế, chính trị viên Song Hoa cười, xua xua tay.
- Thôi. Không nói chuyện này nữa. Tôi biết rồi.
Nói là thế thôi chứ thực ra, khi nghe Trịnh Toàn trao đổi về những nhận xét đánh giá khả năng đối tượng xâm nhập vào địa bàn thì ông cũng chưa tin. Mặc dù chưa tin những nhận định đó song trong kế hoạch và chỉ thị nghị quyết của trên đều đã dự báo khả năng địch sẽ tung lực lượng xâm nhập vào miền Bắc để thu thập thông tin, tin tức tình báo. Dù mới chỉ là những dự báo song tính dự báo khả năng ở đây là rất cao. Lực lượng còn non trẻ, cán bộ chiến sĩ tuy có tinh thần song cũng chưa trải qua nhiều thực tiễn công tác, kinh nghiệm chiến đấu và kinh nghiệm công tác còn rất ít. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội mà đối phương có thể tính đến và tận dụng.Chính vì thế, khi nghe chỉ huy trưởng trao đổi về những nhận định đánh giá khả năng thời gian tới cũng như khả năng địch xâm nhập, chính trị viên Song Hoa đã nhanh chóng đồng ý. Ông muốn tạo ra ý thức cảnh giác, muốn tạo sự nhất trí trong toàn đơn vị. Ông sợ nhất là, cách mạng mới giành thắng lợi. Sự lạc quan tếu sẽ dẫn đến mất cảnh giác trong tư tưởng và tâm lý của cán bộ chiến sĩ. Ngay chuyện, mỗi khi đi đâu, làm gì ông cũng nghe thấy cán bộ, chiến sĩ có vẻ rất tự hào về sự thành công của cách mạng. Tự hào là đúng, song chỉ biết tự hào mà không đề cao cảnh giác là dễ dẫn đến chủ quan khinh địch. Bất cứ một sự sơ xuất, chủ quan nào cũng đều phải trả giá đắt. Nhất là trong hoạt động bảo vệ chính quyền, giữ chính quyền, chủ quan, mất cảnh giác sẽ phải trả giá bằng máu và nước mắt. Lê - nin cũng đã từng dạy rằng: Giành chính quyền đã khó song bảo vệ được chính quyền, giữ cho được chính quyền còn khó hơn. Đất nước để có ngày hôm nay, đã có biết bao xương máu của các chiến sĩ cách mạng phải đổ xuống.
Chính trị viên Song Hoa đợi cho sự hưng phấn của Trịnh Toàn lắng xuống. Ông nhìn Trịnh Toàn thẳng thắn.
- Thế anh có nghĩ lúc đó tôi cũng chưa thật tin không?- Thật thế sao?Nhìn thẳng vào đôi mắt Trịnh Toàn, chính trị viên Song Hoa cười cười.
- Nói thật nhé. Khi nghe anh trao đổi tôi cũng lăn tăn lắm đấy. Lúc đó tôi chưa thật sự nhất trí lắm đâu. Chưa có căn cứ, chưa thấy đủ cơ sở. Tôi cũng lo. Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên tuy có nhận định thế. Nhưng nếu cơ sở mà cứ theo đó tất tần tật thì chưa chắc đã tốt. Mất hẳn tính sáng tạo, tính làm chủ. Sự trung thành đấy là ngu trung.
Nói đến đây, chính trị viên Song Hoa ngừng lại.Ông muốn xem thái độ phản ứng của Trịnh Toàn như thế nào. Ông ngại nhất là tính tình Trịnh Toàn nóng nẩy. Không nên không phải là nói đến mất mặn mất nhạt, cứ tồ tồ nói ra mà không kìm hãm được. Nóng nảy cũng có mặt tốt song thường là bất lợi.- Thế sao lúc đó tôi thấy anh đồng ý nhanh thế?Chính trị viên Song Hoa cười cười.
- Dĩ bất biến, ứng vạn biến mà.
