Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma(Phần 1-17)-Lenghiabk05

Nguyễn Khắc Trường

Mảnh đất lắm người nhiều ma

Một

Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh đời.
Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu phong và cổ kính.
ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngất, người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, cá chép cả con còn giãy đành đạch.
Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng tối.
Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, răng đen mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối đầu, chín đỏ lìm lìm. Khối người còn rỉ tai là ông có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, hãi thế!
Nhưng giờ thì toé loe ra. Đám thanh niên hay thóc mách vừa cười sùng sục, vừa kể là có đến gần tháng nay bố con Quản Ngư đóng eửa ăn cháo cám, rồi làm bánh đồ cách thuỷ cho lạ miệng, nhưng nguyên liệu cũng vẫn là cám. Vì là người lịch sự ghét kêu rên, nên ông Quản không muốn người khác nhìn thấy sự khốn cùng của mình. Tưởng kín, nhưng ông quàn lại hớ không biết cám có chất kết dính rất cao, ăn mà không độn thêm rau là sẽ táo bón kịch liệt. Vì thế thằng con út gần mười tuổi của ông đã kêu la oai oái vì răn đến vã mồ hôi hột mà vẫn không sao đi được? Bà Quán đã qui tiên vài năm nay, nên cuối cùng đích thân ông Quản bảo thằng cu ôm vào gốc khế, chổng mông lên để ông lấy que... đào
- Có thật không? Hay lại chỉ mách qué, chúng mày thì cái gì cũng nhăn nhở cười được.
Mấy người già không tin, mắng l thì anh chàng ở cạnh nhà ông Quản liền vừa tả tỷ mỉ cái pha bi hài kịch kia, vừa làm cả động tác của bố con ông Quản, khiến mấy ông già cũng cười đến trơ cả lợi? Cái cười lúc đói cũng không ra tiềng, lại bóp bóp cho héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột! Keo vật giáp hạt này sẽ vần cho dân làng đến mê tơi dây!
Những nhà thường xuyên túng bấn thì lây giờ đứt bữa hẳn. Nôi niêu lúc nào cũng há miệng rỗng, nhãn như đâu bụt!
Nhưng mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tường như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết, cứ ra vào quanh quân với cái bụng đói èo èo! Đường làng đầy rác rưởi và phân trâu phân hò. Toàn nhặng xanh bay đứng yên tại chỗ như những cái dấu chấm đen giữa thinh không dọc lối đi.
Nắng đầu hạ đã lên một lúc lâu mà làng xóm còn trễ nải như con gà gật. Gió thổi vu vơ trên những lùm tre vàng xác, càng khiến nhưng ngõ làng trống vắng đến ngẩn ngơ.
Trong chiếc lều thủng vách nứa ở ngã ba đầu làng, nắng chiếu qua lớp cỏ tranh đã ải, thủng lỗ rỗ. nắng tưới khắp lên chỗ lão Quềnh nằm. Tren chiếc võng tre ọp ẹp không mùng màn, lão Quềnh nằm duỗi dài thành một đống. Lão thì không sợ muỗi ruồi, vì da lão dày lắm. Người lão to sù sì, tính nết ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng lạc đàn, đi đứng cứ dềnh dàng thồn thộn. Bộ nhớ và trí khôn của lão thì dại như thế này: Vắt chiếc áo, vắt khăn mặt lên vai, nhưng lại loay hoay cả giờ đi tìm khăn tìm áo. Ngày hợp tác còn ăn nên làm ra, nên tình thương và sự ưu đãi đã với tới tất cả nhưng hoàn cảnh khốn khó; từ bà già cô quả không chồng không con, bỗng chốc có một lô cháu chắt, ấy là bà được ra làm ở nhà giữ trẻ, nơi đã có mấy cô bảo mẫu óng á trông mềm như bún, nhưng đám con trại lại gọi họ là các cô nuôi dạy hổ!. Còn lão Quềnh hữu dũng vô mưu, chỉ quen làm thuê làm tớ, thì ban chủ nhiệm hợp tác xã cho Quềnh được làm chủ, mà làm chủ tập thể hẳn hoi. ấy là lão được đưa ra trại trâu, chăn dắt một tập thể 50 con trâu. Chiều tối lão cưỡi con trâu mộng to nhất lùa cả đàn về. Đếm bày trâu đi trước có 49 con, thế là lão hoảng hốt lên. Lùa trâu vào chuồng cả con mộng lão cưỡi cũng vào nốt, cài toang xong, lão chạy bổ đi tìm con thứ 50! Đến đêm người ở trại đốt đuốc đi tìm lão nói rằng đủ 50 con trong chuồng rồi. Lão về đếm thấy đủ thật, nhưng trong đầu vẫn không hiểu được con thứ năm mươi chui ở đâu ra!
Lão Quềnh ra đời như để hứng chịu tất cả những sự ngờ nghệch khờ khạo cho dân Giếng Chùa. Đất làng này nghe nói từ khi khai thiên lập địa, thầy địa lý đă bảo là ở vào cái thế có vượng nhưng nghịch, cho nên từ xửa xưa đã có Câu ca: Ai may được ngọc Giếng Chùa. rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu
Vậy thì từ thời còn chùa và còn chiếc giếng làng to bằng gian nhà kê đá ong trước cửa tam quan đã ai bắt được ngọc ở đấy chưa? Chịu! Với lại dù có được thì người ta cũng ỉm đi thôi, chứ ai dại gì mà khoe mình vớ được của! Bằng mời trộm đến nhà! Còn ma núi ông Bụt, vì quả đồi ở đầu làng có dáng một ông bụt ngồi, thì nghe đồn thật nhiều chuyện. Những người già ở đây kể rằng núi ông Bụt ngày xưa rậm um tùm: những cây cột đình chật một vòng tay ôm là chặt từ đấy. Trong núi có hố, báo, vượn trắng, trăn gió, rắn đầu vuông có mào đỏ chon chót như mào gà, và đặc biệt là nhiều ma? Nhiều người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà hàng xáo hay đi chợ sớm, bảo có lần đến gần núi ông Bụt thấy một người đàn ông đi trước mình chỉ chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà trông chậm mà không tài nào theo kịp. Gọi mãi người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn bằng phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách, cười liền một hơi không dứt, hơi phả ra lạnh toát. Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất. Phiên chợ ấy mấy bà hàng xáo vốn đành hanh mà thành ra lú lẫn cả. Người thì bán một lại cân hai, người thì giao gạo mà quên nhận tiền, thật là đổ của xuống sông. Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm ở đầm dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía trên đầu rừng; ngửng lên thì thấy chót vót trên cành si một người đàn bà tóc xoã phủ kín mắt, tay ôm cái bọc trắng toát vừa nhún cành si rung tít như đưa vong, vừa ru nỉ non như than như oán. Hôm sau ông đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!
Ngày ấy có một chàng trai tuổi mới mười bảy, nhưng lớn phổng phao như đã thanh niên. Mặt mũi thô vụng thật thà. Bỗng một dạo cứ ăn cơm tối xong là chú chàng biến đi đâu chừng giã xong một cối gạo mới về. Hỏi, cu cậu chỉ ậm ừ con đi đàng này rồi lảng ngay. Cha mẹ sinh nghi. Hay thằng này đã tự kiếm được món nào? Trò đời trai tơ mới lớn thì không say gì bằng say gái. Chỉ có gái thì chú mày mới chăm lỉnh như thế. Một tối, khi cậu vừa đi, ông bố liền lẳng lặng bám theo, thì thấy chú xăm xăm đi tắt qua cánh đồng. Tới gốc gai đầu núi ông Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ trong nhưng chùm rễ rùm roà như một cái ô dưới gốc si già. Rồi tiếng một người con gái thì thầm, không rõ cô ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều vui lắm. Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá? Con hơn cha là nhà có phúc! Nhưng con bé nào mà tiếng chua chua nghe lạ thế nhỉ? Ông bố còn đang dùng dằng nửa muốn tò mò nghe chuyện, nửa muốn bỏ về, thì đôi tình nhân dìu nhau từ trong gốc si đi ra. Và, tức thì một đàn đom đóm bỗng từ đâu túa dậy con nào con ấy to khác thường. Chúng cùng chớp cánh một lúc, khiến cả khoảng không sáng rực lên như thắp đèn. Trong quầng sáng quái đản đó, ông bố đã nhìn thấy một người con gái trắng lôm lốp từ chân tới đầu. Tóc rất dài, buông xoã, khiến khuôn mặt lấp vào trong mờ ảo không sao nhìn rõ được. Chân đi nhẹ như lướt. Ông bố chớp mắt, định thần để nhìn cho rõ, thì thấy người con gái kia chỉ là một cái bóng trắng, một hình người chứ không phải người. Cái hình người ấy đi tựa vào vai con trai ông. Đang chập chờn ở bên trái, chớp mắt một cái, lại thấy cái bóng đi bên phải cậu cả, và rất nhanh đã hiện rõ ìô lộ một người đàn bà đẹp như tiên sa. Cậu cả bước thập thỏm như một người mê, mặt mũi cũng hoàn toàn như người trong mộng. Bầy đom đóm cứ chao lượn theo hai bóng người. Ông bố đứng vùng dậy, thét lên: Ma!, thì một tiếng kêu cũng vỡ ra, nghe sắc lạnh như đập một cái bình sứ. Trời đất tối sầm lại. Ông bố lảo đảo, rồi người cứ mê thiếp đi.
Rồi bố con ông về được tới nhà bằng cách nào? Ông không sao hiểu nôi. Vì khi tỉnh dậy ông đã thấy mình nằm ở giữa nhà, xung quanh đèn nến hương khói nghi ngút. Ông thầy cúng mặc áo đỏ, đội mũ giấy, vừa gõ chập cheng, miệng vừa đọc lầm rầm. tay cầm roi dâu, đó là roi trị tà của thầy cúng, quất vun vút vào không khí. Hôm sau ông dứt cơn, khỏi. Còn cậu cả thì vẫn li bì. Đang nằm thiêm thiếp, cậu bỗng vùng dậy, tay đưa lên bới tóc, kiểu bới tóc của đàn bà, rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc vừa kể lể ai oán, rằng người ta cướp chồng của tôi, đầy đoạ tôi ở gốc si sương gió một thân một mình. Đang lâm li sướt mướt, lại bỗng rú lên cười sằng sặc, tiếng cứ lảnh vót lên, sắc như lưới dao cạo vào tinh nứa! Cười đến đâu hai bàn tay cứ chéo vào nhau đen đét đến đấy. Rầm rĩ một hồi, rồi cậu bỗng ngã kềnh ra, mặt quay vào tường, lịm phắc như tắt thở!
Thầy phải cúng liên tiếp ba đêm bảy ngày để xin lại hồn vía cho cậu cả. Ngày cuối cùng phải thửa một hình nhân cao lớn bằng đúng cậu cả, sắp một cỗ xôi và một con gà trống chưa đạp mái. Buổi tối mang ra gốc si tạ. Hình nhân thì hoá vàng còn mâm có thì để lại. Khi ra về thầy cúng còn đóng một cái bùa đựng trong ống nứa xuống đất, tức là yểm đề ma mất đường theo. Đêm ấy người ta nghe thấy tiếng khóc tỉ tê trong những chùm rễ si. Sáng ra nhìn cỗ xôi con gà vẫn còn nguyên, nhưng nhớt nhát có mùi tanh. Xôi gà mà lại tinh ma vày đấy! Còn đom đóm thì chết dày quanh gốc si như một sự tuẫn tiết, vun được một đống con nào con nấy to bằng đầu đũa.
Cậu cả ốm một trận thập tử nhất sinh rồi khỏi. Nhưng từ đấy cậu cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc quên. Hỏi đâu cũng không được vợ. Cả những cô sứt môi lồi rốn cũng không dám lấy, vì sợ ma vẫn ám trong người cậu. Ông bố nghe có người xui: suốt mùa hè năm ấy cứ đi rình để bắt con chim cuốc thất tình. Họ bảo có những con chim cuốc bị người ta đánh bẫy mất bạn tình, buồn, nó không ăn không uống, tìm một chỗ khuất lói đứng kêu xà xã cho đến chết. Câu nói ra rả như cuốc kêu chính là chỉ những con cuốc đơn côi này. Mà thật kỳ lạ, bao giờ nó cũng đứng một cành nhó để những ngón chân quắp chặt vào cây. Khi hết hơi chết, nó lộn đầu trở xuống, treo lủng lẳng. Mới hay giống sinh vật nào đã dám chết vì tình cũng đều chọn một tư thế hiên ngang đến rùng rợn! Cũng như ở sông nước có những con cá sấu bị lẻ đôi, nó đã tìm nơi có cành cây mọc là ra mặt nước, rồi nhảy ngược từ dưới nước lên, táp đuôi ngoắc cứng vào cành cây. Cứ thế nó treo mình thẳng đứng như một dấu chấm than giữa trời và nước cho đến chết! Nhưng trường hợp này hiếm lắm, vì cá sấu là giống tham ăn - Đã xấu lại còn tham! Mà phàm giống gì cũng vậy, đã tham ăn thì hay sợ chết!
Lại nói những con cuốc chết vì tình. Người ta bảo xương của nó làm bùa yêu rất nghiệm. Đốt lên thành than, nhúng một tí vào nước cho đối tượng uống, thế là cứ theo không? Ông bố quyết cứu vớt cái cung thê cho cậu cả bằng con đường bùa mê thuốc lú này. Tối nào ông cũng lần mò đi nghe cuốc kêu. mặt mũi nhớn nhác như người đã hoá dở! Thế rồi chưa tìm thấy con cuốc tử vì tình thì chính ông đã tử! Ông chết nhẹ như đùa! Đêm nằm ngủ thế rồi ông không dậy nữa! Từ đấy gia cảnh sa sút nhanh. Cậu cả dùng cái sức cơ bắp của mình đi làm thuê làm mướn kiếm ăn. Làm như trâu nhưng chẳng biết mà cả vòi vĩnh, vì thế ai có việc gì cũng mướn cậu, và ai cũng có quyền đùa bỡn cậu. Ngay cả cái tên Quỳnh đẹp đẽ của cậu người ta cũng biến báo đi thành Quềnh - Cậu Quềnh, anh Quềnh và bây giờ xế bóng là lão Quềnh
Có thật tiểu sử lão Quềnh như thế không? Hay chỉ là giai thoại người ta dựng lên để tăng phần linh thiêng cho núi ông Bụt? Nhưng đấy là núi ông Bụt ngày xưa. chứ bây giờ núi ông Bụt đã bị phạt trụi lấy gỗ làm củi, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất sét nung gạch, thì không ai còn gặp ma quỷ đâu nữa. Thời buổi táo tợn đến ma quỷ giọi tàng hình cũng hết chỗ trú. Thế thì ma quỷ đi đâu? Hay ma quỷ đã bị người trần cắt hộ khẩu? Mấy anh trợn trạo đã cười cười một cách láu cá hỏi ông thầy cúng mà ở đây vẫn gọi là cô thống Biệu như vậy. Biếu là tên cúng cơm, còn cô thống là một từ chung để chỉ những người làm nghề cúng bái. Mới hay nghề nghiệp nào cũng có tướng mạo riêng của nó. Đã là thầy cúng, thầy mo, thì cái cần đầu tiên là phải có dáng đồng cô bóng cậu. Đi đứng ẽo ợt, nói giọng kim râu ria chả có và cái ăn cái uống cũng như đàn bà con gái hơn là giống đám mày râu. Nghĩa là cô thống Biệu mỗi bữa chỉ uống một chén rượu, sợ ớt sợ tỏi, ưa của chua hơn là ưa cay ưa chát. Năm nay đã gần chín mươi tuổi, non một thế kỷ đã đi qua cái dáng mảnh mai của cô. Với bộ mặt nhọn như mặt chim, nước da mai mái, cả mép cả cầm nhẵn thín không một sợi râu, nên nhìn cô không thể nào đoán được tuổi. Răng cô cũng nhỏ như răng phụ nữ, và vẫn chắc. ăn trầu thuốc cứ đen nhức, môi cắn chỉ. Cô đi thõng thà thõng thượt, nhưng cô cũng có con đàn cháu đống hẳn hoi. Thì ra cô vừa giỏi việc âm vừa tài việc dương! Nghe mấy anh chàng mặt sùi trứng cá, vừa cười nham nhở, vừa hỏi về ma núi ông Bụt bị người trần cắt hộ khẩu. Cô thống Biệu đã giương cặp mắt bạc phếch, trông chỉ rặt lòng trắng, tưởng như mắt cô đang toả ra một làn sương khói, và cô đã nói với cái giọng thanh thảnh thế này:
- Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không? Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất hương hoả ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh, bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma chứ ai sợ người. có phải không hở? Thế mà hôm ấy tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá Nhìn chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.
Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra, con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật ngay trong lòng các người!
Lão Quềnh bỗng thức giấc. Cái đói thúc lão dậy, lão dụi cặp mắt đờ đẫn, dỏng bộ tai to nhưng mong dính: mỏng đến độ nhìn thấu qua được. Những người sính xem tướng bảo cái tai thỏ ấy dù có cắm vào cái đầu con cáo thì cũng vẫn là đồ bỏ, vẫn tứ thời kiết xác. Lão lắng nghe. Đúng là có tiếng trống phát dẫn từ trong làng. Anh nào lại chết đây! giữa lúc này không biết chết no hay chết đói. Suốt hai ngày nay lão chỉ độc nắm ngô, rang lên nhai, rồi uống thật nhiều nước vào mà vẫn không lấp được cái khoảng trống quá lớn trong bụng lão, vì sức ăn của lão nói như người ác khẩu là như hùm đổ đó!
Lão quay sang khe hở của phên liếp, nhìn về phía khu nhà uỷ ban xã. Cả một dãy nhà ngói bên ấy cửa đóng im ỉm như mồm thằng câm! Có đến hơn tuần nay các ông bên ấy không đánh chén, khiến lão mất chỗ dựa! Đã hơn năm nay lão sống dựa vào những bữa rượu kia. Đều đặn tuần nào cũng vài ba cuộc. Không uỷ ban thi Đảng uỷ, rồi ban quản lý hợp tác xã, rồi các đoàn thể. Hội họp lu bù Các ông ấy càng hội họp nhiều thì lão Quềnh càng thích! Vì động họp là động thớt. Cái mẹo ấy là của tay Tám lé thợ cạo, chủ cái quán này. Người ta gọi là Tám lé vì mắt hắn hiếng lệch đi như xe sang vành, nhìn cứ xiên xiên. Có lần đánh kéo Tám đã xiên cả một mảng da đầu của khách. Suốt ngày được sửa gáy vít đầu thiên hạ: mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút miệng.
Người đã như con hạc thờ, lại một vợ bốn con, quanh năm hết giật tạm lại vay nóng. Vì nợ hợp tác xã nhiều quá, vợ chồng Tám lại phải xung phong đi kinh tế mới trên huyện miền núi để dược xí xoá ( ở đây có lệ thế ). Trước hôm đi, đến uỷ ban lấy giấy. Vừa ra đến đây thì Tám lé gặp lão Quềnh đi đào ao thuê. Tám liền kéo Quềnh vào cái lều này, rút trong túi ra mót cút cổ rụt, chuyền tay nhau tu. Đang lúc đói, rượu dẫn nhanh như điện. Đến khi dốc ngược cái cút, thì cả hội cùng lâng lâng từ đầu đến tận gan bàn chân. Tám liền bá vai Quềnh, đôi chân cò hương với cái đầu gối củ lạc nhún nhảy, cái giọng kim eo éo được tắm rượu đã thành nghề ngà: Anh Quềnh rằng này anh Quềnh ơi, ngồi nghe ta nói cách ăn chơi.
Tưởng say nhưng hắn xui khôn đáo để. ở người nghiện, rượu là một thứ động cơ, phát động được cả sức lực và trí tuệ. Tám bảo Quềnh bỏ phứt cái túp lều ở trong xóm. Nằm cạnh nhà người em là lão Quàng không những chiếm hết cái khôn cái ngoan, mà còn chiếm hết cả ao cả vườn, chỉ xí lại cho Quềnh một góc ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong. Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài, nhưng dăm bảy năm nay, kể từ ngày Quàng được giữ chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã nhấm khá dần lên. Nhưng có khá mấy thì vợ chồng Quàng vẫn tham và kiệt, chỉ khi nào có những việc thổ mộc nặng nhọc thì vợ chồng Quàng mới nhớ đến ông anh Quềnh. Vậy thì ra đây, cạnh mặt đường này ai có công có việc đến nhờ cũng tiện. Tám lé tặng lại cả chiếc chõng tre và chiếc ghế bố, dụng cụ giúp Tám cạo râu ngoáy tai cho thiên hạ để kiếm gạo. Nhưng điều quan trọng là từ đây nhìn xéo sang nhà uỷ ban rõ mồn một. Hễ bên ấy động đũa động bát là đây biết ngay. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mà có lăn vào thì cũng là ăn của dân của xã chứ chẳng phải của mấy ông. Nhưng dẫu vậy - Tám dặn Quềnh cũng phải biết phận. Thấy động thớt là đi cổng sau, vào nhà dưới. Thì đi đường nào mà tới được mâm chả tốt! Cái cổng sau ấy, cái bếp ấy nhiều phen đã cứu Tám những bàn thua trông thấy! Giờ lão Quềnh tiếp thu cái vị trí lợi hại này, đúng là lão bóng được nhiều bữa nhờn môi. Có hôm lại thủ được cả lưng chai rượu về uống ngâm nga suốt đêm. Thế mà đã hơn tuần nay không thấy bên ấy họp hành gì! Hay họ lại kéo nhau ra quán bà Lợi béo có cái mông lồng bàn ở trên chợ kia. Quán ấy trước chỉ bán thuốc, bán nước nhi nhằng. Mới đây đổi sang quán ăn. Trước cửa treo lủng lẳng chân giò và những con gà luộc tứa mớ vàng nhóng nhánh. Gian bếp đằng sau lúc nào cũng khói um tùm, thơm inh. Thôi đúng rồi, họ đã dời mâm lên ấy rồi. Để khỏi phái khua dao thớt, vừa tiện vừa kín, tránh được mồm được mắt thiên hạ. Thế thì nguy cho lão Quềnh này quá! Mấy ông đúng là uống nước cả cặn?
Lão Quềnh vừa quảy người ngồi dậy, lại thêm mấy chiếc nan tre gãy roàn roạt, thì bên ngoài bỗng có tiếng gọi láo pháo:
- Đi uống rượu đám ma đi ông Quềnh!
- Bây giờ còn ngủ hả ông Quềnh? Hay đêm qua có bà nào trú nhờ trong ấy!
Vừa dứt lời một đám thanh niên tuổi những những đã ùa vào đầy căn lều. Đám trai làng đang tuổi ăn tuổi lớn như những chú nghé tơ, chân tay khềnh khoảng chưa định hình, nhưng da thịt trông óp quá, mặt mũi thô gầy góc cạnh. Cái thiếu, cái đói hiện lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp môi khô tông tốc! Được cái vẫn tếu. Chúng tìm điếu, rồi thản nhiên bẻ phệnh vách làm đóm, kéo thuốc lào. Cái điếu cạn nước kêu nghìn nghịt như người hen tắc cổ. Anh chàng mặt sần sùi trứng cá, vô bồm bộp vào miệng điếu, giọng khảo khảo trong khói thuốc:
- Điếu điếc gì mà khô rông rốc như hang chuột ruộng cạn. Mấy hôm nay bố ngót diều lắm hử? Thì đi đào huyệt với cánh này thì sẽ có cơm rượu tử tế. Cụ cố nhà họ Vũ đã tịch thì không phải chuyện đùa. Ông Phúc đã trữ lợn to hàng năm nay rồi.
Lão Quềnh vớ cái áo bộ đội tàu tàu cứng như mo nang vẫn cuộn làm gối, đưa lên lau mặt, rồi vừa ngáp vừa nói ề à:
- Thảo nào có tiếng trống phát dẫn từ bảnh mắt. Hoá ra ông cố Đại chết à? Sướng thế sao lại chết? Mà ông cố vẫn ở bên nhà Quý chứ.
Đám thanh niên cười hô hố:
Đúng là trí nhớ ông Quềnh! Thế hôm trước ông ăn xôi ăn chuối mừng thượng thọ cụ cố ở nhà ai? Nhà ông Phúc hay nhà Quý?
Lão Quềnh ờ ờ như sực nhớ. Đám thâm niên rít thuốc xong lôi kéo lão đi, nhưng lão trằn lại. Đám trai tráng này được chủ nhiệm hợp tác xã gọi đến để đi đào huyệt cho ông cụ cố họ Vũ mới chết đêm qua. Không phải lão Quềnh ngại không ai mời mà đến, không mời thì lão cũng đến! Lão vẫn khoe là đã từng ở với ông Phúc con cả cụ Cố, trưởng chi họ Vũ Đình bây giờ cùng một đội du kích từ thời Tây kia (kỳ thực ngày ấy du kích tuyển anh thanh niên Quềnh vào để thêm một tay đào hầm. vì Quềnh đào khoẻ như một con tê tê dũi đất). Cho nên bố ông Phúc chết thì lão phải đến chứ. Nhưng thư thư đã. Chứ bây giờ đanh đói run cả gối mà ra đòi đào huyệt thì có khi đến ngã ngay xuống đấy! Lão Quềnh vục dậy đi ra sau vườn, nơi còn mấy dây khoai lang bò nguều ngoài, lão hái tuốt tuột từ gốc đến ngọn. ít quá, lão nhổ cả rễ, vặt những củ bằng ngón tay, rửa qua quít, rồi cho vào chiếc xoong cụt tai đun lên. Một nồi canh nhộn nhạo vừa củ vừa lá, rắc thêm tý muối trắng. Lão húp sịt soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió ăn giở miệng, con tì con vị được đánh thức, cái đói càng tăng thêm, bụng càng thèm cơm đến cồn cào. ấy thế mà có người ăn không hết của lại lăn ra chết. Được sướng mà phải chết thì cũng là khổ! Vừa mới hồi trong năm, lúc gặt hái xong, cả chi họ Vũ Đình làm lễ thượng thọ mừng cụ Cố tròn 90 tuổi thật là thịnh soạn. Ông Phúc đứng chân chủ họ cho mời hết lượt các chủ hộ xóm Giếng Chùa. Ai đến cũng được ăn xôi đậu xanh và chuối trứng cuốc. Lão Quềnh cũng đến. Người thì đến vì được ăn. Người thì đến vì tò mò. Bởi cụ Cố đã nhất quyết từ mặt ông Phúc có đến hơn 30 năm nay rồi. Lâu nay cụ Cố ở với Quý là em ông Phúc, mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ giật gấu vá vai chứ không được dư dật như ông Phúc. Nhưng thiếu vay đâu thì vay, chứ cụ Cố nhất quyết không cho vợ chồng Quý vác rá đến ông anh giàu có. Tết nhất giỗ chạp cũng mặc. Ông Phúc làm nhà ngói năm gian, đốt pháo đùng đùng hôm đặt cây nóc, cụ Cố cũng bỏ ngoài tai! Mấy đứa con ông Quý về khoe là bác Phúc mới mua xe eúp và máy nghe nhạc, vặn mở suốt ngày ầm ầm như có đám cưới, thế là cụ Cố la toang lên, rằng là chúng mày có để cho ông yên không! Hơn ba mươi năm mối hận của Cụ như vẫn chưa nguôi. Đại - Sang - Phú - Quý - Lộc - Tài, tên bố con cụ Cố như vậy, nhưng cụ bảo lại hóa ra là đại vô phúc! Bố con cụ đã làm trò cười cho thiên hạ! ấy là hồi cải cách ruộng đất, cụ bị quy là địa chủ. Lúc ấy thanh niên Phúc đang làm bí thư đoàn thanh niên toàn xã, vì Phúc đã được kết nạp Đảng từ mấy năm trước, khi còn ở du kích. Để tỏ rõ mình không bị giai cấp địa chủ nhuộm đen, mình đã ly khai nguồn gốc xuất thân, không dính dáng gì tới kẻ bóc lột, vợ chồng Phúc ra ở riêng. Suốt ngày Phúc bám đội trưởng cải cách. Đội trưởng tên là Cường. Nhưng không được gọi là Đội Cường. Hôm đầu có người gọi thế đã bị triệu lên xã để giáo dục quan điểm lập trường, rằng là chỉ có thời phong kiến đế quốc mới có Cai có Đội, chứ ở đây gọi như vậy là bôi nhọ thanh danh người chiến sĩ cách mạng! Phải gọi là đồng chí Hùng Cường. Đồng chí Đội trưởng Hùng Cường. Rồi người ta rỉ tai nhau rằng đồng chí Hùng Cường không thích xung quanh gọi mình là Đội Cường, bởi vì rằng chính ông cụ bà cụ có diễm phúc sinh ra đồng chí Hùng Cường là người ở xã bên kia sông chứ đâu xa. Hai ông bà từ dưới xuôi tản cư lên dạo có nạn đói năm Dậu. Nghe nói quê của ông bà ở vùng toàn đội đầu. Từ thúng thóc, gánh lúa, đến việc thổ mộc là đào đất từ dưới ao lên, không gánh không vác mà cứ đưa cả lên đầu trông khiếp lắm, tưởng như gãy cổ đến nơi. Hai ông bà đi đội thuê đội mướn kiếm ăn. Vì thế bên xã ấy người ta quen gọi là ông Đội, bà Đội. Nghe nói đồng chí Hùng Cường ngày ấy gầy yếu lắm, nên bố mẹ cứ gọi nôm na là thằng Còm. Thế mới biết sông có khúc, người có lúc: từ thằng Còm đã lớn bồng lên thành đồng chí Hùng Cường. Vẫn cao, vẫn gầy, da vẫn dính sát vào xương, nhưng giọng nói thì thật là người có quyền. Nhất thanh nhì sắc, cứ choang choang. Nói một câu là quan trọng một câu. Đã có người lân la hỏi chuyên gia cảnh, thì đồng chí Hùng Cường vắn tắt mình là thành phần cơ bản, bố mẹ đều giai cấp cốt cán; rồi đồng chí chấn chỉnh ngay là không nên quá nặng nề tư tưởng gia đình, mà phải nghỉ đến sự nghiệp cách mạng trên hết. Thế là cạch, không ai dám hỏi chuyện gia đình đồng chí Hùng Cường nữa.
Phúc cứ bám riết lấy đội trưởng Hùng Cường. Đến nỗi có mấy thanh niên hay thóc mách kháo nhau rằng đã bắt gặp đồng chí Hùng Cường đi sâu đi sát quần chúng, đến bắt rễ với cô Tý con bà Tẹo ở cuối xóm. Nhà chỉ có hai mẹ con, bà Tẹo lại vữa hỏng mắt lẫn hỏng tai, chỉ có cô Tẹo tuy xấu người, nhưng phốp pháp dễ dãi. Họ bảo thấy đồng chí Hùng Cường đến bắt rễ cốt cán để tìm hiểu tình hình của làng, đã ăn cơm thịt gà rồi ngủ luôn ở đấy đến sáng sớm hôm sau đi cổng ngách về trụ sở. Trong lúc đồng chí Hùng Cường đang đỏ mặt lên lúng túng, thì Phúc đã gọi ngay mấy thanh niên ấy lên làm kiểm điểm vì đã ăn phải đũa của bọn bóc lột, tung tin nói xấu cán bộ đội. Họp chi bộ đồng chí Hùng Cường tuyên dương Phúc là đã có tinh thần kiên quyết dứt bỏ được giai cấp phi vô sản, tự nguyện phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nông. Đêm nào Phúc cũng tổ chức thanh thiếu niên đi cổ động, đèn đuốc cứ rừng rực như đình liệu, hô Đả đảo bọn địa chủ cường hào ác bá đến khản đặc cả tiếng. Trống đánh đến bỏng dùi. Rồi đoàn cổ động hô vang Đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình Đại! Kiên quyết đánh đố tên địa chủ Vũ Đình Đại ầm ầm nộ khí.
Sáng hôm sau Đội tổ chức cho dân làng đấu tố Vũ Đình Đại, tên địa chủ có 5 màu ruộng, 3 trâu cày, ngày mùa, ngày vụ dám thuê gần chục nhân công làm cho nhanh. Mặc dù tên Đại cũng hai bữa cơm đèn, làm quần quật như trâu nhưng đấy chính là âm mưu của nó ta không được mơ hồ lẫn lộn, vì nó làm đế ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất phải đi làm thuê làm mướn kiếm ăn, nhưng đã bị những tên cường hào như những cái vòi cua con bạch tuộc bóc lột đến tận xương tủy. Ta phải vạch trần tư tưởng đen tối của chúng ra. Đồng chí Hùng Cường đã phân tích sâu sắc cho mọi người hiểu như vậy.
Cuộc đấu tố được tổ chức ở ngay giữa sân nhà Vũ Đình Đại. Hai vợ chồng Đại cùng mấy người con; tức những người em của Phúc chưa vợ chưa chồng, vẫn ở với bố mẹ, tất cả được lùa ra giữa sân như một đám hành khất, ngồi bệt xuống giữa vòng trong vòng ngoài dân làng. Vợ Phúc cầm cái liềm nhảy choi choi trước mặt những kẻ bóc lột, cái mỏ liềm cứ mổ trước mặt Vũ Đình Đại, vừa mổ chị vừa kể tội bọn chúng đã bóc lột, đã đè nén mình ra sao. Chị kể dài dòng và hay trùng lặp quá đến nỗi đồng chí Hùng Cường phải nói chị tạm nghỉ cho bớt xúc động rồi sẽ đấu tiếp. Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi:
- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
Ông bố đã trả lời thế này:
- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!
Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:
- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.
- Đả đảo tên địa chủ Vũ Đình Đại xỏ xiên! - Một thanh niên cốt cán liền hét lên, thế là tất cả ầm ầm như vỡ chợ: - Đả đảo! Đả đảo!
Lời nói gió bay, nhưng lại có những lời như đóng dấu chính vào in não mọi người. Đến bây giờ những người đứng tuổi ở làng Giếng Chùa này vẫn nhớ như in những câu đối đáp của bố con ông Đại - Phúc trong buổi đấu tố ấy. Vì thế hôm giáp tết mới đây, khi vợ chồng con cái ông Phúc đón được cụ Cố về, rồi làm lễ thượng thợ mời cả làng đến dự thì ai mà không tò mò ai mà không muốn đến xem bố eon ông cháu nhà ấy đối đãi với nhau như thế nào. Một sự tái hợp hiếm có. Nhưng duyên do để có được bữa tốc hỉ ấy, thì không ai biết được, là một tối kia, khi thấy ông cụ đã yếu lắm, một ngày khỏe thì năm bảy ngày đau. Ông Phúc đến nhà em trai, và vẫn tư thế của người quyền biến, với cặp mắt ba góc nhìn cứ ngắm ngắm, ông bắt Quý xua hết vợ con xuống bếp, để trên nhà ba bố con, ba người đàn ông rường cột của chi họ Vũ Đình có cuộc đàm phán mang tầm cỡ chấm dứt chiến tranh!
- Năm nay ông đuối sức lắm rồi - ông Phúc bắt đầu vào chuyện - ông về bên con tĩnh dường cho tiện, chứ bên này chú thím nó vừa túng vừa neo người trông nom.
- Tao không đi đâu hết. Tao quen sống nghèo khổ rồi? Nghèo khổ còn yên ấm bằng vạn có tiền có của mà bị nhục!
Cụ Cố với nước da mồi xam đen, tóc lưa thưa, bạc và khô xác, đang nằm thở khò khử trên chiếc giường tre, loại giường cổ lỗ cách đây mấy chục năm; lại thêm chiếc màn xô màu cháo lòng, vá víu túm tó như vó tôm. Đã nhiều lần ông Phúc sai con mang bánh giò bánh dầy, mang sữa sang, cụ Cố cứ nằm trong chiếc màn ấy, như nằm trong chốn trú ngụ cuối cùng của cuộc đời, đầu kê lên chiếc gối mây đã ngả màu đen kít, miệng phóng ra những lời cay độc, đuổi như đuổi tà: Mang về! Mang về! Để cha mẹ con cái chúng mày ăn nhau cho béo rồi lấy sức mà đào mồ đào mả ông bà ông vải lên!
Lần này cụ Cố vẫn nằm đấy, mắt không nhìn người con trai đã đấu tố mình. Vừa nói, cụ vừa thở khó nhọc, nhưng cơn nộ khí trong lòng xem ra vẫn chưa một chút hạ hỏa! Ông Phúc cứ để mặc cho cụ via già nói thỏa thuê. Ông điềm nhiên kéo thuốc lào xoe xoè. Ông Quý thì càng ngồi im như thóc. Quý vốn là người chỉ biết bới đất lật cỏ làm ăn, còn nguyên vẹn là một nông dân thuần phác, dễ phục tùng. Việc gì Quý cũng lấy êm ấm làm đầu. Trong nhà Quý nhường nhịn ít lời hơn cả vợ con. Nên trong việc giữa bố và anh, Quý mặc? Thế nào cũng được.
- Bố chỉ bực bõ những chuyện vặt! Không nhìn xa được khỏi bờ rào! - ông Phúc bắt đầu công bố quan diềm của mình - Thời bấy giờ nó nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, cóc ngóe nhảy lên làm người! Muốn còn chỗ đứng thì phải biết lựa. Chân dù có nhún nhưng lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng hách xằng để giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế thì làm gì. còn Đảng! Mà không có chân Đảng viên thì cái họ nhà này chúng nó cho ăn bùn! Chân trắng thì làm gì chen được cái chức chủ nhiệm hợp tác sáu bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này vào được Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có mục thất! Rồi gạch ngói nhà chú Quý này, nhà bá Sang kia, không ở đấy mà ra thì ở đâu? Cũng mang tiếng mua, nhưng người khác phải trả mười, thì mình chỉ bỏ ra một. Không có lời của chủ nhiệm, thì mấy thằng lò gạch lò ngói có khối nó chịu nhả cho đấy!Tôi vừa mất chân Đảng ủy, nghỉ chủ nhiệm, thế là đủ chuyện rắc rối rồi. Phe cánh nhà Trịnh Bá đang lăm le chiếm hết quyền hành cái xã này. Nó dám nói chi họ Vũ Đình quanh năm lục đục thì còn lãnh đạo ai!
Thế là cụ Cố bật ngay dậy như một cái lò xo:
- Nó nói thối mồm thế mà mày chịu nhịn à?
Vậy là xong! Ông Phúc đã đánh trúng huyệt! Câu chuyện lập tức xoay ngược sang hướng khác. Chân tay cụ Cố vẫn rung lên vì xúc động. Như một con chiến mã về già, dù không còn đủ sức để lao vào trận mạc, nhưng mùi thuốc súng vẫn đủ kích thích nó gầm thét! Mối hiềm khích giữa cụ Cố với cánh nhà họ Trịnh Bá kia có từ xa xưa. Không nhắc, quên đi thì thôi, chứ nếu chỉ khi khơi dậy thì ngọn lửa bùng ngay lên?
Hôn nhân, điền thổ vạn cố chi thừ. Tức hôn nhân và đất đai là hai thứ dễ gây cho người ta thù oán nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh Bá không thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai bên đã túm ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng! Đời cụ Cố là chuyện-đất, chuyện chức, cái chức lý trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là chuyện được thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là chỗ ngồi chiếu nhất giữa đình làng. Đôi bên đã giành nhau kịch liệt. Đến đời ông Phúc lại là chuyện tình. Thật oái oăm, hai dòng họ này cớ vờn, cứ lửa miếng nhau không biết mệt!
- Ông về bên này không chỉ là chuyện nghĩ ngơi tĩnh dưỡng - Ông Phúc lại lên tiếng, cắt dứt dòng nghĩ ngợi lan man của cụ Cố - Mà về bên này còn để bịt mồm những đứa nói hỗn lại! Thằng Tùng, con Bá Sang, được chúng nó thí cho cái chân xã đội, thế là nhảy cỡn lên theo voi ăn bã mía. Nó còn nói láo hơn cả anh em chú cháu nhà Trịnh Bá. Dù thế nào cũng không thể để họ Vũ này bị nhục trước dân làng! Giọng ông Phúc đã như muốn gầm lên. Cụ Cố ngồi hẳn dậy chứ không còn nằm nữa. Ông Quý càng thuỗn người ra ngơ ngác. Thế là sau hơn ba mươi năm quay lưng, cụ Cố đã chịu quy phục hoàn toàn trước lý lẽ của người con trai mà cụ đã từng rủa không còn thiếu một lời nào! Và đây là lần thứ hai cụ lại chịu thua Phúc!
Ngay hôm sau dân Giếng Chùa trố mắt thấy bà con dâu đáo để, tức là vợ ông Phúc cùng con trai, con gái, có cả dâu lẫn rể, rùng rùng dắt nhau sang nhà ông Quý dể đón cụ em về bên này nghỉ ngơi tĩnh dưỡng!. Tất cả vui vẻ cứ như đi rước một ông quan đại thần! Và ngay tuần ấy, ông Phúc làm lễ thượng thọ cho cụ Cố tròn 90. Một sự kiện của làng!
Vậy mà cụ Cố không gắng sống rốn thêm nữa để hưởng cho đã cái cảnh điền viên xum họp. Từ hôm cụ Cố về bên nhà ông Phúc đến nay đã được mấy nả. Thế mà mới ra tết cụ đã chết đi sống lại mấy dân. Tay đã bắt chuồn chuồn, miệng đã cấm khẩu, ông Phúc phải cạy miệng đổ đến mấy chén sâm cao-ly mới hồi. Trong làng người ta bỗng thêu chuyện lên rằng, vì làm lễ thượng thọ to quá, nên động tới Thiên đình, khiến ông Nam Tào sực nhớ ra xóm Giếng Chùa còn để sót người sống quá dai mà chưa gạch tên Lại có kẻ ác khẩu bảo ngay việc tổ chức rùm beng cũng là một cách giỗ sống rồi! Muốn cha mẹ thọ lâu không ai làm thế!
Những chuyện đàm tiếu áy đến tai ông Phúc hết. Ông văng tục miệng lẩm bầm: Lại chỉ miệng lưỡi nhà Trịnh Bá!

Đúng như nhiều người nghĩ, cả đến lão Quềnh cũng dám chắc là đám tang cụ Cố chi họ Vũ Đình sẽ được tổ chức rất long trọng, quả là không ngoa. Sáng ra, ông Phúc triệu tập tất cả nội ngoại đến nhà ông. Trên bộ phản gỗ lim đen mun mà những người già vẫn quen gọi là ghế ngựa, chiếc màn tuyn màu nước biển phủ kín, thi hài cụ Cố đang ngự trên đó. Ngang người phủ một chiếc chăn đơn. Xung quanh con cháu nục nở sùi sụt. Người kêu bố người gọi ông, kẻ réo bác, réo chú cứ ời ời! Ông Phúc, với dáng cao lớn vuông vức, vẫn đi đứng đàng hoàng. Cặp mắt ba góc trầm lắng. Đầu ông thít khăn trắng, để hai dải thõng xuống gáy, đó là dấu hiệu của đại tang.
- Tất cả lý lặng! - ông Phúc huơ tay. Tiếng khóc, tiếng hờ đang ỉ eo bỗng ngừng bặt như những chiếc loa bị ngắt điện. Ông Phúc nói, họ nhà ta là họ lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật đàng hoàng, không nề hà tốn kém. áo quan, ông sẽ xuất gỗ dồi vẫn trữ sẵn chứ không thể dùng gỗ tạp. Rồi nhà ông sẽ ngả một con lợn hơn một tạ, còn anh em con cháu có thế nào đóng góp tùy ý. Ông sẽ mời đội kèn, mà phải là phường bát âm lớn theo đúng nghi thức cổ truyền. Đột kèn sẽ chia làm hai nhóm. Một nhóm ngồi trong nhà, gần linh cữu. Còn một nhóm ở bên ngoài với nhiệm vụ khi các đoàn thể của làng, của xã đến viếng, thì nhóm này ra tận cổng nổi kèn, nổi trống đưa đoàn vào để tăng thêm phần trọng thể. Phải có người nhà trực bên ngoài để hướng dẫn từng đoàn vào thứ tự. Phải có người ngồi ghi chép những ai mang đồ phúng viếng đến, để sau này nhà người ta có đám, mình còn nhớ phúc đáp lại Rồi thì phải dựng rạp, kê bàn ghế, mượn thêm mâm bát...
Ông Phúc nói một loạt công việc, rồi phân công luôn. Dứt khoác như mệnh lệnh. Đúng là một ông trưởng họ quyền biến và thành thạo công việc.
Khi tất cả đã túa đi, ai vào việc nấy, ông Phúc mới quay lại hỏi bà Sang, người chị cả, vẫn ngồi sụt sịt ở góc giường:
- Thằng Tùng nhà bá đi đâu mà từ hôm qua đến giờ không thấy mặt?
Bà Sang ngước nhìn người em trai như có lỗi:
- Đêm qua tận khuya nó mới đi họp về. Sáng sớm thấy nó bảo là xã phân công đi mua sắn cứu đói cho hợp tác xã, rồi nó đi luôn.
Ông Phúc dằn giọng:
- Khoai sắn gì, nó không đi thì người ta chịu nhịn đấy. Nó là nó trốn đám tang này? Đi từ lúc trời chưa mở mắt, nhưng sáng bảnh nó với thằng Điểu còn ăn phở ở quán bà Lợi. Ngồi ở nhà nhưng tôi biết hết?
Bà Sang lại tức tưởi vừa khóc bố vừa kể lể về thân phận đàn bà con gái của mình. Chồng bà mất sớm, bây giờ con trai là trụ cột gia đình. Hàng ngày bà chỉ quanh quẩn việc nhà, cơm nước, cám bã, chu còn biết đâu bàn soạn. Bà có nghe người ta bảo giữa hai cậu cháu - ông Phúc và thằng Tùng nhà bà có chuyện mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà vừa hỏi, thì Tùng gạt đi U hỏi làm gì những việc ấy mặc con! Thôi thì đành con dại cái mang. Một bên em ruột, cùng một gốc một cành; một bên con đẻ, hạt máu của mình, bà còn biết trọng ai khinh ai! Sao mà càng ngày càng lắm chuyện quay quắt vậy! Gần hết đời người vẫn chả biết ăn ở thế nào cho phải!
Bà Sang cứ tỉ tê ngồi than khóc một mình, mặc xung quanh - Hay là xung quanh người ta mặc bà? Mọi người tất bật nhốn nháo sai khiến, gọi hỏi nhau ầm ầm. Tiếng đóng ván kênh kếch. Rồi một hồi trống báo tang, cứ bảy tiếng lại dứt một nhịp - Tùng tùng tùng... tùng tùng tùng... tùng! Tiếng nhạc của tứ thần như có đôi cánh màu đen bay vờn trên những ngọn tre úa lá, lan tỏa khắp đầu làng cuối xóm. Chính tiếng trống ấy đã thúc lão Quềnh thức giấc. Khi đám thanh niên được chủ nhiệm gọi kéo nhau đi rồi, và lão Quềnh đã húp hết cả nồi rau khoai mà vẫn đói veo lão ngồi ngẩn ra không biết làm gì. Đã hàng tuần không thấy ai cần đến sức trâu lăn của lão. Làm mướn lúc này cũng không đắt! Lão Quềnh cứ ra ra vào và đi lại ù ì như voi nan. Chốc khốc lại liếc sang khu nhà ủy ban, nhưng tất cả các cửa bên ấy vẫn đóng chặt. Thế rồi suốt cả ngày lão Quềnh cứ thơ thần lờ vờ như vậy. Đến tối mịt nghe nhiều người nói đêm nay nhà ông Phúc làm lễ cầu hồn vui lắm, có trống có kèn như đêm hát đêm nhạc, chứ không giống những đám chết theo đời sống mới, cu hấp ha hấp hoảng, vất vả dụi do quá? Đám thanh niên kéo nhau đi xem như xem văn nghệ!
Khi lão Quềnh vật vờ tới nơi, thì đã thấy đến đóm nhà ông Phúc sáng trưng. Ngoài sân dựng rạp, căng phông, bàn ghế kê dàn dạt. Trong căn nhà ngói năm gian đông chật người, hương khói nghi ngút. Chiếc quan tài để mộc không sơn, chỉ bào nhẵn, màu gỗ dối vàng ươm trông còn nối hơn cả sơn, kê nằm dọc theo chiều nhà. Trên ván thiên, một bình hương tơ khói um tùm. Tàn hương rơi lả tả xuống quả trưng luộc và bát cơm đóng theo hình oản để cạnh. Tiếng ông Phúc cất lên, nói một câu gì đó lập tức cả một nhà khăn trắng rùng rùng đứng dậy như một đàn cò. Tất cả đến xếp hàng vòng tròn quanh linh cữu. Ông trưởng phường bát âm mặt đỏ tím rịm. Ông vận bộ quần áo màu vàng, rộng thùng thình như quần áo phường tuồng. Đầu ông đội mũ giấy xanh đó không chóp, như chít khăn xếp. Trên trán và hai bên tai dắt mấy chiếc lông chim sặc sỡ ông đến bên linh cữu hắng giọng dặn dò:
- Để cụ đi được thanh thản, trong lúc chào cụ lần cuối không ai được khóc.
Rồi ông phẩy tay ra hiệu. Tức thì con trai và con rể ông Phúc thận trọng nâng ván thiên lên, rồi kéo dịch xuống phía chân để con cháu họ hàng nhìn thấy mặt cụ Cố lần cuối cùng. Mọi người đứng lặng phắc như nín thở. Ông trưởng phường bát âm đi lại phía đậu cụ ông cúi xuống nơi âm bầm như dặn riêng cụ Cố điều gì, rồi ông rút trong túi áo ra chiếc bùa xoắn bằng giấy bổi, lùa vào miệng cụ Cố. Đó là giấy thông hành để cụ Cố đi sang thế giới bên kia. Đoạn, ông gật đầu ra hiệu. Ván thiên kéo lên, đóng chốt lại. Cụ Cố chính thức đi về nơi vĩnh viễn. Lập tức những tiếng khóc lại òa ra như vỡ đập. Ông Phúc ra hiệu tất cả đàn ông xúm tay lại, xoay quan tài ngang theo chiều nhà, đau cụ Cố quay ra ở chính cửa giữa. Một hồi chập choạng vang lên.
Đêm cầu hồn bắt đầu.
Trưởng phường bát âm mang ra một chiếc thuyền bằng chiếc diều sáo của trẻ con. Đó là thuyền đưa linh hồn người mới khuất về nơi chín suối. Tất cả chiến thuyền được dán bằng giấy đỏ, đó là màu biểu hiện điềm lành, điềm phúc của đạo Phật. Một sợi dây buộc vào mũi thuyền, và thằng cu Cần, con trai út ông Phúc, cháu đích tôn cụ Cố được cầm dây kéo thuyền đi trước. Trưởng phường bát âm cầm một cây gậy cuốn giấy đỏ ngang người ông thắt thêm một sợi dây cũng màu đỏ. Chiếc gậy ấy là sào chèo thuyền. Một đầu sào chống phía sau cạnh thuyền. Trưởng phường bát âm hơi cúi người về phía trước, dé chân chèo hai tay cầm sào rướn lên giật xuống rất dẻo như chèo thuyền thật. Phía trước cu Cán đã được hướng dẫn dắt theo thuyền đi thật chậm, rù rì như sên bò. Đội kèn trống và nhị không cần ra hiện trường, cứ ngồi trên chiếu phía tay trái, nghe trưởng phường bát âm xướng lời mà phụ họa nhạc theo.
Trưởng phường bát âm đu đưa nửa người trên, hai tay làm động tác khoát nước bát thuyền, miệng đọc ngân nga kéo dài, bắt dầu là bài dặn dò của những người đang sống đối với linh hồn người mới khuất:
ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi
Ông đã khuất núi về nơi suối vàng
Đất dày cách biệt dương gian
Mấy lời nhắc nhủ ông về ngàn thu
ới ơi! Nơi ấy mịt mù
Gặp người chớ hỏi trước
Gặp sông hãy lội sau
Thấy thuyền xanh không xuống
Chờ thuyền đỏ qua mau...
Ông Phúc đang ngồi đứng dậy, đốt một nén hương cắm thêm vào bình hương trên ván thiên và bỏ tờ bạc một trăm vào chiếc thuyền thúng cu Cần đang kéo, rồi ông đứng phía sau trưởng phường bát âm. Thế là lần lượt những người ngồi vòng quanh phía ngoài đứng lên thi nhau bỏ tiền vào thuyền và xếp hàng tiếp phía sau ông Phúc. Hàng nối càng dài, thì tiền bỏ ra càng nhiều.Tiền ngân hàng Quốc gia hẳn hoi, tiền của người sống đang tiêu chứ không phải tiền âm phủ chỉ là thứ tiền giả vờ! Đây chính là cách thưởng của tang chủ đối với dội kèn. Trưởng phường bát âm càng nhiều bài cầu lâm ly, giọng càng hay, sức càng dai để đi được nhiều vòng, thì tiền của con cháu tang chủ bỏ vào thuyền càng nhiều. Một đêm cầu hồn có đội kèn đã vớ hàng bị tiền, tươm bằng mấy cha con ông lại đò chèo thuyền thật ở ngoài bến sông kia!
Đêm nay khổ chủ này xem ra cũng có máu mặt. Đầu xuôi đuôi lọt Tiền đang bay như bươm bướm vào lòng thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả? Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn chấn. Hai chân ông nhún nhảy càng dẻo để nửa người phía trên đung đưa như thuyền đang dập dềnh trôi trên sóng. Giọng ông rất vang, trường hơi lắm. Bây giờ là bài con đưa tiễn cha:
í ơi!... Bố đã đi rồi
Lòng con đau thắt nhỏ đôi lệ sầu
Bây giờ cách trở hai nơi
Âm dương xa ngát muôn đời biệt ly
Bố đi con biết dặn gì
Thế là tiếng khóc của mấy bà con gái, con dâu đang lắng xuống vì khàn tiếng, nghe lời ca thống thiết lại khóc dào lên. Tiếng kèn, tiếng nhị cũng nỉ non như cứa vào gan ruột! Khi chiếc thuyền kéo được một vòng quanh quan tài, thì tiền đã lùm lùm trong lòng thuyền.
Trưởng phường hát ám dừng lại, hai tay chắp vào nhau nâng ngang ngực, mắt mơ màng, miệng nói véo von có vần có điệu như nói với người ở chốn tuyền đài:
- Ba hồn bảy vía, đường đi bảy chặng, con cháu gần xa, phúc lộc đầy nhà, tiễn cụ đi xa, đã qua chặng nhất. Giờ xin hồn cụ hãy tạm nghỉ chân, lấy sức đi tiếp.
Mọi người vừa tản ra ngồi theo hình vòng tròn như cũ thì bỗng dưới nhà bếp, tiếng vợ ông Phúc kêu thất thanh, rồi cứ ớ ớ như bị chịt cổ, tiếng bát đĩa loảng xoảng. Mọi người lao bổ ra, nháo nhác, tán loạn. Trưởng phường bát âm thu vội chiếc thuyền mang về chỗ phường kèn. Ông Phúc lật bật gờ cây đèn măng-sông mang xuống bếp. Mọi người vây quanh bà Phúc. Bà đã hoàn hồn. Bà hào hển kể. Bà xuống bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm. Bà vừa mở cửa thì cha mẹ ơi! Một người đứng sửng sững giữa nhà, mặt to bằng đúng cái mâm và trắng bạch như sáp. Ma! Ma! Bà định kêu lên như như vậy, nhưng lưỡi đã cứng đờ ra, miệng chỉ còn ú ớ mắt tối sầm lại, hồn xiêu phách lạc. Nhằng một cái, khi bà định thần được thì con ma đã biến mất. Mọi người soi đèn đóm xem có mất mát gì không, tất cả vẫn nguyên vẹn. Thế thì đúng ma hiện thật rồi!
Trong khi cả nhà ông Phúc đang nhớn nhác lo lắng không biết điềm báo này lành dữ thế nào thì con ma mặt bằng cái mâm kia đang chân nam đá chân chiêu vừa bá vai lão Quềnh bước thập thòm, vừa cười hí há!
Chả là khi mọi người nháo nhác chen vai, huých cả vào bụng nhau để chạy xuống bếp, thì lão Quềnh thủng thẳng ra về. Vừa ra khỏi ngõ thì bỗng một bóng người nhỏ loắt choắt từ trong vườn chuối nhà ông Phúc chui ra. Thấy người, cái bóng ấy vội thụt vào và cái bọc hắn đang ôm lù lù trên tay, đáng lẽ phải rơi văng ra vì gặp người đột ngột, nhưng hai bàn tay hắn lại ôm chặt lấy ép vào bụng, đồng thời rất nhanh một chuỗi cười hí hí rung lên và tiếng nói thì lè bè đẫm hơi men:
- Ôi dào tưởng ai, hóa ra lão Quềnh đấy hừ? Người ta bảo lão có cái thân bằng con voi, nhưng óc lại bằng con kiến, thật không oan! Đến đây mà lại chịu về không à?
Lão Quềnh dụi mắt, dù đêm cuối tháng tối mờ mờ nhưng lão cũng đã nhận ra cái người đang dở say dở tỉnh này là anh chàng Thó ở ngay cạnh nhà chú Quàng, em trai lão. Tên hắn chính là Thọ kia, nhưng vì cái tính tắt mắt, thấy ai để hở cái gì mà hắn không thuổng, không thó thì ngứa ngáy không chịu được! Một lần lão Quềnh đang đào ao cho Quàng, thì bỗng thấy một sợi cước bay vuốt từ bờ rào bên nhà Thó quăng sang. ở đầu sợi cước là một cái lưới câu móc vào con nhái. Sợi cước giật giật kéo con nhài như đang nhạy Thế thì chú gà trống nhanh chân hơn cả đàn đang tha thẩn tìm giun, liền lao theo nuốt mồi. Chỉ chờ có thế, sợi cước giật tung lên và chú gà trống bốc khỏi mặt đất, bay vút qua hàng rào sang nhà Thọ. Lão Quềnh bỏ cuốc, chạy sang, thì Thó đã bóp ngoéo con gà vứt vào góc bếp.
- Sao lại làm thế? - Lão Quềnh sừng sộ.
Thó vân tỉnh như tiền, nhe răng ra cười hít vào điệu cười lúc Thó thèm ăn:
- Sao với giăng cái con khẹc! Im đi! Ngồi đây rồi cùng tớ nhắm rượu! Ông làm cả ngày cho tay Quàng nhưng nó đãi ông cái gì nào? Mấy lưng cơm với tý tương chua như dấm đĩ hả?
Thế rồi Thó và Quàng đã đánh hết cả con gà gáy với chai bố rượu. Trong lúc ngà ngà cao hứng, Thó túm lấy con chó cốm nhà hắn, bảo Quềnh giữ chân, rồi Thó đổ cả một bát rượu vào họng chó làm con vện cũng say bò bới ra, miệng cứ tru lên như chó sói, rãi sều, mắt long sòng sọc như chó điên, trong lúc hai thằng vô dụng cứ xoa bụng cười sằng sặc như hóa ngộ.
Tối nay Thó cũng chỉ chủ tâm đến nhà ông Phúc ngó đội kèn biểu diễn xem chơi. Nhưng đến khi thấy bà Phúc xuống bếp bắc chõ xôi lên bếp lò rồi không kịp khóa cửa, bà quay ngay lên nhà nhập vào đoàn con cháu đi đưa hồn cụ Cố quanh quan tài, thì cái máu nghề nghiệp của Thó nổi lên. Hắn lẻn ngay xuống. Xôi thì chưa chín, thịt thà không thấy đâu. Lợn thì chắc ngày mai mới mổ. Thế chả nhẽ họ lại để phường kèn ăn xôi nhạt? Hóa ra nhà này cũng kiết như chẳng phải vừa! Lần mò vào cái xó xỉnh thì lập tức hai cánh mũi rất mỏng của Thó phập phồng lên. Mùi rượu thơm cay cay thoảng đâu đây. Thó nuốt nước bọt. Hai tay rờ rẫm hết chai này đến lọ khác. Này. là chai mắm. Này là liễn muối. Này là vại dưa khú. Đồ khỉ gió! Đến khi Thó sờ vào một cái hũ tay rút nầm lá chuối khô làm nút, thì Thó rên lên trong bụng, hai chân chỉ muốn nhảy tưng tưng. Cả một hu đầy rượu. Thó lắc lắc tiếng rượu reo óc ách mời mọc. Thó kê ngay miệng làm một hơi. Rượu mới nấu ngon chí mề! Lúc ấy trên nhà tiếng ông trưởng phường bát âm đang cất cao giọng: ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi! Thó làm một ngụm nữa. ờ rượu ngon thế này mà chết khòng kịp uống thì phí của thật!Thấy thuyền xanh không xuống, chờ thuyền đỏ qua mau... Ông trưởng phường bát âm dặn dò. Thó ngồi bệt xuống làm ngụm nữa. ờ, thế mà người ta vẫn nói dương sao âm vậy. Vậy mà trên trần đèn xanh thì đi, đèn đỏ thì dừng. Chả nhẽ lẽ luật ở dưới ấy lại xoay ngược lại? Thó ngả người vào tường, hai tay vẫn ôm cái hũ. Rượu mạnh đang quẫy đạp trong ruột Thó. Mấy ngày nay chỉ bữa rau bứa cháo nên rượu vào thèm ăn tợn. Đã thấy mùi xôi. Thó đến mở vung chõ cào ngay một tảng bỏ vào vạt áo. Đang xít xoa vì bỏng rãy, thì chính lúc ấy bà Phúc xuống! Vừa nghe tiếng đấy cửa, Thó vớ ngay cái chậu nhôm đang dựa cạnh đống bát đĩa, đưa lên che lấy mặt, chân đứng lom khom ở tư thế vùng chạy. Bà Phúc đang xăm xăm, tý nữa đâm sầm vào con ma đúng sừng sững trước mặt. Bà kê u ớ lên, hồn xiêu phách lạc. Thó liền vút cái thau nhôm, nhưng vẫn nhớ xách hũ rượu luồn ngay ra cửa, lủi biến vào vườn chuối.
- Thế ra chú vừa lần vào bếp bà Phúc đấy? - Lão Quềnh hỏi lại cho chắc chắn.
- Thì đã sao? Túng nên phải tính! Đừng có be lên như bê nghe chửa! Vừa nói Thó vừa ngả miệng hũ vào mồm lão Quềnh. Tiếng tu rượu chun chút vang lên.
Cứ thế, hai gã một khôn một dại, một to lớn xù xì như con gấu, một bé nhỏ như con cáo, bá vai nhau đi ngã nghiêng giữa đường làng trong đêm khuya. Cái miệng hũ lúc thì dốc vào mồm người này, lúc lại đổ vào mồm người kia, đi trên đất mà cú líu ríu dập dờn như đi trên sóng. Không còn biết trời đất xung quanh là gì. Chợt một tiếng hỏi làm cả hai sững lại:
- Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?
Quềnh và Thó cùng khứng lại. Một người đàn ông cao, gầy, đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng:
- à chú Thó à? Lại bác Quềnh nữa, ôm cái gì thế này?
Thó nhìn lên, nhận ra ông Chỉnh, một trung tá về hưu, người cả xóm Giếng Chùa đều nể trọng. Ông Chỉnh cũng ở ngay gần nhà Thó, nên Thó biết lắm. Ông Chỉnh có vợ đi theo trai, nên đã lấy vợ khác. Bây giờ ông Chỉnh cha già con cọc, nhà cũng hoàn cảnh lắm.
Thó cười, giọng lè nhè:
- A bác Chỉnh đấy ư? Bác đi đâu mà khuya khoắt thế này? Hay cũng sang đám nhà ông Phúc? Thi hãy làm với em một ngụm!
Nói rồi Thó định bá vai, khiến ông Chỉnh hốt hoảng né người ra, rồi bước vội. Ông đi canh lò gạch. Thó nhìn theo cười khùng khục, rồi bỗng hát nghề ngà;
- Trung tá mà sợ rượu! Trung tá mà cũng tiên có khồng là không có tiền! Hí hí! Thế cho nên trẻ con nó mới hát láo là Đầu làng đại tá vá xe, cuối làng trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá thì buôn dầu đèn, để cho đại úy thổi kèn đám ma! A hà ha thổi kèn đám ma! Tò te tí te!
Vừa hát Thó vừa nhún nhảy đôi chân chữ bát như ông trưởng phường bát âm lúc nãy. Tay giơ cái hũ lên như thổi kèn, và rượu lại chảy vào họng Thó tuồn tuồn. Rồi miệng hũ lại dốc vào mồm Quềnh. Cả hai tựa vào nhau, tay cùng ôm cái hũ. Chân bước lạng quạng. Đến chỗ rẽ, Thó lè nhè bảo Quềnh:
- Xin đãi bác chầu nữa! Làm hơi thật dài vào. Rượu là cao của gạo. Nữa đi, thế! Thôi té nhá.
Thó theo lối rẽ về nhà. Nhưng chỉ được vài bước, đầu nặng chân nhẹ, Thó chỉ còn lê vào được gốc ổi bên cạnh đường là lăn khoèo xuống, rượu từ trong hũ xối ra, ướt đẫm cả ngực Thó.
Lão Quềnh còn khiếp hơn! Vì lão uống cấp tập hơn Thó, bụng cũng đói hơn Thó, nên rượu càng hành lão dữ. Khi lão khật khưỡng về được đến cửa rêu thì rượu và sương gió ban đêm đã đánh quỵ lão. Lão Quềnh vừa bíu được vào tấm cánh dại che cửa, thì miệng đã nôn phóng ra như cái vòi phun. Trong bụng lão chỉ có bát rau khoai từ sáng, còn là toàn nước và rượu, nên bây giờ lão đáng phun ra rượu! Một thứ rượu qua tiêu hoá lợm mùi đến quỷ cũng khiếp? Lão Quềnh vừa nôn đến nảy đom đóm mắt, tay vừa đẩy cánh dại đề vào nhà, nhưng đẩy không nổi. Trong lúc người đang rã rời vì say, lại thêm bộ óc vốn ù ì, nên lão không thể nhớ cánh dại lão chỉ chống hờ, mà sao bây giờ lại chắc thế này?
Chắc thế là vì bên trong có người. Một người sống và một người chết! Cả hai đang nằm trên chiếc chõng ọp ẹp của lão Quềnh.
Người chết thì cứ chết, đã đành! Còn người sống thì cũng lại ngủ như chết!
Tiếng giật cửa của lão Quềnh làm người sống choàng thức. Đó là người đàn bà tuổi dòng dòng. Cao và gầy. Hốc hác và lôi thôi. Nhưng chân tay lại rất nhanh. Vừa nghe tiếng người đẩy lịch kịch, chị ta đã vực ngay dậy, rồi nhảy một bước tới cửa. Mặc dù đã chống một cái gậy vào tấm cánh dại, nhưng chị ta vội vã đứng áp người vào thêm cho chắc. Nhưng đến khi ghé mắt nhìn qua lỗ phên, thì người đàn bà bỗng bật ra một tiếng cười khô khốc:
- Ôi dào, lại một lão cám hấp! Đồ phải gió phải dây? Nhồi nhét ở đâu về mà khố thế này!
Vừa lẩm bẩm, người đàn bà mở toang cánh dại, rồi cầm tay lôi lão Quềnh vào nhà. Tối quá, lão Quềnh sờ sẫm đi lại chiếc chõng, thì người đàn bà đã kéo giật lão lại:
- Ông không được nằm đấy! Để cho con bé nhà tôi nó được ở cõi trần một tý!
Người đàn bà ngả tấm cánh dại xuống góc nhà, rồi kéo lão Quềnh đến. Quềnh ngã ngay xuống như một bao gạo, miệng hỏi ậm ẹ trong hơi men:
- Thế nhà chị ở đâu mà lại đến đây? Những hai mẹ con à?
Người đàn bà mở hộp dầu cao dúi vào tay lão Quềnh. Bằng con mắt trải đời, không cần hỏi, chị ta cũng biết đây chính là ông chủ của chiếc lều này, một ông chủ ngơ ngơ như bò đội nón! Dạng người này chỉ câu trước câu sau là có thể sai phái được rồi! Vì thế chị ta hỏi với giọng dấm dẳn:
- Tôi ở đâu đến ấy à? ở chỗ đói đến chứ còn ở đâu nữa? Đói thì đầu gối phải bò. Không đói thì hơi đâu đi lang thang cho nhọc. Có hai mẹ con, nhưng con bé nó chết rồi! Nó nằm kia nhưng nó chết rồi!
- Cái gì? Nhà chị bảo cái gì? - Lão Quềnh nhỏm đầu dậy, hỏi giật giọng. Lão trương cặp mắt trong bóng tối sờ sẫm nhìn người đàn bà đang ngồi lờ mờ ở mép chõng. Lão đã tỉnh cơn say. Thở được ra là nhẹ cả người, lại thêm chất nóng của dầu cao, nên sương gió định quật lão đã phải lùi biến. Nhưng vì tỉnh nên lão biết sợ. Thế cái nhà chị này là thế nào? Người hay ma? Chả nhẽ lại có ma thật? Lão đã nghe người ta bảo chính lão đã bị ma làm, nhưng lão không tin; vì chưa bao giờ lão nhìn thấy ma. Lão chỉ tin những gì mắt lão sờ sờ nhìn thấy, chứ không thì đến rắn hai đầu, ma bốn mắt cũng chả là cái cóc khô gì đối với lão. Đêm hôm lão vẫn đi sùng sục mà có thấy gì đâu. Chả nhẽ hôm nay ma lại dám xông váo nhà lão thật? Kìa, một ma sống và một ma chết! Đói khát đến ma cũng chết!
- Con nhà chị chết thật à? - Lão Quềnh hỏi với giọng rụt rè, nhưng thật quái quỷ, người đàn bà lại như muốn chồm lên, giọng rít lại:
- Thì tôi đã bảo là nó chết? Chứ con tôi không chết mà tôi lại bảo là chết à? Ông có điên không đấy? Ông đã nghe thủng tai chưa đấy?
Vừa nói, người đàn bà vừa sấn tới, khiến lão Quềnh đang nhổm người hiên nằm ẹp xuống. Người đàn bà đứng lại, hai tay chống nạnh, giọng vẫn chao chát như đang cãi nhau với ai: Còn tôi ở đâu đến đấy à? ở cái nơi vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc sâu vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ! Tôi cũng bỏ thuốc sâu vào nồi cháo gà để định giết chúng nó, cái thằng chồng với con vợ thành đanh đỏ mỏ ấy! Chúng nó lấy nhau hàng chục năm mà không có con, cứ như nuốt gang nuốt sắt vào người! Thế là chúng nó nịnh tôi, hùn mẹ con tôi về ở với chúng nó cầu may. Tôi vừa đến tháng trước, thì tháng sau con vợ nó chửa. Rồi nó đẻ con trai. Thế là nó trở mặt, nó nhiếc móc tôi là đồ không cha không bố, là thứ không chồng mà chửa, sai tôi như sai con ở. Đêm hôm nó bắt tôi đi giặt tã lót cho con nó. Nó thì ăn cháo chân giò, còn mẹ con tôi thì cơm độn với sắn khô. Đã thế thì phải cho nó biết tay. Bà đã mang lộc đến cho mày, mà mày lại vong ơn bạc nghĩa với bà à? Bà phải thả thuốc sâu vào nồi cháo chim bồ câu của mày! Cho mày được bô béo một thể!
Chị ta bỗng ôm mặt bật khóc! Tiếng ngàn ngạt trong lòng bàn tay:
- Nhưng con chó nhà nó đã hại tôi! Cháo nóng thế mà con vện đánh sạch cả nồi, rồi giãy chết đành đạch. Thế là vợ chồng nó chửi tôi. Thằng chồng đã ăn nằm với tôi cũng đánh tôi. Con vợ thì xé cả áo quần tôi, đuổi mẹ con tôi, giữa lúc con tôi đang sốt, người nóng như hòn than. Chập tối nay dắt díu nhau đến đây là nó chết? May mà gặp được cái kêu này. Mai tôi bọc con tôi vào cái chăn kia, rồi phải về tận nhà vợ chồng chúng nó, tôi sẽ chết giữa nhà chúng nó, để cho chúng nó biết tay bà. Con ơi, mai mẹ lại đưa con về Mẹ con ta phcli chết trước mũi chúng nó? Phải móc mắt chúng nó.
Người đàn bà càng khóc nức lên. Vừa khóc chị vừa kể lể đủ thứ chuyện mà chỉ riêng chị biết. Rõ ràng không phải chị khóc, chị kể với lão Quềnh mà chị đang cần xả ra cho vơi bớt nỗi lòng.
Lão Quềnh cứ nằm co trên tấm cánh dại, giương cặp mắt ngơ ngáo nhìn người đàn bà xa lạ trong khoảng tối lờ mờ. Chị ta đang kể lể rền rĩ thì chợt có tiếng chít chít hốt hoảng phía sau nhà, rồi một con chuột cống bằng bắp tay lao thục mạng qua khe hở của bức vách, lao chồm qua chiếc chõng, đâm sầm vào chân chị, lủi biến vào xó tối. Giáp lá cà ngay phía sau, một con mèo hoang bằng con chó con, đen trũi như thiên lôi thần sét quả quyết phải nuốt tươi con mồi, cũng lao đánh roác qua phên nứa miệng kêu ngao một tiếng như kèn trận, hai mắt tròn xoe, xanh cháy lên. Con mèo xù lông, nhảy quăng mình qua đầu chõng, ngã dúi vào bức vách bên này vì quá đà lại gặp người đàn bà cuống quít, chân tay cứ khua ngậu xị trước cửa. Bị lạc mồi, lại bị chắn, mèo ta ngoão lên cáu sườn, nhảy chồm qua mặt chõng quay lại lối cũ, phóng ra ngoài. Tức thì một cảnh kinh hoàng diễn ra. Cái bọc chăn đang nằm im lìm, tức là đứa trẻ bốn tuổi con người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng sóng điện tử mắt con mèo hoang dựng bật dậy? Cả người đàn bà và lão Quềnh đứng bật dậy cùng kêu ối rụng rời khi thấy cái thi hài kia nhổm hẳn lên, gạt cả chiếc vỏ chăn rơi xuống đất. Cái xác không hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế rất chân lâng, chới với trong một giây, rồi ngã đánh roàng xuống mặt chõng. Người đàn bà đổ xuống ngất xỉu. Lão Quềnh thì nằm vật ra không động cựa.
Đêm vẫn lặng phắc như tờ.
Chênh chếch trên trời khuya, mảnh trăng khuyết hao gầy vàng úa bơi trong sương mù se sẽ nhát một, tiếng cú rúc thăm dò trên vòm cây trám tối đen phía sau nhà uỷ ban. Có phải sứ giả của tử thần đã đánh hơi thấy có mùi khang khác?
Một lúc lâu sau.
Người đàn bà hôm lồm bò dậy, rên rẩm:
- ối giời cao đất dày ơi? Làm phúc cho con tôi được sống khôn thác thiêng. Khổ thân tôi, khổ con tôi!
Vừa nói, chị vừa lê tới chiếc chõng, lập cập ôm lấy thi thể đứa con lạnh ngắt. Đầu đứa bé ngất ra ngoài. Mái tóc râu ngô lơ phơ rã rượi. Chị đắp mảnh vỏ chăn nhàu nát lên người con, rồi run rẩy nằm xuống bên cạnh, vừa khóc vừa nói liên chi hồ điệp, đến chính chị cũng không biết mình nó gì.
Lão Quềnh đã hoàn hồn, nhưng mồ hôi lạnh vẫn ri ra ở sống lưng. Lão nằm trên tấm cánh dại, mắt mở trong bóng tối nhìn lom lom sang chiếc chõng. Trong bộ óc luôn luôn có màn sương bao phủ của lão chợt lờ mờ nhớ lại cũng đã có một người đàn bà đến ở với lão, và lão đã trở thành người sai kẻ khiến ngay trong nhà của mình. Đến bây giờ cả làng lão! ấy là ngày còn ở cạnh vợ chồng Quàng trong xóm kia. Một hôm vợ Quàng đi chợ trên phố huyện về có dắt theo một cô bụng chửa vượt mặt, vợ Quàng nói là đưa cô ấy về để làm bạn với bác Quềnh nhà em!. Không biết nghe bà em dâu nỉ non thế nào, mà Quềnh cứ cười hề hề nói tô tô Tớ tậu bò mà được cả bê!. Rồi Quềnh lại đi làm thuê hùng hục để nuôi cô vợ hờ suốt ngày ăn xong lại nằm ôm cái bụng chình ình như nhện ôm trứng. Rồi chị ta đẻ. Rồi chị ta lẻn di biệt sau khi ở cử được hơn một tháng. Đêm ấy thấy đứa trẻ khóc thét lên, lão Quềnh đang ngáy pho pho ở góc bên này thức giấc, gọi sang mẹ thằng cu vẫn ngủ à?. Không thấy tiếng trả lời mà thằng cu vẫn khóc ngằn ngặt. Lão Quềnh dậy châm đèn. Thì thấy mẹ thằng cu với bọc quần áo đã biến mất tăm rồi. Thằng bé đó sau cho gia đình không có con trai, và chuyện lão Quềnh lấy vợ thành một giai thoại. Đi làm ở đâu, Quềnh cũng bị cánh đàn ông xúm vào tra hỏi: Đã biết mùi chưa?. Mùi với mẽ gì! Đêm lão còn phải đi đổ cả nước giải cho nó, vậy mà không được mó đến người đó. Kể cả buổi tối nó tắm ở trong nhà. Cứ đến tối là cái gì nó cũng làm ở trong nhà! Nó bảo ra ngoài sợ gió máy, nhưng kỳ thực cô ả lười chầy thây. Lão Quềnh phải xách nước vào cho ả tắm. Người ả trần như con ếch lột. Dọc người ả đến là nhiều chỗ tôi lõm! Lão Quềnh vừa mon men như con gấu đến gần con chuột bạch, thì ả liền khoăm mặt lại, gắt: Xê ra đằng kia! Thế là lão lại chui về ổ nằm. Còn bây giờ, với mẹ con nhà chị này, một sống một chết một người một ma, rõ khiếp! Lão phải làm gì đây? Lần đầu tiên lão Quềnh phải tính xa tính gần, nghĩ tới nghĩ lui. Đang lơ mơ thức ngủ, thì bỗng có tiếng gọi váng lên ngoài ngã ba:
- Bác Quềnh đã dậy chưa đới? Hôm nay đến giúp em nhá.
Quềnh vùng ngay dậy. Thế mà đã sáng bạch. Lão lịch bịch chạy ra, nói dòng dả;
- Chu ích đấy hả? Lại đào đá ong hừ? được rồi, về đi tớ đến ngay.
Người gọi làm thuê đi rồi, lão Quềnh quay lại. Người đàn bà thôi không nói lâm bầm một mình nữa. Chị ta nằm nghiêng, thở nặng nhọc. Một bên gò má nhô lên, trông gần như nhọn. Cạnh đấy một nốt ruồi to như hạt đậu đen làm cho tối cả khuôn mặt gầy. Hai bàn chân đen đùa co lên chõng. Bộ quần áo trên người còn lành lặn, nhưng nhàu nhỏ. Bên cạnh, cái bọc chăn kín mít nằm thẳng cứng. Lão Quềnh chờn chợn, sẽ sàng rút cái khăn tổ ong vắt trên sợi dây cùng với mấy bộ quần áo bộ đội, cái thì tàu tàu, cái đã rách. Tất cả thấm mồ hôi muối của lão cứng như mo nang. Lão rửa mặt khan, rồi xách chiếc mai, dụng cụ kiếm cơm của lão, đang định đi, thì người đàn bà nhổm dậy, giọng tỉnh như sáo
- Ông đi ngay à? Nấu cơm ăn đã, tôi có gạo.
- Thôi, nhà chị cứ ở đây nấu mà ăn. Bếp đấy, nồi đấy. Tôi đi làm rồi ăn ở bên này.
Cơ mà nước nôi ở đâu? Cái vại nhà ông có mà rắn ráo nó đẻ trong ấy!
Nhìn lão Quanh nghệt mặt ra, biết là nói khôn mồm thế thì lão không hiểu, thế là người đàn bà ngồi bật dậy, đã như muốn nỗi đoá lên:
- Rằng là cái vại nước nhà ông cạn nhăn răng ra từ tám hoánh kia rồi! Ông đi xách về đây cho tôi một thùng! Lão Quềnh nhếch cặp môi dày ra như cười, miệng khẽ à một tiếng, rồi quay vào xó nhà xách chiếc thùng cùng cục chạy sang giếng nước nhà uỷ ban. Lão vẫn ăn nước bên ấy. Khi lão xách thùng nước về, thì người đàn bà đang ngồi trên chõng rũ tóc chải bằng chiếc lược gỗ trông như lược cổ. Cả mặt cả người chị ta chìm trong mớ tóc khô cứng vì lâu không gội, nhưng rất dài, rất dày, buông lù xù bốn xung quanh, nhìn cứ như bụi cây kỳ dị. Chị vẫn cắm cúi chải tóc soạn soạt, nói với lão Quềnh bằng cái giọng chùng hẳn lại:
- Ông chờ tôi nấu cơm cho mà ăn, từ hôm qua tới giờ tôi cũng chưa có hạt nào trong bụng.
ấy là tâm trạng của người luôn luôn bị hạch sách, sai phái, đến khi chính chị bỗng dưng được sai phái thì lòng chợt mềm lại. Nhưng lão Quềnh vẫn một hai trả lời:
- Thôi chả cần, tớ đi đây. Bên ấy người ta đang chờ cơm đấy.
Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì diễn ra ở nhà lão. Khi người đàn bà rẽ tóc ra nhìn, thì chỉ thấy thấp thoáng bên bụi hóp một mảng lưng áo trăng khô mồ hôi muối, vài cái áo quần bộ đội đã rộng đã dài, mà khoác vào người lão vẫn cũn cỡn. Tới lúc người đàn bà rửa chiếc xoong cụt tay để nấu cơm, mới thấy mọi đồ đạc của lão đều nhẵn như chùi, đến bói một hạt thóc cắn chắt cũng không ra. Chị đong hẳn hai bơ gạo trong cái tay nải cho vào nồi cơm vo. Rồi chị để lại quá nửa xoong cơm trên ba hòn đá chụm làm kiềng. Đó là một lời cảm ơn của người khốn khổ dành cho một người khốn khổ.
Nhưng lão Quềnh đã không sống được đến chiều mà về nhìn thấy phần cơm của người đàn bà xa lạ dành cho mình. Có ai ngờ một sức vóc như thế, một người vô hại như thế mà bị lưỡi hái của tử thần xén ngọt như đùa! ở hiền mà chẳng gặp lành là thế đấy ai ơi!