19 BẮT MỐI Trở mình thức giấc, lão Tảng thấy lão còn đang nằm trên chiếc sạp nứa của mụ Đoác. Lão lắng tai nghe. Vắng lặng. Chỉ có tiếng ri ri của lũ dế rủ nhau đi kiếm ăn, thỉnh thoảng có tiếng con chim bắt cô trói cột vọng lại. Rừng đối với lão là nguồn sống. Với ai lão không biết nhưng với lão, còn rừng là còn cái ăn và như thế, còn rừng với lão là đồng nghĩa với còn cái sống. Những tiếng chim kêu, những tiếng vượn hót đã trở thành thứ máu thịt của đời lão. Lão dám đánh đổi cả cuộc đời này của lão với rừng. Cũng có đôi ba lần, cái đầu lão cũng đã nghĩ. Nếu không có rừng không biết đời lão sẽ ra sao? Nhưng cái ý nghĩ ấy của lão cũng chỉ thoáng qua mà thôi. Thoáng qua như cơn gió rừng làm vậy. Mỗi khi cái đầu lão vừa nảy nòi ra điều đó, lão đã tự nhủ. Cuộc đời lão chả là cái chó gì, thậm chí còn chả bằng con chó. Sống ngày nào hay ngày đấy. Nghĩ lắm cho vạ đau đầu nhức óc. Và thế là lão quên béng ngay. Cũng vì cái thói chả cần nghĩ nó gắn với thói chả cần nhớ nên lão sống đúng như loài cỏ dại. Thì đấy. Cỏ dại vứt vào đâu cũng có thể mọc được. Nắng cũng sống, mà mưa cũng vẫn cứ sống. Hạt cỏ lăn lóc, rơi vãi vào bất cứ chỗ nào cũng có thể mọc lên được. Ngay cái lỗ nứt của khe đá, nhỏ tí tì ty như cái sợi chỉ, ấy vậy mà hạt cỏ vẫn bám vào, rồi nảy mầm và vẫn sống khỏe. Lão nghiệm ra rằng. Phàm những cái gì như cỏ dại, đều sống dai và dễ sống. Thậm chí sống còn hơn cả các loài khác.Thức dậy, nghe tiếng con chim bắt cô trói cột vọng lại, chả biết sao, lão tự nhiên thấy bực, thấy cáu, thấy tức bởi tiếng con chim bắt cô trói cột mà có lẽ, lão đã nghe đến đầy tai từ cái ngày mở mắt nhìn đời. Lão lẩm bẩm chửi.
- Có mỗi cái mà bắt mãi còn đéo được. Thế mà cả đời cứ đòi bắt mãi. Kêu lắm, bố mày xách nỏ, cho cái tách là tiêu. Hết kêu. Sốt ruột.
Lão đưa mắt nhìn quanh. Không thấy bóng dáng mụ Đoác đâu. Lão thấy bụng cồn cào. Từ hôm qua thì phải, lão chưa có cái gì đút vào bụng. Chắc đói bụng nên lão thấy thế. Lão lồm cồm bò dậy. Lão thấy người ngợm đau ê ẩm. Lão nghĩ. Chắc do lão nằm lâu quá. Mà mả mẹ nó. Cái con mụ Đoác cũng lười như hủi, làm như chó ỉa. Có mấy cái thân tre, chẻ ra, đập bẹp, róc cho nhẵn mấy cái vấu, đặt lên cái gạc tre để nằm mà cũng không làm. Mụ cứ để thế cho chỗ mụ nằm. Mụ ngu cho mụ chết. Nhưng mà lão cũng thấy lão chả kém gì mụ. Trên cái phản tre toàn vấu là vấu này, lão đã đè mụ bao lần mà đến nay mới biết. Bỗng nhiên lão cười. Cười ngất. Lão cười đến nỗi, dãi từ miệng lão chảy tràn ra cả hai bên mép. Bố tổ cha nó. Những lúc ấy lão chả biết nó nhẵn hay sần sùi. Cứ gặp mụ là cái của nợ của lão rối tinh rối mù lên. Nó căng cứng làm lão khó chịu. Lão vừa cười về cái ý nghĩ chợt thoáng qua trong đầu, lão vừa lấy tay sờ sờ trên mặt giát tre. Cái mặt giát tre cứ sù sà sù sì, quá bằng nằm trên gốc cây lau cây sậy. Có chỗ lão thấy chả khác gì cái búp cỏ gianh mới mọc. Lão đã có lần chết khú chết khiếp khi đi qua chỗ cỏ gianh bị ai đó đốt, gặp phải ngày mưa phùn, chúng đua nhau đâm lên. Cái bàn chân lão, lớp da dưới gan bàn chân dày như cái vỏ cây mà còn bị mấy ngọn cỏ gianh đâm cho vãi máu. Cái sạp của mụ thế này làm gì mà chả đau.À. Lão nghĩ ra rồi. Mụ chỉ được thấy hơi đàn ông là giỏi. Thấy hơi đàn ông, mụ đúng là quá bằng chuột thấy mèo, cứ cuống quýt cả lên rồi nhũn ra như con giun bị đổ nước quả găng, quả bồ kết. Chắc mụ cố ý làm không hết vấu để những khi cái cơn động đực của mụ nó phát, nó ngứa ngáy, mụ có chỗ mà cọ, mà kỳ. Đúng là đồ chó cái động đực.
Lão đi ra cái bếp. Lão đưa tay sờ sờ trên đám tro. Bếp lạnh ngắt.
- Tiên sư nhà con chó. Không để gì cho bố mày ăn mà lại bỏ đi đâu thế này. Lão vừa sờ soạng mặt bếp vừa chửi. Lão ngoái cổ nhìn lên phía gác. Lão thấy mấy cái bắp ngô treo lủng lẳng bị khói ám đen sì sì. Lão với tay, giật luôn xuống. Cả chùm bắp ngô bị đứt dây, rơi xuống theo, lớp muội bếp phủ lên mặt. Lão buông túm ngô, đưa vội tay lên che mặt. Lão giơ tay định túm cái nắm bắp ngô lẳng ra ngoài nhưng không biết nghĩ thế nào, lão thôi.Lão lấy củi chất vào bếp rồi hì hụi thổi lửa. Lão tống luôn cả túm bắp ngô vào bếp. Lúc này tự nhiên lão thấy đói kinh khủng. Cái bụng chết tiệt của lão cứ réo lên ùng ục chả khác gì con suối sau cơn mưa.
Lão thu hai chân vào sát người. Lão giấu cái đầu lởm chởm như bộ lông nhím vào giữa hai đầu gối. Mắt lão cứ đăm đắm nhìn vào ngọn lửa trong bếp. Lão đợi cho túm ngô vừa ném vào trong bếp chín. Nghe những ngọn lửa nổ tí tách, nhìn ngọn lửa thỉnh thoảng lại nhảy cơn lên, võng vẹo trên bếp mà lão thấy lộn ruột. Ngày trước, lão dù có phải làm thân con trâu con ngựa, làm thằng đầy tớ, kẻ giữ chân cho cụ chủ chơi gái lão cũng thấy sướng hơn bây giờ bao nhiêu lần. Những lúc cụ Chu bắt lão giữ chân, lột quần, xé áo của mấy đứa con gái cụ bắt được để cho cụ được sung sướng lão thấy lão không bằng con chó. Những lúc như thế, lão thấy khổ ơi là khổ. Cái của nợ của lão nó làm lão khổ. Nhưng bây giờ, lão thấy, dù những lúc như thế, lão có thèm, có nhục thật đấy lão vẫn còn thấy sung sướng chán. Lão không được làm nhưng lão được nhìn. Lão nghe tiếng của mấy đứa con gái ấy kêu thét, quằn quại mà sướng. Lão cũng chả biết vì sao khi nghe những tiếng kêu như con thú bị trúng bẫy ấy lão sướng. Chắc lão thích nghe vì mỗi khi đi thăm bẫy, thấy con thú bị trúng bẫy, giẫy giụa kêu là mắt lão sáng lên. Có lẽ vì những lúc mấy đứa con gái bị cụ Chu làm nhục cũng giống như con thú bị trúng bẫy của lão nên lão thích, lão sướng.