Đúng ba giờ chiều, thời khắc cô thống Biệu đã bấm cho ông Phúc là giờ thanh long, giờ hành trong ngày, tang lễ cụ Cố nhà họ Vũ Đình bắt đầu cử hành. Ông Phúc đang đứng túc trực bên đầu linh cữu luôn luôn đưa mắt nhìn ra ngoài ngõ đầy vẻ sốt ruột. Bởi lúc này chưa thấy hai thành phần quan trọng nhất của xã tới viếng: Đảng uỷ và uỷ ban. Thế là họ cố tình chơi ông đây! Coi thường ông đây. Thôi đành. Ông tiến ra giữa thềm, hai tay đưa lên chắp trước ngực, rồi hạ giọng trầm trầm cảm ơn chính quyền địa phương (thì cứ phải nói thế!) và bà con xóm làng đã đến chia buồn với gia đình ông, rồi ông mời tất cả sau buổi tang mọi người bớt chút thì giờ ở lại dùng bữa cơm rau muối với gia đình ông. Thật khéo, ông vừa dứt lời, thì mùi xôi, mùi thịt luộc và tiếng dao thớt kênh kếch từ dưới bếp đưa lên thơm đến cồn cào các con tì con vị!
Ông Phúc nói xong quay vào, ông hội trưởng hội bảo thọ với bộ râu ngạnh trê vàng như râu ngô bước tới. Bây giờ đến việc của ông. Là người có đầy kinh nghiệm về khiêng cáng chôn cất, nên đám tang nào cũng mời hội trưởng hội bảo thọ đến điều khiển đội đô tuỳ. Ông phẩy tay ra hiệu như một nhạc trưởng, tức thì một hồi trống cái thùng thùng vang lên, đánh theo nhịp phát dẫn. Hội trưởng hội bảo thọ đang định phát lệnh tiếp, thì bỗng ngoài sân mọi người đứng dạt ra, rẽ thành một lối, bí thư đảng uỷ Trịnh Bá Thủ và chủ tịch xã Trần Văn Sửu cùng năm người nữa tiến vào. Một nửa đội kèn làm nhiệm vụ dẫn khách tưởng đã hết người viếng, nên đã tản mát từ lúc nãy. Người thì đi uống nước người thì đi xả nước chuẩn bị tinh thần và sức lực để đưa cụ Cố ra đồng. Thành ra đoàn chức sắc quan trọng nhất, ông Phúc chờ đợi nhất, lại hoá ra được khổ chủ đón tiếp thiếu nghi thức nhất!
Hai anh em Phúc - Quý vội trở lại bên linh cửu để đáp lễ. Cặp mắt ba góc của ông Phúc cứng ra vì mệt, suốt ngày cứ nhịu nhíu cau cảu, giờ thấy Thủ và Sửu loé sáng lên. Mừng nhưng vẫn tức!
Hai cô nhân viên trong uỷ ban bê vòng hoa đi trước. Thủ mặc quần ka-ki, áo kẻ cộc tay đi chính giữa. Đoàn xếp theo hàng dọc như một tiểu đội lính đi sau. Đến trước linh cữu, Thủ đốt ba nén hương cắm vào bát hương, vái một vái. Phúc nhìn chằm chằm vào từng động tác của Thủ, bụng bảo dạ:Hắn chỉ đứng sống lưng và chỉ vái một vái chớ không phải ba như mọi người. Đây dứt khoát là sự cố ý. Biết thế!
Thủ đến bên Phúc, thay mặt đảng uỷ và uỷ ban nói những lời chia buồn rất trôi chảy lưu loát. Phúc nghiêng người đáp lại cặp mắt ba góc nhìn Thủ thầm bảo: Tôi biết là anh muốn nói những lời chúc mừng kia! Và ánh mắt của Thủ cũng đáp lại không vừa: Dù thế nào đi nữa lúc này ông vẫn rất cần sự có mặt của tôi! Đời là thế mà! Tạm thời thế thì phải thế. Phúc lại bụng bảo dạ, rồi quay sang hội trưởng hội bảo thọ nói nhỏ. Ông râu ngạnh trê liền huơ tay lên như một lão tướng, phát lệnh:
- Thân quyến tang chủ ra làm cầu ngồi xuống! Các tay đòn đô tuỳ chuẩn bị!
Ông Phúc bước xuống, đứng sẵn dưới giọt gianh. Hội trưởng hội bảo thọ vừa dứt lời, ông liền ngồi thụp xuống, quay mặt lên nhà. Tiếp đến là ông Quý, bà Sang, bà Lộc, bà Tài. Rồi các cháu chắt dâu rể, họ hàng nội ngoại. Người nọ tiếp người kia, thành một dãy dài. Tất cả cùng ngồi thụp, nhìn vào lưng nhau trên đầu khăn trắng xoá trông như một vạch vôi thẳng tắp từ bờ hè ra tận cổng. Theo tập tục, đó là chiếc cầu của con cháu đưa tiễn người quá cố là bậc trên mình ra đi được xuôi chèo mát mái.
- Chú ý! Sau ba tiếng trống đầu nâng trước, chân nâng sau. Đầu xuôi đuôi lọt. Chuẩn bị!- hội trưởng hội bảo thọ hô lớn, rồi vung tay đánh ba tiếng trống dài. Tám thanh niên trong đội đô tùy chia làm hai, đứng hai bên áo quan đã cúi lom khom sẵn sàng. Tiếng trống thứ ba vừa dứt, cùng với tiếng hô Lên nào!. Chiếc áo quan được nâng bật dậy. Đầu nâng cao ra trước. Tám thanh niên trai tráng mà phải bặm môi, vì những tấm dổi chắc quá, dày quá. Đám này áo nặng hơn người. Theo những bước chân sâu đo, chiếc áo quan lừ lừ trôi trên những mái đầu quấn khăn trắng xoá, nối nhau ngồi phủ phục. Cụ Cố đang đi trên cái cầu cuối cùng của tình máu mủ nơi trần thế để sang thế giới bên kia.
Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống cùng âm vang, rít xé lên nức nở. Khóc như ri. Người vòng trong vòng ngoài đầy sân, đầy vườn. Linh cửu đi tới đâu, cuốn theo những người chít khăn trắng trôi đi đến đấy. ở nhà lúc này chỉ còn những người hàng xóm đến giúp việc bếp núc. Đào văn Quàng, em ruột lão Quềnh (tức là Đào văn Quang ) người nhỏ thó, trông lụt cụt và khôn ngoan như con cò lửa. Quàng đi cùng ban quản trị hợp tác xã đến viếng từ trước đoàn của Thủ, giờ chưa biết tính nên ở hay nên về. Đang đứng lớ xớ bên đầu hồi nhà bếp, bỗng Quàng thấy một chiếc còng lợn chưa luộc, trắng hếu, không chân không cánh mà từ trong nhà bếp bay vọt qua cửa sổ, rơi đánh xàoxuống gốc cây hồng xiêm ở sát bờ dậu. Chắc chắn chỉ lát nứa là chiếc giò sẽ vượt biên sang nhà chủ bên kia. Và Quàng nghe đúng là có tiếng nhai xôi nhí nhóp trong bếp. Cái miệng phễu dầu của Quàng đang mủm mỉm cưới túm tó, thì bỗng có người kéo tay Quàng, vừa nói vừa thở:
- Bác Quàng, bác Quềnh đang gay quá, có khi nguy mất! Vâng, bác Quềnh đang ở nhà em, bác về ngay đi.
Đó là vợ ích, người đã thuê lão Quềnh đào đá ong sáng nay. Vợ chồng ích đang tích cóp chuẩn bị làm nhà. Khi phát hiện ra vỉa đá ong ở đồi ông Bụt, ích lập tức chiếm giữ khai thác ngay. ở vùng này nhiều người đã khui được những mạch đá ong ăn chìm dưới đất rất kỳ lạ. Đá ong cấu kiện thành từng viên rời, to bằng những viên đá tảng kê cột nhà, vuông vắn như đẽo, xếp liền nhau tầng tầng lớp lớp. Có người bảo thời nhà Mạc đã có thời kỳ định lập căn cứ địa ở đây. Vật liệu đã tập kết kha khá. Nhưng rồi đêm nằm chiêm bao thấy động, sáng dậy lại thấy gà mái gáy ke ke, thế là cha con bỏ của chạy lấy người, kéo nhau lên mãi Cao Bằng. Thành ra những vỉa đá ong này bây giờ ai vớ được làm móng nhà thì tuyệt vời.
Sáng nay khi lão Quềnh vác mai đến, thì ích đang ngồi chờ bên rổ khoai luộc. Tiếng là nhà có đồng ra đồng vào, nhưng vợ chồng ích có thói quen không bao giờ ăn sáng. Ngủ dậy chỉ có củ khoai củ sắn nhì nhằng rồi đi làm.
- Ta lót dạ tạm, rồi trưa ăn cơm một thể bác ạ!
ích cười xoa xoa bảo lão Quềnh. Quềnh gật, với lão thì thế nào cũng xong. Cả việc trả công thế nào cũng được. Vì thế ai cũng thích mướn Quềnh. ăn khoai xong, đi làm. Lão Quềnh đánh xà beng chan chát như một cái máy đào. Đá toé lửa khét lẹt. Vợ chồng ích chỉ lăng xăng chạy ngoài. Đến trưa đá ong đã xếp một đống cao ngất. Nghỉ tay đến bữa ích với lão Quềnh ngồi riêng. Một cút rượu tăm với nửa cân thịt trâu. Đưa cay xong, lão Quềnh diệt gọn một nồi ba cơm. Buông đũa, súc miệng xong là lão đi làm ngay tắp lự, cần mẫn đến hơn cả chủ nhà. Lão lại thủ mai thình thịch như một cái máy khoan, rồi lão gánh gấp rưỡi vợ chồng ích, như một con lừa thồ. Đến gánh thứ mười thì lão kêu đau bụng. Mồ hôi hột vã ra đầm đìa. Hai mắt lão tối lại. Lão định gánh một chuyến nữa, thì hai chân lảo đảo, rồi ngã vật ra. Vợ chồng ích cuống quít lên, chạy gọi thêm một ông hàng xóm nữa. Khi cả ba người cõng được Quềnh về nhà ích, thì lão đã mê man gần đất xa trời. Trong khi vợ ích đi gọi Quàng, thì ích và ông hàng xóm vội vã cõng Quềnh lên trạm xá.
Vừa trông thấy Quàng từ xa, ích đã lao bổ ra với bộ mặt vô cùng hốt hoảng:
- Chết đứt rồi bác Quàng ơi! Làm thế nào bây giờ? Không phải tại em đâu. Em không giục gì bác ấy đâu, làm được đến đâu thì làm. Không phải tại em...
Quàng nhịu nhíu bộ mặt nhỏ thó và sắc lạnh, cũ kỹ như một đồng xu đã bỏ, gắt lên với ích:
- Làm gì mà anh cứ rối rít tít mù lên thế! Bác ấy thế nào? ích vẫn nói như rên:
- Còn thế nào nữa, chết rồi! Bác ấy chết rồi!
Vừa cáng tới trạm xá, lão Quềnh liền thổ ra một đống máu, người nhũn như cây cần héo, hai tay bắt chuồn chuồn, hàm cứng lại, đôi vành tai cụp dính vào da đầu. Cánh tay gân guốc với những ngón xù xì đang chới với, đổ xuống. Lão tắt thở. Hai con mắt ngơ ngơ đờ dại mở trừng trừng như kinh ngạc, như không tin vào cái chết của chính mình.
ích sợ quá, cứ luôn miệng rên rỉ:
- Nhà tôi không cho bác ấy ăn cái gì độc hại cả. Tôi với bác ấy cùng uống rượu, cùng ăn cơm với nhau, thế mà sao giời lại bắt tội thế này!
Y sĩ trạm trưởng hỏi nguyên do, rồi kết luận rất quả quyết: Quềnh bị vỡ dạ dày vì ăn quá no rồi làm việc nặng ngay. Quàng đứng lặng nhìn thi thể thẳng cứng của người anh khốn khổ trong bộ quần áo vá. Một luồng sóng của tình huyết thống phả vào Quàng. Mặt nóng rực. Hai vai nặng trĩu.
Luồng sóng đi dần dần xuống người, xuống chân, rồi tan ra theo tứ chi. Quàng quay lại hỏi nhỏ ích:
- Anh lấy đá ở đồi ông Bụt à?
ích gật đầu mà mắt thì bạc ra lo lắng, tưởng mình phạm thêm một lỗi gì. Nhưng Quàng lại lẩm bầm như nói một mình:
- Có khi ma đồi ông Bụt lại bắt bác ấy như ngày xưa. Ma vẫn nhớ mặt bác ấy!
ích cũng như sực nhớ ra, vỗ đét vào đùi:
- Thôi chết, đúng rồi! Em quên mất! Sáng nay bác ấy bảo tối hôm qua ma đến chơi nhà bác ấy! Những hai mẹ con! Vợ chồng em lại cứ đùa: Ma mồ gì, hay bác lại vớ được món nào rồi! Đói vàng mắt ra lại còn rừng mỡ! Đúng là các ngài lên gọi bác ấy đi rồi!
ích thở phào, lòng trút được gánh nặng.
Quàng quyết định chôn cất ông anh mình thật nhanh. Con ma keo kiệt trong người Quàng đã xui Quàng làm một việc táng tận: Hắn chôn ông anh bằng bó chiếu. Quàng, ích, Thó và một anh hàng xóm nữa đào một cái hố ở chính đồi ông Bụt, nơi xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối. Nhưng Quàng bảo, thôi thì chết đâu chôn đấy. Làm thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài khỏi quấy quả. Bốn Người khiêng Quềnh bó trong chiếc chiếu hoa của Quàng mang đến, đi lặng lẽ trong bóng chiều chạng vạng. Tiếng trống đám cụ Cố ông Phúc phía cuối làng vẫn thì thùng vọng lên. Theo tuổi cụ Cố, lúc này mới được giờ hạ huyệt. Khi nấm mộ cụ Cố đã đắp xong, vuông thành sắc cạnh, ông trưởng phường bát âm lại chống cây gậy dán giấy đỏ, theo động tác chèo thuyền, cùng con cháu cụ Cố rồng rắn đi vòng quanh một lượt hát bài tiễn biệt cuối cùng: Bây giờ con giã biệt cha. ì ơi... đầy nhà cháu chắt cũng là giã ông! Tiếng kèn giật lên nức nở. Lại than, lại khóc vang vang cả cánh đồng.
Trên này mộ lão Quềnh cũng đã đắp xong. Xong sớm nghỉ sớm! ích lấy đòn đập bàm bạp mấy cái vào hai bên sườn mộ, rồi cả lũ cùn cụt kéo nhau ra về. Thó là người rút sau cùng. Thó vẫn chưa hết bàng hoàng về cái chết của lão Quềnh. Mới đêm qua mình với lão còn bá vai nhau vừa đi vừa nốc rước. Mùi mồ hôi rất nặng, mặn khét của lão vẫn như còn lởn vởn bên người Thó. Thế mà nhằng một cái. Mạng người thật chẳng là cái thá đếch gì!
Thó đốt cả nắm hương còn lại cắm lên nấm cỏ tròn như cái mũ đặt chốc giữa mộ. Chợt nghe tiếng lạo xạo, Thó quay lại nhìn thấy một người đàn bà cao, gầy, dáng lam lũ, hai gò má nhô lên sạm nắng. Một nốt ruồi rất to mọc ngay dưới đuôi con mắt như hạt đậu đen. Vai đeo chiếc tay nải màu nước dưa. Người đàn bà nhìn Thó, cặp môi khô mấp máy:
- Tôi mới quay lại chiếc lều của ông ấy thì được biết...
Thó như bừng tỉnh. Những chuyện ma mồ từ xa xưa lập tức sững dậy. Thó hốt hoảng, môi run lên lật bật:
- Chị là... Bà là...
Vừa hỏi, Thó vừa bước giật lùi. Được mấy bước, Thó quay cổ vùng chạy. Đúng là chạy như ma đuổi! Lao cả vào những bụi gai xấu hổ ngã lăn chiêng, lại vùng dậy chạy. Vừa chạy, miệng vừa A...a! A...a! như người câm hoảng loạn.
Người đàn bà đứng sững chẳng hiểu ra làm sao. Chị quay lại, cúi xuống đưa bàn tay cóc cáy bóp bóp một hòn đất trên mộ lão Quềnh. Một giọt nước mắt hiếm hoi chắt ra từ cặp mắt khô của chị rơi xuống. Đây là giọt nước mắt duy nhất rỏ trên mộ lão Quềnh! Chị khóc cho người mới gặp tình cờ chị khóc cho con, chị khóc cho mình!
Sáng nay ăn cơm xong, chị ôm cái xác lạnh cứng của đứa con trong bọc chăn lên bến xe phố huyện. Một ông lái xe khách phát hiện ra, đã lu loa lên như cháy nhà. Người ta xúm đen xúm đỏ lại. Công an đã đưa chị vào đồn. Rồi không biết nghe khuyên can thế nào mà chị đồng ý cùng các đồng chí công an đưa chôn đứa trẻ ở sườn đồi bạch đàn gần đấy. Không còn xác đứa con, thế tức là trong tay không còn vũ khí, nên chị thôi không về để móc mắt cặp vợ chồng phụ bạc kia nữa. Đi lang thang quanh quẩn với bộ mặt cô hồn, cuối cùng chị lại quay về chiếc têu đã trú tạm đêm qua, thì được nghe đám trẻ trâu kể về cái chết của lão Quềnh. Thế là chị lần tìm đến nơi, mà chính chị cũng không biết mình đến để làm gì.
Đêm ấy bà Đồ Ngật đi ăn cỗ bên kia sông về, khi qua ngã ba chợt thấy có ánh lửa lờ mờ trong lều lão Quềnh, rồi thấy loáng nhoáng đúng là bóng đàn bà, thế là ba Đồ chạy te tái đến thở ra đằng tai. Đến mấy ngày sau bà vẫn mắt tròn mắt dẹt kể ồn ĩ là bà đã hai năm rõ mười nhìn thấy con ma mặc áo cánh quần thâm, đầu tóc rũ rượi hiện lên ở lều lão Quềnh. Lại đến lúc các cô các ngài về đấy!
Nhưng lúc này chẳng ai còn hơi đâu nghe chuyện ma của bà Đồ. Có người còn nói phũ là cái nhà bà quen ăn quà như mỏ khoét này, đến hàng tháng nay mồm miệng đến mốc ra như hang cua vì phải nhịn thèm, giờ được đánh rượu vào thế là mắt nọ sọ mắt kia, nhìn người ra ma, trông gà hóa cuốc! Điều cả xóm Giếng Chùa quan tâm, bàn tán ầm lên là cái chết trăm phần trăm của lão Quềnh. Người ta cứ túm Thó và ích để hỏi Quềnh chết thế nào, chôn cất ra sao. Trong lúc Thó kể Quềnh chết không được tắm rửa, vẫn mặc bộ quần áo đẫm mồ hôi nằm bó trong chiếu rồi buộc túm hai đầu lại; thì ích lại ra sức giãi bày về sự vô can của gia đình mình khi thuê mướn Quềnh.
Còn Quàng thì lẩn biến như rắn mồng năm.
Hôm sau nữa dân làng lại xôn xao lên về một tin sốt dẻo: ông chủ tịch huyện đã đánh xe về gặp bí thư Thủ và chủ tịch Sửu. Xong việc, vù ngay, chứ không ở lại để nhấc lên đặt xuống như mọi khi. Ông về vì có đơn tố cáo từ Giếng Chùa gửi lên. Người đệ đơn không ký tên, mà chỉ ghi là Một nhân chứng trung thực. Người ấy kể về việc lão Quềnh bị chôn bằng bó chiếu và lên án đó là việc làm dã man trong thời buổi này, mà lại chôn dấm chôn dúi như một việc vụng trộm: Vậy thì Đảng ủy, ủy ban và ban quản trị hợp tác xã coi việc nghĩa tử là nghĩa tận của nhân dân thế nào? Sự quan tâm đối với những người cô quả ra sao? Người viết đơn nói ngân quỹ của xã không phải là nghèo. Một bữa cơm thường khi họp Đảng ủy, khi họp hội đồng nhân dân, khi tiếp mấy anh điện cao thế là có thể chôn được mấy người như lão Quềnh một cách tươm tất! (Thật là đồ xỏ xiên! Thủ lẩm bẩm, Đầy đủ tiền để chôn cả họ nhà hắn nữa đấy!) Cho nên nếu huyện không có biện pháp nghiêm khắc với những người chủ chốt ở đây, thì người viết đơn nói, sẽ tố cáo lên tỉnh, lên Trung ương, lên báo lên đài kể nhiều việc bê bối khác nữa. (Đúng là cái thư đâm bị thóc chọc bị gạo! Thủ lại lẩm bẩm).
Nhưng rõ là cái kẻ tố cáo kia đã đánh trúng huyệt ông chủ tịch huyện. Vốn là ủy viên thư ký, sau một thời gian đi học đào tạo giờ trở về với cương vị cao nhất về mặt chính quyền, bởi vậy vị tân chủ tịch rất không muốn có những việc rối ren trong khu vực mình quản lý. Chủ tịch huyện đã chỉ trích những người lãnh đạo ở xã quan liêu, tại sao xã ở gọn thế này, làng nọ sát làng kia, đầu xã tới cuối xã không quá năm cây số mà mấy anh lại không biết những gì diễn ra ở dưới dân chúng.
- Việc này sẽ phải kiểm điểm, nếu cần phải kỷ luật Đảng tay Quàng, cái thằng keo kiệt uống nước cả cắn. Còn y sĩ trạm xá thì càng ngày hắn càng đúng là một tên bạch vệ vô chính phủ! Sắp tới cô Vi đi học về chúng tôi sẽ thay - Bí thư Trịnh Bá Thủ bật y như một cái lò xo. Thủ nói tiếp với giọng rin rít:
- Còn giọng điệu cái đơn này thì tôi biết là của ai rồi. Họ mượn cái chết của ông Quềnh để đánh chúng tôi đây. Trong lúc tất cả đang đói nhao lên, thì họ làm ma ông bố đến mấy ngày. Hương khói, kèn trống, ăn uống linh đình, tốn kém bạc vạn. ý thức đảng vừa kém lại vừa hợm hĩnh khoe khoang! Chúng tôi chưa sờ đến đấy!.
- Ai thế?
Chủ tịch huyện hạ giọng khi thấy Thủ nói như muốn gây gổ với cái người vắng mặt đó.
- Tay Phúc chứ ai! Cái đơn này đích thị là của Vũ Đình Phúc! Từ hôm mất chân đảng ủy đến giờ lão ấy cứ lồng lộn lên.
Chủ tịch xã gật gù đồng tình:
- Đúng, đúng là của Vũ Đình Phúc.
Thủ bổng trở nên bình tĩnh đến mát mẻ, bởi Thủ chưa biết sự yêu ghét của đồng chí chủ tịch mới ra sao. Chỉ nghe nói đồng chí ấy là người mềm mỏng, không thích những gì quá khích. Thủ hạ giọng:
- Đấy là những người cùng cánh với Vũ Đình Phúc. Hoặc là có họ hàng, hoặc là đã được ông Phúc bao che dạo ông ấy làm chủ nhiệm. Sau khi trượt Đảng ủy, những người phe cánh của ông Phúc đã đi vận động ráo riết để ông ấy trúng hội đông nhân dân. Hôm bầu hội đồng, cả họ hàng nhà ông ấy cứ sùng sục như muốn ăn tươi nuốt sống ai! Chả là họ nhà ông ấy to vẫn quen cái thói lấy thịt đè người! Chúng tôi biết một số người trong hội đồng cứ khăng khăng bầu ông ấy làm phó chủ tịch là vì đã bị họ hàng nhà ông ấy mua chuộc. Vì thế để tránh bè phái, tránh mất đoàn kết nội bộ thường vụ chúng tôi kiên quyết chỉ để ông ấy làm trưởng ban kiểm soát. Các đồng chí ở trên ấy hãy ủng hộ chúng tôi. Đồng chí mới về chưa hiểu hết cơ sở, chứ bác Luân bí thư và các anh trong thường vụ trên ấy chẳng còn lạ gì nhân sự dưới này.
Chủ tịch huyện rít một hơi thuốc, giọng khảo khảo:
- Chúng tôi có nhận được đơn khiếu nại của ông Phúc về việc phân công này. Ông ấy có đề nghị được gặp anh Luân và tôi, nhưng chúng tôi chưa bố trí được. Tôi mới về chưa hiểu hết, nhưng thấy xã này từ sau đại hội Đảng bộ và bầu hội đồng nhân dân lại đâm ra rắc rối quá. Nhưng thôi, việc ấy bàn sau. Giờ phải tìm cách dẹp cho yên cái pha này đã.
Thế rồi sau một hồi bàn bạc. ba người đã đi đến một quyết định dữ dội như sau: Xã chi tiền mua một bộ áo quan để chôn cất lại cho lão Quềnh? Thủ nói phải kiên quyết thế mới bịt được những cái mồm xấu hay xúc xiểm. Vậy thì lão Quềnh được ưu đãi hay lão phải chết hai lần? Chôn xuống rồi lại moi lên là điều xưa nay người ta cấm kỵ. Nhưng lão Quềnh ơi! Đã được nằm trong bộ áo quan, nghĩa là được chết bình dẳng như những cái chết khác, lão phải vui lòng nhận thêm một sự vất vả khi đã nhắm mắt xuôi tay. Nghĩa là lão phải hy sinh một lần nữa để cứu danh dự cho những người khác đấy! Sứ mệnh của lão thế mà to! Thôi thì đại xá cho cái sự khôn ngoan của người đời, lão Quềnh à!
Xã đã nói là xã làm. ủy ban thuê mấy anh thợ đấu mỗi người ba ngàn, tương đương với bốn cân gạo để làm cái việc mà sau này dân làng gọi là đội cảm tử: Moi xác lão Quềnh lên rồi chôn lại. Thó cũng được cánh thợ đấu vời vào ban tang lễ kỳ dị này.
Đảng viên Đào Văn Quang, tức Quàng hiện giờ bị bí thư gọi đến xạc một trận tơi bời về hành động bạc đãi người ruột thịt của mình. Quàng sụt sịt nhận khuyết điểm và xin được lo an táng lại cho Quềnh, nhưng Thủ gạt phắt:
- Thôi thôi xin đủ! Chúng tôi không cần đến cái thứ hối hận của anh! Để anh bỏ tiền ra, rồi bọn xấu bụng kia lại làm đơn kiện chúng tôi à! Bây giờ việc của anh là bàn với mấy ông thợ đấu lo sao cho tốt. Đừng để chúng tôi phải gọi anh lên lần nữa đấy!
Quàng lủi thủi về, bàn với Thó và cánh thợ đấu rằng để tránh ồn ào, tránh sự nhòm ngó bép xép của đám trẻ con, tránh phải đèn đóm ban đêm, đội cảm tử sẽ thực thi nhiệm vụ vào sáng sớm.
Vì thế bước sang ngày thứ tư kể từ hôm lão Quềnh chết, trời còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng, bốn người đã khiêng chiếc quan tài màu đỏ cùng với Quàng đi cun cút như nhạy ra đồi ông Bụt. Rồi san, rồi bới. Đến khi hở chiếu bốn người cùng dừng tay nhìn nhau. Ông thợ đấu cao tuổi nhất quyết định:
- Bác Quàng xuống đi, buộc dây vào hai đầu chiếu, chúng tôi ở trên này kéo lên.
Khi cái bọc chiếu từ từ được lôi lên, một luồng khí lạnh cùng với một thứ mùi khăm khẳm của tử khí mà chỉ cần ngửi thấy một lần cũng đủ kinh sợ hàng năm trời, từ dưới lòng hố phả lên, khiến tất cả cùng rùng mình ớn lạnh. Ông thợ đấu cao tuổi nói lầm bầm như khấn:
- Tạ vong linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ. Hôm nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây. Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho anh em liền khúc ruột, cho hàng xóm láng giềng chúng tôi.
Rồi cái bọc chiếu âm ẩm như thấm nước được mở ra, một làn hơi mỏng như khói bay lên, mọi người cùng kêu ôi trời!. Thó bỗng run bắn lên, chân tay lẩy bẩy, hai hàm răng khua vào nhau cầm cập. Mắt Thó cứ tối lại trước cảnh toàn thân lão Quềnh trương phình lên, nước thấm ra dấp dính như cá ướp; mặt như phù thũng, to và phùng phịu như đọng đầy nước. Đến khi đặt Quềnh vào áo quan, mấy ông thợ đấu phải vừa ấn vừa ép người Quềnh uốn cho vừa, làm bật ra những tiếng lóp bọp, thì Thó xây xẩm mặt mày, ruột gan cuộn lên thốc tháo. Thó ôm lấy nghe ho rũ rượi.
Hàng tuần sau nghĩ lại việc này, Thó vẫn sởn da gà.

Làng Giếng Chùa lại rộ lên bàn tán về việc chôn lại lão Quềnh. Dạo này đói bụng, nhưng đến là nhiều chuyện để bàn! Nhiều lúc quên cả những cơn réo trong dạ dày! Bà con khen người nào đó đã kịp thời tố cáo lên huyện để ngăn chặn những hành động bạc đãi với những người cô quả, vì làng này còn đến dăm hộ đơn côi không nơi nương tựa. Trong số ấy có cả cha mẹ của liệt sĩ sống rất vất vả. Mỗi suất liệt sĩ được 632 đồng một tháng, nhưng lại lĩnh theo quý. Còn số thóc mua giá điều hòa theo chính sách ưu tiên, thì làng này chỉ có nhà ông Bỉnh là được mua đầy đủ, vì ông có thế ở anh con cả hiện là trưởng ban tổ chức huyện ủy. Mấy dân cán bộ cấp trên về thăm những gia đình có con liệt sĩ nhân ngày 27 tháng 7, xã cũng chỉ đưa đến nhà ông Bỉnh, vì ở đấy nhà cửa khang trang, còn những gia đình liệt sĩ khác đã túng bấn quá, lại thóc ưu tiên cũng bị cắt đầu cắt đuôi, nên những ông bà ấy hay nói ngang cành bứa với xã, bởi vậy chả bao giờ được rước chân cán bộ. Thôi thì sạch sẽ khoe ra, bươi ba đậy lại cũng phải, chứ xấu mặt xã thì thật hổ lòng dân!
ấy thế mà bây giờ huyện lại biết đến cả cái việc chết của lão Quềnh, xã cũng cuống lên vì cái chết của lão Quềnh, kể cũng khoái đấy chứ! Nghe mọi người bình phẩm, cười hí há với nhau như vậy, ông Hàm chỉ lẳng lặng tảng lờ vẫn bào soạn soạt trên tấm gỗ kháo. Những phoi bào tròn loăn xoăn như những cái bánh phồng tôm rán giòn bắn ra lả tả. Câu chuyện của mọi người khiến ông Hàm sôi máu lên. Ông chính là Trịnh Bá Hàm, trưởng chi họ Trịnh Bá, chi họ đang lên ở vùng này. Bí thư Đảng ủy Trịnh Bá Thủ là em ruột ông.
Ông Hàm bào, mắt vẫn nhìn chăm chú mà lại không thấy gì. Tai nghe, óc nghĩ, tay chỉ miết bào một cách bản năng, khiến cái vai giường ông đang bào vì ấn mạnh quá, lõm vào một đường mà ông không biết. Đến khi sực tỉnh thì đã quá đà. Cái vai giường gỗ kháo vàng au như tấm vải tơ tằm bị lẹm vào một đường, trông tức mắt như anh thợ vụng ăn cắp!
Ông Hàm vứt bào đứng dậy, tập tễnh đi lên nhà. Vì một chân của ông bị co gân từ bé, nên dân làng cũng gọi ngay từ nhỏ là Hàm thọt, Hàm chấm phẩy. Những kẻ ác ý thì gọi là hùm thọt. Vì giống họ của ông Hàm thờ Hổ. Tô tiên của họ Trịnh Bá là một ông ba mươi nhe nanh múa vuốt trong những bức vẽ rất tỉ mỉ đặt chính giữa bàn thờ. Tại sao gốc đạo Phật, mà dòng họ ông lại thờ Hổ? Đó là cả một câu chuyện bi tráng mang nhiều chất thần thoại!
Ông Hàm lên nhà trên mở toang cửa, rồi gọi với giọng rất sang:
- Nước sôi chưa Hoa?
Một tiếng dạ từ dưới bếp, rồi đứa con gái út hơn mười tuổi bỏ dở bài đang học, xách siêu nước lửa vẫn còn cháy nhấp nháy quanh ấm nhôm đi lên. Con bé tráng ấm, pha trà, khéo léo và thành thạo như người lớn, bởi nó đã được huấn luyện để phục vụ ông bố ghê gớm. Khác với ông, người lúc nào cũng lừ khừ, lúc nào cũng cau cau, mấy đứa con đều giống mẹ, mặt mũi tươi bưởi sáng láng. Chả thế mà ngày ông mới lấy vợ, những kẻ ghen ăn ghét ở đã xui trẻ con hát đố nhau: Vợ thì tươi tắn như hoa, chồng thì nhăn nhó chẳng ma nào nhìn! Đó là cái gì? Là mặt trăng mặt trời. Không phải! Là anh Hàm chị Son!
Cái Hoa rót một chén nước để trước mặt bố, rồi đi kiểu nhảy dây xuống nhà dưới. Mùi trà ướp hoa ngâu tỏa lên thơm mát. Ông Hàm co hai bàn chân đi đất ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế sa lông rất to đóng bằng gỗ lát chun bóng nhoáng, vần vũ những đường vân như tranh sơn mài. So với những đồ đạc giường tủ bàn ghế vàng rực cả bốn gian nhà mái bằng quét ve xanh, thì ông chủ với bộ quần áo xanh tàu tàu xoàng xĩnh kia chỉ đáng mặt anh ăn đợ ở nhờ. Nhưng ông Hàm lại ngầm thích thú về điều ấy. Bởi hãy nhìn đồ đạc toàn một thú kiểu mới, chứ tịnh không có đồ cổ, thế nghĩa là nhà này mới mọc mũi sủi tăm lên thôi, chứ đời ông bà cha mẹ xưa không để lại được thứ gì đáng giá. Điều ấy chứng tỏ một tay ông Hàm dựng lên tất cả. Nên ông cứ ngồi xếp bằng, rung đùi tự thưởng, cứ việc tha cả đất cát lên mặt ghế bóng như gương, cứ việc xì bã điếu ra nền gạch men, rồi vợ con ông phải quét, phải lau bởi ông đã đẻ ra tất cả cái cơ đồ này. Ông tuy xấu mã, người lùn và to ngang, đó là dáng điệu của gấu. Chân tay ngắn, mặt ngắn, trán cũng ngắn choằn. Cái tài ẩn vào trong, khi cần mới ló ra ngoài. Như đôi tay ông, với những ngón to đầu tù thô tháp, nhưng đấy là đôi tay vàng. Hoa tay là cái thần của tứ chi, mắt mũi trần tục đâu dễ nhìn thấy. Ông chỉ học nghề mộc qua quít, mà đã tay tràng tay đục đi ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ từ thời trai trẻ. Bây giờ ông chỉ ngồi nhà, nhưng quanh năm không hết việc Nào là giường mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Thời này người ta đua nhau sắm đồ đạc như lây lan một cơn sốt. Đói cũng vẫn bóp bụng sắm. Đói mà được ngồi sa-lông gỗ lát cũng vẫn vênh vang. Khách đến làm sao biết được trong bụng chủ nhà chứa những gì. Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời dân! Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng giống ông nhọ đít! Có quyền lo ô, lo ghế; dân chạy lo gỗ sắm đồ! Càng sắm ông Hàm càng trúng mánh. Cứ nhẩn nha túc tắc mà mỗi năm thu ngót tấn thóc, ngon như chén óc chó! Bằng mấy anh theo đuôi trâu ngoài đồng.
Ông Hàm rít lạch sạch một hơi điếu bát, rồi ngửa cổ lim dim nhả khói. Một nửa người ông chìm trong màn mây thuốc. Chỉ thấy mái đầu muối tiêu khẽ gật gù bập bềnh trong khói mờ. Mồi thuốc làm ông Hàm tê mê bần thần cả chân tay đầu óc. Ông ngồi tĩnh tâm. Mắt lơ mơ óc lơ mơ. Làn khói bay lởn vởn bỗng đưa trí não ông Hàm trôi ngược về buổi tối cách đây hơn 30 năm trước khi ông Trịnh Bá Hoành từ giã cõi đời. Lúc ấy chỉ duy nhất người con giai trưởng Trịnh Bá Hàm được đứng bên cạnh giường để nghe bố dặn dò. Bằng một giọng lào phào nhưng rất tỉnh, ông Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải biết bố con Đại - Phúc là người không thể di chung đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta ngóc đầu lên được.
Ông Hoành nói hồi năm 1949 giặc Pháp định mở một cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật gọng kìm, chiến thuật càng cua lên đây. Một cánh quân sẽ từ Sơn Cốt tràn sang, một cánh sẽ từ Đáp cầu đánh lại. Hai gọng kìm, hai càng cua sẽ khép lại, hội quân ở quanh vùng này. Thế là cả làng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Nhưng rồi cuộc càn của giặc không thành. Ông Trịnh Bá Hoành từ vùng núi Phúc Thuận vội vã chạy về, thì đã thấy bố con Đại - Phúc ở nhà rồi. Dạo ấy Phúc là du kích xã phải ở lại đã dành nhưng còn lão Đại. Ai khiến cái mặt lão mà lão đã mò về sớm thế! Thấy cửa nhà mình mất dấu ông Hoành mở ra nhìn đồ đạc còn nguyên, nhưng nói có vía ngài chứng giám, bức tranh Hổ thần của họ nhà Trịnh Bá treo chính giữa bàn thờ không biết thằng giời đánh thánh vật nào đã chọc thủng cả hai mắt, rồi lấy than vạch chéo một dấu thập đen xì giữa đầu ngài. Thế này là nó bôi gio trát trấu vào tổ tiên nhà Trịnh Bá đây! Mà không thể là trẻ con được. Cách chọc, cách vạch than này, nhìn đường nét phũ phàng căm tức lắm. Thì còn ai vào đây nữa. Cái kiểu thù để cho động vào tận thủy tổ gia tộc thế này, hỏi rằng không phải là nó thì còn là ai! Có khi nó còn yểm bùa nữa đây.
Ngay tuần ấy Trịnh Bá Hoành phải đi thửa một bức tranh khác, mà họa lên một tấm vải gai cho chắc chắn. Ông thợ vẽ truyền thần trên phố huyện không lấy tiền, mà đòi đến hai nồi thóc, vị chi là hơn nửa tạ. Có tranh rồi, lại lo sửa lễ. Phải có đủ xôi nếp, thủ lợn, gà trống luộc cả con không chặt và một con cá chép to rán vàng để chờm cả đĩa tây, rồi mời cô thống Biệu đến cúng, xin đủ âm dương ngũ hành và thưa báo cho ngài biết rõ sự tình tại sao phải tái họa lại chân dung ngài, xong đâu đấy rồi mới được treo lên. Thành ra tốn kém không khác gì giặc càn đến nhà! Thì chính nó là giặc, là thù của họ nhà ông chứ còn gì nữa!
- ở đời hòn bấc ném đi, thì hòn chì ném lại - Trịnh Bá Hoành nói như thầm thì, nhưng cặp mắt quăm quắm nhìn Hàm thì sáng lên lạ thường, thứ ánh sáng của ngọn đèn sắp phụt tắt - Có vay phải có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia bảo nhà ta, thầy ân hận là chưa đòi cái món nợ ấy được vì chưa gặp dịp. Đến đời anh, anh phải nhớ! Chuyện thằng Phúc với con Son vợ anh dạo trước, thầy biết cả! Tha thứ cho vợ là phải. Đấng nam nhi có khi còn lấy đĩ về làm vợ để dạy, nhưng không được lấy vợ làm đĩ! Anh chỉ được phép tha riêng vợ anh thôi! Làm thằng đàn ông không được hèn! Chấp vặt là tiểu nhân, nhưng cái gì cũng bỏ qua thì lại là người hèn! Có mấy cách làm thày đã nói kỹ, để ở dưới đáy tráp.
Rồi từ đấy cho tới nửa đêm, ông Trịnh Bá Hoành cứ nằm quay mặt vào tường không nói lời nào nữa. Ông đi, ai cũng bảo là thanh thản. Chỉ riêng Hàm biết bố mình vẫn nuốt một cục uất ức trong người! Tiếng hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay, lời dặn dò của người trước khi chết là lời thiêng, lời độc!
Làm ma bố xong, Hàm vào buồng đóng cửa, mở cái tráp khóa chuông, cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ như cái hòm của ông thợ cạo chỉ có một chìa, và trong nhà chỉ có một người được mở. Dưới những tờ văn tự về đồng điền và thổ cư từ hai đời nay, là một quyển vở giấy giang xếp dưới cùng, loại vở học trò. Với những chữ quốc ngữ rất to trông cứ nghều ngoáo run rẩy như người vờ đánh vần vừa viết. Nhưng cái điều nói qua những nét chữ bấy bớt ấy thì đọc đến đâu, Hàm lạnh toát người đến đấy!
Đọc xong, Hàm ngồi lặng người một lúc lâu rồi lại run run xếp quyển vở dưới đáy tráp, khóa lại, cất vào gốc cái hòm cáng như cất một quả mìn!
Thì bây giờ đến lúc ông dùng quả mìn ấy rồi! Chỉ có cách này mới trị được thằng cha Phúc hay hợm của hợm người. Hàm biết Phúc vẫn nhìn mình bằng con mắt coi thường. Coi thường cả hình dáng lẫn địa vị trong thôn, trong xã. Thì phen này ông sẽ cho cả họ nhà mày ăn bùn ăn bùn! Quyết thế rồi, ngay chập tối ông Hàm đến nhà Thủ. Cũng bốn gian nhà mái bằng như nhà Hàm nhưng trên bờ tường trước cửa, đồng chí bí thư Đảng ủy cho đắp nổi một cây dừa trĩu quả. Trên ngọn chim bay dưới gốc cá lội. Con nào con ấy béo nần như đang chửa. Tất cả đêu tô đậm sơn màu xanh đỏ tím vàng, rực rỡ như cái phông của hiệu ảnh trên phố huyện. Nhà trên ở giữa, nhà ngang nhà bếp hai bên lợp ngói ta, trước cửa là vườn cây ăn quả xung quanh trồng găng làm bờ rào tất cả toát lên ve phồn thực và viên mãn.
Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ phép:
- Bác sang chơi ạ
Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên.
- Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
Ông Hàm xua tay:
- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
Khác với ông Hàm, Thủ là người có mã, cao ráo trắng trẻo. Với bộ quần áo pi-gia-ma kẻ sọc như công chức. Thủ đang tưới cây ngoài vườn, đã bỏ ô- roa đi vào. Thấy Hàm đang giở ngày giở tối thế này, Thủ biết là có việc cần. Mặc dù là bí thư quyền hành cao nhất xã, lại được học hành khá chu đáo từ bé, chứ không bị thiệt thòi như hai ông anh là Hàm và Long. Ông Long bây giờ làm công nhân trên khu gang thép cũng chỉ học hành chữ tác chữ tộ; vì khi Hàm và Long vừa lớn thì gặp ngay cái đận ông Trịnh Bá Hoành bán cả ruộng vườn để lao vào cuộc đen đỏ tranh giành cái chức lý trưởng với Vũ Đình Đại. Thật là một phen liểng xiểng. Vài năm sau gia đình mới hồi lực, có bát ăn bát để thì vừa lúc Thủ tới tuổi cắp sách đến trường. Thế là Thủ cứ đường quang lối rộng mà tiến. Dầu vậy chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả. Người trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Không chỉ là trong gia đình ngay công việc của Thủ, Hàm cũng giữ vai trò cố vấn đặc biệt. Hôm đại hội Đảng bộ, các chi họ hồi hộp đến thắt tim khi đến mục bầu Đảng ủy mới. Rất nhiều không có chức trách gì cũng thập thò lảng vảng đến săn tin. Phải bầu đến vòng ba, tối mịt mới xong. Thủ vừa về đến nhà đã thấy ông Hàm ngồi chờ.
- Chú cao phiếu nhất phải không?
Ông Hàm hỏi thế, tức là chúc mừng đấy, nhưng mặt vẫn lạnh như tiền.
Ông nói tiếp:
- Lại đúng dịp ông Đáng về hưu đợt này, vậy chú phải thay chân ông ấy giữ ngay lấy cái triện đỏ, tức rằng là phải làm bí thư. Chứ còn chủ tịch cũng chỉ là thứ triện xanh! Thằng Tùng nhà Sang cũng trúng hả? Chỉ cho nó chân chạy ngoài, hữu danh vô thực thôi!
Lúc ấy Thủ đang đầy phấn chấn vì đắc cử, đến mức không còn thấy ai là đối kháng với mình, nên lòng dạ bỗng thành dễ dãi. Với lại Thủ vốn thuộc dạng người cải lương, dễ bằng lòng và dễ chấp nhận.
- Thực ra thằng Tùng cũng được chứ không đến nỗi nào đâu. Nó còn chất lính bộc trực thẳng thắn, với công việc thi xốc vác
Ông Hàm nghiêm ngay mặt, kịp thời nhắc nhở Thủ đang nói khôn nói dại những gì:
- Được là được thế nào! Rau nào sâu ấy! Hãy giao cờ vào tay nó xem, gai ngạnh sẽ mọc ra ngay!
Gáo nước lạnh của Hàm đã làm Thủ tỉnh cơn say, và Tùng đã được phê chuẩn làm xã đội trưởng ngày sau đấy, chứ không phải chờ đến tuần sau họp Đảng ủy mới phân công, để mỗi năm cho nó dẫn đám thanh niên ra đôi nằm chổng mông lên mà nheo mắt bóp cò khan vào mấy cái bia giấy!
Hôm nay ông cố vấn sẽ chỉ thị gì đây! Thủ rửa chân tay đàng hoàng rồi mới vào nhà. Hàm hỏi ngay:
- Chú định thế nào về cái việc ấy?
Vừa hạ giọng vào chuyện, Hàm vừa thu hai bàn chân ngắn và to bè lên đi-văng. Thủ tráng ấm pha trà, cũng nói nhỏ để hai anh em vừa đủ nghe:
- Em cũng chưa định. Theo bác nên thế nào?
- Chả nhẽ chịu thua nó à?
Hàm tự rót nước ra chiếc chén hạt mít, hỏi thủng thẳng. Đó là cách nói chuyện riêng với nhau của hai anh em nhà này. Họ thường nói nửa vời, mù mờ rời rạc như vậy. Nếu có ai nghe được cũng chịu chết không hiểu họ nói gì, ám chỉ ai. Nhưng với Thủ thì anh biết ngay cái việc ấy và nó ở đây là chỉ ông Phúc và cái việc kiện cáo của ông ta khiến xã phải chôn lại lão Quềnh. Phúc đã thắng 1 - 0! Cứ đà này Phúc còn dở dói những gì nữa?
- Tôi đã nghĩ ra cách rồi - Hàm chiêu từng ngụm nước nhỏ như nhắp rượu, rồi vẫn với giọng nhát một, ông công bố kế hoạch phản công:
- Lấy độc trị độc, mỡ nó rán nó! Lại dùng ngay cách lão Phúc đã bắt các chú chôn đi chôn lại lão Quềnh - Tức rằng là... đào mộ?
Thủ quay sang sửng sốt. Bởi ở đây dạo đã lâu có hai nhà thù nhau, bên nhà yếu lực không đủ sức đánh lại đã dùng cách khủng khiếp này.
Hàm vẫn thủng thẳng:
- Có gì mà chú đã tái mào lên như thế! Nó muốn cưa đốt đục suốt, thì sẽ được người ta đục thẳng vào cây nóc nhà nó! Đây là dịp tốt để lấy âm trị dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không ngóc lên được! Đào lên, lấy ván, lật sấp bố nó xuống! Còn cỗ ván dổi tôi sẽ đóng một bộ sa-lông thật mốt, rồi tìm cách bán cho chính anh em họ hàng nhà nó!
Thủ đã thấy ớn khắp người, ngập ngừng:
- Nhưng mà...
Hàm biết thóp ngay ông em chỉ được cái võ mồm, quen phòng xa giữ gìn, mà cũng là phòng cho mỗi cái thân hắn thôi! Hàm càng hạ giọng tới mức lào thào:
- Ngày thầy mất, chú với chú Long còn chưa nghĩ được đến đầu đến đũa, nên thầy chỉ dặn riêng tôi...
Rồi ông Hàm trang nghiêm kể với giọng rin rít về bức tranh thờ Hổ thần của nhà ông bị chọc mắt, bị bôi bẩn và những lời chỉ dẫn của ông bố trong quyển vở giấy giang về cách lấy âm trị dương thế nào, rồi để tránh phản hồi trở lại thì trước khi hạ cuốc phải đọc bài tạ thần ra sao. Thủ ngồi cứng người, tay cầm chén nước mà quên cả uống.
- Có hai thời điểm để lấy âm trị dương - Hàm vẫn nói thầm thì - Lúc vừa chôn xong và lúc được ngày cải táng. Nhưng chờ đến cải táng thì lâu quá, với lại nghi thức lúc ấy rườm rà lắm, phải lấy đến bảy đốt xương mang ra sông tạ thần, rồi đóng bè chuối, đưa bảy đốt xương lên đó thả trôi sông. Mất đến cả đêm, dễ lộ. Cho nên thời điểm này là tốt nhất. Làm xong lại đắp điếm như cũ đố biết! Chú khỏi lo. Không ai bắt chú phải mó tay vào. Chỉ cần tôi với thằng ưởng, thằng Ngạc, tí nữa chú nhắn thằng Thó đến tôi là được. Trong việc này phải có một người ở ngoài họ mới đại an. Thì chọn thằng Thó là tốt nhất.
Thủ càng bứt rứt không yên:
- Liệu thằng Thó nó có chịu không? Hôm trước đám ông Quềnh, nghe nói nó đã mửa ra mật xanh mật vàng.
Hàm vẫn cứng như thép:
- Chú cứ nhắn nó đến gặp tôi. Tôi sẽ có cách dọa để nó phải nghe. Cái đêm lão Phúc cầu hồn cho bố, thằng Thó đã lỉnh vào bếp nẫng cả hủ rượu tăm ra đường uống, rồi say bò lê bắt sải ở vườn ổi nhà bà Đồ Ngật. Cái hũ ấy đang ở nhà tôi! Tôi chỉ dọa là lão Phúc nó sắp trả thù là thằng Thó sợ thọt dái lên cổ! Muốn an thân phải có chỗ dựa, thì hỏi còn dựa đâu vững bằng dựa vào ta!
Thủ chỉ còn biết ngồi ngay tán tàn nghe ông anh giảng giải. Ông ấy suốt ngày đục đẽo ở nhà, mà sao chuyện gì cũng biết. Lại đưa được cả cái hũ; tang vật ăn vụng không biết chùi miệng của Thó vào tận nhà mình, thì thật là chịu ông anh ma xó! Thủ cũng muốn trừng phạt Phúc, cũng muốn cho Phúc xiêu điêu liểng xiểng, nhưng người ra tay phải là ai kia chứ không thể là mình. Mình chỉ đóng vai tọa sơn quan hổ đấu mới sướng! Bây giờ ông Hàm xin lĩnh trách nhiệm, thực ra cũng chưa phải là hay, giá là người không dây mơ rễ má gì với mình thì tốt, nhưng kiếm đâu ra. Thôi cũng dược, có gì Thủ cũng đủ lý là người tay trắng! Ông Hàm không cần biết những nghĩ ngợi vân vi trong óc Thủ, ông đứng dậy, coi như việc đã bàn xong, dặn thêm:
- Chú nhắn ngay thằng Thó đến nhà tôi, làm như vẫn nhờ nó đi áp tải gỗ chứ mình lại đằng ấy không tiện. Để tối mai là làm luôn!
Thủ chỉ còn biết nhắc lại như cái máy:
- Ngay tối mai à?
Hàm buông một câu lạnh gáy:
- Cho nó đỡ nặng mùi!