Đang nghĩ đến chuyện ngày đi hầu cụ Chu, chả biết làm sao, cái đầu lão lại nhớ đến cậu chủ. Ờ. Cậu chủ tự nhiên bỏ đi đâu mất tăm mất tích. Lão đã tưởng cậu chủ chết ở đẩu ở đâu, có khi mục xương rồi thì tự nhiên lại thấy cậu lù lù trở về. Hôm lão vào rừng, đang nhắm nhắm con dũi thập thò cửa lỗ thì lão tự dưng nhìn thấy bóng cậu chủ đứng lù lù trước mặt. Lão sợ quá, há hốc mồm, cứng lưỡi lại, không kêu lên được một tiếng. Thế là lão chết rồi. Lão nghĩ thế. Bóng ma cậu chủ trở về, bắt lão đi theo hầu. Lão chả dám nhìn cho kỹ, chỉ kịp phủ phục xuống, hai tay chắp trên đầu vái lấy vái để. Vừa vái lão vừa cầu khấn xin cậu chủ đừng bắt lão chết để theo hầu. Lão vái đến vã cả mồ hôi. Vái chán vái chê, lão cứ nằm phủ phục, cắm đầu xuống đất, chổng mông chổng tỹ lên trời, he hé mắt nhìn. Trước mắt lão, cái bóng cậu chủ cứ chập chờn, chập chờn, lúc đứng nghiêng, lúc lại cúi rạp xuống. Hình như bóng ma cậu chủ ngó nghiêng nhìn cho rõ mặt lão thì phải. Lão nghĩ. Chắc cậu chủ đi lâu ngày, không còn nhận ra bản mặt lão nữa. Cậu sợ nhầm người nên bóng ma của cậu phải thế. Cậu quen được lão chiều rồi mà. Cậu không thích người khác hầu chăng?Lão lấy tay bẹo má. Má lão vẫn thấy đau. Lão đưa răng cắn vào bắp tay. Tay lão cũng thấy đau. Lão sợ quá, không dám he hé mắt nhìn nữa. Lão đưa mắt nhìn qua kẽ háng của lão. Lão nhìn xem phía sau mông lão có vướng víu gì không? Nếu đúng cậu chủ mà về bắt lão thật lão sẽ chạy. Lão đã là con cú con cáo ở rừng rồi, cậu chủ đã là con lợn, con chim nhốt trong lồng làm cảnh bao năm. Lão mà chạy, còn lâu cậu chủ mới có thế bắt lão được. Ơ. Có cơn gió tự nhiên luồn qua hai bắp chân, lùa lên mũi lão. Lão thấy khai khai. Hai ống quần bên bắp đùi của lão như bị ướt. Lão thấy hai bắp đùi âm ấm. Lão sợ quá. Sợ đến nỗi đái cả ra quần mà không biết. Sợ thì sợ. Lão cứ phải chạy. Chạy cho thoát hồn ma cậu chủ về bắt lão đã.
- Không chạy được đâu. Nếu muốn chết thì cứ chạy. Sau lưng lão là vực đấy. Có giỏi thì cứ chạy đi.
Ối giời ơi. Bóng ma cậu chủ mà biết nói thành tiếng người. Lão quỵ hai chân xuống, nằm co như con cuốn chiếu bị lũ trẻ lấy que chọc chọc làm vậy. - Ngồi dậy đi. Lão tưởng ta chết rồi chứ gì. Ta đây. Cậu chủ của lão đây.Vẫn ở thế nằm co, lão ti hí mắt cáo nhìn. Không phải bóng ma. Cậu chủ thật. Cậu chủ bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt lão. Lão cảm nhận được cả cái mũi bàn chân của cậu ở ngay bên má lão.
- Lão tưởng ta chết rồi chứ gì?
Vừa hỏi, cậu chủ vừa từ từ ngồi xuống ngay trước mặt. Cậu chủ lấy tay lật mặt lão cho nhìn thẳng vào mình. - Lão nghĩ bóng ma ta về bắt lão đi phải không?Giọng cậu nhỏ nhưng lão nghe thấy như có mùi tử khí. Tiếng cậu rít qua hai kẽ răng.
- Mở mắt to ra. Có phải bóng ma hay là ta hả?
Cái tay cậu chủ bóp hai bên má. Ngón tay cái và ngón tray trỏ của cậu chủ lọt vào giữa hai hàm răng. Cậu chủ ấn sâu hai ngón tay vào hòm má lão. Hai ngón tay cậu chủ làm cho cái mồm lão ngoác ra, méo xệch. Lão he hé rồi mở to mắt ra. Đúng là cậu chủ rồi. Cậu chủ thật chứ không phải bóng ma về bắt lão đi theo hầu. Cậu chủ buông hai ngón tay ra khỏi hai hõm má lão. Cậu chủ lấy tay túm lấy cổ áo, kéo lão ngồi dậy. Cậu lấy hai tay nâng cằm lão lên. Mắt cậu vằn những tia máu. Cậu chỉ tay vào mặt lão.- Cấm kêu. Nhìn đi. Cậu chủ hay bóng ma?
Giọng cậu chủ sắc như mũi dao. Lão cảm thấy như lúc lão chọc con dao vào yết hầu con thú rồi cứ thế, lách lách mũi dao đi xuống ngực, bụng mà móc từng đoạn ruột, quả tim của con thú ra khỏi cơ thể nó. Lão nghe cậu chủ nói mà gai ốc nổi lên khắp người như người ta gặp lạnh.
Cậu chủ nhẹ nhàng kéo lão vào gần lòng. Giọng cậu chùng xuống, nhẹ nhàng, đầy thương cảm và chia sẻ. Cậu đưa tay chỉnh lại cái cổ áo của lão khi nãy bị túm lấy kéo ngồi dậy làm cho xộc xệch. - Chắc dạo này lão thường xuyên bị đói lắm phải không?Nghe cậu chủ hỏi thế, lão không biết trả lời thế nào. Lão chỉ thấy cậu chủ giỏi thật. Đã lâu lắm rồi lão không biết cậu chủ sống chết ra sao mà cậu chủ cũng không gặp lão. Thế mà, cậu nói đúng nỗi đói khổ của lão.
- Nào. Đứng dậy. Đi theo tao.
Lão lặng lẽ đứng dậy đi theo. Tay cậu chủ nắm lấy tay lão nhẹ nhàng dắt đi. Bàn tay cậu nắm tay lão rất chặt. Lão cũng chả biết là cái nắm tay của cậu chủ đối với lão lúc này là sự chia sẻ, thương yêu hay là sự quản lý, sợ lão bỏ chạy khỏi cậu. - Tôi về đây rồi. Lão cứ yên trí. Từ nay trở đi, lão sẽ lại được ăn no như ngày xưa. Lão sẽ không còn bị đói nữa. Lão sẽ lại có rượu uống mỗi ngày.Lão cứ để yên tay lão trong tay cậu chủ kéo đi. Bây giờ thì lão đã lấy lại được bình tĩnh rồi. Lão biết đích xác là cậu chủ chứ không còn là bóng ma về bắt lão nữa. Lão đưa mắt nhìn quanh. Cánh rừng này với lão thuộc như lòng bàn tay. Lão chỉ nhìn thoáng qua là biết đang ở đâu, ở chỗ nào trong cả cánh rừng âm u, chằng chịt những cây là cây này. Lão còn có thể kể ra từng hốc đá, lỗ đất mối đùn ngay cả khi lão có nhắm mắt lại. Lão nhận ra. Cậu chủ đang kéo lão đi về hướng hang ma. Nơi cô Lù treo cổ chết đến giòi bọ rơi từ bụng xuống đất bèn bẹt từng búi.
Bỗng dưng lão lại nghĩ. Hay là cậu chủ đưa lão vào hang ma để giết cho cô Lù có bầu có bạn. Cho ma cô Lù không còn hiu quạnh một mình. Lão đưa mắt nhìn bốn xung quanh để tính chuyện rứt tay lão khỏi tay cậu chủ chạy trốn…
- Ngủ dậy được rồi à? Tưởng còn chết chương chết rực. Mụ Đoác chân chưa bước vào khỏi cửa miệng đã toang toác, toang toác. Lão giật bắn mình, thu vội hai chân kẹp chặt lấy đầu.- Mụ để tao chết đói hay sao mà đi đâu bây giờ mới vác mặt về.
Mụ Đoác không thèm nghe, không thèm nói gì. Mụ như không nghe thấy câu gì từ cửa miệng của lão Tảng. Mụ cứ lừ lữ đi lại bên bếp. cái mũi của mụ hích hích hít như đánh hơi của con chó săn khi ngửi thấy mùi lạ. Mụ Đoác sấn đến bên bếp. Mụ chộp lấy từng thanh củi dẹp sang hai bên bếp rồi cầm que cời hẩy từng bắp ngô ra khỏi đám than.
- Mũi thính như mũi chó thế mà không ngửi thấy ngô cháy à? Mấy bắp ngô lăn long lóc ra nền nhà. Lão Tảng nhặt vội lên. Ngô vừa được mụ Đoác gạt từ bếp ra, còn nóng, lão buông vội xuống đất, chộp cả hai tay lên tai.Nhìn lão Tảng làm thế, mụ lừ mắt, môi bễ ra. Cái má nhàu nhĩ của mụ lại càng chảy xuống dưới. Chả biết vô tình hay cố ý, mụ với tay nhặt mấy bắp ngô lăn trên nền nhà, nằm ở phía trước mặt lão Tảng cho gọn lại làm cho cái vú của mụ quệt vào ngay tầm mũi của lão. Lão Tảng cũng giả vờ như đưa tay lên chắn mặt. Cái tay lão chộp vào đúng vú của mụ.
- Nỡm ạ. Cứ làm như lạ lắm ấy.