Năm

Nhận được lời nhắn, Thó sắng sẻ đến nhà ông Hàm ngay.
Chắc ông lại nhờ đi áp tải gỗ ghiếc gì đây. Ông Hàm có cậu con trai thứ khỏe mạnh, không biết bằng cách nào mà chưa hết hạn nghĩa vụ đã ra quân, rồi nhảy tót đi lao động nước ngoài, thành thử bây giờ ở nhà còn rặt đàn bà con gái, nên ông vẫn hay nhờ Thó đi áp tải gỗ về đóng đồ. Tiếng là hay ma lem ma cuội, nhưng thực tình Thó chỉ thuổng những miếng chín, chén ngay; chứ làm ăn lớn thì Thó sợ. Với lại được người như ông Hàm tin, trước khi đi bao giờ cũng lót miệng vài choạc cho ấm bụng, khi về lại cùng ông cuộn chân ngồi xếp bằng trên chiếu hoa cơm rượu bí tỉ, thế là Thó khoái. Còn ông Hàm thì thật tinh đời, vì ngoài những miếng ăn ngay, ông không phải trả một đồng công nào.
Thó đi tắt qua khu đầm nước cho nhanh. Đã tối sò sẫm. Xóm làng trở về tịch mịch. Một con bò gọi con, tiếng âm ồ của nó vang trong bóng chiều chạng vạng. Con bê be lên nũng nịu, rồi tế chạy, nện móng lốc cốc ròn rã trên những viên gạch vồ như ném một tràng mưa đá. Bầy liếu điếu giật mình, kêu thé lên trong bụi tre. ở dưới ấy, chân các rặng tre, một dải sương mờ mờ như đùn từ dưới đất lên, bay là là phập phồng như giăng một tấm to xanh biếc. Tiếng cuốc kêu luốc cuốc cu loa trầm đục như thấn ướt hơi sương trong ấy. Khói bếp thở trầm ngâm trên mái rạ. Giờ này là giờ nghỉ ngơi, giờ sum họp. Dù sung sướng hay đau khổ thì giờ này người ta cũng rút về hang ổ cuối cùng của mình là những mái nhà. Dù ít dù nhiều, ngay người giàu nơi thôn dã cũng chỉ ngày cơm hai bữa, và kẻ khó cũng cứ đỏ lửa hai lần. Nơi đây từ bao đời nay cái ăn cái uống gần như chỉ là chuyện phụ. Người ta có thể nhịn ăn nhịn mặc để xây một căn nhà gạch, sắm một cái xe, có khi cả xe máy; mua đài, mua cát- sét rồi mở om tỏi suốt ngày để được,mở mày mở mặt với xóm làng. Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật thà như đếm nhưng cũng lại lắm những kẻ đủ mưu ma chước quỷ, không mấy lúc ngồi yên, và cũng không để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cách bon chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái vảy ốc, chen một chỗ đứng không caữ hơn cái đế dép thường ngày. Cũng có đủ những thì thầm thì thụt, cũng xúi bẩy, kích động, cũng ném đá dấu tay, cũng cười bả lả chạm cốc nhau lanh canh trong những bữa tiệc đồng chí, nhưng trong bụng lại thầm rủa sau bữa rượu này mày sa chân lỡ bước chết dấp đi cho rảnh! Mặt ao làng tím thẫm những hoa bèo giờ đây không còn bình lặng nữa. Những sóng cồn của biển rộng sông dài đã vang động đã lôi kéo khuấy sục lên, khiến những mảnh ao cung đủ gan tùng những cơn sóng bùn tanh tưởi!
Tiếng con cuốc kêu khắc khoải bên bờ đầm. Nó gọi gì? Gọi bạn tình, hay gọi cái chết?
Thó bước cắm cúi cũng như một con cuốc. Thấy nhà trên ông Hàm ìấp lóa ánh đèn, Thó đi thẳng vào.
Nhà ông Hàm đang chuẩn bị ăn cơm tối. Tiếng mâm bát lanh canh dưới nhà bếp. Tiếng hai chị em nhí nhắn. Vợ chồng ông Hàm đang ở nhà trên. Nghe tiếng Đào, cô con gái lớn chào Thó ngoài sân, ông Hàm tập tễnh đi ra niềm nở, đúng là ông đang nóng lòng chờ.
- Vào đây chú. Có việc cần đến chú đây. Nhưng ta hãy làm vài chén cho ấm bụng đã - Rồi ông Hàm quay sang bà vợ dang gấp quần áo trên chiếc giường Đức nâu bóng:
- Bà xuống rang cho tôi đĩa lạc.
Bà Hàm vặn to ngọn đèn ba dây treo giữa nhà, rồi thu vội đống quần áo, con cón đi xuống bếp. Đã ngoài năm mươi đến dăm cái lẻ, nhưng bà vẫn giữ được dáng người gọn gàng cân đối. Tóc vẫn dày, nước da vẫn trắng. Khuôn mặt trái xoan được điểm thêm cặp mắt lá răm và cái miệng tươi, khi cười còn trẻ lắm Dân làng bảo bà là người có số sướng, đã được cái sắc trời phú, lại từ bé đến giờ chưa đến cái đói rách là gì, nên cái duyên càng bền. Bà sẽ đẹp đến già, đẹp đến chết!
Ông Hàm mở tủ buýp-phê, bê ra một cái hũ da lươn đặt giữa bàn. Thó bỗng giật thót người. Chính cái hũ nhà ông Phúc mà Thó đã khoắng đêm hôm trước!
- Chắc chú đã nhận ra cái hũ này - ông Hàm vừa róc rượu ra hai chén vại, vừa khề khà - Nhưng tôi đưa được về đến đây là đã cứu sống chú rồi. Hôm kia lão Phúc có đánh tiếng là đã biết việc làm của chú, lại biết cả cái hũ đang ở đây, nhưng đố dám hoạnh họe với tôi.
Rồi ông Hàm vươn người trên mặt bàn, nhìn sát vào bộ mặt thờ thẫn với cái cằm vốn đã nhọn của Thó, giờ cái đói càng vót cho nhọn hoắt như bút chì, ông Hàm thì thầm nhỏ tới mức Thó phải dỏng tai, nhăn trán lại mà nghe. Vừa lúc bà Hàm xuýt xoa với đùm lạc nóng trong tay đi lênl ông Hàm quay lại, nói phắt sang chuyện khác:
- Mẹ nó đong cho chú Thó vay nồi thóc, dồn vào bao tải để chú vác cho tiện.
Bà Hàm bày lạc ra chiếc đĩa sứ hoa. Bà biết hai người đang có câu chuyện gì hệ trọng lắm, và ông không muốn cho bà biết. Nếp quen nhà này là ông Hàm đã không nói thì không ai được hỏi. Hôm nay đích thị không phải chuyện thóc lúa gỗ lạt gì. Bà Hàm ân cần hỏi Thó:
- Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một tạ?
Thó đang sững cả người. Đang nói chuyện đi quật mộ ông bố Phúc, Thó nghe khiếp quá, vậy mà ngoắc một cái, ông Hàm lại sai vợ đi lấy thóc cho vay. Một nồi chóe, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng ba mươi cân, đến mùa mới trả không lấy lãi, lòng tốt ấy bây giờ đến bói không ra. Thó nhìn khuôn mặt đầy đặn hồng lên dưới ánh đèn của bà Hàm, kể lể ca cẩm:
- Em phải bán non hai tạ cho nhà ông Quàng đấy bá ạ. Giá có mười hai. Mấy nhà có tiền định giá như thế, chứ thóc bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm mươi ngàn một tạ. Lượt chợ nữa mới được gặt, đập xong rồi cho bá lấy thóc tươi luôn chứ không cần chờ khô. Dắng là sợ nhà em ăn quịt.
Bà Hàm khẽ cười, đưa mắt nhanh sang nhìn ông. Thì nhà bà cũng mua lúa non với cái giá ấy! Chẳng ai bắt, nhưng những nhà thiếu ăn đều phải bán mười hai ngàn một tạ lúa chưa gặt ở ngoài đồng. Không biết nhờ ai mối lái, mà ông Hàm còn móc nối được với ông thợ may và ông hàng phở trên phố nhận mua thóc với giá hai mươi. Tiền đã trao cho ông Hàm từ tuần trước, còn thóc thì đến gặt chiêm mới lấy.
Vậy là mỗi tạ ông Hàm ngồi không đã được lãi tám ngàn. Về mặt tính toán sít sao ở nhà này thì bà còn phải chịu ông. Nên cái việc cho Thó vay nồi thóc không lấy lãi, bà biết chắc là ông không hớ. Thả con săn sắt bắt con cá rô, ông không được lãi thóc thì cũng phải lãi cái khác.
Bà Hàm bảo Thó:
- Người ta đòi thóc tươi, tức là muốn nắm đằng chuôi đấy chú ạ.
Ông Hàm chép miệng:
- Thôi được, chú cứ trả cho sòng phẳng, rồi có thiếu lại sang đây - Đoạn ông quay sang vợ - Mấy mẹ con cứ ăn cơm trước đi, rồi rán thêm mấy quả trứng để tôi với chú ăn sau.
Bà Hàm vừa đi xuống, ông Hàm lại thì thào:
- Phải từ mười giờ đêm trở đi, lúc ấy thì tất cả đã ngủ kỹ rồi. Tôi, chú, thằng ưởng, thằng Ngạo, thế là đủ. Rồi bốn người vác bốn tấm ván về đây, thế là xong! Chú không lo, đào tới rồi tôi sẽ vẩy cả hũ rượu này xuống đó để tẩy mùi. Làm xong lại rửa tay bằng rượu, tha hồ sạch!
Thó cũng vươn cổ trên mặt bàn, như mổ cái mũi nhọn vào mặt ông Hàm. Đã có mấy chén rượu cất nước đầu trợ sức, vậy mà giọng Thó vẫn run:
- Bác dã gọi thì em cũng xin hết lòng, nhưng vía em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì...
Ông Hàm xua tay:
- Rồi thì ma nó vật chú chứ gì? Đừng lo, đã có tôi. Tôi có bài khấn để yểm rồi. Với lại đây là chuyện dòng họ nhà tôi với dòng họ nhà Phúc, chứ chú không có dính gì. Còn dòng họ nhà tôi thì chú biết rồi chứ? Tôi treo bục tranh kia không phải là treo làm cảnh, mà đấy là tranh thờ. Chính Ngài đã giữ phần âm cho chúng tôi, hùng mạnh và an toàn lắm.
Vừa nói, ông Hàm vừa trỏ lên bàn thờ. Trên ấy đằng sau cái lư hương đồng là bức truyền thần họa một ông ba mươi trên tấm vải dệt bằng những sợi gai ở tư thế chồm lên. Những răng lợi móng vuốt giương ra trông đằng đằng lẫm liệt. Nghe nói đời kỵ nhà ông Hàm, tức là ông cụ tổ đã cách đây bốn đời của dòng họ Trịnh Bá đã giáp mặt một đấng trượng phu hồ vằn chân thọt trong tư thế phanh thân xé xác ấy! Phúc ân chi sớ họa, trong họa có phúc. Có thể tin được chăng? ông ba mươi kia chính là thần sát sinh, rồi sau lại trở thành thần phù trợ, thần cứu thế của dòng họ Trịnh Bá. Chuyện rằng:
Đời kỵ nhà ông Hàm đến sinh cơ lập nghiệp ở đây nghèo lắm. Cả nhà sống dựa vào cái tài kiếm cá của ông. Thuở ấy đồi ông Bụt còn là khu rừng già đầy bí hiểm. Chưa nói chuyện ma hiện hình, người thấy người không, riêng thú dữ thời ấy thì ai cũng gặp. Hổ báo, hươu nai, vượn trắng ngồi bế con trên cành trông khéo như người. Trăn gió quăng mình từ cây nọ sang cây kia ầm ầm như một cơn lốc.
Trong sách Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi khi nói về huyện này có câu: Huyện... có trăn, chim trĩ và vượn trắng. Có phải cụ Nguyễn đã viết chính về sản vật ở núi ông Bụt này? Ban đêm tiếng hươu tác rầm rì, hổ đuổi, hươu lao cả vào nhà người đang ở là chuyện thường. Con suối cạn dưới chân đồi ông Bụt bây giờ, thuở ấy rộng như một nhánh sông, quanh năm đầy nước, tôm cá đánh dễ như ao nhà. Ông kỵ của chi họ Trịnh Bá lúc ấy sống nhờ vào con suối này. Chỉ với cái đó đón ở hồ nước xiết, vậy mà sáng nào là vợ cũng có cá bán. Thế rồi liền trong mấy hôm, đó của ông bị xé rách, cá mất. ông đoán với cách ăn trộm vụng kiểu này chỉ là một chú rái cá hay một con vòi gà nào đó chứ không phải người. Vì suối toàn là đá nên con thú ăn vụng không để lại một dấu chân. Một hôm ông đi thăm đó sớm hơn thường lệ để rình, thì lạy trời! Kẻ ăn trộm cá của ông là một bác hổ vằn không biết đi đứng hấp hoảng thế nào bị đá kẹp một bên chân hậu, chặt tới mức khỏe như hổ mà mà cứ chịu đứng ngay đơ, không tài nào rút chân lên được. Trước mặt ông mãnh là cái đó đã cào rách, nhưng hình như đau quá, nên cá vẫn quẫy phanh phách trong đó mà hổ ta bỏ mặc, không ăn. Thấy người ehủ của đó cá, hổ ta nhìn bằng con mắt cầu cứu và hối hận vô cùng. ông kỵ của chi họ Trịnh Bá liền chắp hai tay trước ngực, nói như khấn:
- Lạy thần núi Bụt, lạy chúa sơn lâm, tôi xin cứu ông được tai qua nạn khỏi, chỉ mong từ giờ trở đi ông đừng lấy cá của tôi, cả vợ chồng con cái tôi sống nhờ vào cái đó này.
Rồi ông lấy đòn bẩy đá. Hồ bị giập một bên chân, tập tễnh nhảy lên núi Bụt. Từ đấy ông không bị mất cá, mà còn được thêm phần. Hôm thì một con cá quả bằng bụng chân chửa, hôm thì một con cầy hương còn tươi rói để ngay trên bờ, cạnh đó cá. Hổ đền ơn đấy. Thế rồi một đêm mưa gió, sấm chớp ầm ầm, ông sợ đó bị trôi, liên đội nón, khoác áo tơi ra đi. Chính bộ tơi nón lòe xòe ấy đã dẫn đến sự nhầm lẫn chết người. Giữa lúc ông đang lúi húi bốc đá chắn cơn đập để dòng nước chạy thẳng vào đó, thì hổ vằn cầm một con cheo cheo đến tạ ơn như thường nhật. Thấy có người, hổ dừng lại. Nhìn bộ tơi áo tùm hụp với dáng điệu lom khom lục sục đầy vẻ vụng trộm; tin chắc đấy là một kẻ gian đang ăn hớt tay trên. Thế là để bảo vệ nguồn sống cho người đã cứu mình, không một hai suy tính, ngay tắp lự, hố vằn nhảy chồm lên cái bóng tơi nón ấy! Đến khi lật cái xác tơi tả, nhìn mặt, ông ba mươi bỗng lăn lộn, đập đầu vào đá, rống lên gào thét về sự nhầm lẫn không sao cứu vãn được của mình. Thế rồi hổ cõng xác con người xấu số đến một gốc cây gạo, dùng móng vuốt cào đất thành hố, đặt xác ông đơm cá xuống đó. Sáng hôm sau mối đùn lên thành một nấm mộ, vuông vức như đắp. Dạo ấy có một người thợ săn được chứng kiến, liền ba ngày sau đó, cứ đến nửa đêm hổ thọt lại cầm một con cá đến trước mộ, rồi đập đuôi bình bịch xuống đất, dựng đứng người đi bằng hai chân sau đến phía đầu mộ, miệng tru lên thống thiết về lỗi ìâm của mình. Gào thét đến xé họng một hồi, rồi hổ ta cúi đầu tập tễnh bước đi rũ rượi đến chán ngán cả chính mình. Ngồi bên này, người thợ săn tắt đèn ló, buông khẩu súng hai nòng, rồi bỏ con mồi như bỏ cục vàng đã nắm trong tầm tay. ông cũng thừ người ra trước nỗi lòng của anh thú dữ tưởng chỉ biết có cắn xé! Chi họ Trịnh Bá làm lăn phất lên như diều từ đấy.
Theo lời thầy tướng, đó là sự đền bù, sự phù trừ của Hổ thần. Chi họ Trình Bá thờ loài thú dữ nhất nhì của sơn lâm từ đấy.
Đến đời bố ông Hàm đã làm được nhà gỗ, mua được ruộng thượng đẳng điền. Trong chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nái. Thế rồi tất cả lại gần như về số không khi có cuộc tranh đua ném tiền ra mua cái chức lý trưởng. Đâm lao theo lao, lợn sề trâu nái, ruộng sâu giữa đồng cứ lần lượt chống gậy ra đi, mà cái chức lý trưởng lại về tay Vũ Đình Đại. Lúc ấy ông Hàm chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ đi cầm tràng đục kiếm ăn. Nhà chỉ còn cái vỏ. Bố ông Hàm - Trịnh Bá Hoành lại cày sâu cuốc bẫm để dựng lại cơ đồ. Miếng ăn giữa làng hơn sàng xó bếp. Những lúc rượu vào, ông trừng trừng cặp mắt vằn những tia đỏ, miệng lẩm bẩm: Ta không có vòng bạc, xà tích, không đủ bạc trắng để chạy nên thua. Rồi ông rít lên, nhưng tao chưa chịu đâu? Chưa chịu đâu!
Cũng may thời thế chuyển vần. Lý trưởng Vũ Đình Đại chưa kịp ăn lộc thì cách mạng đã đến. Gió nổi can qua, Vũ Đình Đại bán vội con ngựa vừa mua, mới nhoong nhoong được dăm lần lên phủ, chưa kịp ngấm cái sướng của anh đầu gà hơn đít voi, thì đã bán ngựa tậu trâu để trở lại làm anh dân thường. Trịnh Bá Hoành mổ chó ăn mừng!
Ngày ấy Hàm chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm hết được cái cay, cái uất của cha, nên cũng không để tâm đến sự tranh giành giữa hai họ. Nhưng vài năm sau đến tuổi lấy vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà còn sôi sục hơn! ấy là chuyện về cô Son, vợ Hàm.
Hồi ấy cô Son đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người ghẹo một bước.
Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt lá răm vừa đen vừa sắc của cô. Thế rồi bỗng dưng cả làng Giếng Chùa đồn ầm lên là Son phải lòng cậu giáo Phúc, con ông lý Đại (người ta vẫn quen mồm gọi Đại như thế). Phúc lúc ấy đã học hết sơ học yếu lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường tư thục trên phố huyện. Phúc đã một vợ một con, nhưng vẫn phong tình lắm. Vợ Phúc răng đen hạt na, tóc vấn trần, người vừa gầy vừa khô. Khô chân gân nhặt, đắt tiền cũng mua! Nhưng đây là bố mẹ Phúc mua, chứ Phúc không thích. Được cái chị làm ăn giỏi và chịu nhịn. Từ nhỏ vợ Phúc đã được bố đẻ răn dạy phận nhi nữ là Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Nên chị nghĩ đàn bà như dây leo dây cuốn. Nhỏ ở nhà nghe bố, lớn lấy chồng nghe chồng theo chồng, chồng chết theo con. Ai thế nào số trời đã định. Vì thế nghe người ta đồn chồng chị mua khăn mùi xoa, mua lược sửng có cán, mua gương có hình cô đầm để tặng Son. Chị ức, nhưng sợ chồng nên lại cười bảo, trò đời đàn ông như cái nơm, chòm chóp úp cầu may cũng như thả những lời trăng hoa ỡm ờ, nhưng đâu phải cứ úp là được cá, đâu phải cứ ghẹo là gái theo!
Rồi người ta lại kháo nhau là ở bờ tường ngoài điếm canh có cái bài ca dao ca thớt thế này:
Chiều tà dao ná bờ sông
Thấy cái nón trắng thà không thấy người
Ngỡ là có đám chết trôi
Hóa ra trong bụi một đôi tinh tình!
Tính tình là tính tình tinh
Chị Son anh Phúc tính tình bên sông!
Người làm vè còn chỉ rõ nơi tính tình của ổ con chuồn chuồn là ở chỗ quẹo suối ông Bụt chảy qua sông Cầu. Không biết ban đêm vợ Phúc có cào cấu làm tình làm tội Phúc không, chứ bề ngoài chị chỉ buông một câu: Rõ đồ quạ mổ! Không nhịn được nữa hay sao mà đâm đầu đi theo người đã có vợ, cho nó chết!

Nhưng cô Son không chết! Son vẫn lấy chồng có thách có treo phân miệng tử tế. Hôm cưới cả làng Giếng Chùa được ăn cỗ nhờn môi. Son lấy anh Hàm, người không được hào hoa phong nhã như cậu giáo Phúc. Hàm lại đi tập tễnh, nhưng nhiều hoa tay, làm cái gì cũng khéo. Hàm đã mê Son từ lâu Son gặp nhiều khi Hàm đón đường chỉ để hỏi một câu giở trăng giở đèn vì hai con mắt cứ nhìn Son đờ đẫn như người say thuốc thì Son biết, nhưng cô dửng dưng tảng lờ.
Son còn không biết là Hàm đã lén ra tận bờ sông, chỗ vai cày của suối ông Bụt tiếp giáp với sông Cầu như bài ca dao đã chỉ dẫn, để xem binh tình hư thực thế nào. Thì Hàm thấy một đệm lá ở dưới gốc cây bạc thau rùm ròa như một cái ô che cho hai kẻ đi ăn vụng. Hàm đã ngồi xuống đấy ức đến phát khóc. Nhưng Hàm vẫn không bỏ ý định lấy Son làm vợ. Nghe dân làng đàm tiếu về con gái mình, bố mẹ Son vừa mắng mỏ chì chiết, vừa canh chừng riết róng, cứ phấp phỏng như giấu trong nhà một thùng thuốc súng. Nhằm trúng thời cơ ấy, Hàm giục gia đình đến hỏi Son, và cuộc gả bán được ngã ngũ thật chóng vánh.
Ngày cưới, cỗ bàn bày dàn dạt từ trong nhà ra tít ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp khác, rào rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn rỗi. Trước giờ thành nhân của đôi trẻ, ông Trịnh Bá Hoành khăn áo chỉnh tề, thắp ba nén hương trước bàn thờ. Ông đứng trước. Vợ chồng Hàm đứng sau. Ông sịt soạt khấn lầm rầm. Đó là lễ giới thiệu đôi vợ chồng trẻ với gia tiên, giới thiệu một người khác họ về nhập tịch làm dâu con chi họ Trình Bá. Vợ chồng Hàm quỳ lạy rồi lui. Một bà bác cao tuổi nhất họ đã chờ sẵn. Bà là người được tiếng mát vía về đường con cái, từng sòn sòn ba năm đôi. Bà eắp chiếc chiếu mới xuống gian buồng dưới nhà ngang. Căn nhà này chỉ để cối xay, cối giã và đồ lề của Hàm, bây giờ dành riêng cho vợ chồng Hàm. Bà phẩy giường, giũ chiếu, rồi trải ra lấy khước, đoạn quay lại dắt tay đôi vợ chồng trẻ ngượng ngập líu rfu bước vào nơi bí ẩn của cõi đời, nơi hứa hẹn những đam mê và cũng lắm lắm cái đau khổ của kiếp người! Mà đau khổ thật! Hàm thấy ngay mình là kẻ chậm chân!
Cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước!
Hàm vặn to đèn con, rồi kéo miếng vải xô lót dưới giường lên, vứt trước mặt Son. Miếng vải còn trắng tinh, không một dấu vết của sự trinh tiết. Và cuộc hỏi cung bắt đầu.
Son cuốn chăn quanh người, ngồi co vào góc giường, nước mắt chảy ngoằn ngoèo trên má, trên cằm, khiến cho khuôn mặt đẹp mang hình một tấm gương vỡ. Cô khóc lặng lẽ, không bật ra tiếng, không nói một lời, như thể người câm. Hàm cứ bặm môi tra hỏi, như thể đối đáp một mình. Nỗi ghen tức thấy mình bị Son coi rẻ vẫn âm ỉ lâu nay, giờ càng bùng lên như lửa bắt dầu. Những tiếng đồn đại, những câu ca tinh quái móc máy về Son và cái kẻ ấy, lại thức dậy sôi réo trong người Hàm. Hàm hỏi dồn dập, tiếng cứ líu lại vì uất hận: Cô nằm với nó mấy lần? Hả, hả? Nằm ở chỗ nào? Hả, hả? Có đúng quãng vai cày ở suối ông Bụt không? Hả, hả? Son vẫn lặng thinh. Hàm nổi cơn lôi đình, giật tung chiếc chăn trên người Son. Cả cái khỏi ngọc ngà như trứng bóc, như đá tạc trắng lóa dưới ánh đèn. Nhưng Hàm chỉ thấy mình bị khinh khi, bị thua thiệt, bị là người đi sau đổ vỏ cho kẻ ăn ốc! Cả cái khối nõn nà ấy đã dâng hiến, đã run rẩy mê cuồng trong vòng tay của kẻ thập thành quen phỗng tay trên! Và anh thợ mộc đã nổi cơn điên, ứng xử theo đúng nghề nghiệp; Hàm rút phất tay thước quất hai cái như trời giáng xuống cặp đùi tròn mịn như bột lọc, và tiếng Hàm rít trong họng phả hơi rượu vào mặt Son: Nhìn đường gân ở bụng dưới của mày là tao đã biết? Ngày mai tao sẽ trả cho bố mẹ mày? Đến nước ấy thì Son chồm dậy. Mái tóc dài đen mun phủ dọc tấm thân tràn. Son gạt nước mắt, giọng khô lạnh rắn
- Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ cho anh suốt đời. Tôi cắn răng là vì thầy u tôi, chứ không bao giờ tôi yêu anh? Còn nếu anh chỉ cần hé răng với ai việc này, tôi sẽ đâm đầu xuống sông tự vẫn. Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết theo!
Hàm buông rời tay thước, đứng như trồng. Rồi bất thần như một kẻ chiếm đoạt man rợ, Hàm nhảy choàng tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại, bỗng chốc biến Hàm thành một tên có máu sa-đích. Đêm động phòng có mùi vị địa ngục ấy đã gần bốn mươi năm nay. Những gì diễn ra đêm ấy chỉ có vợ chồng Hàm và bốn bức tường biết. Sáng hôm sau bà bác mát vía dẫn đầu nhà trai đi lại mặt; người ta chỉ thấy anh Hàm bước tập tễnh vui vẻ như nhún nhảy, còn Son hai má vẫn đỏ au, đôi mắt nhung nhìn rất đằm như e lệ. Son cố đi tự nhiên, cố giấu hai con trạch vẫn lằn đỏ, bỏng rát, vắt cho trên đùi non. Câu chuyện trong đêm hai người chôn chặt vào nơi u tối của lòng mình, như cùng giữ lời nguyền sống để dạ, chết mang đi.
Bây giờ những chuyện xưa lại sống dậy trong ông Hàm. Như lửa vẫn ủ kín trong trấu, im lìm không một sợi khói, cứ tưởng đã tắt, nhưng không! Gió đã thổi cho than ủ bùng lên thành lửa rồi! Ông Hàm thấy đây là thời cơ tốt nhất để ông ra tay theo cách riêng của ông. Chỉ ra tay một lần mà đối phương phải lụi tàn tử gốc đến ngọn!
Đêm.
Bầu trời bùng bìu vá víu trong những đám mây lờm xờm tựa một tấm da thú nham nhở. Hôm nay là ngày cùng tháng kiệt, trăng bỏ trốn, chỉ còn những vì sao yếu ớt bị nuốt trong mây xám. Đêm càng mung lung, vừa bí hiểm, vừa bồi hồi vẫy gọi. Đêm chở che và đêm đồng lõa!
Đào đang chạy trong đêm đến chỗ hẹn.
Với Đào, một cô gái hai mươi tuổi, đang được tiếng là xinh đẹp nhất nhì trong xóm Giếng Chùa này, lại là người mau mắn cả mồm miệng lẫn chân tay; lại là cháu bí thư Đảng ủy, lại là con ông Hàm, người giàu có tiếng, chỉ quanh năm ngồi nhà mà hái ra tiền, nên đi đến đâu Đào cũng được mời chào, được nhận những ánh mắt vuốt ve.
Với Đào, không có sự đe dọa nào, kể cả bóng đêm. Bóng đêm là tấm màn nhung xanh mượt che chở cho Đào. Mà điểm hẹn đâu phải nơi xa lạ bí hiểm gì. Là gốc nhãn rùm ra như một cái dù xanh trên con đường xép nối giữa xóm Giếng Chùa với xóm Mới. Vì là xóm lập sau khi dân cư quá đông, nên mới gọi nôm na như vậy. Trên giấy tờ văn bản, người ta gọi là xóm Đại Thắng, nhưng xem ra dân lại không thích cái tên mĩ miễu ấy Con đường xép chạy giữa cánh đồng nối liền hai làng này mới có từ khi hợp nhất hợp tác xã toàn xã, nghĩa là mới có gần mười năm nay. Những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn trồng đã cao quá đầu người. Ban ngày chỉ có người làm đồng ngồi trú mát khi nắng, chứ trai gái có cho ăn kẹo cũng không dám đứng ở giữa nơi đồng trống tô hô này mà liếc nhau đầu mày cuối mắt! Tình yêu nơi thôn dã vẫn có thói quen thầm lén. Yêu thầm lén, và lấy nhau xong rồi cũng vẫn thầm lén. Sự say mê của những cặp vợ chồng được gói trong những căn buồng tối mò mò, đếm mức dù có mở thao láo mắt ra cũng bằng thừa! Thành thứ bóng đêm bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu.
Bóng đêm đang che chở và khuyến khích Đào. Đào đang chạy gần đến gốc nhãn, chạy đến nơi say mê của lòng mình. Chập tối nay, lúc Đào đang nấu cơm, thì bỗng nghe tiếng Tùng chào ông Hàm rất to ngoài cổng:
- Bác tưới cây ạ? Bác Thủ có đây không ạ?
Ông Hàm vẫn tưới ròe ròe vào mấy gốc táo Thiện phiến, nói nho nhỏ gì đó, trong khi Tùng vẫn oang oang như muốn thông báo cho cả làng biết:
- Vâng, cháu mới đi mua sắn về. Lên Võ Nhai sắn nhỏ và đắt, thế là phải ngược tận Định Hóa, Bạch Thông. Cháu đi tìm bác Thủ để cùng bảo quản trị lên phương án chia cho xã viên.
Đào bỏ cả nồi cơm đang ghế chạy ra sân, và bốn con mắt tinh quái đã loáng bắt vào nhau như điện. Tùng chỉ muốn gào lên: Đào! Anh đã về! Đào đọc được tiếng gọi đó và ánh mắt Đào cũng reo lên trả lời: Thôi biết rồi, đi đi ông nỡm! Lộ hết bây giờ! Tối gặp nhau ở gốc nhãn!.
Thế là bản thông báo quan trọng của hai người đã xong. Cái cớ đi tìm bí thư Đảng ủy của Tùng đã đạt kết quả mĩ mãn, và vẫn kín mít, đến mức tinh khôn như ông Hàm mà cũng chịu cứng. Thế mới biết tình yêu mà đã thông đồng thì chúng có trăm phương nghìn kế, trời cũng bó tay! Mặc cho ông Hàm lử khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá sắn, giá ngô trên mạn ngược thế nào, rồi chào ông Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về nhà.
Đào nấu cơm mà hồn vía như bay đi đâu mất. Tay đang cầm đũa cả, mà mắt cứ nhớn nhác đi tìm đũa ghế cơm. Đáng nhẽ tra mì chính vào canh, thì lại cứ tống mãi muối trắng vào! ấy là óc Đào đang nghĩ làm cách nào để tý nứa đi vắng có lý do. Không họp hành mà đi nửa đêm mới về là không xong với cụ via! Và nếu cụ biết lại đi với Tùng thì Đào đến gọt đâu bôi vôi! Không biết hai họ nhà này có điều gì mà cú nhau đến thế! Đào không biết những chuyện sâu xa, cô chỉ nghĩ là Tùng trêu tức vào ông via cái hôm Tùng mới ở bộ đội về. Ngày ấy cách đây đã hơn một năm, Tùng hết hạn nghĩa vụ trở về. Sau mươi hôm thu xếp việc nhà, anh đi tìm Thủ để nộp giấy sinh hoạt Đảng. Lúe ấy Thủ đang ở bên nhà ông Hàm.
- Đồng chí nhận một công tác gì để xây dựng quê hương chứ? - Thủ xem xong giấy giới thiệu, ngửng lên hỏi Tùng.
Vừa lúc ấy Đào ở trên phố huyện về. Quần bò, áo phông, lại thêm dáng người ong óng giống mẹ, trông cô tươi bưởi như vừa ở đám hội bước ra. Vốn là học sinh trung cấp nông nghiệp của tỉnh, xã định đào tạo để rồi về làm kỹ thuật viên cho hợp tác. Nhưng mới học được một năm thì trường giải thể vì khó khăn về cơ sở vật chất, đông thời bây giờ người ta không mở hệ trung cấp nữa. Về nhà, nhưng Đào vẫn có tác phong của một nữ sinh. Nghe tiếng chào, Tùng quay khẽ gật, và rõ ràng anh bị sửng sốt về vẻ đẹp khoẻ mạnh, mới mẻ của cô gái, nhưng Tùng vội quay lại phía Thủ, nói rành rọt:
- Báo cáo đồng chí bí thư, cho tôi nghỉ dăm sáu tháng nữa để tôi kiến thiết nhà cửa.
Lúc ấy Thủ mới là phó bí thư thường trực, nhưng ông Đáng hen suyễn đã gần như giao hết quyền cho Thủ, chắc Tùng đã quen biết, nên cứ một hai gọi Thủ là bí thư. Hắn tôn trọng thật, hay hắn móc máy đây?
- Mới có vài năm, mà xóm làng đã ngói hóa đỏ cả - Tùng tiếp lời: Nhưng mà tôi thì vẫn nhà tranh vách đất. An cư mới lạc nghiệp. Không có cái nhà hẳn hoi, mưa gió không yên, mà bà con dân làng cũng khinh cho!
Lúc ấy ông Hàm mới quay sang bắt chuyện, nhưng mặt vẫn lạnh khô:
- Nghe nói anh đang đốt gạch, anh định làm mái bằng hay mái chảy?
- Dạ trước mắt cháu làm nhà bếp và nhà ngang mái chảy, còn nhà trên hãy thư thư rồi cũng phải cố theo gương các bác! Rồi Tùng hỏi ông Hàm về công xá của phần mộc. Cũng nói vanh vách những thượng thu hạ thách, những kèo kìm chống chéo để bớt được trụ ra sao. Và anh đã mặc cả công thợ nếu khoán trắng thì thế này, nếu chủ nhà phải chi một bữa ăn trưa trong một thời gian thợ làm thì sẽ còn lại là...
Ông Hàm gật gù:
- Nghe anh nói tôi thấy anh cũng thạo việc đấy. Thế mấy năm ở bộ đội anh làm gì?
- Dạ, cháu ở bộ binh. Nhưng đến hơn năm nay đơn vị cháu đi làm kinh tế. Cháu có thẻ ra quân từ năm kia, nhưng cháu xin được ở lại để chuyển Đảng chính thức cho xong, kẻo về địa phương lại rắc rối! Với lại ở đấy học thêm được mấy nghề để về có vốn liếng sinh sống.
- Sao đồng chí lại nghĩ chưa chuyển Đảng chính thức thì về địa phương sẽ rắc rối? - Thủ hỏi đã có ý bực.
Nhưng Tùng vẫn cười cười. Cái cười của hắn như chọc vào người nghe! Với hai anh em ông Hàm, Tùng có cách xưng hô rất phân biệt. Với ông Hàm thì bác, cháu. Còn với Thủ thì cứ đồng chí và tôi. Đào dọn dẹp quét sân bên ngoài, cứ tủm cười. Nghe nói lão này mới ngót ba mươi tuổi, nhưng nói năng cứ như ông cụ non! Ngày ở nhà lão đã học hết phố thông, làm thư ký đội, làm bí thư chi đoàn, năng nổ và hoạt bát. Nhưng ngày ấy Đào còn nhỏ và lại ở khác tổ sản xuất, nên chỉ biết chứ không quen. Nghe người ta nói từ hôm về đến nay, lão đào đất, đóng gạch huỳnh huỵch cả ngày cả đêm. Định làm giàu thành ông địa chủ chắc!
Trong nhà Tùng vẫn vui vẻ trả lời Thủ với giọng rành rẽ:
- Báo cáo đồng chí bí thư, tôi tự thấy tôi rất hiểu địa phương ta. Dạo ở nhà tôi đã được thử thách đến vài ba năm. Kể cả ông cậu của tôi cũng bảo tôi chưa thể là Đảng viên được vì người ta ít nhìn vào hiệu suất công việc. Từ ngày tôi đi đến giờ gần năm năm, mà cả Đảng bộ chỉ kết nạp được hai đảng viên mới.
Ông Hàm như bỏ ngoài tai chuyện công tác, vẫn hỏi theo chủ đề của ông:
- Thế anh học được những nghề gì?
- Dạ, đóng gạch và đốt gạch thì cháu đã thạo. Nghề mộc mới sơ sơ. Ban đêm cháu đi học võ!
- Lại học cả võ nữa?
- Dạ, đơn vị cháu có mấy anh rất giỏi ka-ra-te.
- Anh khá đấy! - Ông Hàm gật gù, mặt vẫn tỉnh khô, không biết ông khen thật hay khen đùa.
Lát sau Tùng về, bấy giờ ông Hàm mới xổ ra:
- Mới nứt mắt đã cốc láo? Không còn coi ai ra gì! Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây!
Ró thật ghét của nào trời trao của ấy! Ông Hàm không thể nào ngờ được con gái rượu của ông lại đi đầm đầu yêu tháng cốc láo, cái tháng sẽ làm loạn ấy! Với Đào, chỉ sau mấy buổi đi họp ở xã đoàn, vì xã yêu cầu những Đảng viên trẻ vẫn tiếp tục cùng sinh hoạt đoàn, và đi tập dân quân, thì cô chỉ thấy Tùng rặt những ưu điểm! Cả gương mặt vuông chữ điền với nước da bánh mật của Tùng, Đào cũng thấy quanh đây chẳng anh nào ăn đứt? Nếu có cần sửa chăng là sửa cái mồm. Cứ gáy lên để làm ngứa gan các ông khốt thì ăn bàn ăn giải gì? Đào đã cắn vào miệng Tùng, beo vào tai Tùng mà bảo sớm chừa cái tính ta đây ấy đi. Còn anh chàng cũng có tý máu khoe khoang, khi ngồi bên Đào thì chỉ là một chú cừu, cứ rúc mặt vào nách Đào mà nỉ non những lời sám hối!
Và bây giờ hai người đã quen hơi bén tiếng nhau có đến dăm tháng, nhưng vẫn phải hoạt động trong vòng bí mật, chưa thể công khai được! Đào đang nghĩ cách, thì vừa lúc cái Hoa đi học về: Đào bảo nó như dỗ dành:
- Chị nấu cơm sắp chín rồi, Hoa sang chị Minh bảo lúc nữa chị ấy ăn cơm xong, sang đây chị nhắn cái này nhá. Đi đi, rồi gọi u ở ngoài bãi chè về ăn cơm.
Buồi tối Minh sang, rúc rích một lúc, khi chiếc đông hồ Ô-đô gõ bình boong chín tiếng, thì lòng Đào nóng như lửa đốt. Việc này thì chưa thể nói với cái con ruột ngựa này. Mãi đến chín rưỡi Minh mới về. Đào dặn nhỏ bà Son: U cứ để cồng, tý nữa về con đóng. Rồi hai cô dắt nhau đi, làm như cùng chung một đường. Ra tới cổng, Đào bảo bạn: Mày về nhá, tao đến nhà chú Thủ có tý việc.
Rồi Đào đi. Rồi Đào chạy. Một tay giữ vạt áo một tay giữ ngực, động tác của người con gái có ý, dù đêm khuya không một bóng người. Con đường dẫn ra đồng Tròn, nơi có gốc nhãn hẹn hò mấp mô sống trâu. Lại tối, Đào cứ như chạy trong mơ. Lúa hai bên ruộng ngả sang tê đường, quét rào rào vào ống quần. Châu chấu phóng càng bay tanh tách, đạp cả những bộ chân ráp như chấu vào má, vào cổ Đào. Đào vẫn chạy dần, ngực đập thình thịch. Cây nhãn đã hiện ra, mờ mờ rùm ra như một người đứng xõa tóc trong đêm. Tới gần, Đào dừng bước, cứ tưởng Tùng từ gốc cây sẽ lao bổ ra ôm chầm lấy Đào như mọi khi. Nhưng đến tận nơi mà không thấy gì. Chỉ có gốc nhãn đứng chơ vơ một mình. Sao thế này? Hay là Tùng ra chờ lâu quá đã về rồi? Hay Tùng bận phải trông xe sắn nên không đến? Không, chưa bao giờ Tùng lỡ hẹn cả. Có hôm mưa Tùng còn khoác áo mưa thì không có gì quan trọng bằng gặp Đào. Mà lần này đã năm ngày không gặp nhau rồi còn gì. Đào ngồi xuống cái rể cây đội gồ lên, thở. Bực, Đào đã thấy bực. Để người ta chạy hộc tốc, rồi bây giờ đứng ôm gốc cây một mình như con dở thế này đây! Phen này thì phải cắt cầu vài ngày nữa mới được! Cho chết?
Bỗng có tiếng cú rúc đâu rất gần. Đào rùng mình nghiêng ngó, thì ngay trên ngọn cây, tiếng Cú! Cú! lại vang lên lẫn tiếng người cười! Đào vừa kêu ớ định vùng chạy, thì con cú đã từ trên cành nhảy đánh rào như ném mình xuống, và bằng động tác của con đại bàng cắp nàng công chúa trong truyện cổ, Đào bị hai cánh tay rắn chắc ôm trùm lấy, nhấc bổng lên, quay tròn một vòng. Đào nhận ra tiếng cười, mùi mồ hôi và những cái xoắn từ những ngón tay của người con trai như muốn lặn vào da thịt mình. Bởi những động tác ấy đã quen thuộc với Đào lắm. Bởi hai người đã qua giai đoạn thả lời ướm ý. Đào ngã lịm vào ngực người yêu. Vòng tay lên ôm lấy cổ Tùng, miệng cắn vào bả vai Tùng, giọng rên lên sung sướng đến nức nở:
- Chết đi! Làm người ta cứ tưởng mình bỏ về rồi!
Tùng áp miệng vào tai Đào gọi liến láu như một gã điên:
- Đào ơi em Đào ơi, chị Đào ơi, bà Đào ơi, cụ Đào ơi! Có nhớ anh không?
Vừa liến láu, Tùng vừa xoay người lại, nâng mặt cô lên, nhìn sát vào khuôn mặt hình bầu dục với hai má tròn đầy, cặp mắt mở lim dim. Đào nằm cuộn trong lòng Tùng, hai tay vẫn ôm chặt lấy cổ. Tùng cà cà cái cằm ram ráp những chân râu lên khắp khuôn mặt Đào, rồi cà xuống cổ, cà xuống bộ ngực đã mở cúc căng đầy mịn màng khiến Đào rùng mình rướn cong người lên, miệng càng rên se sẽ, đầu óc loạn xạ, không còn biết nên chống đỡ hay nên buông thả. Tùng thì hoàn toàn mê mẩn, lòng chỉ còn sôi réo đòi hỏi. Bàn tay khao khát lần tìm những nơi sâu kín trên cơ thể chắc mẩy, nuột nà, rừng rực sức trẻ của người yêu. Bỗng Đào kêu giật giọng. Không hiểu sao những lúc này người tỉnh táo, cảnh giác được xung quanh bao giờ cũng là nữ giới, là đàn bà chứ không phải là đàn ông. Đàn ông lúc này chỉ còn biết có chết!
- Có người! - Đào kêu hốt hoảng.
Tùng vẫn còn chưa tỉnh cơn mê. Cả mũi, cả miệng vẫn đang thở hít hà cái mùi ngầy ngậy hôi hổi của da thịt con gái, thì Đào kéo cổ áo, gỡ Tùng ra, ngồi vùng dậy cuống quít:
- Họ đi lại đây! Tùng ngẩng lên. Đúng là lờ mờ có mấy bóng người đang từ trên đường chính đi xuống, và họ sẽ đi qua đây thật!
- Chạy, anh!
- Không, lên cây!
Khi mấy bóng người vừa đi khuất xuống hủm, thì Tùng đã đu người chạc lên cây nhãn, rồi kéo tay Đào lên. Nhưng Đào lóng ngóng như đã sắp khóc.
- Em không trèo được!
Tùng nhảy xuống, đội Đào ngồi lên cổ. Đào vừa bíu được vào cành nhãn, Tùng đã đu người lên, rồi kéo Đào ngã ngồi xuống mấy chạc cây xòe ngang như một cái sàn. Tùng gỡ lá gài cho kín phía dưới, rồi một tay bíu cành, một tay ôm chặt ngang người Đào nóng rừng rực và trẹo trọ như muốn ngã. Mấy bóng người đã hiện ra ở đầu ruộng. Một, hai, ba, bốn.
Tùng bỗng rùng mình, rồi thì thào rất sẽ:
- ồ, thầy!
Đào nhắm mắt, rúc mặt vào ngực Tùng, người run lẩy bẩy, tiếng cũng run lấy bẩy:
- Thầy em?
Tùng bịt miệng Đào. Cả hai cùng run như dẽ. Trống ngực người này đập, người kia nghe rõ, cứ thình thịch như đập đất bên tai!
Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác cuốc. Rồi ưởng, rồi Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc bá bất trị của Đào. Một tay của ưởng xách cái gì như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng là ông Thó, sao ông Thó lại như con gà lạc đàn vào đây? Trên vai, trên tay người nào cũng cuốc và xẻng. Tất cả cùng lặng phắc, cắm cúi đi rất nhanh. Rồi họ đi sát vào gốc nhãn. Mùi người, mùi mồ hôi thoang thoảng tỏa lên. Trên cây, tim hai người đến ngừng đập. Khi những bước chân lạt sạt nghe đã đuối mờ, Tùng và Đào cùng se sẽ thở hắt ra một hơi dài.
Đào hỏi giọng giống như người ốm:
- Có những ai hả anh? Họ đi đâu?
Tùng nhảy xuống, nghểnh eổ nhìn theo hút mấy bóng người. Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất sau những bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi đâu? Trên ấy không còn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma của làng ở đấy! Ông Phúc vừa chôn cụ Cố ở đấy! Đó là ông ngoại của Tùng. Một tia lạnh bỗng chạy dọe người Tùng. Chả nhẽ lại là... Tùng rùng mình, không dám nghĩ nữa.
Đào bíu vào cổ Tùng đu xuống, rồi theo lệ Tùng đưa Đào về. Hai người lại ôm nhau đi tắt qua những bờ ruộng mấp mô. Cả hai cùng yên lặng, không vừa đi vừa cấu chí cười rúc rích như mọi khi. Đào nói thầm thì:
- Thảo nào lúc nãy ra ngõ em gặp ông Thó với anh ưởng, anh Ngạc đến tìm bố em. Anh đoán họ rủ bố em đi đâu?
Tùng sững người, tý nữa thì kêu a. Thế là vô tình Đào đã giao chiếc chìa khóa của sự bí mật cho người yêu. Hỡi Mỵ Châu công chúa! Đây là người con gái thứ bao nhiêu đã vì con tim yêu bồng bột mà đi theo bước sai lầm của Người? Vì yêu nàng đã mở hết những bí mật của vua cha cho người tinh của mình. Người đời vẫn nói yêu là đui, là mù, thật bao giờ cũng đúng vậy thay!
Thế thì đúng rồi, không phải họ rủ, mà chính bố cô rủ họ? Tùng thầm kêu lên như vậy. Bàn tay đang ôm eo Đào bỗng lỏng rời ra. Nhưng Đào không để ý. Đến chỗ rẽ, Tùng chỉ ôm Đào xiết vào ngực chứ không cắn cấu cuồng nhiệt như mọi khi.
- Tám giờ tối mai lại ra đây nhé - Tùng dặn.
Đào đồng ý bằng cách cắn vào ngực Tùng, rồi biến vào rặng tre tối thẫm đang kẽo kẹt trong gió, miệng lại hát se sẽ nữa. Tùng đứng một mình một lúc để ngẫm nghĩ, rồi quay đầu chạy hối hả về xóm Mới. Bà Sang đã ngủ được một giấc đầy, bỗng nghe Tùng mở cứa ken két, rồi gọi giật giọng:
- U ơi! Dậy ngay có việc cần!
Bà Sang nói giọng khê nặc trong chiếc màn nhuộm nâu:
- Việc gì đêm hôm này? Gọi cái Mai, thằng Tú dậy thì sao.
Tùng vừa xập xèo đánh diêm, vừa nói hào hển như sợ ai cướp lời:
- Con đã bảo U dậy có việc. Cái Mai, thằng Tú không thể để cho chúng nó biết được.
Bà Sang vừa dụi mắt bước ra, thì Tùng đến gần bà nói từng tiếng một đầy hệ trọng:
- U đến nhà cậu Phúc nói cậu ấy phải ra ngay đồi Sim, chỗ vừa đặt mộ ông. Ngoài ấy đang có chuyện không lành!
Bà Sang tỉnh ngủ hẳn, bủn rủn cả người, dụi mắt nhìn Tùng như người bị ma ám đồng nhập.
- Chuyện gì? Thế sao mày không đến nói với cậu? Con không đi được. Con đi là hỏng hết việc. U cứ nói với cậu là U nằm ngủ được báo mộng ngoài ấy có chuyện? Bảo cậu phải gọi thêm người, không được đi một mình. Nếu cậu có hỏi thì u bảo con thưa về.
Bà Sang cuống quít tìm cây gậy hèo, lấy đèn pin, rồi bước lập cập đến nhà ông Phúc. Ra đến sân bà còn ngoái lại nhìn Tùng như nhìn một người lạ vừa mang họa đến nhà! Còn lại một mình, Tùng đi đi lại lại, suốt hai gian nhà ngoài, vơ vẩn như một kẻ mộng du, rồi đến nằm vật xuống giường, miệng thầm kêu lên: Thế là lúc chúng ta phải đối đầu với họ rồi!.
Chính lúc này, ở đồi Sim.
Ông Hàm đi trước dừng lại. Ba người bước lạt sạt qua những bụi mua phía sau dừng theo. Sương thấm lạnh vào những ống chân. Ngôi mộ cụ Cố họ Vũ đã ở trước mặt. Chiếc nhà táng đặt trên chốc mộ chỉ còn lại bộ khung tre. Lớp giấy vang tróc ra, rách lùa tủa, gió thổi bay lật phật. Những vòng hoa xếp kín xung quanh hôm trước, nay trẻ trâu đã mang nghịch vung vãi. Ngôi mộ nằm dài im lìm, đen sẫm trong đêm. Trời bận mây, che nốt cả thứ ánh sáng nhợt nhòa của những vì sao yếu ớt. Đêm càng tối. Đêm giấu trong mình những việc làm của người đời mà ban ngày họ không đủ gan làm. Đêm đồng lõa!
Ông Hàm đứng im nhìn ngôi mộ. Nó! Chính nó đây! Đối thủ của ông? Một đối thủ tay không vũ khí, vậy mà ông bỗng khẽ rùng mình. Thó và hai người cháu bất trị của ông Hàm đi nhẹ như nhón gót, sột soạt đến sát bên ông. ưởng vuốt lại mái tóc gần chờm vai, thở phì phì như con trâu dái sắp sửa lao vào cuộc. ưởng và Ngạc từng có nhiều thành tích bất hảo, đã đón đường đánh cả thấy giáo vì không cho chúng lên lớp vì học quá dốt. Đánh nhau ở bãi chiếu bóng, đánh nhau ở giữa chợ. Cũng có nhiều phen bò lê bò càng, bố mẹ phải bán cả lợn nái, và đàn lợn giống để mua mật gấu bóp mới khỏi, nhưng rồi chứng nào tật ấy. ưởng đi lính chưa được một năm, thì bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật.
- Tất cả đứng sau tôi - ông Hàm nói khe khẽ - Chú Thó chuẩn bị sẵn hương với diêm, lúc nào tôi bảo hẵng châm.
- Em cầm sẵn đây rồi - Thó nói run run.
Bốn người đứng hàng dọc theo mộ, cuốc xẻng chống bên người, rất sẵn sàng xông vào trận. Ông Hàm bước lên một bước, ngang đầu mộ, đầu khẽ quay về sau, bảo Thó:
- Chú Thó đốt ba nén hương.
Thó lật đật đánh lửa, châm ba nén hương. Ông Hàm với tay lại cầm, rồi huơ lên một vòng đỏ. Đoạn ông cầm hai tay, đưa thẳng ra phía trước. Chân đứng hơi khuỳnh như lên tấn, miệng sịt soạt hít vào dọn giọng, rồi bắt đầu đọc bài khấn:
Lạy thần Thành hoàng
Lạy ông Tiên chỉ
Lạy ngài Quan âm chốn niết bàn
Lạy bà Bồ tát nơi âm phủ
Nay con xin tâu rằng :
Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay từng thay đen đổi trắng, từng buôn quạ bán diều, buôn rết bán rắn, gây nhiều tai oán với họ Trình nhà con. Chúng chiếm ruộng nương gia sản, chiếm tình chiếm nghĩa, xui khiến họ Trịnh sớm hôm lục đục, lửa ít khói nhiều, bức bối toàn gia! Nay đến lúc gặp ơn đền ơn, gieo oán trả oán, Ô hô hô!
Ông Hàm lại huơ ba nén hương thành một vòng tròn. Những lời vừa đọc đã kích thích ông. Mối thù được khơi lại. Máu bừng sôi. Ông e hèm, rồi cao giọng tuyên án:
- Lạy thần Thành hoàng, giờ con xin được cải mả, lật sấp thi thể chi họ Vũ Đình xuống, để đưa quả báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu:
Ba đời tuyệt tự
Hữu nữ vô nam
Hữu sinh vô dưỡng
Gái thì đẻ ngược
Giai chết không mồ
Đứa ngã xứ Đoài
Đứa vùi xứ Đông
Đứa sống chạy rông
Quanh năng khốn khó
Trồng rau ra cỏ
Cấy lúa ra lau
Trồng trầu hóa tiêu
Gieo cà ra ớt
Long đong lật đật
Hệt đường sinh nhai
Ô hô hô!
Vừa dứt, ông Hàm quay sang tung ba nén hương lên mộ, rồi cầm can róc rượu vào chén vẩy xuống theo. Ông vẩy ba chén liền xuống mộ, rồi dằn giọng hạ lệnh như dao chém đá:
- Đào!
Miệng nói tay làm, Hàm vớ ngay lấy cuốc đẩy chiếc khung nhà táng xuống, giận dữ như đẩy nhào một đối thủ bằng xương bằng thịt. Rồi Hàm bổ nhát cuốc xuống đỉnh mộ như hạ một lời tuyên chiến. ưởng và Ngạc nhảy bổ vào như hai thằng thiên lôi lành nghề, phóng lưỡi xẻng vào bờ thành ngôi mộ, hất đất xuống rào rào, Thó lóng ngóng gạt đất phía sau.
Đêm càng đen kịt. Đen như chính lòng người!
Trong chốc lát phần nổi của ngôi mộ đã bị phá tung. Đã có những hơi thở ậm è vì quá hộc tốc, Hàm vẫn là người đâu tiên cuốc xuống phần âm của ngôi mộ. Hâu như Hàm không biết mệt, cứ lầm lì và quả quyết như một gã phá huyệt chuyên nghề! Trong lòng Hàm vừa căm giận, vừa hả hê. Lão dồn sức vào cán cuốc, hất tung đất lên như hất nỗi u uất bao lâu nay từ chính lòng mình.
Thó đang lúi húi cào đất phía trên bờ huyệt, bỗng kêu giật giọng kinh hoàng:
- Có người!
Ngay lập tức tiếng Vũ Đình Phúc, trưởng chi họ Vũ Đình vang lên phía sau như một tiếng sét:
- Tất cả đứng im! Thằng nào chạy tao bắn!
Rồi để cho lời nói có hiệu lực, Phúc cao giọng ra lệnh cho người em rể, chồng bà Lộc, một cán bộ mới về hưu, chiều nào cũng khoác súng săn đi bắn gà gô, chim gáy:
- Chú Tính lên đạn, thằng nào chạy bắn què!
Cả Hàm, ưởng, Ngạc và Thó cùng đứng cứng người như bốn cái cọc cắm xuống đất. Ông Phúc đi lại, cúi xuống nhìn mộ bố đã bị phá tan. Phúc gầm lên:
- Quân khốn nạn! Quân tán tận lương tâm. Quân...
Thó bỗng vứt cuốc, chạy lại bên Phúc, nức nở:
- Bác Phúc ơi, bác tha cho em! Em không muốn, nhưng bị người ta bắt đi. Bác Phúc ơi, bác hiểu cho em!
Phúc định hét lên, nhưng một sự tính toán đã đến rất nhanh. Phải biết lôi kéo, phải biết phân hóa, phải biết nhằm vào mục tiêu chính. Phúc hắng giọng, dõng dạc:
- Chú Thó, tôi biết chú bị mua chuộc, bị ép buộc. Tôi không chấp chú. Chú đứng sang bên này. Chú sẽ là người làm chứng. Còn ba người nhà này đứng yên, động đậy tao bắn! Rồi Phúc quay sang thằng cháu con bà Tài cao như một cái sào đứng bên cạnh, nói lớn:
- Thằng Quyền về báo động, khua cả làng ra đây! Gọi cả thằng Thủ ra đây! Chú Quỳ sang bãi chè nhà tôi vơ hết guộc lại để đốt. Phải cho cả làng Giếng Chùa thấy việc làm của chúng nó! Phen này cả làng sẽ thấy chúng nó quỳ lạy dưới chân tao! Thằng Thủ cũng phải quỳ lạy dưới chần tao! Quảng, đốt lửa lên!
Tiếng chân chạy rầm ráp, rào rào. Khi ngọn lửa bùng vào đống guộc khô; gặp gió, lửa reo ù ù phần phật, sáng hửng cả vùng đồi, quét dạt những dải sương bay vật vờ, thì Hàm hực lên một tiếng, nhảy bổ vào Phúc!

Sáu

Tối nay bí thư Đảng uỷ Trình Bá Thủ có cuộc đánh chén ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.
Nhà Sửu ở xóm Trại, khuất lảnh ngoài vùng đồi. Đây là xóm của bà con dưới Nam Định, Thái Bình lên khai hoang từ những năm sáu mươi. Mặc dù cũng ăn nên làm ra, con cái đi bộ đội, đi thoát ly, nhiều người trở thành cán bộ đảng viên rất chững chạc, nhưng trong thâm tâm của mọi người, xóm trại vẫn là xóm của dân ngụ cư, dù thế nào cũng không thể là cái xương sống của xã. Hồi chiến tranh phá hoại, đã có một dạo bí thư Đảng uỷ xã là người của xóm Trại. Dịp ấy có năm thanh niên của Giếng Chùa nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành quân vào nam. Tới khu 4 thì bị máy bay oanh tạc, cả đại đội gần như bị xoá sổ. Năm người Giếng Chùa thì chết ba. Hai người còn lại hoảng quá, liền đằng sau quay đi nước mã hồi phóng thắng về nhà. Ngày ấy chủ tịch và xã đội trưởng đều là người của Giọng Chùa, nể nả định lờ đi. Nhưng bí thư Đảng uỷ đã chỉ thị cho phó chủ tịch kiêm trưởng ban công an phải gọi hai người thanh niên kia lên và đã xử trí đúng như xử trí những quân nhân đào ngũ, tức là đi làm lao công cho xã. Thôi thì thượng vàng hạ cám, từ rẫy cỏ quanh nhà uỷ ban, ngào đất trát tường cửa hàng mua bán xã, đến xe gạch xe vôi từ trên phố huyện về làm nhà tắm, làm hố tiêu hố tiểu công cộng. Xã không thiếu việc. Cứ cơm nhà việc xã. Ngày ngày trưởng ban công an đích thị đôn đốc kiểm tra, còn việc thì bí thư Đảng uỷ sẽ nghĩ ra, vẽ ra, làm đến quanh năm không hết. Lúc ấy có một trợ lý quân lực của tỉnh đội là người của Giếng Chùa đã ra tay cứu danh dự cho làng mình bằng cách khuyên hai chiến sĩ báo cáo xã xin trở lại đơn vị. Thế rồi khi lên tỉnh, và không biết bằng cách nào, hai anh lính ấy đã biên chế về một đơn vị của tỉnh đội. Cuối năm ấy đại hội Đảng bộ, bí thư Đảng uỷ mất phiếu tới mức chỉ còn là một đảng viên thường. Rồi llên đó có đợt kiểm tra Đảng, đồng chí bí thư cũ bị một phen cuống cà kê lên khi bỗng có dư luận là chuyện vào Đảng của anh không rõ ràng? Lý lịch chưa khai hết những chỗ khúc mắc, còn hai người giới thiệu thì đều dinh tê vào Nam năm 1954! Anh đã phải chạy đi chạy lại về quê gốc ở mãi dưới vùng biển mất dăm lượt mới lấy đủ giấy tờ chứng thực anh là đảng viên chính hiệu! Thật hú vía! Phải chống đỡ lao đao, mà lại không biết ai là đối thủ chính. Bởi tất cả đối với anh vẫn rất thân tình vui vẻ. Khi họp hành không ai lên giọng bới móc chỉ trích gì, mà chỉ nhỏ nhẻ Đề nghị đồng chí giải thích cho cái chỗ ông cụ bên vợ có đúng là đã tham gia Quốc dân đảng không? Còn hai người giới thiệu thì lý do gì lại chạy vào nhà thờ để đi Nam với một số giáo dân? Tất nhiên để bảo đảm lời nói đông chí là đúng, thì phải có chứng thực! Thế là đủ giết nhau không gươm giáo! Mà thái độ vẫn cứ ngọt ngào, vẫn êm như ru! Chỉ bên ngoài dân chúng mới có lời nhắn tin rằng: Đất có thổ công, sông có hà bá, thành hoàng vùng này chưa đến nỗi mạt vận phải chuyển bài vị sang dân ngụ cư xóm Trại.
Từ đấy dân xóm Trại nhìn những người quê gốc ở đây cứ chờn chợn, thấy như họ tiềm ẩn một cái gì thật vô hình, mà lại có ma lực biến hoá khôn lường. Tốt nhất hãy chăm lo làm giàu. Nếu trong những cuộc bầu bán nếu ai có thắng phiếu, thì khôn ngoan chỉ xin lận làm cấp phó thôi, chớ dại tranh phần chiếu trên của dân bản xứ mà rồi có lúc tự mang dây buộc mình! Người xóm trại bảo nhau như vậy.
Lần này Trần Văn Sửu trúng ghế chủ tịch, mà có người đã nói là ông Sửu trúng sổ xổ, là bởi Trịnh Bá Thủ thấy cùng một lúc bên cánh nhà ông Phúc có đến ba đảng viên nối theo nhau nhảy dù về xã. Hai người em rể ông Phúc là chồng bà Lộc, bà Tài. Một người làm quản đốc trên Khu gang thép, một là cán bộ tuyên huấn lâu năm ở nông trường bò sữa cùng về hưu trong một tháng. Rồi Tùng, con bà Sang một thượng sĩ như trâu tơ ngứa sửng. Cả ba đảng viên đều kết nạp ở nơi khác, thế tức là họ không chịu ơn chịu nghĩa gì ở đây. Anh nào cũng có sỏi trong đầu! Phải nhanh chóng hùn vào cho Sửu người đứng đầu xóm Trại, đang là thường trực uỷ ban xưa nay tôn trọng Thủ đến kính nề. Và để không bị mang tiếng là hẹp hòi, bè phái, chính Thủ đã đề xuất ý kiến khi họp với chi bộ Giếng Chùa nên đề cử Tùng vào danh sách bầu Đảng uỷ mới, bởi Thủ thấy Tùng dám phê bình ông Phúc cả trong cuộc họp. Ngày Tùng chưa đi bộ đội, ông Phúc đã nhận xét về Tùng khi duyệt danh sách đối tượng là còn thiếu chín chắn, còn lớp cớp! Vậy thì phải triệt để lợi dụng ngay mối bất hoà ở trong dòng họ Vũ Đình này, chứ không thể trông chờ vào hai đảng viên già đời là chồng bà Lộc, bà Tài. Thủ đã giới thiệu Tùng khi họp toàn đảng bộ như là một nhân tố ga-ne-pho nhiều sức bật. Nhưng tất nhiên khi bỏ phiếu thì anh gạch tên Tùng đầu tiên! Tùng sao lại có thể ngồi cùng chiếu với mình được! Đến khi Tùng trúng cử với số phiếu vừa phải, nhưng đã là nỗi sửng sốt đối với Thủ. Còn Trần Văn Sửu thì trúng khá cao, bởi hai phe mạnh nhất chống nhau, thì người đứng giữa dễ dàng hưởng lộc. Lại phải làm cuộc vận động nữa để Sửu trúng cao trong cuộc bầu cử hội đông nhân dân. Đến khi Sửu ngồi được vào ghế chủ tịch rồi, thì không riêng Sửu mà cả xóm trại đều biết công lao to lớn của Trịnh Bá Thủ. Vậy là Thủ đã đạt được ý định không để chức chủ tịch rơi vào phe cánh chi họ Vũ Đình, đồng thời với Sửu, Thủ như người ơn mưa móc, anh có thể hoàn toàn lái theo mình.
Hôm nay vợ chồng Sửu cúng giỗ bố vợ, vì bên nhà vợ Sửu không có con trai. Làm từ trưa. Ngả một chú vện gần chục ký. Cả ban thường vụ kéo đến chén chú chén anh từ mười một giờ cho tới quá ngọ. Thủ cáo lỗi trưa này bận, hẹn tối sẽ đến thắp nén hương để tưởng nhớ cụ. Đó là ý định của Thủ, chứ thực ra anh không bận gì. Vì buổi tối ông Hàm đi làm cái việc ấy nên Thủ muốn vắng mặt ở nhà. Đến nơi nào càng đông người càng hay. Để nếu có sự cố gì, thì nhiêu người chứng giám là Thủ không liên quan, không biết tí gì.
Buổi chiều đạp xe lên xã, Thủ đi qua cổng nhà ông Hàm, thấy ông đang kỳ cạch chữa xe cải tiến để vài hôm nữa là gạt chiêm. Thủ vẫn ngồi trên xe, chống chân xuống hỏi nhỏ:
- Tối nay bát vẫn làm cái ấy chứ?.
- Thì vẫn! - ông Hàm tiếp tục đục canh cách không ngửng lên, cũng trả lời vừa đủ nghe.
Thủ đạp xe đi ngay. Buổi chiều, hết giờ làm việc ở trên xã, Thủ còn thong thả chán. Hết sang trạm xá, lại sang khu nội trú các giáo viên trường cấp I, II. ở đấy có đến ba cô giáo đã ngoài tuổi băm mà vẫn chưa chồng. Mỗi ìần gặp đồng chí bí thư cao ráo xởi lởi, là đôi bên chuyện trò không dứt. Thấy khói từ túp nhà bếp nhỏ như cái quán chợ bốc lên nghi ngút. Thủ nói gióng từ ngoài:
- Ba cô đội gạo lên chùa! Cho xin bát cơm bát cháo đây!
Có tiếng bấm nhau, rồi một giọng vóng vót:
- Có gạo mà đội đã tốt! ở đây là ba cô hết gạo lên chùa, một cô má thắm bắt đền bí thư!
Những tiếng cười ré như bị cù. Rồi vẫn cô gái mồm miệng như tép nhảy gạt khói chui ra. Mặt tròn người óng lẳn được lắm! Chỉ phải cái miệng rộng quá, cứ như miệng một gã đàn ông phàm tục đặt thâm vào. Chắc cánh con trai sợ vía cái miệng áy!
- Bây giờ nói nghiêm chỉnh với bí thư nhé, chúng em sắp đội nón chống gậy sang uỷ ban ăn xin đấy? Có cái mái nhà bị thủng, đã kêu đến tỉ lần mà xã vẫn không dọi cho. Đêm hôm kia mưa dột như sảo, chúng em phải dậy ngồi quàng áo mưa. Đấy, xã bảo thương mấy cô trưởng ban phòng không, thương thế thì cái xương chả còn!
Thủ dừng lại trước cửa, nhe bộ răng trắng bóng ra cười, nói ỡm ờ:
- Ai bảo kén cho lắm vào còn kêu!
Thế là nói cười càng ồn ĩ, đối đáp ráo riết. Cứ xem cung cách nói năng như chém chả, nhưng lại với thái độ vui vẻ, ánh mắt đôi bên ngắm nhìn nhau rất bạo dạn thân ái, là đủ biết là đồng chí bí thư đảng uỷ và ba cô gái sống độc thân ở đây quen biết nhau đến mức nào.
Thủ còn chuyện trò con cà con kê một lúc lâu. Mâm cỗ đậy lồng bàn để cạnh. Thủ bước tới bắt tay người anh họ vợ Sửu khiến ông nông dân chuyên nghề thợ đấu lúng túng với cách chào hỏi mà ông cho là phù phiếm này. Vào bàn thờ trong nhà thắp ba nén hương trước bức ảnh truyền thần một ông già gân guốc cắt đầu móng lừa, vừa quay ra Sửu đã kéo Thủ ngồi xuống chiếu. Còn nguyên vẹn một mâm đầy. với đủ các món ăn. Thủ gọi với xuống bếp:
- Bà chủ đâu rồi?
Thủ chưa dứt lời, vợ Sửu đã từ nhà dưới cầm cây đèn toạ đăng đi lên đon đả, tiếng người đồng bãi trồng đay vẫn giữ nguyên pha tạp. Nghĩa là phát âm rất ngọng:
- Giờ bác mới sang. Bác Hợi với bố cháu mong bác từ trưa. Hôm nay em sắp cơm canh quấy quá nhớ cụ cháu. Nuôi được con cày béo quá, mà mấy anh em thợ vụng nàm hỏng mất bộ nòng. Bố nó xem có phải hâm nại canh không?
Về khuya, gần tàn bữa rượu, mấy ông hàng xóm bên cạnh mới lệt sệt kéo những đôi guốc mộc sang. Số láng giềng này Sửu đã mời lúc trưa, bây giờ họ tự động đến là một cách biểu hiện tình cảm với đông chí bí thư Đảng uỷ. Vợ Sửu trải thêm chiếu nữa ra hiên. Mấy ông tự tráng ấm pha trà. Chè móc câu nhỏ khô săn như gạo rang, bỏ vào xuyến kêu roong roong như đông. Chế nước chỉ được qua lưng ấm, đậy nắp, rồi dội một chén nước sôi lên bên ngoài để xuyến nóng đều khiến chè mau ngấm. Nước róc ra xanh ánh trong những chiếc chén hạt mít uống sít soạt rất to, chép miệng rất to, nhưngbnước chỉ thấm môi. Người sành trà là phải biết tận hưởng, biết nhâm nhi ngẫm ngợi từng cái hương cái khói toả ra từ những nụ búp căng nhựa rang khô đang nở ra trong thủy nhiệt. Đó là phép thưởng trà. Lúc này chuyện mới nở như ngô rang. Từ chuyện đảng ủy và uỷ ban cho người đi mua sắn, mua khoai về bán chịu cho bà con từ mươi hôm trước thật là sáng suốt, đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no (Họ khen Thủ đấy!) Rồi nhảy sang chuyện bà con có kêu ca về việc hợp tác chia ruộng khoán còn có chỗ chưa hợp lý giữa Giếng Chùa với xóm Trại (Họ muốn nhắc nhở Thủ đấy!). Rồi sang chuyện nghe đồn lại có đơn kiện từ dưới này gửi lên huyện, lên tỉnh tố cáo rằng xã tự ý cắt một số đất canh tác cho con cháu mấy cán bộ chưa tách hộ làm nhà. Thoắt cái, chuyện của mấy ông nông dân vươn tới tầm chiến lược, bàn từ ông Goocbachốp dấy lên cái việc cải tổ, làm cho một số cán bộ cũ bên ấy về nghỉ như sung rụng. Thì ra con người cũng như cái kèo cái cột, dùng lâu quá không mối mọt bên ngoài, thì cũng ải nát bên trong! Rồi thì từ chuyện ông tai to mặt lớn đang khuấy đảo cả gầm trời, đến những anh cu chị cún chỉ quen với con cua cái ốc nơi xó đồng, các bố đều trộn lẫn với nhau, bàn rôm rả bên manh chiếu cùng ly rượu chén trà và những hơi khói thuốc lào sòng sọc.
Thủ giở nằm giở ngồi, tựa người vào tường, làm ra vẻ say lừ đừ để đỡ phải nói nhiều, nhưng thực ra đâu óc anh rất tỉnh. Chốc chốc Thủ lại kín đáo liếc nhìn đồng hồ tay. Anh bỗng thấy nóng ruột bồn chồn thế nào. Đã hơn mười giờ, nhưng chưa ai buồn ngủ. Sửu lại pha một ấm trà mới. Mọi người quay sang bàn tán về chuyện con ma hiện lên ở lêu lão Quềnh mà bà Đồ Ngật mắt tròn mắt dẹt kề mấy hôm nay. Hoá ra là một người đàn bà thật. Bà cả Lợi chủ quán phở ở đâu xã đã thuê chị ta gánh nước và rửa bát hai hôm nay. Nhưng hình như ban đêm chị ta lại về ngủ ở nhà lão Quềnh. Sao thế nhỉ? Hay lão Quềnh đã được tí tá tí mẻ, nên chị ta nhớ hơi cái ổ nằm? Hay là ma đội lốt người? Mọi người đang cười hinh hích, thì bỗng phía cuối làng có tiếng gì ầm ầm và ánh lửa chấp chới. Rất nhanh, cái khối ầm ào ấy mỗi lúc một to thêm, sáng thêm, rùng rùng chuyển động giữa đường làng, đi ngược lên phía uỷ ban xã.
- Cái gì thế nhỉ? Bắt được cướp hay sao?
- Hay đấy chính là một đám cướp?
Mọi người nháo nhác hỏi nhau, rồi bỏ những chén trà vừa róc chạy ra cổng. Thủ cũng nhỏm người dậy, mắt vẫn nhìn ngơ ngác như chưa hết cơn say. Nhưng toàn thân anh bỗng nháy một cái như có tia điện chạy lướt từ chân lên đầu. Không nhẽ lại chính là chuyện ấy? Thế thi chết cả nút!. Sửu thu vội ấm chén, bảo Thủ:
- Ta cũng phải ra xem cái gì anh ạ!
Thủ gật đâu, vùng dậy, châm một điếu thuốc. Không có ai bên cạnh để nhìn thấy bàn tay Thủ đang run bắn. Một sự thầm mách bảo rằng cái đám ồn ào và những ánh lửa nhấp nhoá kia là điều rất gở đối với anh! Cái điều anh thắt thỏm lo ngại suốt ngày nay, hình như có đến thật rồi! Không khéo ông Hàm bị rồi? Thế thì hại tôi, chết tôi rồi? Xoay xở thế nào đây?.
Khi Thủ vừa lẹp kẹp đến ngõ, thì thằng con trai lớn của Sửu dưới chân đồi chạy bố lên, miệng lấp bấp cứ lạc đi:
- Bác Thủ! Bác Thủ! Bác Hàm bị người nhà ông Phúc trói! Họ.. Họ đang dong lên xã.
Mắt Thủ tối xầm lại, ngực dội lên một cái Chết đứt rồi! Chỉ tí nữa thì Thủ kêu lên như vậy, nhưng anh đã lái được sang câu hỏi đến ngớ ngẩn:
- Sao? Hai ông già mà đánh nhau à?
Rồi cả Thủ, Sửu cùng mấy người hàng xóm băng qua mặt đồi chạy xuống đường. Mặc dù đã chuẩn bị thần kinh và gân cốt để đương đầu với cánh khan tương đổ mẻ nhưng người Thủ vẫn rã rời như chỉ muốn đổ sập xuống khi đám đông đèn đuốc rừng rực, rùng rùng những mặt người phừng phừng vừa đi vừa hô hoán kia đã hiện ra ở trước mắt.
Quang cảnh này y như hồi chiến tranh phá hoại, một hôm cũng vào lúc gần sáng có chiếc F4 đến bỏ bom trộm trên khu gang thép, bị tên lửa bắn cháy, thằng giặc lao quáng quàng xuống đến đây thì vỡ tung giữa cánh đồng Cây Quéo ở cuối làng kia. Mảnh bắn vung vãi làm vỡ một mái ngói, cháy hai túp nhà bếp, nhưng may không ai việc gì, kể cả viên đại uý phi công nhảy dù treo lơ lửng trên bụi tre gai, dân quân phải bắc thang khều hắn xuống, rồi dong tên giặc cao lênh khênh bó người trong bộ quần áo kháng áp nhằng nhịt những túi, những khoá như dong một con thú mặt người mình thuồng luồng lên uỷ ban xã. Người các làng đổ đến như đi xem xiếc.
Lần này cũng gần như cả làng Giếng chùa mất cả ngủ ngáy, chạy xô vào nhau để nhìn ba bác cháu ông Hàm bị dòng họ Vũ Đình bắt làm tù binh.
Khi Hàm nhảy xổ vào Phúc, vung tay đấm vào ngực Phúc, thì ưởng và Ngạc cũng hét một tiếng, huơ xẻng lên như hai tên hung thần. Rất nhanh một cái gậy phanh đánh chát vào chiếc xẻng của ưởng và một cây gậy khác phạt phía dưới, ngang gióng chân, làm ưởng ối lên một tiếng, ngã sấp vào bụi đồng ré lá sắc như cật nứa. Cùng lúc cái xẻng của Ngạc bổ bừa xuống những cái bóng nhốn nháo trước mặt. Một tiếng kêu á và một phát súng nổ đánh đoàng toé lửa ở đầu nòng. Không ai động đến Thó, nhưng anh lính đánh thuê đã ngã nhào xuống, rồi cư lăn người rào rào trên bãi cỏ như một khúc gỗ tròn, miệng khóc hu hu. Viên đạn ghém bay sượt qua tai Ngạc. Biết là chưa dính da, nên một bóng người ở phía sau kéo giật ngang chân Ngạc, khiến cả cái khối thịt bị hẫng, ngã đánh hự. Đám con cháu nhà Vũ Đình nhảy phất ngay lên người Ngạc. Con trai bà Lộc, một gã thanh niên cao to như cái minh tinh, cùng xấp tuổi với Ngạc, từng hục hặc với Ngạc, llên mượn gió bẻ măng, gióng lấy súng của chồng bà Tài lên đạn lách chách, rồi chọc cái nòng lạnh ngắt vào mang tai Ngạc, rống lên đắc thắng:
- Đ. Mẹ! Ta phải bắn vỡ sọ thằng này!
Nhưng ông Tính đã vội giật lại khẩu súng. Vừa lúc tiếng Vũ Đình Phúc cũng hét lên:
- Không được bắn? Trói tất cả lại!
Thoắt cái, ưởng và Ngạc đã bị trói gô bằng chạc trâu. Còn lại vị chủ tướng của chi họ Trịnh Bá, ông Hàm đang oằn oại bên bụi sim. Sau khi đấm cả hai nắm tay vào ngực Phúc, trút nỗi uất ức rồ dại vào đối thủ, thì Hàm bị Phúc đá vào hạ bộ, ngã lăn ra. Thực chất là cả hai ông trưởng họ không biết miếng mẹo gì cả, đánh nhau như trẻ con, cứ lao bừa, đấm đá bừa, được đâu hay đấy! Khi Hàm tỉnh lại, thì bị trói cứng cả hai tay.
- Dong chúng nó lên xã! Hô hoán nữa lên cho cả làng thấy cái mặt mo mặt mẹt!
- Để nguyên chỗ nó phá, đừng lấp. Sẽ gọi công an đến làm chứng.
Anh em nhà Vũ Đình hò hét bảo nhau, rồi đẩy ba bác cháu ông Hàm đi. Những bó đuốc được đốt thêm, người đổ ra thêm. Vừa đi đám người vừa hò hét khua gõ ầm ĩ. Một người cháu họ của ông Phúc bị một lưỡi xẻng của Ngạc bổ sượt qua vai, tí nữa cậu ta bị chẻ theo chiều dọc! Bây giờ một miếng vải xô trắng cuốn trên bả vai, trông mùi mẫn như một nhân chứng của sự cảm tử! Cậu ta vác chiếc gậy đi cạnh bó đuốc cháy chửng chửng, nhìn dữ dần như một đội nghĩa quân thời bộ lạc.
Đám người đi đến đâu, đêm vỡ ra đến đấy trong ánh lửa và tiếng hò hét thinh nộ. Đám đông đã hiện ra nhỡn tiền trước mắt Thủ.
Đi đầu là con trai bà Tài. Người dài lêu đêu như con sếu. Hai tay dơ bó đuốc quá đầu, chốc chống lại huơ tròn cho ngọn lửa bốc cao. Tiếp đến là ưởng và Ngạc tóc tai bù xù rũ rượi, mặt mũi sây sát, tối sầm. Rồi đến ông Hàm, vẫn bộ quần áo xanh tàu tàu, mắt gườm gườm nhìn xuống, mái đầu cắt móng lừa, tóc dựng lên như bông gáo. Lòng Thủ bỗng quặn lại, thương ông anh khốn khổ. Mồ hôi vã ra từ lòng bàn tay. Nỗi đau của tình máu mủ dội lên trong người Thủ. Uất ức đến nghẹn ứ lên. Trán và sống lưng chảy mồ hôi lạnh. Thấy Thủ bỗng run toàn thân như dẽ khi cái đám bộ lạc kia chỉ còn cách mươi bước chân, Sửu quay sang hỏi nhỏ:
- Anh quay lại vào nhà tôi đã. Coi như anh không ở đây. Cứ để tôi lo liệu.
Thấy Thủ vẫn đứng ngây ra bất động, Sửu bảo con trai.
- Thằng Mùi đưa bác về nhà.
Sửu lo Thủ không giữ được bình tĩnh, lại giống như Nẫm hồi năm ngoái thì hỏng bét. Đang là phố chủ tịch kiêm trưởng ban công an, chỉ vì bênh em gái, mà em gái Nấm chúa hay cậy thế gào làng ăn vạ. Làm thủ kho mà ăn cắp như ranh. Bị Phát giác còn lu loa xông vào xé áo người ta. Thế là đánh nhau. Được tin, Nẫm lao bế đến bênh em. Khi bị phê bình kiểm điềm, Nẫm còn nói chầy bứa: Dù mất chức, mất quyền, mất Đảng, chứ tôi không cho ai động đến người nhà của tôi! Đã thế thì mất ráo! Anh mất chức tháng trước thì em gái mất cái chân thủ kho béo bở tháng sau. Cả làng cười cho là dại!
Giờ đây Sửu chỉ lo Thủ cũng không giữ được mình. Anh ấy đang run thế kia. Mặt tái đi thế kia! Dân gốc vùng này hễ động đến họ hàng ruột thịt của họ, là họ dễ nổi máu điên lắm. Thằng Mùi vừa kéo Thủ quay lại, thì Sửu nhảy xuống đường vung tay nói lớn:
- Có chuyện gì thế này? Tại sao đêm hôm lại khua ầm ĩ thế hả? Biểu tình hả? Tất cả giải tán ngay! Có việc gì mai lên xã giải quyết!.
Đám người đang hùng hổ, bỗng sững lại. Như dòng nước đang sôi sục, bỗng hút vào một con đập chắn ngang. Những người không dính dáng gì đến dòng họ Vũ Đình, chỉ đóng vai chầu rìa, nếu cần nhảy vào đánh hôi dăm ba quả cho sướng tay. Bầy giờ thấy mặt chủ tịch xã đàng đằng cương quyết, nên lỉnh ngay. Chả dại dây với chính quyền, trứng chọi đá.
- Báo cáo với ông xã là thế này! Một tiếng nói the thé rẽ đám người đi lên. Đấy là bà Lộc, người đành hanh nhất họ Vũ Đình, cũng ham hố vào loại nhất họ. Khi ông Phúc mất chân chủ nhiệm, bà nói toang toang là ông anh bà không cùng a kíp với cánh cán bộ xã bây giờ, chứ còn ai thạo việc bằng bác Phúc! Thấy chồng về hưu, bà thở dài đánh thượt: Ông vội về làm gì? Tôi không cần ông phải chân lấm tay bùn, tôi gánh được tất. ở làng này mà cả vợ chồng con cái phải bán mặt cho đất, bán lưng cho giời mới kiếm được miếng ăn, thì không ai người ta trọng - Bà đang ấm ức khi thấy họ Trịnh Bá đang lên, họ Vũ Đình nhà bà đang xuống. Cả bên nội bên ngoại những một đống đảng viên mà lại chịu đi xuống? Đảng viên mà lại chỉ biết cái cày cái cuốc người ta bảo quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật, thì còn đảng làm gì! Bà Lộc thấy nội tộc nhà mình như bị vặt lông vặt cánh. Cho nên lúc nãy đang ngủ, nghe chồng về báo, bà chồm ngay dậy. Nỗi căm tức mộ bố bị phá còn chưa sôi sục bằng thấy họ nhà mình bị thua thiệt. Bây giờ có cớ bà lập tức như con chim xù lông, thấy đây là lúc tốt nhất để bà túm tóc cả nhà Trình Bá mà ấn dúi xuống!
- Báo cáo với xã là chúng tôi không có lật đổ ai, chỉ vì mấy người xấu bụng này định hại cả họ nhà chúng tôi. Đã đào mộ bố chúng tôi vừa chôn, lại định đánh chết người nhà chúng tôi ra ngăn. Lúc nãy thằng con tôi không tránh nhanh thì bị bổ chết rồi! Hỏi cả cái gầm trời này có còn ai ác độc hơn thế nữa không? ối bà con làng nước ơi!
Bà Lộc oà khóc nức nở. Chủ tịch Sửu lại huơ tay nói lớn:
- Nhưng cứ phải giải tán! Đêm hôm không được làm loạn xà ngầu lên. Có gì sáng mai giải quyết.
Bỗng một tiếng hét cắt ngang từ phía cuối đoàn người:
- Tại sao lại giải tán? Định âm mưu đánh tháo những tên có tội hả?
Rồi đến năm sáu bóng người lừng lững xừng xổ đi lên. Ông Phúc vội kéo tay một người, thì người ấy nói rinh rích như nhai chính giọng nói của mình Bác mặc chúng em. Đấy là những người họ xa của ông Phúc, vừa mắt nhắm mắt mở đến, nhưng đã nghe thủng câu chuyện, họ lên gầm lên. Đây cũng là những thành phần ghê gớm, thật ra họ chẳng thù hằn gì anh em nhà Trịnh Bá, mà lại cay cú với chính Trần Văn Sửu về việc Sửu giải quyết đất đai không đúng ý họ từ hơn năm nay, nên họ muốn nắn gân Sửu cho hả giận. Một người quay sang bà Lộc hét:
- Thím Lộc câm ngay mồm? Việc gì phải khóc? Cái lý nắm trong tay mình, sao phải khóc?
Rồi ào một cái, cả sáu người đàn ông đứng vòng tròn quanh Sửu. Lô nhô những đầu gậy và cả một cái lưỡi thùng lùng nhọn hoắt cứ lấp ló sau lưng Sửu. Một bàn tay nặng như cùm ấn vai Sửu xuống. Những khuôn mặt gân guốc như đá đeo, những tia mất sóc sói như đã nổi cơn điên, cứ xỉa vào người Sửu Một giọng nói trầm, nhưng rất sắc chõ vào tai Sửu:
- Này ông chủ tịch ngụ cư hãy liệu thần hồn! Mở tai ra nghe đây: ông định hống hách với ai? ông định bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai rồi đổi trắng thay đen, cứt trâu hóa bùn hả? Khôn hồn phải giải quyết ngay đêm nay, và không được động đến mấy thằng này, nếu không phải có người phá hết lúa má, sẽ đốt nhà rồi dìm ông xuống sông! Những thằng trọc đầu này đã chơi là không ngán đâu.
Sửu đang tái xám cả mặt mũi, thì chính người vừa nói những lời dao búa ấy quay ra, đấm tay vào thinh không, cao giọng:
- Tất cả im lặng! Chúng tôi đã hội ý với ông chủ tịch! Ông chủ tịch đã bằng lòng sẽ giải quyết ngay đêm nay. Bây giờ mời ông chủ tịch có vài lời!
Sửu lách người, đứng ra khỏi vòng vây hãm, nhưng mắt vẫn liếc dè chừng. Cái giọng quyền biến lúc nãy, bây giờ bỗng ngắc ngứ.
- Xin bà con yên tâm. Tôi sẽ không bao che khuyết điểm cho ai. Nhưng vì đây là việc phức tạp, nên phải có mặt của cả đảng uỷ, uỷ ban và công an, rồi nghe đôi bên trình bày. Vì thế tôi không muốn gây rối loạn giữa đêm thế này.
Thế là tất cả lại ầm ầm lên:
- Đừng có nói quanh co tù mù thế! Ông có giải quyết không?
Ông Phúc bây giờ mới lên tiếng:
- Tất cả im lặng, mọi việc đã có tôi. Từ nãy đến giờ tôi chưa nói, là tôi muốn xem xã định giải quyết thế nào. Bây giờ chúng tôi yêu cầu: xã phải lập biên bản ngay. Phải giam giữ luôn mấy người này! Tôi đã cho người đi gọi trưởng ban công an và bí thư đảng uỷ tới.
Sửu quay lại Phúc nói thống thiết:
- Đồng chí Phúc, tôi đề nghị chúng ta hãy lấy tinh thần đảng viên để giải quyết công việc. Đồng chí định khua cả xã dậy hay sao? tôi được biết tối nay cả bí thư đảng uỷ và trưởng ban công an đều đi vắng không có nhà.
Lại ầm ầm như vỡ chợ:
- Khua cả xã dậy cũng được. Đừng có đánh bài chuồn mà không xong đâu? Làm cán bộ thấy việc phải giải quyết, chứ không phải chỉ quen nghe người ta mời vào mâm!
- Bí thư với công an đi vắng, chúng tôi cũng tìm bằng được có lẩn đằng trời!
Đang nhao nhao, thì bỗng một giọng rất đanh, vang lên phía trên đồi:
- Tôi đây! việc gì tôi phải lẩn đi đâu!
Rồi Thủ nhảy từ trên thành ta-luy xuống. Đôi mắt thường ngày hay nheo cười lấy lòng, bây giờ ánh lên sắc lạnh.
Thủ liếc nhanh sang Sửu như muốn nói: Anh chỉ tổ gây rối thêm việc! Đáng lẽ phải vờ nhũn để lấy lòng họ, để dập tắt đám cháy, rồi sẽ tìm cách phản công sau, thì anh lại chọc tức họ, rõ là chọc tổ ong, ngốc!..
Sửu đã đọc được những lời chỉ trích ấy và ông chủ tịch sổ xổ đứng co người lại.
- Thưa bà con! - Thủ cố hạ giọng, nhưng tiếng vẫn run lên - Tôi mới được tin vội đến đây ngay. Nhưng tôi đã nghe rõ sự việc. Như vậy là người nhà của chúng tôi sai. Mức độ thế nào đã có pháp luật phân giải. Tôi đồng ý sẽ giải quyết ngay đêm nay. Ngày mai sẽ mời huyện về xem xét. Bây giờ tôi yêu cầu đồng chí Phúc, đại diện bên tố cáo, cùng chúng tôi lên văn phòng uỷ ban để lập biên bản. Còn tất cả xin mời về nghỉ để đảm bảo trật tự an ninh.
Bà Lộc lại the thé:
- Nhưng giữ ba người phạm pháp này lại không được thả.
Thủ khoá tay dứt khoát:.
- Tôi đồng ý! - Bên chúng tôi không phải chỉ có mình ông Phúc, mà phải có cả thằng Quyền con tôi bị chém hụt, rồi ông Thó bị mua chuộc cùng lên để kể rõ sự việc vào biên bản.
- Tôi đồng ý!
Một tiếng thở phào từ cuối đám đông:
- Có thế chứ!
- Nghe lọt tai đấy!
Sự nhũn nhặn của người có quyền cao nhất xã, cộng với sự đầu hàng của người đại diện cho dòng họ Trịnh Bá đã làm cho quả bóng đầy hơi của chi họ Vũ Đình được mở van. Cả đến những anh chầu rìa sẵn sàng nhảy vào đánh hôi tuốt tuột cả hai dòng họ, giờ cũng toát ra cười hể hả! Những bộ mặt đang hầm hè hến chùng ngay xuống. Duy nhất chỉ có một người nghe lời mềm mỏng của Thủ, thấy như mình bị thoi từng quả đấm vào tim. Miệng chỉ chực gầm lên chực chửi bới tất cả, chân tay đập phá tất cả. Đấy là ông Hàm!
Ông trừng trừng cặp mắt cá rói nhìn thẳng vào Thủ, người cùng giọt máu với ông. Người xưa nay quen gặt hái trên công lao nhọc nhằn của ông. Ông đã vì hắn mà nai lưng ra cáng đáng mọi việc như một con lừa! vậy mà hắn đã bán phéng ông! Đồ đểu! Mặc cho ông Hàm tức giận đến dựng ngược cả mái đầu bông gáo, nhưng lên tới văn phòng uỷ ban, ông vẫn phải ký vào biên bản rằng: ba bác cháu ông cùng một lúc đã phạm vào hai tội: phá mộ người mới chết và hành hung thân nhân người chết khi họ ra can ngăn.
Cả hai tội đều to kềnh! Đó là hai cánh cửa để đón ba bác cháu vào tù! Biên bản được lập trước sự chứng giám của những người chủ chốt của chính quyền địa phương: bí thư đảng uỷ, chủ tịch xã và phó ban công an.
Đồng chí phó ban công an thực sự bị dựng dậy từ trong buồng vợ, giữa lúc đồng chí đang lắp ghép bức tượng người hai lưng? Phó ban công an là cháu bên vợ Thủ, gọi Thủ bằng dượng. Thế nghĩa là ba người này: bí thư, chủ tịch xã và phó bạn công an rất hợp ý, hợp lòng như ba chân kiềng. Vậy mà vẫn thua. Vẫn phải làm theo yêu cầu của Vũ Đình Phúc, là xã quyết đinh tạm giam ba bác cháu ông Hàm để hôm sau huyện về phân xử. Và ba bác cháu ông làm đã nằm chờ sáng trên mấy cái ghế băng ghép lại trong căn phòng dùng làm nhà kho ngổn ngang những cờ, đèn, kèn, trống, panô, khẩu hiệu của xã. Một căn phòng tối tăm đây những mùi mốc, mùi bụi. Bên ngoài cửa khoá trái. Đích thị là nhốt những thằng tù! Xong việc, Thủ vừa ra đến cổng uỷ ban thì gà gáy canh hai. Người mệt như rút tuỷ. Thủ cay đắng nhận thấy chính mình, đang có trong tay cả một chính quyền, nhưng vừa bị thua một cú nốc ao! Chính anh, vừa phải bàn giao cả uy tín và sức mạnh của cá nhân mình, của dòng họ mình cho Vũ Đình Phúc! Hai tay Thủ bỗng chốc như tuột hẫng, không còn biết bấu víu vào đâu. Xung quanh trống hoác!
- Anh ạ, ta bàn xem - Sửu bước vội lên gần Thủ, rụt rè nói.
- Thôi! - Thủ dằng giọng, bước nhanh. Anh cũng tự thấy mình vô lý khi nổi cáu với Sửu, nhưng lại không thể ngọt được! Cả Sửu và Cao, phó ban công an đều không dám gọi Thủ lại.
Vừa ra đến cổng, Thủ bỗng giật mình khi thấy một bóng người quen quen đang đứng tựa vào gốc cây bạch đàn phía trước.
- Ai? Cái Đào hả?
Thủ vừa lên tiếng, thì bóng người con gái đang đứng ủ rũ ngửng phắt lên, giọng đanh lại, đúng là con gái ông Hàm!
- Phải! Cháu đây! Chú đã cứu một người ruột thịt của chú như thế đấy! - rồi Đào khóc hức hức lên, chạy xiêu xiêu nhoà vào những bóng cây tối thẫm.
Thủ đứng lặng, lòng tan nát!
Đào vẫn chạy xuôi theo đường, miệng vẫn khóc nức lên như bị đòn oan, như bị hắt hủi. Nhưng Đào vốn là cô bé không chỉ biết có sướt mướt. Mang hình dáng mẹ, một hình dáng thon óng, gợi cảm gợi tình, nhưng trong người Đào là dòng máu bố, chất máu của sự quyết đoán và bạo liệt. Khóc cho vợi lòng, rồi Đào lần lần nhớ lại. Đào thấy mình đã bị lừa!
Mà người lừa cô không phải ai xa lạ. Chính cái người tối tối Đào vẫn phải tìm mọi cớ cho lọt tai hai cụ via, để rồi cô lao bố ra gốc nhãn, ra điểm hẹn, điểm say mê của hai người. Đến khi về nhà, đêm đã rét se se, nhưng Đào vẫn dội nước lạnh để cho dịu người lại. Da thịt cứ hôi hổi, bừng bừng. Có hôm cái Hoa sang ngủ chung, đêm nằm mơ, Đào cứ ôm ghì lấy đưa em, dụi đầu vào mặt nó, đến khi cái Hoa kêu thét lên, Đào mới tỉnh. Sáng dậy, đang rửa mặt, cái Hoa bỗng sực nhớ, và ở đứa con gái mười hai tuổi, đã có nhạy cảm về giới tính, nó nháy mắt quay sang bà Son: U ơi đêm qua chị Đào ghê quá? Đào gần như hét lên, lấp liếm cất ngang lời nó: Im đi! Đừng có nhí nhố! rồi Đào kèm sát nó, thấy nó định mở miệng là chí tay vào sườn, cho đến khi nó đi học cô mới thở ra cười thầm. Để rồi đến tối, trước sự háo hức của người con trai, Đào hãy tay ra, béo vào tai Tùng khoan đã nào, để yên người ta kể cho mà nghe chuyện đêm qua người ta mơ. Rồi kể, rồi cả hai cười rinh rích rồi ôm cuốn lấy nhau. Những vòng tay siết chặt như bện thừng!
Đêm nào gặp nhau cũng như men, như lửa. Rồi xa nhau chỉ mươi tiếng đồng hồ, và chỉ có cánh nhau một cánh đồng, nhưng lúc chia tay cứ bịn rịn nấn ná. Người này nhìn như uống lấy người kia. Đang đi, lại đứng, lại ngồi dùng dằng nối tiếc. Nhưng tối nay rõ ràng là khác lắm. Hắn vội vội vàng vàng như người mất của. Vừa đến đầu rặng tre kia là hắn quay lại phới ngay. Thế mà lúc ấy mình ngu quá, không phát hiện ra. Hắn đã chạy vội về để huy động cả họ hàng ra đồi sim bắt mấy người làm bậy. ừ thì mấy người này sai rồi, nhưng thiếu gì cách để ngăn cản họ. Chỉ cần một mình hắn chạy ra đánh động từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré kèn. Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu, đã tồ chức ra cái việc bắt bớ này. Đào lại khóc nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là tính sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!
Cả bà Son và cái Hoa cũng đang nằm khóc. Cái Hoa cứ ôm lấy bà Son khóc như bị mắng, bị phạt từ lúc Đào tất cả chạy theo đám người đèn đuốc rừng rực dong ba bác cháu ông Hàm lên xã. Lúc ấy bà Son đi như lê từ ngoài cổng vào. Chỉ tới được chiếc giường là bà lăn ra như không còn xương cốt. Buổi tối thấy Thó đến với bộ mặt thấp thỏm, bà đã nghi nghi. Rồi về khuya thấy ưởng và Ngạc, hai ông cháu bất hảo đến, thì bà Son thấy rõ mấy người này sắp làm cái gì vụng trộm. Chiều ý ông Hàm, bà vào buồng nằm, cố lắng tai nghe, nhưng không sao rõ được những lời thì thầm của họ. Thôi mặc, lại đến đi móc trộm gỗ, trộm phản của ai là cùng chớ gì. Cái ông này đến lạ, có thiếu thốn gì cho cam. Hay đấy là cái máu của những anh cầm tràng đục? Nhìn thấy gỗ đẹp, gỗ tốt là cứ mắt la mày lét như anh háu sắc thấy gái!
Khi họ dắt nhau đi, thì bà Son đã thiu thiu ngủ. Rồi chó cắn rầm rĩ, rồi người la, rồi những bó đuốc đùng đùng cứ huơ lên như phát cuồng. Thấy ông Hàm chưa về, linh tính bỗng báo cho bà có cái gì không lành. Bà chạy ra đường cái chính. Rồi bà dụi mắt mấy lần để nhìn xem có đúng là ba bác cháu ông Hàm bị trói và đang bị dong đi kia không. Đến khi thấy đúng là thật rồi, chứ không còn mộng mi gì nữa, bà đã nhìn thấy ông Phúc và cái đám đông kia hầu hết là anh em họ hàng nhà Vũ Đình, thì bà Son run hết cả chân tay, ngồi khụy xuống, nước mắt chảy ràn rụa. Chắc chắn không phải chuyện gỗ lạt rồi, cái gì đó nghiêm trọng hơn nhiều. Bà Son chạy tắt về nhà, dựng Đào đang ngủ mê mệt dậy. Chưa hết tuổi ăn tuổi ngủ, lại được tình yêu đắm say ru vỗ nên đặt mình xuống là Đào trôi ngay vào giấc ngủ vừa bềnh bóng vừa thăm thẳm.
Đào khoác vội áo, rồi vùng chạy theo đám đèn đuốc. Lát sau lại chạy bổ về kể đầu đuôi cho bà Son nghe. Bà Son thất kinh, miệng mếu máo kêu: Giời ơi! Sao thầy mày dám làm cái việc ác ấy? Chân tay bà càng run như eơn kinh giật. Thì ra ông ấy thù hằn anh em nhà Vũ Đình ghê gớm quá nhưng ông ấy lại chuốc lấy tai hoạ rồi! Một lần nữa ông ấy lại thua rồi. Lần trước thua, ông ấy đã trút sự uất ức lên đầu bà. thua lần này, ông ấy sẽ đổ vào đâu ai? Càng nghĩ, bà Son càng tủi cho cái số của mình, chỉ muốn yên phận mà cũng không được. tiếng khóc cứ lặng đi. Cái Hoa cũng đã thức. Ba mẹ con rặt đàn bà con gái ôm nhau khóc như nhà có đám. Đào lại vùng dậy chạy ra đường.
- Mày còn đi.đâu? - Bà Son kéo áo Đào.
- Con phải đi xem người ta làm gì thầy.
- Đừng có lu loa, Đừng có gây sự với họ nữa con ơi! Mình sai rồi? - Bà Son nói như van vỉ. Bà biết tính con gái. Khi cần nó cũng đanh đá ghê gớm lắm, chứ không mềm mỏng như thằng Dương anh nó. Nó giống thằng Dinh, tính cục. Ngày mới lớn đi chăn trâu, Đào đã thấy lần đánh nhau với con trai, mà lại đánh được! Vì lúc tính cục nổi lên, Đào vớ cái gì đánh nấy, vớ gì phang nấy. Đám con trai làng này vừa thích nó, lại vừa sợ nó!
- U cứ mặc kệ con! - Đào vùng vằng rồi lao ra cổng.
Và cô đã đi theo đoàn người đến tận cùng, đến phút chót. Đào lùi lại một quãng khuất vào bóng tối để không ai nhận thấy mình. Đào cố nhìn nhưng không thấy hắn. Thế tức là hắn ném đá giấu tay! Hiểm thế! Cụ bô thế mà tinh, ngay từ hôm đầu cụ đã bảo hắn không phải tay vừa! Tới uỷ ban, Đào núp trong bụi chuối ở góc vườn. Đến khi thấy người ta đưa ba bác cháu ông Hàm về gian nhà kho ở cuối hội trường, thì Đào định nhảy ra hét lớn. Nhưng rồi cô đã kìm được khi quyết định chờ Thủ ra để trút hết sự giận dữ lên ông chú đang nắm quyền cao nhất xã, vậy mà bây giờ đã hoàn toàn bất lực.
Nhưng rồi Đào chỉ ném được câu trách móc ấy vào người Thủ, rồi khóc tứe tưởi chạy về nhà.
Đào đi sầm ầm lên nhà trên. Bà Son văn mở cửa. Ngọn đèn con vặn nhỏ đề trên bàn sa-lông giữa nhà. Bấc đèn có hoa. Người hay tin điềm, cho đó là một báo hiệu xấu.
Cái Hoa nằm ôm lấy bà Son, rúc đầu vào nách mẹ như sợ một tai hoạ gì sẽ đến với chính nó.
- Người ta làm những gì với thầy? - Bà Son nhỏm lên tiếng đã rè đặc.
Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn, khuôn mặt bà Son như gầy võ hẳn đi.
- Ông Thủ cũng chẳng được cái tích sự gì! Anh em ông Phúc yêu cầu thế nào, mấy ông xã cũng phải chịu nghe thế? - Đào vừa nói dằn giọng, vừa róc nước như xối ra cốc, uống; rồi vặn to ngọn đèn. Bà Son sửng sốt thấy Đào đã có cái giọng đúng là người của dòng họ Trịnh Bá khi nói về người dòng họ Vũ Đình. Nó nhiễm cái máu ấy từ bao giờ? Sao lại nghe phong phanh là nó với thằng Tùng con bà Sang phải lòng nhau?
- Lúc đi thầy có nói gì với u không? - Đào vẫn ngồi lầm rầm ở ghế, giọng đanh lại chứ không còn sùi sụt nữa.
- Những chuyện riêng của thầy mày có bao giờ tao được biết? - Bà Son nói ấm ức - Lúc mấy người kia đến, thầy mày còn không cho tao ngồi gần sợ nghe thấy. Chả nhẽ việc như thế ông Thủ lại không biết?
Đào buông một câu, càng đúng là cái gien ông Hàm:
- Có biết bây giờ cũng chối là không!
Chiếc đông hồ ô-đô trên tường buông năm tiếng. Cả bà Son và Đào chợt khẽ rùng mình. Bởi cả hai người cùng hiểu sáng ra, giữa thanh thiên bạch nhật, chuyện nhà bà sẽ càng ầm ĩ cả làng, cả xã. Rồi những người không ưa ông Hàm, không ưa họ mạc nhà này sẽ được dịp cười cợt khích bác cho bằng thích để hả lòng hả dạ. Kể cả những người không yêu không ghét, xưa nay không có xích mích gì, nhưng thấy một nhà phong lưu một dòng họ phong lưu bị sa sẩy, thì họ cũng vẫn cứ thích? Nhất là lại được nói những lời an ủi, được san sẻ nỗi âu lo với các người quen đứng ở trên mình, thì sự thích thú càng tăng! Bởi lâu nay họ phải nhìn thấy anh em nhà Trịnh Bá may mắn nhiều rồi, làm chơi ăn thật nhiều rồi, đến bây giờ họ mới được đưa tay ra cảm thông cùng những lời trắc ẩn để an ủi anh em nhà Trịnh Bá thì còn gì thú vị bằng! Làm thế là chính là để tự vuốt ve mình đấy thôi! Được đưa tay cúi xuống nâng người khác, bao giờ cũng dễ chịu hơn rất nhiều là phải kiễng chân để xin một ân huệ! Bà với con Đào cũng sẽ bị họ cười vào mũi! Nhan sắc hơn người mà! Nhan sắc luôn là con dao phản chủ!
Mặc nỗi lo của mẹ con bà Son, đêm đông tỏ ra sáng dần.

bảy

Đã sáng một lúc lâu nhưng Thủ vẫn chưa muốn dậy. Mặc dù từ lúc ở xã về đến giờ anh không hề chợp mắt. Người cứ như rỗng không. Đêm qua về đến nhà không thiết rửa ráy, Thủ vào ngã người ngay xuống giường. Vợ Thủ nằm với đứa con gái nhỏ ở góc bên kia, nói với sang:
- Thầy nó có đói đi ăn cơm thêm? Buổi tối cậu Lưu cho thịt vịt em vẫn để phần đấy.
Vì nhà Thủ ở khuất, lại xa đường, thêm cái nết ngủ của Luyến đến súng bắn bên tai cũng coi khinh, nên vợ con Thủ chưa hay biết gì cả. Thủ nói lừng khừng:
- ăn rồi. Sáng mai không được gọi tôi đấy nhá!
Rồi Thủ tắt đèn, mắt mở chong chong nhìn vào đêm tối. Đau óc nhức tấy lên. Lần này thì Thủ thật sự bị đôn vào chân tường rồi, không còn lượn lờ dựa dẫm vào ai được nữa. Về mặt xã và chính quyền, đã có Sửu và những người khác, họ cứ dựa vào pháp luật mà thi hành, dễ ợt. Nhưng với Thủ là cả dòng họ Trịnh Bá trông vào anh. Phải tự xoay xỏa. Lúc này một mình một ngựa, một mình một chiến trường! Xưa nay Thủ chưa hề thấy sự bức xúc trong việc giành chỗ đứng cho dòng họ, bởi Thủ không có những uẩn ức riêng tư như Hàm, và mọi việc đối với Thủ đều quá thuận lợi, đều ở trong tàm tay. Vậy mà ông Hàm chơi cú này đến mất cả chì lẫn chài của dòng họ Trịnh Bá đây! Thủ cũng đến chết chìm theo con thuyền này! Chịu khoanh tay phó mặc sao? Muốn thay đổi thế cờ thì thay cách nào? Đến nước này trở tay không được đâu. Cánh lão Phúc nó cúng có sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu đen gì mà dễ bắt nạt.
Thủ hết nằm ngửa lại nằm nghiêng. Đầu ong ong. Sáng ra Thủ nghe thấy tiếng mấy mẹ con thì thào rồi đi lên đi xuống đây sốt ruột, nhưng vẫn không ai dám đánh thức Thủ. Bây giờ lại nghe tiếng Sửu ở ngoài sân, rồi vợ Thủ cứ thế á, thế á đầy hốt hoảng.
Dường như không đừng được nữa, vợ Thủ rón rén lại bên giường gọi nhỏ:
- Thầy em dậy đi, có chú Sửu đến.
Thủ vừa dụi mắt, chui ra khỏi màn, thì Sửu đã quần ống thấp ống cao nét mặt rầu rầu như người có lỗi, đến bên Thủ:
- Gay lắm anh ạ! Cứ ầm ĩ từ sáng đến giờ. Đám trẻ con thì bỏ cả học, cứ bâu lấy hội trường. Cánh nhà ông Phúc đã cho người lên huyện báo từ sớm, chắc lúc nữa họ về. Ta phải làm gì hả anh?
Nhìn Thủ cứ ngồi lựng với bộ mặt mất thần, Sửu càng lúng túng. Mới cớ một đêm mà anh ấy hốc hác đi khiếp quá. Đúng như người ta nói đa suy tổn tỳ, nghĩ nhiều tổn thọ. Sửu lại nói nho nhỏ:
- Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. Đêm hôm qua họ bí mật gài hai người ngồi suốt đêm ở nách hội trường để nếu xã đánh tháo bác Hàm, thì họ sẽ la lối lên.
Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị vừa dọn bàn, vừa nói sẽ sàng:
- Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát cơm.
Sửu quay lại lấy làm may mắn đã có cớ rút lui để khỏi phải ngồi với Thủ lúc này.
- Thôi tôi ăn rồi. Sáng nay bên tôi vẫn còn nồi xáo ăn cố mới hết.
Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ:
- Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng quá.
Thủ đáp sổng:
- Tôi sẽ lên.
Sửu tươi nét mặt.
- Vâng thế tôi lên trước nhé.
Dứt lời, Sửu ra sân dắt xe đi ngay. Sửu còn chưa nói với Thủ chuyện này: ấy là hai người của nhà họ Vũ Đình gài nằm lại ở nách hội trường đã nghe hết chuyện lục đục của bác cháu ông Hàm trong đêm. Thằng ưởng nằm trên hai chiếc ghế băng ghép lại, thừa cả đầu cả đuôi. Đang nằm thẳng đẵng như khúc gỗ bỗng nó co chân đập chan chát xuống ghế, miệng chửi rầm lên. ở bên ngoài chỉ nghe nó hét Mẹ kiếp! Mẹ kiếp Không biết nó mẹ kiếp với ai! Rồi nó làu nhàu những gì, cũng không nghe rõ. ở góc bên kia, ông Hàm và thằng Ngạc nằm chung trên mặt bàn. Thằng Ngạc nhổm lên văng tục sang thằng ưởng Làm đ. gì mà rống lên thế? Ông Hàm nằm im không động cựa, miệng chỉ làu bàu im nào! im nào Nhưng thằng ưởng không im, chốc chốc nó lại dộng chân thình thình, lại văng tục ầm ĩ.
- Thế tức là ông via trưởng họ mất thiêng rồi! Cá mè một lứa rồi! - Vừa kể chuyện oang oang trước đám đông, hai người của họ nhà Vũ Đình vừa bình, vừa đế thêm vào rồi gã con trai nhà bà Lộc cao như cái sào chọc mít cứ hoa đôi tay dài ngoằng, hét tướng lên khoái trá: Thế là nội bộ họ lục đục rồi! Khỉ tự vặt lông khỉ rồi!
Người ta xúm đông xúm đỏ nghe chuyện, cười hấng nhấc khoái chí lắm!
Thủ rửa mặt, rồi ngồi nhai cơm trệu trạo như nhai rơm. Bốn gian nhà mái bằng rộng huênh. Mấy đứa trẻ đã biến hết. Chắc chúng kéo nhau lên xã rồi, bẽ bàng chưa! Vợ Thủ sàng gạo ròe ròe dưới nhà. Đoán chừng Thủ đã ăn xong, chị đi lên với bộ mặt bồn chồn. Những nốt rỗ hoa ửng đỏ lên. Khác với người chị dâu sắc nước hương trời là bà Son, vợ Thủ tự nhận mình thua kém chồng cả về cái mã bên ngoài lẫn sự tài trí bên trong. Hai người lấy nhau hồi đoàn thanh niên đi đắp đê Hà Châu để phòng mùa mưa nước sông dâu tràn vào. Dạo ấy Thủ làm bí thư xã đoàn, một anh bí thư đẹp trai và hào hoa, biết hát, biết đóng kịch và phát biểu rất hay khi lên diễn đàn. Vậy mà mới giữa chiến dịch, khi bờ đê con chạch mới nhu nhú thì những lời đôn thổi đã tới tấp bay về xã, về làng là anh Thủ và cô Luyến đang say nhau như cóc ngậm thuốc lào! Rằng là tối nào bí thư xã đoàn cũng đi hội ý với cô phân đoàn trưởng xóm Trại ở mãi ngoài bờ đê. Sở dĩ người ta quan tâm, người ta ầm ĩ lên, nhất là cánh con gái càng sồn sồn trong việc tuyên truyền, chính là vì các cô tức? Ai đời tay Thủ đẹp tông lộng thế kia lại đi mê con Luyến mặt rỗ hoa thì còn giời đất nào nữa! Các cô thấy như mình bị mất mát, bị tước đoạt một cái gì! ừ thì con Luyến được tiếng là nết na, thùy mị, khéo tay và chịu khó, ừ thì nó có đáng người cá trắm nở nang chắc đậm, tươi khỏe cứ giống như khoai tím trồng ở đất cát pha, chất đất màu mỡ đã tạo nên những củ khoai mập mạp, rắn chắc mà bở tơi! ừ thì nó có hàm rồng hoa cau và nước da bánh mật. Nhưng da bánh mật sao bì được với da bánh trôi? Cũng là tổ trưởng nuôi ong! Cô nào cũng tự cho mình hơn đứt Luyến ở khâu xung yếu nhất ấy! Thế mà đùng một cái, con cá to bị mắe vào cái lưỡi câu cùn! Đùng một cái sẩm vớ miếng gan! Thế là các cô cứ thêu dệt thêm lên. Đồn thổi thêm lên với tâm trạng vừa bực bội, vừa nuối tiếc! Đến nỗi Đảng ủy phải gọi ngay Thủ về để báo cáo tình hình xem hư thực thế nào. Ngày ấy người ta coi việc yêu đương thầm lén là một vi phạm đạo đức vi phạm phẩm chất cực kỳ to lớn, cực kỳ nghiêm trọng. Dù trai chưa vợ gái chưa chồng, nhưng cũng cấm chỉ hò hẹn thì thụt. Tiền và gái xem ra ít ai chê, nhưng người khôn thì chỉ thích ngầm và dùng ngầm thôi, chứ nếu anh dám nói toẹt ra là thích, thế là anh toi đời! Huống hồ con Luyến này lại không phải là đẹp, mà hai người lại dắt nhau ra tận bờ đê, thế là dứt khoát có vấn đề rồi! Trong việc này đứa nào lợi dụng đứa nào đây? Đứa nào thoái hóa biến chất trước? Thủ bấy giờ đang là đối tượng đảng, lớ vớ phen này trắng túi! Nhưng rồi Thủ đã làm cả đảng ủy chưng hửng! Sau khi nghe ông bí thư già chất vấn một hồi về những dư luận rằng Thủ đã có nhiều biểu hiện sa sút trong việc rèn luyện tu dưỡng, Thủ điềm tĩnh hỏi lại:
- Thế cô Luyến có phải là người xấu không? Gia đình cô ấy xấu không?
Ông bí thư hơi sững ra, rồi quả quyết:
- Nào ai bảo cô ấy xấu. Là phân đoàn trưởng thanh niên cả xóm Trại, là thư ký đội sản xuất, người xấu ai để ngồi đấy. Còn gia đình thì bần nông, cơ bản đến ba đời sao lại xấu được.
- Thế tôi lấy cô ấy có gì sai không?
Không sai - Bí thư giương mắt kính nhìn Thủ.
Thủ hạ câu chắc nịch:
- Thế thi xin báo cáo với đảng ủy là tôi sắp lấy cô ấy!
Đơn giản có vậy, mà bấy giờ người ta đã coi như một quả bom! Mùa đông nămấ Thủ cưới Luyến. đúng nghi thức đời sống mới. Nghĩa là chỉ có mấy cân kẹo cứng răng rắc và bọc thuốc lá cuộn. Đơn giản hết cỡ! Làm cho bố mẹ Luyến. dù có mừng, đã gả chồng cho con được vào nơi mát mặt, nhưng cứ ngơ ngẩn như đánh tuột khỏi tay nồi thóc giống! Tưởng thế là hết chuyện ngồi lê đôi thách, vậy mà người ta lại còn kháo nhau là Thủ phải cưới Luyến vì đã quá mù ra mưa chứ thực ra Thủ ta thấy cô nàng cứ lúng liếng bày ra trước mắt không nỡ để phí của giời, thì chàng facũng léng phéng cải thiện tí cho vui, chứ cũng không nghĩ đến chuyện bách niên giai lão. Nếu bây giờ Thủ đánh bài chuồn, thì coi như cấm cửa vào Đảng. Vậy mà cũng phải ba năm sau Thủ mới được kết nạp. Cứ mỗi lần mang ra xét, lại có ý kiến cho rằng dù thế nào đi nữa thì Thủ vẫn có điều tiếng trong thời gian yêu đương. Đặc biệt là thái độ không khiêm tốn, dám vặn vẹo cãi lý với đảng ủy. Thực ra Thủ bị om chỉ vì mấy câu vặn vẹo ấy. Thái độ, cái điều tưởng đơn giản và nhỏ nhặt, nhưng nhiều anh đã bị mờ đời chỉ vì thái độ! Thủ đã có một thời thanh niên sống đẹp, sống hào hùng và có bản lĩnh. Còn Luyến từ ngày lấy chồng, chị sống yên phận làm người vợ, làm người đàn bà. Chi đẻ sòn sòn bốn đứa, nuôi con rất khéo. Bây giờ mới bốn mươi lăm, nhưng Luyến đã nói năng, sinh hoạt đúng cung cách của người chân quê. Luyến chỉ còn có nlêm vui chiều chồng, quý con. Có mấy bận nghe phong phanh Thủ đi học, đi tập huấn cũng có tý táu tí mẻ với cô giáo này, cô hội phụ nữ nọ, Luyến chỉ cười ửng đỏ những nốt rỗ hoa mờ mờ Ôi dào máu đàn ông ấy mà! Em chỉ quản ông ấy khi về nhà. Còn ra ngoài đã có Đảng! Em là cứ giao hết ông ấy cho Đảng! Chả ai ăn vụng được với Đảng! Và hình như với chiến thuật buông để nắm ấy, người đàn bà sởi lởi đến tồ tề này lại giữ được chồng. Thỉnh thoảng gặp dịp Thủ cũng chỉ hiu hiu gió thoảng chứ không dám quá đà.
- Thày em có lên xã bây giờ không? - Vừa dọn mâm bát, Luyến vừa hỏi ngập ngừng.
Thủ rót nước tránh nhìn vợ giọng thẫn thờ cụt lủn:
- Có
Luyến đã bưng mâm lên, nhưng chưa đi, lại hỏi dẽ dàng:
- Thế định giải quyết việc bác Hàm thế nào?
Bỗng nhiên Thử nổi cáu. Lại một lần nữa Thủ nối cáu rất vô lý:
- Đi tù chứ còn thế nào! Phen này thì chết cả nút! Dọn đi, để cho người ta yên!
Rồi Thủ súc miệng òng ọc, phun nước phì phì. Rồi Thủ thay quần áo cho đàng hoàng tươm tất. Quần sa-vi-ốt, áo cộc tay màu nước biển. Anh vốn ghét sự lúi xùi. Hôm nay cũng không được lúi xùi, không được cho ai thương hại. Thủ vứt bừa quần áo cú lên đi-văng, rồi không một lời dàn dò, anh hầm hầm dắt xe đi.