Lão Tảng nhăn mặt cười. Những vết than bụi từ hai bàn tay lúc trước nhặt ngô bị nóng, lão áp lên hai bên tai nhăn nhúm như vết sẹo do gấu cào hổ tạt. Mụ Đoác ngồi lại ngay ngắn trên cái cục gỗ chặt khúc thay ghế. Mụ hỏi nhỏ. - Lão còn thấy đau không?Nghe mụ Đoác hỏi, lão ngơ ngác, không hiểu mụ Đoác vừa nói cái gì. Ngẫm nghĩ một lát, lão nhăn mặt cười. Tiếng lão cười không thành tiếng, chỉ khùng khục, khùng khục như cái điệu con trâu đực ngửi ngửi con trâu cái lúc động tình.
- Hết đau rồi.
Lão đưa tay xuống, kéo cái giây rút quần. Lão kéo cạp cho lỏng ra khỏi bụng. Lão đưa tay xuống dưới sờ sờ nắn nắn. - Lại như cũ rồi.Lão quay sang mụ Đoác cười cười.
- Mụ có thích xem tý không?
Mụ Đoác hẩy vai vào người lão. Lão Tảng như được thể, đưa tay định quàng qua người mụ Đoác. Mụ trừng mắt. - Ai cho lão vào cánh rừng chân núi Bái mà săn hả? Lão không nhớ cậu chủ đã dặn như thế nào sao? Chỉ ngày thứ bẩy hàng tuần mới được lên. Còn các ngày khác chỉ được đến bìa rừng thôi sao?Lão quên làm sao được. Có chết lão cũng không dám quên. Mạng lão ở đấy thì ai dám bảo lão quên. Chỉ có điều, lão thấy thèm thịt thú quá nên đánh liều.
- Cậu chủ vừa nhắn. Lão mà còn dám bén mảng đến khu rừng chân núi Bái nữa thì đừng có trách. Đã dám vào đó săn lại còn định lên hang ma nữa. Muốn ăn thịt, có thèm thịt thì lấy tiền mà mua. Thịt thú người ta săn bán đầy trong xóm. Thiếu gì?
Mụ Đoác đánh mắt sang nhìn lão Tảng. Sao mụ thấy cái bản mặt lão cứ lì lì đáng ghét đến thế. - Cậu nói đấy. Nếu lần nữa mà còn lảng vảng ở bên núi Bái, hang ma thì không phải chỉ bị bắn dập dái mà cậu sẽ còn cho mất đấy. Chết mất xác.Nghe mụ Đoác nói, lão giật mình. Lão cứ tưởng lão vô tình dính phải bẫy cần của ai giăng. Ai ngờ. Cậu chủ giăng sẵn để lão bị dính bẫy. Bất giác, lão lại thò tay xuống dưới. Lão thấy bây giờ cái con giống của lão sao mà ngắn thế, nhũn thế. Chả bù cho lúc trước.
Mụ Đoác thấy lão làm thế, tủm tỉm cười. Mụ Đoác đưa tay ra sau, lấy típ xôi đưa cho lão. Trên cái típ xôi, có mấy miếng thịt nai luộc đặt chồng lên nhau, phủ dầy tới mặt típ. Lão Tảng cầm lấy. Lão đưa lên mũi hít hít, ngửi ngửi như để tận hưởng cái mùi thơm từ mấy miếng thịt nai luộc. Lão thọc tay vào trong cái típ xôi, bốc ra một miếng thịt, nhét vào mồm, nhai nhồm nhoàm. Nhìn lão Tảng ăn, lòng mụ Đoác thấy cứ rưng rưng, sao mà thương lão thế.
Mụ với tay, đặt cái ấm nước lên bếp. Mụ Đoác xếp mấy thanh củi khi trước mụ dẹp ra hai bên vào lại trong lòng bếp. Mụ nhặt ống thổi đưa lên miệng. Mụ phùng má lấy hơi rồi từ từ nhả hơi vào lòng ống. Đám than trong bếp, bắt hơi, đỏ lên, bén vào mấy thanh củi rom rem cháy. Ánh lửa bắt lên má mụ. Mụ Đoác thấy âm ấm, nong nóng trên má. Phía ngoài rừng, tiếng con chim bắt cô trói cột vọng tới. Chen trong tiếng bầy chim bắt cô trói cột, thỉnh thoảng lại có tiếng tác gọi bạn tình của lũ hươu đực. Ừ, phải rồi. Bây giờ đang là mùa sinh sản của lũ hươu. Chỉ nghĩ thế thôi, mụ Đoác đã thấy thân thể mình rạo rực như có lửa.Hết kỳ 4
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top