Đã vào gặt chiêm. Làng xóm rậm rịch từ tinh mơ. Bây giờ không ai chờ phải có kẻng, chờ ông đội trưởng đi thúc nữa. Khác làm, khác lo. Ngay lông bông như anh chàng Thó mà bây giờ cũng tự biết mình phải làm gì. Mặc dù hợp tác chưa khoán đất, khoán ruộng xong. nhưng vụ chiêm này các hộ đã nhận diện tích và sản lượng rồi tự chăm bón và thu hoạch. Hợp tác xã đảm nhận khâu đầu và khâu cuối, tức là giao khoán cho các hộ sau khi gieo cấy xong, cuối vụ hợp tác thu sản phẩm theo diện tích và sản lượng đồng điền.
Mới giao khoán có vậy, mà người ta đã biết cách làm ra thóc. Vẫn người ấy, đất ấy mà những vụ trước lúa mọc chó chạy hở đuôi, người làm ra gạo mà quanh năm thiếu gạo. Bởi eái mẫu hợp tác đánh trống rồi ghi tên chấm điểm ngày một tạo nên cảnh thằng còng làm thằng khườn ăn. Số người thoát ly đồng ruộng ngày một nhiều. Mang tiếng là nông dân, mà khối anh lại không phải chân lấm tay bùn. ở trên có văn phòng ủy ban, văn phòng đảng ủy, thì ở dưới có văn phòng hợp tác xã và ban chỉ huy đội sản xuất. Đội cũng có phòng tiếp khách hẳn hoi. Rồi các đoàn thể cũng có người thường trực ở trên xã. ở đây còn chơi trội hơn các nơi khác, là xã có cả một tổ truyền thanh tách khỏi sản xuất để phục vụ loa đài cho các buổi họp. Vì không mấy ngày ở xã lại không có cuộc họp. Mà bây giờ người ta không chơi nói khan, phải có bàn, có bục, có micrô để vừa nói vừa được nghe chính giọng nói của mình được khuếch đại qua những tiếng lào xào của cơ khí, có thế nó mới nổi mùi khoa học kỹ thuật? Thành thử hàng ngày ở xã người cứ ràn rát, nhênh nhang mà lại làm ra vẻ tất bật. Ai cũng cho là mình quan trọng, không thể thiếu được. Tất cả số người ấy hàng tháng được mua thóc ưu tiên ở kho gọi là thóc điều hòa, chắc ăn bằng mấy những anh còng lưng ngoài đồng. Thằng còng lưng làm ra thóc, mà lại quanh năm lo méo mặt vì thóc. Thế là thằng còng buồn bực, chán làm, chán đất. Nông dân mà chán đất thì khác gì người sống bỗng dở chứng chán cơm! Khác gì người lính chán vũ khí, chán binh nghiệp. Người lính chán binh nghiệp thì dễ chiến bại khi xung trận, còn nông dân chán đất thì quanh năm có tháng giặc đói ngồi chồm chỗm trong nhà!
Mới bắt đầu vào khoán, mà những chức danh tầm gửi chuyên sống bằng ăn theo kia, xem ra đã lung lay. Chủ tịch Sửu đã mấy lần đặt câu hỏi ra vẻ cuống: Bây giờ lấy thóc ở đâu để chi? Các hộ nộp sản phẩm là để đóng thuế cho nhà nước, vậy xàng xê thế nào bây giờ?
Sang hè, trời cao, nắng no, lúa vàng như duối chín. Vụ chiêm này trời đất đã trả công xứng đáng. Bỏ rẻ cũng trên hai tạ một sào. Nhiều nhà đã gặt non từ phiên chợ trước. Cái đói đã bị tống khứ ra khỏi các ngõ. Những anh hay vác rá chạy quanh, giờ có chất cơm mới, trông mặt mũi đã tí tởn đáo để! Việc nhà nông lúc này ngập đầu ngập mặt. Tháng năm chưa nằm đã sáng. Mở mắt ra, quăng người xuống đất là tay năm tay mười.. Tất bật, nhưng vui.
Thủ đạp xe thong thả. Đi hết con đường gạch rợp bóng tre của làng là những quãng đường đất dẫn lên xã. Hai bên lúa chín vàng ưng ửng. Nón mũ lấp loáng. Chuyện râm ran. Nhìn thấy Thủ chuyện bỗng lắng xuống. Những người đang lượm lúa ở cạnh đường bỗng lảng lảng ra xa. Những ánh mắt liếc xéo xéo dưới vành nón, nhìn Thủ kín đáo. Chỉ có vài người gánh lúa lên tới đường không tránh được, dừng lại chào Thủ với vé vừa rụt rè vừa săm soi. Thủ cố làm ra tự nhiên như không có chuyện gì, gật đâu trả lời, chân vẫn đạp thong thả. Nhưng Thủ biết người ta đang bàn về chuyện ấy và ngay lúc này người ta đã nhìn bí thư đảng ủy bàng con mắt khang khác rồi.
Thủ cắm cúi đạp, tiếng líp mới kêu tanh tách. Bỗng anh giật mình khi thấy xa xa phía trước một đứa bé gái đang ôm cặp sách, vừa chạy gần vừa khóc. Nó đang chạy ngược về phía Thủ. Thôi chết! Cái Hoa, con gái út ông Hàm:
- Chú Thủ! Hư... Hư!...
Cái Hoa cung đã nhìn thấy ông chú qua làn nước mắt lòe nhòe. Nó càng kêu nấc lên chạy và lại. Nhưng khi còn cách Thủ dăm bước, nó bỗng đứng khứng lại, chân dậm bành bạch xuống đất, tiếng khóc càng vỡ ra, miệng lắp bắp:
- Chú Thủ! Bố cháu!... Hu hu! Tại chú! Chị Đào bảo tại chú?
Rồi nó càng khóc òa lèn như bị đòn oan. Khuôn mặt đẹp như vẽ của nó nhăn nhúm chìm đắm trong nước mát. Thủ dừng xe, đang đứng như chôn chân, thì cái Hoa đã vụt chạy sang lề đường bên này, vừa chạy nó vừa gào lên: Tại chú! Tại chú! Rồi cứ tức tưởi thế. nó chạy như bị xua đuổi về nhà
Sáng nay khi nó đang thiếp đi nặng nề, thì bà Son lay lay người, gọi:
- Dậy ăn cơm còn đi học chứ.
- Hôm nay con vẫn đi học hả u? - Nó ngồi dậy, vừa ngáp vừa hỏi. Bởi nó thấy mọi chuyện trong gia đình bị đảo lộn lên tất cả rồi.
- Thế mày không đi học thì đi đâu? - Bà Son súc miệng bên bể nước mưa, giọng lầu bầu.
Đào đã sắp liềm hái kéo xe cải tiến từ trong nhà ngang ra sân. Theo dự tính, hôm nay hai mẹ con sẽ gặt thửa ruộng xa nhất ở cánh đồng Mái Voi. Nhưng Đào làm mà cứ như mơ ngủ. Đáng lẽ phải xếp liềm hái vào xe cải tiến, thì cô lại ngoắc lên mái gianh. Khuôn mặt trái xoan vốn linh lợi, tươi rói, giờ nghiêm lạnh. Cặp mắt thiếu ngủ khô và dáng như mắt người sốt. Chốc chốc lại nhớn nhác nhìn ra cổng. Chỉ cần một tiếng động cũng làm Đào giật mình. Bà Son vừa rắc gạo tấm chăn mái gà mới nở kêu cục cục trong cái bu nứa. vừa nói với Đào:
- Con cứ ra gặt trước đi, để u lên trên ấy xem việc ăn uống của thày thế nào.
Cái Hoa bưng bát cơm ra thềm đứng ăn. Cạnh đấy con chó khoang nằm phủ phục, gối mõm lên hai nhân trước. Cái mõm vừa tròn vừa ngắn, đó là dấu hiệu con chó vừa khôn vừa có nết, chứng tỏ chủ nhân là người rất sành chó. Con khoang lử đừ nhìn những hạt cơm của cô chù nhỏ làm vãi, không buồn la liếm. Cái đuôi xù to như bông lau trắng khẽ ve vẩy. Mắt hiu hiu. Hình như nó cũng đang bận nung nấu những ý nghĩ khuyển mã trong đâu nên coi khinh những hạt cơm thừa! Không khí nhà cửa thật trễ nải rêu rã. Ba mẹ con ngại ngùng không muốn nhìn nhau cứ nơm nớp thấp thỏm thế nào, thấy như mình đã bị gạt ra khỏi không khí đùm bọc của xóm làng..
Khi cái Hoa đi học, thì nó càng thấy đứt đuôi là nó bị hất ra khỏi cái quần thể tươi vui của chúng bạn rồi. Chưa tới lớp, cái Hoa đã thấy đám trẻ con chạy tong tả nháo nhác từ khu trường học bang khu nhà uỷ ban. Hai bên chỉ cách nhau một mặt sân cỏ vẫn dùng làm nơi kéo co cắm trại và đấu bóng trong những dịp hội hè.
- Cái Hoa! Chúng mày ơi, ê cái Hoa!
- Ê cái Hoa!
Đám bạn kin kin chanh non chanh cốm vẫn nhảy dây cùng cái Hoa reo lên, la lên và ánh mắt cửa chúng bỗng nhìn người bạn vẫn được tiếng là xinh đẹp và múa dẻo nhất trong đội văn nghệ của lớp lạ hẳn đi. Chúng nhìn cái Hoa như nhìn một con mèo lạ. Một đứa thì thầm:
- Thày mày ở bên kia kìa! Bị nhốt ở gian nhà kho ấy. Đứng ngoài đếch nhìn thấy! Chỉ nghe tiếng anh ưởng chửi om lên trong ấy.
Đám học trò văn theo nhau chạy à à sang khu nhà uỷ ban, mặc tiếng trống vào lớp gõ bành bành như vỗ mẹt và các cô giáo la gọi eo éo.
- Mày có đi không Hoa?
- Có đi xem thày mày không?
Đứa chạy đi đứa chạy về. Những ánh mắt nhai Hoa hau háu giễu cợt, thiêu đốt. Thằng Đãi hếch, một thằng nghịch nhất lớp, đen và rắn cấc như củ tam thất, từ bên khu nhà ủy ban chạy về. Đến trước mặt cái Hoa nó dừng lại, xỉa cái cầm nhọn và mỏng vẹt vào sát tận mặt, cái mũi càng hếch ngược lên, hét lớn:
- Ê! Con lão đào trộm mả! Ê, ác!
Cái Hoa òa khóc. Hai tay ôm lấy mặt, cặp sách rơi xuống đất. Bọn trẻ càng ùa lại như xem xiếc. Đám con trai nhảy tưng tưng, cùng bắt chước Đãi hếch hô lớn:
- Con ông đào trộm mả! Ê! Có đứa bố đi đào trộm mả!
Cái Hoa như cặp sách rồi vùng chạy. Vừa chạy vừa khóc như bị đánh. Nó chạy về nhà. Mặc phía sau cô giáo gọi ơi ới và tiếng ông hiệu trưởng già quát mắng lũ con trai bất trị. Cái Hoa cứ chạy. Vấp ngã, vực dậy lại chạy, chạy như bị đuổi bắt. Trước mặt nó mọi thứ đều nhòe nhoẹt, ướt đẫm, tối sầm. Cái Hoa như con chim non trúng tên, và kẻ gây ra không phải là đám trẻ thơ đồng lứa, mà đích thị từ chính người đã nâng niu tác thành ra nó!
Sau khi hét lên với ông chú có quyền thế nhất xã, cái Hoa lại chạy riu ríu xuôi đường về nhà. Những người đang gặt đều quay lên nhìn cảnh hờn dỗi của chú cháu ông bí thư. Thủ đúng lặng một lát, rồi đạp xe tiếp. Người nổi rôm lên. Thủ biết hàng mấy chục con mắt đang ném vào người anh, mà chắc chắn phần nhiều là sự hả hê thích thú.
Thủ vừa dắt xe vào cổng ủy ban, thì chủ tịch Sửu và ông hiệu trưởng già đã xua được hết đám trẻ con về các lớp. Sửu chạy lại phía Thủ:
- Đoàn kiểm tra xét hỏi khiếu tố của huyện về rồi anh ạ. Bên nhà ông Phúc đưa họ ra đồi Sim để nhìn hiện trường. Tôi đã bảo cậu Cao cùng đi.
Cao là phó ban công an, là cháu bên nhà vợ Thủ. Anh chàng đã bị cánh nhà ông Phúc gọi giật ra khỏi giường vợ hồi đêm. Vì dạo này ông trưởng ban đi mổ dạ dày, nên mọi việc về an ninh Cao thay. Đưa Cao cùng đi với đoàn kiểm tra của huyện, là Sửu muốn nói anh đã kín cạnh đề phòng nhà ông Phúc nói quá sự thực. Nhưng Thủ lại buông một câu thờ ơ:
- Việc đã thế này thì ai đi chả được. Trên huyện về mấy người?
Sửu vừa nói, vừa sít soa như đau răng:
- Ba người anh ạ. Một công an. Một người của viện kiểm sát và một của ban nội chính. Trước khi ra đồng, họ đã làm việc với tôi và cậu Cao. Như họ nói thì căng đấy anh ạ. Tay công an làm trưởng đoàn tôi chưa gặp bao giờ, mặt cứ lạnh như tiền. Hắn bảo hồi cuối năm vừa rồi ở xã trên đã có vụ mấy thanh niên nghe ai xui rằng ngôi mộ cổ đâu làng là ngôi mộ giả của người Tàu họ giấu vàng đấy! Người ta bảo trên mạn nhà máy Gò Đầm, đã có người đào một ngôi mộ đúng hình dáng như thế đã vớ được hàng ki lô gam vàng! Có cả một con vịt to bằng củ khoai và bốn quả trứng đúc bằng vàng! Thế là mấy thằng hám của bảo nhau thì ra vàng ở ngay trước mũi mà không biết! Nửa đêm rủ nhau ra đào, Nhưng vừa moi được vài sảo đất thì bị tóm. Thế mà tý nữa bị tù ba năm. Vì trong luật hình sự có những việc người ta cho phép xử rất co dãn Từ ba tháng đến ba năm Vì ngôi mộ kia vô chủ không có chủ nhân đứng ra kiện, nên mấy cậu thanh niên chỉ phải vác gạo nhà đi lao động xã hội có nửa tháng thôi. Tôi có hỏi tay công an trường hợp này nếu hai gia đình tự dàn xếp được với nhau không phát đơn kiện thì thế nào? Hắn bảo thế thì tốt quá, huyện đỡ mất công việc. Cả bí thư và cả chủ tịch huyện rất ghét những chuyện lình sình, vì dễ mất uy tín với trên. Nghe nói cụ Luân bí thư rất buồn khi biết bác Hàm là người nhà của anh.
Có mấy người đang thì thầm to nhỏ trong nhà ủy ban vừa thấy Thủ lạch xạch dắt xe đạp đến, liền lảng ngay. Cả ông bõ Vòi hôm nay cũng không chào hỏi niềm nở như mọi khi, mà gù gù cái lưng trần đen cháy đi như úp sấp về phía trước, lẳng lặng rút về căn buồng tối như cái hầm của lão ở phía sau nhà ủy ban Bõ Vòi là anh em cành trên với ông Đáng, bí thư mấy khóa trước ở đây. Ông Vòi đi Nam kiếm ăn từ năm 1954. Sau năm 1975 ông tìm về làng, không những vẫn trơ trọi trên răng dưới dép một mình mà không hiểu ăn chơi mang bệnh thế nào mà Cái Vòi lại phải đệm thêm cao su vào! Vì thế người mới bỏ tên tục, gọi là ông Vòi, ông sứt vòi! Ngày bõ Vòi về làng, ông Đáng đang làm bí. thư vì thế ông Vòi mới được ưu tiên nhận chức tạp vụ và ăn ngủ luôn tại đây. Ngày ngày đun nước, quét dọn và đi mua rượu khi xã động mâm bát. Trong những cuộc chè chén người ta thường chuốc rượu ông Vòi để ông kể những ngón ăn chơi ở Sài Gòn. Lầy lã, tục tiu đến khỉ cũng phải đỏ mặt, nhưng từ bé chí lớn cứ sán đến nghe như bỏ bùa, vừa nghe vừa đế thêm để cười. Mặc dù là người phục vụ nhưng bõ Vòi hách ra phết, không biết có phải lão cậy mình là người thâm niên cố đế, hay là anh trưởng họ của cựu bí thư mà ở đây chỉ trữ có Thủ và Sửu là lão gọi bằng anh, còn lại mày tao tuốt tuột. Ngay Sửu, khi có hơi men vào là lão cũng coi nhờn, ra ý không sợ anh dân ngụ cư. Chỉ có Thủ là bõ Vòi cúc cung tận tụy. ấy vậy mà hôm nay không chào mời, cũng không nước nôi. Lão tránh cũng như những người kia tránh để Thủ đỡ ngượng, hay họ đã dám lờn mặt Thủ?
Hàng ngày đến đây Thủ có niềm thích thú là được nhấm nháp, được ngắm vuốt cái quyền của mình nó hiện ra qua những săn đón, cung phụng ở xung quanh, chứ Thủ đâu phải là người đam mê ăn nhậu. Mà có khi nhấm nháp quyền lực nó còn râm ran thấm thía hơn cả ăn nhậu! Có rượu, có chè thì Thủ cũng uống chơi chơi cho vui, còn nếu cả tuần không co; anh cũng không thấy bị thiếu hụt. Nhưng hôm nay cái điều anh cần nhất, cái đã làm nên bầu không khí để anh hít thở để tự ve vuốt đã bắt đầu bị khiếm khuyết, bị thiếu hụt rồi.
Bước vào nhà, nhìn quanh, Thủ nói cao giọng, nhưng vẫn mát mẻ:
- Nhà cửa sao ngập rác thế này? Đến hớp nước cũng không có. Đây vô chủ rồi chắc?
Sửu cầm chiếc chổi phất trần quét những bã thuốc lào đóm vụn trên mặt bàn. ở dưới kia bõ Vòi xách chiếc siêu đi ra giếng. Cái dáng lật khật của lão như muốn nói bây giờ tôi mới đun đây! Chẳng việc gì phải rối lên! Thật là đã khác xa với tuần trước, đảng ủy họp có tổ chức ăn tươi, vì bõ Vòi là người điếu đóm, nên cũng hưởng suất ăn theo. Rượu xong, lão đánh một giấc bí tỉ đến quá chiều. Đảng ủy họp tiếp, không có nước uống, một người xuống lay, bõ Vòi vẫn nhấm mắt, nằm đườn trên phản nói làu bàu sặc mùi men: Làm thì cũng phải có lúc nghỉ chứ ngậu xị cái con tửu gì thế Vậy mà Thủ chỉ đứng ngoài sân nói mát vào: Vất vả lắm hả bác Vòi? Từ mai chúng tôi thay nhau đun nước vậy nhá! Thế là lão choàng ngay dậy như đã dã rượu hoàn toàn, đi chui chúi cái đầu dùi đục vào bếp nhóm lửa, khiến Sửu và mấy đảng viên khác thèm được có cái uy như Thủ.
Vậy mà hôm nay... Thủ ngồi xuống ghế, nhìn vơ vẩn lên những tấm bằng khen và cờ thi đua treo đầy trên tường. Thế là chiếc phao anh ném ra để đo cái uy của mình, rõ ràng đã tụt xuống quá thấp. Mới hay bụng dạ người đời, thấy thịnh thì thờ, thấy suy thì phản. Nhưng chả nhẽ ta đã suy? Thủ quay sang Sửu đang thông điếu bằng chiếc lông gà, nói:
- Bây giờ tôi đi có chút việc. Anh ở đây tiếp đoàn kiểm tra. Nói với các đồng chí ấy là tôi không có đề nghị gì và tôi rất bực với việc làm của ông Hàm. Vì tôi không biết, nên mới xảy ta như thế. Bây giờ đi theo luật mà xử tội đến đâu ông Hàm với thằng ưởng, thằng Ngạc phải chịu đến đấy. Giờ tôi xuống dặn họ là không được có hành động chống đối.
Rồi Thủ đi về gian sau nhà ủy ban, nơi ba bác cháu ông Hàm vẫn nằm ngồi ngả ngốn. Thủm rộng cửa sổ. Ông Hàm ngồi thu lu trên mặt bàn, im lặng như một con cù rù. Ông ngước lên nhìn Thủ với gương mặt hốc hác tối sầm.
- Em dặn bác điều này - Thủ thò hẳn đâu vào trong cửa nói giọng trầm như vang- Cả thằng ưởng, thằng Ngạc nữa, nhớ là không ai được phá bĩnh, không được gây sự họ bảo sao làm vậy. Tất cả mọi việc để tôi sẽ liệu.
Dứt lời, Thủ khép cửa, rồi xuống sân dắt xe đi ngay. Vừa ra tới ngã ba, chỗ chiếc lều lão Quềnh, thì gặp bà Son cắm cúi đi từ phía trên về. Bà xách chiếc làn đan lõi guột đã ngả màu đen bóng, lấp ló một đùm bún lớn trong ấy.
- Kìa chú Thủ, thế chú định giải quyết việc này thế nào? Bà Son đứng sững nhìn Thủ trưng trối. Thủ cố làm ra vẻ bình tĩnh:
- Sẽ tìm cách gỡ sau, chứ bây giờ biết làm thế nào. em vừa dặn ba bác cháu rồi, nhưng tí nữa bá nhớ nói thêm là phải bình tĩnh, không được chống đối bậy bạ, rồi em sẽ liệu.
Dứt lời, Thủ đạp xe đi ngay, làm như đang rất vội vã. Bà Son đi tắt vào phía sau nhà uỷ ban. Đây là bữa tiếp tế đầu tiên của bà cho người tù. Trong làn là hai cân bún và cút nước mắm ớt. Lúc nãy ở nhà bà Son đang tính không biết nên mang cơm hay mang tiền đi lên quán bà Cả Lợi mua quà cho ông Hàm, thì mẹ thằng ưởng và thằng Ngạc đến, lu loa từ ngoài cổng. Mọi bận hai bà chị họ vốn túng thiếu này vẫn thường đến vay mượn vợ chồng ông Hàm, nịnh bà Son phải biết. Bây giờ vừa trông thấy bà Son, hai người đã nhảy thách lên, rằng là cậu mợ hại tôi, chúng nó trẻ người non dạ, có lớn mà chưa có khôn, nghe ông Hàm xui dại làm điều sằng bậy, giờ biết cậy nhờ ai? Lúc này ngày mùa nhìn đâu cũng thấy việc, thế mà người ăn thì có người làm thì không. Đào đâu ra tiền ra gạo, lấy người ở đâu để đi hầu chúng nó bây giờ? Bà Son biết hai bà chị họ đến bắt đền, giao phó mọi chuyện cho bà đây, nên bà dễ dàng bảo:
- Thôi việc thế nào đã có xã, có huyện, còn chuyện ăn uống hai bác khỏi lo, em sẽ nấu nướng cho cả ba bác cháu.
Sức ăn của hai thằng thiên lôi, thằng ưởng, thằng Ngạc ấy, bà Son biết lắm. Mỗi khi có việc nhờ đến sức trâu lăn của chúng, thì bà phải chuẩn bị có đủ ngọt bùi cay đắng. Thức nhắm phải nhiều, rượu phải như sáo tắm. Riêng hai thằng mỗi bữa đánh bảy cân rưỡi gạo! Cho nên với hai cân bún này ông Hàm chỉ ăn uống cảnh vẻ, còn lại để cho hai thằng ăn lót dạ!
Thấy bóng bà Son, Sửu đi xuống mở cửa. Tay xách theo tích nước, miệng nói nhỏ:
- Đoàn kiểm tra của huyện sắp ở đồi Sim về đấy, bác giục ăn uống nhanh lên.
Rồi Sửu càng hạ giọng như thì thầm:
- Tình hình gay lắm bác ạ! có khi cả đồng chí Thủ cũng bị liên đới!
Mở khoá xong, Sửu quay lại ngay. Mặt bà Son cứ tái bợt. cũng như những người dân quê thuần phác, những từ thanh tra, kiểm soát, toà án, đối với Bà Son nó gợi cái gì rất dao búa kinh khiếp! Bà Son chỉ mở hé một cánh cửa. Bà biết mấy người đang ở xa nhìn lên. Đặt làn bún và tích nước lên bàn, bà nói sẽ sàng.
- Bác cháu dậy đi, súe miệng rồi ăn tạm bát bún.
Bà quay sang ông Hàm, khi Thủ đi, ông lại nằm dài ra.
- Thầy nó dậy súc miệng có nước nóng đây.
Ông Hàm làn như bây giờ mới tỉnh ngủ, vươn vai ngồi dậy, bối rối nhìn vợ. Cả hai cùng thầm kinh ngạc khi thấy những nét võ vàng trên mặt nhau. Thì ra người ta có thề già đi đến mấy tuổi, bạc một nửa đầu chỉ trong một đêm là có thật!
- Thày nó này? - Bà Son nói nhỏ - việc đã thế rồi, giờ người ta bảo thế nào, thầy nó với cháu nghe thế, chứ đừng gây thêm chuyện gì nữa. Rồi chú Thủ chú ấy sẽ liệu.
Ông Hàm ư hàm trong cố, ra vẻ đã nóng mắt. Đây là lần đầu ông phải nghe những lời khuyên giải của vợ. Ông nói gằn giọng:
- Mẹ nó không phải lo. Cả thằng ưởng, thằng Ngạc cũng không phải lo, có gì tao sẽ chịu tất.
- Tôi nói thế là lo cho thầy nó, chứ tôi thì...
Bà Son chưa nói hết câu, thì ngoài cổng có tiếng nhốn nháo. Thấp thoáng những gương mặt lạ. Người xách cặp, người đeo túi. Nối lên phía sau với dáng ông Phúc cao lớn đẫy đà. Ông đội chiếc mũ cát có vòng băng đen. Họ từ ngoài Đồi Sim về. Đang dở những con bún tay, bà Son chợt run lên. Ông Hàm nói gì, thằng ưởng, thằng Ngạc nói gì, bản thân mình trả lời ra sao, bà Son hoàn toàn không biết, không cảm được gì nữa. Mọi tinh thần của bà dồn vào thính giác hướng lên nhà uỷ ban, lòng bồn chồn thắc thỏm. Đến khi Sửu cho người xuống gọi ba bác cháu ông Hàm lên hội trường, rồi một giọng lạ, rất vang dõng dạc đọc những câu lủng xoảng: Theo luật hình sự, công dân Trịnh Bá Hàm cùng một thời gian đã phạm hai tội...
Bà Son bỏ bát đua đang dọn, bíu tay vào song cửa sổ, mắt nhìn dại đi, nhìn mà không thấy gì! Rồi những tiếng à à ầm ầm nổi lên? người ở trong thì dãn ra ngoài, người ở ngoài thì xô vào. Một lớp học đến giờ ra chơi: trẻ con đổ oà sang như ông vỡ tổ, la hét ầm ĩ. Bà trông thấy phó ban công an vừa xua chỗ này, vừa gạt chỗ kia, miệng là hét dọn lối. Rồi người ta dẫn bác cháu ông Hàm đi. Đến khi nhìn rõ ông Hàm đi đầu với cái dáng hơi lùn, to ngang, mái đầu muối tiêu cúi cúi, rõ là cái dáng của kẻ chịu tội, thì bà Son cứ kiễng chân lên để nhìn xem ông có bị trói bị còng không, nhưng đám trẻ con nhốn nháo xung quanh che lấp cả ba người tu. Bà Son tựa vào bờ tường, nhợt nhạt cá chân tay mặt mũi. Những giọt nước mắt dài lăn xuống. Đến khi nghe tiếng gọi:
- U ơi đi về còn ở đây làm gì.
Đào đã đến từ lúc nào. Quần xắn ngang gót chân, chiếc áo với những đóm hoa xanh tươi mát như những hạt mưa rắc lên người, nhưng mặt Đào rõ ràng là đang có lửa. Cặp mắt rừng rực. nghiêm lạnh. Đào ra đồng đã gặt được một lúc. Nhưng thấy khắp nơi người ta cứ rì rầm, nhìn mình soi mói, Đào liền bỏ gặt, xăm xăm đi về. Tới nhà thấy cái Hoa đang nằm khóc rấm rứt, Đào quát ầm lên, rồi đạp xe lên xã với đây vẻ thách thức. Nào, ai dám khinh thường, ai dám bổ báng thì cứ ra đây Đây chưa chết đâu mà vội múa tay trong bị! Đào sẽ lên xã, trước bàn dân thiên hạ để nhìn rõ những ai đang hí hửng rậu chưa đổ mà bìm đã leo. Đồng thời Đào lên đấy để nhìn rõ cái người ném đá dấu tay kia, xem anh ta thoả chí đến mức nào! Xem anh ta có dám nhìn thằng vào Đào không. Ai chứ với riêng anh ta nếu cần Đào sẽ...
Khác với Mỹ Châu xưa, cho tới lúc nhận nhát gươm của vua cha, nàng Mỵ Châu hiền vẫn không mảy may nghi kỵ người yêu mình lại là tên phản bội. Còn các cô gái ngày nay họ đã khôn ngoan lắm rồi! Xin đừng thổi vào tai họ những tấm lòng vàng đá của các tiên nữ xưa? Này này các chàng trai thích mơ mộng! Anh muốn làm Trọng Thuỷ để hưởng cả mối tình và niềm tin của người yêu ư? Giàu trí tưởng tượng quá đấy? Không khéo chính họ lại dẫn anh lên đầu đài!
Với Tùng lúc này, Đào đã quyết? Nhưng Đào lên tới nơi, thì người ta đã dẫn bác cháu ông Hàm đi rồi. Chỉ còn những tóp túm năm tụm ba rì rầm to nhỏ. Trông thấy Cao, phó ban công an, Đào vẫn ngồi trên xe, hỏi:
- U em đâu anh Cao?
Cao hất hàm ngoắt tay. Đào mắm môi đạp qua những mô đất lởm chởm, ném tia mắt choi chói ra xung quanh. Cô nhìn lục lọi nhưng không thấy bóng Tùng đâu. Hay hắn không đến? ờ phải, những người quen sống bằng những âm mưu, thì không phải họ chỉ hành động vụng trộm, mà ngay cả lúc cái mưu thành rồi, họ chỉ dám mừng một cách lén lút mà thôi!
- Về đi U - Đào lại giục bà Son - Chưa chết đâu mà lo! Giờ u cu về trước, con đạp xe lên huyện để xem người ta để thầy ở chỗ nào còn lo cơm nước.
Vừa nói lẩm bẩm, Đào vừa dọn bát đũa, gói chỗ bún thừa còn lại. Hôm nay hai ông thần sùng cũng nuốt không vào, đùm bún vẫn còn quá nửa.
Đừng có dại mồm dại miệng nữa con - Bà Son đưa ống tay lau mặt giọng rầu rĩ. Lên trên ấy xem thế nào rồi về ngay Đào nhé.
Bà Son xách làn, đội nón đi cụm cúp ra về. Một người đàn ông đạp xe từ trong cửa hàng mua bán đi ra. Thấy bà Son, người đàn ông phanh kít xe lại. Bốn mắt nhìn nhau sửng sốt. Nhưng rồi rất nhanh cặp mắt bà Son đanh lại, và miệng bà bỗng bật ra những lời chì chiết:
- Thế là ông đã hại tôi! Đã giết tôi! Bao giờ ông cũng là vừa được ăn vừa được nói!
Ông Phúc, phải đấy, chính là Vũ Đình Phúc, người tình si mê đầu tiên của bà Son, và bây giờ đang là tử thù của vợ chồng con cái, của cả họ hàng nhà chồng bà. Sau phút bối rối, ông Phúc dằn giọng:
- Nhưng tại ai? Bà không thấy làm thế là độc ác à?
Bà Son nhìn trân trân:
- Nhưng ông ấy là chồng tôi!
- Là gì thì cũng phải có đúng, có sai, ác giả ác báo. Bà còn oán cái gì?
Bà Son vẫn chỉ một câu:
- Vì ông ấy là chồng tôi!
- Là chồng bà thì được làm càn à? Được làm việc thất đức à?
Cặp mắt lá răm của bà Son ném những tia chói sắc vào gương mặt vuông vức với cái cằm rất đầy, lởm chởm những râu của ông Phúc:
- Ông không phải bẻ hành bẻ tỏi, ông đi đi!

Chín

Khi Đào kéo chiếc xe cải tiến thậm khích đưa chuyến lúa cuối cùng về tới nhà, thì trời vừa tắt nắng. Đào xếp lúa thành đống giữa sân, quay vào hỏi bà Son đang lúi cui trong bếp, mùi cá kho với riềng từ trong ấy bay ra thơm đậm: Thím Thủ với các cô ấy về rồi hả u?
Bà Son nói vọng ra cụt lủn:
- Về rồi!
Chiều này cả vợ Thủ cùng hai người em gái ông Hàm cùng đến gặt cho bà Son. Bình thường những bữa anh em giúp nhau như thế này là ông Hàm tổ chúc ăn rất sang. Cá kéo dưới ao, gà nhốt sẵn trong chuồng, rượu cất từ mấy hôm trước ông Hàm bao giờ cũng muốn chứng tỏ cả uy thế và sự sung túc với anh em họ hàng.
Nhưng hôm nay mấy người đến gặt giúp đã nói trước với bà Son từ chiều là gặt xong về ngay, vì còn bận nhiều việc ở nhà. Ai cũng biết đó là lý do vờ vịt, cái chính là lúc này còn vui vẻ gì nữa mà ăn với uống.
Bà Son về trước nấu cơm, để rồi còn mang lên cho bác cháu ông Hàm. Bà sợ để Đào mang đi nó sẽ gây nhiều chuyện. Con bé ương như ổi, đúng là giỏ nhà ăn quai nhà ấy. Lúc sáng lên huyện, gặp mấy người ở xã này làm việc trên ấy, thấy họ nhìn với vẻ giễu cợt, Đào đã đớp lại luôn:Thầy tôi sai đã có pháp luật phân giải, chứ chưa phải cần đến mấy ông bà! Bà Son xếp liễn cơm, âu thức ăn và cà men canh vào chiếc làn lõi guột, rồi lấy mảnh áo mưa chèn xung quanh cho chắc. Cơm trắng cá trê ướp riềng kho khô, canh khế chua, đấy là những thứ ông Hàm thích ăn. Mặc dù lòng bà đang tan nát, thấy số mình sao mà đen như quạ, quýt làm cam chịu. Mang tiếng là chồng con nhà cửa đề huề, cả đời chưa biết đến cái đói, cái rét. Nhưng hỏi tó bao nhiêu ngay bà thấy mình được sung sướng mãn nguyện? Có bao nhiêu phút bà được trôi nổi trong ngọt ngào mê đắm? Đã bao giờ bà thấy mình và ông Hàm là một đôi cá thờn bơn, mỗi người chỉ có một nửa tấm thân, một nửa cặp mắt nhìn, một nửa đôi mang thở, nên lúc nào cũng hoà nhập, tuy hai mà một, lúc nào cũng quấn quít đắm say? Đã lúc nào bà thấy mình như vậy? Chưa! Đã bao giờ bà thấy mình là một cành tầm gửi, và ông Hàm là một cái cây vững chắc để bị bíu vào, tựa vào? Chưa! Chưa bao giờ! Nhưng bà đã làm hết bốn phận của một người vợ, tận tâm, tận lực, chứ không một lời thở than oán trách.
Bà Son buộc chiếc làn vào sau xe đạp, quay sang bảo Đào:
- Hai chị em có đói cứ ăn trước đi. Từ sáng đến giờ em nó ăn ít lắm đấy.
Đào vẫn tiếp tục xếp lúa cao như bức tường thành giữa sân, ngửng lên:
- U cứ đi đi con nhớ. Cái Hoa có đói để nó ăn trước.
Xếp xong lúa, Đào kéo chiếc máy tuốt răng khế ở dưới nhà ngang ra sân. Cô cuộn tóc lại thành một búi tròn sau gáy, trùm lên đâu chiếc khăn hoa để khỏi dính thóc dính bụi. Rồi vẫn chiếc áo phông màu be rất bén, hai cánh tay cứ để trần tròn lẳn, trắng hồng, khoẻ mạnh và rất thành thạo công việc. Một tay cầm lượm lúa để sát vào trục máy với những hàm răng khế bằng sắt sáng loáng, một chân đặt trên bàn dận, ấn mạnh, vòng trục càng quay tít mù, phát ra tiếng xình xình dồn dập, khiến những hạt thóc bị bứt ra càng nhanh. Không đầy một phút, lượm lúa vàng mẩy đã trơ trụi chỉ còn là một bó rơm xơ xác, tuốt sạch cả những hạt xanh, hạt lép. Tay Đào liên tục ném rơm ra xa, rồi với ra sau rút từng lượm lúa áp vào trục tuốt. Tấm thân thon chắc mềm dẻo như một cành liễu, như một sợi mây của cô nghiêng nghiêng bên máy tuốt, loang loáng giữa những màn mưa thóc. Một bức tranh sống động hoà mình vào công việc của thiếu nữ đồng quê.
Cái Hoa đuổi trâu vào chuồng, rồi con cón chăn lợn, chăn gà, lặng lẽ như bà cụ non, chứ không nhảy nhót vòi vĩnh như mọi hôm. Con khoang hình như sau những ngẫm nghĩ dông dài quên cả ăn, bây giờ đói ngấu, lại trở về đúng bản tính loại khuyển, nhảy ra tranh từng hòn cơm nguội với đàn gà. Chúng đối thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ bất đồng. Mấy chị gà con mọn xòe cánh, mắt long lên, xù lông cồ, ném ra những tiếng túc túc chói chát, ra điều bực lắm vì bị tranh phần. Còn anh chàng khoang đánh bài lì, chỉ gừ gừ cục cằn, nhưng vẫn tắc lẻm những hạt cơm rất nhanh. Cả góc sân vang động lên. Duy chỉ có hai cô chủ là lặng lẽ, chân tay làm thoăn thoắt, nhưng miệng nin thinh.
Bỗng con khoang sủa lên một tiếng, nhảy chòm ra ngỏ, nhưng rồi nó rít lên ư ứ và vẫy đuôi mừng. Thủ lạch cạch dắt xe từ ngoài vào.
- Chú đấy ạ? - Đào ngừng tay chào.
Cái Hoa vội thụt vào bếp. Nó sợ ông chú đến là vì nó nói hỗn lúc sáng.
- Bá có nhà không? - Thủ hỏi.
- U cháu đi đưa cơm... Đào nói ngập ngừng, nhìn một bên má Thủ với lưỡng quyền nhô cao trong bóng tối nhá nhem. Đào bỗng bùi ngùi thấy ông chú vốn cân đối, dầy dặn của mình giờ chợt gầy đi với dáng điệu thật âm thầm.
- Tý nữa bá về bảo sang chú có việc nhá.
Thủ nói nhanh, rồi quay xe. Đào như sực tỉnh:
- Chú vào nhà uống nước đã. U cháu sang có việc gì ạ?
Thủ buông sõng:
- Việc thầy mày chứ còn việc gì - Rồi Thủ nhảy lên xe mất hút vào bụi hóp đã tối thẫm ngoài đầu ngõ.
Đào tuốt lúa một lúc nữa. Khi thóc đã lùm lùm quanh máy tuốt, cô vun đống lên rồi mới nghỉ. Đêm xuống.
Cái Hoa ăn cơm một mình xong, theo nếp quen, đốt chiếc đèn con mang lên bàn học ở góc nhà. Nó giở sách, nhưng cứ ngồi thừ ra: Những hàng chữ, những con số cứ lỏn nhỏn tẻ ngắt trước mắt nó. Trong trí nó lại hiển hiện một đám trẻ ầm ầm ào ào đứa thì cười cợt, đứa nhìn như xỉa xói. Thằng Đãi cái thằng đen như củ tam thất với hai con mắt rô; như mắt cua, trợn trửng trợn trạo, hét lên the thé: Con lão đào trộm mả! Ê, ác! lại vang lên bên tai. Nghĩ đến buổi đi học sớm mai, cái Hoa chợt so vai lại, rùng mình.
Thấy Đào đang giũ khăn, giũ áo bờm bợp ngoài sân cái Hoa nói với ra:
- Chị ăn cơm chưa? Em nhóm lửa hâm lại canh nhá! Canh cá để nguội tanh lắm.
Đào biết đứa em út đang không thể ngồi yên mà học được, con bé có nết lắm. Đào nói, cố ra vẻ thản nhiên:
- Mày cứ học đi, chị chờ u về cùng ăn một thể.
Rồi cô lấy quần áo, cầm chiếc đèn con đi ra giếng. Có một bóng đen đang đứng nép vào bụi hóp ngoài ngõ từ lúc nãy. Đứng đấy có thể nhìn rõ cả nhà trên nhà dưới ông Hàm, mà trong này không tài nào biết được. Đến cả con khoang tinh khôn cũng không ngửi thấy có hơi lạ. Thấy Đào đi ra giếng, bóng đen lập tức khom người chạy tất qua bãi chè, rồi đi thật nhẹ, thật nhanh, rồi men sát vào hàng rào cúc tần kề ngay bờ giếng.
Đào kéo nước đổ vào chiếc thau to, rồi quay vào buồng tắm quây bằng lá cót sơ sài, tựa vào chính hàng rào cúc tần ấy. Cũng giống như nhiều vùng nông thôn có cách nghĩ rất cộc lệch trong việc ăn ở, sinh hoạt. Nghĩa là nhà thì xây rất to, chuồng lợn chuồng gà cũng xây kiên cố, trộm cắp chỉ có khóc! Nhưng chủ nhân lại không hề nghĩ phải làm cái nhà vệ sinh cho ra hồn, mà chỉ quây mấy cái gianh cỏ rất tạm bợ ở góc vườn như kiểu lính đi dã ngoại. Nhiều người đến nay vẫn thích hưởng cái thú từ cổ xưa nhất quận công, nhì ỉa đồng! Nhà ông Hàm đã bỏ cải thú phóng túng ấy rồi! Nhưng ông vẫn chưa hề nghĩ đến sự cần thiết phải xây một cái nhà tắm cho đàng hoàng. Vì thế nhà trên nhà dưới bề bề, giếng xây kiên cố, bể chứa nước mưa bằng cả gian nhà có mái che tử tế, nhưng cạnh đấy nhà tắm chỉ là một lá cót mỏng manh quây phập phà phập phồng, phía sát rặng cúc tần lại thủng lô chỗ, nhưng bên ngoài là vườn chè ít người qua lại nên cũng không ngại.
Xách thêm một xô nước, rồi Đào kéo ngược chiếc áo phông, trút khỏi người. Một nửa tấm thân với lườn lưng, lườn bụng thon chắc, trắng hồng, mơn mởn trong ánh đèn. Khuôn ngực vun đầy, tròn căng với hai núm nhọn cong vểnh lên cứ như cựa quậy trong lớp vải mỏng của chiếc áo xu-chiêng cùng màu hoa đào nhạt. Khắp nhà tắm ấm sực mùi da thịt con gái rừng rực những nhiệt. Đào vừa vòng tay ra sau lưng để mở khuy trút nốt vuông vải trên người, thì bỗng một tiếng gọi hào hển lẫn trong hơi thở kề sát ngay bên ngoài, phía rặng cúc tần:
- Đào! Đào ơi!
- A! - Đào gần như dựng bắn người lên, hét lạc giọng, tay cuống quít vơ áo cuốn vào người.
- Kìa đứng sợ! Anh đây! Anh đây! - bên ngoài tiếng Tùng lào thào hối hả.
Cái Hoa từ trong nhà lao bổ ra cửa, hỏi hoảng hốt:
- Chị Đào sao thế?
- A không, có con rắn ráo vào nhà tấm, nhưng chi đuổi đi rồi!
Ngó ra nhìn thấy cái Hoa đã vào nhà, Đào vẫn hai tay cầm áo trùm lấy ngực, quay sang rít giọng:
- Anh cút đi ngay! Còn tới đây làm gì? Anh là người lừa lọc! Ném đá giấu tay! Anh còn muốn ám hại nhà tôi những gì nữa hả? Hả?.
Tiếng Tùng như rên lên:
- Kìa Đào! sao em nói thế? Sao nghĩ về anh thế? Anh có làm gì...
- Lại còn làm gì à? Anh tưởng tôi ngu tôi không biết anh làm gì thầy tôi à? Chính anh đã đi báo cả họ hàng nhà anh đến bắt thầy tôi! Anh lại định chối bay chối biến hả?
Đào như muốn hét lên. Tùng vẫn kiên nhẫn đến khổ sở:
- Em nghĩ sai rồi! Vu oan cho anh rồi! Thế chả nhẽ em cho việc làm của thầy là đúng?
- Sai! thầy tôi sai! Nhưng làm gì anh phải bày ra trò bắt bớ đề bêu riếu? Sao anh không ra một mình đánh động để họ bỏ chạy? Anh thù ghét thầy tôi thế à? Anh muốn gì? Muốn yêu con người ta, mà lại bày trò giết bố người ta! Hay anh muốn bố tôi phải van xin anh? Còn lâu nhá? Bố con tôi không hèn thế đâu? Tôi chưa thừa, chưa ế thế đâu? Anh đi đi! Tôi từ anh?
- Kìa em! kìa Đào! Sao anh lại nghĩ xấu về anh đến thế?
- Tôi đã bảo anh đi đi! U tôi về bây giờ thì không ra gì đâu.
- Khoan nghe anh nói đã!
- Hết rồi! Không nói niếc gì nữa! Anh đi đi? Nếu không tôi sùy chó!
Vừa lúc đó tiếng cô bạn Minh tồ giọng eo éo ngoài ngõ:
- Đào ơi! giữ chó cho tao! Đã đi ngủ hay sao mà tối thế này?
Cái Hoa ở trong nhà chạy ra. Bên ngoài rặng cúc tần bỗng phì lên một tiếng thở dài như đồ sụp cả người xuống! Rồi tiếng bước chân đi lạt sạt, ngược về phía hồi nhà. Đằng ấy ông Hàm có mở một ngõ nhỏ thông ra cánh đồng. Tùng đã thuộc tất cả đường ngang ngõ tắt nơi đầy. Nhưng bây giờ sự thông thuộc ấy còn được cái tích sự gì!
Tùng đi tắt qua bãi chè nhà ông Hàm với những hàng, những lối thẳng tắp như dây căng kẻ chỉ. Ra tới đường chính, Tùng không rẽ theo lối về nhà, mà lại men theo bờ đi ngang qua những thửa ruộng đang gặt. Gió thồi lào sào, những bông lúa chín cọ vào nhau ram ráp, nghe khô ấm. Muỗm, cào cào bay tanh tách, phóng những đôi càng gai gai hôi mùi cỏ vào người Tùng. Mùi lúa chín, mùi chân rạ vừa cất thơm ngan ngát khấp cánh đông. Năm nay, hiếm mưa. Bây giờ đã sang tháng năm ta, tháng bước vào làm vụ mùa, nhưng trời vẫn khô rong róc, cao tắt cứ như bị vất kiệt nước. Những mặt ruộng khô cứng lại, đi gặt không cần sắn quần.
Tùng vẫn đi lơ lửng giữa cánh đồng. Phía trước, xa hút trên cao, mảnh trăng non trôi bồng bềnh trong những dải mây mỏng như những chiếc khăn voan vắt tung giữa trời., Trăng trôi hay mây trôi? ở dưới này Tùng cũng như đang trôi nối giữa cánh đồng đêm. Đi vào nơi vô định? Tùng không biết. Anh cứ đi, châng lâng, thập thõm. Lòng rối bời. Thế là hỏng hết rồi! Không cứu vãn được nữa rồi! Không phải chuyện giận hờn đùa bỡn như những lần khác đâu. Tùng biết tính Đào lắm, đấy là người nồng nhiệt cứng cỏi đến bướng bỉnh. Hắn đã quyết thì khó lay chuyển lắm! Thế là tuột khỏi tay con cá to, con chim đẹp nhất vùng này! Buổi trưa nghe mấy người nói Đào đạp xe lên xã, rồi lên huyện với điệu bộ nghiêm lạnh, bất cần như sẵn sàng to tiếng với ai, Tùng đã chột dạ. Tối ăn cơm xong, Tùng lại ra gốc nhãn với lòng bồn chồn, lờ mờ thấy có điều chẳng lành. Bảy giờ đến bảy giờ rưỡi tối, đấy là khoảng thời gian hẹn hò hai người ở gốc nhãn. Đào ở xóm Giếng Chùa ra, Tùng ở xóm Mới lại, ùa đến nhau, ào đến nhau, rồi chỉ còn là sự mê đắm, không còn biết trời đất xung quanh đâu nữa. Tối nay, Tùng lại háo hức ra, rồi ngồi trên cái rễ đội gồ lên khỏi mặt đất, ngước nhìn ba chạc cây đan vào nhau như cái sàn ở trên đầu, lại nghĩ tới buổi tối hôm qua ngồi ôm chặt ngang người Đào trên ấy, trong lúc toàn thân cô trẹo trọ như muốn ngã. Ngồi thẫn thờ một lúc, Tùng choáng người lên khi bỗng nhận ra chắc chắn là tối nay Đào không đến. Giữa lúc chuyện nhà bối rối thế này, mà ta muốn Đào quên hết chỉ nghĩ đến ta, chỉ vì ta, thì thật ích kỷ. Tùng đứng dậy, đi theo lối tắt, lối quen thuộc vẫn dẫn Đào ra gốc nhãn. Đi, mà lòng Tùng vẫn thắc thỏm nghĩ biết đâu lại gặp Đào ở giữa đường. Thấy anh, cô sẽ chạy ào đến, ngã vào ngực anh mà nghẹn ngào thổn thức:Em buồn quá anh ơi! Em xấu hổ quá. Không hiểu sao thầy lại làm như thế. Bây giờ thì hai họ lại càng ghét nhau, việc của chúng mình rồi sẽ ra sao?
Tùng sẽ ôm vai Đào, vuốt tóc Đào mà thì thầm: Rồi sẽ qua! Rồi sẽ đâu vào đấy! Anh cũng buồn nẫu người, thấy chúng mình sao mà gặp nhiều chuyện trắc trở thế. Nhưng ta không lùi bước? Không đầu hàng! Nếu cần ta sẽ dùng tổ chức, dùng luật để ép các cụ! Thế đấy! Tùng đã tưởng tượng ra thế đấy! Thật là hão huyền cho anh chàng tình si! Cho tới lúc nhìn thấy Đào tuốt lúa một mình trong bóng tối sờ sẫm, Tùng vẫn nghĩ vì Đào buồn, nên không muốn ra chỗ hẹn. Đang tìm cách đánh động để Đào biết, thì thật may Đào đã nghỉ. Và khi thấy Đào ra giếng tắm, thì Tùng nảy ra một ý định trêu chọc. Ta đứng sát vào bờ cúc tần, nhìn qua lỗ thủng của phên cót để dành cho em một sự bất ngờ. ờ phải, ngày đi học thầy giáo dạy văn còn đọc cho cả lớp nghe bài thơ nói về anh con trai rình trộm xem người yêu mình tắm kia mà. Khi say nhau thần diệu thế đấy! Đến cái việc tắm táp của người yêu cũng có thể biến ra thơ, ra nhạc được! Đào ơi! ối! Đừng sợ, anh đây! Anh đứng gác cho em đây! Sao anh liều thế? Đi đi cái Hoa nó biết bây giờ. Em sẽ ra ngay. Không ai biết đâu, anh đặc công vào kỳ lưng cho em nhé! Hí, hí! Khi chạy đến bờ cúc tần, Tùng đã tướng tượng ra cảnh đối đáp kỳ thú như thế! Nhưng rồi Tùng đã nhận được gì? Một thùng nước lạnh? Không, hơn thế nhiều! Đào đã tung gio ném trấu, đã hắt bùn ném đá tới tấp vào người Tùng? Thật là tối tăm mặt mũi?
Những lời nanh nọc của Đào, đấy là cô đã cấm chợ ngăn sông, đã rào gai dấp ngõ, đã đào mương đắp luỹ giữa hai người. Đào cô gái tươi dòn, mạnh me và đam mê, tối tối vẫn run rẩy ấm mềm trong lòng Tùng, giờ kiên quyết vạch một đường giới tuyến và đẩy phắt Tùng bang bên kia bờ!
- Ai kia? Làm gì mà lục sục dưới ấy? - Bất chợt một tiếng hỏi như quát ở phía trước, cách Tùng một mặt ruộng.
Cứ đi lơ lững không chủ định, mà Tùng đã tới chân đôi Quả Bầu lúc nào không hay. Đây là quả đồi thấp, nhiều đất đỏ, đất sét rất nạc, nên khắp mặt đồi nham nhở những hố người ta đào đất, nung gạch. Trước mắt Tùng, bên chân đồi, một chiếc lò gạch loại nhỏ đang đỏ rực. Lửa phun qua những kẽ nứt sáng xanh như những lưỡi kiếm. Lửa nung hồng lớp gạch mộc đắp bên ngoài, khiến nhìn ra cả lô gạch như một quả gấc chín đỏ treo trong màn đêm.
Đấy là lò gạch của ông Chỉnh, trung tá Chỉnh, người có cấp hiệu cao nhất làng, nhưng cũng là người vất vả lận đận nhất trong số những người về hưu của Giếng Chùa. Thông thường không ai dở dói đất gạch vào lúc này, vì sang mùa mưa, và là mùa gặt, mùa cày cấy. Nhưng ông Chỉnh đang giở việc. Làm chưa xong nhà trên, mà gạch ngói đã thiếu be bét. Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn, vậy mà đồng chí trung tá dự trù cái gì cũng sát sao vừa đủ, cứ như biên chế quân lính vào các đơn vị, cho nên giữa mùa làm, ông chủ vụng vẫn quyết bới đất nung gạch. Và đúng là thánh nhân đãi khù khờ sang tháng năm tháng mưa ráo trắng ruộng, mà trời cứ như văn vắt, đến cầm sào chọc cũng không ra nước.
Chú Chỉnh, cháu đấy, Tùng đáp - Vừa nói, Tùng vừa đi tắt qua nữa vạt ruộng đang gặt giở, đi thẳng lên lò gạch, cứ như cái khối lửa đỏ rực nầy hút anh từ xa bước tới.
- ờ Tùng đấy à? Đi bắt trộm hay sao mà đi tắt thế?
Ông Chỉnh từ trong chiếc rêu dựng bằng tấm phệnh nứa uốn khum lại như nhà của thuyền chài, quần ống cao ống thấp chui ra. Qua ánh than đỏ, Tùng nhìn rõ ông Chỉnh gầy rộc đi. Khuôn mặt vốn thon nhỏ của ông, giờ càng hóp lại, cái cằm tối đen những râu. Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà, đấy là ba việc lớn của đời người nông dân. Có người lấy được vợ đảm, tậu được trâu khôn thật dễ dàng: nhưng đến khi làm được nhà xong thì kềnh! Vì đã vét bằng kiệt cả vốn lẫn lực! ấy vậy mà ông Chỉnh lại làm tuốt tuột một lèo những việc ấy trong quãng thời gian cuối cùng của đời mình? Gan cóc tía chứ chẳng chơi!
- Chú đốt lửa hôm nào nhỉ? Sao không ra gọi cháu?
Tùng chắp tay đi vòng quanh lò như một ông thợ cả. Mà thế thật, hai lò trước ông Chỉnh vẫn nhờ Tùng ra chỉ đạo trong việc xếp gạch mò vào lò, đặt củi và châm lửa. Ông cứ nắc nỏm khen người con trai của bạn mình rất giỏi trong việc thổ mộc này.
Hôm nay đang định ra, thì ông chú của cô ái đến chơi. Ông là chủ thầu cả lò gạch lò ngói bên Sông Công, thế là ông ấy giúp luôn.
Ông Chỉnh cũng đi vòng quanh lò. vừa kể mình đã học thêm kinh nghiệm xếp gạch mộc của ông chú cô, tức người vợ mới lấy gần đây của ông, vừa nhìn nét mặt âm thầm của Tùng. Bỗng ông kéo áo Tùng, nói đúng theo giọng cha chú, giọng lính tráng:
- Mày làm sao mà mặt mũi như bánh đa nhúng nước thế? Đi đâu về?
Tùng chui vào lều, nằm dài trên sạp nứa kêu lạo xạo. Giọng mềm yếu hẳn lại như cần một ự bảo ban che chở:
- Gay quá chú ơi! Đúng là việc này cháu đã xử trí rất sai lầm! Nên bây giờ không sữa được nữa.
Ông Chỉnh đang ngồi tựa vào thành phên nứa, quay lại nhìn một nửa người Tùng cứ nhoang nhoáng trong ánh lửa lò sửng sốt:
- Có chuyện gì thế? Mới họp đảng uỷ à? Lại có chuyện bè cánh à?
- Không, cổ cánh gì đâu. Chuyện con gái! chuyện tình yêu của cháu!
- Dà! - ông Chỉnh thở ra một tiếng thật trầm.
Tùng ngồi dậy. Và anh kể. Lần lượt, tỉ mỉ với giọng da diết. Đúng như lời Đào nói, Tùng mắc sai lầm lớn nhất là đã không chạy thắng ra Đồi Sim đánh động để bác cháu ông Hàm bỏ chạy, mà lại về giục bà Sang đi báo ông Phúc. Thế là chuyện đã vỡ lở quá to để bây giờ không sao cứu vãn được nữa. Thực là lúc ấy cháu không nghĩ đến đầu đến đũa, chớ không phải muốn gây ra to chuyện. Lúc nãy cháu bỗng sực nghĩ hay tại tình máu mủ nên mặc dù không có ý thức, nhưng nó cứ tự nhiên sui khiến mình như vậy? Phải không chú? Hóa ra con người phức tạp quá, phức tạp đến có lúc mình không hiểu nổi mình?
- Chà chà! - ông Chỉnh chép miệng, rồi quờ tay lên đầu sạp vớ cái cút ông vẫn nói là càng ngày mình càng hỏng đi nhiều? Tuổi càng cao thì tính xấu càng nhiều. Ngày trước mình có nghiện ngập thế này đâu. Ông bảo Tùng:
- Làm một chén cho ấm đã! Vẫn chưa thấy rượu là ngon hả? Thế thi mày còn tốt đấy! - ông ực một ngụm hết cả chén, khà một tiếng, rồi giọng ông cao lên, rượu vào làm tươi hẳn cái thanh đới!
- Khoan hãy bàn chuyện huyết thống và lòng người phức tạp! Nhưng mày bảo là cái Đào nó ghét đến căm thù mày à? Lại căm thù như đế quốc nữa! Thế tức là nó còn yêu mày đấy! Phải lạnh nhạt như không mới là hết, mới là trắng túi thành người dưng nước lã. Chứ còn ghét,. còn căm thừ tức là còn yêu! Lòng người phức tạp mà! Như trường hợp của tao mấy năm trước là đủ biết! Tùng ngồi bật dậy giống như người đang chới với nắm được cọc. Mặc dù cách nói pha chút bông phèng, nhưng đó là cuộc đời thật của ông Chỉnh. Ông bỗng trở nên trầm ngâm khi tự nhắc lại chuyện cũ. Tùng cũng im lặng nhìn những viên gạch trong lò qua khe nứt, chúng chín đỏ đến trong lại. Chuyện riêng tư của ông Chỉnh, và bản thân ông Chỉnh lại liên quan nhiều đến gia đình Tùng!
Trung tá Chỉnh không phải người làng này. Ông ở huyện trên, giáp miền núi. Dạo chiến tranh phá hoại, ông Chỉnh và bố Tùng cùng đơn vị pháo cao xạ bảo vệ khu gang thép. Bố Tùng hơn ông Chỉnh năm tuổi, nhưng cả hai cùng là cán bộ trung đội. Những ngày nghỉ hiếm hoi, Thông bố Tùng, dẫn Chỉnh cuốc bộ hơn hai mươi cây số về nhà mình chơi. Gần nhà Thông có hai mẹ con bà Đỗ: một mẹ một con nhà cửa tềnh toàng, chỗ thủng chỗ dột vì thiếu bàn tay của người đàn ông. Bà Đỗ cù mì nhỏ thó, nhưng cô Lạc con bà lại to béo phây phây. Lạc không đẹp, người to, mặt to, mũi to. Chân tay nần nẫn trùng trục. Nhưng được cái trắng, trắng như cạo! Và hay cười. Cười to. Cười giòn, cứ như cả một chảo ngô rang đang nổ tung trên lửa. Mỗi lần Thông đưa Chỉnh về, Lạc lại sang chơi. Đến lần thứ ba thì Chỉnh và Lạc đã say nhau như bỏ bùa. Lính thời chiến, phát hiện được mục tiêu là điểm xạ ngay chứ không oong-đơ so đọ. Chỉnh vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ sớm, chuyên sống với bà cô ông chú, giờ gặp hoàn cảnh như mẹ con bà Đỗ lạc thì đẹp như trời cho của còn gì. Đơn vị và vợ chồng Thông - Sang cùng lo liệu tổ chức đám cưới cho Chỉnh và Lạc. Sau những ngày tranh thủ ít ỏi, Chỉnh vừa dọi lại nhà, trát xong vách, thì cả trung đoàn được lệnh chuyển quân vào miền trong. Một tuần hương lửa đang nồng, nhưng vui duyên mới, không quên nhiệm vụ là khẩu hiệu của các đám cưới ngày ấy, nên Chỉnh ra đi nhẹ như lông hồng, và Lạc ở lại vẫn cười đôm đốp như tràng pháo chuột hôm cưới.
Vì có chồng đi chiến đấu xa, nên đang từ xã viên Lạc được điều ra nhà bảo mẫu. Mưa không đến mặt, nắng không đến đầu mà công điểm văn cao. Thế là vốn đã béo đã trắng, giờ không phải chân lấm tay bùn, Lạc càng phốp pháp, da thịt càng rời rợi, chưa mó vào đã thấy mát như thạch đông! Cặp mắt hình lá khoai, đuôi kéo dài, nhỏ sắc, cười cứ tít như sợi chỉ se nhấp nhánh ướt. Người ta vẫn có câu: Những cô con mắt lá khoai, liếc chồng thì ít liếc trai thì nhiều! Chả biết có đúng không. Nhưng rồi một buổi tối có một ông già đi qua nhà bảo mẫu bỗng nghe tiếng lục sục bên trong. Chuột hay người? Hay đứa trẻ nào bị bỏ quên thì nguy. Nhìn thấy cửa không khóa, ông đẩy sầm vào thì đúng là có hai đứa! Trên người cũng chỉ phong phanh như trẻ nhỏ chưa biết lẫy, và hai đứa trải chiếu cũng đang lẫy ngay trên nền gạch! Lạc kêu rú lên, hất anh chàng đội trưởng sản xuất từ trên người cô xuống. Anh đội trưởng này chuyên ghi điểm chấm công cho Lạc!
ăn vụng quen mồm. Rồi người ta còn bắt được Lạc với anh đội trưởng mấy lần nữa. Cô ả xem ra đã quá trớn, ngựa không thể quên đường cũ. Chị hội trưởng hội phụ nữ xã xuống khuyên bảo thì Lạc nói đốp rằng sướng như nhà chị, ngày nào vợ chồng cũng ra động vào chạm như vợ chồng sam thì ai chả nói được! Chồng làm việc ở huyện, vợ ở xã, đêm nào cũng ôm ấp hú hí no xôi chán chè, tôi mà được thế, tôi còn đi khuyên giải hay hơn hát, dẻo hơn đàn! Đời người được mấy cái xuân mà hết năm này sang năm khác cứ vò võ một mình, nằm quay bên nào cũng giá như đông. Các bà không bị ăn nhạt đâu có biết thương mèo!
Mấy bà bĩu môi nguýt dài. Lạc đã nhằm đúng vào bà dài mỏ vừa nguýt, vừa làm ra ta đây nhất, tức là vợ ông phó chủ nhiệm lúc bấy giờ, cô quyết hạ mục tiêu! Sau mấy lần mời ông phó chủ nhiệm phụ trách ngành nghề và xây dựng đến kiểm tra những chỗ cần sửa của nhà mẫu giáo, người ta đã bắt được ông phó chủ nhiệm đang hăm hở sửa một chỗ dột trên người Lạc giữa buổi trưa hè cũng ở ngay trong nhà mẫu giáo! Thế là các bà vợ có những ông chồng quý hóa sợ Lạc như sợ một các lò than, một cái vực xoáy. Lơ tơ mơ là các ông chồng bị hút vào đấy, bị cuốn chìm vào đấy, đến kéo không ra? Mà đám đàn ông cũng khỉ gió lắm kia! Toàn những mặt mũi có chức có tước cả, nói năng đạo mạo như tiên như phật, nhưng hễ đứng riêng với Lạc là đầu mày cuối mắt cứ chớp tía lia! Lạc đã làm cho mấy ông trong ban quản tri điên đảo cả lên. Đi nói dối con, về nói dối vợ điêu như ranh! Mấy bà vợ cứ nhớn nhác, táo tác như gà đẻ bị quạ rình!
Sau chiến dịch đường 9 - Nam Lào 1971, Chỉnh được về thăm nhà. Gầy xanh vì sốt rét. Ai cũng hồi hộp chờ xem những chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng chẳng có chuyện gi suất! Lạc đã tưới lên ngực chồng những cơn mưa nước mắt nồng ấm và đêm đêm những lời nỉ non như chất cường toan làm rạn nứt được cả đá, đã làm cho anh lính chiến trường mềm đi như bún! Suốt ngày Lạc quấn quít, nấu nướng chăm sóc chồng như chăm sóc bố già, như chăm sóc con trẻ. Đôi má bánh đúc cứ đỏ rừng rực. Đi lại núng nính, tung tẩy. Cô sung sướng. Cô hạnh phúc. Cô yêu chồng. Chỉnh bị vợ hút đến kiệt sức. Nhưng anh sung sướng. Anh hạnh phúc. Anh yêu Lạc. Rồi Chỉnh lại đi. Lạc làm đến ba mâm thịnh soạn. Mời cả ban quản trị đến dự. Có đến mấy ông cứ liếc nhìn nhau ngượng ngập! Mọi người đã tưởng thế là yên chuyện. Nhưng rồi Lạc vẫn chẳng chửa đẻ gì. Người vẫn cứ ngồn ngộn, chắc nịch như sồi. Gần một năm sau Lạc lao mình vào một mối tình bão lốc khác. Đó là chủ nhiệm cửa hàng mua bán xã. Một gã đàn ông bẻm mép và trai lơ. Da đen đỏ, cuồn cuộn những cơ bắp như một anh thợ đấu chuyên nghề. Anh ta có đến bốn con gái, đang ấm ức chưa có người nối cái dõi có nhóm máu D của mình. Vợ gầy xanh như cái dải khoai, tuồng như bị chồng con hút cho cạn lực. Cánh đàn ông tán rằng chị vợ đến phát kinh cái khoản ấy của anh ta.
Chủ nhiệm cửa hàng gặp Lạc, đôi bên đến với nhau như nam châm hút sắt. Cuồng nhiệt đến mưa rơi chớp giật! Chị Sang vợ anh Thông, người đã góp phần vun đắp nên mối tinh của vợ chồng Lạc, đến lấy tình chị em khuyên giải Lạc. Vì anh em không có ai, bà mẹ già thì lẩm cẩm, nên Lạc chỉ còn nể chị Sang, người đoan trang phúc hậu và Lạc chịu được vì chị Sang không bao giờ lên mặt dạy đời. Nghe chị Sang nói, Lạc khóc nói ngàn ngạt: Nhưng chả nhẽ đêm nào em cũng đổ thóc vào xay! Đồ gạo vào giã! Không như chị vắng anh ấy còn có ba đứa con để lo ăn, lo việc. Em chẳng có gì để mà lo. U em có ăn đến bốn bữa một ngày, em cũng chạy thừa gạo. Em biết em có lỗi với anh Chỉnh, nhưng em khổ quá chị ơi! .
Chủ nhiệm cửa hàng bị kiểm điểm. Tối tối chị Sang cứ gọi Lạc sang chơi cho khuây khỏa. Nhưng Lạc đâu có thích kiệu khuây khua suông nhạt như thế! Ngồi ăn sắn nướng, văn nói vẫn cười, nhưng mặt Lạc cứ bấn thân hẫng hụt như nhớ như quên cái gí. Một buổi tối. chị Sang luộc một rá ngô nếp còn non, đang đọng sữa, ăn vừa mềm vừa béo vừa ngọt. Chờ mãi không thấy Lạc, chị Sang phải chạy đi gọi. Thì thấy Lạc đang thay quần áo Lạc nói tối nay cô Diễm, y tá ở trạm xá, rủ Lạc lên phố huyện xem phim.
- Chị cứ để phần tý nữa về em sang ngay.
Rồi Lạc đi vội vã. Chị Sang bỗng sinh nghi. Lên phố huyện những năm cây số sao nó không đi xe? Mà xe của Lạc thì tốt nhất làng, việc gì nó phải mượn ai. Tính tò mò bỗng nổi lên đến không thề kìm nén được, khiến chị Sang không về, mà đi tắt qua mấy bờ ao ra cánh bãi Chân Vạc trồng bạch đàn ở cuối làng. Vì chị nghe người ta kháo nhau rằng đấy chính là cái ổ chuồn chuồn của Lạc và anh chàng chủ nhiệm cửa hàng. Anh chủ nhiệm cửa hàng ở ngay xóm Trại chứ đâu xa. Nhưng trước đây anh ta làm chân chạy vật tư trên huyện, nghe đâu cũng mắc tội chấm mút, đã phải kiểm điểm, nên anh đã chạy về xã để nấp dưới bóng ông Đáng bí thư Đảng ủy là người có họ hàng. Vì thế bây giờ anh với Lạc mới có cơ hội để lửa gần rơm!
Chị Sang đi len lén dưới những bụi cây tối thẫm, mặt nóng bừng vì tự thấy ngượng như mình đang làm một cái gì khuất tất. Nhưng vì chi chưa tin những miệng lưỡi đồn đại, cho là họ hay đặt điều. chị còn cãi thay cho Lạc nữa. Cái gì cũng phải hai năm rõ mười. Trăm nghe không bằng một thấy!
Đang bước sẽ sang, chị Sang bỗng hốt hoảng thụp xuống, vì chị đã thấy rõ dưới gốc một bụi bạch đàn rùm ra phía trước có hai bóng người đang ôm quấn lấy nhau, toàn thân họ cứ vờn qua vờn lại, rồi họ lại buông choàng nhau ra. Gã đàn ông bỗng nhảy một chân cò cò quanh người tình, y hệt anh gà trống xòe một bên cánh như chiếc quạt giấy, rồi nghiêng người đạp vòng quanh con mái. Chị chàng ngồi xổm xuống, ôm mặt cười rúc như bị cù. Anh chàng như càng phởn đến tột cùng, liền nhào người cắm đâu xuống trồng cây chuối! Hai chân chĩa ngược lên giãy giãy, rồi đỗ đánh uỵch vào vai cô ả! Tiếng cười khùng khục.
Chị Sang chợt nhớ tới một lần anh Thông đã nháy chị ra nhòm đôi mêo đang vờn nhau trước lúc vào ca. Con cái nằm dán xuống đất, miệng rên những tiếng ngao ngao đầy nũng nịu mời mọc, trong lúc con đực cứ nhảy vòng quanh như đang trố một bài quyền vừa mạnh mẽ, vừa duyên dáng, Rồi đến cao trào là chàng ta tung mình lên, và như một tay đánh đáo thiện nghệ, chàng rơi từ trên cao xuống vừa nhẹ nhàng, vừa chính xác, chàng hạ xuống đúng lưng nàng trong một tiếng ngào thật hùng hồn đầy sinh lực!
Trước mắt chị Sang, đôi mèo ngườicũng đã tới giờ cao điểm. Lạc đang rên hức hức đầy mãn nguyện trong bụi cây. Chi Sang khom người đi giật lùi, rồi vùng chạy về. Người bỗng không lâng nôn nao và miệng thì khô khát như vừa vượt dốc giữa trưa hè. Sáng hôm sau nhìn Lạc đã rũ hết vẻ ủ ê rầu rĩ, hai má lại phừng phừng như ướp lửa, chân đi con cón nhún nhảy như trẻ được quà. Chi Sang bỗng nuốt một tiếng thở dài, và bỗng dưng chi vừa giận, vừa ghét, mà lại vừa như ghen ghen với Lạc! Chị đang hồi xuân!
Giữa lúc ấy tại chiến trường Quảng Trị, đại đội trưởng Chỉnh cùng đơn vị đang ở sát nách địch bên bìa rừng Đồng Lâm. Sau khi giải phóng xong khu vực Thành cổ đại đội của Chỉnh và Thông vác súng 141y5, loạt súng nhỏ của pháo phòng không, cùng đơn vị bộ binh đánh thốc vào phía tây giáp Huế.
Đã vào mùa mưa. Nước đổ sầm sập trắng rừng. Địch huy động tổng lực mọi thứ quân trên trời, dưới đất nống ra quyết liệt. Trận địa của Chỉnh và Thông - hai người vẫn được ở bên nhau, Chỉnh đại đội trưởng và Thông chính trị viên - ngày nào cũng bị pháo địch chà xát, chẻ tướp cây cối cày đất lên như voi quần. Nhiều cái chết của đồng đội đến suốt đời Chỉnh không thể quên. Chết vì pháo phát ngang người. Pháo tiện tứ chi. Chết trong trận đánh giáp lá cà không cân sức. Và đói, và mưa làm sập đường, nước ngập lút cát ngầm, nên bên ngoài không tiếp tế vào được. Gạo của cả đại đội chỉ còn tính từng bát. Đến bữa hái từng ôm rau môn thục, rau tai voi, và một thứ rau có vị ngọt mà lính ta gọi là rau mì chính, rồi độn thêm ít gạo như rắc lá phép: nấu cháo húp. Người nào người ấy gầy hóp lại, không còn đoán ra tuổi. Ai cũng mắt trắng môi thâm vì sốt rét. Hạnh phúc lúc ấy thật đơn giản là được ăn một bữa cơm no, ngủ có chiếu và buộc màn thật căng bốn góc.
Hàng ngày chính trị viên Thông phải trực tiếp điều hành công việc ở khu vực hậu cứ đặt bên bờ suối dưới chân đồi. Một buổi sáng địch câu pháo phạt sạch cây cối, rồi máy bay lên thẳng đáp xuống đổ quân ngay dưới chân đồi bên bờ suối đúng chỗ đại đội đặt hậu cứ. Một trận đánh giáp lá cà giữa bọn lính dù, lính thủy đánh bộ của địch với những người chưa quen đánh bộ binh của ta, gồm tất tật anh nuôi, quân khí, y tá và mấy chiến sĩ đang ốm do chính trị viên Thông chỉ huy. Biết bên ta không cân sức, Chỉnh dẫn một tổ cắp AK từ đỉnh đồi băng xuống. Nhưng chưa tới nơi thì chiếc HU-1A đã cất mình lên, hối hả bay về Huế. Mắt Chỉnh hoa lên choáng váng khi anh nhìn thấy một... hai...ba... bốn thi thể chiến sĩ ta nằm ngổn ngang. Nắng sớm chiếu trên những vũng máu chảy đẫm bên người. Không nhìn thấy chính trị viên, Chỉnh gào lên, giọng khản đặc:
- Anh Thông! Anh Thông đâu rồi?
Nghe tiếng Chỉnh, cậu chiến sĩ quân khí bò từ trong bụi cây. Một cánh tay bị thương, cậu ta bị cuốn bằng cả chiếc áo lót màu đất thó to xù. Cậu khóc nức lên:
- Đại đội trưởng ơi, chính trị viên chết rồi! Chính trị viên tự sát rồi!
- Cái gì? Mày bảo cái gì? Hả?
Chỉnh nhảy bổ lại, hỏi như quát. Cậu chiến sĩ càng khóc rống. Cậu tức tưởi kể:
- Quân địch đông quá. Chính trị viên Thông chưa kịp bố trí đội hình, thì chiếc máy bay lên thẳng đã hạ xuống như mọt cơn bão. Địch từ trong đó nhảy túa ra. Trong khi ấy hai chiếc khác vẫn bay sát ngọn cây, thấp và khuất đến mức súng đặt trên đồi không hạ nòng bắn được. Cả khu rừng náo loạn như bị nhồi vào giữa cơn lốc. Đạn bắn thẳng, cối cá nhân của địch từ trên bắn xuống, từ chiếc máy bay vừa hạ bắn ra như tung một trận mưa lửa. Ta bị mất chủ động ngay từ đầu. Khi phát hiện ra khẩu pháo mới chữa đang để trong ụ làm dự phòng, đám lính dù llên nhào vào như hổ đói thấy mồi. Chúng hò nhau lôi ra đưa lên máy bay. Một tốp khác vội vã khiêng hai thằng chết, một thằng bị thương lên theo rồi máy bay nổ máy, bộ cánh quạt chém giồ ào ào cuốn bụi đất và lá cây mù mịt. Mấy thằng lính táo tợn còn định kéo một tử sĩ của ta lên máy bay. Chính tri viên Thông từ bên kia bờ suối nhào sang xả AK. Anh bắn bị thương một thằng nữa. Chúng vừa bắn lại vừa dìu nhau nhảy vội vào khoang eửa sắt. Chiếc HU-1A cất mình ngay lên khỏi mặt đất. Đạn từ máy bay vẫn vãi ra như trấu. Tất cả những việc ấy bọn địch làm rất nhanh. Phải nói là chúng khá thành thạo. Đến mức khi cả ba chiếc máy bay đã khuất trên đầu rừng, thì một vài người ít ỏi sống sót ở hậu cứ mới thấy hết vẻ khốc liệt của trận đánh chớp nhoáng.
Chính trị viên Thông người đây bụi đất vàng khè, đầu không mũ chân tập tễnh đi quanh khu hậu cứ nhàu nát, khét sặc mùi thuốc súng, mùi nhựa cây đắng hắc. Vừa đi anh vừa len rẩm: Chết hết rồi! Chết hết rồi! Trời ơi!. Anh cúi xuống nắn tay chân, vuốt quần áo từng liệt sĩ, miệng nói khảo khảo như dặn dò điều gì. Đến khi tới chiếc hầm cất khẩu súng dự phòng, Thông mới sững người ra, đứng như trời trồng. Vì lúc địch cướp khẩu súng, Thông đang cùng hai chiến sĩ nuôi quân chống trả với đám lính rằn ri bên bờ suối, cạnh mấy ruột tượng gạo. Thế là anh đã để lọt vào tay địch vật quý nhất của người lính. Dạo ấy địch ra rả trên đài, trên báo về thành tích bắt tù binh, thu vũ khí Việt cộng. Từ cái bình tông, cái mũ cối của ta, chúng vớ được, cơ quan chiến tranh chính trị của chúng cũng mang ra triển lãm, rồi dựng lên những trận đánh rùng rợn để khuếch trương chiến quả. Vậy thì cả một khẩu súng vừa chữa xong này, chúng sẽ ầm ĩ thế nào?
Thông bỗng đưa tay lên bứt tóc, đấm ngực, giọng khản đặc đau đớn:
- Chết hết rồi! Mất hết rồi! Thế này thì còn sống làm gì! - Và sự khủng khiếp đã đến! Cậu chiến sĩ quân khí lúc ấy vừa bò lên khỏi một hố đất, gọi líu lưỡi Chính trị viên, em đây!. Nhưng một phát súng ngắn đã nổ đánh đoàng!
Chính trị viên Thông đổ người xuống một bờ hào. Người chiến sĩ quân khí hét lớn và cũng ngã vật ra.
- Phải im ngay! Phải khâu ngay miệng lại! Tuyệt đối không được nói chuyện này với ai nghe chưa? - Chỉnh nắm áo cậu chiến sĩ quân khí dặn dò mà như quát nạt. - Coi như anh Thông hy sinh vì đạn giặc nhớ chưa?
Người chiến sĩ thề sẽ ngậm miệng suốt đời! Dù còn trẻ, nhưng anh thấy hết sự nghiêm trọng lâu dài trong việc tự kết liễu đời mmh của chính trị viên Thông.
Chỉnh thay mặt cấp ủy và ban chỉ huy đại đội báo cáo sự thiệt hại của bộ phận hậu cứ với các tổ chức cấp trên. Tuyệt nhiên không ai nghi ngờ gì về cái chết của chính trị viên Thông. Địa phương và gia đình nhận được giấy báo cáo vào cuối năm ấy đã làm lễ truy điệu trung úy Bùi Đức Thông hy sinh anh dũng trong chiến dịch Quảng Trị. Cho đến mái sau này Tùng nhập ngũ anh mới hiểu được sự thực về cái chết của bố mình trong một dịp tình cờ...
Ngay sau mùa hè đỏ lửa ấy, Chỉnh cùng đơn vị phối thuộc vào sâu hơn. Làm một lèo cho tới 1975, anh cùng đơn vi đánh thốc từ trên cao nguyên xuống Nha Trang. Đến khi đã hoàn toàn im tiếng súng, những người lính trận từ khắp các cánh rừng đổ về với nước da sốt rét bợt bạt, áo quần cũng bợt bạt. Trên người lỉnh kỉnh búp bê, cả những anh lính trẻ, chưa biết mùi vợ cũng búp bê vắt vẻo trên chiến ba lô? Và khung xe đạp. Chỉ có thế. Những thứ quà nghèo nàn, trông vừa thương vừa tội như chính những chủ nhân đang vô cùng hăm hở kia.
Trên chốc ba lô của tiểu đoàn trưởng Chỉnh cũng có một con búp bê váy áo sặc so và vài tấm vải may quần áo phụ nữ. Anh chỉ nhận được thư của Lạc ngày mới vào chiến trường Trị Thiên. Một lá thư da diết mùi chăn gối vợ chồng. Lạc nói cô nhớ những ngày sum họp, những đêm ái ân đến bồn chồn cả người. Đọc thư vợ Chỉnh bâng khuâng đến nao cả lòng. Anh không dám cho ai đọc, kể cả Thông. Bởi những lời lẽ sướt mướt ấy bấy giờ người ta kiêng kỵ lắm. Chỉnh không trách, mà chỉ thương Lạc vì quá đậm tính đàn bà, thiên về tình cảm, giờ phải xa chồng đằng đẵng kể cũng tội.
Chỉnh về tới nhà đã nhập nhoạng tối. Căn nhà trên một gian hai chái, kiểu nhà từ cổ xưa, mái lợp lá cọ gió khua xào xạo Tối mò và im lìm lim. Dưới cái túp dùng nấu bếp, lửa lom đom. Nghe tiếng gọi, bà Đỗ còng gập lưng như người đi ngang lập cập bước ra. Khi cặp mắt bạc mờ như khói của bà đã nhận ra Chỉnh, thì bà ngã xuống òa khóc, nói như lạy người con rể có tấm lòng quý hóa hiếm thấy:
- Tôi có lỗi với anh! Tôi có lỗi với anh? Tôi đã không bảo được nó không dạy được nó để nó hư thân mất nết, nó không biết tấm lòng vàng của anh.
Lạc đã bỏ đi với chủ nhiệm cửa hàng từ tháng trước. Cô nói với bà Đỗ là cô không thể gặp Chỉnh được. Anh hãy coi như mình chưa vợ! Chủ nhiệm cửa hàng cũng bỏ cả vợ con để ném mình vào gió bụi cùng với Lạc. Anh ta đã bị khai trừ đảng và thôi việc khi ông Đáng nghỉ bí thư. Lạc cũng không được giữ trẻ từ lâu. Nhưng đôi sam ấy vần không ngán, như là đến bước ấy thì phải bám vào nhau để sống Họ dắt nhau lên tỉnh. Không ai biết họ ở đâu và sống bằng gì chỉ đoán chắc chủ nhiệm cửa hàng cũng phải có lưng vốn kha khá, nên họ mới dám đánh cuộc với đời như thế. Khi bà Đỗ mất được hơn hai tháng, và lúc ấy Chỉnh đã lấy cô gái vẫn người Giếng Chùa, một nữ quân nhân chuyên nghiệp phục viên, tuổi đã cứng, nhưng là người thật tốt, thì Chỉnh lại nhận được tin về Lạc? Vì đám ma bà Đỗ, Chỉnh đã cùng dân làng lo liệu rất chu tất, bởi lúc này Chỉnh đang dự một lớp tập huấn của quân khu rất gần nhà. Sắp đến cúng một trăm ngày bà Đỗ, Chỉnh bỗng nhận được giấy báo ra bưu điện nhận tiền. Anh đã nhận năm trăm ngàn đồng từ Sài Gòn gửi ra. Với số tiền ấy bấy giờ có thể dựng được một cơ đồ. Cùng với tiền là lá thư của Lạc, có viết mấy dòng ngắn ngủi: Em biết anh đã hết lòng với u em. Thời buổi này được người như anh chả có nhiều! Với anh, em có tội lớn, nên bây giờ em rất mừng cho anh. Em biết cô ái là người tốt từ bé. Em gửi ra số tiền mọn này cảm phiền anh trang trải hộ em với những ai mà u em đã vay, chứ em không dám trả công anh. ở trong này em đã có một sạp hàng để sinh sống. En không ở với anh Túc, chủ nhiệm cửa hàng trước đây nữa, vì anh ấy chỉ muốn có con giai mà em thì hóa ra là người vô sinh. Chả lẽ giời phật đã bát tội em! Thôi trăm lạy anh! Ngàn lạy anh!
Chỉnh bàng hoàng cả người. Sao cô lại biết rành rẽ đến thế? Cứ như ma xó! ồ phải, xã này đã có mấy người chuyển vào trong ấy. Họ ra vào buôn bán như đi chợ. Chim nhớ tổ, cá nhớ đàn, Cô ấy đâu phải đã là người hỏng cả. Chỉnh cứ nghĩ vẩn vi mãi. Đấy là lá thư và tin tức cuối về Lạc. Bây giờ đến ngày giỗ bà Đỗ, vợ chồng Chỉnh vẫn làm cỗ thắp hương để tưởng nhớ bà...
- Cứ yên tâm, đừng lo lắng quá, tao cam đoan là cái Đào nó vẫn yêu cậu! Tính kỹ đi, cậu gặp nó ở chỗ nào? Vào lúc nào? Để tao sẽ gập nới chuyện với nó. - Trung tá Chỉnh đang đóng vai người hướng dẫn viên cho thượng sĩ Tùng. Mặt anh chàng thất tình đã tươi lên, lắp ló hy vọng. Nhưng rồi Tùng xua tay ngay.
- Nhưng mà chưa thể gặp hắn được chú ạ. Hắn bướng bỉnh lắm! Gặp chú hắn sẽ không nói gì, thậm chí còn vui vẻ nhận lời gặp cháu. Nhưng thấy mặt cháu là hắn sẽ dồn ngay: Anh bỏ ngay cái trò nhờ vả mối lái ấy đi! Việc gì anh phải thở than với ai? Anh tưởng thày u tôi báu họ hàng nhà anh lắm đấy à! Vân vân! Đại khái sẽ thế đấy chú ạ! Tính khí hắn cháu biết lắm! Thôi hãy cứ để thư thư!
Uống một chén nước chè hãm đặc trong bình tông, Tùng hẹn hôm nào ông Chỉnh giỡ gạch, anh sẽ giúp một tay, đoạn đứng ra về. Nhìn cái dáng đậm chắc của Tùng mờ dần dưới chân đôi, ông Chỉnh chợt nhớ cái hôm Tùng ở đơn vi về tranh thủ đã sùng sục đến tìm ông.
- Chú có nhớ anh Liêm là chiến sĩ của đại đội chú không?
Khi cô ái vừa xuống bếp, Tùng ngửng lên hỏi. Ông Chỉnh bỗng chột dạ. Chiến sĩ dưới quyền ông có đến hàng trăm, nhớ sao xuể? Nhưng riêng Liêm thì ông nhớ. Bởi vì ông đã giao hẹn với Liêm là phải kháu mồm lại! Liêm là anh chiến sĩ quân khí ấy? Thế mà hắn đã thất hứa rồi! Đã cắt chỉ khâu đi rồi? Màn bí mật đã được vén lên!
Ông Chỉnh vờ ngạc nhiên:
- Liêm nào nhỉ? Đã bao nhiêu năm, ai mà nhớ hết tên chiến sĩ trong đơn vị mình.
- Anh Liêm trước làm quân khí trong đại đội của chú với bố cháu Bây giờ anh áy đang làm chủ nhiệm hậu cần của trung đoàn cháu! Tùng hạ giọng, mắt chơm chớp nhìn xuống.
Thế là đột ngột ông Chỉnh nổi cáu ông hỏi dồn:
- Thế thằng Liêm nó dọa mày những gì? Nó muốn chứng tỏ cái gì? Đến nước này thì tao phải lên tận nơi đốp vào mặt nó! Chính nó là thằng sợ lên trận địa nhất, cho nên viện mọi lý do là súng hỏng hóc phải mang xuống hậu cứ để chữa cho yên tĩnh. Đã mấy lần tao với bố mày vặc nhau vì nó. Bố mày thì chỉ sợ nó chết vì lúc ấy chỉ còn mình nó là biết sửa chữa. Tao thì muốn đưa nó lên chốt để có gì sửa chữa ngay trận địa. Nó đã ỷ vào bố mày để nằm ở hậu cứ. Thấy mặt tao là nó lảng, nó tránh. Bây giờ nó định lên mặt cái gì? Nó muốn đảo ngược cái gì?
Tùng hốt hoảng:
- Không, anh ấy có nói gì đâu. Khi biết cháu anh ấy nói chuyện riêng thế thôi.
Ông Chỉnh vẫn giận đến run cả tay.
- Nhưng về cứ nói đại đội trưởng của nó mà lính tráng vẫn gọi là Chỉnh húc ấy, vì tao học hành ít, đánh nhau cứ lấy cái gan lỳ ra húc, rằng lão Chỉnh húc chưa chết đâu! Chớ có vừa khỏi vòng đã cong đuôi? Thất hứa với tao là không xong đâu! Còn mày không việc gì phải cắn rứt. Lương tâm là cái khỉ gió gì? Chả nhẽ người dám nhận cái chết giữa trận tiền lại không có lương tâm? Bố mày đã hy sinh như những người hy sinh hôm ấy, nghe chưa?
Quả nhiên ông Chỉnh không thấy Tùng nhắc lại chuyện đó nữa. Ông Chỉnh lại với cái chai, chiêu một ngụm nữa. Người nửa nằm nửa ngồi, mắt lim dim gà gà. Chỉnh bỗng nhớ đến Thông, và lại thầm hỏi sao anh ấy lại xử sự hấp tấp thế hả? Quá uất ức vì tổn thất của mình, hay anh ấy sợ trách nhiệm? Sự đời thật tai quái. Nhiều thằng chẳng có trách nhiệm gì, chẳng nghĩ đến ai khi giáp mặt cái chết, thì bây giờ thì sống quá vung vinh. Đi đâu nó cũng trương cái mác đã qua chiến trường để được mọi người nể trọng, bắt xung quanh phải có trách nhiệm với hắn! Như thằng Quản ấy, cái thằng xạ thủ phục phịch đã ba lần đái ra quần khi máy bay lao xuống quá thấp. Vì dạo ấy đạn tiếp tế chưa vào được, gạo phải ăn dè và đạn cũng phải bắn dè. Chỉnh quyết định phải để máy bay xuống thật thấp, rồi nghe lệnh anh mới được nổ súng. Thấy máy bay lao xuống cứ như cắm vào đầu mình, chưa kịp bắn những viên đạn lửa, thì cái súng phun nước của Quản đã phóng ra ướt đẫm quần! Những ba lần! ấy vậy mà vài năm sau khi về tỉnh đội, Chỉnh đã thấy Quản chẫm chệ ngồi ghế phó phòng rồi! Nghe nói Quản luôn luôn khoe đã qua chiến dịch đường 9, chiến dịch Quảng Tri. Mấy trợ lý lính cậu hốt Quản ra mặt! Còn Liêm, khi Chỉnh và Liêm khâm liệm Thông và những người hy sinh hôm ấy, Liêm cứ run cầm cập. Rồi Liêm cáo ốm nằm bẹp đến hai ngày trong hầm. Sang ngày thứ ba, đang đánh nhau thì một khẩu súng bị tắc, Chỉnh xuống hầm lôi Liêm ra, chỉ vào chỗ súng hóc, bảo: Chữa đi, tao đứng che đạn cho mày đây rồi! Giờ Liêm đang là thiếu tá chủ nhiệm hậu cần trung đoàn, nghe nói béo tốt lắm và cũng hay khoe cái tem đã từng vào sống ra chết với lớp đàn em. Liêm có hứa với Tùng là sẽ về thăm Chình, nhưng chờ mãi không thấy. Hay Liêm vẫn ngại Chỉnh húc?

Mười

Tùng ra tới ngã ba, nơi có chiếc lều lão Quềnh, thì gặp bà Son dong xe đạp đi trước, đi sau còn một người đàn bà nữa. Tùng chào, bà Son vẫn trả lời dịu dàng như mọi ngày. Tùng thấy mừng, bởi thế có nghĩa là Đào không nói những nghi ngờ của mình với bà.
- Bá chờ em một tý, em vào lấy cái này.
Người đàn bà đi sau nói với bà Son, rồi đến bên chiếc lều lão Quềnh kéo tấm cánh đại lách vào thán thuộc như chủ nhân.
Đó là người đàn bà có đứa con chết hôm trước ở đây. Mấy hôm nay chị làm chân rửa bát quét dọn ở quán phở bà Lợi béo. Nhưng bà Lợi trông người phương trượng thế mà lại kiệt vắt cố chày ra nước, cho chị ăn đói quá, mà công việc thì luôn chân luôn tay từ sáng tới tối. Buổi chiều chị chủ ý gặp bà Son, nói là có cần một chân gặt thuê, chị xin giúp. Đúng là hai mẹ con bà lúc này rất cần thêm người giúp việc đồng áng.
Khi bà Son và người đàn bà về tới nhà, Đào vẫn chờ cơm. Cô và Minh tồ đang rì rầm ngoài thềm. Trong nhà cái Hoa ngồi học mà hai mắt cứ ríu lại. Đào dọn cơm cho ba người ăn. Người đàn bà nói ăn rồi, nhưng bà Son cứ kéo chị ngồi vào mâm, và chị ăn llên bốn bát nữa một cách ngon lành. Vừa ăn, chị vừa kín đáo quan sát Đào ngồi ở đầu nồi với dáng nghiêm nghiêm lạnh lạnh. Nốt ruồi to đậu trên gò má chị ta động đậy, như đấy cũng là một con mắt đang giương ra nhìn từng cứ động của hai mẹ con bà chủ. Hôm nay trông... chị đã hồi người, mặt mũi tỉnh táo quần áo sạch sẽ, không còn dáng điệu một người hành khất nữa.
Bà Son đứng dậy trước. Bà vào buồng lấy chiếc chiếu một mang ra trải lên chiếc chõng tre đặt trong góc nhà, rồi quay lại bảo người đàn bà:
- Tý nữa chị nghỉ ở đây. - Rồi bà quay lại hỏi Đào - Chú Thủ dặn u sang ngay à?
Trong lúc bà Son mở tủ buýp-phê tìm đèn pin, thì người đàn bà cầm tay nải và chiếc nón đến ngồi mớm vào bên chõng tre dành cho mình. Chị ta vẫn len lén nhìn Đào, cô chủ xinh đẹp nhưng trông sắc quá, bụng thầm nghĩ, cô này không phải tay vừa đâu! Rồi chị thong thả ngắm bốn gian nhà với những giường tủ, bàn ghế vàng lấp loáng trong ánh đèn. Trên cao chiếc bàn thờ nhấp nhô những lư đồng, mâm quả, cốc chén. Rõ là một dinh cơ phú gia.
ấy vậy mà chẳng ai ngờ, thật quá nằm mơ giữa ban ngày, rằng người đàn bà trên bước đường phiêu bạt xin được làm thuê làm mướn để sống đắp đổi qua ngày đang ngồi còm róm kia, sau đây lại trở thành bà chủ của chính dinh cơ bề thế này!
Bà Son đã rước người đàn bà lạ về nhà như rước một tai hoạ! Một tiền đinh!
Nhưng đấy là chuyện của một tháng sau nữa!
Thủ đang nằm trên đi-văng kê cạnh bộ sa lông giữa nhà. Bao đầu lọc để trên bàn. Khói thuốc trùm kín cả người anh. Buổi sáng Thủ đạp xe đến chỗ người bạn kết thân từ thời cùng làm công tác đoàn. Bây giờ anh ấy đang làm chánh văn phòng huyện uỷ. Qua chuyện trò với người bạn đồng lứa, Thủ được biết cả bí thư và chủ tịch huyện đang rất buồn rầu về anh. Trong dự kiến huyện uỷ viên ở cơ sở khoá tới, Thủ được ban chuẩn bị nhân sự nhất trí đề cử. Thế mà đùng một cái. Đành rằng ai làm người nấy chịu. Nhưng dù sao cũng không thể đưa một người làm việc quá bê bối đến thành tội phạm vào huyện uỷ được. Thế thì bằng ngồi xổm trên dư luận còn gì. Ngay việc để anh đứng đầu một xã cũng phải tính đấy. Hàng ngàn dân sẽ nhìn anh ra sao? Sẽ nghĩ về huyện ra sao? Thời buổi lấy dân làm gốc này đừng có thách thức! Thí bỏ một con bài dù tốt, nhưng để được cả quần chúng, được cả phong trào, huyện chọn đằng nào? Thủ nghe mà bồn chồn cả người. Anh hỏi nhỏ:
- Nếu bây giờ chúng tôi thu xếp được với bên nhà ông Phúc, để họ không kiện cáo, không cần nhờ đến pháp luật can thiệp, mà chỉ phạm vi hai gia đình tự giải quyết với nhau thì thế nào?
Cặp mắt người bạn đồng tuế vụt sáng lên:
- Nếu được thế thì tuyệt! Xoay chuyển được tình thế như vậy thì tôi cam đoan đích thị cụ Luân bí thư sẽ mua bia khao tài thuyết giáo Tô Tần của ông. Cụ ấy ngại những chuyện lình sình lắm.
Chia tay anh bạn chánh văn phòng, Thủ đạp xe lang thang cho đến quá trưa, rồi sang thăm vợ chồng Lan là em ruột của Luyến ở bên kia sông Đào. Chồng Lan đi lao động ở nước ngoài đã về phép hơn chục ngày nay, cứ nhắn Thủ sang chơi, vì anh ta đi được cũng có phần của Thủ giúp đỡ.
- Ô kìa anh Thủ! Bác Thủ!
Vợ chồng con cái Lan đang ăn cơm, thấy Thủ vào cùng bỏ đũa kêu lên. chồng Lan sai dẹp mâm, mặc dù nồi canh cá đang bốc hơi nghi ngút, rồi tự tay anh ta đi thịt con gà công nghiệp mới mua vẫn nhốt trong lồng.
- Anh Thủ nghe nói bác Hàm bên ấy... Lan đến Thủ hỏi nhỏ, giọng lo lắng giống hệt chị Luyến.
- Không sao, rồi đâu sẽ vào đấy - Thủ khẽ cười. Nét mặt anh ta bình tĩnh trở lại. ấy là Thủ lờ mờ nghĩ ra cách xoay chuyển tình thế, giàn chiến thắng ở ngay thời điểm tưởng đã bị đôn vào bước đường cùng.
Vừa chén chú chén anh, Thủ và chồng Lan chuyện trò rất vui vẻ. Rồi Thủ nằm dài cho tới ngay chiêu, như người vô tư lự đang đánh một giấc say sưa. Kỳ thực anh chỉ thiếp đi mươi phút, rồi mặc dù hai mắt vẫn nhắm như đang ngủ, nhưng đầu óc cứ trong suốt. Thủ đang tính, đang tính...
Khi Thủ về tới văn phòng Đảng uỷ xã, thì đã gần hết giờ làm việc buồi chiều. Trần Văn Sửu và mấy người nữa vẫn đang ngồi quanh chiếc bàn giữa nhà hút thuốc vật, nói chuyện lầm rầm. Nhìn thấy Thủ, tất cả cùng im bặt, mặt ai nấy bỗng sường sượng thế nào. Thoáng nhìn không thấy có Cao, phó ban công an, cháu gọi Luyến bằng cô, cánh tay của Thủ, vậy đích thị là họ đang bàn về chuyện gia đình mình, đang bàn về chính mình! Thủ nghĩ. Vì trong tình thế giằng co thì phải đưa Sửu lên thôi, chú trong sâu xa Thủ biết lắm. Anh chàng Sửu này cũng có tính hay nhỏ to thì thầm. Nhiều lần họp Đảng uỷ, họp thường vụ, Sửu không phát biểu gì khác với xung quanh. Nhưng đến tối Sửu lại sang tận nhà Thủ kể rỉ róc nhiều chuyện bê bối của bà đảng uỷ viên này, ông thường vụ nọ. Phương châm của Thủ là đứng xa tạo gió để rung cây, chứ không muốn mình phải trực tiếp lay gốc. Chính Cao, chiếc ăng-ten của Thủ đã nói nhỏ là Sửu đang tính nhiều cách để củng cố uy tín của mình. Lấy lòng người này, thì thầm rung cây người kia. Ngay những người Sửu không thích, anh cũng vẫn nắm tay rất chặt, hỏi han rất vồn vã để thêm bạn bớt thù. Nghe vậy Thủ chỉ cười, cho rằng Sửu không bao giờ dám rung vào mình. Thủ luôn nghĩ chính mình là gốc, còn Sửu chỉ là lá, là cành! Sửu tự tay tráng ấm pha nước sôi, rồi nói với Thủ:
- Hôm nay chúng tôi họp với ban quản trì bàn về việc thu sản anh ạ. Số người còn khê động từ năm tời bảy tạ còn nhiều lắm. Vụ chiêm này cố gắng thu được quá nửa, còn lại cho nợ tới mùa.
Ngồi bàn về công việc, nhưng Thủ cứ ngầm thăm dò, lắng nghe xem mọi người đối với mình thế nào, có còn coi ý kiến của mình là ý kiến cuối cùng nữa không. Khi Thủ gật đầu đồng ý đứng dậy coi như xong, thì anh thấy mấy người tỏ ra mừng rỡ, như là được giải thoát một không khí nặng nề.
Ra cổng, nhìn sang khu trường học, thấy thấp thoáng bóng áo trắng của mấy cô giáo, nhưng không thấy có những tiếng gọi véo von như mọi hôm. Thủ lằng lặng đạp xe về nhà. Thế là rõ rồi, việc xoay chuyển thế cờ đối với anh lúc này là việc cốt tử mang ý nghĩa tồn tại hay không tồn tại! Uy tín và vị trí của chính anh, uy tín của cả dòng họ Trịnh Bá lúc đặt hết lên đôi vai Thủ. Tình thế bắt anh phải chèo chống, xoay xoả bằng mọi cách để chuyển bại thành thắng. Không còn sự lựa chọn nào khác. trôn tại hay không tồn tại?
Với tâm trạng ấy, Thủ đáp thẳng đến nhà ông Hàm tìm bà Son. Và bây giờ anh đang nằm chờ.
Thấy con ki ki, con chó lai, to như con gấu rừng hộc lên rồi lao xồ ra cổng. Liền đó tiếng bà Son quở nó, Thủ choàng dậy. Luyến đang nằm ôm thằng cu con trong buồng, tất tả nhạy ra, hai bầu vú căng sữa không nịt, đội hớt cái áo lên, đánh lúc lắc theo mỗi bước đi của Luyến. Bá sang chơi - Luyến niềm nở. Từ tối đến giờ không có ai để nói chuyện, Luyến buồn đến khô nhạt cả mồm! Nhưng khi Thủ pha nước xong, ngồi co chân lên, châm tiếp một điếu thuốc nữa với nét nghiêm nghi, thì Luyến biết đã đến lúc chị phải rút lui.
- Em đã tính kỹ rồi - Thủ bắt đầu lên tiếng, chỉ vừa đủ cho bà Son ngồi đối diện bên kia bàn nghe - bây giờ chỉ có bá là dẹp yên vụ này! Bá nghe em nói đã. Vụ này không thu xếp được, thì nguy đến cả họ nhà ta. Nhiều việc lâu nay họ không dám nói, thì nhân dịp này nó sẽ bới tung ra. Ngày thằng Dinh nhà bá đi lao động nước ngoài, đã có đơn kiện lên huyện là còn ba tháng nữa mới hết hạn nghĩa vụ, mà thằng Dinh đã được ra quân để đi. Lúc ấy nhà mình mạnh, huyện với xã là một nên dù có kiện nữa thì chúng cũng là con kiến kiện củ khoai! Chứ nó bới vào lúc này là tướt bơ. Sáng nay em đi một vòng từ xã lên huyện càng thấy rõ là nhiều người đang muốn lật ta! Họ đang muốn mượn gió bẻ măng, nên ta phải thu xếp gấp rút vụ này. Trong một tuần các cơ quan trên huyện thụ lý hồ sơ, ta phải thu xếp bằng xong, chứ để đến khi ra toà thành án thì không thể thay đổi được nữa!
Thủ lại châm điếu thuốc khác. Bà Son cứ thấy lạnh cả chân tay. Thủ giảng giải luật hình sự cho bà Son nghe, bà càng sợ tái người. Chỉ còn một tuần nữa, một tuần để cứu ông Hàm và cứu danh dự cho cả một dòng họ! Chân yếu tay mềm như bà khác nào lấy đũa chống trời!
- Việc to như thế thì chú bảo tôi làm được gì?
Bà Son hỏi nhỏ, mặt càng héo đi. Thủ vẫn im lặng hút thuốc. Cứ cho cái sợ thấm sâu nữa vào người bà chị dâu, để đặt bà ấy vào tình thế không có con đường nào khác là phải răm rắp làm theo kế hoạch của Thủ.
Anh càng hạ nhỏ giọng nghe càng nghiêm trọng:
- Bây giờ ta đang ở thế yếu, nên không thể dùng đòn rắn, đòn cứng để chọi lại, mà phải dùng đòn mềm, lạt mềm buộc chặt! Phải dùng tình cảm để thuyết phục. Mà dùng cách này thì em đã tính hết nhẽ rồi, chỉ có bá mới xong!
- Tôi á? Bà Son tròn mắt lên.
Thủ càng hạ giọng:
- Phải! Chính bá! Bá sẽ gặp ông Phúc!
Bà Son giật người lên trong ghế ngồi. Mặt hết tái lại đỏ rần lên, và đôi mắt thì ngơ ngác đến bạc dại đi. Thủ đưa hai tay lên mặt bàn đan vào nhau, giọng trang nghiêm:
- Bây giờ ta phải điều đình với ông Phúc Mà gặp ông Phúc để nói chuyện này thì bá là tiện nhất. Bá đừng nghĩ quẩn. Tất cả anh em nội ngoại nhà ta không ai nghĩ xấu về bá. Không ai nghi ngờ bá có chuyện gì với ông Phúc. Với lại lúc ấy bá chưa lấy bác Hàm thì ai có quyền gì mà trách. Ngay em với nhà em lúc chưa lấy nhau cũng bị đồn thổi khối chuyện, miệng lưỡi thiên hạ chín người mười tính, biết đâu mà lần. Cái chính là từ khi lấy nhau, ăn ở với nhau thế nào? Điều ấy thì mấy chục năm nay anh em chú bác nhà ta quý bá. Cả em dâu em rể cũng quý bá, tịnh không có lời ra tiếng vào. Bá yên tâm. Bây giờ bá gặp ông Phúc, bá đề nghị ông ấy rút đơn kiện và nói với huyện là vì tình làng nghĩa xóm còn ăn đời ở kiếp với nhau. Không những đời ta, mà còn con cái cháu chắt sau này, vẫn sớm tối trông thấy nhau, thế thì gây thù chuốc oán nhau làm gì. Việc vừa qua chỉ như người say: không còn biết khôn dại là gì. Bây giờ đôi bên tự thu xếp với nhau ồn thoả, không cần pháp luật can thiệp nữa. Việc của bá nói làm sao để ông ấy đồng ý rút đơn kiện, còn lại sau đó em sẽ lo hết. Em sẽ nói với huyện với xã là chính em đứng ra xin họ hàng nhà ông ấy. Có vậy anh em nhà ông ấy mới mát mặt. Hãy cứ để cho họ được thắng. Dân làng có bảo em là chịu nhún nhường, chịu lép vế phải ngửa tay xin cũng khòng sao, em sẽ nhận hết. Sẽ không ai biết bị đến gặp ông Phúc. Cả bác Hàm, bác Long và nhà em cũng không cho biết. Việc này chỉ riêng bá với em.
Bà Son đưa hai tay ôm lấy má, nước mắt chảy ràn rua. Bà lặng lẽ ngồi khóc. Bà đã hiểu. Thủ chưa nói hết, nhưng bà biết là Thủ muốn khuyên bà dùng hết cái tình xưa nghĩa cũ ra để thuyết phục ông Phúc. Cái điều xưa kia là tội lỗi, là tai tiếng để dòng họ phải hổ lây, là cái gai trong lòng ông Hàm, thì bây giờ lại là lá bùa bảo hộ cho chính ông Hàm, cho cả dòng họ Trịnh Bá! Tình thế bắt bà không thể chối từ!
- Thế tôi phải đến tận nhà ông ấy à? Vợ ông ấy lại chả làm ầm lên - Bà Son nói nghèn nghẹn.
Thủ kín đáo trút một hơi thở nhẹ nhõm. Điều khó trước tiên là bà Son nhận lời, vậy đã xong. Những bước tiếp theo Thủ đã thiết kế tiếp, sẽ là đạo diễn trong màn kịch mà anh phải dành phần thắng bất ngờ này!
- Ai lại dại dột đến nhà ông ấy. Rồi ba gặp ông ấy ở đầu vào lúc nào, em sẽ lo. Em dặn bá điều này nữa, là khi gặp ông Phúc bá không nói do ai bảo, mà tự bá nghĩ ra, thấy cần làm thế.
Bà Son đưa ống tay lao mặt, miệng lẩm bám như nói thầm:
- Tôi biết rồi. Tôi nghe chú. Thôi thì tất cả vì ông ấy nhà tôi vì họ Trịnh nhà mình!

Rồi cả đêm Thủ nằm tính, tìm ra cớ để bà Son gặp ông Phúc sao cho kín đáo và có vẻ tình cờ nhất. Trong màn kịch này, Thủ quyết định phải huy động thêm một nhân vật nữa, để trợ sức với anh, đó là Cao, phó ban công an, cháu họ Luyến. Năm nay Cao bã ba mươi nhăm, nhưng tính nết vẫn bộp chộp, xốc nổi, thích làm nhưng cũng hay để hỏng việc. Cao ngồi được vào ghế phó ban công an như hiện nay cũng nhờ Thủ làm công tác tư tưởng rất khéo với một số người có thành kiến nặng với Cao. Vì thế ngoài tình cảm gia đình, Cao còn coi Thủ là người dìu dắt, một người che chở, cho nên khi cần một cánh tay tin cẩn, hết lòng với mình, Thủ nghĩ ngay đến Cao.
Tạm yên trí với kế hoạch của mình, Thủ ngủ thiếp đi nặng nề, thì vừa lúc gà gáy sáng.
Khi Luyến sẽ sàng gọi chồng dậy ăn cơm, thì bỗng có tiếng ông bõ Vòi réo ồm ồm ngoài ngõ. Ông mang giấy mời họp gấp đến cho Thủ.
Giấy triệu tập các bí thư đảng uỷ sang ngay xã Tân Phú cách đây hơn chục cây số để dự cuộc sơ kết rút kinh nghiệm đợt thí điểm đầu tiên huyện triển khai nghị quyết 04 của Trung ương về công tác làm trong sạch đội ngủ Đảng. Tân Phú là xã được nêu tên có nhiều vụ việc bê bối nhất, nên huyện quyết định đưa đội công tác về làm đầu tiên. Từ đây rút kinh nghiệm để làm tiếp các xã khác.
Thời gian họp rút kinh nghiệm là hai ngày. Trong đó có tham quan nhà máy luyện kim màu và nhà máy cơ khí nông nghiệp nữa buổi. Thủ vo giấy đút vào túi, thở dài. Bình thường đây là những cuộc vui. Ngồi nghe chuyện của người khác, những niềm vui nỗi buồn của người khác, rồi mời nhau vào bàn tiệc. Rồi xem vi-đê-ô có nhiều pha tươi mát đến người già cũng nổi cơn hứng tình. Những cuộc rút kinh nghiệm như thế là những cuộc thư giãn thần kinh. Bây giờ đang búi lên thế này. Nhưng dù sao cũng không thể vắng mặt. Ông Luân không thấy mình đến sẽ nghĩ gì?
Đúng là Thủ vừa đạp xe đến đã thấy bí thư huyện uỷ ở đấy rồi ông Luân chưa kịp hỏi gì, thì Thủ đã nói nhỏ:
- Tôi đang cố gắng thu xếp chuyện ấy ổn thoả anh ạ.
Đang lúc có mấy người chèo kéo tíu tít, nên ông Luân cũng chỉ nói vội vã:
- Cố gắng dẹp êm đi chớ không thì phiền lắm đấy.
Rồi cho đến kết thúc hội nghị không có cuộc nói chuyện nào nữa. Cả hai đều cố ý tránh gặp riêng nhau. Các bí thư xã khác cũng nhìn Thủ nghi ngại. Họ chỉ thì thâm nói nhỏ với nhau chứ không dám hỏi Thủ. Lần đầu tiên Thủ biết thế nào là người có phốt, quay hướng nào cũng lưỡng vướng như cá mắc câu.
Hết hội nghị, Thủ đạp xe về ngay. Tới nhà đã nhập nhoạng tối. Luyến vẫn đang lúi húi tưới rau ngoài vườn. Chị nói to từ ngoài vào:
- Bác Tươi lúc nãy đến gọi thầy em đi họp đấy.
Hỏi thêm, Thủ biết đó là họp chi bộ của cụm dưới này gồm có Giếng Chùa, Xóm Mới và Xóm Trại. Từ trước đến nay ba xóm này là một chi bộ. Thủ sinh hoạt Đảng ở đây. Thế này thì cập rập quá, chưa kịp nói gì với Cao, Thủ thầm nghĩ. Nhưng đành phải cố. Đây là thời cơ. Đã mất hai ngày rồi. Còn lại không đầy một tuần nữa. Anh phải xoay sở trong quãng thời gian gấp rút ấy.
Thủ sai con đi gọi Cao sang. Còn anh đến ngay nhà ông Hàm để trực tiếp dặn bà Son. Từ xa đã nhìn thấy nhà bà Son chưa nghỉ việc. Cây đèn toạ đăng để trước thềm, soi sáng cả trong nhà ngoài sân. Đào và người đàn bà làm thuê vừa tuốt lúa xong, bây giờ người cào, người quét rơm trên đống thóc ngồn ngộn giữa sân. Cái Hoa ngồi băm rau lợn kênh kếch một góc. Tất cả lặng lẽ như một nơi chưa biết dùng ngôn ngữ?
- Bá có nhà không? - Thủ vừa bước vào cổng hỏi to.
- A chú - Đào ngửng lên, rồi cô quay lại gọi:
- U ơi, chú Thủ đến.
Tiếng bà Son từ trong bếp vọng ra. Bà đang nấu cơm. Thủ đi thẳng vào bếp. Sau mấy lời nói nhỏ chỉ đủ bà Son nghe, Thủ quay ra về ngay. Không ai nhìn thấy bà Son ngồi thừ ra, mặt tái bợt. Đang mổ mẻ cá tươi rói, chúng thi nhau nhảy toanh toách trong rổ, tay bà Son cứ run bắn lên. Thế là cái việc bà phải làm, nhưng sợ vô cùng đã đến rồi! Thủ vừa quay ra khỏi sân, mắt còn đang quáng đèn, thì tý nữa đâm sầm vào một người quang gánh kĩu kịt cũng đang xăm xăm đi vào.
- Ai gồng gánh gì thế này? - Thủ lùi lại hỏi như gắt, thì một giọng phụ nữ lại rất sởi lởi:
- Ôi giời chú Thủ đấy à? Con mẹ Đủ đầy! Cha mẹ đặt tên thế, nhưng quanh năm vắt mũi đút miệng! Vay nồi thóc cứu đói của bà Son tháng trước, giờ phải giả tắp lự ngay đây! Chứ không cái lão nhà tôi nó lại cho men vào thì lên chai hết! Đúng là tướng đàn ông răng hô mồm cá ngão chỉ siêng ăn nhác làm!
Thủ phì cười, cũng nói tếu:
- Ai bảo bà đẻ cho lắm vào? Thóc gạo đã ít, lại đẻ gấp đôi gấp ba người ta còn kêu.
- Cơ mà khổ lắm chú ơi! Nhà người ta còn có đài, có máy hát để nghe nhạc nghe nhiếc cho dãn xương dãn cốt, chứ nhà tôi không có thì đêm hôm còn biết làm gì!
- Rõ khỉ cái bà này!
Thủ né sang bên cho người đàn bà cao lớn như đàn ông cười khi khí gánh thóc con cón đi vào. Thủ không biết rằng bà ta đang cười thầm và tự đắc về cái tài dùng chuyện tếu của mình để đánh lạc sự chú ý của người khác. Bà ta không hề vay thóc của vợ chồng ông Hàm. Và một số người khác cũng không hề vay mượn gì, nhưng mấy tối nay nếu ai tinh ý sẽ ngạc nhiên thấy nhiều người gánh thóc đi xuôi đi ngược thì thì thầm thầm, kín kín hở hở. ấy là họ đang thực hiện một chiến thuật phòng thủ cho cái dạ dày rất thần tình! Lúc này ở chính nhà Thủ, Luyến hốt hoảng nói như rên với một người đàn bà cũng tuổi sồn sồn như Luyến:
- Chết thôi! Em đã bảo em còn nghĩ đã, thế mà bá lại gánh ngay đến thế này? Nhà em biết thì chết! Thôi để vào trong xó nhà ngang kia. Mau lên, nhà em sắp về đấy!
Người đàn bà hớn hở gánh thóc vào, nói trấn an Luyến:
- Cô cứ yên trí, ông ấy có biết khối?
Lẳng bì thóc vào xó tối, rồi chị ta quay ra biến ngay. Hỡi những nhà quản lý nông thôn! Những người gánh thóc đi ngược đi xuôi chính là những người đang thiếu sản! Họ đang nợ hợp tác xã đấy! Chứ không nợ cá nhân. Người nào cũng dăm bảy tạ cả. Nợ từ mấy vụ trước. Chiêm năm nay khá nhưng họ chỉ quyết nộp một ít gọi là, chứ không thể thanh toán sòng phẳng ngay được - Nộp hoét để nhe răng ra à?. Họ bảo nhau. Quân tử phòng thân, ta là tiểu nhân thì cứ phải nắm chắc lấy bị gậy!
Nhưng không nộp thì phải cất giấu ở đâu, chứ để lù lù ngay trong nhà, đội thu sản của hợp tác xã đến thì bằng lạy ông tôi ở bụi này, còn gì! Thế rồi không biết do mưu mẹo của ai, họ bảo nhau chắc chân nhất là mang đến gửi ngay ở những nhà không có nợ nần gì với hợp tác. Nếu gửi được vào những nhà cán bộ thì càng hay! Lấy độc trị độc mà! Khi cần đến lấy từng thúng một, nói là đi vay, đố anh nào dám bắt thu sản!
Do Luyến là người dễ tính, hay nể nả, nên Thủ không ngờ chính nhà mình là nơi tàng trữ, đồng loã cho hai nhà trốn thuế.
Hạt thóc, đồng tiền lên khúc ruột; để giữ nó, thì ngay những bà một chứ bẻ đôi không biết cũng nghĩ ra được lắm kế tàng hình!
- Chú gọi cháu à? - Cao đang uống nước sịt soạt ở bàn, thấy Thủ về ngồi dịch vào.
Với dáng người đậm, đen, mái tóc để chờm tai, lại thêm hàng ria mép và quần lúc nào cũng ống bó. Rồi lại thích bắn súng! Thỉnh thoảng Cao lại bắn chỉ thiên đòm đòm, bảo là xin được đạn, nên muốn bắn thử xem còn tốt không! Hễ được tin làng nào có chuyện gì liên quan đến nghiệp vụ của mình, là Cao lập tức sắn sả đi ngay. Dù vội mấy Cao cũng đóng đúng mốt một nhà chức trách rất bảnh: Bộ bò mốc mua đến hai nồi thóc, mũ lơ-vít, kính râm mát to, giầy cao cổ súng ngắn đeo trễ bên hông. Có hôm lại cố ý không cần bao, mà dắt khẩu súng chì đen ngòm dưới bụng, rồi nhảy lên chiếc ba-bet-ta đã tróc hết cả sơn lẫn mạ, vậy mà phải đổi hết bốn tạ thóc giữa lúc gạo đắt như vàng, khiến cả mẹ và vợ Cao như bị cắt từng khúc ruột. Cao rồ máy phóng đến nơi có chiến sự với cái dáng hiên ngang của người cầm pháp luật, mà vẫn đủ dáng dấp một thám tử trong những phim phản gián giật gân. Vô số những gã trai làng nhìn Cao với con mắt thèm muốn. Còn những người lớn tuổi thì bảo Cao vẫn còn tính học đòi lấc cấc! Bởi vậy đã có ghế phó ban công an, và Thủ ra sức vận động, nhưng Cao chỉ mới trúng chân hội đồng nhân dân xã với số phiếu vừa đủ, còn bên Đảng thì ngay ở chi bộ nhỏ này đã đề cử nhiều lần nhưng Cao không sao len được vào chi uỷ.
- Có việc này phải làm ngay - Thủ nói nho nhỏ. Nhưng nhìn nét mặt và cữ chỉ nghiêm trang của Thủ. Cao biết là việc rất hệ trọng.
Thủ bắt đầu rầm rì vừa nới, vừa phân tích sự bức thiết phải thực hiện bằng được kế hoạch này. Nếu không sẽ là chuyện giậu đổ bìm leo, không chỉ uy tín dòng họ Trịnh Bá bị chìm, mà cái ghế hiện nay có liên quan đến dòng họ này cũng sẽ bị chặt chân, rút ván! Cao vừa nghe, vừa gật gù, rồi cũng cố hạ cái giọng vốn ồm ồm rất vang của mình:
- Mấy hôm nay bỗng có tiếng đôn là trên huyện đang bất bình với chú, đang đặt câu hỏi nghi vế là chú có thành kiến với ông Phúc như bác Hàm không? Có cùng là người chủ mưu không? Một việc như thế, anh làm em không thể không biết. Cháu có hỏi thẳng ông Sửu là tin từ đâu tung ra? Ông ấy cười cười bảo: Miệng lưỡi thiên hạ có giời lần? Nhưng cháu nghĩ là chính ông ấy đang tung hoả mù! Vì đây là cơ hội tốt để ông ấy củng cố uy tín.
- Không cần chấp vặt! Cứ yên trí là khi lật ngược được thế cờ thì tất cả thòng đong tép mại đang a dua nhảy nhởn đớp bóng lại tự khắc im rè!
Thủ vừa nói vừa đứng dậy, như đó là lời kết luận. Chú cháu họ bước ra khỏi nhà.
Trăng đầu tháng uốn một mảnh cong gài trên ngọn tre.

Họp chi bộ vào khoảng tám giờ tối, thì bí thư Xuân Tươi (dân làng vẫn gọi đồng chí Tươi bằng cả tên con tên bố như vậy để khỏi nhầm) phải đến từ bảy giờ. Đi mượn chìa khoá cửa của cô giáo Oanh ở tận cuối xóm, rồi tìm dây treo đèn, kê lại bàn ghế, tất cả những việc ấy bí thư phải làm tuốt ráo!
Trước đây vẫn có nếp ai làm bí thư, thì họp chi bộ luôn ở nhà người ấy. Gia đình chuẩn bị sẵn nước chè, điếu đóm, cứ như nhà có đám. Nhưng rồi thấy lợi bất cặp hại, là nhiều việc Đảng viên chưa tỏ, mà quần chúng đã tường. Nhiều điều chỉ mới bàn riêng trong chi bộ thì ngay hôm sau đâu làng cuối xóm đã nói ầm ầm, bởi chính vợ con bí thư đã đi phổ biến nghị quyết của đảng một cách đầy sốt sắng và kiêu hãnh! Thế là phải dời địa điểm. Cho dù làm vậy có hạn chế tính quần chúng, tính thân mật, nhưng được cái Đảng ra Đảng, dân ra dân! Đảng thì có nhiều việc chỉ được biết trong phạm vi hẹp, còn dân thì bao giờ cũng thích chia vui cho cả làng cả chợ! Nếu thấy ít chưa đủ vui, thì họ suýt ra nhiều cho xôm trò! Bé xé ra to?
Đây là lớp mẫu giáo, nơi trung tâm nhất của cả ba xóm. Đây chính là nhà giữ trẻ từ những năm còn chiến tranh, nơi cô Lạc vợ trước của trung tá Chỉnh đã làm việc và đã gây ra những vụ xì-căng-đan khiến nghiêng ngã cả làng Giếng Chùa. Phó chủ nhiệm và đội trưởng sản xuất lúc ấy đã bị Lạc bắn tỉa vàdiệt gọn ở chính trong nhà này.
Bí thư Xuân Tươi chuẩn bị xong, sang nhà bên lùa vừa hút thuốc lào, nghe chừng mọi người đã đến đầy đủ, anh mới quay về. Xuân Tươi là cán bộ ở phòng văn hoá huyện, chỉ nhinh hơn Thủ vài tuổi, nhưng đã hưu non từ năm kia, vì nghe đâu năng lực cũng không được dồi dào lắm; cả văn lẫn hoá cũng chỉ tạm dùng khi bấn người! Nhưng được cái lúc nào cũng hồ hởi lạc quan, cứ vui như Tết! Xuân Tươi được nổi tiếng ở đại hội chi bộ năm ngoái. Hôm ấy người ta tranh luận khá căng thẳng về vấn đề đoàn kết trong chi bộ chưa tốt. Có hiện tượng mâu thuẫn cá nhân bắt nguồn từ mâu thuẫn gia đình, dòng bọ. Giữa lúc không ai thắng ai, chủ toạ không thể kết luận được, thì Xuân Tươi lúc ấy chỉ là một đảng viên thường, mới mang giấy sinh hoạt đảng về được vài tháng, giơ tay xin nói. Anh lên bục đàng hoàng. Xuân Tươi bắt đầu mở máy. Anh nói làu làu tư duy mới là thế nào, xu thế thời đại hiện nay là từ đối đầu chuyển sang đối thoại ra sao. Chiến tranh giữa các vì sao là thế nào! Rồi chương trình SDI của Mỹ, rồi đề nghị huỷ bỏ vũ khí tầm trung của Liên xô! Rồi giải trừ quân bi, hoà bình là mái nhà chung của nhân loại! Những chuyện ngoài lề của cuộc gặp gỡ cấp cao Xô-Mỹ mà anh ngồi chầu rìa nghe hóng được, Xuân Tươi tung ra như mưa rào. Mọi người đang căng thẳng vì những chuyện quá cụ thể, giờ được nghe chuyện trời cao đất dày thấy sướng lô tai, nên ai cũng há mồm ra nghe. Khi kết thúc bài nóiquan trọng, Xuân Tươi đã giơ tay lên quá đầu như một chính khách, và anh kêu gọi thống thiết: Các đồng chí! Chúng ta hãy nhìn xa trông rộng bằng đôi mắt đại bàng, chứ đừng nhìn thế giới bằng đồi mắt gà ri! Tiếng vỗ tay rầm rầm. Một tiếng hô lớn Xuân Tươi muôn năm!
Đến khi đề cử cấp uỷ mới, Xuân Tươi đã được mấy người giới thiệu, và anh đã trúng phiếu cao nhất! Một bí thư không có trong dự kiến.
Thực ra Xuân Tươi trúng cử không phải do bài phát biểu tịt mù cung thang kia, mà cái chính là Xuân Tươi không phải người gốc ở đây. Cả vợ anh cũng không dính dáng với dòng họ nào trong làng. Hắn là dân ngự cư,và cũng chỉ là anh ba hoa chích choè, không lợi không hại. Nhưng thà thế còn hơn là để rơi vào tay người đối chọi với mình. Rồi sẽ lôi kéo hắn dần dần! Xuân Tươi không thể biết được những thủ lĩnh của những dòng họ lớn của ba xóm đã dặn dò đàn em của mình như vậy. Nhưng cho đến nay Xuân Tươi vẫn chưa bị người của bên nào lôi kéo. Vì ham vui, nên có thể la cà say sưa với bất cứ ai, làm như mình cũng có thể ban quyền phát lộc cho người khác, nhưng rồi Tươi không làm gì cả! Mà sự thực là anh có làm được gì! Đến thảo nghi quyết và điều hành những cuộc họp có nhiều vấn đề phức tạp là Xuân Tươi đã như gà mắc tóc rồi! Anh quen với việc kẻ pa-nô, dán ap-phích và chăng cờ kết hoa cho các hội nghị hơn là ngồi chủ toạ hội nghị. Những người định lôi kéo Xuân Tươi đã thấy anh chỉ là người tào lao! Tất cả mọi tinh anh, Tươi đã phát tiết luôn ra cửa miệng trong những lúc chuyện gẫu rồi! Người ta đồn là sự nghiệp chính trị của Xuân Tươi cũng chỉ được hết khoá này là cùng!
- Thôi ta vào đi các vị! - Xuân Tươi vỗ tay bồm bộp. Anh mặc chiếc áo trắng đã ngã màu cháo lòng nhưng lại dắt vào trong quần cẩn thận. Khuôn mặt nhỏ, nhưng mắt và miệng lại to, tiếng cứ vang vang.
- Hôm nay nhiều vấn đề lắm. -ông Thủ đi họp về có gì mới không? Rút kinh nghiệm thực hiện nghị quyết 04 à? ông Luân hay ai chủ trì? Ngày mình ở phòng văn hoá, thì ông ấy bên tổ chức, cùng cán sự òn èng như nhau. Thế mà nhoáy cái tay ấy lên nhanh thế.
Đón điếu thuốc từ tay Thủ, rồi Xuân Tươi vừa như nói với Thủ, lại vừa như nói với mọi người:
- Hôm nay họp bàn ngoài mấy nội dung đảng uỷ phố biến hôm trước, còn có thêm một việc mới đây uỷ ban và ban quản trị hợp tác xã có nhận được đơn của ba đội sản xuất ở Giếng Chùa xin gặt chiêm xong cho họ được tách ra khỏi hợp tác xã lớn, để họ xây dựng hợp tác xã nhỏ như hồi chưa sát nhập. Tất nhiên chi bộ không giải quyết việc tách hay không. Nhưng đồng chí Sửu đề nghị tôi là họp chi bộ chúng ta cần tìm xem nguyên nhân từ đâu? Có vai trò Đảng viên ta không? Rách việc thế đấy các ông ạ! Các bố trên huyện cứ hay kêu cán bộ dưới cơ sở không đi sâu đi sát để tìm hiểu nguyện vọng của bà con. Thế còn muốn anh em vào sâu đến đâu!
Tiếng cười hí há. Đấy cách làm việc của bí thư Xuân Tươi đấy! Cứ chuyện nọ xọ chuyện kia. Đang tư nhằng sang công. Đang chuyện ngoài lề bắt cầu ngay vào nghị quyết. Giở thật giờ đùa, chớt chớt nhả nhả! Thủ đã góp ý mấy lần, những Xuân Tươi vẫn như con hổ, chỉ một cái là quệt vào tai là quên sạch!
Nào ta bắt đầu! - Xuân Tươi đứng bên chiếc bàn kê trên cùng, phía dưới xếp thành hai hàng là bàn ghế của lớp vỡ lòng thấp lè tè. Gần hai chục đảng viên đứng ngồi lố nhố. Chỉ có hai phụ nữ tuổi đã trung niên, áo cánh quần thâm, rụt rè như đi ăn cỗ.
- Các đồng chí bầu cho chủ toạ và thư ký - Xuân Tươi nói tiếp.
Một người tận dưới cùng nói to:
- Vẫn như mọi bận thôi!
- Đúng đấy! Đồng ý!
Xuân Tươi ngồi xuống ghế vui vẻ, bỏ qua phần biểu quyết, gọi ngay người vẫn quen được hội nghị bầu làm thư ký vì văn hay chữ tốt:
- Thế thì xin mời đồng chí Tùng lên làm nhiệm vụ! Còn chủ toạ chính là anh. Mọi bận vẫn thế!
Tùng ngồi xeo xéo phía bên kia, giáp bờ tường, đang đốt thuốc mù mịt. Vận bộ quần áo lính gọn gàng sạch sẽ, đầu tóc ngay ngắn. Với tuổi hai tám, Tùng là Đảng viên trẻ nhất ở chi bộ này. Đã được quân đội rèn luyện, lại có văn hoá, nhiều người nói chính Tùng phải là bí thư ở chi bộ này mới đúng.
Tùng dụi thuốc, lặng lặng bước lên. Không ai hiểu sao hôm nay anh chàng vốn hoạt bát và tươi bưởi này lại ỉu sìu sìu thế kia. ông Phúc ngồi mãi dưới cùng trong góc mờ tỏ, vẫn đang rì rầm nói gì với người bên cạnh. ông mới đến. Khi đã vào họp, nhìn quanh không thấy ông, Thủ bồn chồn lên vì lo. Bây giờ là anh yên tâm là màn kịch sắp được bắt đầu! Nhưng có như mình dự đoán không? Chỉ cần họp xong, ông ấy lại đi có việc ở đâu đó, thế là hỏng bét. Mấy hôm nay bà Son đã chuẩn bị cho cuộc gặp này thế nào? Sao lúc nãy nghe mình dặn xong, mặt bà ấy lại thảng thốt đến thế? Còn thằng Cao nữa, vừa mới nghe mình nói, mắt mũi đã sáng lên như sắp được đóng phim phản gián! Rồi cái thằng lốp bốp trâu luộc cả con này sẽ làm ăn ra sao?
Thôi riêng vấn đề tách hợp tác ta sẽ phát biểu sau - Xuân Tươi đứng dậy xua xua tay như rung chuông, cắt đứt dòng suy nghĩ miên man của Thủ - Các đồng chí cứ phát biểu về việc thu sản trước mắt đã. Đang có dư luận là những người khê đọng nhiều vẫn tiếp tục ì ra không chịu nộp sản trong chiêm này. Nghe nói có Đảng viên và anh em họ hàng của Đảng viên cũng nghĩ như vậy. Nếu đúng thế thì ta còn vận động được ai nữa.
- Dưng mà ta phải xem là tại sao người ta không muốn nộp sản - Một trong hai người phụ nữ đang phát biểu thì bị Xuân Tươi cắt ngang, nhưng chị vẫn đứng đấy chứ không chịu ngồi. Tươi vừa dứt chị lại tiếp ngay. Thì ra hai bà này chẳng bẽn lẽn chút nào, chẳng chịu để cánh đàn ông áp đảo, nhất là động vào bát cơm manh áo của họ thì coi chừng! Chị nói tiếp với giọng chao chát:
- Ai chả biết làm ruộng phải đóng thuế. Nhưng tại sao làm quần quật mà chúng tôi vẫn không đủ vắt mũi đút miệng? Nhà nông cái gì cũng phải trông vào hạt thóc. Nào ma chay cưới xin, nào cha già mẹ héo; nào sách bút cho con, tiền đóng học cho con môi năm một cao, tất cả đều trông vào hạt thóc. Gạo không đủ ăn, nhưng vẫn phải thắt bụng cho chặt vào để bán thóc thì mới có tiền mà đóng, mà nộp. Vậy thế cho nên vụ chiêm này chúng tôi cũng không thể nộp sản hết số còn khê đọng lại. Nộp hết thì chúng tôi sống bằng gì? Xã cứ bắt những người tham ô nộp trước đi đã. Người tham ô tiền của đội 202, tức là tiền vét con sông Đào ấy, đã nộp chưa? Người ở trại giống lấy thóc thịt đánh tráo vào thóc giống, rồi mang thóc giống đi bán chênh lệch đã nộp chưa? Rồi đến gạo nếp để ủng hộ bộ đội ở biên giới, ở Trường Sa cũng bị tham ô, thế thì chúng tôi còn biết tin ai? Ngay cái nhà ta đang ngồi họp đây, nếu năm ngoái chúng tôi không đấu tranh thì cũng đã bị dỡ đi rồi. Hỏi rằng dỡ hai cái nhà kho, ba cái nhà chăn nuôi từ ngày hợp tác Giếng Chùa làm, vậy bây giờ ở đâu? Của đau con xót, chúng tôi làm chúng tôi phải thế. Tiền có còn hay đã chui vào chai, nhảy lên đĩa cả rồi?
- Gớm, bà cứ làm tiền cũng biết nhảy như ếch không bằng!
- ếch nhảy cũng chẳng bằng người nhảy!
- Bà cứ nói thắt bụng lại cho chặt, nhưng tôi thấy mấy bà ở đội 3 xóm Chùa mới năm ngoái nghỉ đẻ, mà bây giờ đã lùm lùm đội kênh cả áo lên rồi!
Tiếng đẻ xen ngay vào, rồi cười khùng khục, phá tan không khí căng thẳng.
- Thôi trật tự! - Xuân Tươi vỗ tay bôm bốp - Tôi đề nghị chúng ta đi vào nội dung chính.
Thấy rõ là Xuân Tươi đang lúng túng. Việc đòi tách hợp tác là việc lớn, không thể bàn ghép vào cuộc họp này. Thì đã được biết có chuyện đơn xin tách hợp tác từ nửa tháng trước. Những người làm đơn xin tách hợp tác còn tố cáo một loạt lthững việc bê bối của ban quản trị và các đội trưởng sản xuất hiện nay. Mà phần đông những người trong số này đều có dính dáng đến nhà họ Trịnh Bá. Thủ đã nói với Sửu đây là việc hệ trọng: phải xem xét đã, chưa nên bàn rộng vội. Vậy tại sao Sửu đề nghị Xuân Tươi đưa ra bàn trong cuộc họp này? Có phải Sửu đang muốn rung cả một bụi cây?
Thủ giơ tay, rồi đứng dậy với giọng rất nhã nhặn:
- Việc xin tách khỏi hợp tác xã lớn để trở về hợp tác xã nhỏ như trước là một vấn đề lớn, nên chúng tôi đã có bàn là phải xem xét kỹ rồi chi bộ sẽ bàn riêng trong một cuộc họp khác, cứ bàn chung với nhiều việc như hôm nay sẽ không đạt được kết quả.
Ông Phúc không giơ tay, mà đứng bật dậy, lời lẽ khúc chiết:
- Vậy tôi đề nghị ngay tuần tới ta phải họp để xem xét yêu cầu của bà con có hợp lý không? Đồng thời đây cũng là một việc xem xét chính Đảng viên cán bộ mình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chưa? Tại sao không được bà con tin như trước? Đây là cơ sở để chúng ta tiến hành theo nghị quyết 04! Bà con người ta đề nghị có văn bản giấy tờ, thì chúng ta cũng phải xem xét cho nghiêm chỉnh Tránh tình trạng để dây dưa. Việc nhà nông có mùa, có vụ. Mất một vụ làm ăn ở người dư dật, có chức có quyền thì vẫn không sao, nhưng với người giật gấu vá vai mà lỡ một vụ là cả nhà treo niêu đến mấy vụ sau. Bây giờ trên đã cho phép rồi ở đâu cán bộ yếu kém không lãnh đạo nổi cả hợp tác xã lớn thì nên xé nhỏ ra cho vừa sức mình. Cho nên bà con người ta đòi chia lại hợp tác là có lý do chính đáng của họ. Vì mấy hôm nay đã có tiếng xì xầm chê bai những người làm đơn xin tách hợp tác là thiếu ý thức chính trị, thiếu tinh thân chủ nghĩa xã hội! nói vậy chính là không nắm được chính sách! Lại muốn quay lại cái thời đánh trống ghi tên để người siêng làm cho kẻ lười hưởng!
Có những tiếng cười nho nhỏ đó đây. Thủ thấy da mặt mình đã sầm lên? nhưng anh là người biết kìm nén, biết lùi một bước để tiến hai bước, nên Thủ vẫn ngồi thản nhiên. Anh lại nghĩ đến Sửu. Thế là việc châm ngòi của Sửu đã thành công rồi! Biết đâu hôm qua hôm kia Sửu đã đến gặp ông Phúc!
Thấy Cao nhấp nhổm có vẻ nóng tiết, Thủ phải đưa mắt cho Cao ra hiệu hãy cho qua! Hắn nói lốp bốp chỉ có hỏng việc. Rồi Quàng phụ trách quỹ tiết kiệm, em ruột Quềnh, ngồi ru rú đằng kia. Rồi anh em Thanh, Thánh với chú cháu Đệ, Đạo Rồi Hoạt, Đích, ông Na, ông Bùi. Bố con ông Vi - Vu, anh em sinh đôi Hảo Hán. Đấy là những người họ hàng xa gần, hoặc được liệt vào hàng ngũ thân tín của Thủ đều ngồi im nên phát súng khai hoả của ông Phúc như đã nổ vào chỗ không người Dù vậy ông Phúc và những người ủng hộ ông ra dáng hỉ hả lắm. Hai người em rể ông Phúc chồng bà Lộc, bà Tài. hai khẩu đại pháo trên nghị trường của chi họ Vũ Đình cứ ngồi rít thuốc tràn cung mây, như muốn nói đây chưa cần xuất tướng! Cuộc họp suông sẻ cho đến phút chót.
Xuân Tươi tuyên bố cuộc họp kết thúc với vẻ mặt thật hớn hở vì theo Tươi cuộc họp đã thành công tốt đẹp đúng với tinh thần dân chủ, đối mới, mà tính chiến dấu nói thẳng, nói thật mỗi Đảng viên rất cao!
Mọi người túa ra vê. Thấy ông Phúc lững thững một mình theo lối rẽ, Thủ quay lại tìm Cao. Nhưng anh chàng thích đóng phim phản gián còn nhanh hơn Thủ, đã biến trước rồi!
Thủ nhìn đồng hồ mười giờ đêm.
Ông Phúc bước những bước thon thả. Ông đang rất hài lòng với mình. Dân Giếng Chùa đang thì thầm là dòng họ Vũ Đình lâu nay chỉ ở mức lập lờ, không chìm nhưng cũng chưa nổi lên được, thì phen này xem chừng cờ sắp đến tay! Trước đây chỉ có mình ông Phúc và hai người bên ngoại là Đảng viên, nên cả thế lực còn yếu. Bây giờ cùng lúc thêm đến bốn Đảng viên về làng, mà người nào cũng sành sỏi cả. Tùng lại được vào tận Đảng uỷ xã. Dù hai cậu cháu còn trục trặc, nhưng chẳng bao giờ anh em họ lại bỏ nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã Bên Trịnh Bá định lấy âm trị dương cho êm ả sạch sẽ, nhưng không ngờ gậy ông lại đập lưng ông rồi! Bây giờ thì họ Vũ Đình không cần làm gì hết. Tất cả đã có luật pháp. Vố này cả nòi Trịnh Bá cứ là tai tiếng để đời!
Ông Phúc đằng hắng một tiếng rất sanh như tự thưởng cho sự hiện diện của thình trong cõi đời, rồi dừng lại bên bụi duỗi tối đen khum tay che gió bật lửa châm điếu Hê-rô của anh em Hảo Hán lại mời thuốc ông Phúc! óng ưa thuốc lào kia, nên bây giờ chẳng nên câu nệ, lòng ông đang thảnh thơi quá, thuốc gì chả ngon?
Ông Phúc vừa xoè lửa, thì bỗng một tiếng gọi rất sẽ ngay bên cạnh, trong bụi cây:
- Ông Phúc!
Gần như giật nảy người, ông Phúc lùi lại một bước với dáng điệu tự vệ, khiến người gọi cũng cuống lên vì sợ ông bỏ chạy!
- Ông Phúc! Tôi đây? Tôi đây mà!
Chưa dứt những lời hào hến, bà Son đã hiện ra ngay bên cạnh. Bà mặc quần đen và chiếc áo xanh vốn rất đẹp của Đào, giờ đã cũ, nhưng còn rất bén, khiến cái dáng đầm đậm tấm thước của bà vẫn gọn gàng mau mắn. Bà chỉ mặc quần áo cũ của Đào mà vẫn được tiếng là trau chuốt. Trong đêm, ông Phúc thấy bà vận toàn đồ đen. Từ người bà toả sực lên mùi quết trầu thơm cay, ấm nồng.
- Bà đấy à?... Bà... Bà gọi tôi? ông Phúc ngỡ ngàng, hơi bối rối đến ngờ vực.
- Thế ông nghe chưa thủng hay sao? Tôi phải chờ để gặp được ông từ tối đến giờ. Sao mà cái thân tôi nó tội đến thế! Tôi muốn thưa chuyện này với ông!
Bà Son vừa nhả bã trầu, vừa nói trầm trầm rầu rĩ. Bà ăn miếng trầu cũng là để giết thời gian mà thôi. Bà đứng, đầu hơi cúi, hai tay vòng trước ngực. Mái tóc còn rất dày cuộn một búi tròn sau gáy.
Ông Phúc bóp điếu thuốc trong tay, hỏi nhỏ:
- Bà định nói chuyện với tôi? Có chuyện gì nữa mà nói?
Giọng bà Son trở nên tức tưởi:
Ông bây giờ thì còn thiết gì, còn biết gì đến ai! Ông chỉ cần được việc của ông. Ngay từ ngày xưa ông đã như thế! Có bao giờ ông coi lời tôi làm trọng đâu! vậy mà lúc nào ông cũng nắm được đằng chuôi. Tôi vẫn nghĩ chả khi nào tôi phải gặp ông để cầu cạnh. Thế mà rõ thật cái số tôi!
Ông Phúc giật lùi chân một bước, kêu lên:
- Chết! Chết! bà nói gì thế? Sao lại chuyện nọ sọ chuyện kia như thế? Đứng đây nhỡ ai đi qua...
Bà Son cũng giật mình sực tỉnh. Bà đã chuẩn bị sẵn từ tối những lời nói với ông Phúc. Vậy mà bây giờ bà không kìm nổi sự dồn nén của tiềm thức. Tiếng là cùng làng, nhưng từ lâu môi người mỗi cảnh, mỗi phận. Làng xóm luôn luôn nhìn vào, họ hàng nghiêng ngó, nên không bao giờ hai người còn đứng chuyện trò với nhau. Từ ngày có hợp tác, mỗi người ở một đội, nên càng xa nhau. Thảng hoặc bất ngờ gập nhau ngoài đường chỉ khe gật đầu chào nhau vội vã chân vẫn bước. Người này hoàn toàn không biết được người kia nghĩ những gì về mình. Yêu hay ghét? Trong lòng có còn chút bâng khuâng nào, hay đã hoàn toàn giá lạnh? Bấy giờ nghe bà Son nói với giọng chì chiết giận hờn, tim ông Phúc bỗng nhảylên như bước hụt! Thì ra bà ta văn nhớ hết! Cấm bỏ sót tí gì! Ngày ấy khi gia đình nhất quyết bắt bà phải lấy chồng. buổi tối gặp nhau ở bờ sông, bà ấy đã nói thế nào nhỉ?
- à quên! Tôi xin ông! Bà Son hoảng hốt khi thấy mình không kìm nổi những điều âm ỉ vẫn cất kỹ trong cõi lòng. Nhưng sao lại nói những chuyện ấy vào lúc này?
- Tôi có câu chuyện muốn nói với ông, mà phái nói dài dài nó mới ra nhẽ. Đứng đây không tiện. Ông vui lòng đứng khuất vào trong này một tí.
Bà Son nói những lời ấy một cách hào hển, rồi bà lui vào cánh bãi sau gốc duối, đến ngồi thu mình cạnh bụi cây dành dành và bụi dứa dại, với những tàu dứa vừa to vừa dày và nhọn hoắt như những thanh gươm chĩa lên tua tủa cao quá đầu người, từ bụi dứa sang bụi dành dành, dây tơ hồng giăng mắc chằng chịt, trong bóng tối, đêm nhạt mờ nhìn như một tấm lưới sắt.
Ông Phúc đứng lặng một lúc lâu, lòng ngổn ngang rối bời. Ông bỗng thấy như mình vừa như lay lại một cái gì, nhưng lại mơ hồ có một điều gì phấp phỏng lắm. Ông vừa muốn nghe bà Son giãi bày, lại vừa lảng tránh, bởi chắc chắn những điều bà sắp nói chẳng vui vẻ gì; thế nào cũng liến quan đến cái người mà không bao giờ ông muốn nhìn mặt. Nhưng đã đên nước này thì không thể trốn được nữa. Trong thâm tâm chưa bao giờ ông ghét bà Son. Chưa bao giờ bà ấy là người lừa lọc.
Ông Phúc dắng một tiếng nhỏ trong cổ, rồi lùi vào rặng cây bước từng bước rất chậm. Đã về khuya, ánh sáng sao nhạt nhoà, hơi sương phơ phất như khói nhạt khiến cánh bãi lờ mờ như trong chiêm bao. Ông Phúc khẽ khàng đi lại bụi cây dành dành, người bỗng châng lâng sợ sợ. Bà Son ngồi xổm, hai tay ôm lấy gối, đen sẫm, lặng phắc như bất động.
- Ông ngồi xuống đi! - Bà Son nói trầm trầm, khó khăn như rút từng lời từ trong ngực - Hôm nay tôi gặp để xin ông một việc. Đúng là cái số tôi chẳng ra gì! Muốn sống yên phận cũng chả được! Mang tiếng là chồng con nhà cửa dè huề, nhưng có lúc nào tôi được vui, được thoa nguyện. Chủ không ra chủ, tớ không ra tớ! Ngẫm ra đời tôi lận đận là từ cái ngày tôi phải lòng ông! Từ bấy giờ tôi không làm chủ được cả thân tôi! Lấy những là để giừ cái tiếng cho bố mẹ thế là vì bố mẹ chứ đâu phải vì mình! Nếu ngày ông thực lòng vì tôi, cùng ý với tôi bỏ đi nơi khác làm ăn, no đói có nhau, thì chắc đời tôi không đến nỗi. Có no mà không có vui, có lành mà không có ấm như thế này!
Tiếng bà Son tắc lại, ngạt đi. Bà gục mặt xuống hai đầu gối, vai run lên từng nhịp. Bà không định nói thế. Nhưng vừa cất lời lại không kìm được lòng. Những điều u uẩn vẫn cất kỹ từ lâu, mấy hôm nay lại bồn chôn bật dậy. Từ tối đến giờ đã chực sẵn nơi đầu lưỡi. chỉ cần giáp mặt người vừa yêu vừa ghét kia là những lời ấy bật ngay ra.
Ông Phúc hốt hoảng nhìn quanh, rồi tự thấy mình đứng lêu đều như thế này thì thật là ngớ ngẩn, dại dột nữa. Ông liền lóng ngóng ngồi xuống, và chẳng biết nói gì, hỏi gì, cứ nhìn lom lom vào đôi vai còn tròn trịa của bà Son đang run lên trong tiếng nấc, lòng dạ bồn chồn rối rắm.
Đã lâu lắm rồi, xa xưa lắm rồi, từ ngày ông còn là cậu giáo Phúc trường đồng ấu, đầu xanh mỡ, mặt vuông. da trắng. Mặc dù đã yên bề gia thất, nhưng ông vẫn đứng núi này trông núi nọ, vì càng gần người vợ bố mẹ chọn cho, cái cô Dần khô chân gân mặt ấy, thì cậu giáo Phúc càng thấy đời mình trống vắng thiếu hụt. Vậy mà khi người con gái đẹp nhất làng, đã cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, rủ cậu bỏ làng ra đi liều! Tối ấy, khi bố mẹ nhất quyết phải bắt Son lấy chồng, Son đã tất tả chạy ra gốc cây bạc thau trên quãng vai cày bờ sông, áo quần bay lật phật, mái tóc dài cuốn vội vã, chiếc lược thưa vẫn cài vắt vẻo đỉnh lọn tóc. Cô ào đến Phúc, đổ người vào ngực Phúc. vừa nói vừa thở dốc:
- Bỏ đi đi anh! Đi đâu cũng được! Mình có hai bàn tay, chịu khó chịu khổ thì ở đâu chả kiếm được miếng ăn. Thấy u em nhất định bắt em phải lấy thằng thọt ấy rồi! Họ đang bàn với nhau là tuần sau cưới! Thế thì em chết còn hơn! Bỏ đi anh! Báu gì ở cái đồng đất thóc mách này. Thế nào? Anh nghĩ thế nào mà đứng đực ra thế?
Son ngửa khuôn mặt nước mắt chan hoà lên vừa khóc, vừa lắc người Phúc như lắc, như run một cái cây chết đứng! Đến khi Son xoắn tay vào bả vai Phúc hỏi dồn, Phúc mới lâm bẩm như người mất hồn:
- Nhưng biết đi đâu bây giờ? Sểnh nhà ra thất nghiệp! Thế là bà Son đấm bình bịch vào ngực Phúc, gào lên: Thì ra anh là người hèn nhát! Anh lừa tôi? Anh coi tôi là đồ chơi? Anh còn nhớ anh thề thốt những gì không? Nói ra anh chỉ gan cái lỗ mồm! Anh chỉ biết đến thân anh! Anh tiệc cái nhà ngói, cái sân gạch chứ gì? Anh tiếc con vợ mặt lưới cày chứ gì? Đã thế thì anh về đi! Bước cho khuất mắt tôi đi!
Có tiếng gõ lách cách vào mạn thuyền đuổi cá dưới sông, Phúc bịt miệng Son, nhưng cô vằng tay ra như một con chim cắt xù lông vẫy cánh, giọng cứ rít lên:
- Không việc gì phải sợ! Cả làng, cả tổng người ta nói dăng dăng là tôi dan díu với anh, tôi không sợ thiệt thì anh lo gì! Giời ơi khổ thân tôi!
Vừa nấc lên trong tiếng khóc, Son vừa chạy vụt đi. Lon tóc xổ ra, gió quạt tung toá phủ kín cả lưng.
Đêm ấy - ông Phúc nhớ lắm, cũng sáng lờ mờ lợt nhợt như đêm nay. Đấy là đêm gặp gỡ cuối cùng của hai người, và khởi đầu của mối tình thù dai dẳng đến mấy chục năm!
Sau đêm ấy một tuần Son lấy chồng, lấy anh Hàm thọt. Rồi Son vẫn sống như mọi người vợ, mọi người đàn bà khác: chẳng việc gì phải chết như cô nói! Từ đấy môi người một phận, mỗi người một con đường riêng. Vẫn thấp thoáng trông thấy nhau. nhưng không còn biết gì về nhau nữa. Vậy đêm nay bà ấn định nói chuyện gì? Chả nhẽ gặp dấm dúi thế này chỉ xới xảo những chuyện ngày xửa ngày xưa? Bà Son vẫn úp mặt vào lòng bàn tay trên đầu gối. Đôi vai đã bớt rung. Chỉ còn những tiếng xịt soạt khe khẽ. Ông Phúc hỏi rụt rè:
- Bà còn định nói với tôi chuyện gì nữa?
Bà Son như sực tỉnh. Bà ngồi thẳng lên, lấy ống tay lau mặt, nói rì rầm:
Thôi thì dù sao tôi phải lo cái phận tôi. Lo cho mấy đứa con tôi. Thôi thì ông ghét tôi. Ông khinh ông Hàm nhà tôi, nhưng ông hãy rộng lòng với mấy đứa con tôi! Chúng nó chả làm gì nên tội. Ông hãy bỏ qua cái vụ này, ông rút đơn kiện về! Rồi tôi sẽ nói anh em họ Trịnh có lời xin ông. Thế là ông được trả ơn cho cả một chi họ. Còn mẹ con tôi đã được ông làm phúc.
Ông Phúc bỗng sững người ra giọng đã tỉnh khô:
- Ai nói với bà đi làm việc nay? Có phải tay Thủ không?
Bà Son cuống quít lên. Bà quay sang hốt hoảng nắm lấy tay ông Phúc đang chém chém vào không khí như sợ ông chạy đi mất. Bà nói vội vã, môi run bắn:
- Không! Không! Không ai xui tôi đâu. Đây là tự tôi nghĩ ra. Các ông chỉ nghĩ đến kiện nhau, thì tôi cũng phải nghĩ ra làm cái gì chứ! Ông hãy vì tôi mà làm phúc làm đức. Cả đời tôi chỉ xin ông một lần này!
Vừa nói Bà Son vừa nắm chặt tay ông Phúc. Bàn ta bà lạnh giá, run lật bật. Đang sắp nổi cáu, ông Phúc bỗng chùng hẳn người xuống. Miệng ắng lại. Cơn hoả vừa lốc lên, những lời cay nghiệt vừa định cất lên bỗng khô cứng lại trong miệng. Toàn thân ông như có một luồng điện chạy. Ông ngồi đơ ra. Rồi như một bản năng, một tia lửa vẫn tờ mờ le lói tiềm ẩn ở mãi nơi thầm sâu, giờ đang lần lần hồi nhiệt.
Ông quay sang se sẽ nắm lấy tay bà Son. Bàn tay nhỏ nhắn, vẫn những ngón thon mềm đã một thời siết chặt vào da thịt ông, nhưng tuột khỏi ông gần hết cả cuộc đời rồi! Bà Son văn để yên tay mình trong lòng bàn tay ông Phúc.
Cả hai cùng bàng hoàng nhìn thẳng vào mắt nhau, đờ đẫn thẫn thờ! Ông Phúc hỏi lập bập:
- Thế ra bà cũng khổ à? Tôi lại nghĩ là bà sung sướng lắm.
Bà Son nói lao hển như hụt hơi:
- Đâu phải có ăn có mặc là sướng. Có khi bữa rau bữa cháo vẫn sướng, mà có cơm ăn ba bữa, có quần chùng áo dài lại vẫn là khổ.
- Nhưng chả nhẽ bà lại không có quyền gì ở trong gia đình? Nghe người ta nói bà muốn may sắm gì, mua bán gì, từ bộ quần áo đến việc đi góp giỗ ở bên ngoại cũng phải hỏi chồng?
Thế là ông Phúc đã khơi trúng vào chỗ dễ buồn tủi nhất của lòng mình, bà Son khóc nức lên. Bà bíu chặt vào cánh tay ông Phúc. Một trong những đòng tác nhiệt thành của cô Son từ thời xa xưa chợt thức dậy, sống dậy với cả hai người. Bà nói thổn thức không cần phải giữ gìn nữa:
- Đấy, tôi sướng thế đấy! Sướng đến có tiền có gạo trong tay là chi tiêu may sắm gì cũng phái ngửa tay xin! Rõ thật cái thân tôi!...
Vừa nói, bà Son vừa xoắn vào cườm tay ông Phúc. Chính lúc ấy, lúc hai người xoá đi những e dè ngăn cách, đang bộc bạch những nỗi niềm không dễ nói với ai, thì đánh rào một cái, như từ trên trời rơi xuống, như từ dưới đất mọc lên; một bóng người tối thẫm nhảy qua bụi cây từ phía sau lại, gằn giọng trong cổ họng, sắc lạnh:
- Ngồi im! Động cựa tôi bắn!
Tiếp lên là ánh đèn pin sáng loè, hoa vào mặt hai người rồi chiếu lom lom vào bàn tay bà Son đang rụt vội khỏi cánh tay ông Phúc. Phó ban công an Cao kéo chiếc mũ lơ-vit sụp xuống mặt cho ra dáng thám tử, đứng sững sững trước mặt hai người, súng ngắn đeo thây lây giữa bụng. Một bóng người nữa từ bụi duối ngoài đường hấp tấp đi lại. Bà Son kêu lên kinh hãi khi nhận ra cái người đi rình thứ hai là ai:
- Chú Thủ? Chú định làm cái thế này? Chính chú bảo tôi!...
- Bá im ngay! - ông em chồng vội cắt ngang lời bà Son, nói lấp ngay đi:
- Bá có thể về được! Rồi anh em tôi sẽ nói chuyện với bá? Đồng chí Cao làm nhiệm vụ đi! Bà Son vùng đứng dậy, vừa chạy tong tả, vừa oà khóc.
- Bây giờ chúng tôi đề nghị ông làm biên bản! - Cao tắt đèn, nhưng vẫn nhìn lầm lầm vào ông Phúc, nói gằn từng tiếng.
- Biên bản thế nào?
Ông Phúc hỏi nhỏ ngơ ngác, rõ ràng là giọng của người đang chịu nhún. Nhưng Cao đã như muốn nổi xung. Anh vô bồm bộp vào bao súng: nói như đọc lệnh:
- Còn biên bản gì nữa! Biên bản của hành động vụng trộm bất chính! Đêm hôm khuya khoắt dắt nhau vào bờ bụi để ôm ấp than thở, vậy là cái gì? Hay ông đang thảo luận về việc xin tách khỏi hợp tác xã lớn đấy?
Ông Phúc đứng bật dậy, củng đã muốn xô xát lắm lắm.
- Chính các anh bày ra cái trò đốn mạt này! Các anh bảo bà ấy đến gặp tôi để xin tha tội.
Cao đã nổi cáu, tiếng đã như muốn gầm lên:
- Đứng im! ông có hành động chống đối tôi nổ súng.
Thủ tiến lên một bướcn giọng dẽ dàng, cái dẽ dàng của một con mèo vờn chuột, của người đã nắm chắc phần thắng, nên không có việc gì phải ồn ĩ:
- Cao thôi, không cân to tiếng. Bây giờ ta bàn việc người lớn với nhau.
Thủ quay sang ông Phúc dù đêm nhạt nhoạ dưới ánh sao mờ nhạt, nhưng vẫn thấy rõ bốn mắt gườm gườm nhìn như xỉa vào nhau. Thủ hạ giọng đến ngọt ngào:
- Bây giờ thế này ông Phúc ạ. ta lấy tinh thần là người làng người xóm, lấy tinh thần đảng viên để nói chuyện với nhau! Gia đình chúng tôi muốn yên chuyện mà ông cũng vậy. Chứ bây giờ làm ầm ĩ cho cả làng biết rằng ông với bà Son dắt nhau ra đồng giữa đêm khuya thì còn ra thể thống gì! Lại giữa lúc ông Hàm đang như thế! Người ta sẽ nghĩ ông đã lợi dụng! Rồi về mặt tồ chức, chi bộ có để ông yên không? Ông xấu mặt đã đành, mà bên gia đình chúng tôi cũng không thơm tho gì! Vậy thì ta cần bàn kín với nhau, không để hở cho ai biết, cả ông Hàm chúng tôi cũng sẽ không nói. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông rút ngay đơn kiện về. Chính trên huyện đang mong như thế. Các đồng chí đó không muốn có rắc rối. Khi ông đi rút đơn, tôi sẽ nói với mọi người là hai gia đình đã tự giải quyết được với nhau. Cụ thể là nói với ông đã lấy tinh thần cán bộ Đảng viên ra thoả thuận,lới nhau, vì nghĩa lớn đã bỏ qua những việc vụn vặt. Như thế ông chỉ được tiếng tốt chứ không mất mát gì. Ông đồng ý chứ?
Ông Phúc nói với giọng của người đã bị mắc câu:
- Sao anh không nói thẳng với tôi như vậy? Việc gì phải bày ra cái trò nhí nhố này?
Thủ hình như khẽ cười. Người ta bảo Thủ có tiếng cười rít gớm, cái cười của mật ngọt chết ruồi!
- Thôi không nên để ý những chuyện vặt? Ta thống nhất với nhau như thế. Nhưng làm gì cũng phải cho đàng hoàng, cho nên vẫn phải có một cái giấy cho có đầu có đuôi. Ông yên trí, xong xuôi mọi việc, tôi sẽ xé tờ biên bản này trước mặt ông. Cao viết đi!
- Giấy gì? Biên bản gì? - ông Phúc hỏi giật giọng.
Thủ vẫn ngọt nhạt:
- Cũng vẫn chỉ là chuyện thủ tục bình thường thôi! tôi đã hứa danh dự với ông là xong việc sẽ hủy ngay.
Rồi như đã chuẩn bị đâu vào đấy, cao cởi dây súng đưa cho Thủ, ngồi xuống bật đèn, rút quyển sổ trong túi quần, bấm bút bi tanh tách, viết soạn soạt rất nhanh. Thủ thắt dây súng vào ngang sườn đứng lom lom như canh gác cả hai người.
- Xong rồi, tôi ghi thế này.
Cao ngẩng lên, dắt bút vào túi đọc:
Chúng tôi là Trịnh Bá Thủ, bí thư đảng uỷ và Trần Cao, phó ban công an, trên đường đi làng nhiệm vụ về lúc mười giờ đêm, đã bắt được ông Vũ Đình Phúc và bà Ngô Thị Son đang làm những việc vụng trộm bất chính ở bãi trồng bạch đàn cạnh cánh đồng Ma Voi. Để giữ gìn trật tự an ninh và sự trong sáng của xóm làng, chúng tôi không hô hoán làm to chuyện, mà chỉ góp ý xây dựng và làng biên bản này để có chứng cớ là chúng tôi không bịa chuyện. Chúng tôi can đoan là nói đúng một trăm phần trăm sự thật. Dưới đây là chữ ký của đương sự
Ông Phúc chồm lên:
- Không đúng? Xuyên tạc! Vu cáo? Vụng trộm bất chính ở chỗ nào? Tôi không ký liếc gì cả.
Vừa nói ông Phúc vừa vùng vằng định bỏ đi, thì Thủ đã buông lời sắc lạnh:
- Ông không thể đi được! Nếu ông bỏ chạy, bắt buộc tôi phải nổ súng! Làng xóm sẽ ầm ĩ lên. Còn bà Son thì ông nên biết, lúc này tôi bảo gì bà ấy phải nghe! Khai thế chứ khai nữa cũng được. Vậy là chúng tôi những ba người, ông chỉ có một không, ai thắng ai? Nhưng tôi không vu vạ đâu. Cao xoá mấy chữ vụng trộm bất chính đi. Vậy là được chứ?
- Phải yêu cầu ghi rõ là chính bà ấy đi tìm gặp tôi để yêu cầu tôi rút đơn kiện.
Ông Phúc đáp xẵng, nhưng Thủ vẫn nhẹ nhàng. Con mèo đã nắm chắc phân thắng, cần gì phải múa vuốt với chuột!
- Ông có thể ghi thêm tất cả những điều ấy, vì chúng tôi có biết bà Son nói những gì với ông đâu! Ông cứ viết thêm tất cả ở phía dưới, rồi ký tên. Cao đã bấm đèn và đưa sổ, đưa bút cho ông Phúc. Và ông Phúc đã gù gù cái lưng, cố giữ cho khỏi run tay, viết thêm nửa trang giấy trong quyển sổ Mậtcủa Cao, rồi ký tên.
Bút sa gà chết! Con chim đã lao vào bẫy! Con cá đã chui vào lờ! Thủ cầm quyển sổ, bấm đèn nhìn lướt qua những dòng ngều ngào và chữ ký run run của ông Phúc, hài lòng nhét vào túi. Đoạn Thủ quay sang ông Phúc nói với giọng gần như thân tình:
- Ông Phúc ạ, hai giờ chiều mai tôi chờ ông ở uỷ ban xã. Tôi sẽ nói với cả Đảng uỷ và uỷ ban là tôi với ông đã giải quyết mọi chuyện với nhau ở phạm vi gia đình, đã vì tình nghĩa làng xóm mà xoá hết những hiềm khích cá nhân. Vậy là tôi đã làm đẹp cho ông! Ông nhớ nhé! Dứt lời. Thủ tắt đèn quay gót đi ngay, bóng tối trùm lấy người anh!
Có tiếng cú rúc phía đồi ông Bụt. Mấy hôm nay bà Cả Ngật cứ hấp háy cặp mắt lông quặm mà thì thầm là tối tối đại bàng bay về đậu đen trên cây si cụt ở đồi ông Bụt, tiếng quạt cánh của các ngài cứ vù vù như tiếng quạt hòm! Rồi đom đóm lập loè như sao sa, rồi cú rúc quanh cây si ấy, nhiều điềm lạ lắm!
Chưa ăn thua! Nào đã thấm tháp gì! Những điều lạ ấy còn khướt mới sánh được với điều lạ vào chiều ngày hôm sau ở ủy ban xã! Lạ mà lại nhìn thấy nhỡn tiền, lạ mà thật như đếm mới càng lạ!

Vố này thì không phải chỉ riêng làng Giếng Chùa mà cả xóm Mới, xóm Trại, tính sơ sơ hơn hai ngàn hộ hơn sáu ngàn khẩu cứ chăm chăm xem cánh nhà Vũ Đình sẽ hạ bệ cánh nhà Trịnh Bá thế nào. Tông tộc của Đại - Sang - Phúc - Quý Lộc - Tài sẽ dồn đẩy tông tộc của Hoành - Hàm - Long - Thủ - Ngọc - Báu vào ngõ cụt ra sao thì bỗng chách một cái, tất cả kinh ngạc đến ngã bổ chửng!
Theo lệ thường, hai giờ chiều, văn phòng Đảng ủy và ủy ban - gồm hai gian nhà ở liền nhau, mới lác đác có người đến. Nhưng hôm nay mới hai giờ kém mười lăm, Thủ đã có mặt. Quần màu be, áo cộc tay màu nước biển, tóc chải ngôi, mặt mũi điềm tĩnh. Người ngoài nhin không biết anh vui hay buồn. Thủ dựng xe rồi đứng trên hiên gọi to:
- Bác Vòi đâu? Lên mở cửa nhá
Bõ Vòi đang dội nước tắm uôm uôm, tưởng có khách trên huyện, trên tỉnh về thay xống áo tập tễnh đi lên. Đến khi chỉ thấy một mình Thủ, lão ngạc nhiên. Vừa mở khóa, bõ Vòi vừa thầm hỏi:Quái, sao hôm nay anh cu này lại có vẻ hách thế nhỉ? Giở chứng chắc! Người ta đang đồn là sắp mất chân bí thư đến nơi, chẳng nhẽ khôn róc như anh ta lại không biết?
- Bác để nhà cửa bẩn quá đấy - Thủ vào nhà nhìn quanh, nói nhẹ nhàng nhưng lạnh lùng.
Bõ Vòi vừa đi tìm chổi, vừa nói lầm bầm, trong lòng càng thấy lạ:
- Chiều hôm qua các ống ấy họp về muộn, tôi chưa kịp dọn. Hôm nay có khách ở trên về hả anh?
- Không có trên nào cả, nhưng vẫn phải phải sạch sẽ, có nước có chè.
Nói rồi Thủ bước ra ngoài, đi loanh quanh nhìn ngắm mấy khóm hoa, khóm táo, rồi thủng thẳng sang khu trường học, điệu bộ thật thong dong nhàn tản. Bõ Vòi nhìn theo không còn hiểu ra làm sao. Cứ tưởng ông bí thư đang bí rì rì, cuống cà kiêng lên mới phải, chứ còn lòng dạ nào mà ngắm hoa thưởng nguyệt. Chính Bõ Vòi đã bảo mỗi khi Thủ sang khu trường học để thăm mấy cô giáo viên là anh đi thưởng nguyệt đấy! Những lúc ấy lòng dạ phải phơi phới lắm. Vậy hôm nay trúng quả gì mà anh ta lại túng tắng thế nhỉ?
Vừa thấy chủ tịch Sửu đến, bõ Vòi đã từ dưới bếp chấm phẩy chạy lên, ghé sát vào tai Sửu thì thầm, cặp mắt vần vú những tia đỏ vì ngấm nhiều rượu cứ đảo lên. Nghe xong Sửu chỉ cười khủng khỉnh, rồi xách cặp bước lên nhà với cái dáng của ông chủ số một ở đây: Sửu được biết trên huyện đang rất buồn bực về Thủ. Hôm qua lên trên ấy có việc, cả chủ tịch và trưởng ban kiêm tra cứ hỏi liệu trong vụ đào bới này có vai trò của Thủ không? Sửu đáp lập lờ: Không biết thế nào mà lường! Vì bí thư của chúng tôi có phải là người ruột để ngoài da đâu! Về xã Sửu khuyến khích những người xưa nay vẫn muốn chống Thủ nhưng chưa có dịp, thì bây giờ đã có cớ đẩy Thủ vào thế cô lập rồi. Lâu nay Sửu vẫn phải đưa vào Thủ để củng cố vị trí của mình, nhưng Sửu văn âm thầm ấm ức khi biết mọi người vẫn nhún mình là cái bóng của Thủ, vẫn coi mình là anh ngụ cư phải sống tựa vào Thủ, nên nhìn việc Thủ bao sân sang công việc chính quyền, có những quyết định độc đoán, Sửu vẫn phải vui vẻ, phải lặng thinh. Như hồi trong năm mới đây, xã quyết định mở chợ ở đầu cầu treo bắc qua sông Công phía cuối xã kia. Hôm bàn cụ thể về việc thu thuế cầu, thuế hàng Thủ lại vắng mặt. Hôm sau Sửu nói lại. Thủ bỗng gắt ầm lên và chỉ ra những chỗ hớ đến ngờ nghệch trong những quy định của bọn Sửu.
Lần sau cái gì không biết nhớ hỏi tôi đã, chớ vội vàng như vậy thì đến mấy con mẹ buôn vặt nó cũng vừa dược ăn, vừa được cười cho! Thủ xẵng giọng nói, còn Sửu thì cứ phải ngồi ngay tán tàn. Vì cái thế của Thủ đang mạnh. ở trên huyện Thủ quen thân hơn Sửu nhiều, còn dưới này thì vây cánh đông lắm Sửu cứ phải làm thinh chịu lép. Nhưng bây giờ thì khác rồi! Gió chuyển rồi! Mấy hôm nay đã có người nói vui: Bác Sửu chuẩn bị kiêm luôn chân bí thư đi là vừa! Thì quyền bí thư cũng được. Sang năm đại hội, cờ sẽ vào tay bác chứ ai! ở đâu không biết chứ ở đây bí thư vẫn quan trọng hơn chủ tịch nhiều. Bởi thế nghe câu nịnh mình dù quá sớm, nhưng Sửu cũng thấy sướng tai!
Sửu vừa bày số sách ra bàn thì Thủ về.
Anh đấy à? - Sửu quay ra vồn vã như thường ngày, rồi đứng dậy tráng ấm pha trà.
Thủ ngồi xuống ghế cũng hỏi với giọng bình thường như mọi khi:
- Mấy hôm nay có gì không?
- Không anh ạ! - Sửu rót nước ra chén, mùi chè ướp hoa sói toả thơm ngát- Tối qua bên anh họp chi bộ à? - Thủ nhìn vào mặt Sửu, nói thăm dò
- Họp để triển khai nội dung mấy hôm trước thường vụ ta đã bàn.
Rồi không thấy Sửu nói gì, thế có nghĩa là Sửu chưa biết những chuyện diễn biến sau đó. Tốt lắm. Thủ hỏi sang điều mà anh mới nghe được:
- Nghe nói anh đã quyết định bỏ tổ truyền thanh?
Sửu vẫn chép chép từng nhụm nước nhỏ qua kẽ răng, và mặc dù giọng vẫn ngọt ngào nhưng rõ ràng đây là lần đầu tiên Sửu vẫn dám tự ý quyết định một công việc, và cũng lần đầu tiên Sửu nói với Thủ bằng gịong của người ngang hàng, cũng là một cách thăm dò sự phản ứng của Thủ ra sao!
- Thì việc này tôi đã nói mấy lần trước trong các cuộc họp là bây giờ lấy thóc đâu chi cho tổ truyền thanh? Xà xẻo như trước là gay rồi! Tổ những ba người, bây giờ cũng ít việc, mà lại ăn thóc bằng người làm việc cả ngày là không hợp lý. Thêm nữa, dạo này lại nghe người ta xì xào là cậu Hiên với cô Gấm cùng trong tổ truyền thanh nhiều chuyện léng phéng lắm. Vậy thì tốt nhất là giao quách máy cho trưởng ban văn hóa bắt anh cu Đích phải học thêm cách điều khiển máy. Truyền thanh với cờ đèn kèn trống về một mối là gọn.
Thủ cũng vừa nhấp nước, vừa thủng thẳng hỏi lại:
- Nhưng lại có ý kiến cho rằng phải bỏ chính cái anh chàng Đích chúa tào lao chúa qua loa đại khái ấy thì sao? Rồi giao luôn những việc cờ đèn kèn trống cho tổ truyền thanh. Sang năm ta thành lập thư viện như kế hoạch đã bàn, thì tổ truyền thanh kiêm luôn cả thư viện, vì cô Gấm trước đây đã học trung cấp thư viện, do phân công đi xa, nên cô ấy bỏ, anh không biết sao?
Mới có thể mà xem chừng Sửu đã bị 1-0! Sửu đang lúng túng chưa biết tự biện hộ cho mình ra sao, thì bỗng có tiếng líp xe tanh tách ngoài sân: rồi phó ban công an Cao bó người trong bộ bò mốc loang lổ, hiện ra ở cửa, Hôm nay có vẻ trọng đại thế này, mà chiếc ba-bét của Cao lại hỏng.
- Báo bí thư và chú tịch, ông Phúc có việc muốn gặp đảng ủy và uỷ ban
Thấy Sửu sửng sốt, đến không biết làm gì, Thủ đứng dậy vồn vã:
- à mời đồng chí Phúc vào đây - Rồi quay sang Cao - Đồng chí sang gọi anh Bí, rồi cùng đến đây nghe luôn.
- Rõ! Cao đáp như một người lính, rồi quay gót.
Lương Văn Bí là phó bị thư thường trực. Vì là người trung dung tốt tính, nên mọi người vẫn gọi là Lưu Bị. Bí cùng ở trong thường vụ với Thủ và Sửu. Nhà Bí ở cạnh khu trường học. Lúc nãy Thủ sang đấy dặn Bí cứ ở nhà để tý nữa có cuộc hội ý thường vụ, chứ đâu phải Thủ đi tán gái như bõ Vòi vội nghĩ hấp hoảng.
Ông Phúc mặc bộ quần áo tàu tàu, bỏ chiếc mũ lá cọ ra, ngồi xuống ghế. Mặc dù miệng khẽ mĩm cười cho có vẻ tự nhiên. Nhưng ngay Sửu là người chưa biết tí gì về màn kịch này, cũng không thấy điệu bộ ông có cái gì gượng gạo. Cập mắt ông khô khô hình như thiếu ngủ. Thủ đứng dậy, tự đi xúc ấm pha trà mới. Sửu không biết làm gì, liền rót nước sôi tráng từng cái chén, bụng càng hồ nghi. Quái quỷ thật, hai ông này như Sơn Tinh - Thủy Tinh, sao bỗng dưng lại thân mật với nhau thế này? Mà sao lại cả thường vụ và công an ngồi nghe cái gì nhỉ? Hòa hay chiến đây? Tay Thủ không nói gì, nên Sửu cũng lặng thinh. Thành ra cả bí thư và cả chủ tịch cùng làm ra vẻ chăm chú vào việc pha trà để phục vụ một đảng viên thường! Và ông Phúc cũng như đang dằng co điều gì trong lòng nên im ốt. Không ai dám nhìn vào mặt ai. May quá Lương Văn Bí và Cao đã tới. Thủ nlồi xuống ghế ở chính giữa: đúng vị trí của người chủ trì. Anh đã quên khuấy ấm nước vừa pha. Giọng mềm mỏng, cân nhắc.
- Đây không phải là họp thường vụ, mà tôi chỉ muốn sự có mặt của thường vụ và công an để chứng kiến sự hòa giải giữa hai gia đình và họ hàng chúng tôi với gia đình và họ hàng đồng chí Phúc. Cũng xin thông báo với thường vụ biết, có cuộc hòa giải này là do tôi đã chủ động gặp đồng chí Phúc tối hôm qua, và chúng tôi đã nhất trí việc làm sai của ông Hàm để hai gia đình chúng tôi tự giải quyết với nhau. Thôi thì chín bỏ làm mười, chứ nhờ đến pháp luật can thiệp thì nó sứt mẻ đến cái tình làng xóm láng giềng! Để cho đàng hoàng ba mặt một lời nên tôi có mời đồng chí Phúc tới đây, coi như chúng tôi thông báo cho cả thường vụ được biết. Về phần tôi, tôi rất cám ơn đồng chí Phúc đã giữ đúng lời hứa. Bây giờ xin nhường lời cho đồng chí Phúc!
Cả Sửu và Bí cứ trố mặt ra hết nhìn Thủ lại nhìn ông Phúc, cứ như mình đang bị cặp đối thủ này cuốn vào một trò chơi ú tim. Ông Phúc vẫn hơi mỉm cười gượnh gạo. Ông hắng giọng, rồi cũng nói như lời gần như Thủ. Cả hai người đại diện cho hai dòng họ ghê gớm, chưa chịu nhường nhau đến một sợi tóc, bây giờ đúng thời điểm tốt nhất để sát phạt, có dịp dồn nhau vào tận chân tường, thì bỗng cả hai bên cùng đề cao chuyện nhân nghĩa! Cũng vì tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, xí xóa hết mọi hiềm khích nhỏ nhen. Đến nước này thì ếch trong mả, cua trong lỗ cũng phải bò ra mà chúc mừng hoà bình vạn tuế!
Ông Phúc nói xong tất cả cùng ngồi lặng phắc, đến nỗi Thủ phải nhắc khéo Anh Sửu anh Bí có ý kiến gì không?.Lúc ấy Sửu mới sực tỉnh và anh lập bập nói: Xin thay mặt chính quyền xã rất hoan nghênh thiện chí của cả đôi bên. Sự kiện này sẽ là tấm gương đáng cho tình đoàn kết không chỉ ở Giếng Chùa mà là tấm gương cho cả xã!
Thủ lại tiếp lời:
- Theo kế hoạch giữa tôi và đồng chí Phúc đã thỏa thuận, ngay sau dây đồng chí Phúc và đồng chí Cao thay mặt trưởng công an sẽ lên huyện làm việc với các cơ quan chức năng nội dung vừa rồi. Theo tôi để cho đàng hoàng, để cho các anh trên huyện thấy đây là sự tự nguyện chứ không phải ai ép buộc ai, ta nên có biên bản về cuộc gặp gỡ này
Cao ngồi một mình giáp phía tường, liền nhau nhảu đứng lên:
- Tôi ngồi đây nghe đôi bên trình bày đã thảo luôn biên bản rồi.Giờ đây các đồng chí xem, rồi hai đương sự ký trước, dưới là chứng thực của chính quyền địa phương.
Lần này thì không những Sửu Bí mà ông Phúc là người bất ngờ nhất, bị động nhất. Chỉ có Thủ là không một chút ngạc nhiên, vì tất cả đã diễn ra đúng như ý định của anh. Rất đẹp! Thủ xem trước ra vẻ chăm chú rồi ký rất đậm phía dưới. Mấy người tiếp theo cứ như bị thôi miên, cùng ký soạn soạt trên mặt giấy. Thủ tự tay gấp tờ biên bản đưa cho Cao rồi đứng lên như là tuyên bố kết thúc cuộc gặp gỡ. Anh giục Cao và ông Phúc lên huyện ngay kẻo hết giờ làm việc.
- Tôi tưởng chỉ một mình chú Cao lên huyện là đủ - Lương Văn Bí hỏi khẽ Thủ.
Thủ liếc nhanh ông Phúc, giọng đến là thân tình:
- Có mặt bác Phúc càng đẹp! Vì bác là bên nguyên chủ động rút đơn. các anh trên ấy cần hỏi gì càng tiện.
Nhìn hai người dắt xe ra khuất bụi tre. Thủ mới quay lại Sửu giọng vẫn ngọt như không:
- Mấy việc anh quyết định vừa rồi, hôm nào họp thường vụ ta bàn lại. Nếu thấy cần thì anh cứ giải thích với mọi người là những công bố hôm trước mới là dự kiến. Bây giờ tôi phải về có chút việc gia đình.
Dứt lời, Thủ bước xuống sân dắt xe đi ngay. Nhiều bóng người lố nhố trong nhà bõ Vòi đồ ra, mon men đi lên. Đây là những người đi xin dấu xin giấy và cả những người tò mò đi săn tin về cuộc họp với những thành phần rất lạ mắt này. Bí nhìn theo bóng áo màu ghi rất nhã của Thủ đang mờ dần trong năng quái, rồi quay sang lắc đầu với Sửu:
- Tài thật! Xoay chuyển được đến thế thì tài thật! Đối thủ này cao cường lắm, ông chưa lay được đâu ông Sửu ạ!

Chỉ đến chiều tối là cái tin đích thân ông Phúc cùng với phó ban công an Cao đã lên tận huyện để xin cho bác cháu ông Hàm được về, bác cháu ông Hàm trắng án, đã lan truyền khắp mấy làng, từ Giếng Chùa bắt sang xóm Trại, lây lan sang xóm Mới, nhanh như lửa cháy, gây sự sửng sốt y như năm ngoái thằng cu Biếu con ông phó Biếng hoạn lợn, đi lên tỉnh xem đá bóng, mua chơi cái vé xổ số năm hào, đã trúng thưởng năm triệu! Hôm ấy vợ chồng phó Biếng suýt chết ngất vì sướng! Lần này không ai phải suýt chết, nhưng rõ là mọi người kinh ngạc đến mức cứ há mồm ra mãi lúc sau mới hỏi được: Thế là thế nào? Thì còn ai biết thế nào! Chịu! Chỉ còn bí thư chi bộ Xuân Tươi, ông thần lạc quan, là lớn tiếng khái quát ngay rằng như vậy mới đúng xu thế thời đại đối đầu chuyển sang đối thoại! Rằng lịch sử đã sang trang, vậy chả nhe một phân tử nhỏ là làng Giếng Chùa lại dậm chân tại chỗ!
- Đối đầu mới chả đối đuôi! Nói tù mù như bác rõ chán mớ đời! - Mấy bà thợ gặt nghe Xuân Tươi hùng hồn, chỉ nhe răng hạt na gỉơ đen giở nâu ra cười.
Giữa lúc ấy Thủ đã tắm táp xong. Anh mặc bộ pi-gia-ma màu sáng, ngồi ngả trên ghế sa-lông, lim dim nhả khói thuốc. Anh đang tận hưởng chiến tích của một trận thắng lớn giữa lúc anh đã mười mươi chiến bại. Chuyển bại thành thắng. Anh đã bắt được đối thủ đang ở thế thắng phải hạ vũ khí và tự nguyện làm tù binh? Lúc ra khỏi văn phòng ủy ban, Thủ về thẳng nhà, cũng không cần báo cho mẹ con bà Son biết vội. Từ hôm qua tới giờ anh chưa gặp bà Son. Hãy cứ để cho những âu lo buồn tủi thấm đậm vào người bà ấy! Chiều nay Thủ không muốn tiếp ai, không muốn gặp ai. Sự thỏa mãn làm Thủ đến lặng cả người! Anh cứ ngồi như thế cho đến lúc nghe Luyến nói láo pháo ngoài ngõ, rồi tiếng xe cải tiến chở lúa cót két ngoài sân.
Thày em về rồi đấy à? - Luyến hỏi vọng vào, rõ là tiếng hỏi của người đang sung sướng.
Thủ vừa ngồi thẳng dậy, chưa kịp trả lli, thì Đào với hai tay áo sắn cao tóc búi cao mặt đỏ ửng như cô vừa ngừng tay tuốt lúa, huyện vừa từ trong bếp chui ra, bẽn lẽn đi vào rồi dừng lại trước cửa nói rụt rè lễ phép:
- Thày cháu vừa về mời chú sang chơi.
Thủ đứng đậy nhin cô cháu gái xinh đẹp và bướng bỉnh, mấy hôm nay có lúc đã dám nói hỗn; ánh mắt của Thủ như muốn nói : mày chỉ là con nhãi nông nổi!. Thủ khẽ ờ mà không cần hỏi thêm một câu. Đào quay ra bảo Luyến: Thím đừng nấu cơm chú đấy nhé, lên cháu đã sắp rồi, có cả anh Cao ở chơi. Rồi cô tong tả đi ngay. Những bước chân cứ như múa.
Lát sau trời tối hắn, Thủ mới thong thả đi tắt qua những bãi chè sang nhà ông Hàm. Từ xa đã thấy nhà ông trưởng họ sáng choang nhờ cây đèn lớn treo ngoài hiên, dấu hiệu lồ lộ là nhà cửa đang vui, đang trà dư tửu hậu.
Một đống lúa xếp cao ngất giữa son. Chiếc máy tuốt đứng cạnh, nhưng không ai làm. Mẹ con bà Son đang tíu tít dưới bếp. Cả người đàn bà làm thuê hôm nay cũng phụ bếp. Thóc lúa hãy bỏ cả đấy đã. Mùi xào nấu từ bếp bay ra ngào ngạt. Thủ quở con khoang, rồi đi thẳng vào nhà trên. Bộ pi-gia-ma màu sáng bắt ánh đèn trông càng nhã, lại thêm những bước đi khoan thai đường bệ. Bởi chính anh là tác giả cửa chiến thắng này, của cuộc vui này. Vậy thì anh cũng phải được tự ngắm vuốt mình một chút, được kiêu kỳ một chút chứ!.
- Chú đấy à? - ông Hàm đang tìm đồ thay trên cái chạc móc áo dựng ở góc nhà, quay lại hỏi Thủ. Rõ ông trưởng họ lại cháu chào trước những người dưới quyền mình. Chắc ông vừa tắm xong, đang tìm bộ tươm tất để tẩy hết cái lốt thằng tù trên người! Cao đang giở nằm giở ngồi trên đi-văng liền vực dậy, nói nhỏ với Thủ:
- Cháu chưa nói gì với bác Hàm đâu. Trên đường về cậu ưởng với cậu Ngạc cứ hỏi, cháu chỉ nói xoay chuyển được thế này là tất cả do chú, cháu không biết tý gì.
Thủ khẽ gật đầu, hỏi ngay cái điều anh đang quan tâm:
- Bí thư và chủ tịch đã biết chưa?
- Cả hai cụ đang ở dưới Phú Ngọc dự triền khai nghị quyết 04. Nhưng cháu đã gặp chánh văn phòng bạn chú, ông ấy mừng lắm và phục lắm, hứa là hai cụ về sẽ báo cáo ngay. Mà có khi tin đã bay xuống Phú Ngọc rồi! Các cơ quan huyện bàn tán ầm lên rồi còn gì! Buồn cười, lúc làm các thủ tục xong, cháu quay lại đã không thấy ông Phúc đâu nữa. Chuồn nhanh thế! Hẳn là ông ấy cú lắm! Nhưng như thế cũng là được, đôi bên cũng có lợi, coi như không có chuyện gì đã xảy ra.
Thủ cười nhạt, hỏi nhỏ:
- Thế anh tưởng sự việc dừng lại ở đấy à?
Thấy Cao ngơ ngác một cách thành thực, Thủ càng hạ giọng, nhưng tiếng nào rõ tiếng ấy:
- Tuần sau ta triển khai nghị quyết 04, đấy là thời cơ để ta dứt diềm trường hợp Vũ Đình Phúc! Chứ làm nửa vời rồi có lúc chết! Nhưng làm thế nào thì phải tính kỹ đã!
Ông Hàm đi ra trong bộ quần áo màu gụ, vải mỏng, may rộng cho mát. Thủ quay lại hỏi:
- Thằng ưởng với thằng Ngạc về nhà luôn à?
Ông Hàm cầm thiếc lông gà thông điếu bát mặt ông gầy hẳn đi, nhưng đôi mắt cá rói cứ chơm chớp, biết là ông chưa hết xúc động:
- Thì để nó về cho các bá ấy mừng.
Con khoang bỗng sủa hộc lên. Bà Son từ nhà bếp chạy ra. Một giọng khề khà từ ngoài sân:
- Dì đấy hả? Nghe nói dượng về, tôi sang mừng đây.
Thì ra là ông Khừu anh rể bà Son, một đệ tử của thần ma men. Mới ngoài sáu mươi, nhưng ông đã kheo như cổ xưa như người sống hàng thế kỷ. Cao chạy ra dìu người đàn ông lọng khọng trông như được cấu tạo bằng toàn những gióng những đốt! Ông Khừu thập thỏm bước lên thềm, hấp háy cặp mắt nhìn nào giọng vẫn ề à:
- Chú cứ mặc tôi, trông thế chứ tôi còn trường sức chán! Tôi đã nhẩm tính có dễ đến hơn ba tấn rượu đã đi qua người tôi chứ ít ỏi gì! Lộc trời đấy chú ạ! Không phí đâu! A ông Thủ đây rồi, hay quá! Từ tối đến giờ tôi nghe làng bàn tán là ông đã xoay xoả dẹp yên được cái vụ này thật là giỏi. Tôi phục quá. Ông đúng là người tề gia trị quốc tài nhất cái xã này!
Thủ khẽ cau mà nhưng miệng vẫn cười hỏi ông thần rượu những câu tầm phào cho vui. Vừa lúc Đào lễ mễ bưng chiếc mâm đông lên đặt vào chiếc giường chân quỳ. Thịt gà luộc chặt to, cá trắm cỏ rán vàng, nem cuốn, dứa xào lòng gà, đĩa nào cũng to xếp có ngọn. Ông Hàm bê cả cái hũ da lươn đặt lên giường. Thủ quay ra gọi to:
- Bá lên trên này.
Bà Son mặc chiếc áo trắng cộc tay thấm đẫm mồ hôi, tất tả chạy lên, vồn vã:
- Thôi tôi ngồi dưới này, đâu cũng thế. Mời bác, chú với anh Cao xơi rượu với bố cháu. Vừa nói, bà Son vừa km đáo nhìn Thủ để đo chừng thái độ của ông em chồng thế nào. Nhưng bà chỉ đọc được sự tảng lờ trên gương mặt trái xoan rất thanh, rất nhẹ, vậy mà từ đêm qua đến giờ bà luôn nơm nớp lo sợ gương mặt ấy.
Giữa lúc ở đầy mọi người đang nâng chén vại rượu tăm đục lờ đờ gắp vào bát cho nhau những miếng thịt gà vàng ênh, trong nhà ngoài sân đèn sáng rời rợi. Cả đến con khoang hôm nay cũng đi với chú mèo mướp tham lam đang ngàu ngàu trong xó nhà. Đúng là khi chủ nhân vững thế thì cái khí cái thân từ con vật nuôi trong nhà cho lới đầu hè xó bếp cũng có sắc diện, mất tiêu sự lạnh lẽo, yếm thế.
Sự lạnh lẽo hôm nay đã sà đôi cánh xuống nhà ông Phúc. Ông vừa về, đi lặng lẽ lúi súi như bộ dạng một anh mất của. Cả nhà chờ mãi, vừa ăn cơm xong. Hỏi, ông đáp nhát gừng ăn rồi. Rồi đi rửa chân, lên giường nằm ngay. Bà Dần vợ ông định nói là lúc chập tối chú Tính, chú Hảo tức là hai ông em rể chồng bà Lộc bà Tài sồn sồn đến tìm ông. Nhưng thấy ông củ rủ quá, nên bà thôi. Bà Dần sực nhớ là ngay từ đêm qua, lúc ông đi họp về đã có cái gì bồn chồn lắm, cứ lục sục hết nằm lại dậy uống nước, hút thuốc như người có bệnh mất ngủ rồi sáng hôm nay ở nhà tuốt lúc ống ấy cũng bần thần thế nào ấy. Cho đến chiều tối nay người ta bàn ầm lên là ông Phúc bị hớ rồi! Bị mắc quả lừa rồi! Bà túm lấy hỏi, thì người ta trợn mặt lên : Bà về mà khảo ông ấy! Đúng là người ta có lý, là chủ nhaan bắt được trộm giờ bỗng dưng lại đi xin tha cho thằng kẻ trộm. Thế có phái là người dở hơi không? Có phải bị ăn quả đắng không? Hay ông ấy đã nhận cây nhận chỉ của nhà ông Hàm nên mới giải hòa thế. Bà Dân đang muốn hỏi ông cho rõ ngọn ngành đây. Trông thất thần thế kia thì làm gì có cây với chỉ. Có mà chỉ rối! Bà Dân giục thằng Cân đi học bài, rồi bà đổ gạo vào cối giã. Mấy hôm nay cái máy xát nhà ông Quản Ngư bị hỏng, nên cả làng lại phải xay tay, giã chân như thời xửa xưa. Bà Dân nhún từng nhịp cối, óc cũng như để đâu đâu. Cái chầy cứ nhẩn nha nện từng nhát thịch... thịch... nghe buồn rã rời như là cái cối cũng đang ngủ gà ngủ gật!

Khi khi bà Son đã làm xong hết mọi việc trong ngày từ dọn dẹp ngoài sân, cất con dao cái thớt: rồi soi đèn nhìn lại cửa chuồng gà xem chị em Đào đã đóng chưa. Lúc ấy trên nhà, anh em bác cháu Ông Hàm mới bắt đầu pha tuần trà thứ nhất. Sau cùng, bà Son xách siêu nước lên đổ thêm vào phích, rồi vẫn lặng lẽ bà câm chiếc đền con đi vào buồng.
Cái Hoa chưa kịp dắt màn, đã nằm dang cả hai tay ra ngủ thiêm thiếp. Thật tội con bé mấy hôm nay nó cũng ăn ngủ thất thường, mặt mũi cứ thờ thẫn như người thiếu hồn thiếu vía. Chỉ từ tối đến giờ nghĩa là từ lúc ông Hàm về, nó mới bừng sắc lên. Bây giờ ngủ lăn như một sự đền bù. Bà Son buông màn, nhè nhẹ sửa hai tay con bé cho thẳng thớm, rồi bà nằm xuống bên cạnh, trút ra một hơi thở dài. Nhà năm gian, ngăn hai đầu hai uồng. Đây là nơi ngủ của bà với cái Hoa. Ba gian giữa là bộ mặt chính của gia chủ gồm có bàn thờ tủ buýp- phê, sa -lông và chiếc giường chân quỳ bóng sẫm toàn lát chun, đây là nơi nghỉ của ông Hàm- Gian buồng đầu bên kia đùng cất thóc lúa, dựng xe đạp và kê một chiếc giường nhỏ đấy là chỗ ngủ của Đào. Tối nay Đào sang ngủ với Minh tồ vì bố mẹ Minh về tận Chã ăn giỗ mai mới lên. Mọi hôm người đàn bà làm thuê cũng nghỉ trên này để mẹ con bà Son thêm bóng thêm vía. Từ lúc ông Hàm về, chiếc chõng tre đã được xuống nhà ngang để người khác hộ tịch ngủ dưới đó. Xem ra bà Son và cả cô chủ nhỏ sắc sảo là Đào đều hài lòng với người đàn bà vô gia cư này. Chị ta làm rất khỏe, ăn rất khỏe. Cơn gạo chiêm mà mỗi bữa cứ đánh bay sáu bát, nhưng được cái trả công thế nào cũng được. Nhà còn nhiều việc nên bà Son bảo chị cứ yên tâm ở đây. Bà Son tắt đèn, nằm lắng nghe chuyện của mấy người đàn ông ngoài nhà. Bình thường như mọi hôm, bà cũng ngồi uống nước góp chuyện phiếm, nhiều lúc còn nói át cả ông Hàm. Nhưng hôm nay thì bà không thể ngồi vào đấy được. Bốn người ngồi kia có đến hai đã rình nghe hết những chuyện đêm qua của bà. Bà đang như con cá bơi giữa một chùm lưỡi câu cứ dăng lơ lửng quanh mình. Bà về đi, rồi anh em tôi sẽ nói chuyện với bà Từ đêm qua đến giờ tiếng nói sắc lạnh ấy cứ luôn văng vẳng bên tai bà. Lúc đó bà đã chạy gần về nhà, vừa chạy vừa khóc với nỗi tủi hờn uất ức. Cả đêm cứ giở thức giở ngủ người người mệt như vắt sức đi. Sáng dậy bà vẫn đi làm như thường, trưa vẫn đi đưa cơm cho bác cháu ông ăn như thường, nhưng bụng thì thắc thỏm như có ai sắp túm lấy áo mình. Buổi chiều nghe người ta bàn tán về cuộc họp tay ba tay tư ở trên xã, bà đã bỏ dở buổi gặt về nhà bụng dạ bồn chồn ngong ngóng chờ. Đến khi trông thấy Cao đèo ông Hàm về, bà lao bổ ra, vừa cười vừa khóc:
- Kìa thày nó! Anh Cao đi giúp bá đấy ư? Hoa ơi, thày về!..
- Thôi mẹ nó im đi, tôi về đây rồi! - ông Hàm nhìn bà nói nói trầm trầm. Đó là câu nói yêu thương nhất đời của ông.
Đào cũng bỏ gặt về. Mấy mẹ con cứ quýnh lên. Nhưng tất cả đều ngai nói ngại cười. Lặng lẽ đi chuẩn bị bữa tối. Bà thở ra âm thâm. Thế là ông ấy đã về. Đã tai qua nạn khỏi. Liệu có chuyện gì nữa không? Người ta vẫn bảo Thủ là đa mưu lắm, làm cái gì là làm đế cùng, có thật không? Thì đã cầu được ước thấy rồi còn mưu với mẹo để làm gì nữa?
Bà Son lắng nghe. Ông anh rể có rượu vào đang nói ầm ầm. Nhưng bây giờ là rượu nói chứ không phải ông Khừu nói, mười câu chẳng được một tiếng cứ chuột đi như người rụt lưỡi. Bà Son mới một nhắm mắt, thấy như có một làn sương tê mê toả xuống người mình. Bà thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.
Lúc ấy bên ngoài đã tàn đến ấm trà thứ ba. Cao ngáp dài đứng lên. Ông Khừu củng đứng lên. Cao lại phải hộ tống ông tần ma men chân nam đá chân xiêu về nhà. Bây giờ chỉ còn hai anh em ông hàm cùng ngồi duỗi chân, tựa lưng vào thành giường. Vừa ngh Thủ kể sự tình - Thủ thấy cần phải cho ông Hàm biết, bởi còn nhiều việc phải làm tiếp nữa, chứ chưa dừng ở đây, nhưng ông Hàm đã hỏi với giọng hỏi lại:
- Thế chú và thằng Cao có theo sát ngay từ lúc nó gặp nhau không? Chắc chắn là chưa có chuyện gì không?

Thủ vẫn mềm mỏng, vai trò cố vấn, vai trò chỉ huy lúc này là anh chứ không phải là ông Hàm nữa :
- Bác cứ bình tĩnh không được sồn sồn lên. Nào đã có chuyện gì. Khi thấy bà ấy khóc lóc, vừa kể lể, mà lão ta vẫn trơ ra, chỉ lo lão nghe nghe hết chuyện mình rồi đánh bài chuồn thì thật sôi hỏng bỏng không, vì thế em với thằng cao mới nhảy ra. Phải lập được cái biên bản thì mới xoay được theo ý mình. Chứ bác tưởng xỏ mũi hắn dễ lắm đấy. Thế là đã xong bước một. Bây giờ phải tiếp tục tận dụng triệt để thế mạnh ta đang có. Cánh bên ấy thêm mấy đảng viên mới về, rồi ông Chỉnh, ông Kính cùng bộ đội dễ vào hùa với nhau nên họ đã mạnh rồi đấy. Chỉ đến khoá tới này anh chàng Tươi mất chức bí thư với họ. Thế thì ta phải nhằm ngay vào cái gốc chính mà nhổ! Không có anh đầu trò thì rồi sẽ lộn tùng phèo, mỗi người một phách.
Thủ vẫn đang say sưa với phương án phải bẻ gẫy cây cột cái nhưng ông Hàm đã như không nghe thấy gì hết. Máu ông đã nóng lên rồi! Ông cắt ngang lời Thủ, tròng mắt đã tối lại:
- Thế nhà tôi nó khóc lóc kể lể những gì? Nói xấu tôi những gì? Trong lúc cả làng đói vàng mắt, cháo không có mà húp, thì ở đây ăn vẫn ba bữa no lòi kèn ra, thế thì còn đòi gì nữa?.
Thủ nhìn bàn tay ông anh với những ngón to ngắn, đầu tù thô nháp cứ rung rung khi cầm chén nước. Thủ biết ông ấy đã nóng mắt lắm, nên anh càng dẽ dàng
- Bác cứ bình tĩnh, em kể cho bác biết là để phải cùng lo việc lớn trước đã, chứ việc nhà như cái trong nơm, làm gì phải vội!
Thủ chưa dứt lời. Ông Hàm đă đập tay xuống chiếu. Thoắt cái, ông lại ngồi vào đúng cái chiếu trưởng họ của mình:
- Chú không phải dạy khôn tôi! Đến lão Khừu say đái ra quần mà còn biết có yên gia mới bình được quốc, nữa là người khôn, người tỉnh! Những việc chú thấy cần làm thì cứ dấn lên, càng nhanh càng tốt! Còn việc trong nhà thi tôi phải lo!.
Hli anh em cùng lắng đi, không ai nói một câu. Lúc sau Thủ đứng đậy hạ giọng rất trầm. dặn dò ông Hàm:
- Bác đừng làm ầm lên hỏng việc, lúc này đang rất cần đến bác đấy!
Rồi Thủ ra về. Anh em nhà này vốn không quen chào mời đưa tiễn nhau. Ông Hàm cứ ngồi lầm rầm rên giường. Niềm vui được thoát nạn trong ông đã nhẹ vợi hẳn đi. Lúc chiều khi thằng ưởng, thằng Ngạc hỏi: Cao chỉ nói: Tất cả là nhờ chú Thủ. Ông Hàm đã tưởng vì quen thân bí thư và chủ tịch huyện, nên Thủ đã xin được, nào ngờ. Đành rằng lập được cái mẹo này cũng là đáo để, nhưng ông vẫn như bị mất một cái gì. Ông chợt nhớ hồi năm ngoái sang bên sông ăn cỗ, tình cờ ông đã gặp một anh biết xem tử vi cùng ngồi chung một chiếu rượu. Mặt mũi hắn còn non choẹt nhưng sau một lúc tính toán, hắn đã phán câu này nghe ghê cả người: Tuổi ngựa của bác là sáng trí lắm. Tuổi này thuộc cung ly, tính nóng, sách đã có câu cung ly chính hướng nam phương, ai mà cung ấy tính người nóng thay. Bác rất hoa tay. Thích tự làm lấy mọi việc bằng chính đôi tay của mình. Người cung này trông khô, nhưng lại đam mê. Có thể vứt bỏ tất cả vì tình! Thờ ơ với mọi lời khuyên can! Nhưng chính vì thế mà dễ bị lừa vì tình, vì mù quáng quá!.
Có phải ta đã mù thật? Đã bị lừa thêm một lần nữa thật? Ông Hàm nóng nảy thục chân xuống nền nhà, tập tễnh đi đến cửa buồng, kéo tấm màn gió, gọi trống không vào khoảng tối mông lung:
- Ngủ rồi à?.. Hả?
Bà Son cựa mình như là vừa thức vì tiếng gọi, nhưng tiếng bà trả lời lại rất tỉnh:
- Ông gọi gì?
- Ra đây đã!
Thế là đã đến lúc! Bà Son biết ông chồng đã gọi to như vậy tức không phải để làm cái việc ấy. Theo lệ ngầm giữa hai người từ rất lâu rồi, từ ngày con cái đã khôn lớn, vợ chồng bà không ngủ chung giường. Nhưng hễ đang ngủ, bà Son bỗng thấy có bàn tay rờ rờ lần tìm, rồi hai đầu ngón tay thô tháp bấu vào cổ chân mình, lay lay, thế là bà biết cái bóng người lờ mờ đang lẹt sét đi ra giường ngoài kia là ai, và đang cần gì ở bà. Bà se sẽ ngồi dậy, cố không để cái Hoa thức giấc. Bà rút chiếc khăn tắm, và trên người chỉ mặc phong phanh, hai chân bước thật nhẹ đi ra. Rồi khi bà vừa ngả người xuống chiếc giường chân quỳ thoang thoảng mùi rượu và mùi thuốc lào, ông Hàm đã hăm hở mà vẫn lặng lẽ không một lời mơn trớn; tấm thân to ngang, rắn chắc của ông đã trườn phủ lên bà.
Nghe nói những người có khuyết tật từ bẩm sinh, hoặc thọt chân, khoèo tay, hay cận thị, thì bà mụ nặn sẽ đền bù sang cơ quan sinh tồn, họ trở nên mạnh mẽ khác thường. Ông Hàm đúng là người như vậy. Ông tuổi ngựa, chỉ còn hai niên nữa là ông đã lục tuần, nhưng chưa bao giờ Trịnh Bá Hàm chịu bất lực khi làm chức năng của người đàn ông. Hình như cái thân, cái cốt đầy cường tráng của nòi nhà mã mà ông cầm tinh đã thấm sâu vào từng mao mạch cua ông. Dẻo dai. Ông Hàm lúc nào cũng dẻo dai. Những lúc ấy, bà Son cũng không nói không rằng không chểnh mảng và cũng không chờm hợp, bà làm bổn phận của mình, mặc dù bà đang ở giai đoạn cuối của tuổi hồi xuân thời điểm của ánh hồi quang cuối cùng lóe lên trước khi mặt trời tắt lịm. Vâng ánh sáng của tuổi mãn khai dường đánh thức những tế bào và sự khát khao bừng nở một lần chót trong mỗi người đàn bà, họ bỗng trở nên nồng đượm đến cuồng nhiệt, hơn cả tuổi dậy thì rất nhiều. Nhưng với bà Son, trước sự bào trơn đóng bén của ông phó mộc, bà chỉ lẳng lặng làm tròn nghĩa vụ của mình. Rồi cả hai cùng thở dốc. Các khớp xương như lỏng ra, đầu óc trống rỗng bợt bạt. Trong lúc ông Hàm lim dim nằm thở ầm ề như vừa xong một công đoạn, thì bà Son mở cặp mắt thẫn thờ không nhìn ra, mà soi ngược trở vào, thấy rõ một cái gì cứ cạn dần, lịm tắt dân trong người mình.
- Đêm hôm qua bà nói xấu tôi những gì? - ông Hàm ngồi xếp bằng trên giường, hỏi độp một câu như vậy khi bà Son vừa từ trong buồng đi chân đất bước ra.
Chiếc đèn to treo ở cửa lúc nãy đã tắt. Cửa đã đóng. Giờ chỉ còn chiếc đèn con đặt cánh chiếc lư đồng trên bàn thờ, khiến ba gian nhà chỗ mờ chỗ tỏ. Ông Hàm ngồi nghiêng bên ánh đèn, khiến một nửa người và gương mặt gân guốc của ông cũng chỗ tối chỗ sáng. Bà Son lặng thinh như chưa nghe thủng,bà cuốn vội mái tóc còn rất dài, rất dày, chỉ ban ngày mới nhìn thấy loáng thoáng những sợi bạc, còn bây giờ văn đen mun. ánh đèn chiếu sáng một bên gáy còn đầy đặn, khuôn cổ vẫn tròn chắc, bà sẽ sàng ngồi xuống đi-văng, hai tay đặt trên gối, mặt lặng tờ như một con chiên chờ cha phán bảo. Và ông cha cứ ngồi gườm gườm trên giường, cha biết rất rõ mình chỉ làm chủ được phần xác, còn bất lực trước phân hồn. Cha luôn luôn không hiểu được những buồn vui nóng lạnh trong con tim. trong khối óc của đấng chiên tinh rất nhũn nhặn ngay trong vòng tay mình đây.
- Tôi hỏi bà đã nói xấu tôi những gì? Ba nghe rõ chưa? - ông Hàm nhắc lại tiếng đã đanh lắm...
Bà Son nói đều đều trong khi toàn thân vẫn ngồi yên như bất động. Bà không khóc, không kêu xin oán trách. Chỉ những lúc người ta mất hết niềm tin vào những lời khuyên bảo, hứa hẹn, thì mới có dáng điệu và âm sắc vô hồn thế này:
- Chú Thủ bảo tôi, thúc tôi đi gặp người ta, chứ tôi không tự ý.
Ông Hàm đập đánh rầm xuống chiếu, khiến mấy cái chén ngã lăn trong khay, xô vào nhau lanh canh:
- Ai chả biết chú Thủ bảo đi gặp. Nhưng đi gặp là để nói công nói việc chứ không phải đi gặp để khóc lóc, quị lụy, để bêu riếu chồng, bêu riếu họ hàng. Họ nhà này không thèm quỳ gối trước thằng nào nghe không? Từ ngày về đây bà phải khổ sở những gì? Thiếu thốn những gì? Cả đến chị gái anh rể của bà lúc túng, lúc thiếu cũng chạy đến đây!
Cái Hoa bỗng kêu thét trong buồng:
- U ơi! U đâu rồi?
Rồi nó lồm cồm bò dậy, đầu tóc bù xù chạy lao ra ngoài nhà. Ông Hàm đang há miệng định nói nữa thì, bỗng đứt nửa chừng. Bà Son vụt đứng dậy chạy lại như con gà mái dang cánh che chở cho đứa con bé bỏng. Hai mẹ con ôm nhau đứng giữa nhà. Bà Son quay lại, lúc này nước mắt mới tuôn ra lã chã:
- Thôi vì con cái tôi xin ông! Ông đừng để chúng nó phải nghe, phải biết những chuyện chẳng hay hớm gì! Còn số thóc vợ chồng bác Khừu vay, đến lượt chợ sau phơi phóng xong, bác ấy sẽ giả. Chẳng ai ăn không được của ai. Còn cái việc tôi phải đi gặp người ta, đi xin người ta cũng là vì con, vì chồng, chứ riêng thân tôi việc gì tôi phải xin xỏ cầu cạnh ai. Đã xui tôi làm, giờ lại còn bắt tội tôi?
Rồi hai mẹ con dìu nhau, hay chính cái Hoa là điểm tựa dìu bà, bước loạng choạng vào buồng. Ông Hàm ngồi đờ dânn. Được chứng kiến việc này, không phải chỉ có con bé Hoa út ít, mà còn một người nữa, mặc dù chỉ nhìn qua khe hở nhưng cũng thấy được thấp thoáng, và đặc biệt là được nghe rõ từ đầu tới cuối. Đó là người đàn bà làm thuê ngủ dưới nhà ngang. Chị đã dậy ngay từ lúc nghe tiếng òm òm trên nhà.
Nhưng rồi còn việc này nữa, cũng ngay trong trong đêm thì chỉ có hai người chứng kiến ấy là một hồi lau sau, có dễ đêm đã nghiêng về sáng, bà Son đang lơ mơ chập chờn, thi bỗng thấy có người kéo chân mình! Rồi lay lay? Bà Son rùng mình tỉnh hẳn. Những ngón ta chuối mắn hình như ươn ướt mồ hôi, lại nắm vào cổ chân bà giật giật. Rồi biết chắc bà đã tỉnh, cái người lay chân lại mới lệt sệt lê dép đi. Bà Son thở ra thật to, đưa tay lên xoa mặt. Hai hàng mi thấm ướt nước mắt trong giấc ngủ nặng nề kết dính vào nhau, khiến mặt mũi cứ lưỡng vướng như chăng một tấm mạng nhện, đến mở không được. Bà Son vừa dụi, vừa thở dài. Cài gì? Muốn an ủi con người mà duyên phận đã buộc chặt đời mình, bị đau khổ dằn hắt mấy hôm nay? Hay là vì phận sự? Bà lại se sẽ ngồi dậy, lần vẫn bước ra trong khoảng không tối mờ tắt hết đèn đóm. Rồi vẫn những gì đã quen, đã cũ kỹ đến ghê sợ. Mùi rượu, mùi hành sống, mùi thuốc lào và những động tác rất ít, rất tiết kiệm nhưng dứt khoát, như cưa như đục từ những ngón tay tay đổ mồ hôi trộm, và vẫn không một lời như thế cả hai cùng mắc bệnh câm. Ông Hàm chỉ ậm è trọng cổ họng, rồi ập cả sức nặng của mình trùm kín từ chân đến đầu tấm thân nóng hôi hổi, phập phồng phía dưới. Hai bàn chân ông, ngón cái và ngón chỏ quặp lấy hai ngón chân cái của bà, chắc như ông vẫn bắt vít! Những đợt sóng từ trên cao dội xuống, dội xuống.
Bà Son nằm đờ ra chịu trận, lặng lẽ khóc!

Non trưa, một chiếc u- oát còn mới rượi chạy chầm chậm với dâng điệu rất thư thái từ xã Phú Ngọc sang. Chạy theo con đường sống trâu từ xóm Mới sang xóm Trại, chiếc xe cứ bập bềnh như bơi giữa biển lúa đang chín. Xe không chạy thẳng lên xã, mà rẽ quặt sang khu đồi bạch đàn; rồi anh lái đánh một đường lượn rất điệu đàng như con gà trống xệ cánh quay vòng quanh con mái. Chiếc xe gáy lên một hồ còi, rồi đỗ sát vào vách tường nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.
Những người làm đồng dưới này vừa gặt ràn roạt, vừa thách nhau:
- Đố biết xe ông Luân hay ông Đạo?
- Đố biết bao giờ xe đi mới tài! Trên đời em chẳng sợ ai chỉ sợ u-oát đỗ dai cả ngày! Đỗ dai thì nhậu lai rai!...
Tiếng cười hì há bay lên trên những thảm lúa đang đố lả tả dưới lưỡi hái. Lúc này ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu tiếng cười nói của chủ và khách càng ròn rôm rộp như bánh đa nướng. Vì có tay trong là chánh văn phòng huyện ủy, bạn đồng niên của Thủ đã báo trước, rằng sáng nay bí thư sẽ làm việc tiếp với Phú Ngọc chừng một tiếng đồng hồ, rồi sau đó chánh văn phòng sẽ tháp tùng bí thư sang đây, vừa là để bàn lột số việc trước mắt, vừa là chúc mừng tài thao lược của Thủ đã dẹp được vụ xì-căng-đan êm như ru. Thủ đã cho người báo lại là xe cứ đánh thẳng đến nhà Sửu, vì vừa tiện đường và tiện một số việc khác nữa.
Mấy người trong thường vụ đã ngồi chờ từ buổi. Vừa nghe tiếng xe ì ì từ dưới dốc, cả Thủ, Sửu và Lương Văn Bí tức Lưu Bị đã chạy ra tận ngõ. Bí thư Luân và chánh văn phòng vừa bước ra khỏi xe, là đôi bên đã tay bắt mặt mừng vui vẻ và thanh thản cứ như tất cả không còn gì phải bận bịu, giờ chỉ còn độc một việc là nâng cốc chúc mừng nhau. Thì ra làm quan chức khi không phải giải quyết những việc rắc rối có sướng thật! Bí thư Luân hơn cánh Thủ, Sửu dăm tuổi, tốt tính nhưng nhát, lắc mạnh tay Thủ, nói to:
- Khá lắm! Thế là ông đã cứu được một bàn thua trông hấy! Không những ông thua, mà cả chúng tôi cũng sẽ bị trách là giao giày nhầm vào chân cầu thủ!
Chánh văn phòng nói xen vào:
- Suốt một giờ sáng nay bên Phú Ngọc, bí thư chỉ nói mỗi việc của các ông bên này là do các đảng viên biết nêu cao trách nhiệm, nên đã thu xếp được yên ổn những việc đáng nhẽ phải nhờ đến pháp luật can thiệp. Đây không chỉ là chuyện cá nhân, gia đình, mà là bài học chung biết lấy dân làm gốc của người lãnh đạo! Chả là bên Phú Ngọc cũng đang có một vài vụ lình sình giữa đảng viên với quần chúng không giải quyết được; vì sư bảo sư tốt, vãi bảo vãi hay. Hễ cứ ngồi với nhau là ầm ầm như mổ bò.
Bí thư Luân đi vào sân chào bà chủ, tức vợ Sửu đang cà rơm trên đống thóc cao ngồn ngộn mới tuốt:
- Được mùa phấn khởi chứ bà chủ? Hôm nay cho tôi ăn cơm hay ăn cháo đây?
Vợ Sửu còn trẻ, mắt sắc dao cau, đon đả:
- Gớm rõ nâu mới nại thấy bác về chơi! Có đống thóc thế này nà nhờ ơn Đảng, ơn chính phủ, ơn các bác trên huyện! Bác cứ ở chơi với nàng xóm chúng em dăm bữa!
Luân cười ồm ồm:
- Thứ nhất nghe bà chủ nói, tôi nhớ quê Hải Hưng ta quá! Thứ hai là lâu lắm mới lại nghe thấy dân nói ơn, nói huệ như thế! Giá tháng trước mà nghe ai nói như vậy thì đã nghĩ là họ nói mỉa!
Đi lùi lại phía sau, chánh van phòng quay sang Thủ tiết lộ:
Thôi thế là đại hội ắp tới, cái chân huyện ủy của ông chắc như bỏ túi rồi.
- Ông Đức bên Phú Ngọc có giữ được nữa không? - Thủ vừa hỏi, vừa đi gần lại Sửu, cốt để cho Sửu cùng nghe.
- Bị phơi áo rồi! Đến cái chân bí thư đảng ủy cũng còn khó nhằn. Ông ấy xử trí mấy pha dở quá. Trên huyện nói vui là bịíthư Phú Ngọc đang xoay trần ra múa quyền với từng đàn bướm xinh xinh, tung tăng bướm bay lượn! Tức là chống chọi với đơn kiện đấy! Đúng là nhiều như bướm! ông Đức phải bàn giao cái ghế huyện ủy viên ở cơ sở cho ông thôi!
Sửu nói thầm vào:
- Bí thư của chúng tôi đáng nhẽ phải vào huyện ủy từ khóa trước rồi ấy chứ!
Chánh văn phòng vẫn cười vui như tết:
- Thì chờ đến khóa này càng có bề dày thành tích chứ sao! Ngay nội bộ của các ông bên này cũng đáng để nơi khác học tập. Đến đây thấy không khí vui vẻ ấm cúng lắm! Chứ bên Phú Ngọc xuống làm việc phải giữ kẽ lắm, vào nhà ông này chơi, là ông kia nhòm ngó xem ăn uống cái gì? Bàn luận chuyện gì?
Tất cả cùng cười rất tươi. Cả Thủ và Sửu cũng đều mãn nguyện. Sáng nay Thủ đến trước cả Lương văn Bí, cùng ngồi ăn khoai chấn muối vừng với vợ chồng Sửu. Thủ lại nói cười vui vẻ như không, cả đến Sửu cũng không thấy có chút gượng gạo. Ông ấy còn để tâm đến một vài việc lặt vặt của mình không nhỉ? Sửu thầm nói, và càng thấy Thủ đang ngồi trước mặt mình mà cứ thăm thẳm không sao dò biết được!
Khi cả khách và chủ vừa ngồi ào bộ sa-lông giữa nhà, chưa bàn công việc, còn đang sịt soạt những chén trà nước chỉ xanh lờ lờ mà đặc đến nghít họng, thì đã thấy ông bố Vòi đeo cái tay nải đi lúi cúi từ cổng nách vào trong bếp. Vợ Sửu đã bỏ trang và cào ở sân, đang cùng chú lái xe dốc ngược chân gà mái ghẹ béo nung núc. Vợ Sửu liếc con dao phay xe xé vào trôn bát, rồi nắn nắn tìm tia tiết. Sống cắt tai, mái cắt cổ? Vợ Sửu chỉ nói là ngọng thôi, chứ tay chân chuẩn lắ,. Lâu nay các cuộc uống không tổ chức ở trên nhà ủy ban nữa, mà được sơ tán về các gia đình. Thảo nào tháng trước còn mồ ma lão Quềnh, lão cứ hong hóng chờ mà không thấy cuộc đánh chén nào. Nghỉ nhé! Địa điểm những cuộc ăn cũng không cố định, mà luôn luôn di chuyển. Nay ăn ở nhà chủ tịch, thì mai ở nhà phó bí thư, bữa khác lại sang nhà trưởng ban văn hóa xã. Người phục vụ là vợ con chủ nhà và bõ Vòi. Nếu khách ở xa về làm Việc trên văn phòng, thì đến bữa sẽ có một người đến nói nhũn nhặn: Mời đồng chí về nhà tôi nghỉ tạm, có gì ta ăn nấy? thông cảm với hoàn cảnh nông thôn. Tới nơi khách vừa chào bà chủ mặt đỏ tía lia ở trong bếp đi ra, thì như có phép lạ, đã thấy đông đủ tất cả bộ sậu ở xã. Người đi cổng chính, người vào cổng sau, người đột nhập cổng nách; cùng một lúc hiện ra không thiếu một ai, cứ như lệnh nhà binh! Các mâm từ dưới bếp đã bày chờ săn. Bưng lên! Bưng lên! Bưng lên! Tíu tíu vui quá thể! Chủ nhà xoa xoa tay, rằng đây chi là bữa cơm gia đình, tiện thể có đồng chí về công tác, nên kéo cả thấy anh em hàng ngày cùng làm việc với nhau đến cho vui, vì chỉ thêm đũa thêm bát, chứ không nhiêu khê gì. Khách chỉ còn biết đỏ tai cám ơn, chứ ai dám hỏi bữa cơm dưa muối này tốn kém bao nhiêu. Tất cả những cuộc đãi đằng ấy Thủ đều có mặt, nhưng không bao giờ Thủ cho đưa về nhà mình. Anh lấy cớ vì nhà mình ở xa, đường nhỏ khó đi, bắt anh em húp một bát cháo lội ba quãng đồng không tiện. Mấy người đã rỉ tai nhau Thủ giữ miếng như thế là khôn, nhưng không ai dám nói ra miệng.
- Vậy là các anh đã thấy đú điều kiện để tiến hành làm anh 04 rồi chứ? Huyện không ép đâu nhé. Vì có thể tháng sau triển khai được - Luân vừa gấp sổ cho vào cặp, vừa hỏi Thủ, Sửu và Lưu Bị với giọng sởi lởi dễ dãi. Luân đang rất vui.
Thủ trà lời dứt khoát:
- Đằng nào cũng làm thì chúng tôi làm luôn. Tháng sau mấy nơi cùng triển khai thì cập rập cho huyện trong việc chỉ đạo. Tuần tới anh cố gắng xuống với chúng tôi nhé.
- Xuống chứ, xuống những nơi có nhiều chuyện vui thì người chỉ thêm khỏe ra thôi! - Rồi Luân nhìn cả bộ tham mưu của xã, vẫn cười rất hài lòng:
- Này như vậy là Vũ Đình Phúc rất đáng hoan nghênh chứ? Ông ấy đã vì tình nghĩa làng xóm, vì tình đồng chí mà bỏ qua những xích mích cá nhân. Phải kịp thời biểu dương các ông ạ! Nếu bây giờ ông ấy vẫn được bà con tín nhiệm như ngày bầu hội đồng nhân dân, thì nên cân nhắc để xếp ông ấy ở một vị trí xứng đáng nào đó!
Cả Sửu và Lưu Bị chợt nhìn lảng đi nơi khác, rồi cùng quay sang Thủ như chờ ý kiến quyết định. Thủ vẫn giữ nụ cười thường trực trên môi:
- Vâng! Vâng! Chúng tôi sẽ nghiên cứu!
Luân bắt tay rất chặt từng người, rồi chiếc u-oát lại rì rì bơi bập bềnh giữa thảm lúa vàng về huyện. Bộ sậu chủ chốt của xã vẫn đứng trước cổng nhà Sửu nhìn theo. Mặt người nào cũng đỏ ậm lại, bì lên vì hơi men. Thủ nhắc Sửu và Lưu Bị cho người đi báo các bí thư chi bộ ngày mai lên văn phòng đảng ủy họp với thường vụ để bàn việc triển khai nghị quyết 04 vào tuần sau, rồi anh dắt xe ra về. Đã sang chiều.
Về tới nhà đã thấy Cao đang ngồi chờ. Anh chàng phái viên tin cậy báo cho Thủ biết là ông Phúc lại đến gặp Cao để yêu cầu Thủ sang nhà ông nói một vài lời trước họ hàng nội ngoại nhà ông ta, bởi ông ta rất khổ sở với họ. Suốt ngày họ truy hỏi, trách móc. Đây là tân thứ hai ông Phúc yêu cầu. Hôm kia nghe Cao nói là ông Phúc đến gặp, Thủ đã dặn Cao cứ truyền lại là thư thư đã!
- Ôi dà! Còn khối việc gấp đấy!
Thủ hơi xẵng giọng. Bởi anh nhợt nhớ lời bí thư huyện ủy lúc nãy xếp cho Phúc một vị trí xứng đáng? Xì!
Đến tối, khi Sửu đến thông báo một tin mới thì Thủ đã muốn nôi cáu lên!
Sửu đến với vẻ hốt hoảng, rồi thì thầm rằng hôm nay trên huyện vừa nhận được liền hai đơn từ Giếng Chùa gửi lên. Một đơn xin đòi tách khỏi hợp tác xã lớn để trở hợp tác xã nhỏ của Giếng Chùa ngày xưa, và yêu cầu huyện giải quyết ngay để các hộ còn kịp làm vụ mùa. ở dưới đơn có ghi chú rằng ba đội sản xuất Giếng Chùa đã gửi đơn này lên Đảng uỷ và ủy ban xã; nhưng họ chỉ nhận được sự im lặng đáng sợ! Đơn thứ hai mới ác chiến! Họ trình bày nguyên nhân phải tách ra khỏi hợp tác xã lớn vì số cán bộ hiện hành từ đội trưởng sản xuất, tới ban quản trị và cả chính quyền xã là một ê-kíp chặt chẽ bao che cho nhau để làm những vụ lũng loạn. Họ thống kê một loạt: nào là phá nhà kho, giải tán trại lợn của hợp tác xã Giếng Chùa cũ, số tiền tham ô của đội trưởng thủy lợi; số tiền chênh lệch ở trại giống, nhiều những khoản tiền lặt vặt lắm. Sửu có vẻ run khi họ nói tới hai việc lớn: ấy là biểu thuế và số tiết kiệm. Vì xã này là nơi giáp ranh giữa trung đu với đồng bằng, nên biểu thuế quy định cho xã rất nhập nhằng. Những diện tích nằm sát nơi giáp ranh lâu nay xã vẫn bắt đóng theo biểu thuế đồng bằng là sai, vì mức thuế giữa hai vùng chếch lệch khá cao. Một mét vuông đất ở đồng bằng đóng cao hơn một mét của trung du tới bốn lạng thóc. Những đội sản xuất có số ruộng giáp biên đó đã đề nghị xã phải chỉnh lý lại từ hai năm trước. Vậy tại sao năm nay vẫn nộp sản theo biểu thuế cũ? Với số thóc dôi ra ấy lên tới hàng tấn xã có nộp lên trên khòng? Hay dùng vào việc gì? Vì số thóc mập mờ này rồi dễ tham ô, vừa tinh vi, vừa hợp pháp.
Còn sổ tiết kiệm thì họ tố cáo là Đào Văn Quang, tức Quàng, người phụ trách quỹ tín dụng của xã đã mang số tiền thuộc khoản ngân quỹ xây dựng của xã ra ngân hàng làm cho mỗi cán bộ chủ chốt một sổ tiết kiệm với số tiền một triệu một sổ. Tất cả tám sổ tám triệu. Tất nhiên Quàng cũng phải có một xuất trong đó. Tất cả những sổ ấy đều gửi không thời hạn để rút lúc nào cũng được, đề phòng khi xã cần thì Quang đi lấy số tiền gốc được ngay. Vẫn tám triệu của xã không bớt một xu nhá! Thật xứng đáng là chọn mặt gửi vàng nhá! Nhưng kỳ thực là tám người đã hưởng lại năng tháng nay rồi. Thế thì đây không phải là lạm dụng chức quyền để tham ô tập thể thì còn là cái gì? Dân làm sao còn tin được, làm sao còn dám giao đồng tiền bát gạo vào tay họ! Những người tố cáo đã kê rành rành người có sổ tiết kiệm gồm hầu hết ban thường vụ và những người đầu trò ở xã.
- Gay nhất là cái khoản này đấy anh ạ! - Sửu nhìn Thủ như cầu cứu một giải pháp. Lúc này Sửu thấy liên minh với Thủ là cần thiết qua. Còn những vụ việc như phá ba cái nhà kho, giải tán trại lợn gồm hơn trăm con của hợp tác xã Giếng Chùa cũ và một vài món lặt vặt kháclà chuyện của những năm trước, từ những ngày tôi với anh chưa ra làm việc thì khỏi lo. Nhưng mấy cái sổ tiết kiệm này thì không chối được rồi! Chỉ bực là tay Quàng làm ăn thế nào mà để lòi ra!
Thủ châm một điếu thuốc nữa, mặt vẫn tỉnh như không:
- Có gì mà anh đã cuống lên thế! Bây giờ đưa tất cả số số tiết kiệm cho Quàng nó giữ, và các ông phải luôn luôn có đủ số tiền lãi trong mấy tháng vừa rồi để khi cần là nhả ra ngay! Khi có đối chất thì Quàng phải đứng ra nhận là đã tự ý làm chứ không phải lệnh của ai. Vì muốn có lãi suất cao cho xã, nên Quàng đã làm thành những sổ cá nhân, chứ sự thật không ai được chấm mút gì? Nếu họ quy là tội gian dối, thì đó chỉ là một cách gian dối mang tính chất nghiệp vụ để có lợi cho tập thể! Dặn Quàng là phải nhận hết! Thì đã cho ăn lộc mấy năm nay, có nhà có eửa, có bát đầy bát vơi, mà chỉ phải nhận có thế thì cũng chẳng thiệt gì! Hỏi nếu không được làm cái chân giữ tiền cho xã, thì Quàng lấy gì mà sàng sê? Mấy năm trước vợ chồng hắn có hơn gì lão Quềnh?
Mắt Sửu sáng lên, rõ là chịu Thủ cao kiến hơn hắn mình một cái đầu. Mình đúng là óc đậu phụ! Sửu lại hỏi:
- Thế còn cái biểu thuế đồng bằng, trung du anh tính sao? Khoản ấy thì bắt chính cái kẻ làm đơn tố cáo phải trách nhiệm chính. Tức lão Phúc chứ ai! Người đầu tiên kiện cáo này là lão Phúc chứ ai! Chỉ có lão mới biết nhiều chuyện thế! Biểu thuế vô lý ấy có từ thời lão làm chủ nhiệm, thế chắc lão không biết ăn đấy! Với lại việc này tôi và anh ít liên quan. Chức trách chính là ban quản trị, là chủ nhiệm, vì đấy là những người trực tiếp liên quan đến đất đai, thuế má. Lần này xem anh em Hiển-Vinh có còn khủng khỉnh như gà giò no cơm nữa không.
Anh em Hiển-Vinh chính là con trai cô thống Biệu. Ông Hiển cùng cỡ tuổi ông Hàm, là con cả, đang ở với cô thống ngay trong làng này. Ông Hiển đã có thời làm đội trưởng sản xuất, nhưng rồi có chuyện hục hặc với ban quản trị, nên đã nghỉ từ lâu, nhưng vẫn khối anh kiềng. Còn Vinh đang làm chủ nhiệm bây giờ là con thứ, lấy vợ và gửi rể xóm Đầu Cầu trên kia. Cụm trên ấy lại thuộc một chi bộ khác, nên ít khi Vinh la cà ăn uống ở đây. Vả lại, anh em Hiển-Vinh như rất có ý thức quyết không chịu vào guồng với bất cứ phe phái nào.
Gia tộc cô thống Biệu ở làng này chỉ là loại nhỏ, và từ xưa tới nay cũng chỉ đủ ăn đủ mặc, nhưng lại được cả làng nể theo một cách riêng chính là vì họ nghĩ cô nắm được những tà phép của quỷ thần, nên tốt nhất chớ có dây vào! Ngay từ những năm trước đây, khi người ta được kích động bài trừ mê tín, đã trở nên liều lĩnh đến vô sừng sẹo, xông vào phá hết cả đình chùa miếu mạo, trèo lên cả vai tượng phật, tay nắm lấy hai tay, người nhún nhảy như trẻ con cưỡi ngựa gỗ! Vậy mà đám trai trẻ hễ sàm báng cô thống Biệu, là ông bà cha mẹ họ đe nẹt ngay. Ngoài cái sự nể trọng người già, những người cao tuổi vẫn nề sợ cô, sợ cô cáu lên mà lẳng lặng yểm cho thì khốn! Vì thế anh em Hiển - Vinh không bị các họ lớn trong làng coi nhờn. Vinh đã học hết trung cấp nông nghiệp từ lâu, đã từng nhảy nhớn đi đây đi đó làm người nhà nước một thời gian nhưng rồi nghe chừng đồng lương ba cọc ba đồng tã rách quá đã bỏ về xã làm kỹ thuật viên thời ông Dáng là bí thư đảng uỷ. Vinh đã được ông Đáng nâng đỡ nhiều cho nên nếu vinh có nhớ ơn thì chỉ nhớ ơn ông Đáng, chứ còn từ Thủ trở xuống, không biết có phải Hiển mớm cho không, mà Vinh cứ ngọt nhạt, nhưng để nắm anh ta thì thật khó, cứ chuội như bắt bóng. Lại thêm gia đình bên vợ Vinh khá phong lưu và chỉ sinh độ một mụn con gái duy nhất nên Vinh ở rể nhưng không phải chịu cảnh chó nằm gầm chạn mà là à ông chủ ngay từ khi chạm ngõ. Vì thế Vinh đàng có cớ để sống sếnh không muốn ngả hẳn về ai. Trong những cuộc bầu bán chính vì chưa có phe nào giành được thắng lợi tuyệt đối, nên họ phải nhường ghế cho phái thứ ba tức là Vinh dù ở trung dúng ngúng nghỉnh một tý, nhưng thà thế còn hơn giao ghế cho người bên kia.
Đến cú này không biết Vinh đã tỉnh ra chưa, hay anh chàng vẫn lỉm đỉm chơi trò đứng giữa để ăn lộc cả hai bên? Vừa rồi Vinh đi mổ ruột thừa, còn đang nghỉ tĩnh dường, nên ít có mặt trong những cuộc họp hành, chè chén.
- Chiều nay cụ Luân về đọc mấy cái đơn này chắc là buồn bực lắm! -Sửu nói lầm rầm - Nay mai thế nào cũng gọi tôi với anh lên để chất vấn.
- Thế là họ bắn vọt cầu vồng lên huyện, mà có khi đã gửi lên cả tỉnh để tấn công ta đấy! Đơn ký những tên ai? - Thủ hỏi.
Nghe anh Bí nói họ kể tên toàn những xã viên thường, còn những gia dình có người là đảng viên như Phúc- Lộc-Tài thì chỉ ghi tên vợ con họ thôi, chớ không có anh đảng viên nào ở đấy. Cũng kín cạnh đáo để lắm.
- Được rồi cứ yên tâm, lúc nào ông Luân gọi tôi với anhh sẽ cùng đi. Dù Dù thế nào các ông trên huyện cũng phải bảo vệ tôi với anh là những người tận tụy với các ông ấy, tận tụy với cả vợ con các ông ấy. Ngày còn trại giống, lợn con, vịt bầu của ta từng rải khắp chuồng các gia đình cơ quan huyện ủy! Rồi gạch ngói của ta cũng góp phần làm cho nhà ông Luân, ông Đạo thêm khang trang. Chẳng bỗng chốc các ông ấy phủi tay dược! Chả nhẽ các ông ấy rỗi hơi đi bênh những kẻ đứng ngoài chọc gậy bánh xe! Đúng không nào?
Mắt Sửu sáng lên:
- Thì tôi cũng nghĩ thế. Nhưng để cho các cụ đứng hẳn về ta, cũng phải biết cách thuyết phục đấy anh ạ. Nhiều lúc tôi cứ tiếc thấy ta phá chuồng trại, ao hồ là nhanh nhảu đoảng, là thất sách. Còn những thứ ấy giống như miếng trầu đầu câu chuyện! Đi thăm nom ai nó cũng dễ vào cửa!
Thấy Thủ lậm lừ không nói, Sửu khẽ chào rồi về, dáng đi có vẻ yên tâm lắm. Nhưng với Thủ thì không thể được chăng hay chớ như vậy, không thể dựa dẫm vào ai ngoài chính mình. Với lại mục tiêu chính để anh em nhà Phúc cần phái hạ là anh, chứ không phải là Sửu và Vinh. Cho nên anh gấp rút hành động! Chứ để nước chảy bèo trôi, sang tuần sau triển khai nghị quyết 04, trước mặt đại biểu huyện ủy, rất có thể cả ông Luân xuống dự, anh em nhà Vũ Đình sẽ hùa vào hạ nhục anh, sẽ xới cho mọi chuyện rối tung lên, thì lúc ấy dù anh có biện minh đến may ông Luân cũng sẽ ngờ vực, vì chính ông ấy vẫn hay triết lý: Đã phải thanh minh, phải cãi lý, thế tức là có vết rồi! Cho nên phải có phương án, phải chuẩn bị chu đáo thì mới biến anh 04 thành một lưỡi dao sắc đề phạt những ngọn chông đang lăm le muốn xuyên táo mình! Nghị quyết nắm trong tay, thời gian triển khai nắm trong tay, vậy chả nhẽ đến khi nổ súng mình lại tự nguyện làm bia đỡ đạn! Thế thì có mà thay chân lão Quềnh làm thằng ngốc ở cái làng này!
Thủ lại đốt một điếu thuốc nữa. Anh lim dim nhẩm tính. Mới có một cái biên bản bắt được quả tang ông Phúc và bà Son dấm dúi gặp nhau trong đêm, chưa ổn! Vì nội dung biên bản còn nhẹ quá, sạch sẽ quá, chưa đủ sức nặng để dồn Phúc vào chân tường, chưa đủ tì vết để cho Phúc bay đi! Phải thêm tang chứng nữa! Lại phải gọi thằng Cao!

Mới nhập nhoạng tối, vợ chồng con cái ông Khừu, tức anh rề và chị gái bà Son đã bỏ giở đống lúa đang đập, trải chiếc chiếu thủng lỗ chỗ ra góc sân ăn cơm. Mùi canh cá, mùi cá kho, mùi gạo mới cứ lửng lên, thơm inh. Giàu ham việc, thất nghiệp ham ăn. Cổ nhân đã dạy thế, thật cấm bỏ câu nào! Nhà ông Khừu tứ thời ở tình trạng cứu đói, nhưng ông tơ bà nguyệt rõ khéo se duyên, hai người cùng chung cái nết được đâu hay đấy, có một ăn hai thì cả vợ lẫn chồng sao mà hợp nhau quá thể! Phải chạy ăn từ hồi trong tết, nhà cửa cứ trống trếnh trống toàng như phường nhà trọ. Bây giờ lúa mới đưa về sân, chưa tính trả nợ xong còn lại được bao nhiêu, nhưng ông Khừu đã lên kế hoạch sang phiên chợ sau là mùng năm tháng năm, tết giết sâu bọ, ông phải ngả con chó cốm để vợ chồng con cái đánh một bữa cho bõ những ngày da sát tận xương, bụng réo èo èo! Ông Khừu thu chân ngồi xếp bằng, nhìn sướng mắt như phật toạ đài sen, tay thong thả rót rượu ra hai chén vại. Nghĩa là bà cũng uống rượu ăn ớt giỏi như ông, thành thử nhà thì túng thiếu, nhưng lúc nào cũng hoà thuận vui vẻ, cấm có chuyện đá thúng đụng nia.
Ông Khừu tợp một hớp hết lưng chén vại, miệng sẽ khà một tiếng nhỏ điểm nhịp, tay vừa gắp cái đầu cá trôi nấu riêu cà chua vàng ánh, thì bà Son bỗng hiện ra ở sân với cái dáng thật âm thầm.
- Kìa dì. Dì vào ăn cơm - ông Khừu vẫn giơ đũa ngang mặt, gọi
Nhưng bà Son chỉ dưa cái nhìn nặng nề và giọng nói mệt mỏi: Bác cứ ăn đi, em không đói rồi đi vào nhà trên. Biết là có chuyện, bà Cả, vợ ông Khừu chạy lên hỏi từ ngoài cửa: Vợ chồng lại làm sao chứ? Bà Son ngồi xuống chiếu ghép băng đóng sơ sài bằng một tấm ván dài, bên cạnh là chiếc bàn cóc cáy vương vãi dây mực. Hai mắt bà đã nặng sùm sụp những nước ngược lên nhìn người chị gái to xương vóc như đàn ông, giọng đã ngạt đi:
- Chị Cả! Em khổ quá!
Vợ ông Khừu biết người em gái duy nhất của mình gọi như thế là dì ấy đang cần một sự che chở bảo vệ. ở vung này người con gái mang tên tục của mình ngắn lắm. Ngay từ hôm bước chân về nhà chồng, người ta đã quên mất tên cô rồi. Cô nép vào chồng và mang một phần cái lên của chồng. Rồi mang tên con, rồi mang tên cháu. Cứ thế, lần lần cô hoà tan vào, cô đánh mất mình đi trong chính những người ruột thịt của mình! Đến khi có ai gọi cái tên từ thửa lọt lòng, những người đàn bà còn sững cả ra, cứ như không phải gọi mình! Nhưng khi nghe những người máu mủ ruột rà kêu lên bằng cái tên tục, thì ngay những người đàn bà đù đờ nhất cũng hiểu là đấy không phải là tiếng gọi vui! Một cái gì nghiêm trọng lắm đã đến!
- Đầu đuôi làm sao nào? Rõ tội thân dì, một ngày lành thì ba bảy ngày giận!
Người chị gái nhìn em bối rối. Cha mẹ vất vả sinh con một bề. Ông bà đã khuất núi từ lâu, chỉ còn lại hai chị em chân yếu tay mềm thế này thôi. Mỗi người mỗi phận. Người chị thô kệch xấu xí, như một sản phẩm vội vã của thượng đế, nên chồng bà Cả cũng vừa vụng vừa nghèo: Anh Khừu ngay từ thuở đầu xanh tuổi trẻ, mà người ngợm đã lòng khòng xương xẩu, trông cứ như sếu vườn. Nhưng được cái Khừu đến là tốt tính, chỉ có bà Cả nói ông chứ chưa ai nghe thấy ông nặng lời với bà. Người em gái của bà thì xinh đẹp từ thuở lọt lòng. Đến lây giờ đã ngoài năm mươi, tốt số đã lên chức bà, ấy mà dì ấy vẫn nở nang gọn gàng, vẫn tươi roi rói. Nhưng rõ là ông trời đến so đo cò kè cho dì ấy tí sắc tí duyên mà như người kiệt cho vay lấy lãi. Cho đơn đòi kép. Cái vui của dì ấy không cõng nổi cái buồn. Đời dì ấy như bát cơm của kẻ khó, lổn nhổn ít gạo nhiều khoai!
- Em chẳng còn thiết gì nữa? - Bà Son sụt sịt.
Chỉ dở nào - Bà Cả nói át đi. Rồi thấy ông Khừu và mấy đứa con tay đũa tay bát chạy lên đứng lố nhố ngoài cửa đề nghe chầu rìa, bà Cả nỗi cáu hét tướng lên:
- Bố con đi xuống ăn cho xong bữa! Để ngươi ta nói chuyện!
Bố con ông Khừu răm rấp chấp hành. Ông bảo con gắp cá và múc canh để phần u với dì ăn sau. ở đây khác với nhà bà Son, bà Cả là chỉ huy cao nhất. Nhà có miếng sống miếng chín gì bà cũng nhớ em gái. Lại thêm bố con ông Khừu dù có tính bóc ngắn cắn dài, nhưng lòng dạ thơm thảo, rất quý dì Son. Thằng con út bằng tuổi cái Hoa, đen trùn trụt như con dế trụi, vừa gặp khoanh cá giữa nạc nhất để riêng ra, vừa tuyên bố một câu xanh rờn:
- Nhà dượng Hàm giàu thật, nhưng dì Son đếch sướng bằng nhà ta!
- Nào, đâu đuôi ra làm sao, dì nói tôi nghe. Chẳng hơi đâu phải khóc lóc cho nó phí sức.
Bà Cả rút chiếc khăn mặt tổ ong trên cái rui con chuột ngoài hiên, đưa cho em gái. Tiếng vẫn choang choạc, nhưng với bà Son chẳng còn gì êm ái và thương yêu hơn là tấm lòng bà Cả. Mọi vui buồn chua ngót trong cuộc đời, bà Son đều chạy sang vẫn vi với người chị ruột thịt duy nhất còn sống với mình đây. Có lần vợ chồng bà Son to tiếng với nhau, ông Hàm đã động đến bố mẹ bên vợ là nhà không có nề nếp. Bà Cả đùng đùng chạy sang, nhảy thách lên giữa sân nhà ông Hàm, đến mức Thủ phải đến xin lỗi thay anh, bà Cả mới thôi. Tháng trước đói quá, ông Khừu chạy vay đâu cũng không được, cuối cùng lại đến giật tạm ông Hàm nồi thóc, vừa mang về đã bị vợ xỉa xói cho một trận. Được cái ông Khừu mát tính, cứ lẳng lặng cùng con xay giã. rồi nấu một nồi cơm to tướng ăn bù.
- Sao mà người ta cứ nghĩ ra nhiễu chuyện ác thế chị Cả?- Bà Son vừa sụt sịt lau mặt vừa nói giọng ngàn ngạt:
- Em cứ tưởng việc như thế là xong, vì tai qua nạn khỏi rồi còn đòi hỏi gì nữa. Thế mà chiều nay người ta người ta lại bắt em...
Chiều nay, Đào và người đàn bà làm thuê đi gặt nốt mảnh ruộng cuối cùng ở cánh đồng Mã Voi, cái Hoa đi chăn trâu; ở nhà chỉ còn hai vợ chồng ông Hàm, dự định sẽ tuốt cho xong chỗ lúa giờ hôm qua. Bà Son đang băm rau lợn, chờ cho mặt trời lả vào rặng tre để sân bớt nắng mới làm. Ông Hàm đánh một giấc đãy vừa dậy, đang cắm cách pha nước. Thủ và Cao chợt hiện ra ở sân. Bà Son đã biến sắc mặt. Hai người này đi với nhau là dễ có chuyện lắm! Nhưng bà vẫn làm ra tươi cười:
- Kìa chú với anh Cao sang chơi. Mời hai chú cháu lên nhà trên. Thầy nó quở con khoang nhá.
Không biết rồi ba người đàn ông nói với nhau những gì, đến khi ông Hàm gọi vòi xuống, nghe cái giọng hanh hách là bà Son đã thấy có chuyện rồi!
- Mẹ nó lên trên này có việc.
Bà Son dừng tay thái chuối. Trong người bỗng nháy một cái. Bà lờ mờ cảm thảy mấy người này hình như loay hoay quanh quẩn về cái chuyện ấy. Mà đúng thật! Bà vừa bước vào Thủ hắng giọng nói ngay:
- Có một việc cần có ý kiến của bá! Phải làm thế này là anh em trong họ hàng bàn kỹ, không cần thiết cho ta bây giờ, mà còn có lợi là sẽ giữ yên được cho họ hàng mới về sau này. Còn trong gia đình anh em với nhau, mọi chuyện nhỏ nhặt phải bỏ qua. Em vừa nói với bác Hàm, bá rất có công trong những chuyện vừa rồi. Phải có bá mới tháo gỡ được những chuyện rắc rối một cách êm thắm. Những người trong nhà đều biết vai trò quan trọng của bá. Bây giờ còn chút việc cuối cùng. Làm thế nào thì anh em bác đây bàn kỹ rồi. Giờ em phải lên xã để kịp cuộc họp chiều nay. Bác Hàm bận gì cứ đi làm. Cao sẽ ở đây để hướng dẫn bá làm một số việc cần thiết. Cứ thế nhé!
Rồi Thủ đứng dậy xách túi đi ngay. Anh chưa lên xã để kịp cuộc họp như buổi chiều vừa nói, mà Thủ đạp xe thẳng đến nhà ông Phúc.
Bà Dần, vợ ông Phúc, người cao và gầy, đang đi đi lại lại duỗi đôi chân thô tháp vào đống thóc trải mỏng chiếm gần kín kín cả góc sân. Trở thóc cho đều nắng kiểu này: ở dây gọi là cày thóc. Nghe tiếng động, vừa quay ra thì Thủ đã vào đến sân.
- Kìa bác Thủ! Chào bác. Mời bác lên nhà.
Bà Dần vồn vã đến thái quá, nhưng đôi mắt lại loáng lên sáng lạnh. Với người khác ở tuổi Thủ, bà chỉ gọi là chú, là cậu, nhưng vì đây là ông bí thư của cả xã, lại là người anh em nhà Vũ Đình đáng gờm, nên bao giờ gặp Thủ, bà cũng rất thận trọng.
Ông Phúc đang nằm trong nhà cũng choàng dậy. Mở rộng hai cánh cửa, rồi ông vơ vội quần dài mặt vào
- Thôi quần chùng áo dài làm gì cho nóng đồng chí Phúc - Thủ nói to với giọng thân tình, rồi anh dõng dạc bước lên thềm gạch hoa, đi vào gian giữa kê bộ sa-lông nâu bóng.
Vừa ngồi xuống Thủ nói ngay:
Tôi có nghe cậu Cao nói đồng chí nhắn tôi...
Ông Phúc khoát tay làm một động tác xin lỗi, ngắt lời:
- Đồng chí gượm cho một tý Rồi ông quay ra bảo vợ: - Mẹ nó bảo thằng Câu đi gọi chú Tính, chú Địch sang có việc.
Đó là hai ông em rể đáng giá của ông Phúc. Thủ cười nhã nhặn ngăn lại:
- Không cần làm phiền thế đồng chí Phúc ạ. Rồi tôi sẽ gặp hai đồng chí ấy để nói chuyện sau. Cũng muốn đi thăm các cụ về hưu để xen các cụ có cần xã giúp đỡ gì không, vậy mà cứ lấn bấn chưa lúc nào rảnh rỗi. Mời bà Dần vào đây tôi thưa chuyện. Nửa tiếng nữa tôi lại có cuộc họp ở trên xã với hội đồng giáo viên.
Bà Dần lau mặt, ngồi vào ngồi xuống chiếc phản gỗ lim đen mun kê giáp bờ tường, tức bộ ghế ngựa dành cho ông cụ Cố khi sống.
- Hôm nay tôi sang chủ yếu là nói chuyện với bá, chứ với đồng chí Phúc thì chúng tôi đã gặp nhau trên tinh thần đồng chí nói hết ngọn ngành rồi - Thủ nhìn sang bà Dần nói thao thao? Sự việc thế nào thì bá cũng biết rồi tôi khỏi nhắc lại. Bác Hàm bên tôi tiếng thế nhưng cạn nghĩ! Đã đành ai làm người ấy chịu, nhưng tôi với đồng chí Phúc là đảng viên nên phải nhìn xa trông rộng, phải biết đặt lợi ích của làng, của xã lên trên lợi ích cá nhân mình! Vì thế hôm trước tôi đã gặp đồng chí Phúc trước để trình bày, xin gia đình bên này bỏ quá cho. Kết quả như bá đã thấy. Hôm nay tôi sang đây có lời để bá rõ.
Bà Dần vẫn lau mồ hôi trên gương mặt gồ gồ sống trâu, nói với giọng vang và khô:
- Gia đình chúng tôi cứ chờ bác sang từ mấy hôm nay. Các cô các dượng nó tối nào cũng đến hỏi, rầy la ông ấy nhà tôi Vì rằng nghe đồn nhà tôi nhận cây nhận chỉ bên ông Hàm nên mới có chuyện dàn hoà như vậy. Bác xem thế có lộn ruột không!
Rõ ràng bà Dần đã muốn nổi đoá lắm, nhưng cái cười ngọt sớt của Thủ đã dội xuống cơn nóng của bà.
- Ôi dào miệng lưỡi thiên hạ, người nói xuôi kẻ nói ngược chiều sao cho xuể. Ai không muốn nghe sự thật kệ họ. Nhưng nếu xuyên tạc có dụng ý xấu, thì tổ chức sẽ có biện pháp.
Thủ quay sang ông Phúc đang lẳng lặng tráng ấm pha trà. Thủ hạ giọng, ông Phúc biết đây là Thủ nói riêng với ông, đe ngầm rằng ông đừng có đơn từ kiện cáo lên huyện, lên tỉnh mà vô ích:
- Từ giờ trở đi có chuyện gì ta cứ nói thẳng với nhau để cùng giải quyết đồng chí Phúc ạ. Nếu gia đình cá nhân không giải quyết được, thì đã có chi bộ làm trọng tài. Xử sự như thế là đúng nguyên tắc, lại vừa hợp tình hợp lý. Thôi xin phép hai bác, tôi phải đi không muộn mất.
Khi Thủ vừa khuất khỏi cổng, bà Dần chợt nổi xung lên:
- Đến xin người ta, mà lại ăn nói kẻ cả như bố con chó bông, ông con chó xồm! Cái thói nhà ấy đúng là không ai chịu được!
Rồi bà lại sục chân cày vào đống thóc một cách nóng nảy. Bà muốn cáu cả với ông. Có là người ngọng đâu, mà sao hôm nay ông để cho hắn vác mặt lên mà vênh vang thế nhỉ? Nhưng ông Phúc vẫn cứ lẳng lặng tránh nhìn vào bà. Thế có điên không cơ chứ?
Trong lúc đó ở nhà ông Hàm, khi Thủ đi, ông Hàm kéo lạch xạch một hơi điếu bát, rồi vừa bước ra vừa nhả khói um tùm. Cao quay sang bà Son vẫn đứng như chôn chân trên nền gạch, nói nhỏ:
- Mọi việc đã bàn rồi, chú Thủ cũng đã nói rồi, bây giờ cháu đọc, bá viết. Sau đó bá ký tên thế là xong. Còn tất cả sau đó chú Thủ và cháu sẽ lo. Bá với bác Hàm không phải bận tâm gì nữa.
Cao mở cặp, soạn giấy bút ra bàn, kéo ghế cho bà Son ngồi. Chỉ còn biết nghe theo như một cái máy, bà Son ngồi xuống ghế, người thờ thẫn như một học trò không thuộc bài bị gọi lên kiểm tra. Cao mở sổ, đọc cho bà Son chép lá đơn sau đây:
CộNG HOà Xã HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
ĐƠN Tố CáO
Kính gửi: Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân xã và chi bộ Giếng Chùa.
Tôi là Ngô thị Son ở xóm Giếng Chùa. Vừa qua chồng tôi là Trịinh Bá Hàm, cvì có một số xích thích vụn vặt với ông Vũ Đình Phúc, nên chồng tôi làng một việc không đúng là động đến mồ mả nhà ông Phúc. Như thế là rất khuyết điểm. Gia đình chúng tôi không dám cãi lại. Nếu pháp luật có xử trí thế nào chúng tôi cũng phải nghe lời. Trong lúc chồng tôi bị gọi lên huyện, tôi rồi lo lắng, sợ ảnh hưởng đến gia đình và các cháu, nên tôi đã đi gặp ông Phúc để xin ông ấy vì tình làng nghĩa xóm mà bỏ qua cho những việc làm không phải của chồng tôi. Tôi có nói với ông Phúc rằng là sẽ có người đại diện cho gia đình và họ hàng nhà chúng tôi đến xin với gia đình và họ hàng bên ông Phúc. Như thế nên chúng tôi đã nhận khuyết điểm trước cả làng còn gì. Trong lúc tôi đề nghị chuyện đứng đắn như vậy, thì ông Phúc đã lợi dụng tôi là đàn bà con gái, muốn làm chuyện bậy bạ. Tôi không bằng lòng, ông ấy đã cưỡng tôi, bắt tôi phải chiều ông ấy. Ông ấy bảo có chiều ông ấy, thì ông ấy mới đồng ý rút đơn kiện.
Trong lúc tôi đang chống cự lại, thì may quá có chú Thủ là em chồng tôi và Cao đi họp về, nghe thấy tiếng kêu nên đã chạy ngay tới cứu nguy được cho tôi. à xin báo cáo với Đảng uỷ và uỷ ban là hôm tôi gặp ông Phúc là gặp ở ngã ba Dốc Cạn và gặp vào ban đêm hôm 28 ta vừa rồi. Vì những hoàn cảnh khó khăn, nên tôi không thể đến nhà ông ấy được. Với lại tôi nghĩ nếu là người đứng đắn, lại nói chuyện đứng đắn thì gặp nói chuyện ở đâu chả được. Chính ông ấy đã bảo tôi vào chỗ khuất để tiện nói chuyện. Tôi biết làm sao được bụng dạ ông ấy thẳng hay cong. Giữa lúc gia đình tôi như vậy: chồng bị như vậy, ai còn đầu óc đâu mà nghĩ chuyện bậy bạ. Vì ông Phúc là đảng viên, nên tôi thấy Đảng phải kịp thời sửa sang những việc làm sai trái của đảng viên Vũ Đình Phúc.
Tôi xin cam đoan những lời khai của tôi là trăm phần trăm đúng sự thật.
- Cậu Cao ơi, vu cho người ta thế phải tội chết! Tôi hốt lắm!
Bà Son bỏ bút xuống, tay run bần bật, ngước lên nhìn Cao, cái nhìn van lơn của một phạm nhân nhìn quan toà.
Ông Hàm đang cầm cái cò-leo gẩy rơm ngoài sân, nghe vậy vứt đánh xoảng, tập tễnh đi vào. Đôi mắt cá rói của ông đã tối lại :
- Hốt hốt cái gì? Lại muốn nối giáo cho giặc hả?
Cao khoát tay :
Thôi bác Hàm, bá ký tên nữa là xong. Đã bảo mọi chuyện sau này đã có chú Thủ và cháu. Không ai trách bá hết.
Vừa nói, Cao lại ấn bút vào tay bà Son. Nước mắt đã kéo lên quanh mi, bà Son cầm bút ký vào góc tờ giấy, mồ hôi vã ra trên trán. Cao gấp tờ giấy cho vào cặp đi ngay. Còn lại vợ chồng ông Hàm, người tuốt lúa người rũ rơm. Không ai nhìn ai và cũng không nói không rằng. Đến khi Đào và người đàn bà làm thuê đẩy xe lúa về, bà Son mới dừng tay. Bà bảo người đàn bà làm thuê:
Chị tuốt giúp tôi - Rồi quay sang Đào: - Con đi rửa chân tay rồi nấu cơm, u sang bá Cả hỏi cái này.
- Họ định làm gì nữa hả chị Cả? Kể đầu đuôi xong, ba Son nghèn nghẹn hỏi.
Bà Cả chép miệng:
Thì hai cái họ ấy có bao giờ nhường nhau. Chắc họ muốn gạt ông Phúc ra khỏi cái chân đảng viên cho đỡ vướng.
Bà Son càng lo. Được giãi bày hết mà lòng không vợi đi chút nào.
- Thế thì ai người ta chịu. Họ có ngọng đâu mà dễ chịu nín như thế. Rồi em cũng chả yên được đâu!
Hai chị em chợt cùng thở dài, và càng thắm thía cái họ Ngô nhỏ bé của mình đã ít nhánh ít cành, đến đời này lại không có cả đàn ông nối dõi, nên mặc dù cũng là dân đất gốc, nhưng chưa bao giờ được coi là họ có máu mặt trong làng. Đến bây giờ dù bà Son đã nhập vào, đã vun quén cho một dòng họ khác đến gần hết cả cuộc đời người, nhưng khi cần thì Ngô thi Son vẫn phải tách ra mà nhận phần thua thiệt, phải làm người ăn gian nói dối để bồi đắp thêm cho sự hùng mạnh của một dòng họ đã tự coi mình là ông ba mươi ở vùng này!
Và nỗi phấp phỏng của bà Son đã không nhầm!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: