Mảnh đất lắm người nhiều ma 1-15
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Một - VN thu quan
Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt
nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng
đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu
tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của
đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa.
Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ
súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung
màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc
đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài
một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương
Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ
vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay
xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên.
Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên
có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng
đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ
cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một
làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không
khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra
ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú
tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và
cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách
gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên
gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những
niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và
được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh
đời.
Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng
Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi
có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng
Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những
người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù
chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên
có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời
nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài
vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng
đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói
ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu
phong và cổ kính.
ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu
cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc
chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngất, người vẫn
quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách
làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì,
cá chép cả con còn giãy đành đạch.
Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ
ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn
ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn
gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối
anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà,
thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du
đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba,
rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng
tối.
Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét
từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ
dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi
giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức
đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé
cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây,
lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả
mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng,
răng đen mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ
đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi
hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên
nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối
đầu, chín đỏ lìm lìm. Khối người còn rỉ tai là ông
có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé
ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì,
hãi thế!
Nhưng giờ thì toé loe ra. Đám thanh niên hay
thóc mách vừa cười sùng sục, vừa kể là có đến gần
tháng nay bố con Quản Ngư đóng eửa ăn cháo cám,
rồi làm bánh đồ cách thuỷ cho lạ miệng, nhưng
nguyên liệu cũng vẫn là cám. Vì là người lịch sự
ghét kêu rên, nên ông Quản không muốn người khác
nhìn thấy sự khốn cùng của mình. Tưởng kín, nhưng
ông quàn lại hớ không biết cám có chất kết dính
rất cao, ăn mà không độn thêm rau là sẽ táo bón
kịch liệt. Vì thế thằng con út gần mười tuổi của
ông đã kêu la oai oái vì răn đến vã mồ hôi hột
mà vẫn không sao đi được? Bà Quán đã qui tiên
vài năm nay, nên cuối cùng đích thân ông Quản
bảo thằng cu ôm vào gốc khế, chổng mông lên để ông
lấy que... đào
- Có thật không? Hay lại chỉ mách qué, chúng mày
thì cái gì cũng nhăn nhở cười được.
Mấy người già không tin, mắng l thì anh chàng ở
cạnh nhà ông Quản liền vừa tả tỷ mỉ cái pha bi hài
kịch kia, vừa làm cả động tác của bố con ông Quản,
khiến mấy ông già cũng cười đến trơ cả lợi? Cái
cười lúc đói cũng không ra tiềng, lại bóp bóp cho
héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột! Keo vật giáp
hạt này sẽ vần cho dân làng đến mê tơi dây!
Những nhà thường xuyên túng bấn thì lây giờ đứt
bữa hẳn. Nôi niêu lúc nào cũng há miệng rỗng,
nhãn như đâu bụt!
Nhưng mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tường
như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết,
cứ ra vào quanh quân với cái bụng đói èo èo!
Đường làng đầy rác rưởi và phân trâu phân hò.
Toàn nhặng xanh bay đứng yên tại chỗ như những cái
dấu chấm đen giữa thinh không dọc lối đi.
Nắng đầu hạ đã lên một lúc lâu mà làng xóm còn
trễ nải như con gà gật. Gió thổi vu vơ trên những
lùm tre vàng xác, càng khiến nhưng ngõ làng
trống vắng đến ngẩn ngơ.
Trong chiếc lều thủng vách nứa ở ngã ba đầu làng,
nắng chiếu qua lớp cỏ tranh đã ải, thủng lỗ rỗ.
nắng tưới khắp lên chỗ lão Quềnh nằm. Tren chiếc
võng tre ọp ẹp không mùng màn, lão Quềnh nằm duỗi
dài thành một đống. Lão thì không sợ muỗi ruồi,
vì da lão dày lắm. Người lão to sù sì, tính nết
ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng lạc đàn, đi đứng cứ
dềnh dàng thồn thộn. Bộ nhớ và trí khôn của lão
thì dại như thế này: Vắt chiếc áo, vắt khăn mặt
lên vai, nhưng lại loay hoay cả giờ đi tìm khăn
tìm áo. Ngày hợp tác còn ăn nên làm ra, nên tình
thương và sự ưu đãi đã với tới tất cả nhưng hoàn
cảnh khốn khó; từ bà già cô quả không chồng không
con, bỗng chốc có một lô cháu chắt, ấy là bà được
ra làm ở nhà giữ trẻ, nơi đã có mấy cô bảo mẫu óng
á trông mềm như bún, nhưng đám con trại lại gọi họ
là các cô nuôi dạy hổ!. Còn lão Quềnh hữu dũng vô
mưu, chỉ quen làm thuê làm tớ, thì ban chủ nhiệm
hợp tác xã cho Quềnh được làm chủ, mà làm chủ tập
thể hẳn hoi. ấy là lão được đưa ra trại trâu, chăn
dắt một tập thể 50 con trâu. Chiều tối lão cưỡi
con trâu mộng to nhất lùa cả đàn về. Đếm bày trâu
đi trước có 49 con, thế là lão hoảng hốt lên. Lùa
trâu vào chuồng cả con mộng lão cưỡi cũng vào nốt,
cài toang xong, lão chạy bổ đi tìm con thứ 50!
Đến đêm người ở trại đốt đuốc đi tìm lão nói rằng
đủ 50 con trong chuồng rồi. Lão về đếm thấy đủ
thật, nhưng trong đầu vẫn không hiểu được con thứ
năm mươi chui ở đâu ra!
Lão Quềnh ra đời như để hứng chịu tất cả những sự
ngờ nghệch khờ khạo cho dân Giếng Chùa. Đất làng
này nghe nói từ khi khai thiên lập địa, thầy địa
lý đă bảo là ở vào cái thế có vượng nhưng nghịch,
cho nên từ xửa xưa đã có Câu ca: Ai may được ngọc
Giếng Chùa. rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu
Vậy thì từ thời còn chùa và còn chiếc giếng làng
to bằng gian nhà kê đá ong trước cửa tam quan đã
ai bắt được ngọc ở đấy chưa? Chịu! Với lại dù có
được thì người ta cũng ỉm đi thôi, chứ ai dại gì
mà khoe mình vớ được của! Bằng mời trộm đến nhà!
Còn ma núi ông Bụt, vì quả đồi ở đầu làng có dáng
một ông bụt ngồi, thì nghe đồn thật nhiều chuyện.
Những người già ở đây kể rằng núi ông Bụt ngày xưa
rậm um tùm: những cây cột đình chật một vòng tay
ôm là chặt từ đấy. Trong núi có hố, báo, vượn
trắng, trăn gió, rắn đầu vuông có mào đỏ chon
chót như mào gà, và đặc biệt là nhiều ma? Nhiều
người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà
hàng xáo hay đi chợ sớm, bảo có lần đến gần núi
ông Bụt thấy một người đàn ông đi trước mình chỉ
chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà
trông chậm mà không tài nào theo kịp. Gọi mãi
người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn
bằng phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách,
cười liền một hơi không dứt, hơi phả ra lạnh toát.
Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất. Phiên
chợ ấy mấy bà hàng xáo vốn đành hanh mà thành ra
lú lẫn cả. Người thì bán một lại cân hai, người
thì giao gạo mà quên nhận tiền, thật là đổ của
xuống sông. Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm
lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm ở đầm
dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía
trên đầu rừng; ngửng lên thì thấy chót vót trên
cành si một người đàn bà tóc xoã phủ kín mắt, tay
ôm cái bọc trắng toát vừa nhún cành si rung tít
như đưa vong, vừa ru nỉ non như than như oán. Hôm
sau ông đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!
Ngày ấy có một chàng trai tuổi mới mười bảy, nhưng
lớn phổng phao như đã thanh niên. Mặt mũi thô
vụng thật thà. Bỗng một dạo cứ ăn cơm tối xong là
chú chàng biến đi đâu chừng giã xong một cối gạo
mới về. Hỏi, cu cậu chỉ ậm ừ con đi đàng này rồi
lảng ngay. Cha mẹ sinh nghi. Hay thằng này đã tự
kiếm được món nào? Trò đời trai tơ mới lớn thì
không say gì bằng say gái. Chỉ có gái thì chú
mày mới chăm lỉnh như thế. Một tối, khi cậu vừa đi,
ông bố liền lẳng lặng bám theo, thì thấy chú xăm
xăm đi tắt qua cánh đồng. Tới gốc gai đầu núi ông
Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ
trong nhưng chùm rễ rùm roà như một cái ô dưới gốc
si già. Rồi tiếng một người con gái thì thầm,
không rõ cô ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều
vui lắm. Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ
tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá? Con hơn cha là
nhà có phúc! Nhưng con bé nào mà tiếng chua chua
nghe lạ thế nhỉ? Ông bố còn đang dùng dằng nửa
muốn tò mò nghe chuyện, nửa muốn bỏ về, thì đôi
tình nhân dìu nhau từ trong gốc si đi ra. Và,
tức thì một đàn đom đóm bỗng từ đâu túa dậy con
nào con ấy to khác thường. Chúng cùng chớp cánh
một lúc, khiến cả khoảng không sáng rực lên như
thắp đèn. Trong quầng sáng quái đản đó, ông bố đã
nhìn thấy một người con gái trắng lôm lốp từ chân
tới đầu. Tóc rất dài, buông xoã, khiến khuôn mặt
lấp vào trong mờ ảo không sao nhìn rõ được. Chân
đi nhẹ như lướt. Ông bố chớp mắt, định thần để nhìn
cho rõ, thì thấy người con gái kia chỉ là một cái
bóng trắng, một hình người chứ không phải người.
Cái hình người ấy đi tựa vào vai con trai ông.
Đang chập chờn ở bên trái, chớp mắt một cái, lại
thấy cái bóng đi bên phải cậu cả, và rất nhanh đã
hiện rõ ìô lộ một người đàn bà đẹp như tiên sa.
Cậu cả bước thập thỏm như một người mê, mặt mũi
cũng hoàn toàn như người trong mộng. Bầy đom đóm
cứ chao lượn theo hai bóng người. Ông bố đứng vùng
dậy, thét lên: Ma!, thì một tiếng kêu cũng vỡ ra,
nghe sắc lạnh như đập một cái bình sứ. Trời đất tối
sầm lại. Ông bố lảo đảo, rồi người cứ mê thiếp đi.
Rồi bố con ông về được tới nhà bằng cách nào? Ông
không sao hiểu nôi. Vì khi tỉnh dậy ông đã thấy
mình nằm ở giữa nhà, xung quanh đèn nến hương khói
nghi ngút. Ông thầy cúng mặc áo đỏ, đội mũ giấy,
vừa gõ chập cheng, miệng vừa đọc lầm rầm. tay cầm
roi dâu, đó là roi trị tà của thầy cúng, quất vun
vút vào không khí. Hôm sau ông dứt cơn, khỏi.
Còn cậu cả thì vẫn li bì. Đang nằm thiêm thiếp,
cậu bỗng vùng dậy, tay đưa lên bới tóc, kiểu bới
tóc của đàn bà, rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc
vừa kể lể ai oán, rằng người ta cướp chồng của tôi,
đầy đoạ tôi ở gốc si sương gió một thân một mình.
Đang lâm li sướt mướt, lại bỗng rú lên cười sằng
sặc, tiếng cứ lảnh vót lên, sắc như lưới dao cạo
vào tinh nứa! Cười đến đâu hai bàn tay cứ chéo
vào nhau đen đét đến đấy. Rầm rĩ một hồi, rồi cậu
bỗng ngã kềnh ra, mặt quay vào tường, lịm phắc như
tắt thở!
Thầy phải cúng liên tiếp ba đêm bảy ngày để xin
lại hồn vía cho cậu cả. Ngày cuối cùng phải thửa
một hình nhân cao lớn bằng đúng cậu cả, sắp một cỗ
xôi và một con gà trống chưa đạp mái. Buổi tối
mang ra gốc si tạ. Hình nhân thì hoá vàng còn
mâm có thì để lại. Khi ra về thầy cúng còn đóng
một cái bùa đựng trong ống nứa xuống đất, tức là
yểm đề ma mất đường theo. Đêm ấy người ta nghe thấy
tiếng khóc tỉ tê trong những chùm rễ si. Sáng ra
nhìn cỗ xôi con gà vẫn còn nguyên, nhưng nhớt
nhát có mùi tanh. Xôi gà mà lại tinh ma vày đấy!
Còn đom đóm thì chết dày quanh gốc si như một sự
tuẫn tiết, vun được một đống con nào con nấy to
bằng đầu đũa.
Cậu cả ốm một trận thập tử nhất sinh rồi khỏi.
Nhưng từ đấy cậu cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc
quên. Hỏi đâu cũng không được vợ. Cả những cô sứt
môi lồi rốn cũng không dám lấy, vì sợ ma vẫn ám
trong người cậu. Ông bố nghe có người xui: suốt
mùa hè năm ấy cứ đi rình để bắt con chim cuốc thất
tình. Họ bảo có những con chim cuốc bị người ta
đánh bẫy mất bạn tình, buồn, nó không ăn không
uống, tìm một chỗ khuất lói đứng kêu xà xã cho đến
chết. Câu nói ra rả như cuốc kêu chính là chỉ
những con cuốc đơn côi này. Mà thật kỳ lạ, bao giờ
nó cũng đứng một cành nhó để những ngón chân quắp
chặt vào cây. Khi hết hơi chết, nó lộn đầu trở
xuống, treo lủng lẳng. Mới hay giống sinh vật nào
đã dám chết vì tình cũng đều chọn một tư thế hiên
ngang đến rùng rợn! Cũng như ở sông nước có những
con cá sấu bị lẻ đôi, nó đã tìm nơi có cành cây
mọc là ra mặt nước, rồi nhảy ngược từ dưới nước lên,
táp đuôi ngoắc cứng vào cành cây. Cứ thế nó treo
mình thẳng đứng như một dấu chấm than giữa trời và
nước cho đến chết! Nhưng trường hợp này hiếm lắm,
vì cá sấu là giống tham ăn - Đã xấu lại còn tham!
Mà phàm giống gì cũng vậy, đã tham ăn thì hay sợ
chết!
Lại nói những con cuốc chết vì tình. Người ta bảo
xương của nó làm bùa yêu rất nghiệm. Đốt lên thành
than, nhúng một tí vào nước cho đối tượng uống,
thế là cứ theo không? Ông bố quyết cứu vớt cái
cung thê cho cậu cả bằng con đường bùa mê thuốc lú
này. Tối nào ông cũng lần mò đi nghe cuốc kêu.
mặt mũi nhớn nhác như người đã hoá dở! Thế rồi chưa
tìm thấy con cuốc tử vì tình thì chính ông đã tử!
Ông chết nhẹ như đùa! Đêm nằm ngủ thế rồi ông
không dậy nữa! Từ đấy gia cảnh sa sút nhanh. Cậu
cả dùng cái sức cơ bắp của mình đi làm thuê làm
mướn kiếm ăn. Làm như trâu nhưng chẳng biết mà cả
vòi vĩnh, vì thế ai có việc gì cũng mướn cậu, và
ai cũng có quyền đùa bỡn cậu. Ngay cả cái tên
Quỳnh đẹp đẽ của cậu người ta cũng biến báo đi
thành Quềnh - Cậu Quềnh, anh Quềnh và bây giờ xế
bóng là lão Quềnh
Có thật tiểu sử lão Quềnh như thế không? Hay chỉ
là giai thoại người ta dựng lên để tăng phần linh
thiêng cho núi ông Bụt? Nhưng đấy là núi ông Bụt
ngày xưa. chứ bây giờ núi ông Bụt đã bị phạt trụi
lấy gỗ làm củi, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất
sét nung gạch, thì không ai còn gặp ma quỷ đâu
nữa. Thời buổi táo tợn đến ma quỷ giọi tàng hình
cũng hết chỗ trú. Thế thì ma quỷ đi đâu? Hay ma
quỷ đã bị người trần cắt hộ khẩu? Mấy anh trợn trạo
đã cười cười một cách láu cá hỏi ông thầy cúng mà
ở đây vẫn gọi là cô thống Biệu như vậy. Biếu là
tên cúng cơm, còn cô thống là một từ chung để chỉ
những người làm nghề cúng bái. Mới hay nghề nghiệp
nào cũng có tướng mạo riêng của nó. Đã là thầy
cúng, thầy mo, thì cái cần đầu tiên là phải có
dáng đồng cô bóng cậu. Đi đứng ẽo ợt, nói giọng
kim râu ria chả có và cái ăn cái uống cũng như
đàn bà con gái hơn là giống đám mày râu. Nghĩa
là cô thống Biệu mỗi bữa chỉ uống một chén rượu, sợ
ớt sợ tỏi, ưa của chua hơn là ưa cay ưa chát. Năm
nay đã gần chín mươi tuổi, non một thế kỷ đã đi
qua cái dáng mảnh mai của cô. Với bộ mặt nhọn như
mặt chim, nước da mai mái, cả mép cả cầm nhẵn thín
không một sợi râu, nên nhìn cô không thể nào
đoán được tuổi. Răng cô cũng nhỏ như răng phụ nữ,
và vẫn chắc. ăn trầu thuốc cứ đen nhức, môi cắn
chỉ. Cô đi thõng thà thõng thượt, nhưng cô cũng
có con đàn cháu đống hẳn hoi. Thì ra cô vừa giỏi
việc âm vừa tài việc dương! Nghe mấy anh chàng mặt
sùi trứng cá, vừa cười nham nhở, vừa hỏi về ma núi
ông Bụt bị người trần cắt hộ khẩu. Cô thống Biệu đã
giương cặp mắt bạc phếch, trông chỉ rặt lòng trắng,
tưởng như mắt cô đang toả ra một làn sương khói,
và cô đã nói với cái giọng thanh thảnh thế này:
- Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ
sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm
trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không?
Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai
chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là
thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã
viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở
nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất
hương hoả ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh,
bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai
cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa
làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ
không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như
chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết
chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma
chứ ai sợ người. có phải không hở? Thế mà hôm ấy
tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá Nhìn
chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống
ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.
Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những
bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây
nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra,
con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng
mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các
người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật
ngay trong lòng các người!
Lão Quềnh bỗng thức giấc. Cái đói thúc lão dậy,
lão dụi cặp mắt đờ đẫn, dỏng bộ tai to nhưng mong
dính: mỏng đến độ nhìn thấu qua được. Những người
sính xem tướng bảo cái tai thỏ ấy dù có cắm vào
cái đầu con cáo thì cũng vẫn là đồ bỏ, vẫn tứ thời
kiết xác. Lão lắng nghe. Đúng là có tiếng trống
phát dẫn từ trong làng. Anh nào lại chết đây!
giữa lúc này không biết chết no hay chết đói.
Suốt hai ngày nay lão chỉ độc nắm ngô, rang lên
nhai, rồi uống thật nhiều nước vào mà vẫn không
lấp được cái khoảng trống quá lớn trong bụng lão,
vì sức ăn của lão nói như người ác khẩu là như hùm
đổ đó!
Lão quay sang khe hở của phên liếp, nhìn về phía
khu nhà uỷ ban xã. Cả một dãy nhà ngói bên ấy cửa
đóng im ỉm như mồm thằng câm! Có đến hơn tuần nay
các ông bên ấy không đánh chén, khiến lão mất chỗ
dựa! Đã hơn năm nay lão sống dựa vào những bữa
rượu kia. Đều đặn tuần nào cũng vài ba cuộc. Không
uỷ ban thi Đảng uỷ, rồi ban quản lý hợp tác xã,
rồi các đoàn thể. Hội họp lu bù Các ông ấy càng
hội họp nhiều thì lão Quềnh càng thích! Vì động
họp là động thớt. Cái mẹo ấy là của tay Tám lé thợ
cạo, chủ cái quán này. Người ta gọi là Tám lé vì
mắt hắn hiếng lệch đi như xe sang vành, nhìn cứ
xiên xiên. Có lần đánh kéo Tám đã xiên cả một
mảng da đầu của khách. Suốt ngày được sửa gáy vít
đầu thiên hạ: mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút
miệng.
Người đã như con hạc thờ, lại một vợ bốn con, quanh
năm hết giật tạm lại vay nóng. Vì nợ hợp tác xã
nhiều quá, vợ chồng Tám lại phải xung phong đi
kinh tế mới trên huyện miền núi để dược xí xoá ( ở
đây có lệ thế ). Trước hôm đi, đến uỷ ban lấy
giấy. Vừa ra đến đây thì Tám lé gặp lão Quềnh đi
đào ao thuê. Tám liền kéo Quềnh vào cái lều này,
rút trong túi ra mót cút cổ rụt, chuyền tay nhau
tu. Đang lúc đói, rượu dẫn nhanh như điện. Đến khi
dốc ngược cái cút, thì cả hội cùng lâng lâng từ
đầu đến tận gan bàn chân. Tám liền bá vai Quềnh,
đôi chân cò hương với cái đầu gối củ lạc nhún
nhảy, cái giọng kim eo éo được tắm rượu đã thành
nghề ngà: Anh Quềnh rằng này anh Quềnh ơi, ngồi
nghe ta nói cách ăn chơi.
Tưởng say nhưng hắn xui khôn đáo để. ở người
nghiện, rượu là một thứ động cơ, phát động được cả
sức lực và trí tuệ. Tám bảo Quềnh bỏ phứt cái túp
lều ở trong xóm. Nằm cạnh nhà người em là lão
Quàng không những chiếm hết cái khôn cái ngoan,
mà còn chiếm hết cả ao cả vườn, chỉ xí lại cho
Quềnh một góc ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong.
Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài,
nhưng dăm bảy năm nay, kể từ ngày Quàng được giữ
chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã nhấm khá
dần lên. Nhưng có khá mấy thì vợ chồng Quàng vẫn
tham và kiệt, chỉ khi nào có những việc thổ mộc
nặng nhọc thì vợ chồng Quàng mới nhớ đến ông anh
Quềnh. Vậy thì ra đây, cạnh mặt đường này ai có
công có việc đến nhờ cũng tiện. Tám lé tặng lại cả
chiếc chõng tre và chiếc ghế bố, dụng cụ giúp Tám
cạo râu ngoáy tai cho thiên hạ để kiếm gạo. Nhưng
điều quan trọng là từ đây nhìn xéo sang nhà uỷ
ban rõ mồn một. Hễ bên ấy động đũa động bát là đây
biết ngay. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mà có lăn
vào thì cũng là ăn của dân của xã chứ chẳng phải
của mấy ông. Nhưng dẫu vậy - Tám dặn Quềnh cũng
phải biết phận. Thấy động thớt là đi cổng sau, vào
nhà dưới. Thì đi đường nào mà tới được mâm chả tốt!
Cái cổng sau ấy, cái bếp ấy nhiều phen đã cứu Tám
những bàn thua trông thấy! Giờ lão Quềnh tiếp thu
cái vị trí lợi hại này, đúng là lão bóng được
nhiều bữa nhờn môi. Có hôm lại thủ được cả lưng
chai rượu về uống ngâm nga suốt đêm. Thế mà đã hơn
tuần nay không thấy bên ấy họp hành gì! Hay họ lại
kéo nhau ra quán bà Lợi béo có cái mông lồng bàn
ở trên chợ kia. Quán ấy trước chỉ bán thuốc, bán
nước nhi nhằng. Mới đây đổi sang quán ăn. Trước
cửa treo lủng lẳng chân giò và những con gà luộc
tứa mớ vàng nhóng nhánh. Gian bếp đằng sau lúc
nào cũng khói um tùm, thơm inh. Thôi đúng rồi,
họ đã dời mâm lên ấy rồi. Để khỏi phái khua dao
thớt, vừa tiện vừa kín, tránh được mồm được mắt
thiên hạ. Thế thì nguy cho lão Quềnh này quá! Mấy
ông đúng là uống nước cả cặn?
Lão Quềnh vừa quảy người ngồi dậy, lại thêm mấy
chiếc nan tre gãy roàn roạt, thì bên ngoài bỗng
có tiếng gọi láo pháo:
- Đi uống rượu đám ma đi ông Quềnh!
- Bây giờ còn ngủ hả ông Quềnh? Hay đêm qua có bà
nào trú nhờ trong ấy!
Vừa dứt lời một đám thanh niên tuổi những những đã
ùa vào đầy căn lều. Đám trai làng đang tuổi ăn
tuổi lớn như những chú nghé tơ, chân tay khềnh
khoảng chưa định hình, nhưng da thịt trông óp quá,
mặt mũi thô gầy góc cạnh. Cái thiếu, cái đói hiện
lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp
môi khô tông tốc! Được cái vẫn tếu. Chúng tìm
điếu, rồi thản nhiên bẻ phệnh vách làm đóm, kéo
thuốc lào. Cái điếu cạn nước kêu nghìn nghịt như
người hen tắc cổ. Anh chàng mặt sần sùi trứng cá,
vô bồm bộp vào miệng điếu, giọng khảo khảo trong
khói thuốc:
- Điếu điếc gì mà khô rông rốc như hang chuột
ruộng cạn. Mấy hôm nay bố ngót diều lắm hử? Thì đi
đào huyệt với cánh này thì sẽ có cơm rượu tử tế. Cụ
cố nhà họ Vũ đã tịch thì không phải chuyện đùa.
Ông Phúc đã trữ lợn to hàng năm nay rồi.
Lão Quềnh vớ cái áo bộ đội tàu tàu cứng như mo
nang vẫn cuộn làm gối, đưa lên lau mặt, rồi vừa
ngáp vừa nói ề à:
- Thảo nào có tiếng trống phát dẫn từ bảnh mắt.
Hoá ra ông cố Đại chết à? Sướng thế sao lại chết?
Mà ông cố vẫn ở bên nhà Quý chứ.
Đám thanh niên cười hô hố:
Đúng là trí nhớ ông Quềnh! Thế hôm trước ông ăn
xôi ăn chuối mừng thượng thọ cụ cố ở nhà ai? Nhà
ông Phúc hay nhà Quý?
Lão Quềnh ờ ờ như sực nhớ. Đám thâm niên rít thuốc
xong lôi kéo lão đi, nhưng lão trằn lại. Đám
trai tráng này được chủ nhiệm hợp tác xã gọi đến
để đi đào huyệt cho ông cụ cố họ Vũ mới chết đêm
qua. Không phải lão Quềnh ngại không ai mời mà
đến, không mời thì lão cũng đến! Lão vẫn khoe là
đã từng ở với ông Phúc con cả cụ Cố, trưởng chi họ
Vũ Đình bây giờ cùng một đội du kích từ thời Tây
kia (kỳ thực ngày ấy du kích tuyển anh thanh
niên Quềnh vào để thêm một tay đào hầm. vì Quềnh
đào khoẻ như một con tê tê dũi đất). Cho nên bố
ông Phúc chết thì lão phải đến chứ. Nhưng thư thư
đã. Chứ bây giờ đanh đói run cả gối mà ra đòi đào
huyệt thì có khi đến ngã ngay xuống đấy! Lão
Quềnh vục dậy đi ra sau vườn, nơi còn mấy dây
khoai lang bò nguều ngoài, lão hái tuốt tuột từ
gốc đến ngọn. ít quá, lão nhổ cả rễ, vặt những củ
bằng ngón tay, rửa qua quít, rồi cho vào chiếc
xoong cụt tai đun lên. Một nồi canh nhộn nhạo vừa
củ vừa lá, rắc thêm tý muối trắng. Lão húp sịt
soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió ăn giở
miệng, con tì con vị được đánh thức, cái đói càng
tăng thêm, bụng càng thèm cơm đến cồn cào. ấy thế
mà có người ăn không hết của lại lăn ra chết. Được
sướng mà phải chết thì cũng là khổ! Vừa mới hồi
trong năm, lúc gặt hái xong, cả chi họ Vũ Đình
làm lễ thượng thọ mừng cụ Cố tròn 90 tuổi thật là
thịnh soạn. Ông Phúc đứng chân chủ họ cho mời hết
lượt các chủ hộ xóm Giếng Chùa. Ai đến cũng được
ăn xôi đậu xanh và chuối trứng cuốc. Lão Quềnh
cũng đến. Người thì đến vì được ăn. Người thì đến
vì tò mò. Bởi cụ Cố đã nhất quyết từ mặt ông Phúc
có đến hơn 30 năm nay rồi. Lâu nay cụ Cố ở với Quý
là em ông Phúc, mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ
giật gấu vá vai chứ không được dư dật như ông
Phúc. Nhưng thiếu vay đâu thì vay, chứ cụ Cố nhất
quyết không cho vợ chồng Quý vác rá đến ông anh
giàu có. Tết nhất giỗ chạp cũng mặc. Ông Phúc làm
nhà ngói năm gian, đốt pháo đùng đùng hôm đặt
cây nóc, cụ Cố cũng bỏ ngoài tai! Mấy đứa con ông
Quý về khoe là bác Phúc mới mua xe eúp và máy
nghe nhạc, vặn mở suốt ngày ầm ầm như có đám cưới,
thế là cụ Cố la toang lên, rằng là chúng mày có
để cho ông yên không! Hơn ba mươi năm mối hận của
Cụ như vẫn chưa nguôi. Đại - Sang - Phú - Quý -
Lộc - Tài, tên bố con cụ Cố như vậy, nhưng cụ bảo
lại hóa ra là đại vô phúc! Bố con cụ đã làm trò
cười cho thiên hạ! ấy là hồi cải cách ruộng đất, cụ
bị quy là địa chủ. Lúc ấy thanh niên Phúc đang làm
bí thư đoàn thanh niên toàn xã, vì Phúc đã được
kết nạp Đảng từ mấy năm trước, khi còn ở du kích.
Để tỏ rõ mình không bị giai cấp địa chủ nhuộm đen,
mình đã ly khai nguồn gốc xuất thân, không dính
dáng gì tới kẻ bóc lột, vợ chồng Phúc ra ở riêng.
Suốt ngày Phúc bám đội trưởng cải cách. Đội trưởng
tên là Cường. Nhưng không được gọi là Đội Cường.
Hôm đầu có người gọi thế đã bị triệu lên xã để giáo
dục quan điểm lập trường, rằng là chỉ có thời phong
kiến đế quốc mới có Cai có Đội, chứ ở đây gọi như
vậy là bôi nhọ thanh danh người chiến sĩ cách
mạng! Phải gọi là đồng chí Hùng Cường. Đồng chí
Đội trưởng Hùng Cường. Rồi người ta rỉ tai nhau
rằng đồng chí Hùng Cường không thích xung quanh
gọi mình là Đội Cường, bởi vì rằng chính ông cụ bà
cụ có diễm phúc sinh ra đồng chí Hùng Cường là
người ở xã bên kia sông chứ đâu xa. Hai ông bà từ
dưới xuôi tản cư lên dạo có nạn đói năm Dậu. Nghe
nói quê của ông bà ở vùng toàn đội đầu. Từ thúng
thóc, gánh lúa, đến việc thổ mộc là đào đất từ
dưới ao lên, không gánh không vác mà cứ đưa cả
lên đầu trông khiếp lắm, tưởng như gãy cổ đến nơi.
Hai ông bà đi đội thuê đội mướn kiếm ăn. Vì thế
bên xã ấy người ta quen gọi là ông Đội, bà Đội.
Nghe nói đồng chí Hùng Cường ngày ấy gầy yếu lắm,
nên bố mẹ cứ gọi nôm na là thằng Còm. Thế mới biết
sông có khúc, người có lúc: từ thằng Còm đã lớn
bồng lên thành đồng chí Hùng Cường. Vẫn cao, vẫn
gầy, da vẫn dính sát vào xương, nhưng giọng nói
thì thật là người có quyền. Nhất thanh nhì sắc, cứ
choang choang. Nói một câu là quan trọng một
câu. Đã có người lân la hỏi chuyên gia cảnh, thì
đồng chí Hùng Cường vắn tắt mình là thành phần cơ
bản, bố mẹ đều giai cấp cốt cán; rồi đồng chí chấn
chỉnh ngay là không nên quá nặng nề tư tưởng gia
đình, mà phải nghỉ đến sự nghiệp cách mạng trên
hết. Thế là cạch, không ai dám hỏi chuyện gia
đình đồng chí Hùng Cường nữa.
Phúc cứ bám riết lấy đội trưởng Hùng Cường. Đến nỗi
có mấy thanh niên hay thóc mách kháo nhau rằng
đã bắt gặp đồng chí Hùng Cường đi sâu đi sát quần
chúng, đến bắt rễ với cô Tý con bà Tẹo ở cuối xóm.
Nhà chỉ có hai mẹ con, bà Tẹo lại vữa hỏng mắt lẫn
hỏng tai, chỉ có cô Tẹo tuy xấu người, nhưng phốp
pháp dễ dãi. Họ bảo thấy đồng chí Hùng Cường đến
bắt rễ cốt cán để tìm hiểu tình hình của làng, đã
ăn cơm thịt gà rồi ngủ luôn ở đấy đến sáng sớm hôm
sau đi cổng ngách về trụ sở. Trong lúc đồng chí
Hùng Cường đang đỏ mặt lên lúng túng, thì Phúc đã
gọi ngay mấy thanh niên ấy lên làm kiểm điểm vì
đã ăn phải đũa của bọn bóc lột, tung tin nói xấu
cán bộ đội. Họp chi bộ đồng chí Hùng Cường tuyên
dương Phúc là đã có tinh thần kiên quyết dứt bỏ
được giai cấp phi vô sản, tự nguyện phục vụ sự
nghiệp cách mạng của giai cấp công nông. Đêm nào
Phúc cũng tổ chức thanh thiếu niên đi cổ động,
đèn đuốc cứ rừng rực như đình liệu, hô Đả đảo bọn
địa chủ cường hào ác bá đến khản đặc cả tiếng.
Trống đánh đến bỏng dùi. Rồi đoàn cổ động hô vang
Đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình Đại! Kiên quyết
đánh đố tên địa chủ Vũ Đình Đại ầm ầm nộ khí.
Sáng hôm sau Đội tổ chức cho dân làng đấu tố Vũ
Đình Đại, tên địa chủ có 5 màu ruộng, 3 trâu cày,
ngày mùa, ngày vụ dám thuê gần chục nhân công
làm cho nhanh. Mặc dù tên Đại cũng hai bữa cơm
đèn, làm quần quật như trâu nhưng đấy chính là âm
mưu của nó ta không được mơ hồ lẫn lộn, vì nó làm
đế ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất
phải đi làm thuê làm mướn kiếm ăn, nhưng đã bị
những tên cường hào như những cái vòi cua con bạch
tuộc bóc lột đến tận xương tủy. Ta phải vạch trần
tư tưởng đen tối của chúng ra. Đồng chí Hùng Cường
đã phân tích sâu sắc cho mọi người hiểu như vậy.
Cuộc đấu tố được tổ chức ở ngay giữa sân nhà Vũ
Đình Đại. Hai vợ chồng Đại cùng mấy người con; tức
những người em của Phúc chưa vợ chưa chồng, vẫn ở
với bố mẹ, tất cả được lùa ra giữa sân như một đám
hành khất, ngồi bệt xuống giữa vòng trong vòng
ngoài dân làng. Vợ Phúc cầm cái liềm nhảy choi
choi trước mặt những kẻ bóc lột, cái mỏ liềm cứ mổ
trước mặt Vũ Đình Đại, vừa mổ chị vừa kể tội bọn
chúng đã bóc lột, đã đè nén mình ra sao. Chị kể
dài dòng và hay trùng lặp quá đến nỗi đồng chí
Hùng Cường phải nói chị tạm nghỉ cho bớt xúc động
rồi sẽ đấu tiếp. Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở
đầu bằng câu hỏi:
- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
Ông bố đã trả lời thế này:
- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra
ông!
Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ
chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:
- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính
là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.
- Đả đảo tên địa chủ Vũ Đình Đại xỏ xiên! - Một
thanh niên cốt cán liền hét lên, thế là tất cả ầm
ầm như vỡ chợ: - Đả đảo! Đả đảo!
Lời nói gió bay, nhưng lại có những lời như đóng
dấu chính vào in não mọi người. Đến bây giờ những
người đứng tuổi ở làng Giếng Chùa này vẫn nhớ như
in những câu đối đáp của bố con ông Đại - Phúc
trong buổi đấu tố ấy. Vì thế hôm giáp tết mới đây,
khi vợ chồng con cái ông Phúc đón được cụ Cố về,
rồi làm lễ thượng thợ mời cả làng đến dự thì ai mà
không tò mò ai mà không muốn đến xem bố eon ông
cháu nhà ấy đối đãi với nhau như thế nào. Một sự
tái hợp hiếm có. Nhưng duyên do để có được bữa tốc
hỉ ấy, thì không ai biết được, là một tối kia, khi
thấy ông cụ đã yếu lắm, một ngày khỏe thì năm bảy
ngày đau. Ông Phúc đến nhà em trai, và vẫn tư thế
của người quyền biến, với cặp mắt ba góc nhìn cứ
ngắm ngắm, ông bắt Quý xua hết vợ con xuống bếp,
để trên nhà ba bố con, ba người đàn ông rường cột
của chi họ Vũ Đình có cuộc đàm phán mang tầm cỡ
chấm dứt chiến tranh!
- Năm nay ông đuối sức lắm rồi - ông Phúc bắt đầu
vào chuyện - ông về bên con tĩnh dường cho tiện,
chứ bên này chú thím nó vừa túng vừa neo người
trông nom.
- Tao không đi đâu hết. Tao quen sống nghèo khổ
rồi? Nghèo khổ còn yên ấm bằng vạn có tiền có của
mà bị nhục!
Cụ Cố với nước da mồi xam đen, tóc lưa thưa, bạc và
khô xác, đang nằm thở khò khử trên chiếc giường
tre, loại giường cổ lỗ cách đây mấy chục năm; lại
thêm chiếc màn xô màu cháo lòng, vá víu túm tó
như vó tôm. Đã nhiều lần ông Phúc sai con mang
bánh giò bánh dầy, mang sữa sang, cụ Cố cứ nằm
trong chiếc màn ấy, như nằm trong chốn trú ngụ
cuối cùng của cuộc đời, đầu kê lên chiếc gối mây
đã ngả màu đen kít, miệng phóng ra những lời cay
độc, đuổi như đuổi tà: Mang về! Mang về! Để cha mẹ
con cái chúng mày ăn nhau cho béo rồi lấy sức mà
đào mồ đào mả ông bà ông vải lên!
Lần này cụ Cố vẫn nằm đấy, mắt không nhìn người con
trai đã đấu tố mình. Vừa nói, cụ vừa thở khó nhọc,
nhưng cơn nộ khí trong lòng xem ra vẫn chưa một
chút hạ hỏa! Ông Phúc cứ để mặc cho cụ via già nói
thỏa thuê. Ông điềm nhiên kéo thuốc lào xoe xoè.
Ông Quý thì càng ngồi im như thóc. Quý vốn là
người chỉ biết bới đất lật cỏ làm ăn, còn nguyên
vẹn là một nông dân thuần phác, dễ phục tùng. Việc
gì Quý cũng lấy êm ấm làm đầu. Trong nhà Quý
nhường nhịn ít lời hơn cả vợ con. Nên trong việc
giữa bố và anh, Quý mặc? Thế nào cũng được.
- Bố chỉ bực bõ những chuyện vặt! Không nhìn xa
được khỏi bờ rào! - ông Phúc bắt đầu công bố quan
diềm của mình - Thời bấy giờ nó nhiễu nhương, trắng
đen lẫn lộn, cóc ngóe nhảy lên làm người! Muốn còn
chỗ đứng thì phải biết lựa. Chân dù có nhún nhưng
lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng hách xằng để
giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế
thì làm gì. còn Đảng! Mà không có chân Đảng viên
thì cái họ nhà này chúng nó cho ăn bùn! Chân
trắng thì làm gì chen được cái chức chủ nhiệm hợp
tác sáu bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này
vào được Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có
mục thất! Rồi gạch ngói nhà chú Quý này, nhà bá
Sang kia, không ở đấy mà ra thì ở đâu? Cũng mang
tiếng mua, nhưng người khác phải trả mười, thì
mình chỉ bỏ ra một. Không có lời của chủ nhiệm,
thì mấy thằng lò gạch lò ngói có khối nó chịu nhả
cho đấy!Tôi vừa mất chân Đảng ủy, nghỉ chủ nhiệm,
thế là đủ chuyện rắc rối rồi. Phe cánh nhà Trịnh
Bá đang lăm le chiếm hết quyền hành cái xã này.
Nó dám nói chi họ Vũ Đình quanh năm lục đục thì
còn lãnh đạo ai!
Thế là cụ Cố bật ngay dậy như một cái lò xo:
- Nó nói thối mồm thế mà mày chịu nhịn à?
Vậy là xong! Ông Phúc đã đánh trúng huyệt! Câu
chuyện lập tức xoay ngược sang hướng khác. Chân
tay cụ Cố vẫn rung lên vì xúc động. Như một con
chiến mã về già, dù không còn đủ sức để lao vào
trận mạc, nhưng mùi thuốc súng vẫn đủ kích thích
nó gầm thét! Mối hiềm khích giữa cụ Cố với cánh
nhà họ Trịnh Bá kia có từ xa xưa. Không nhắc, quên
đi thì thôi, chứ nếu chỉ khi khơi dậy thì ngọn lửa
bùng ngay lên?
Hôn nhân, điền thổ vạn cố chi thừ. Tức hôn nhân và
đất đai là hai thứ dễ gây cho người ta thù oán
nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh
Bá không thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất
cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai bên đã túm
ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng!
Đời cụ Cố là chuyện-đất, chuyện chức, cái chức lý
trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là chuyện được
thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là
chỗ ngồi chiếu nhất giữa đình làng. Đôi bên đã
giành nhau kịch liệt. Đến đời ông Phúc lại là
chuyện tình. Thật oái oăm, hai dòng họ này cớ
vờn, cứ lửa miếng nhau không biết mệt!
- Ông về bên này không chỉ là chuyện nghĩ ngơi
tĩnh dưỡng - Ông Phúc lại lên tiếng, cắt dứt dòng
nghĩ ngợi lan man của cụ Cố - Mà về bên này còn để
bịt mồm những đứa nói hỗn lại! Thằng Tùng, con Bá
Sang, được chúng nó thí cho cái chân xã đội, thế
là nhảy cỡn lên theo voi ăn bã mía. Nó còn nói
láo hơn cả anh em chú cháu nhà Trịnh Bá. Dù thế
nào cũng không thể để họ Vũ này bị nhục trước dân
làng! Giọng ông Phúc đã như muốn gầm lên. Cụ Cố
ngồi hẳn dậy chứ không còn nằm nữa. Ông Quý càng
thuỗn người ra ngơ ngác. Thế là sau hơn ba mươi
năm quay lưng, cụ Cố đã chịu quy phục hoàn toàn
trước lý lẽ của người con trai mà cụ đã từng rủa
không còn thiếu một lời nào! Và đây là lần thứ
hai cụ lại chịu thua Phúc!
Ngay hôm sau dân Giếng Chùa trố mắt thấy bà con
dâu đáo để, tức là vợ ông Phúc cùng con trai,
con gái, có cả dâu lẫn rể, rùng rùng dắt nhau
sang nhà ông Quý dể đón cụ em về bên này nghỉ ngơi
tĩnh dưỡng!. Tất cả vui vẻ cứ như đi rước một ông
quan đại thần! Và ngay tuần ấy, ông Phúc làm lễ
thượng thọ cho cụ Cố tròn 90. Một sự kiện của làng!
Vậy mà cụ Cố không gắng sống rốn thêm nữa để hưởng
cho đã cái cảnh điền viên xum họp. Từ hôm cụ Cố về
bên nhà ông Phúc đến nay đã được mấy nả. Thế mà
mới ra tết cụ đã chết đi sống lại mấy dân. Tay đã
bắt chuồn chuồn, miệng đã cấm khẩu, ông Phúc phải
cạy miệng đổ đến mấy chén sâm cao-ly mới hồi.
Trong làng người ta bỗng thêu chuyện lên rằng, vì
làm lễ thượng thọ to quá, nên động tới Thiên đình,
khiến ông Nam Tào sực nhớ ra xóm Giếng Chùa còn
để sót người sống quá dai mà chưa gạch tên Lại có
kẻ ác khẩu bảo ngay việc tổ chức rùm beng cũng là
một cách giỗ sống rồi! Muốn cha mẹ thọ lâu không
ai làm thế!
Những chuyện đàm tiếu áy đến tai ông Phúc hết.
Ông văng tục miệng lẩm bầm: Lại chỉ miệng lưỡi nhà
Trịnh Bá!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Hai - VN thu quan
Đúng như nhiều người nghĩ, cả đến lão Quềnh cũng
dám chắc là đám tang cụ Cố chi họ Vũ Đình sẽ được
tổ chức rất long trọng, quả là không ngoa. Sáng
ra, ông Phúc triệu tập tất cả nội ngoại đến nhà
ông. Trên bộ phản gỗ lim đen mun mà những người
già vẫn quen gọi là ghế ngựa, chiếc màn tuyn màu
nước biển phủ kín, thi hài cụ Cố đang ngự trên đó.
Ngang người phủ một chiếc chăn đơn. Xung quanh con
cháu nục nở sùi sụt. Người kêu bố người gọi ông, kẻ
réo bác, réo chú cứ ời ời! Ông Phúc, với dáng cao
lớn vuông vức, vẫn đi đứng đàng hoàng. Cặp mắt ba
góc trầm lắng. Đầu ông thít khăn trắng, để hai dải
thõng xuống gáy, đó là dấu hiệu của đại tang.
- Tất cả lý lặng! - ông Phúc huơ tay. Tiếng khóc,
tiếng hờ đang ỉ eo bỗng ngừng bặt như những chiếc
loa bị ngắt điện. Ông Phúc nói, họ nhà ta là họ
lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật
đàng hoàng, không nề hà tốn kém. áo quan, ông sẽ
xuất gỗ dồi vẫn trữ sẵn chứ không thể dùng gỗ tạp.
Rồi nhà ông sẽ ngả một con lợn hơn một tạ, còn anh
em con cháu có thế nào đóng góp tùy ý. Ông sẽ
mời đội kèn, mà phải là phường bát âm lớn theo
đúng nghi thức cổ truyền. Đột kèn sẽ chia làm hai
nhóm. Một nhóm ngồi trong nhà, gần linh cữu. Còn
một nhóm ở bên ngoài với nhiệm vụ khi các đoàn thể
của làng, của xã đến viếng, thì nhóm này ra tận
cổng nổi kèn, nổi trống đưa đoàn vào để tăng thêm
phần trọng thể. Phải có người nhà trực bên ngoài
để hướng dẫn từng đoàn vào thứ tự. Phải có người
ngồi ghi chép những ai mang đồ phúng viếng đến, để
sau này nhà người ta có đám, mình còn nhớ phúc
đáp lại Rồi thì phải dựng rạp, kê bàn ghế, mượn
thêm mâm bát...
Ông Phúc nói một loạt công việc, rồi phân công
luôn. Dứt khoác như mệnh lệnh. Đúng là một ông
trưởng họ quyền biến và thành thạo công việc.
Khi tất cả đã túa đi, ai vào việc nấy, ông Phúc
mới quay lại hỏi bà Sang, người chị cả, vẫn ngồi
sụt sịt ở góc giường:
- Thằng Tùng nhà bá đi đâu mà từ hôm qua đến giờ
không thấy mặt?
Bà Sang ngước nhìn người em trai như có lỗi:
- Đêm qua tận khuya nó mới đi họp về. Sáng sớm
thấy nó bảo là xã phân công đi mua sắn cứu đói
cho hợp tác xã, rồi nó đi luôn.
Ông Phúc dằn giọng:
- Khoai sắn gì, nó không đi thì người ta chịu nhịn
đấy. Nó là nó trốn đám tang này? Đi từ lúc trời
chưa mở mắt, nhưng sáng bảnh nó với thằng Điểu còn
ăn phở ở quán bà Lợi. Ngồi ở nhà nhưng tôi biết
hết?
Bà Sang lại tức tưởi vừa khóc bố vừa kể lể về thân
phận đàn bà con gái của mình. Chồng bà mất sớm,
bây giờ con trai là trụ cột gia đình. Hàng ngày
bà chỉ quanh quẩn việc nhà, cơm nước, cám bã, chu
còn biết đâu bàn soạn. Bà có nghe người ta bảo
giữa hai cậu cháu - ông Phúc và thằng Tùng nhà
bà có chuyện mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà
vừa hỏi, thì Tùng gạt đi U hỏi làm gì những việc
ấy mặc con! Thôi thì đành con dại cái mang. Một
bên em ruột, cùng một gốc một cành; một bên con
đẻ, hạt máu của mình, bà còn biết trọng ai khinh
ai! Sao mà càng ngày càng lắm chuyện quay quắt
vậy! Gần hết đời người vẫn chả biết ăn ở thế nào
cho phải!
Bà Sang cứ tỉ tê ngồi than khóc một mình, mặc xung
quanh - Hay là xung quanh người ta mặc bà? Mọi
người tất bật nhốn nháo sai khiến, gọi hỏi nhau ầm
ầm. Tiếng đóng ván kênh kếch. Rồi một hồi trống
báo tang, cứ bảy tiếng lại dứt một nhịp - Tùng
tùng tùng... tùng tùng tùng... tùng! Tiếng nhạc
của tứ thần như có đôi cánh màu đen bay vờn trên
những ngọn tre úa lá, lan tỏa khắp đầu làng cuối
xóm. Chính tiếng trống ấy đã thúc lão Quềnh thức
giấc. Khi đám thanh niên được chủ nhiệm gọi kéo
nhau đi rồi, và lão Quềnh đã húp hết cả nồi rau
khoai mà vẫn đói veo lão ngồi ngẩn ra không biết
làm gì. Đã hàng tuần không thấy ai cần đến sức
trâu lăn của lão. Làm mướn lúc này cũng không
đắt! Lão Quềnh cứ ra ra vào và đi lại ù ì như voi
nan. Chốc khốc lại liếc sang khu nhà ủy ban, nhưng
tất cả các cửa bên ấy vẫn đóng chặt. Thế rồi suốt
cả ngày lão Quềnh cứ thơ thần lờ vờ như vậy. Đến
tối mịt nghe nhiều người nói đêm nay nhà ông Phúc
làm lễ cầu hồn vui lắm, có trống có kèn như đêm
hát đêm nhạc, chứ không giống những đám chết theo
đời sống mới, cu hấp ha hấp hoảng, vất vả dụi do
quá? Đám thanh niên kéo nhau đi xem như xem văn
nghệ!
Khi lão Quềnh vật vờ tới nơi, thì đã thấy đến đóm
nhà ông Phúc sáng trưng. Ngoài sân dựng rạp,
căng phông, bàn ghế kê dàn dạt. Trong căn nhà
ngói năm gian đông chật người, hương khói nghi
ngút. Chiếc quan tài để mộc không sơn, chỉ bào
nhẵn, màu gỗ dối vàng ươm trông còn nối hơn cả sơn,
kê nằm dọc theo chiều nhà. Trên ván thiên, một
bình hương tơ khói um tùm. Tàn hương rơi lả tả
xuống quả trưng luộc và bát cơm đóng theo hình oản
để cạnh. Tiếng ông Phúc cất lên, nói một câu gì
đó lập tức cả một nhà khăn trắng rùng rùng đứng
dậy như một đàn cò. Tất cả đến xếp hàng vòng tròn
quanh linh cữu. Ông trưởng phường bát âm mặt đỏ
tím rịm. Ông vận bộ quần áo màu vàng, rộng thùng
thình như quần áo phường tuồng. Đầu ông đội mũ
giấy xanh đó không chóp, như chít khăn xếp. Trên
trán và hai bên tai dắt mấy chiếc lông chim sặc
sỡ ông đến bên linh cữu hắng giọng dặn dò:
- Để cụ đi được thanh thản, trong lúc chào cụ lần
cuối không ai được khóc.
Rồi ông phẩy tay ra hiệu. Tức thì con trai và con
rể ông Phúc thận trọng nâng ván thiên lên, rồi
kéo dịch xuống phía chân để con cháu họ hàng nhìn
thấy mặt cụ Cố lần cuối cùng. Mọi người đứng lặng
phắc như nín thở. Ông trưởng phường bát âm đi lại
phía đậu cụ ông cúi xuống nơi âm bầm như dặn riêng
cụ Cố điều gì, rồi ông rút trong túi áo ra chiếc
bùa xoắn bằng giấy bổi, lùa vào miệng cụ Cố. Đó là
giấy thông hành để cụ Cố đi sang thế giới bên kia.
Đoạn, ông gật đầu ra hiệu. Ván thiên kéo lên,
đóng chốt lại. Cụ Cố chính thức đi về nơi vĩnh
viễn. Lập tức những tiếng khóc lại òa ra như vỡ
đập. Ông Phúc ra hiệu tất cả đàn ông xúm tay lại,
xoay quan tài ngang theo chiều nhà, đau cụ Cố
quay ra ở chính cửa giữa. Một hồi chập choạng vang
lên.
Đêm cầu hồn bắt đầu.
Trưởng phường bát âm mang ra một chiếc thuyền bằng
chiếc diều sáo của trẻ con. Đó là thuyền đưa linh
hồn người mới khuất về nơi chín suối. Tất cả chiến
thuyền được dán bằng giấy đỏ, đó là màu biểu hiện
điềm lành, điềm phúc của đạo Phật. Một sợi dây
buộc vào mũi thuyền, và thằng cu Cần, con trai út
ông Phúc, cháu đích tôn cụ Cố được cầm dây kéo
thuyền đi trước. Trưởng phường bát âm cầm một cây
gậy cuốn giấy đỏ ngang người ông thắt thêm một sợi
dây cũng màu đỏ. Chiếc gậy ấy là sào chèo thuyền.
Một đầu sào chống phía sau cạnh thuyền. Trưởng
phường bát âm hơi cúi người về phía trước, dé chân
chèo hai tay cầm sào rướn lên giật xuống rất dẻo
như chèo thuyền thật. Phía trước cu Cán đã được
hướng dẫn dắt theo thuyền đi thật chậm, rù rì như
sên bò. Đội kèn trống và nhị không cần ra hiện
trường, cứ ngồi trên chiếu phía tay trái, nghe
trưởng phường bát âm xướng lời mà phụ họa nhạc
theo.
Trưởng phường bát âm đu đưa nửa người trên, hai
tay làm động tác khoát nước bát thuyền, miệng đọc
ngân nga kéo dài, bắt dầu là bài dặn dò của những
người đang sống đối với linh hồn người mới khuất:
ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi
Ông đã khuất núi về nơi suối vàng
Đất dày cách biệt dương gian
Mấy lời nhắc nhủ ông về ngàn thu
ới ơi! Nơi ấy mịt mù
Gặp người chớ hỏi trước
Gặp sông hãy lội sau
Thấy thuyền xanh không xuống
Chờ thuyền đỏ qua mau...
Ông Phúc đang ngồi đứng dậy, đốt một nén hương cắm
thêm vào bình hương trên ván thiên và bỏ tờ bạc
một trăm vào chiếc thuyền thúng cu Cần đang kéo,
rồi ông đứng phía sau trưởng phường bát âm. Thế là
lần lượt những người ngồi vòng quanh phía ngoài
đứng lên thi nhau bỏ tiền vào thuyền và xếp hàng
tiếp phía sau ông Phúc. Hàng nối càng dài, thì
tiền bỏ ra càng nhiều.Tiền ngân hàng Quốc gia hẳn
hoi, tiền của người sống đang tiêu chứ không phải
tiền âm phủ chỉ là thứ tiền giả vờ! Đây chính là
cách thưởng của tang chủ đối với dội kèn. Trưởng
phường bát âm càng nhiều bài cầu lâm ly, giọng
càng hay, sức càng dai để đi được nhiều vòng, thì
tiền của con cháu tang chủ bỏ vào thuyền càng
nhiều. Một đêm cầu hồn có đội kèn đã vớ hàng bị
tiền, tươm bằng mấy cha con ông lại đò chèo thuyền
thật ở ngoài bến sông kia!
Đêm nay khổ chủ này xem ra cũng có máu mặt. Đầu
xuôi đuôi lọt Tiền đang bay như bươm bướm vào lòng
thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả?
Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn
chấn. Hai chân ông nhún nhảy càng dẻo để nửa người
phía trên đung đưa như thuyền đang dập dềnh trôi
trên sóng. Giọng ông rất vang, trường hơi lắm. Bây
giờ là bài con đưa tiễn cha:
í ơi!... Bố đã đi rồi
Lòng con đau thắt nhỏ đôi lệ sầu
Bây giờ cách trở hai nơi
Âm dương xa ngát muôn đời biệt ly
Bố đi con biết dặn gì
Thế là tiếng khóc của mấy bà con gái, con dâu
đang lắng xuống vì khàn tiếng, nghe lời ca thống
thiết lại khóc dào lên. Tiếng kèn, tiếng nhị cũng
nỉ non như cứa vào gan ruột! Khi chiếc thuyền kéo
được một vòng quanh quan tài, thì tiền đã lùm lùm
trong lòng thuyền.
Trưởng phường hát ám dừng lại, hai tay chắp vào
nhau nâng ngang ngực, mắt mơ màng, miệng nói véo
von có vần có điệu như nói với người ở chốn tuyền
đài:
- Ba hồn bảy vía, đường đi bảy chặng, con cháu gần
xa, phúc lộc đầy nhà, tiễn cụ đi xa, đã qua chặng
nhất. Giờ xin hồn cụ hãy tạm nghỉ chân, lấy sức đi
tiếp.
Mọi người vừa tản ra ngồi theo hình vòng tròn như
cũ thì bỗng dưới nhà bếp, tiếng vợ ông Phúc kêu
thất thanh, rồi cứ ớ ớ như bị chịt cổ, tiếng bát đĩa
loảng xoảng. Mọi người lao bổ ra, nháo nhác, tán
loạn. Trưởng phường bát âm thu vội chiếc thuyền
mang về chỗ phường kèn. Ông Phúc lật bật gờ cây
đèn măng-sông mang xuống bếp. Mọi người vây quanh
bà Phúc. Bà đã hoàn hồn. Bà hào hển kể. Bà xuống
bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm. Bà
vừa mở cửa thì cha mẹ ơi! Một người đứng sửng sững
giữa nhà, mặt to bằng đúng cái mâm và trắng bạch
như sáp. Ma! Ma! Bà định kêu lên như như vậy,
nhưng lưỡi đã cứng đờ ra, miệng chỉ còn ú ớ mắt tối
sầm lại, hồn xiêu phách lạc. Nhằng một cái, khi bà
định thần được thì con ma đã biến mất. Mọi người
soi đèn đóm xem có mất mát gì không, tất cả vẫn
nguyên vẹn. Thế thì đúng ma hiện thật rồi!
Trong khi cả nhà ông Phúc đang nhớn nhác lo lắng
không biết điềm báo này lành dữ thế nào thì con
ma mặt bằng cái mâm kia đang chân nam đá chân
chiêu vừa bá vai lão Quềnh bước thập thòm, vừa
cười hí há!
Chả là khi mọi người nháo nhác chen vai, huých cả
vào bụng nhau để chạy xuống bếp, thì lão Quềnh
thủng thẳng ra về. Vừa ra khỏi ngõ thì bỗng một
bóng người nhỏ loắt choắt từ trong vườn chuối nhà
ông Phúc chui ra. Thấy người, cái bóng ấy vội thụt
vào và cái bọc hắn đang ôm lù lù trên tay, đáng
lẽ phải rơi văng ra vì gặp người đột ngột, nhưng
hai bàn tay hắn lại ôm chặt lấy ép vào bụng, đồng
thời rất nhanh một chuỗi cười hí hí rung lên và
tiếng nói thì lè bè đẫm hơi men:
- Ôi dào tưởng ai, hóa ra lão Quềnh đấy hừ? Người
ta bảo lão có cái thân bằng con voi, nhưng óc lại
bằng con kiến, thật không oan! Đến đây mà lại chịu
về không à?
Lão Quềnh dụi mắt, dù đêm cuối tháng tối mờ mờ
nhưng lão cũng đã nhận ra cái người đang dở say dở
tỉnh này là anh chàng Thó ở ngay cạnh nhà chú
Quàng, em trai lão. Tên hắn chính là Thọ kia,
nhưng vì cái tính tắt mắt, thấy ai để hở cái gì mà
hắn không thuổng, không thó thì ngứa ngáy không
chịu được! Một lần lão Quềnh đang đào ao cho
Quàng, thì bỗng thấy một sợi cước bay vuốt từ bờ
rào bên nhà Thó quăng sang. ở đầu sợi cước là một
cái lưới câu móc vào con nhái. Sợi cước giật giật
kéo con nhài như đang nhạy Thế thì chú gà trống
nhanh chân hơn cả đàn đang tha thẩn tìm giun,
liền lao theo nuốt mồi. Chỉ chờ có thế, sợi cước
giật tung lên và chú gà trống bốc khỏi mặt đất,
bay vút qua hàng rào sang nhà Thọ. Lão Quềnh bỏ
cuốc, chạy sang, thì Thó đã bóp ngoéo con gà vứt
vào góc bếp.
- Sao lại làm thế? - Lão Quềnh sừng sộ.
Thó vân tỉnh như tiền, nhe răng ra cười hít vào
điệu cười lúc Thó thèm ăn:
- Sao với giăng cái con khẹc! Im đi! Ngồi đây rồi
cùng tớ nhắm rượu! Ông làm cả ngày cho tay Quàng
nhưng nó đãi ông cái gì nào? Mấy lưng cơm với tý
tương chua như dấm đĩ hả?
Thế rồi Thó và Quàng đã đánh hết cả con gà gáy
với chai bố rượu. Trong lúc ngà ngà cao hứng, Thó
túm lấy con chó cốm nhà hắn, bảo Quềnh giữ chân,
rồi Thó đổ cả một bát rượu vào họng chó làm con
vện cũng say bò bới ra, miệng cứ tru lên như chó
sói, rãi sều, mắt long sòng sọc như chó điên,
trong lúc hai thằng vô dụng cứ xoa bụng cười sằng
sặc như hóa ngộ.
Tối nay Thó cũng chỉ chủ tâm đến nhà ông Phúc ngó
đội kèn biểu diễn xem chơi. Nhưng đến khi thấy bà
Phúc xuống bếp bắc chõ xôi lên bếp lò rồi không
kịp khóa cửa, bà quay ngay lên nhà nhập vào đoàn
con cháu đi đưa hồn cụ Cố quanh quan tài, thì cái
máu nghề nghiệp của Thó nổi lên. Hắn lẻn ngay
xuống. Xôi thì chưa chín, thịt thà không thấy
đâu. Lợn thì chắc ngày mai mới mổ. Thế chả nhẽ họ
lại để phường kèn ăn xôi nhạt? Hóa ra nhà này
cũng kiết như chẳng phải vừa! Lần mò vào cái xó
xỉnh thì lập tức hai cánh mũi rất mỏng của Thó
phập phồng lên. Mùi rượu thơm cay cay thoảng đâu
đây. Thó nuốt nước bọt. Hai tay rờ rẫm hết chai
này đến lọ khác. Này. là chai mắm. Này là liễn
muối. Này là vại dưa khú. Đồ khỉ gió! Đến khi Thó
sờ vào một cái hũ tay rút nầm lá chuối khô làm
nút, thì Thó rên lên trong bụng, hai chân chỉ
muốn nhảy tưng tưng. Cả một hu đầy rượu. Thó lắc
lắc tiếng rượu reo óc ách mời mọc. Thó kê ngay
miệng làm một hơi. Rượu mới nấu ngon chí mề! Lúc ấy
trên nhà tiếng ông trưởng phường bát âm đang cất
cao giọng: ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi! Thó làm
một ngụm nữa. ờ rượu ngon thế này mà chết khòng kịp
uống thì phí của thật!Thấy thuyền xanh không
xuống, chờ thuyền đỏ qua mau... Ông trưởng phường
bát âm dặn dò. Thó ngồi bệt xuống làm ngụm nữa. ờ,
thế mà người ta vẫn nói dương sao âm vậy. Vậy mà
trên trần đèn xanh thì đi, đèn đỏ thì dừng. Chả
nhẽ lẽ luật ở dưới ấy lại xoay ngược lại? Thó ngả
người vào tường, hai tay vẫn ôm cái hũ. Rượu mạnh
đang quẫy đạp trong ruột Thó. Mấy ngày nay chỉ bữa
rau bứa cháo nên rượu vào thèm ăn tợn. Đã thấy
mùi xôi. Thó đến mở vung chõ cào ngay một tảng bỏ
vào vạt áo. Đang xít xoa vì bỏng rãy, thì chính
lúc ấy bà Phúc xuống! Vừa nghe tiếng đấy cửa, Thó
vớ ngay cái chậu nhôm đang dựa cạnh đống bát đĩa,
đưa lên che lấy mặt, chân đứng lom khom ở tư thế
vùng chạy. Bà Phúc đang xăm xăm, tý nữa đâm sầm
vào con ma đúng sừng sững trước mặt. Bà kê u ớ
lên, hồn xiêu phách lạc. Thó liền vút cái thau
nhôm, nhưng vẫn nhớ xách hũ rượu luồn ngay ra cửa,
lủi biến vào vườn chuối.
- Thế ra chú vừa lần vào bếp bà Phúc đấy? - Lão
Quềnh hỏi lại cho chắc chắn.
- Thì đã sao? Túng nên phải tính! Đừng có be lên
như bê nghe chửa! Vừa nói Thó vừa ngả miệng hũ vào
mồm lão Quềnh. Tiếng tu rượu chun chút vang lên.
Cứ thế, hai gã một khôn một dại, một to lớn xù xì
như con gấu, một bé nhỏ như con cáo, bá vai nhau
đi ngã nghiêng giữa đường làng trong đêm khuya.
Cái miệng hũ lúc thì dốc vào mồm người này, lúc
lại đổ vào mồm người kia, đi trên đất mà cú líu
ríu dập dờn như đi trên sóng. Không còn biết trời
đất xung quanh là gì. Chợt một tiếng hỏi làm cả
hai sững lại:
- Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?
Quềnh và Thó cùng khứng lại. Một người đàn ông
cao, gầy, đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng:
- à chú Thó à? Lại bác Quềnh nữa, ôm cái gì thế
này?
Thó nhìn lên, nhận ra ông Chỉnh, một trung tá về
hưu, người cả xóm Giếng Chùa đều nể trọng. Ông
Chỉnh cũng ở ngay gần nhà Thó, nên Thó biết lắm.
Ông Chỉnh có vợ đi theo trai, nên đã lấy vợ khác.
Bây giờ ông Chỉnh cha già con cọc, nhà cũng hoàn
cảnh lắm.
Thó cười, giọng lè nhè:
- A bác Chỉnh đấy ư? Bác đi đâu mà khuya khoắt thế
này? Hay cũng sang đám nhà ông Phúc? Thi hãy
làm với em một ngụm!
Nói rồi Thó định bá vai, khiến ông Chỉnh hốt hoảng
né người ra, rồi bước vội. Ông đi canh lò gạch.
Thó nhìn theo cười khùng khục, rồi bỗng hát nghề
ngà;
- Trung tá mà sợ rượu! Trung tá mà cũng tiên có
khồng là không có tiền! Hí hí! Thế cho nên trẻ
con nó mới hát láo là Đầu làng đại tá vá xe, cuối
làng trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá thì buôn
dầu đèn, để cho đại úy thổi kèn đám ma! A hà ha
thổi kèn đám ma! Tò te tí te!
Vừa hát Thó vừa nhún nhảy đôi chân chữ bát như
ông trưởng phường bát âm lúc nãy. Tay giơ cái hũ
lên như thổi kèn, và rượu lại chảy vào họng Thó
tuồn tuồn. Rồi miệng hũ lại dốc vào mồm Quềnh. Cả
hai tựa vào nhau, tay cùng ôm cái hũ. Chân bước
lạng quạng. Đến chỗ rẽ, Thó lè nhè bảo Quềnh:
- Xin đãi bác chầu nữa! Làm hơi thật dài vào. Rượu
là cao của gạo. Nữa đi, thế! Thôi té nhá.
Thó theo lối rẽ về nhà. Nhưng chỉ được vài bước,
đầu nặng chân nhẹ, Thó chỉ còn lê vào được gốc ổi
bên cạnh đường là lăn khoèo xuống, rượu từ trong
hũ xối ra, ướt đẫm cả ngực Thó.
Lão Quềnh còn khiếp hơn! Vì lão uống cấp tập hơn
Thó, bụng cũng đói hơn Thó, nên rượu càng hành
lão dữ. Khi lão khật khưỡng về được đến cửa rêu thì
rượu và sương gió ban đêm đã đánh quỵ lão. Lão
Quềnh vừa bíu được vào tấm cánh dại che cửa, thì
miệng đã nôn phóng ra như cái vòi phun. Trong
bụng lão chỉ có bát rau khoai từ sáng, còn là
toàn nước và rượu, nên bây giờ lão đáng phun ra
rượu! Một thứ rượu qua tiêu hoá lợm mùi đến quỷ
cũng khiếp? Lão Quềnh vừa nôn đến nảy đom đóm mắt,
tay vừa đẩy cánh dại đề vào nhà, nhưng đẩy không
nổi. Trong lúc người đang rã rời vì say, lại thêm
bộ óc vốn ù ì, nên lão không thể nhớ cánh dại lão
chỉ chống hờ, mà sao bây giờ lại chắc thế này?
Chắc thế là vì bên trong có người. Một người sống
và một người chết! Cả hai đang nằm trên chiếc
chõng ọp ẹp của lão Quềnh.
Người chết thì cứ chết, đã đành! Còn người sống
thì cũng lại ngủ như chết!
Tiếng giật cửa của lão Quềnh làm người sống choàng
thức. Đó là người đàn bà tuổi dòng dòng. Cao và
gầy. Hốc hác và lôi thôi. Nhưng chân tay lại rất
nhanh. Vừa nghe tiếng người đẩy lịch kịch, chị ta
đã vực ngay dậy, rồi nhảy một bước tới cửa. Mặc dù
đã chống một cái gậy vào tấm cánh dại, nhưng chị
ta vội vã đứng áp người vào thêm cho chắc. Nhưng
đến khi ghé mắt nhìn qua lỗ phên, thì người đàn
bà bỗng bật ra một tiếng cười khô khốc:
- Ôi dào, lại một lão cám hấp! Đồ phải gió phải
dây? Nhồi nhét ở đâu về mà khố thế này!
Vừa lẩm bẩm, người đàn bà mở toang cánh dại, rồi
cầm tay lôi lão Quềnh vào nhà. Tối quá, lão Quềnh
sờ sẫm đi lại chiếc chõng, thì người đàn bà đã kéo
giật lão lại:
- Ông không được nằm đấy! Để cho con bé nhà tôi
nó được ở cõi trần một tý!
Người đàn bà ngả tấm cánh dại xuống góc nhà, rồi
kéo lão Quềnh đến. Quềnh ngã ngay xuống như một
bao gạo, miệng hỏi ậm ẹ trong hơi men:
- Thế nhà chị ở đâu mà lại đến đây? Những hai mẹ
con à?
Người đàn bà mở hộp dầu cao dúi vào tay lão Quềnh.
Bằng con mắt trải đời, không cần hỏi, chị ta cũng
biết đây chính là ông chủ của chiếc lều này, một
ông chủ ngơ ngơ như bò đội nón! Dạng người này chỉ
câu trước câu sau là có thể sai phái được rồi! Vì
thế chị ta hỏi với giọng dấm dẳn:
- Tôi ở đâu đến ấy à? ở chỗ đói đến chứ còn ở đâu
nữa? Đói thì đầu gối phải bò. Không đói thì hơi
đâu đi lang thang cho nhọc. Có hai mẹ con, nhưng
con bé nó chết rồi! Nó nằm kia nhưng nó chết rồi!
- Cái gì? Nhà chị bảo cái gì? - Lão Quềnh nhỏm đầu
dậy, hỏi giật giọng. Lão trương cặp mắt trong bóng
tối sờ sẫm nhìn người đàn bà đang ngồi lờ mờ ở mép
chõng. Lão đã tỉnh cơn say. Thở được ra là nhẹ cả
người, lại thêm chất nóng của dầu cao, nên sương
gió định quật lão đã phải lùi biến. Nhưng vì tỉnh
nên lão biết sợ. Thế cái nhà chị này là thế nào?
Người hay ma? Chả nhẽ lại có ma thật? Lão đã nghe
người ta bảo chính lão đã bị ma làm, nhưng lão
không tin; vì chưa bao giờ lão nhìn thấy ma. Lão
chỉ tin những gì mắt lão sờ sờ nhìn thấy, chứ
không thì đến rắn hai đầu, ma bốn mắt cũng chả là
cái cóc khô gì đối với lão. Đêm hôm lão vẫn đi
sùng sục mà có thấy gì đâu. Chả nhẽ hôm nay ma
lại dám xông váo nhà lão thật? Kìa, một ma sống
và một ma chết! Đói khát đến ma cũng chết!
- Con nhà chị chết thật à? - Lão Quềnh hỏi với
giọng rụt rè, nhưng thật quái quỷ, người đàn bà
lại như muốn chồm lên, giọng rít lại:
- Thì tôi đã bảo là nó chết? Chứ con tôi không
chết mà tôi lại bảo là chết à? Ông có điên không
đấy? Ông đã nghe thủng tai chưa đấy?
Vừa nói, người đàn bà vừa sấn tới, khiến lão Quềnh
đang nhổm người hiên nằm ẹp xuống. Người đàn bà
đứng lại, hai tay chống nạnh, giọng vẫn chao chát
như đang cãi nhau với ai: Còn tôi ở đâu đến đấy
à? ở cái nơi vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc sâu
vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ! Tôi
cũng bỏ thuốc sâu vào nồi cháo gà để định giết
chúng nó, cái thằng chồng với con vợ thành đanh
đỏ mỏ ấy! Chúng nó lấy nhau hàng chục năm mà
không có con, cứ như nuốt gang nuốt sắt vào người!
Thế là chúng nó nịnh tôi, hùn mẹ con tôi về ở với
chúng nó cầu may. Tôi vừa đến tháng trước, thì
tháng sau con vợ nó chửa. Rồi nó đẻ con trai. Thế
là nó trở mặt, nó nhiếc móc tôi là đồ không cha
không bố, là thứ không chồng mà chửa, sai tôi như
sai con ở. Đêm hôm nó bắt tôi đi giặt tã lót cho
con nó. Nó thì ăn cháo chân giò, còn mẹ con tôi
thì cơm độn với sắn khô. Đã thế thì phải cho nó
biết tay. Bà đã mang lộc đến cho mày, mà mày lại
vong ơn bạc nghĩa với bà à? Bà phải thả thuốc sâu
vào nồi cháo chim bồ câu của mày! Cho mày được bô
béo một thể!
Chị ta bỗng ôm mặt bật khóc! Tiếng ngàn ngạt trong
lòng bàn tay:
- Nhưng con chó nhà nó đã hại tôi! Cháo nóng thế
mà con vện đánh sạch cả nồi, rồi giãy chết đành
đạch. Thế là vợ chồng nó chửi tôi. Thằng chồng đã
ăn nằm với tôi cũng đánh tôi. Con vợ thì xé cả áo
quần tôi, đuổi mẹ con tôi, giữa lúc con tôi đang
sốt, người nóng như hòn than. Chập tối nay dắt díu
nhau đến đây là nó chết? May mà gặp được cái kêu
này. Mai tôi bọc con tôi vào cái chăn kia, rồi
phải về tận nhà vợ chồng chúng nó, tôi sẽ chết
giữa nhà chúng nó, để cho chúng nó biết tay bà.
Con ơi, mai mẹ lại đưa con về Mẹ con ta phcli chết
trước mũi chúng nó? Phải móc mắt chúng nó.
Người đàn bà càng khóc nức lên. Vừa khóc chị vừa
kể lể đủ thứ chuyện mà chỉ riêng chị biết. Rõ ràng
không phải chị khóc, chị kể với lão Quềnh mà chị
đang cần xả ra cho vơi bớt nỗi lòng.
Lão Quềnh cứ nằm co trên tấm cánh dại, giương cặp
mắt ngơ ngáo nhìn người đàn bà xa lạ trong khoảng
tối lờ mờ. Chị ta đang kể lể rền rĩ thì chợt có
tiếng chít chít hốt hoảng phía sau nhà, rồi một
con chuột cống bằng bắp tay lao thục mạng qua khe
hở của bức vách, lao chồm qua chiếc chõng, đâm sầm
vào chân chị, lủi biến vào xó tối. Giáp lá cà
ngay phía sau, một con mèo hoang bằng con chó
con, đen trũi như thiên lôi thần sét quả quyết
phải nuốt tươi con mồi, cũng lao đánh roác qua
phên nứa miệng kêu ngao một tiếng như kèn trận,
hai mắt tròn xoe, xanh cháy lên. Con mèo xù
lông, nhảy quăng mình qua đầu chõng, ngã dúi vào
bức vách bên này vì quá đà lại gặp người đàn bà
cuống quít, chân tay cứ khua ngậu xị trước cửa. Bị
lạc mồi, lại bị chắn, mèo ta ngoão lên cáu sườn,
nhảy chồm qua mặt chõng quay lại lối cũ, phóng ra
ngoài. Tức thì một cảnh kinh hoàng diễn ra. Cái
bọc chăn đang nằm im lìm, tức là đứa trẻ bốn tuổi
con người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng
sóng điện tử mắt con mèo hoang dựng bật dậy? Cả
người đàn bà và lão Quềnh đứng bật dậy cùng kêu ối
rụng rời khi thấy cái thi hài kia nhổm hẳn lên,
gạt cả chiếc vỏ chăn rơi xuống đất. Cái xác không
hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế rất chân lâng,
chới với trong một giây, rồi ngã đánh roàng xuống
mặt chõng. Người đàn bà đổ xuống ngất xỉu. Lão
Quềnh thì nằm vật ra không động cựa.
Đêm vẫn lặng phắc như tờ.
Chênh chếch trên trời khuya, mảnh trăng khuyết
hao gầy vàng úa bơi trong sương mù se sẽ nhát một,
tiếng cú rúc thăm dò trên vòm cây trám tối đen
phía sau nhà uỷ ban. Có phải sứ giả của tử thần đã
đánh hơi thấy có mùi khang khác?
Một lúc lâu sau.
Người đàn bà hôm lồm bò dậy, rên rẩm:
- ối giời cao đất dày ơi? Làm phúc cho con tôi
được sống khôn thác thiêng. Khổ thân tôi, khổ con
tôi!
Vừa nói, chị vừa lê tới chiếc chõng, lập cập ôm lấy
thi thể đứa con lạnh ngắt. Đầu đứa bé ngất ra
ngoài. Mái tóc râu ngô lơ phơ rã rượi. Chị đắp
mảnh vỏ chăn nhàu nát lên người con, rồi run rẩy
nằm xuống bên cạnh, vừa khóc vừa nói liên chi hồ
điệp, đến chính chị cũng không biết mình nó gì.
Lão Quềnh đã hoàn hồn, nhưng mồ hôi lạnh vẫn ri ra
ở sống lưng. Lão nằm trên tấm cánh dại, mắt mở
trong bóng tối nhìn lom lom sang chiếc chõng.
Trong bộ óc luôn luôn có màn sương bao phủ của
lão chợt lờ mờ nhớ lại cũng đã có một người đàn bà
đến ở với lão, và lão đã trở thành người sai kẻ
khiến ngay trong nhà của mình. Đến bây giờ cả
làng lão! ấy là ngày còn ở cạnh vợ chồng Quàng
trong xóm kia. Một hôm vợ Quàng đi chợ trên phố
huyện về có dắt theo một cô bụng chửa vượt mặt, vợ
Quàng nói là đưa cô ấy về để làm bạn với bác Quềnh
nhà em!. Không biết nghe bà em dâu nỉ non thế
nào, mà Quềnh cứ cười hề hề nói tô tô Tớ tậu bò mà
được cả bê!. Rồi Quềnh lại đi làm thuê hùng hục để
nuôi cô vợ hờ suốt ngày ăn xong lại nằm ôm cái
bụng chình ình như nhện ôm trứng. Rồi chị ta đẻ.
Rồi chị ta lẻn di biệt sau khi ở cử được hơn một
tháng. Đêm ấy thấy đứa trẻ khóc thét lên, lão
Quềnh đang ngáy pho pho ở góc bên này thức giấc,
gọi sang mẹ thằng cu vẫn ngủ à?. Không thấy tiếng
trả lời mà thằng cu vẫn khóc ngằn ngặt. Lão Quềnh
dậy châm đèn. Thì thấy mẹ thằng cu với bọc quần áo
đã biến mất tăm rồi. Thằng bé đó sau cho gia đình
không có con trai, và chuyện lão Quềnh lấy vợ
thành một giai thoại. Đi làm ở đâu, Quềnh cũng bị
cánh đàn ông xúm vào tra hỏi: Đã biết mùi chưa?.
Mùi với mẽ gì! Đêm lão còn phải đi đổ cả nước giải
cho nó, vậy mà không được mó đến người đó. Kể cả
buổi tối nó tắm ở trong nhà. Cứ đến tối là cái gì
nó cũng làm ở trong nhà! Nó bảo ra ngoài sợ gió
máy, nhưng kỳ thực cô ả lười chầy thây. Lão Quềnh
phải xách nước vào cho ả tắm. Người ả trần như con
ếch lột. Dọc người ả đến là nhiều chỗ tôi lõm! Lão
Quềnh vừa mon men như con gấu đến gần con chuột
bạch, thì ả liền khoăm mặt lại, gắt: Xê ra đằng
kia! Thế là lão lại chui về ổ nằm. Còn bây giờ,
với mẹ con nhà chị này, một sống một chết một người
một ma, rõ khiếp! Lão phải làm gì đây? Lần đầu
tiên lão Quềnh phải tính xa tính gần, nghĩ tới
nghĩ lui. Đang lơ mơ thức ngủ, thì bỗng có tiếng
gọi váng lên ngoài ngã ba:
- Bác Quềnh đã dậy chưa đới? Hôm nay đến giúp em
nhá.
Quềnh vùng ngay dậy. Thế mà đã sáng bạch. Lão lịch
bịch chạy ra, nói dòng dả;
- Chu ích đấy hả? Lại đào đá ong hừ? được rồi, về
đi tớ đến ngay.
Người gọi làm thuê đi rồi, lão Quềnh quay lại.
Người đàn bà thôi không nói lâm bầm một mình nữa.
Chị ta nằm nghiêng, thở nặng nhọc. Một bên gò má
nhô lên, trông gần như nhọn. Cạnh đấy một nốt ruồi
to như hạt đậu đen làm cho tối cả khuôn mặt gầy.
Hai bàn chân đen đùa co lên chõng. Bộ quần áo
trên người còn lành lặn, nhưng nhàu nhỏ. Bên cạnh,
cái bọc chăn kín mít nằm thẳng cứng. Lão Quềnh
chờn chợn, sẽ sàng rút cái khăn tổ ong vắt trên
sợi dây cùng với mấy bộ quần áo bộ đội, cái thì
tàu tàu, cái đã rách. Tất cả thấm mồ hôi muối của
lão cứng như mo nang. Lão rửa mặt khan, rồi xách
chiếc mai, dụng cụ kiếm cơm của lão, đang định đi,
thì người đàn bà nhổm dậy, giọng tỉnh như sáo
- Ông đi ngay à? Nấu cơm ăn đã, tôi có gạo.
- Thôi, nhà chị cứ ở đây nấu mà ăn. Bếp đấy, nồi
đấy. Tôi đi làm rồi ăn ở bên này.
Cơ mà nước nôi ở đâu? Cái vại nhà ông có mà rắn
ráo nó đẻ trong ấy!
Nhìn lão Quanh nghệt mặt ra, biết là nói khôn mồm
thế thì lão không hiểu, thế là người đàn bà ngồi
bật dậy, đã như muốn nỗi đoá lên:
- Rằng là cái vại nước nhà ông cạn nhăn răng ra từ
tám hoánh kia rồi! Ông đi xách về đây cho tôi
một thùng! Lão Quềnh nhếch cặp môi dày ra như
cười, miệng khẽ à một tiếng, rồi quay vào xó nhà
xách chiếc thùng cùng cục chạy sang giếng nước nhà
uỷ ban. Lão vẫn ăn nước bên ấy. Khi lão xách
thùng nước về, thì người đàn bà đang ngồi trên
chõng rũ tóc chải bằng chiếc lược gỗ trông như lược
cổ. Cả mặt cả người chị ta chìm trong mớ tóc khô
cứng vì lâu không gội, nhưng rất dài, rất dày,
buông lù xù bốn xung quanh, nhìn cứ như bụi cây
kỳ dị. Chị vẫn cắm cúi chải tóc soạn soạt, nói với
lão Quềnh bằng cái giọng chùng hẳn lại:
- Ông chờ tôi nấu cơm cho mà ăn, từ hôm qua tới
giờ tôi cũng chưa có hạt nào trong bụng.
ấy là tâm trạng của người luôn luôn bị hạch sách,
sai phái, đến khi chính chị bỗng dưng được sai
phái thì lòng chợt mềm lại. Nhưng lão Quềnh vẫn
một hai trả lời:
- Thôi chả cần, tớ đi đây. Bên ấy người ta đang
chờ cơm đấy.
Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì
diễn ra ở nhà lão. Khi người đàn bà rẽ tóc ra
nhìn, thì chỉ thấy thấp thoáng bên bụi hóp một
mảng lưng áo trăng khô mồ hôi muối, vài cái áo
quần bộ đội đã rộng đã dài, mà khoác vào người lão
vẫn cũn cỡn. Tới lúc người đàn bà rửa chiếc xoong
cụt tay để nấu cơm, mới thấy mọi đồ đạc của lão đều
nhẵn như chùi, đến bói một hạt thóc cắn chắt cũng
không ra. Chị đong hẳn hai bơ gạo trong cái tay
nải cho vào nồi cơm vo. Rồi chị để lại quá nửa
xoong cơm trên ba hòn đá chụm làm kiềng. Đó là
một lời cảm ơn của người khốn khổ dành cho một người
khốn khổ.
Nhưng lão Quềnh đã không sống được đến chiều mà về
nhìn thấy phần cơm của người đàn bà xa lạ dành cho
mình. Có ai ngờ một sức vóc như thế, một người vô
hại như thế mà bị lưỡi hái của tử thần xén ngọt như
đùa! ở hiền mà chẳng gặp lành là thế đấy ai ơi!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ba - VN thu quan
Đúng ba giờ chiều, thời khắc cô thống Biệu đã bấm
cho ông Phúc là giờ thanh long, giờ hành trong
ngày, tang lễ cụ Cố nhà họ Vũ Đình bắt đầu cử
hành. Ông Phúc đang đứng túc trực bên đầu linh
cữu luôn luôn đưa mắt nhìn ra ngoài ngõ đầy vẻ sốt
ruột. Bởi lúc này chưa thấy hai thành phần quan
trọng nhất của xã tới viếng: Đảng uỷ và uỷ ban. Thế
là họ cố tình chơi ông đây! Coi thường ông đây.
Thôi đành. Ông tiến ra giữa thềm, hai tay đưa lên
chắp trước ngực, rồi hạ giọng trầm trầm cảm ơn
chính quyền địa phương (thì cứ phải nói thế!) và
bà con xóm làng đã đến chia buồn với gia đình
ông, rồi ông mời tất cả sau buổi tang mọi người bớt
chút thì giờ ở lại dùng bữa cơm rau muối với gia
đình ông. Thật khéo, ông vừa dứt lời, thì mùi
xôi, mùi thịt luộc và tiếng dao thớt kênh kếch từ
dưới bếp đưa lên thơm đến cồn cào các con tì con
vị!
Ông Phúc nói xong quay vào, ông hội trưởng hội
bảo thọ với bộ râu ngạnh trê vàng như râu ngô bước
tới. Bây giờ đến việc của ông. Là người có đầy
kinh nghiệm về khiêng cáng chôn cất, nên đám
tang nào cũng mời hội trưởng hội bảo thọ đến điều
khiển đội đô tuỳ. Ông phẩy tay ra hiệu như một
nhạc trưởng, tức thì một hồi trống cái thùng thùng
vang lên, đánh theo nhịp phát dẫn. Hội trưởng hội
bảo thọ đang định phát lệnh tiếp, thì bỗng ngoài
sân mọi người đứng dạt ra, rẽ thành một lối, bí thư
đảng uỷ Trịnh Bá Thủ và chủ tịch xã Trần Văn Sửu
cùng năm người nữa tiến vào. Một nửa đội kèn làm
nhiệm vụ dẫn khách tưởng đã hết người viếng, nên đã
tản mát từ lúc nãy. Người thì đi uống nước người
thì đi xả nước chuẩn bị tinh thần và sức lực để đưa
cụ Cố ra đồng. Thành ra đoàn chức sắc quan trọng
nhất, ông Phúc chờ đợi nhất, lại hoá ra được khổ
chủ đón tiếp thiếu nghi thức nhất!
Hai anh em Phúc - Quý vội trở lại bên linh cửu để
đáp lễ. Cặp mắt ba góc của ông Phúc cứng ra vì
mệt, suốt ngày cứ nhịu nhíu cau cảu, giờ thấy Thủ
và Sửu loé sáng lên. Mừng nhưng vẫn tức!
Hai cô nhân viên trong uỷ ban bê vòng hoa đi
trước. Thủ mặc quần ka-ki, áo kẻ cộc tay đi chính
giữa. Đoàn xếp theo hàng dọc như một tiểu đội lính
đi sau. Đến trước linh cữu, Thủ đốt ba nén hương
cắm vào bát hương, vái một vái. Phúc nhìn chằm
chằm vào từng động tác của Thủ, bụng bảo dạ:Hắn chỉ
đứng sống lưng và chỉ vái một vái chớ không phải
ba như mọi người. Đây dứt khoát là sự cố ý. Biết
thế!
Thủ đến bên Phúc, thay mặt đảng uỷ và uỷ ban nói
những lời chia buồn rất trôi chảy lưu loát. Phúc
nghiêng người đáp lại cặp mắt ba góc nhìn Thủ thầm
bảo: Tôi biết là anh muốn nói những lời chúc mừng
kia! Và ánh mắt của Thủ cũng đáp lại không vừa:
Dù thế nào đi nữa lúc này ông vẫn rất cần sự có
mặt của tôi! Đời là thế mà! Tạm thời thế thì phải
thế. Phúc lại bụng bảo dạ, rồi quay sang hội trưởng
hội bảo thọ nói nhỏ. Ông râu ngạnh trê liền huơ
tay lên như một lão tướng, phát lệnh:
- Thân quyến tang chủ ra làm cầu ngồi xuống! Các
tay đòn đô tuỳ chuẩn bị!
Ông Phúc bước xuống, đứng sẵn dưới giọt gianh. Hội
trưởng hội bảo thọ vừa dứt lời, ông liền ngồi thụp
xuống, quay mặt lên nhà. Tiếp đến là ông Quý, bà
Sang, bà Lộc, bà Tài. Rồi các cháu chắt dâu rể,
họ hàng nội ngoại. Người nọ tiếp người kia, thành
một dãy dài. Tất cả cùng ngồi thụp, nhìn vào lưng
nhau trên đầu khăn trắng xoá trông như một vạch
vôi thẳng tắp từ bờ hè ra tận cổng. Theo tập tục,
đó là chiếc cầu của con cháu đưa tiễn người quá cố
là bậc trên mình ra đi được xuôi chèo mát mái.
- Chú ý! Sau ba tiếng trống đầu nâng trước, chân
nâng sau. Đầu xuôi đuôi lọt. Chuẩn bị!- hội trưởng
hội bảo thọ hô lớn, rồi vung tay đánh ba tiếng
trống dài. Tám thanh niên trong đội đô tùy chia
làm hai, đứng hai bên áo quan đã cúi lom khom
sẵn sàng. Tiếng trống thứ ba vừa dứt, cùng với
tiếng hô Lên nào!. Chiếc áo quan được nâng bật
dậy. Đầu nâng cao ra trước. Tám thanh niên trai
tráng mà phải bặm môi, vì những tấm dổi chắc quá,
dày quá. Đám này áo nặng hơn người. Theo những
bước chân sâu đo, chiếc áo quan lừ lừ trôi trên
những mái đầu quấn khăn trắng xoá, nối nhau ngồi
phủ phục. Cụ Cố đang đi trên cái cầu cuối cùng của
tình máu mủ nơi trần thế để sang thế giới bên kia.
Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống cùng âm vang,
rít xé lên nức nở. Khóc như ri. Người vòng trong
vòng ngoài đầy sân, đầy vườn. Linh cửu đi tới đâu,
cuốn theo những người chít khăn trắng trôi đi đến
đấy. ở nhà lúc này chỉ còn những người hàng xóm
đến giúp việc bếp núc. Đào văn Quàng, em ruột lão
Quềnh (tức là Đào văn Quang ) người nhỏ thó,
trông lụt cụt và khôn ngoan như con cò lửa. Quàng
đi cùng ban quản trị hợp tác xã đến viếng từ trước
đoàn của Thủ, giờ chưa biết tính nên ở hay nên về.
Đang đứng lớ xớ bên đầu hồi nhà bếp, bỗng Quàng
thấy một chiếc còng lợn chưa luộc, trắng hếu,
không chân không cánh mà từ trong nhà bếp bay
vọt qua cửa sổ, rơi đánh xàoxuống gốc cây hồng
xiêm ở sát bờ dậu. Chắc chắn chỉ lát nứa là chiếc
giò sẽ vượt biên sang nhà chủ bên kia. Và Quàng
nghe đúng là có tiếng nhai xôi nhí nhóp trong
bếp. Cái miệng phễu dầu của Quàng đang mủm mỉm cưới
túm tó, thì bỗng có người kéo tay Quàng, vừa nói
vừa thở:
- Bác Quàng, bác Quềnh đang gay quá, có khi nguy
mất! Vâng, bác Quềnh đang ở nhà em, bác về ngay
đi.
Đó là vợ ích, người đã thuê lão Quềnh đào đá ong
sáng nay. Vợ chồng ích đang tích cóp chuẩn bị làm
nhà. Khi phát hiện ra vỉa đá ong ở đồi ông Bụt,
ích lập tức chiếm giữ khai thác ngay. ở vùng này
nhiều người đã khui được những mạch đá ong ăn chìm
dưới đất rất kỳ lạ. Đá ong cấu kiện thành từng
viên rời, to bằng những viên đá tảng kê cột nhà,
vuông vắn như đẽo, xếp liền nhau tầng tầng lớp lớp.
Có người bảo thời nhà Mạc đã có thời kỳ định lập
căn cứ địa ở đây. Vật liệu đã tập kết kha khá.
Nhưng rồi đêm nằm chiêm bao thấy động, sáng dậy
lại thấy gà mái gáy ke ke, thế là cha con bỏ của
chạy lấy người, kéo nhau lên mãi Cao Bằng. Thành
ra những vỉa đá ong này bây giờ ai vớ được làm
móng nhà thì tuyệt vời.
Sáng nay khi lão Quềnh vác mai đến, thì ích đang
ngồi chờ bên rổ khoai luộc. Tiếng là nhà có đồng
ra đồng vào, nhưng vợ chồng ích có thói quen
không bao giờ ăn sáng. Ngủ dậy chỉ có củ khoai củ
sắn nhì nhằng rồi đi làm.
- Ta lót dạ tạm, rồi trưa ăn cơm một thể bác ạ!
ích cười xoa xoa bảo lão Quềnh. Quềnh gật, với lão
thì thế nào cũng xong. Cả việc trả công thế nào
cũng được. Vì thế ai cũng thích mướn Quềnh. ăn
khoai xong, đi làm. Lão Quềnh đánh xà beng chan
chát như một cái máy đào. Đá toé lửa khét lẹt. Vợ
chồng ích chỉ lăng xăng chạy ngoài. Đến trưa đá
ong đã xếp một đống cao ngất. Nghỉ tay đến bữa ích
với lão Quềnh ngồi riêng. Một cút rượu tăm với nửa
cân thịt trâu. Đưa cay xong, lão Quềnh diệt gọn
một nồi ba cơm. Buông đũa, súc miệng xong là lão
đi làm ngay tắp lự, cần mẫn đến hơn cả chủ nhà.
Lão lại thủ mai thình thịch như một cái máy khoan,
rồi lão gánh gấp rưỡi vợ chồng ích, như một con lừa
thồ. Đến gánh thứ mười thì lão kêu đau bụng. Mồ
hôi hột vã ra đầm đìa. Hai mắt lão tối lại. Lão
định gánh một chuyến nữa, thì hai chân lảo đảo,
rồi ngã vật ra. Vợ chồng ích cuống quít lên, chạy
gọi thêm một ông hàng xóm nữa. Khi cả ba người
cõng được Quềnh về nhà ích, thì lão đã mê man gần
đất xa trời. Trong khi vợ ích đi gọi Quàng, thì
ích và ông hàng xóm vội vã cõng Quềnh lên trạm
xá.
Vừa trông thấy Quàng từ xa, ích đã lao bổ ra với
bộ mặt vô cùng hốt hoảng:
- Chết đứt rồi bác Quàng ơi! Làm thế nào bây giờ?
Không phải tại em đâu. Em không giục gì bác ấy
đâu, làm được đến đâu thì làm. Không phải tại
em...
Quàng nhịu nhíu bộ mặt nhỏ thó và sắc lạnh, cũ kỹ
như một đồng xu đã bỏ, gắt lên với ích:
- Làm gì mà anh cứ rối rít tít mù lên thế! Bác ấy
thế nào? ích vẫn nói như rên:
- Còn thế nào nữa, chết rồi! Bác ấy chết rồi!
Vừa cáng tới trạm xá, lão Quềnh liền thổ ra một
đống máu, người nhũn như cây cần héo, hai tay bắt
chuồn chuồn, hàm cứng lại, đôi vành tai cụp dính
vào da đầu. Cánh tay gân guốc với những ngón xù
xì đang chới với, đổ xuống. Lão tắt thở. Hai con
mắt ngơ ngơ đờ dại mở trừng trừng như kinh ngạc,
như không tin vào cái chết của chính mình.
ích sợ quá, cứ luôn miệng rên rỉ:
- Nhà tôi không cho bác ấy ăn cái gì độc hại cả.
Tôi với bác ấy cùng uống rượu, cùng ăn cơm với
nhau, thế mà sao giời lại bắt tội thế này!
Y sĩ trạm trưởng hỏi nguyên do, rồi kết luận rất
quả quyết: Quềnh bị vỡ dạ dày vì ăn quá no rồi làm
việc nặng ngay. Quàng đứng lặng nhìn thi thể thẳng
cứng của người anh khốn khổ trong bộ quần áo vá.
Một luồng sóng của tình huyết thống phả vào Quàng.
Mặt nóng rực. Hai vai nặng trĩu.
Luồng sóng đi dần dần xuống người, xuống chân, rồi
tan ra theo tứ chi. Quàng quay lại hỏi nhỏ ích:
- Anh lấy đá ở đồi ông Bụt à?
ích gật đầu mà mắt thì bạc ra lo lắng, tưởng mình
phạm thêm một lỗi gì. Nhưng Quàng lại lẩm bầm như
nói một mình:
- Có khi ma đồi ông Bụt lại bắt bác ấy như ngày
xưa. Ma vẫn nhớ mặt bác ấy!
ích cũng như sực nhớ ra, vỗ đét vào đùi:
- Thôi chết, đúng rồi! Em quên mất! Sáng nay bác
ấy bảo tối hôm qua ma đến chơi nhà bác ấy! Những
hai mẹ con! Vợ chồng em lại cứ đùa: Ma mồ gì, hay
bác lại vớ được món nào rồi! Đói vàng mắt ra lại
còn rừng mỡ! Đúng là các ngài lên gọi bác ấy đi
rồi!
ích thở phào, lòng trút được gánh nặng.
Quàng quyết định chôn cất ông anh mình thật
nhanh. Con ma keo kiệt trong người Quàng đã xui
Quàng làm một việc táng tận: Hắn chôn ông anh
bằng bó chiếu. Quàng, ích, Thó và một anh hàng
xóm nữa đào một cái hố ở chính đồi ông Bụt, nơi
xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối.
Nhưng Quàng bảo, thôi thì chết đâu chôn đấy. Làm
thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài
khỏi quấy quả. Bốn Người khiêng Quềnh bó trong
chiếc chiếu hoa của Quàng mang đến, đi lặng lẽ
trong bóng chiều chạng vạng. Tiếng trống đám cụ Cố
ông Phúc phía cuối làng vẫn thì thùng vọng lên.
Theo tuổi cụ Cố, lúc này mới được giờ hạ huyệt. Khi
nấm mộ cụ Cố đã đắp xong, vuông thành sắc cạnh,
ông trưởng phường bát âm lại chống cây gậy dán
giấy đỏ, theo động tác chèo thuyền, cùng con cháu
cụ Cố rồng rắn đi vòng quanh một lượt hát bài tiễn
biệt cuối cùng: Bây giờ con giã biệt cha. ì ơi...
đầy nhà cháu chắt cũng là giã ông! Tiếng kèn giật
lên nức nở. Lại than, lại khóc vang vang cả cánh
đồng.
Trên này mộ lão Quềnh cũng đã đắp xong. Xong sớm
nghỉ sớm! ích lấy đòn đập bàm bạp mấy cái vào hai
bên sườn mộ, rồi cả lũ cùn cụt kéo nhau ra về. Thó
là người rút sau cùng. Thó vẫn chưa hết bàng
hoàng về cái chết của lão Quềnh. Mới đêm qua mình
với lão còn bá vai nhau vừa đi vừa nốc rước. Mùi
mồ hôi rất nặng, mặn khét của lão vẫn như còn lởn
vởn bên người Thó. Thế mà nhằng một cái. Mạng người
thật chẳng là cái thá đếch gì!
Thó đốt cả nắm hương còn lại cắm lên nấm cỏ tròn
như cái mũ đặt chốc giữa mộ. Chợt nghe tiếng lạo
xạo, Thó quay lại nhìn thấy một người đàn bà cao,
gầy, dáng lam lũ, hai gò má nhô lên sạm nắng. Một
nốt ruồi rất to mọc ngay dưới đuôi con mắt như hạt
đậu đen. Vai đeo chiếc tay nải màu nước dưa. Người
đàn bà nhìn Thó, cặp môi khô mấp máy:
- Tôi mới quay lại chiếc lều của ông ấy thì được
biết...
Thó như bừng tỉnh. Những chuyện ma mồ từ xa xưa lập
tức sững dậy. Thó hốt hoảng, môi run lên lật bật:
- Chị là... Bà là...
Vừa hỏi, Thó vừa bước giật lùi. Được mấy bước, Thó
quay cổ vùng chạy. Đúng là chạy như ma đuổi! Lao
cả vào những bụi gai xấu hổ ngã lăn chiêng, lại
vùng dậy chạy. Vừa chạy, miệng vừa A...a! A...a!
như người câm hoảng loạn.
Người đàn bà đứng sững chẳng hiểu ra làm sao. Chị
quay lại, cúi xuống đưa bàn tay cóc cáy bóp bóp
một hòn đất trên mộ lão Quềnh. Một giọt nước mắt
hiếm hoi chắt ra từ cặp mắt khô của chị rơi xuống.
Đây là giọt nước mắt duy nhất rỏ trên mộ lão
Quềnh! Chị khóc cho người mới gặp tình cờ chị khóc
cho con, chị khóc cho mình!
Sáng nay ăn cơm xong, chị ôm cái xác lạnh cứng của
đứa con trong bọc chăn lên bến xe phố huyện. Một
ông lái xe khách phát hiện ra, đã lu loa lên như
cháy nhà. Người ta xúm đen xúm đỏ lại. Công an đã
đưa chị vào đồn. Rồi không biết nghe khuyên can
thế nào mà chị đồng ý cùng các đồng chí công an
đưa chôn đứa trẻ ở sườn đồi bạch đàn gần đấy. Không
còn xác đứa con, thế tức là trong tay không còn
vũ khí, nên chị thôi không về để móc mắt cặp vợ
chồng phụ bạc kia nữa. Đi lang thang quanh quẩn
với bộ mặt cô hồn, cuối cùng chị lại quay về chiếc
têu đã trú tạm đêm qua, thì được nghe đám trẻ
trâu kể về cái chết của lão Quềnh. Thế là chị lần
tìm đến nơi, mà chính chị cũng không biết mình đến
để làm gì.
Đêm ấy bà Đồ Ngật đi ăn cỗ bên kia sông về, khi
qua ngã ba chợt thấy có ánh lửa lờ mờ trong lều
lão Quềnh, rồi thấy loáng nhoáng đúng là bóng
đàn bà, thế là ba Đồ chạy te tái đến thở ra đằng
tai. Đến mấy ngày sau bà vẫn mắt tròn mắt dẹt kể
ồn ĩ là bà đã hai năm rõ mười nhìn thấy con ma
mặc áo cánh quần thâm, đầu tóc rũ rượi hiện lên ở
lều lão Quềnh. Lại đến lúc các cô các ngài về đấy!
Nhưng lúc này chẳng ai còn hơi đâu nghe chuyện ma
của bà Đồ. Có người còn nói phũ là cái nhà bà
quen ăn quà như mỏ khoét này, đến hàng tháng nay
mồm miệng đến mốc ra như hang cua vì phải nhịn
thèm, giờ được đánh rượu vào thế là mắt nọ sọ mắt
kia, nhìn người ra ma, trông gà hóa cuốc! Điều cả
xóm Giếng Chùa quan tâm, bàn tán ầm lên là cái
chết trăm phần trăm của lão Quềnh. Người ta cứ túm
Thó và ích để hỏi Quềnh chết thế nào, chôn cất ra
sao. Trong lúc Thó kể Quềnh chết không được tắm
rửa, vẫn mặc bộ quần áo đẫm mồ hôi nằm bó trong
chiếu rồi buộc túm hai đầu lại; thì ích lại ra sức
giãi bày về sự vô can của gia đình mình khi thuê
mướn Quềnh.
Còn Quàng thì lẩn biến như rắn mồng năm.
Hôm sau nữa dân làng lại xôn xao lên về một tin
sốt dẻo: ông chủ tịch huyện đã đánh xe về gặp bí
thư Thủ và chủ tịch Sửu. Xong việc, vù ngay, chứ
không ở lại để nhấc lên đặt xuống như mọi khi. Ông
về vì có đơn tố cáo từ Giếng Chùa gửi lên. Người đệ
đơn không ký tên, mà chỉ ghi là Một nhân chứng
trung thực. Người ấy kể về việc lão Quềnh bị chôn
bằng bó chiếu và lên án đó là việc làm dã man
trong thời buổi này, mà lại chôn dấm chôn dúi như
một việc vụng trộm: Vậy thì Đảng ủy, ủy ban và ban
quản trị hợp tác xã coi việc nghĩa tử là nghĩa tận
của nhân dân thế nào? Sự quan tâm đối với những
người cô quả ra sao? Người viết đơn nói ngân quỹ
của xã không phải là nghèo. Một bữa cơm thường khi
họp Đảng ủy, khi họp hội đồng nhân dân, khi tiếp
mấy anh điện cao thế là có thể chôn được mấy người
như lão Quềnh một cách tươm tất! (Thật là đồ xỏ
xiên! Thủ lẩm bẩm, Đầy đủ tiền để chôn cả họ nhà
hắn nữa đấy!) Cho nên nếu huyện không có biện pháp
nghiêm khắc với những người chủ chốt ở đây, thì
người viết đơn nói, sẽ tố cáo lên tỉnh, lên Trung
ương, lên báo lên đài kể nhiều việc bê bối khác
nữa. (Đúng là cái thư đâm bị thóc chọc bị gạo! Thủ
lại lẩm bẩm).
Nhưng rõ là cái kẻ tố cáo kia đã đánh trúng huyệt
ông chủ tịch huyện. Vốn là ủy viên thư ký, sau một
thời gian đi học đào tạo giờ trở về với cương vị
cao nhất về mặt chính quyền, bởi vậy vị tân chủ
tịch rất không muốn có những việc rối ren trong
khu vực mình quản lý. Chủ tịch huyện đã chỉ trích
những người lãnh đạo ở xã quan liêu, tại sao xã ở
gọn thế này, làng nọ sát làng kia, đầu xã tới cuối
xã không quá năm cây số mà mấy anh lại không biết
những gì diễn ra ở dưới dân chúng.
- Việc này sẽ phải kiểm điểm, nếu cần phải kỷ luật
Đảng tay Quàng, cái thằng keo kiệt uống nước cả
cắn. Còn y sĩ trạm xá thì càng ngày hắn càng
đúng là một tên bạch vệ vô chính phủ! Sắp tới cô
Vi đi học về chúng tôi sẽ thay - Bí thư Trịnh Bá
Thủ bật y như một cái lò xo. Thủ nói tiếp với
giọng rin rít:
- Còn giọng điệu cái đơn này thì tôi biết là của
ai rồi. Họ mượn cái chết của ông Quềnh để đánh
chúng tôi đây. Trong lúc tất cả đang đói nhao
lên, thì họ làm ma ông bố đến mấy ngày. Hương
khói, kèn trống, ăn uống linh đình, tốn kém bạc
vạn. ý thức đảng vừa kém lại vừa hợm hĩnh khoe
khoang! Chúng tôi chưa sờ đến đấy!.
- Ai thế?
Chủ tịch huyện hạ giọng khi thấy Thủ nói như muốn
gây gổ với cái người vắng mặt đó.
- Tay Phúc chứ ai! Cái đơn này đích thị là của Vũ
Đình Phúc! Từ hôm mất chân đảng ủy đến giờ lão ấy
cứ lồng lộn lên.
Chủ tịch xã gật gù đồng tình:
- Đúng, đúng là của Vũ Đình Phúc.
Thủ bổng trở nên bình tĩnh đến mát mẻ, bởi Thủ
chưa biết sự yêu ghét của đồng chí chủ tịch mới ra
sao. Chỉ nghe nói đồng chí ấy là người mềm mỏng,
không thích những gì quá khích. Thủ hạ giọng:
- Đấy là những người cùng cánh với Vũ Đình Phúc.
Hoặc là có họ hàng, hoặc là đã được ông Phúc bao
che dạo ông ấy làm chủ nhiệm. Sau khi trượt Đảng
ủy, những người phe cánh của ông Phúc đã đi vận
động ráo riết để ông ấy trúng hội đông nhân dân.
Hôm bầu hội đồng, cả họ hàng nhà ông ấy cứ sùng
sục như muốn ăn tươi nuốt sống ai! Chả là họ nhà
ông ấy to vẫn quen cái thói lấy thịt đè người!
Chúng tôi biết một số người trong hội đồng cứ
khăng khăng bầu ông ấy làm phó chủ tịch là vì đã
bị họ hàng nhà ông ấy mua chuộc. Vì thế để tránh
bè phái, tránh mất đoàn kết nội bộ thường vụ chúng
tôi kiên quyết chỉ để ông ấy làm trưởng ban kiểm
soát. Các đồng chí ở trên ấy hãy ủng hộ chúng
tôi. Đồng chí mới về chưa hiểu hết cơ sở, chứ bác
Luân bí thư và các anh trong thường vụ trên ấy
chẳng còn lạ gì nhân sự dưới này.
Chủ tịch huyện rít một hơi thuốc, giọng khảo khảo:
- Chúng tôi có nhận được đơn khiếu nại của ông
Phúc về việc phân công này. Ông ấy có đề nghị được
gặp anh Luân và tôi, nhưng chúng tôi chưa bố trí
được. Tôi mới về chưa hiểu hết, nhưng thấy xã này
từ sau đại hội Đảng bộ và bầu hội đồng nhân dân lại
đâm ra rắc rối quá. Nhưng thôi, việc ấy bàn sau.
Giờ phải tìm cách dẹp cho yên cái pha này đã.
Thế rồi sau một hồi bàn bạc. ba người đã đi đến một
quyết định dữ dội như sau: Xã chi tiền mua một bộ
áo quan để chôn cất lại cho lão Quềnh? Thủ nói
phải kiên quyết thế mới bịt được những cái mồm xấu
hay xúc xiểm. Vậy thì lão Quềnh được ưu đãi hay
lão phải chết hai lần? Chôn xuống rồi lại moi lên
là điều xưa nay người ta cấm kỵ. Nhưng lão Quềnh
ơi! Đã được nằm trong bộ áo quan, nghĩa là được
chết bình dẳng như những cái chết khác, lão phải
vui lòng nhận thêm một sự vất vả khi đã nhắm mắt
xuôi tay. Nghĩa là lão phải hy sinh một lần nữa
để cứu danh dự cho những người khác đấy! Sứ mệnh
của lão thế mà to! Thôi thì đại xá cho cái sự
khôn ngoan của người đời, lão Quềnh à!
Xã đã nói là xã làm. ủy ban thuê mấy anh thợ đấu
mỗi người ba ngàn, tương đương với bốn cân gạo để
làm cái việc mà sau này dân làng gọi là đội cảm
tử: Moi xác lão Quềnh lên rồi chôn lại. Thó cũng
được cánh thợ đấu vời vào ban tang lễ kỳ dị này.
Đảng viên Đào Văn Quang, tức Quàng hiện giờ bị bí
thư gọi đến xạc một trận tơi bời về hành động bạc
đãi người ruột thịt của mình. Quàng sụt sịt nhận
khuyết điểm và xin được lo an táng lại cho Quềnh,
nhưng Thủ gạt phắt:
- Thôi thôi xin đủ! Chúng tôi không cần đến cái
thứ hối hận của anh! Để anh bỏ tiền ra, rồi bọn xấu
bụng kia lại làm đơn kiện chúng tôi à! Bây giờ
việc của anh là bàn với mấy ông thợ đấu lo sao cho
tốt. Đừng để chúng tôi phải gọi anh lên lần nữa
đấy!
Quàng lủi thủi về, bàn với Thó và cánh thợ đấu
rằng để tránh ồn ào, tránh sự nhòm ngó bép xép
của đám trẻ con, tránh phải đèn đóm ban đêm, đội
cảm tử sẽ thực thi nhiệm vụ vào sáng sớm.
Vì thế bước sang ngày thứ tư kể từ hôm lão Quềnh
chết, trời còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng,
bốn người đã khiêng chiếc quan tài màu đỏ cùng với
Quàng đi cun cút như nhạy ra đồi ông Bụt. Rồi
san, rồi bới. Đến khi hở chiếu bốn người cùng dừng
tay nhìn nhau. Ông thợ đấu cao tuổi nhất quyết
định:
- Bác Quàng xuống đi, buộc dây vào hai đầu chiếu,
chúng tôi ở trên này kéo lên.
Khi cái bọc chiếu từ từ được lôi lên, một luồng
khí lạnh cùng với một thứ mùi khăm khẳm của tử khí
mà chỉ cần ngửi thấy một lần cũng đủ kinh sợ hàng
năm trời, từ dưới lòng hố phả lên, khiến tất cả
cùng rùng mình ớn lạnh. Ông thợ đấu cao tuổi nói
lầm bầm như khấn:
- Tạ vong linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ.
Hôm nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây.
Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho anh em
liền khúc ruột, cho hàng xóm láng giềng chúng
tôi.
Rồi cái bọc chiếu âm ẩm như thấm nước được mở ra,
một làn hơi mỏng như khói bay lên, mọi người cùng
kêu ôi trời!. Thó bỗng run bắn lên, chân tay lẩy
bẩy, hai hàm răng khua vào nhau cầm cập. Mắt Thó
cứ tối lại trước cảnh toàn thân lão Quềnh trương
phình lên, nước thấm ra dấp dính như cá ướp; mặt
như phù thũng, to và phùng phịu như đọng đầy nước.
Đến khi đặt Quềnh vào áo quan, mấy ông thợ đấu
phải vừa ấn vừa ép người Quềnh uốn cho vừa, làm bật
ra những tiếng lóp bọp, thì Thó xây xẩm mặt mày,
ruột gan cuộn lên thốc tháo. Thó ôm lấy nghe ho
rũ rượi.
Hàng tuần sau nghĩ lại việc này, Thó vẫn sởn da
gà.
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, bốn - VN thu quan
Làng Giếng Chùa lại rộ lên bàn tán về việc chôn
lại lão Quềnh. Dạo này đói bụng, nhưng đến là
nhiều chuyện để bàn! Nhiều lúc quên cả những cơn
réo trong dạ dày! Bà con khen người nào đó đã kịp
thời tố cáo lên huyện để ngăn chặn những hành động
bạc đãi với những người cô quả, vì làng này còn
đến dăm hộ đơn côi không nơi nương tựa. Trong số ấy
có cả cha mẹ của liệt sĩ sống rất vất vả. Mỗi suất
liệt sĩ được 632 đồng một tháng, nhưng lại lĩnh
theo quý. Còn số thóc mua giá điều hòa theo
chính sách ưu tiên, thì làng này chỉ có nhà ông
Bỉnh là được mua đầy đủ, vì ông có thế ở anh con cả
hiện là trưởng ban tổ chức huyện ủy. Mấy dân cán bộ
cấp trên về thăm những gia đình có con liệt sĩ
nhân ngày 27 tháng 7, xã cũng chỉ đưa đến nhà ông
Bỉnh, vì ở đấy nhà cửa khang trang, còn những gia
đình liệt sĩ khác đã túng bấn quá, lại thóc ưu
tiên cũng bị cắt đầu cắt đuôi, nên những ông bà ấy
hay nói ngang cành bứa với xã, bởi vậy chả bao giờ
được rước chân cán bộ. Thôi thì sạch sẽ khoe ra,
bươi ba đậy lại cũng phải, chứ xấu mặt xã thì thật
hổ lòng dân!
ấy thế mà bây giờ huyện lại biết đến cả cái việc
chết của lão Quềnh, xã cũng cuống lên vì cái chết
của lão Quềnh, kể cũng khoái đấy chứ! Nghe mọi
người bình phẩm, cười hí há với nhau như vậy, ông
Hàm chỉ lẳng lặng tảng lờ vẫn bào soạn soạt trên
tấm gỗ kháo. Những phoi bào tròn loăn xoăn như
những cái bánh phồng tôm rán giòn bắn ra lả tả.
Câu chuyện của mọi người khiến ông Hàm sôi máu
lên. Ông chính là Trịnh Bá Hàm, trưởng chi họ
Trịnh Bá, chi họ đang lên ở vùng này. Bí thư Đảng
ủy Trịnh Bá Thủ là em ruột ông.
Ông Hàm bào, mắt vẫn nhìn chăm chú mà lại không
thấy gì. Tai nghe, óc nghĩ, tay chỉ miết bào một
cách bản năng, khiến cái vai giường ông đang bào
vì ấn mạnh quá, lõm vào một đường mà ông không
biết. Đến khi sực tỉnh thì đã quá đà. Cái vai
giường gỗ kháo vàng au như tấm vải tơ tằm bị lẹm
vào một đường, trông tức mắt như anh thợ vụng ăn
cắp!
Ông Hàm vứt bào đứng dậy, tập tễnh đi lên nhà. Vì
một chân của ông bị co gân từ bé, nên dân làng
cũng gọi ngay từ nhỏ là Hàm thọt, Hàm chấm phẩy.
Những kẻ ác ý thì gọi là hùm thọt. Vì giống họ của
ông Hàm thờ Hổ. Tô tiên của họ Trịnh Bá là một ông
ba mươi nhe nanh múa vuốt trong những bức vẽ rất tỉ
mỉ đặt chính giữa bàn thờ. Tại sao gốc đạo Phật, mà
dòng họ ông lại thờ Hổ? Đó là cả một câu chuyện bi
tráng mang nhiều chất thần thoại!
Ông Hàm lên nhà trên mở toang cửa, rồi gọi với
giọng rất sang:
- Nước sôi chưa Hoa?
Một tiếng dạ từ dưới bếp, rồi đứa con gái út hơn
mười tuổi bỏ dở bài đang học, xách siêu nước lửa
vẫn còn cháy nhấp nháy quanh ấm nhôm đi lên. Con
bé tráng ấm, pha trà, khéo léo và thành thạo như
người lớn, bởi nó đã được huấn luyện để phục vụ ông
bố ghê gớm. Khác với ông, người lúc nào cũng lừ
khừ, lúc nào cũng cau cau, mấy đứa con đều giống
mẹ, mặt mũi tươi bưởi sáng láng. Chả thế mà ngày
ông mới lấy vợ, những kẻ ghen ăn ghét ở đã xui trẻ
con hát đố nhau: Vợ thì tươi tắn như hoa, chồng
thì nhăn nhó chẳng ma nào nhìn! Đó là cái gì? Là
mặt trăng mặt trời. Không phải! Là anh Hàm chị
Son!
Cái Hoa rót một chén nước để trước mặt bố, rồi đi
kiểu nhảy dây xuống nhà dưới. Mùi trà ướp hoa ngâu
tỏa lên thơm mát. Ông Hàm co hai bàn chân đi đất
ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế sa lông rất to đóng
bằng gỗ lát chun bóng nhoáng, vần vũ những đường
vân như tranh sơn mài. So với những đồ đạc giường
tủ bàn ghế vàng rực cả bốn gian nhà mái bằng quét
ve xanh, thì ông chủ với bộ quần áo xanh tàu tàu
xoàng xĩnh kia chỉ đáng mặt anh ăn đợ ở nhờ. Nhưng
ông Hàm lại ngầm thích thú về điều ấy. Bởi hãy
nhìn đồ đạc toàn một thú kiểu mới, chứ tịnh không
có đồ cổ, thế nghĩa là nhà này mới mọc mũi sủi tăm
lên thôi, chứ đời ông bà cha mẹ xưa không để lại
được thứ gì đáng giá. Điều ấy chứng tỏ một tay ông
Hàm dựng lên tất cả. Nên ông cứ ngồi xếp bằng,
rung đùi tự thưởng, cứ việc tha cả đất cát lên mặt
ghế bóng như gương, cứ việc xì bã điếu ra nền gạch
men, rồi vợ con ông phải quét, phải lau bởi ông
đã đẻ ra tất cả cái cơ đồ này. Ông tuy xấu mã,
người lùn và to ngang, đó là dáng điệu của gấu.
Chân tay ngắn, mặt ngắn, trán cũng ngắn choằn.
Cái tài ẩn vào trong, khi cần mới ló ra ngoài.
Như đôi tay ông, với những ngón to đầu tù thô
tháp, nhưng đấy là đôi tay vàng. Hoa tay là cái
thần của tứ chi, mắt mũi trần tục đâu dễ nhìn
thấy. Ông chỉ học nghề mộc qua quít, mà đã tay
tràng tay đục đi ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ từ
thời trai trẻ. Bây giờ ông chỉ ngồi nhà, nhưng
quanh năm không hết việc Nào là giường mô-đéc, tủ
buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Thời này
người ta đua nhau sắm đồ đạc như lây lan một cơn
sốt. Đói cũng vẫn bóp bụng sắm. Đói mà được ngồi
sa-lông gỗ lát cũng vẫn vênh vang. Khách đến làm
sao biết được trong bụng chủ nhà chứa những gì.
Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi
cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời
dân! Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ
vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng giống ông nhọ
đít! Có quyền lo ô, lo ghế; dân chạy lo gỗ sắm đồ!
Càng sắm ông Hàm càng trúng mánh. Cứ nhẩn nha
túc tắc mà mỗi năm thu ngót tấn thóc, ngon như
chén óc chó! Bằng mấy anh theo đuôi trâu ngoài
đồng.
Ông Hàm rít lạch sạch một hơi điếu bát, rồi ngửa
cổ lim dim nhả khói. Một nửa người ông chìm trong
màn mây thuốc. Chỉ thấy mái đầu muối tiêu khẽ gật
gù bập bềnh trong khói mờ. Mồi thuốc làm ông Hàm
tê mê bần thần cả chân tay đầu óc. Ông ngồi tĩnh
tâm. Mắt lơ mơ óc lơ mơ. Làn khói bay lởn vởn bỗng
đưa trí não ông Hàm trôi ngược về buổi tối cách
đây hơn 30 năm trước khi ông Trịnh Bá Hoành từ giã
cõi đời. Lúc ấy chỉ duy nhất người con giai trưởng
Trịnh Bá Hàm được đứng bên cạnh giường để nghe bố
dặn dò. Bằng một giọng lào phào nhưng rất tỉnh,
ông Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải
biết bố con Đại - Phúc là người không thể di chung
đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta
ngóc đầu lên được.
Ông Hoành nói hồi năm 1949 giặc Pháp định mở một
cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật
gọng kìm, chiến thuật càng cua lên đây. Một cánh
quân sẽ từ Sơn Cốt tràn sang, một cánh sẽ từ Đáp
cầu đánh lại. Hai gọng kìm, hai càng cua sẽ khép
lại, hội quân ở quanh vùng này. Thế là cả làng bỏ
chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Nhưng rồi cuộc càn của
giặc không thành. Ông Trịnh Bá Hoành từ vùng núi
Phúc Thuận vội vã chạy về, thì đã thấy bố con Đại
- Phúc ở nhà rồi. Dạo ấy Phúc là du kích xã phải ở
lại đã dành nhưng còn lão Đại. Ai khiến cái mặt
lão mà lão đã mò về sớm thế! Thấy cửa nhà mình mất
dấu ông Hoành mở ra nhìn đồ đạc còn nguyên, nhưng
nói có vía ngài chứng giám, bức tranh Hổ thần của
họ nhà Trịnh Bá treo chính giữa bàn thờ không biết
thằng giời đánh thánh vật nào đã chọc thủng cả hai
mắt, rồi lấy than vạch chéo một dấu thập đen xì
giữa đầu ngài. Thế này là nó bôi gio trát trấu
vào tổ tiên nhà Trịnh Bá đây! Mà không thể là trẻ
con được. Cách chọc, cách vạch than này, nhìn
đường nét phũ phàng căm tức lắm. Thì còn ai vào
đây nữa. Cái kiểu thù để cho động vào tận thủy tổ
gia tộc thế này, hỏi rằng không phải là nó thì
còn là ai! Có khi nó còn yểm bùa nữa đây.
Ngay tuần ấy Trịnh Bá Hoành phải đi thửa một bức
tranh khác, mà họa lên một tấm vải gai cho chắc
chắn. Ông thợ vẽ truyền thần trên phố huyện không
lấy tiền, mà đòi đến hai nồi thóc, vị chi là hơn
nửa tạ. Có tranh rồi, lại lo sửa lễ. Phải có đủ
xôi nếp, thủ lợn, gà trống luộc cả con không chặt
và một con cá chép to rán vàng để chờm cả đĩa
tây, rồi mời cô thống Biệu đến cúng, xin đủ âm
dương ngũ hành và thưa báo cho ngài biết rõ sự
tình tại sao phải tái họa lại chân dung ngài,
xong đâu đấy rồi mới được treo lên. Thành ra tốn
kém không khác gì giặc càn đến nhà! Thì chính nó
là giặc, là thù của họ nhà ông chứ còn gì nữa!
- ở đời hòn bấc ném đi, thì hòn chì ném lại -
Trịnh Bá Hoành nói như thầm thì, nhưng cặp mắt
quăm quắm nhìn Hàm thì sáng lên lạ thường, thứ
ánh sáng của ngọn đèn sắp phụt tắt - Có vay phải
có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia
bảo nhà ta, thầy ân hận là chưa đòi cái món nợ ấy
được vì chưa gặp dịp. Đến đời anh, anh phải nhớ!
Chuyện thằng Phúc với con Son vợ anh dạo trước,
thầy biết cả! Tha thứ cho vợ là phải. Đấng nam nhi
có khi còn lấy đĩ về làm vợ để dạy, nhưng không
được lấy vợ làm đĩ! Anh chỉ được phép tha riêng vợ
anh thôi! Làm thằng đàn ông không được hèn! Chấp
vặt là tiểu nhân, nhưng cái gì cũng bỏ qua thì
lại là người hèn! Có mấy cách làm thày đã nói kỹ,
để ở dưới đáy tráp.
Rồi từ đấy cho tới nửa đêm, ông Trịnh Bá Hoành cứ
nằm quay mặt vào tường không nói lời nào nữa. Ông
đi, ai cũng bảo là thanh thản. Chỉ riêng Hàm biết
bố mình vẫn nuốt một cục uất ức trong người! Tiếng
hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay,
lời dặn dò của người trước khi chết là lời thiêng,
lời độc!
Làm ma bố xong, Hàm vào buồng đóng cửa, mở cái
tráp khóa chuông, cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ như
cái hòm của ông thợ cạo chỉ có một chìa, và trong
nhà chỉ có một người được mở. Dưới những tờ văn tự về
đồng điền và thổ cư từ hai đời nay, là một quyển vở
giấy giang xếp dưới cùng, loại vở học trò. Với
những chữ quốc ngữ rất to trông cứ nghều ngoáo run
rẩy như người vờ đánh vần vừa viết. Nhưng cái điều
nói qua những nét chữ bấy bớt ấy thì đọc đến đâu,
Hàm lạnh toát người đến đấy!
Đọc xong, Hàm ngồi lặng người một lúc lâu rồi lại
run run xếp quyển vở dưới đáy tráp, khóa lại, cất
vào gốc cái hòm cáng như cất một quả mìn!
Thì bây giờ đến lúc ông dùng quả mìn ấy rồi! Chỉ
có cách này mới trị được thằng cha Phúc hay hợm
của hợm người. Hàm biết Phúc vẫn nhìn mình bằng
con mắt coi thường. Coi thường cả hình dáng lẫn địa
vị trong thôn, trong xã. Thì phen này ông sẽ cho
cả họ nhà mày ăn bùn ăn bùn! Quyết thế rồi, ngay
chập tối ông Hàm đến nhà Thủ. Cũng bốn gian nhà
mái bằng như nhà Hàm nhưng trên bờ tường trước cửa,
đồng chí bí thư Đảng ủy cho đắp nổi một cây dừa
trĩu quả. Trên ngọn chim bay dưới gốc cá lội. Con
nào con ấy béo nần như đang chửa. Tất cả đêu tô
đậm sơn màu xanh đỏ tím vàng, rực rỡ như cái phông
của hiệu ảnh trên phố huyện. Nhà trên ở giữa, nhà
ngang nhà bếp hai bên lợp ngói ta, trước cửa là
vườn cây ăn quả xung quanh trồng găng làm bờ rào
tất cả toát lên ve phồn thực và viên mãn.
Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ
phép:
- Bác sang chơi ạ
Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù
là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao
giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày
thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ
có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên.
- Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ
sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như
bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
Ông Hàm xua tay:
- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
Khác với ông Hàm, Thủ là người có mã, cao ráo
trắng trẻo. Với bộ quần áo pi-gia-ma kẻ sọc như
công chức. Thủ đang tưới cây ngoài vườn, đã bỏ ô-
roa đi vào. Thấy Hàm đang giở ngày giở tối thế
này, Thủ biết là có việc cần. Mặc dù là bí thư
quyền hành cao nhất xã, lại được học hành khá chu
đáo từ bé, chứ không bị thiệt thòi như hai ông anh
là Hàm và Long. Ông Long bây giờ làm công nhân
trên khu gang thép cũng chỉ học hành chữ tác chữ
tộ; vì khi Hàm và Long vừa lớn thì gặp ngay cái
đận ông Trịnh Bá Hoành bán cả ruộng vườn để lao
vào cuộc đen đỏ tranh giành cái chức lý trưởng với
Vũ Đình Đại. Thật là một phen liểng xiểng. Vài
năm sau gia đình mới hồi lực, có bát ăn bát để
thì vừa lúc Thủ tới tuổi cắp sách đến trường. Thế
là Thủ cứ đường quang lối rộng mà tiến. Dầu vậy
chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả. Người
trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Không chỉ là
trong gia đình ngay công việc của Thủ, Hàm cũng
giữ vai trò cố vấn đặc biệt. Hôm đại hội Đảng bộ,
các chi họ hồi hộp đến thắt tim khi đến mục bầu
Đảng ủy mới. Rất nhiều không có chức trách gì cũng
thập thò lảng vảng đến săn tin. Phải bầu đến vòng
ba, tối mịt mới xong. Thủ vừa về đến nhà đã thấy
ông Hàm ngồi chờ.
- Chú cao phiếu nhất phải không?
Ông Hàm hỏi thế, tức là chúc mừng đấy, nhưng mặt
vẫn lạnh như tiền.
Ông nói tiếp:
- Lại đúng dịp ông Đáng về hưu đợt này, vậy chú
phải thay chân ông ấy giữ ngay lấy cái triện đỏ,
tức rằng là phải làm bí thư. Chứ còn chủ tịch cũng
chỉ là thứ triện xanh! Thằng Tùng nhà Sang cũng
trúng hả? Chỉ cho nó chân chạy ngoài, hữu danh vô
thực thôi!
Lúc ấy Thủ đang đầy phấn chấn vì đắc cử, đến mức
không còn thấy ai là đối kháng với mình, nên
lòng dạ bỗng thành dễ dãi. Với lại Thủ vốn thuộc
dạng người cải lương, dễ bằng lòng và dễ chấp nhận.
- Thực ra thằng Tùng cũng được chứ không đến nỗi
nào đâu. Nó còn chất lính bộc trực thẳng thắn, với
công việc thi xốc vác
Ông Hàm nghiêm ngay mặt, kịp thời nhắc nhở Thủ
đang nói khôn nói dại những gì:
- Được là được thế nào! Rau nào sâu ấy! Hãy giao
cờ vào tay nó xem, gai ngạnh sẽ mọc ra ngay!
Gáo nước lạnh của Hàm đã làm Thủ tỉnh cơn say, và
Tùng đã được phê chuẩn làm xã đội trưởng ngày sau
đấy, chứ không phải chờ đến tuần sau họp Đảng ủy
mới phân công, để mỗi năm cho nó dẫn đám thanh
niên ra đôi nằm chổng mông lên mà nheo mắt bóp
cò khan vào mấy cái bia giấy!
Hôm nay ông cố vấn sẽ chỉ thị gì đây! Thủ rửa chân
tay đàng hoàng rồi mới vào nhà. Hàm hỏi ngay:
- Chú định thế nào về cái việc ấy?
Vừa hạ giọng vào chuyện, Hàm vừa thu hai bàn chân
ngắn và to bè lên đi-văng. Thủ tráng ấm pha trà,
cũng nói nhỏ để hai anh em vừa đủ nghe:
- Em cũng chưa định. Theo bác nên thế nào?
- Chả nhẽ chịu thua nó à?
Hàm tự rót nước ra chiếc chén hạt mít, hỏi thủng
thẳng. Đó là cách nói chuyện riêng với nhau của
hai anh em nhà này. Họ thường nói nửa vời, mù mờ
rời rạc như vậy. Nếu có ai nghe được cũng chịu chết
không hiểu họ nói gì, ám chỉ ai. Nhưng với Thủ thì
anh biết ngay cái việc ấy và nó ở đây là chỉ ông
Phúc và cái việc kiện cáo của ông ta khiến xã
phải chôn lại lão Quềnh. Phúc đã thắng 1 - 0! Cứ
đà này Phúc còn dở dói những gì nữa?
- Tôi đã nghĩ ra cách rồi - Hàm chiêu từng ngụm
nước nhỏ như nhắp rượu, rồi vẫn với giọng nhát một,
ông công bố kế hoạch phản công:
- Lấy độc trị độc, mỡ nó rán nó! Lại dùng ngay
cách lão Phúc đã bắt các chú chôn đi chôn lại
lão Quềnh - Tức rằng là... đào mộ?
Thủ quay sang sửng sốt. Bởi ở đây dạo đã lâu có
hai nhà thù nhau, bên nhà yếu lực không đủ sức
đánh lại đã dùng cách khủng khiếp này.
Hàm vẫn thủng thẳng:
- Có gì mà chú đã tái mào lên như thế! Nó muốn
cưa đốt đục suốt, thì sẽ được người ta đục thẳng
vào cây nóc nhà nó! Đây là dịp tốt để lấy âm trị
dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không
ngóc lên được! Đào lên, lấy ván, lật sấp bố nó
xuống! Còn cỗ ván dổi tôi sẽ đóng một bộ sa-lông
thật mốt, rồi tìm cách bán cho chính anh em họ
hàng nhà nó!
Thủ đã thấy ớn khắp người, ngập ngừng:
- Nhưng mà...
Hàm biết thóp ngay ông em chỉ được cái võ mồm,
quen phòng xa giữ gìn, mà cũng là phòng cho mỗi
cái thân hắn thôi! Hàm càng hạ giọng tới mức lào
thào:
- Ngày thầy mất, chú với chú Long còn chưa nghĩ
được đến đầu đến đũa, nên thầy chỉ dặn riêng tôi...
Rồi ông Hàm trang nghiêm kể với giọng rin rít về
bức tranh thờ Hổ thần của nhà ông bị chọc mắt, bị
bôi bẩn và những lời chỉ dẫn của ông bố trong quyển
vở giấy giang về cách lấy âm trị dương thế nào, rồi
để tránh phản hồi trở lại thì trước khi hạ cuốc
phải đọc bài tạ thần ra sao. Thủ ngồi cứng người,
tay cầm chén nước mà quên cả uống.
- Có hai thời điểm để lấy âm trị dương - Hàm vẫn
nói thầm thì - Lúc vừa chôn xong và lúc được ngày
cải táng. Nhưng chờ đến cải táng thì lâu quá, với
lại nghi thức lúc ấy rườm rà lắm, phải lấy đến bảy
đốt xương mang ra sông tạ thần, rồi đóng bè chuối,
đưa bảy đốt xương lên đó thả trôi sông. Mất đến cả
đêm, dễ lộ. Cho nên thời điểm này là tốt nhất. Làm
xong lại đắp điếm như cũ đố biết! Chú khỏi lo.
Không ai bắt chú phải mó tay vào. Chỉ cần tôi với
thằng ưởng, thằng Ngạc, tí nữa chú nhắn thằng Thó
đến tôi là được. Trong việc này phải có một người ở
ngoài họ mới đại an. Thì chọn thằng Thó là tốt
nhất.
Thủ càng bứt rứt không yên:
- Liệu thằng Thó nó có chịu không? Hôm trước đám
ông Quềnh, nghe nói nó đã mửa ra mật xanh mật
vàng.
Hàm vẫn cứng như thép:
- Chú cứ nhắn nó đến gặp tôi. Tôi sẽ có cách dọa
để nó phải nghe. Cái đêm lão Phúc cầu hồn cho bố,
thằng Thó đã lỉnh vào bếp nẫng cả hủ rượu tăm ra
đường uống, rồi say bò lê bắt sải ở vườn ổi nhà bà
Đồ Ngật. Cái hũ ấy đang ở nhà tôi! Tôi chỉ dọa là
lão Phúc nó sắp trả thù là thằng Thó sợ thọt dái
lên cổ! Muốn an thân phải có chỗ dựa, thì hỏi còn
dựa đâu vững bằng dựa vào ta!
Thủ chỉ còn biết ngồi ngay tán tàn nghe ông anh
giảng giải. Ông ấy suốt ngày đục đẽo ở nhà, mà sao
chuyện gì cũng biết. Lại đưa được cả cái hũ; tang
vật ăn vụng không biết chùi miệng của Thó vào tận
nhà mình, thì thật là chịu ông anh ma xó! Thủ
cũng muốn trừng phạt Phúc, cũng muốn cho Phúc
xiêu điêu liểng xiểng, nhưng người ra tay phải là
ai kia chứ không thể là mình. Mình chỉ đóng vai
tọa sơn quan hổ đấu mới sướng! Bây giờ ông Hàm xin
lĩnh trách nhiệm, thực ra cũng chưa phải là hay,
giá là người không dây mơ rễ má gì với mình thì
tốt, nhưng kiếm đâu ra. Thôi cũng dược, có gì Thủ
cũng đủ lý là người tay trắng! Ông Hàm không cần
biết những nghĩ ngợi vân vi trong óc Thủ, ông
đứng dậy, coi như việc đã bàn xong, dặn thêm:
- Chú nhắn ngay thằng Thó đến nhà tôi, làm như
vẫn nhờ nó đi áp tải gỗ chứ mình lại đằng ấy không
tiện. Để tối mai là làm luôn!
Thủ chỉ còn biết nhắc lại như cái máy:
- Ngay tối mai à?
Hàm buông một câu lạnh gáy:
- Cho nó đỡ nặng mùi!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Năm - VN thu quan
Nhận được lời nhắn, Thó sắng sẻ đến nhà ông Hàm
ngay.
Chắc ông lại nhờ đi áp tải gỗ ghiếc gì đây. Ông
Hàm có cậu con trai thứ khỏe mạnh, không biết bằng
cách nào mà chưa hết hạn nghĩa vụ đã ra quân, rồi
nhảy tót đi lao động nước ngoài, thành thử bây giờ
ở nhà còn rặt đàn bà con gái, nên ông vẫn hay nhờ
Thó đi áp tải gỗ về đóng đồ. Tiếng là hay ma lem
ma cuội, nhưng thực tình Thó chỉ thuổng những
miếng chín, chén ngay; chứ làm ăn lớn thì Thó sợ.
Với lại được người như ông Hàm tin, trước khi đi
bao giờ cũng lót miệng vài choạc cho ấm bụng, khi
về lại cùng ông cuộn chân ngồi xếp bằng trên chiếu
hoa cơm rượu bí tỉ, thế là Thó khoái. Còn ông Hàm
thì thật tinh đời, vì ngoài những miếng ăn ngay,
ông không phải trả một đồng công nào.
Thó đi tắt qua khu đầm nước cho nhanh. Đã tối sò
sẫm. Xóm làng trở về tịch mịch. Một con bò gọi con,
tiếng âm ồ của nó vang trong bóng chiều chạng
vạng. Con bê be lên nũng nịu, rồi tế chạy, nện
móng lốc cốc ròn rã trên những viên gạch vồ như
ném một tràng mưa đá. Bầy liếu điếu giật mình, kêu
thé lên trong bụi tre. ở dưới ấy, chân các rặng
tre, một dải sương mờ mờ như đùn từ dưới đất lên,
bay là là phập phồng như giăng một tấm to xanh
biếc. Tiếng cuốc kêu luốc cuốc cu loa trầm đục như
thấn ướt hơi sương trong ấy. Khói bếp thở trầm ngâm
trên mái rạ. Giờ này là giờ nghỉ ngơi, giờ sum
họp. Dù sung sướng hay đau khổ thì giờ này người
ta cũng rút về hang ổ cuối cùng của mình là những
mái nhà. Dù ít dù nhiều, ngay người giàu nơi thôn
dã cũng chỉ ngày cơm hai bữa, và kẻ khó cũng cứ đỏ
lửa hai lần. Nơi đây từ bao đời nay cái ăn cái
uống gần như chỉ là chuyện phụ. Người ta có thể nhịn
ăn nhịn mặc để xây một căn nhà gạch, sắm một cái
xe, có khi cả xe máy; mua đài, mua cát- sét rồi
mở om tỏi suốt ngày để được,mở mày mở mặt với xóm
làng. Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa
có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật
thà như đếm nhưng cũng lại lắm những kẻ đủ mưu ma
chước quỷ, không mấy lúc ngồi yên, và cũng không
để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cách bon
chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái
vảy ốc, chen một chỗ đứng không caữ hơn cái đế dép
thường ngày. Cũng có đủ những thì thầm thì thụt,
cũng xúi bẩy, kích động, cũng ném đá dấu tay,
cũng cười bả lả chạm cốc nhau lanh canh trong
những bữa tiệc đồng chí, nhưng trong bụng lại thầm
rủa sau bữa rượu này mày sa chân lỡ bước chết dấp
đi cho rảnh! Mặt ao làng tím thẫm những hoa bèo
giờ đây không còn bình lặng nữa. Những sóng cồn
của biển rộng sông dài đã vang động đã lôi kéo
khuấy sục lên, khiến những mảnh ao cung đủ gan
tùng những cơn sóng bùn tanh tưởi!
Tiếng con cuốc kêu khắc khoải bên bờ đầm. Nó gọi
gì? Gọi bạn tình, hay gọi cái chết?
Thó bước cắm cúi cũng như một con cuốc. Thấy nhà
trên ông Hàm ìấp lóa ánh đèn, Thó đi thẳng vào.
Nhà ông Hàm đang chuẩn bị ăn cơm tối. Tiếng mâm
bát lanh canh dưới nhà bếp. Tiếng hai chị em nhí
nhắn. Vợ chồng ông Hàm đang ở nhà trên. Nghe
tiếng Đào, cô con gái lớn chào Thó ngoài sân,
ông Hàm tập tễnh đi ra niềm nở, đúng là ông đang
nóng lòng chờ.
- Vào đây chú. Có việc cần đến chú đây. Nhưng ta
hãy làm vài chén cho ấm bụng đã - Rồi ông Hàm
quay sang bà vợ dang gấp quần áo trên chiếc giường
Đức nâu bóng:
- Bà xuống rang cho tôi đĩa lạc.
Bà Hàm vặn to ngọn đèn ba dây treo giữa nhà, rồi
thu vội đống quần áo, con cón đi xuống bếp. Đã
ngoài năm mươi đến dăm cái lẻ, nhưng bà vẫn giữ
được dáng người gọn gàng cân đối. Tóc vẫn dày, nước
da vẫn trắng. Khuôn mặt trái xoan được điểm thêm
cặp mắt lá răm và cái miệng tươi, khi cười còn trẻ
lắm Dân làng bảo bà là người có số sướng, đã được
cái sắc trời phú, lại từ bé đến giờ chưa đến cái
đói rách là gì, nên cái duyên càng bền. Bà sẽ
đẹp đến già, đẹp đến chết!
Ông Hàm mở tủ buýp-phê, bê ra một cái hũ da lươn
đặt giữa bàn. Thó bỗng giật thót người. Chính cái
hũ nhà ông Phúc mà Thó đã khoắng đêm hôm trước!
- Chắc chú đã nhận ra cái hũ này - ông Hàm vừa
róc rượu ra hai chén vại, vừa khề khà - Nhưng tôi
đưa được về đến đây là đã cứu sống chú rồi. Hôm
kia lão Phúc có đánh tiếng là đã biết việc làm
của chú, lại biết cả cái hũ đang ở đây, nhưng đố
dám hoạnh họe với tôi.
Rồi ông Hàm vươn người trên mặt bàn, nhìn sát vào
bộ mặt thờ thẫn với cái cằm vốn đã nhọn của Thó,
giờ cái đói càng vót cho nhọn hoắt như bút chì,
ông Hàm thì thầm nhỏ tới mức Thó phải dỏng tai,
nhăn trán lại mà nghe. Vừa lúc bà Hàm xuýt xoa
với đùm lạc nóng trong tay đi lênl ông Hàm quay
lại, nói phắt sang chuyện khác:
- Mẹ nó đong cho chú Thó vay nồi thóc, dồn vào
bao tải để chú vác cho tiện.
Bà Hàm bày lạc ra chiếc đĩa sứ hoa. Bà biết hai
người đang có câu chuyện gì hệ trọng lắm, và ông
không muốn cho bà biết. Nếp quen nhà này là ông
Hàm đã không nói thì không ai được hỏi. Hôm nay
đích thị không phải chuyện thóc lúa gỗ lạt gì. Bà
Hàm ân cần hỏi Thó:
- Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một
tạ?
Thó đang sững cả người. Đang nói chuyện đi quật mộ
ông bố Phúc, Thó nghe khiếp quá, vậy mà ngoắc một
cái, ông Hàm lại sai vợ đi lấy thóc cho vay. Một
nồi chóe, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng
ba mươi cân, đến mùa mới trả không lấy lãi, lòng
tốt ấy bây giờ đến bói không ra. Thó nhìn khuôn
mặt đầy đặn hồng lên dưới ánh đèn của bà Hàm, kể lể
ca cẩm:
- Em phải bán non hai tạ cho nhà ông Quàng đấy
bá ạ. Giá có mười hai. Mấy nhà có tiền định giá
như thế, chứ thóc bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm mươi
ngàn một tạ. Lượt chợ nữa mới được gặt, đập xong rồi
cho bá lấy thóc tươi luôn chứ không cần chờ khô.
Dắng là sợ nhà em ăn quịt.
Bà Hàm khẽ cười, đưa mắt nhanh sang nhìn ông. Thì
nhà bà cũng mua lúa non với cái giá ấy! Chẳng ai
bắt, nhưng những nhà thiếu ăn đều phải bán mười
hai ngàn một tạ lúa chưa gặt ở ngoài đồng. Không
biết nhờ ai mối lái, mà ông Hàm còn móc nối được
với ông thợ may và ông hàng phở trên phố nhận mua
thóc với giá hai mươi. Tiền đã trao cho ông Hàm
từ tuần trước, còn thóc thì đến gặt chiêm mới lấy.
Vậy là mỗi tạ ông Hàm ngồi không đã được lãi tám
ngàn. Về mặt tính toán sít sao ở nhà này thì bà
còn phải chịu ông. Nên cái việc cho Thó vay nồi
thóc không lấy lãi, bà biết chắc là ông không hớ.
Thả con săn sắt bắt con cá rô, ông không được lãi
thóc thì cũng phải lãi cái khác.
Bà Hàm bảo Thó:
- Người ta đòi thóc tươi, tức là muốn nắm đằng
chuôi đấy chú ạ.
Ông Hàm chép miệng:
- Thôi được, chú cứ trả cho sòng phẳng, rồi có
thiếu lại sang đây - Đoạn ông quay sang vợ - Mấy
mẹ con cứ ăn cơm trước đi, rồi rán thêm mấy quả
trứng để tôi với chú ăn sau.
Bà Hàm vừa đi xuống, ông Hàm lại thì thào:
- Phải từ mười giờ đêm trở đi, lúc ấy thì tất cả đã
ngủ kỹ rồi. Tôi, chú, thằng ưởng, thằng Ngạo, thế
là đủ. Rồi bốn người vác bốn tấm ván về đây, thế là
xong! Chú không lo, đào tới rồi tôi sẽ vẩy cả hũ
rượu này xuống đó để tẩy mùi. Làm xong lại rửa tay
bằng rượu, tha hồ sạch!
Thó cũng vươn cổ trên mặt bàn, như mổ cái mũi nhọn
vào mặt ông Hàm. Đã có mấy chén rượu cất nước đầu
trợ sức, vậy mà giọng Thó vẫn run:
- Bác dã gọi thì em cũng xin hết lòng, nhưng vía
em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì...
Ông Hàm xua tay:
- Rồi thì ma nó vật chú chứ gì? Đừng lo, đã có
tôi. Tôi có bài khấn để yểm rồi. Với lại đây là
chuyện dòng họ nhà tôi với dòng họ nhà Phúc, chứ
chú không có dính gì. Còn dòng họ nhà tôi thì
chú biết rồi chứ? Tôi treo bục tranh kia không
phải là treo làm cảnh, mà đấy là tranh thờ. Chính
Ngài đã giữ phần âm cho chúng tôi, hùng mạnh và
an toàn lắm.
Vừa nói, ông Hàm vừa trỏ lên bàn thờ. Trên ấy đằng
sau cái lư hương đồng là bức truyền thần họa một
ông ba mươi trên tấm vải dệt bằng những sợi gai ở
tư thế chồm lên. Những răng lợi móng vuốt giương
ra trông đằng đằng lẫm liệt. Nghe nói đời kỵ nhà
ông Hàm, tức là ông cụ tổ đã cách đây bốn đời của
dòng họ Trịnh Bá đã giáp mặt một đấng trượng phu hồ
vằn chân thọt trong tư thế phanh thân xé xác ấy!
Phúc ân chi sớ họa, trong họa có phúc. Có thể tin
được chăng? ông ba mươi kia chính là thần sát
sinh, rồi sau lại trở thành thần phù trợ, thần cứu
thế của dòng họ Trịnh Bá. Chuyện rằng:
Đời kỵ nhà ông Hàm đến sinh cơ lập nghiệp ở đây
nghèo lắm. Cả nhà sống dựa vào cái tài kiếm cá của
ông. Thuở ấy đồi ông Bụt còn là khu rừng già đầy
bí hiểm. Chưa nói chuyện ma hiện hình, người thấy
người không, riêng thú dữ thời ấy thì ai cũng gặp.
Hổ báo, hươu nai, vượn trắng ngồi bế con trên cành
trông khéo như người. Trăn gió quăng mình từ cây
nọ sang cây kia ầm ầm như một cơn lốc.
Trong sách Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi khi nói
về huyện này có câu: Huyện... có trăn, chim trĩ
và vượn trắng. Có phải cụ Nguyễn đã viết chính về
sản vật ở núi ông Bụt này? Ban đêm tiếng hươu tác
rầm rì, hổ đuổi, hươu lao cả vào nhà người đang ở
là chuyện thường. Con suối cạn dưới chân đồi ông
Bụt bây giờ, thuở ấy rộng như một nhánh sông,
quanh năm đầy nước, tôm cá đánh dễ như ao nhà.
Ông kỵ của chi họ Trịnh Bá lúc ấy sống nhờ vào con
suối này. Chỉ với cái đó đón ở hồ nước xiết, vậy mà
sáng nào là vợ cũng có cá bán. Thế rồi liền trong
mấy hôm, đó của ông bị xé rách, cá mất. ông đoán
với cách ăn trộm vụng kiểu này chỉ là một chú rái
cá hay một con vòi gà nào đó chứ không phải
người. Vì suối toàn là đá nên con thú ăn vụng
không để lại một dấu chân. Một hôm ông đi thăm đó
sớm hơn thường lệ để rình, thì lạy trời! Kẻ ăn trộm
cá của ông là một bác hổ vằn không biết đi đứng
hấp hoảng thế nào bị đá kẹp một bên chân hậu, chặt
tới mức khỏe như hổ mà mà cứ chịu đứng ngay đơ,
không tài nào rút chân lên được. Trước mặt ông
mãnh là cái đó đã cào rách, nhưng hình như đau
quá, nên cá vẫn quẫy phanh phách trong đó mà hổ
ta bỏ mặc, không ăn. Thấy người ehủ của đó cá, hổ
ta nhìn bằng con mắt cầu cứu và hối hận vô cùng.
ông kỵ của chi họ Trịnh Bá liền chắp hai tay trước
ngực, nói như khấn:
- Lạy thần núi Bụt, lạy chúa sơn lâm, tôi xin cứu
ông được tai qua nạn khỏi, chỉ mong từ giờ trở đi
ông đừng lấy cá của tôi, cả vợ chồng con cái tôi
sống nhờ vào cái đó này.
Rồi ông lấy đòn bẩy đá. Hồ bị giập một bên chân,
tập tễnh nhảy lên núi Bụt. Từ đấy ông không bị mất
cá, mà còn được thêm phần. Hôm thì một con cá quả
bằng bụng chân chửa, hôm thì một con cầy hương còn
tươi rói để ngay trên bờ, cạnh đó cá. Hổ đền ơn
đấy. Thế rồi một đêm mưa gió, sấm chớp ầm ầm, ông
sợ đó bị trôi, liên đội nón, khoác áo tơi ra đi.
Chính bộ tơi nón lòe xòe ấy đã dẫn đến sự nhầm lẫn
chết người. Giữa lúc ông đang lúi húi bốc đá chắn
cơn đập để dòng nước chạy thẳng vào đó, thì hổ vằn
cầm một con cheo cheo đến tạ ơn như thường nhật.
Thấy có người, hổ dừng lại. Nhìn bộ tơi áo tùm hụp
với dáng điệu lom khom lục sục đầy vẻ vụng trộm;
tin chắc đấy là một kẻ gian đang ăn hớt tay trên.
Thế là để bảo vệ nguồn sống cho người đã cứu mình,
không một hai suy tính, ngay tắp lự, hố vằn nhảy
chồm lên cái bóng tơi nón ấy! Đến khi lật cái xác
tơi tả, nhìn mặt, ông ba mươi bỗng lăn lộn, đập đầu
vào đá, rống lên gào thét về sự nhầm lẫn không
sao cứu vãn được của mình. Thế rồi hổ cõng xác con
người xấu số đến một gốc cây gạo, dùng móng vuốt
cào đất thành hố, đặt xác ông đơm cá xuống đó.
Sáng hôm sau mối đùn lên thành một nấm mộ, vuông
vức như đắp. Dạo ấy có một người thợ săn được chứng
kiến, liền ba ngày sau đó, cứ đến nửa đêm hổ thọt
lại cầm một con cá đến trước mộ, rồi đập đuôi bình
bịch xuống đất, dựng đứng người đi bằng hai chân
sau đến phía đầu mộ, miệng tru lên thống thiết về
lỗi ìâm của mình. Gào thét đến xé họng một hồi,
rồi hổ ta cúi đầu tập tễnh bước đi rũ rượi đến chán
ngán cả chính mình. Ngồi bên này, người thợ săn
tắt đèn ló, buông khẩu súng hai nòng, rồi bỏ con
mồi như bỏ cục vàng đã nắm trong tầm tay. ông cũng
thừ người ra trước nỗi lòng của anh thú dữ tưởng chỉ
biết có cắn xé! Chi họ Trịnh Bá làm lăn phất lên
như diều từ đấy.
Theo lời thầy tướng, đó là sự đền bù, sự phù trừ
của Hổ thần. Chi họ Trình Bá thờ loài thú dữ nhất
nhì của sơn lâm từ đấy.
Đến đời bố ông Hàm đã làm được nhà gỗ, mua được
ruộng thượng đẳng điền. Trong chuồng rậm rịch lợn
đàn, trâu nái. Thế rồi tất cả lại gần như về số
không khi có cuộc tranh đua ném tiền ra mua cái
chức lý trưởng. Đâm lao theo lao, lợn sề trâu
nái, ruộng sâu giữa đồng cứ lần lượt chống gậy ra
đi, mà cái chức lý trưởng lại về tay Vũ Đình Đại.
Lúc ấy ông Hàm chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ
đi cầm tràng đục kiếm ăn. Nhà chỉ còn cái vỏ. Bố
ông Hàm - Trịnh Bá Hoành lại cày sâu cuốc bẫm để
dựng lại cơ đồ. Miếng ăn giữa làng hơn sàng xó
bếp. Những lúc rượu vào, ông trừng trừng cặp mắt
vằn những tia đỏ, miệng lẩm bẩm: Ta không có vòng
bạc, xà tích, không đủ bạc trắng để chạy nên thua.
Rồi ông rít lên, nhưng tao chưa chịu đâu? Chưa
chịu đâu!
Cũng may thời thế chuyển vần. Lý trưởng Vũ Đình
Đại chưa kịp ăn lộc thì cách mạng đã đến. Gió nổi
can qua, Vũ Đình Đại bán vội con ngựa vừa mua,
mới nhoong nhoong được dăm lần lên phủ, chưa kịp
ngấm cái sướng của anh đầu gà hơn đít voi, thì đã
bán ngựa tậu trâu để trở lại làm anh dân thường.
Trịnh Bá Hoành mổ chó ăn mừng!
Ngày ấy Hàm chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm hết được
cái cay, cái uất của cha, nên cũng không để tâm
đến sự tranh giành giữa hai họ. Nhưng vài năm sau
đến tuổi lấy vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại
nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà còn sôi sục hơn! ấy
là chuyện về cô Son, vợ Hàm.
Hồi ấy cô Son đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt
đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người
ghẹo một bước.
Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt lá răm
vừa đen vừa sắc của cô. Thế rồi bỗng dưng cả làng
Giếng Chùa đồn ầm lên là Son phải lòng cậu giáo
Phúc, con ông lý Đại (người ta vẫn quen mồm gọi
Đại như thế). Phúc lúc ấy đã học hết sơ học yếu
lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường tư thục
trên phố huyện. Phúc đã một vợ một con, nhưng vẫn
phong tình lắm. Vợ Phúc răng đen hạt na, tóc vấn
trần, người vừa gầy vừa khô. Khô chân gân nhặt,
đắt tiền cũng mua! Nhưng đây là bố mẹ Phúc mua,
chứ Phúc không thích. Được cái chị làm ăn giỏi và
chịu nhịn. Từ nhỏ vợ Phúc đã được bố đẻ răn dạy phận
nhi nữ là Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử. Nên chị nghĩ đàn bà như dây leo
dây cuốn. Nhỏ ở nhà nghe bố, lớn lấy chồng nghe
chồng theo chồng, chồng chết theo con. Ai thế nào
số trời đã định. Vì thế nghe người ta đồn chồng chị
mua khăn mùi xoa, mua lược sửng có cán, mua gương
có hình cô đầm để tặng Son. Chị ức, nhưng sợ chồng
nên lại cười bảo, trò đời đàn ông như cái nơm,
chòm chóp úp cầu may cũng như thả những lời trăng
hoa ỡm ờ, nhưng đâu phải cứ úp là được cá, đâu
phải cứ ghẹo là gái theo!
Rồi người ta lại kháo nhau là ở bờ tường ngoài điếm
canh có cái bài ca dao ca thớt thế này:
Chiều tà dao ná bờ sông
Thấy cái nón trắng thà không thấy người
Ngỡ là có đám chết trôi
Hóa ra trong bụi một đôi tinh tình!
Tính tình là tính tình tinh
Chị Son anh Phúc tính tình bên sông!
Người làm vè còn chỉ rõ nơi tính tình của ổ con
chuồn chuồn là ở chỗ quẹo suối ông Bụt chảy qua
sông Cầu. Không biết ban đêm vợ Phúc có cào cấu
làm tình làm tội Phúc không, chứ bề ngoài chị chỉ
buông một câu: Rõ đồ quạ mổ! Không nhịn được nữa
hay sao mà đâm đầu đi theo người đã có vợ, cho nó
chết!
Nhưng cô Son không chết! Son vẫn lấy chồng có
thách có treo phân miệng tử tế. Hôm cưới cả làng
Giếng Chùa được ăn cỗ nhờn môi. Son lấy anh Hàm,
người không được hào hoa phong nhã như cậu giáo
Phúc. Hàm lại đi tập tễnh, nhưng nhiều hoa tay,
làm cái gì cũng khéo. Hàm đã mê Son từ lâu Son
gặp nhiều khi Hàm đón đường chỉ để hỏi một câu giở
trăng giở đèn vì hai con mắt cứ nhìn Son đờ đẫn
như người say thuốc thì Son biết, nhưng cô dửng
dưng tảng lờ.
Son còn không biết là Hàm đã lén ra tận bờ sông,
chỗ vai cày của suối ông Bụt tiếp giáp với sông
Cầu như bài ca dao đã chỉ dẫn, để xem binh tình hư
thực thế nào. Thì Hàm thấy một đệm lá ở dưới gốc
cây bạc thau rùm ròa như một cái ô che cho hai kẻ
đi ăn vụng. Hàm đã ngồi xuống đấy ức đến phát
khóc. Nhưng Hàm vẫn không bỏ ý định lấy Son làm
vợ. Nghe dân làng đàm tiếu về con gái mình, bố mẹ
Son vừa mắng mỏ chì chiết, vừa canh chừng riết
róng, cứ phấp phỏng như giấu trong nhà một thùng
thuốc súng. Nhằm trúng thời cơ ấy, Hàm giục gia
đình đến hỏi Son, và cuộc gả bán được ngã ngũ thật
chóng vánh.
Ngày cưới, cỗ bàn bày dàn dạt từ trong nhà ra tít
ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp khác, rào
rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn rỗi. Trước giờ
thành nhân của đôi trẻ, ông Trịnh Bá Hoành khăn
áo chỉnh tề, thắp ba nén hương trước bàn thờ. Ông
đứng trước. Vợ chồng Hàm đứng sau. Ông sịt soạt
khấn lầm rầm. Đó là lễ giới thiệu đôi vợ chồng trẻ
với gia tiên, giới thiệu một người khác họ về nhập
tịch làm dâu con chi họ Trình Bá. Vợ chồng Hàm
quỳ lạy rồi lui. Một bà bác cao tuổi nhất họ đã
chờ sẵn. Bà là người được tiếng mát vía về đường
con cái, từng sòn sòn ba năm đôi. Bà eắp chiếc
chiếu mới xuống gian buồng dưới nhà ngang. Căn nhà
này chỉ để cối xay, cối giã và đồ lề của Hàm, bây
giờ dành riêng cho vợ chồng Hàm. Bà phẩy giường,
giũ chiếu, rồi trải ra lấy khước, đoạn quay lại dắt
tay đôi vợ chồng trẻ ngượng ngập líu rfu bước vào
nơi bí ẩn của cõi đời, nơi hứa hẹn những đam mê và
cũng lắm lắm cái đau khổ của kiếp người! Mà đau
khổ thật! Hàm thấy ngay mình là kẻ chậm chân!
Cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước!
Hàm vặn to đèn con, rồi kéo miếng vải xô lót dưới
giường lên, vứt trước mặt Son. Miếng vải còn trắng
tinh, không một dấu vết của sự trinh tiết. Và cuộc
hỏi cung bắt đầu.
Son cuốn chăn quanh người, ngồi co vào góc giường,
nước mắt chảy ngoằn ngoèo trên má, trên cằm, khiến
cho khuôn mặt đẹp mang hình một tấm gương vỡ. Cô
khóc lặng lẽ, không bật ra tiếng, không nói một
lời, như thể người câm. Hàm cứ bặm môi tra hỏi, như
thể đối đáp một mình. Nỗi ghen tức thấy mình bị
Son coi rẻ vẫn âm ỉ lâu nay, giờ càng bùng lên như
lửa bắt dầu. Những tiếng đồn đại, những câu ca
tinh quái móc máy về Son và cái kẻ ấy, lại thức
dậy sôi réo trong người Hàm. Hàm hỏi dồn dập,
tiếng cứ líu lại vì uất hận: Cô nằm với nó mấy lần?
Hả, hả? Nằm ở chỗ nào? Hả, hả? Có đúng quãng vai
cày ở suối ông Bụt không? Hả, hả? Son vẫn lặng
thinh. Hàm nổi cơn lôi đình, giật tung chiếc chăn
trên người Son. Cả cái khỏi ngọc ngà như trứng
bóc, như đá tạc trắng lóa dưới ánh đèn. Nhưng Hàm
chỉ thấy mình bị khinh khi, bị thua thiệt, bị là
người đi sau đổ vỏ cho kẻ ăn ốc! Cả cái khối nõn
nà ấy đã dâng hiến, đã run rẩy mê cuồng trong
vòng tay của kẻ thập thành quen phỗng tay trên!
Và anh thợ mộc đã nổi cơn điên, ứng xử theo đúng
nghề nghiệp; Hàm rút phất tay thước quất hai cái
như trời giáng xuống cặp đùi tròn mịn như bột lọc,
và tiếng Hàm rít trong họng phả hơi rượu vào mặt
Son: Nhìn đường gân ở bụng dưới của mày là tao đã
biết? Ngày mai tao sẽ trả cho bố mẹ mày? Đến nước
ấy thì Son chồm dậy. Mái tóc dài đen mun phủ dọc
tấm thân tràn. Son gạt nước mắt, giọng khô lạnh
rắn
- Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ
cho anh suốt đời. Tôi cắn răng là vì thầy u tôi,
chứ không bao giờ tôi yêu anh? Còn nếu anh chỉ cần
hé răng với ai việc này, tôi sẽ đâm đầu xuống
sông tự vẫn. Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết
theo!
Hàm buông rời tay thước, đứng như trồng. Rồi bất
thần như một kẻ chiếm đoạt man rợ, Hàm nhảy choàng
tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình
yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại, bỗng
chốc biến Hàm thành một tên có máu sa-đích. Đêm
động phòng có mùi vị địa ngục ấy đã gần bốn mươi
năm nay. Những gì diễn ra đêm ấy chỉ có vợ chồng
Hàm và bốn bức tường biết. Sáng hôm sau bà bác
mát vía dẫn đầu nhà trai đi lại mặt; người ta chỉ
thấy anh Hàm bước tập tễnh vui vẻ như nhún nhảy,
còn Son hai má vẫn đỏ au, đôi mắt nhung nhìn rất
đằm như e lệ. Son cố đi tự nhiên, cố giấu hai con
trạch vẫn lằn đỏ, bỏng rát, vắt cho trên đùi non.
Câu chuyện trong đêm hai người chôn chặt vào nơi
u tối của lòng mình, như cùng giữ lời nguyền sống
để dạ, chết mang đi.
Bây giờ những chuyện xưa lại sống dậy trong ông
Hàm. Như lửa vẫn ủ kín trong trấu, im lìm không
một sợi khói, cứ tưởng đã tắt, nhưng không! Gió đã
thổi cho than ủ bùng lên thành lửa rồi! Ông Hàm
thấy đây là thời cơ tốt nhất để ông ra tay theo
cách riêng của ông. Chỉ ra tay một lần mà đối
phương phải lụi tàn tử gốc đến ngọn!
Đêm.
Bầu trời bùng bìu vá víu trong những đám mây lờm
xờm tựa một tấm da thú nham nhở. Hôm nay là ngày
cùng tháng kiệt, trăng bỏ trốn, chỉ còn những vì
sao yếu ớt bị nuốt trong mây xám. Đêm càng mung
lung, vừa bí hiểm, vừa bồi hồi vẫy gọi. Đêm chở
che và đêm đồng lõa!
Đào đang chạy trong đêm đến chỗ hẹn.
Với Đào, một cô gái hai mươi tuổi, đang được tiếng
là xinh đẹp nhất nhì trong xóm Giếng Chùa này,
lại là người mau mắn cả mồm miệng lẫn chân tay; lại
là cháu bí thư Đảng ủy, lại là con ông Hàm, người
giàu có tiếng, chỉ quanh năm ngồi nhà mà hái ra
tiền, nên đi đến đâu Đào cũng được mời chào, được
nhận những ánh mắt vuốt ve.
Với Đào, không có sự đe dọa nào, kể cả bóng đêm.
Bóng đêm là tấm màn nhung xanh mượt che chở cho
Đào. Mà điểm hẹn đâu phải nơi xa lạ bí hiểm gì. Là
gốc nhãn rùm ra như một cái dù xanh trên con
đường xép nối giữa xóm Giếng Chùa với xóm Mới. Vì
là xóm lập sau khi dân cư quá đông, nên mới gọi
nôm na như vậy. Trên giấy tờ văn bản, người ta gọi
là xóm Đại Thắng, nhưng xem ra dân lại không
thích cái tên mĩ miễu ấy Con đường xép chạy giữa
cánh đồng nối liền hai làng này mới có từ khi hợp
nhất hợp tác xã toàn xã, nghĩa là mới có gần mười
năm nay. Những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn
trồng đã cao quá đầu người. Ban ngày chỉ có người
làm đồng ngồi trú mát khi nắng, chứ trai gái có
cho ăn kẹo cũng không dám đứng ở giữa nơi đồng
trống tô hô này mà liếc nhau đầu mày cuối mắt!
Tình yêu nơi thôn dã vẫn có thói quen thầm lén.
Yêu thầm lén, và lấy nhau xong rồi cũng vẫn thầm
lén. Sự say mê của những cặp vợ chồng được gói
trong những căn buồng tối mò mò, đếm mức dù có mở
thao láo mắt ra cũng bằng thừa! Thành thứ bóng
đêm bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu.
Bóng đêm đang che chở và khuyến khích Đào. Đào
đang chạy gần đến gốc nhãn, chạy đến nơi say mê
của lòng mình. Chập tối nay, lúc Đào đang nấu
cơm, thì bỗng nghe tiếng Tùng chào ông Hàm rất to
ngoài cổng:
- Bác tưới cây ạ? Bác Thủ có đây không ạ?
Ông Hàm vẫn tưới ròe ròe vào mấy gốc táo Thiện
phiến, nói nho nhỏ gì đó, trong khi Tùng vẫn
oang oang như muốn thông báo cho cả làng biết:
- Vâng, cháu mới đi mua sắn về. Lên Võ Nhai sắn
nhỏ và đắt, thế là phải ngược tận Định Hóa, Bạch
Thông. Cháu đi tìm bác Thủ để cùng bảo quản trị
lên phương án chia cho xã viên.
Đào bỏ cả nồi cơm đang ghế chạy ra sân, và bốn con
mắt tinh quái đã loáng bắt vào nhau như điện.
Tùng chỉ muốn gào lên: Đào! Anh đã về! Đào đọc
được tiếng gọi đó và ánh mắt Đào cũng reo lên trả
lời: Thôi biết rồi, đi đi ông nỡm! Lộ hết bây giờ!
Tối gặp nhau ở gốc nhãn!.
Thế là bản thông báo quan trọng của hai người đã
xong. Cái cớ đi tìm bí thư Đảng ủy của Tùng đã đạt
kết quả mĩ mãn, và vẫn kín mít, đến mức tinh khôn
như ông Hàm mà cũng chịu cứng. Thế mới biết tình
yêu mà đã thông đồng thì chúng có trăm phương
nghìn kế, trời cũng bó tay! Mặc cho ông Hàm lử
khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá
sắn, giá ngô trên mạn ngược thế nào, rồi chào ông
Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về
nhà.
Đào nấu cơm mà hồn vía như bay đi đâu mất. Tay
đang cầm đũa cả, mà mắt cứ nhớn nhác đi tìm đũa
ghế cơm. Đáng nhẽ tra mì chính vào canh, thì lại
cứ tống mãi muối trắng vào! ấy là óc Đào đang
nghĩ làm cách nào để tý nứa đi vắng có lý do.
Không họp hành mà đi nửa đêm mới về là không xong
với cụ via! Và nếu cụ biết lại đi với Tùng thì Đào
đến gọt đâu bôi vôi! Không biết hai họ nhà này có
điều gì mà cú nhau đến thế! Đào không biết những
chuyện sâu xa, cô chỉ nghĩ là Tùng trêu tức vào
ông via cái hôm Tùng mới ở bộ đội về. Ngày ấy cách
đây đã hơn một năm, Tùng hết hạn nghĩa vụ trở về.
Sau mươi hôm thu xếp việc nhà, anh đi tìm Thủ để
nộp giấy sinh hoạt Đảng. Lúe ấy Thủ đang ở bên nhà
ông Hàm.
- Đồng chí nhận một công tác gì để xây dựng quê
hương chứ? - Thủ xem xong giấy giới thiệu, ngửng
lên hỏi Tùng.
Vừa lúc ấy Đào ở trên phố huyện về. Quần bò, áo
phông, lại thêm dáng người ong óng giống mẹ,
trông cô tươi bưởi như vừa ở đám hội bước ra. Vốn
là học sinh trung cấp nông nghiệp của tỉnh, xã
định đào tạo để rồi về làm kỹ thuật viên cho hợp
tác. Nhưng mới học được một năm thì trường giải thể
vì khó khăn về cơ sở vật chất, đông thời bây giờ
người ta không mở hệ trung cấp nữa. Về nhà, nhưng
Đào vẫn có tác phong của một nữ sinh. Nghe tiếng
chào, Tùng quay khẽ gật, và rõ ràng anh bị sửng
sốt về vẻ đẹp khoẻ mạnh, mới mẻ của cô gái, nhưng
Tùng vội quay lại phía Thủ, nói rành rọt:
- Báo cáo đồng chí bí thư, cho tôi nghỉ dăm sáu
tháng nữa để tôi kiến thiết nhà cửa.
Lúc ấy Thủ mới là phó bí thư thường trực, nhưng
ông Đáng hen suyễn đã gần như giao hết quyền cho
Thủ, chắc Tùng đã quen biết, nên cứ một hai gọi
Thủ là bí thư. Hắn tôn trọng thật, hay hắn móc máy
đây?
- Mới có vài năm, mà xóm làng đã ngói hóa đỏ cả
- Tùng tiếp lời: Nhưng mà tôi thì vẫn nhà tranh
vách đất. An cư mới lạc nghiệp. Không có cái nhà
hẳn hoi, mưa gió không yên, mà bà con dân làng
cũng khinh cho!
Lúc ấy ông Hàm mới quay sang bắt chuyện, nhưng mặt
vẫn lạnh khô:
- Nghe nói anh đang đốt gạch, anh định làm mái
bằng hay mái chảy?
- Dạ trước mắt cháu làm nhà bếp và nhà ngang mái
chảy, còn nhà trên hãy thư thư rồi cũng phải cố
theo gương các bác! Rồi Tùng hỏi ông Hàm về công
xá của phần mộc. Cũng nói vanh vách những thượng
thu hạ thách, những kèo kìm chống chéo để bớt được
trụ ra sao. Và anh đã mặc cả công thợ nếu khoán
trắng thì thế này, nếu chủ nhà phải chi một bữa ăn
trưa trong một thời gian thợ làm thì sẽ còn lại
là...
Ông Hàm gật gù:
- Nghe anh nói tôi thấy anh cũng thạo việc đấy.
Thế mấy năm ở bộ đội anh làm gì?
- Dạ, cháu ở bộ binh. Nhưng đến hơn năm nay đơn vị
cháu đi làm kinh tế. Cháu có thẻ ra quân từ năm
kia, nhưng cháu xin được ở lại để chuyển Đảng
chính thức cho xong, kẻo về địa phương lại rắc rối!
Với lại ở đấy học thêm được mấy nghề để về có vốn
liếng sinh sống.
- Sao đồng chí lại nghĩ chưa chuyển Đảng chính
thức thì về địa phương sẽ rắc rối? - Thủ hỏi đã có
ý bực.
Nhưng Tùng vẫn cười cười. Cái cười của hắn như chọc
vào người nghe! Với hai anh em ông Hàm, Tùng có
cách xưng hô rất phân biệt. Với ông Hàm thì bác,
cháu. Còn với Thủ thì cứ đồng chí và tôi. Đào dọn
dẹp quét sân bên ngoài, cứ tủm cười. Nghe nói lão
này mới ngót ba mươi tuổi, nhưng nói năng cứ như
ông cụ non! Ngày ở nhà lão đã học hết phố thông,
làm thư ký đội, làm bí thư chi đoàn, năng nổ và
hoạt bát. Nhưng ngày ấy Đào còn nhỏ và lại ở khác
tổ sản xuất, nên chỉ biết chứ không quen. Nghe
người ta nói từ hôm về đến nay, lão đào đất, đóng
gạch huỳnh huỵch cả ngày cả đêm. Định làm giàu
thành ông địa chủ chắc!
Trong nhà Tùng vẫn vui vẻ trả lời Thủ với giọng
rành rẽ:
- Báo cáo đồng chí bí thư, tôi tự thấy tôi rất
hiểu địa phương ta. Dạo ở nhà tôi đã được thử thách
đến vài ba năm. Kể cả ông cậu của tôi cũng bảo tôi
chưa thể là Đảng viên được vì người ta ít nhìn vào
hiệu suất công việc. Từ ngày tôi đi đến giờ gần
năm năm, mà cả Đảng bộ chỉ kết nạp được hai đảng
viên mới.
Ông Hàm như bỏ ngoài tai chuyện công tác, vẫn hỏi
theo chủ đề của ông:
- Thế anh học được những nghề gì?
- Dạ, đóng gạch và đốt gạch thì cháu đã thạo. Nghề
mộc mới sơ sơ. Ban đêm cháu đi học võ!
- Lại học cả võ nữa?
- Dạ, đơn vị cháu có mấy anh rất giỏi ka-ra-te.
- Anh khá đấy! - Ông Hàm gật gù, mặt vẫn tỉnh khô,
không biết ông khen thật hay khen đùa.
Lát sau Tùng về, bấy giờ ông Hàm mới xổ ra:
- Mới nứt mắt đã cốc láo? Không còn coi ai ra gì!
Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây!
Ró thật ghét của nào trời trao của ấy! Ông Hàm
không thể nào ngờ được con gái rượu của ông lại đi
đầm đầu yêu tháng cốc láo, cái tháng sẽ làm loạn
ấy! Với Đào, chỉ sau mấy buổi đi họp ở xã đoàn, vì
xã yêu cầu những Đảng viên trẻ vẫn tiếp tục cùng
sinh hoạt đoàn, và đi tập dân quân, thì cô chỉ
thấy Tùng rặt những ưu điểm! Cả gương mặt vuông chữ
điền với nước da bánh mật của Tùng, Đào cũng thấy
quanh đây chẳng anh nào ăn đứt? Nếu có cần sửa
chăng là sửa cái mồm. Cứ gáy lên để làm ngứa gan
các ông khốt thì ăn bàn ăn giải gì? Đào đã cắn
vào miệng Tùng, beo vào tai Tùng mà bảo sớm chừa
cái tính ta đây ấy đi. Còn anh chàng cũng có tý
máu khoe khoang, khi ngồi bên Đào thì chỉ là một
chú cừu, cứ rúc mặt vào nách Đào mà nỉ non những
lời sám hối!
Và bây giờ hai người đã quen hơi bén tiếng nhau
có đến dăm tháng, nhưng vẫn phải hoạt động trong
vòng bí mật, chưa thể công khai được! Đào đang
nghĩ cách, thì vừa lúc cái Hoa đi học về: Đào bảo
nó như dỗ dành:
- Chị nấu cơm sắp chín rồi, Hoa sang chị Minh bảo
lúc nữa chị ấy ăn cơm xong, sang đây chị nhắn cái
này nhá. Đi đi, rồi gọi u ở ngoài bãi chè về ăn
cơm.
Buồi tối Minh sang, rúc rích một lúc, khi chiếc
đông hồ Ô-đô gõ bình boong chín tiếng, thì lòng
Đào nóng như lửa đốt. Việc này thì chưa thể nói
với cái con ruột ngựa này. Mãi đến chín rưỡi Minh
mới về. Đào dặn nhỏ bà Son: U cứ để cồng, tý nữa về
con đóng. Rồi hai cô dắt nhau đi, làm như cùng
chung một đường. Ra tới cổng, Đào bảo bạn: Mày về
nhá, tao đến nhà chú Thủ có tý việc.
Rồi Đào đi. Rồi Đào chạy. Một tay giữ vạt áo một
tay giữ ngực, động tác của người con gái có ý, dù
đêm khuya không một bóng người. Con đường dẫn ra
đồng Tròn, nơi có gốc nhãn hẹn hò mấp mô sống
trâu. Lại tối, Đào cứ như chạy trong mơ. Lúa hai
bên ruộng ngả sang tê đường, quét rào rào vào ống
quần. Châu chấu phóng càng bay tanh tách, đạp cả
những bộ chân ráp như chấu vào má, vào cổ Đào.
Đào vẫn chạy dần, ngực đập thình thịch. Cây nhãn
đã hiện ra, mờ mờ rùm ra như một người đứng xõa
tóc trong đêm. Tới gần, Đào dừng bước, cứ tưởng
Tùng từ gốc cây sẽ lao bổ ra ôm chầm lấy Đào như
mọi khi. Nhưng đến tận nơi mà không thấy gì. Chỉ
có gốc nhãn đứng chơ vơ một mình. Sao thế này? Hay
là Tùng ra chờ lâu quá đã về rồi? Hay Tùng bận
phải trông xe sắn nên không đến? Không, chưa bao
giờ Tùng lỡ hẹn cả. Có hôm mưa Tùng còn khoác áo
mưa thì không có gì quan trọng bằng gặp Đào. Mà
lần này đã năm ngày không gặp nhau rồi còn gì.
Đào ngồi xuống cái rể cây đội gồ lên, thở. Bực,
Đào đã thấy bực. Để người ta chạy hộc tốc, rồi bây
giờ đứng ôm gốc cây một mình như con dở thế này
đây! Phen này thì phải cắt cầu vài ngày nữa mới
được! Cho chết?
Bỗng có tiếng cú rúc đâu rất gần. Đào rùng mình
nghiêng ngó, thì ngay trên ngọn cây, tiếng Cú!
Cú! lại vang lên lẫn tiếng người cười! Đào vừa kêu
ớ định vùng chạy, thì con cú đã từ trên cành nhảy
đánh rào như ném mình xuống, và bằng động tác của
con đại bàng cắp nàng công chúa trong truyện cổ,
Đào bị hai cánh tay rắn chắc ôm trùm lấy, nhấc
bổng lên, quay tròn một vòng. Đào nhận ra tiếng
cười, mùi mồ hôi và những cái xoắn từ những ngón
tay của người con trai như muốn lặn vào da thịt
mình. Bởi những động tác ấy đã quen thuộc với Đào
lắm. Bởi hai người đã qua giai đoạn thả lời ướm ý.
Đào ngã lịm vào ngực người yêu. Vòng tay lên ôm
lấy cổ Tùng, miệng cắn vào bả vai Tùng, giọng rên
lên sung sướng đến nức nở:
- Chết đi! Làm người ta cứ tưởng mình bỏ về rồi!
Tùng áp miệng vào tai Đào gọi liến láu như một gã
điên:
- Đào ơi em Đào ơi, chị Đào ơi, bà Đào ơi, cụ Đào
ơi! Có nhớ anh không?
Vừa liến láu, Tùng vừa xoay người lại, nâng mặt cô
lên, nhìn sát vào khuôn mặt hình bầu dục với hai
má tròn đầy, cặp mắt mở lim dim. Đào nằm cuộn
trong lòng Tùng, hai tay vẫn ôm chặt lấy cổ. Tùng
cà cà cái cằm ram ráp những chân râu lên khắp
khuôn mặt Đào, rồi cà xuống cổ, cà xuống bộ ngực
đã mở cúc căng đầy mịn màng khiến Đào rùng mình
rướn cong người lên, miệng càng rên se sẽ, đầu óc
loạn xạ, không còn biết nên chống đỡ hay nên
buông thả. Tùng thì hoàn toàn mê mẩn, lòng chỉ
còn sôi réo đòi hỏi. Bàn tay khao khát lần tìm
những nơi sâu kín trên cơ thể chắc mẩy, nuột nà,
rừng rực sức trẻ của người yêu. Bỗng Đào kêu giật
giọng. Không hiểu sao những lúc này người tỉnh
táo, cảnh giác được xung quanh bao giờ cũng là nữ
giới, là đàn bà chứ không phải là đàn ông. Đàn
ông lúc này chỉ còn biết có chết!
- Có người! - Đào kêu hốt hoảng.
Tùng vẫn còn chưa tỉnh cơn mê. Cả mũi, cả miệng vẫn
đang thở hít hà cái mùi ngầy ngậy hôi hổi của da
thịt con gái, thì Đào kéo cổ áo, gỡ Tùng ra, ngồi
vùng dậy cuống quít:
- Họ đi lại đây! Tùng ngẩng lên. Đúng là lờ mờ có
mấy bóng người đang từ trên đường chính đi xuống,
và họ sẽ đi qua đây thật!
- Chạy, anh!
- Không, lên cây!
Khi mấy bóng người vừa đi khuất xuống hủm, thì
Tùng đã đu người chạc lên cây nhãn, rồi kéo tay
Đào lên. Nhưng Đào lóng ngóng như đã sắp khóc.
- Em không trèo được!
Tùng nhảy xuống, đội Đào ngồi lên cổ. Đào vừa bíu
được vào cành nhãn, Tùng đã đu người lên, rồi kéo
Đào ngã ngồi xuống mấy chạc cây xòe ngang như một
cái sàn. Tùng gỡ lá gài cho kín phía dưới, rồi
một tay bíu cành, một tay ôm chặt ngang người Đào
nóng rừng rực và trẹo trọ như muốn ngã. Mấy bóng
người đã hiện ra ở đầu ruộng. Một, hai, ba, bốn.
Tùng bỗng rùng mình, rồi thì thào rất sẽ:
- ồ, thầy!
Đào nhắm mắt, rúc mặt vào ngực Tùng, người run lẩy
bẩy, tiếng cũng run lấy bẩy:
- Thầy em?
Tùng bịt miệng Đào. Cả hai cùng run như dẽ. Trống
ngực người này đập, người kia nghe rõ, cứ thình
thịch như đập đất bên tai!
Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông
Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác cuốc. Rồi ưởng, rồi
Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc
bá bất trị của Đào. Một tay của ưởng xách cái gì
như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng là ông
Thó, sao ông Thó lại như con gà lạc đàn vào đây?
Trên vai, trên tay người nào cũng cuốc và xẻng.
Tất cả cùng lặng phắc, cắm cúi đi rất nhanh. Rồi
họ đi sát vào gốc nhãn. Mùi người, mùi mồ hôi
thoang thoảng tỏa lên. Trên cây, tim hai người
đến ngừng đập. Khi những bước chân lạt sạt nghe đã
đuối mờ, Tùng và Đào cùng se sẽ thở hắt ra một hơi
dài.
Đào hỏi giọng giống như người ốm:
- Có những ai hả anh? Họ đi đâu?
Tùng nhảy xuống, nghểnh eổ nhìn theo hút mấy bóng
người. Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất
sau những bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang
sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi đâu? Trên ấy
không còn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma
của làng ở đấy! Ông Phúc vừa chôn cụ Cố ở đấy! Đó
là ông ngoại của Tùng. Một tia lạnh bỗng chạy dọe
người Tùng. Chả nhẽ lại là... Tùng rùng mình,
không dám nghĩ nữa.
Đào bíu vào cổ Tùng đu xuống, rồi theo lệ Tùng
đưa Đào về. Hai người lại ôm nhau đi tắt qua những
bờ ruộng mấp mô. Cả hai cùng yên lặng, không vừa
đi vừa cấu chí cười rúc rích như mọi khi. Đào nói
thầm thì:
- Thảo nào lúc nãy ra ngõ em gặp ông Thó với anh
ưởng, anh Ngạc đến tìm bố em. Anh đoán họ rủ bố em
đi đâu?
Tùng sững người, tý nữa thì kêu a. Thế là vô tình
Đào đã giao chiếc chìa khóa của sự bí mật cho
người yêu. Hỡi Mỵ Châu công chúa! Đây là người con
gái thứ bao nhiêu đã vì con tim yêu bồng bột mà
đi theo bước sai lầm của Người? Vì yêu nàng đã mở
hết những bí mật của vua cha cho người tinh của
mình. Người đời vẫn nói yêu là đui, là mù, thật
bao giờ cũng đúng vậy thay!
Thế thì đúng rồi, không phải họ rủ, mà chính bố cô
rủ họ? Tùng thầm kêu lên như vậy. Bàn tay đang ôm
eo Đào bỗng lỏng rời ra. Nhưng Đào không để ý. Đến
chỗ rẽ, Tùng chỉ ôm Đào xiết vào ngực chứ không
cắn cấu cuồng nhiệt như mọi khi.
- Tám giờ tối mai lại ra đây nhé - Tùng dặn.
Đào đồng ý bằng cách cắn vào ngực Tùng, rồi biến
vào rặng tre tối thẫm đang kẽo kẹt trong gió,
miệng lại hát se sẽ nữa. Tùng đứng một mình một
lúc để ngẫm nghĩ, rồi quay đầu chạy hối hả về xóm
Mới. Bà Sang đã ngủ được một giấc đầy, bỗng nghe
Tùng mở cứa ken két, rồi gọi giật giọng:
- U ơi! Dậy ngay có việc cần!
Bà Sang nói giọng khê nặc trong chiếc màn nhuộm
nâu:
- Việc gì đêm hôm này? Gọi cái Mai, thằng Tú dậy
thì sao.
Tùng vừa xập xèo đánh diêm, vừa nói hào hển như sợ
ai cướp lời:
- Con đã bảo U dậy có việc. Cái Mai, thằng Tú
không thể để cho chúng nó biết được.
Bà Sang vừa dụi mắt bước ra, thì Tùng đến gần bà
nói từng tiếng một đầy hệ trọng:
- U đến nhà cậu Phúc nói cậu ấy phải ra ngay đồi
Sim, chỗ vừa đặt mộ ông. Ngoài ấy đang có chuyện
không lành!
Bà Sang tỉnh ngủ hẳn, bủn rủn cả người, dụi mắt
nhìn Tùng như người bị ma ám đồng nhập.
- Chuyện gì? Thế sao mày không đến nói với cậu?
Con không đi được. Con đi là hỏng hết việc. U cứ
nói với cậu là U nằm ngủ được báo mộng ngoài ấy có
chuyện? Bảo cậu phải gọi thêm người, không được đi
một mình. Nếu cậu có hỏi thì u bảo con thưa về.
Bà Sang cuống quít tìm cây gậy hèo, lấy đèn pin,
rồi bước lập cập đến nhà ông Phúc. Ra đến sân bà
còn ngoái lại nhìn Tùng như nhìn một người lạ vừa
mang họa đến nhà! Còn lại một mình, Tùng đi đi
lại lại, suốt hai gian nhà ngoài, vơ vẩn như một
kẻ mộng du, rồi đến nằm vật xuống giường, miệng
thầm kêu lên: Thế là lúc chúng ta phải đối đầu với
họ rồi!.
Chính lúc này, ở đồi Sim.
Ông Hàm đi trước dừng lại. Ba người bước lạt sạt
qua những bụi mua phía sau dừng theo. Sương thấm
lạnh vào những ống chân. Ngôi mộ cụ Cố họ Vũ đã ở
trước mặt. Chiếc nhà táng đặt trên chốc mộ chỉ còn
lại bộ khung tre. Lớp giấy vang tróc ra, rách lùa
tủa, gió thổi bay lật phật. Những vòng hoa xếp kín
xung quanh hôm trước, nay trẻ trâu đã mang nghịch
vung vãi. Ngôi mộ nằm dài im lìm, đen sẫm trong
đêm. Trời bận mây, che nốt cả thứ ánh sáng nhợt
nhòa của những vì sao yếu ớt. Đêm càng tối. Đêm
giấu trong mình những việc làm của người đời mà
ban ngày họ không đủ gan làm. Đêm đồng lõa!
Ông Hàm đứng im nhìn ngôi mộ. Nó! Chính nó đây!
Đối thủ của ông? Một đối thủ tay không vũ khí, vậy
mà ông bỗng khẽ rùng mình. Thó và hai người cháu
bất trị của ông Hàm đi nhẹ như nhón gót, sột soạt
đến sát bên ông. ưởng vuốt lại mái tóc gần chờm
vai, thở phì phì như con trâu dái sắp sửa lao vào
cuộc. ưởng và Ngạc từng có nhiều thành tích bất
hảo, đã đón đường đánh cả thấy giáo vì không cho
chúng lên lớp vì học quá dốt. Đánh nhau ở bãi
chiếu bóng, đánh nhau ở giữa chợ. Cũng có nhiều
phen bò lê bò càng, bố mẹ phải bán cả lợn nái, và
đàn lợn giống để mua mật gấu bóp mới khỏi, nhưng
rồi chứng nào tật ấy. ưởng đi lính chưa được một
năm, thì bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật.
- Tất cả đứng sau tôi - ông Hàm nói khe khẽ - Chú
Thó chuẩn bị sẵn hương với diêm, lúc nào tôi bảo
hẵng châm.
- Em cầm sẵn đây rồi - Thó nói run run.
Bốn người đứng hàng dọc theo mộ, cuốc xẻng chống
bên người, rất sẵn sàng xông vào trận. Ông Hàm
bước lên một bước, ngang đầu mộ, đầu khẽ quay về
sau, bảo Thó:
- Chú Thó đốt ba nén hương.
Thó lật đật đánh lửa, châm ba nén hương. Ông Hàm
với tay lại cầm, rồi huơ lên một vòng đỏ. Đoạn ông
cầm hai tay, đưa thẳng ra phía trước. Chân đứng
hơi khuỳnh như lên tấn, miệng sịt soạt hít vào dọn
giọng, rồi bắt đầu đọc bài khấn:
Lạy thần Thành hoàng
Lạy ông Tiên chỉ
Lạy ngài Quan âm chốn niết bàn
Lạy bà Bồ tát nơi âm phủ
Nay con xin tâu rằng :
Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay
từng thay đen đổi trắng, từng buôn quạ bán diều,
buôn rết bán rắn, gây nhiều tai oán với họ Trình
nhà con. Chúng chiếm ruộng nương gia sản, chiếm
tình chiếm nghĩa, xui khiến họ Trịnh sớm hôm lục
đục, lửa ít khói nhiều, bức bối toàn gia! Nay đến
lúc gặp ơn đền ơn, gieo oán trả oán, Ô hô hô!
Ông Hàm lại huơ ba nén hương thành một vòng tròn.
Những lời vừa đọc đã kích thích ông. Mối thù được
khơi lại. Máu bừng sôi. Ông e hèm, rồi cao giọng
tuyên án:
- Lạy thần Thành hoàng, giờ con xin được cải mả,
lật sấp thi thể chi họ Vũ Đình xuống, để đưa quả
báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu:
Ba đời tuyệt tự
Hữu nữ vô nam
Hữu sinh vô dưỡng
Gái thì đẻ ngược
Giai chết không mồ
Đứa ngã xứ Đoài
Đứa vùi xứ Đông
Đứa sống chạy rông
Quanh năng khốn khó
Trồng rau ra cỏ
Cấy lúa ra lau
Trồng trầu hóa tiêu
Gieo cà ra ớt
Long đong lật đật
Hệt đường sinh nhai
Ô hô hô!
Vừa dứt, ông Hàm quay sang tung ba nén hương lên
mộ, rồi cầm can róc rượu vào chén vẩy xuống theo.
Ông vẩy ba chén liền xuống mộ, rồi dằn giọng hạ
lệnh như dao chém đá:
- Đào!
Miệng nói tay làm, Hàm vớ ngay lấy cuốc đẩy chiếc
khung nhà táng xuống, giận dữ như đẩy nhào một đối
thủ bằng xương bằng thịt. Rồi Hàm bổ nhát cuốc
xuống đỉnh mộ như hạ một lời tuyên chiến. ưởng và
Ngạc nhảy bổ vào như hai thằng thiên lôi lành
nghề, phóng lưỡi xẻng vào bờ thành ngôi mộ, hất
đất xuống rào rào, Thó lóng ngóng gạt đất phía
sau.
Đêm càng đen kịt. Đen như chính lòng người!
Trong chốc lát phần nổi của ngôi mộ đã bị phá
tung. Đã có những hơi thở ậm è vì quá hộc tốc, Hàm
vẫn là người đâu tiên cuốc xuống phần âm của ngôi
mộ. Hâu như Hàm không biết mệt, cứ lầm lì và quả
quyết như một gã phá huyệt chuyên nghề! Trong
lòng Hàm vừa căm giận, vừa hả hê. Lão dồn sức vào
cán cuốc, hất tung đất lên như hất nỗi u uất bao
lâu nay từ chính lòng mình.
Thó đang lúi húi cào đất phía trên bờ huyệt, bỗng
kêu giật giọng kinh hoàng:
- Có người!
Ngay lập tức tiếng Vũ Đình Phúc, trưởng chi họ Vũ
Đình vang lên phía sau như một tiếng sét:
- Tất cả đứng im! Thằng nào chạy tao bắn!
Rồi để cho lời nói có hiệu lực, Phúc cao giọng ra
lệnh cho người em rể, chồng bà Lộc, một cán bộ mới
về hưu, chiều nào cũng khoác súng săn đi bắn gà
gô, chim gáy:
- Chú Tính lên đạn, thằng nào chạy bắn què!
Cả Hàm, ưởng, Ngạc và Thó cùng đứng cứng người như
bốn cái cọc cắm xuống đất. Ông Phúc đi lại, cúi
xuống nhìn mộ bố đã bị phá tan. Phúc gầm lên:
- Quân khốn nạn! Quân tán tận lương tâm. Quân...
Thó bỗng vứt cuốc, chạy lại bên Phúc, nức nở:
- Bác Phúc ơi, bác tha cho em! Em không muốn,
nhưng bị người ta bắt đi. Bác Phúc ơi, bác hiểu
cho em!
Phúc định hét lên, nhưng một sự tính toán đã đến
rất nhanh. Phải biết lôi kéo, phải biết phân hóa,
phải biết nhằm vào mục tiêu chính. Phúc hắng
giọng, dõng dạc:
- Chú Thó, tôi biết chú bị mua chuộc, bị ép buộc.
Tôi không chấp chú. Chú đứng sang bên này. Chú
sẽ là người làm chứng. Còn ba người nhà này đứng
yên, động đậy tao bắn! Rồi Phúc quay sang thằng
cháu con bà Tài cao như một cái sào đứng bên
cạnh, nói lớn:
- Thằng Quyền về báo động, khua cả làng ra đây!
Gọi cả thằng Thủ ra đây! Chú Quỳ sang bãi chè nhà
tôi vơ hết guộc lại để đốt. Phải cho cả làng Giếng
Chùa thấy việc làm của chúng nó! Phen này cả làng
sẽ thấy chúng nó quỳ lạy dưới chân tao! Thằng Thủ
cũng phải quỳ lạy dưới chần tao! Quảng, đốt lửa
lên!
Tiếng chân chạy rầm ráp, rào rào. Khi ngọn lửa
bùng vào đống guộc khô; gặp gió, lửa reo ù ù phần
phật, sáng hửng cả vùng đồi, quét dạt những dải
sương bay vật vờ, thì Hàm hực lên một tiếng, nhảy
bổ vào Phúc!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Sáu - VN thu quan
Tối nay bí thư Đảng uỷ Trình Bá Thủ có cuộc đánh
chén ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.
Nhà Sửu ở xóm Trại, khuất lảnh ngoài vùng đồi. Đây
là xóm của bà con dưới Nam Định, Thái Bình lên
khai hoang từ những năm sáu mươi. Mặc dù cũng ăn
nên làm ra, con cái đi bộ đội, đi thoát ly,
nhiều người trở thành cán bộ đảng viên rất chững
chạc, nhưng trong thâm tâm của mọi người, xóm trại
vẫn là xóm của dân ngụ cư, dù thế nào cũng không
thể là cái xương sống của xã. Hồi chiến tranh phá
hoại, đã có một dạo bí thư Đảng uỷ xã là người của
xóm Trại. Dịp ấy có năm thanh niên của Giếng Chùa
nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành
quân vào nam. Tới khu 4 thì bị máy bay oanh tạc,
cả đại đội gần như bị xoá sổ. Năm người Giếng Chùa
thì chết ba. Hai người còn lại hoảng quá, liền
đằng sau quay đi nước mã hồi phóng thắng về nhà.
Ngày ấy chủ tịch và xã đội trưởng đều là người của
Giọng Chùa, nể nả định lờ đi. Nhưng bí thư Đảng uỷ
đã chỉ thị cho phó chủ tịch kiêm trưởng ban công an
phải gọi hai người thanh niên kia lên và đã xử
trí đúng như xử trí những quân nhân đào ngũ, tức
là đi làm lao công cho xã. Thôi thì thượng vàng
hạ cám, từ rẫy cỏ quanh nhà uỷ ban, ngào đất trát
tường cửa hàng mua bán xã, đến xe gạch xe vôi từ
trên phố huyện về làm nhà tắm, làm hố tiêu hố tiểu
công cộng. Xã không thiếu việc. Cứ cơm nhà việc
xã. Ngày ngày trưởng ban công an đích thị đôn đốc
kiểm tra, còn việc thì bí thư Đảng uỷ sẽ nghĩ ra,
vẽ ra, làm đến quanh năm không hết. Lúc ấy có một
trợ lý quân lực của tỉnh đội là người của Giếng
Chùa đã ra tay cứu danh dự cho làng mình bằng
cách khuyên hai chiến sĩ báo cáo xã xin trở lại
đơn vị. Thế rồi khi lên tỉnh, và không biết bằng
cách nào, hai anh lính ấy đã biên chế về một đơn
vị của tỉnh đội. Cuối năm ấy đại hội Đảng bộ, bí thư
Đảng uỷ mất phiếu tới mức chỉ còn là một đảng viên
thường. Rồi llên đó có đợt kiểm tra Đảng, đồng chí
bí thư cũ bị một phen cuống cà kê lên khi bỗng có
dư luận là chuyện vào Đảng của anh không rõ ràng?
Lý lịch chưa khai hết những chỗ khúc mắc, còn hai
người giới thiệu thì đều dinh tê vào Nam năm
1954! Anh đã phải chạy đi chạy lại về quê gốc ở
mãi dưới vùng biển mất dăm lượt mới lấy đủ giấy tờ
chứng thực anh là đảng viên chính hiệu! Thật hú
vía! Phải chống đỡ lao đao, mà lại không biết ai
là đối thủ chính. Bởi tất cả đối với anh vẫn rất
thân tình vui vẻ. Khi họp hành không ai lên
giọng bới móc chỉ trích gì, mà chỉ nhỏ nhẻ Đề nghị
đồng chí giải thích cho cái chỗ ông cụ bên vợ có
đúng là đã tham gia Quốc dân đảng không? Còn hai
người giới thiệu thì lý do gì lại chạy vào nhà thờ
để đi Nam với một số giáo dân? Tất nhiên để bảo
đảm lời nói đông chí là đúng, thì phải có chứng
thực! Thế là đủ giết nhau không gươm giáo! Mà thái
độ vẫn cứ ngọt ngào, vẫn êm như ru! Chỉ bên ngoài
dân chúng mới có lời nhắn tin rằng: Đất có thổ
công, sông có hà bá, thành hoàng vùng này chưa
đến nỗi mạt vận phải chuyển bài vị sang dân ngụ cư
xóm Trại.
Từ đấy dân xóm Trại nhìn những người quê gốc ở đây
cứ chờn chợn, thấy như họ tiềm ẩn một cái gì thật
vô hình, mà lại có ma lực biến hoá khôn lường. Tốt
nhất hãy chăm lo làm giàu. Nếu trong những cuộc
bầu bán nếu ai có thắng phiếu, thì khôn ngoan chỉ
xin lận làm cấp phó thôi, chớ dại tranh phần chiếu
trên của dân bản xứ mà rồi có lúc tự mang dây buộc
mình! Người xóm trại bảo nhau như vậy.
Lần này Trần Văn Sửu trúng ghế chủ tịch, mà có
người đã nói là ông Sửu trúng sổ xổ, là bởi Trịnh
Bá Thủ thấy cùng một lúc bên cánh nhà ông Phúc
có đến ba đảng viên nối theo nhau nhảy dù về xã.
Hai người em rể ông Phúc là chồng bà Lộc, bà Tài.
Một người làm quản đốc trên Khu gang thép, một là
cán bộ tuyên huấn lâu năm ở nông trường bò sữa
cùng về hưu trong một tháng. Rồi Tùng, con bà
Sang một thượng sĩ như trâu tơ ngứa sửng. Cả ba
đảng viên đều kết nạp ở nơi khác, thế tức là họ
không chịu ơn chịu nghĩa gì ở đây. Anh nào cũng có
sỏi trong đầu! Phải nhanh chóng hùn vào cho Sửu
người đứng đầu xóm Trại, đang là thường trực uỷ ban
xưa nay tôn trọng Thủ đến kính nề. Và để không bị
mang tiếng là hẹp hòi, bè phái, chính Thủ đã đề
xuất ý kiến khi họp với chi bộ Giếng Chùa nên đề
cử Tùng vào danh sách bầu Đảng uỷ mới, bởi Thủ
thấy Tùng dám phê bình ông Phúc cả trong cuộc
họp. Ngày Tùng chưa đi bộ đội, ông Phúc đã nhận
xét về Tùng khi duyệt danh sách đối tượng là còn
thiếu chín chắn, còn lớp cớp! Vậy thì phải triệt
để lợi dụng ngay mối bất hoà ở trong dòng họ Vũ
Đình này, chứ không thể trông chờ vào hai đảng
viên già đời là chồng bà Lộc, bà Tài. Thủ đã giới
thiệu Tùng khi họp toàn đảng bộ như là một nhân tố
ga-ne-pho nhiều sức bật. Nhưng tất nhiên khi bỏ
phiếu thì anh gạch tên Tùng đầu tiên! Tùng sao
lại có thể ngồi cùng chiếu với mình được! Đến khi
Tùng trúng cử với số phiếu vừa phải, nhưng đã là
nỗi sửng sốt đối với Thủ. Còn Trần Văn Sửu thì
trúng khá cao, bởi hai phe mạnh nhất chống nhau,
thì người đứng giữa dễ dàng hưởng lộc. Lại phải làm
cuộc vận động nữa để Sửu trúng cao trong cuộc bầu
cử hội đông nhân dân. Đến khi Sửu ngồi được vào
ghế chủ tịch rồi, thì không riêng Sửu mà cả xóm
trại đều biết công lao to lớn của Trịnh Bá Thủ. Vậy
là Thủ đã đạt được ý định không để chức chủ tịch rơi
vào phe cánh chi họ Vũ Đình, đồng thời với Sửu,
Thủ như người ơn mưa móc, anh có thể hoàn toàn lái
theo mình.
Hôm nay vợ chồng Sửu cúng giỗ bố vợ, vì bên nhà vợ
Sửu không có con trai. Làm từ trưa. Ngả một chú
vện gần chục ký. Cả ban thường vụ kéo đến chén chú
chén anh từ mười một giờ cho tới quá ngọ. Thủ cáo
lỗi trưa này bận, hẹn tối sẽ đến thắp nén hương để
tưởng nhớ cụ. Đó là ý định của Thủ, chứ thực ra anh
không bận gì. Vì buổi tối ông Hàm đi làm cái việc
ấy nên Thủ muốn vắng mặt ở nhà. Đến nơi nào càng
đông người càng hay. Để nếu có sự cố gì, thì nhiêu
người chứng giám là Thủ không liên quan, không
biết tí gì.
Buổi chiều đạp xe lên xã, Thủ đi qua cổng nhà ông
Hàm, thấy ông đang kỳ cạch chữa xe cải tiến để vài
hôm nữa là gạt chiêm. Thủ vẫn ngồi trên xe, chống
chân xuống hỏi nhỏ:
- Tối nay bát vẫn làm cái ấy chứ?.
- Thì vẫn! - ông Hàm tiếp tục đục canh cách không
ngửng lên, cũng trả lời vừa đủ nghe.
Thủ đạp xe đi ngay. Buổi chiều, hết giờ làm việc ở
trên xã, Thủ còn thong thả chán. Hết sang trạm
xá, lại sang khu nội trú các giáo viên trường cấp
I, II. ở đấy có đến ba cô giáo đã ngoài tuổi băm
mà vẫn chưa chồng. Mỗi ìần gặp đồng chí bí thư cao
ráo xởi lởi, là đôi bên chuyện trò không dứt.
Thấy khói từ túp nhà bếp nhỏ như cái quán chợ bốc
lên nghi ngút. Thủ nói gióng từ ngoài:
- Ba cô đội gạo lên chùa! Cho xin bát cơm bát
cháo đây!
Có tiếng bấm nhau, rồi một giọng vóng vót:
- Có gạo mà đội đã tốt! ở đây là ba cô hết gạo lên
chùa, một cô má thắm bắt đền bí thư!
Những tiếng cười ré như bị cù. Rồi vẫn cô gái mồm
miệng như tép nhảy gạt khói chui ra. Mặt tròn
người óng lẳn được lắm! Chỉ phải cái miệng rộng
quá, cứ như miệng một gã đàn ông phàm tục đặt thâm
vào. Chắc cánh con trai sợ vía cái miệng áy!
- Bây giờ nói nghiêm chỉnh với bí thư nhé, chúng
em sắp đội nón chống gậy sang uỷ ban ăn xin đấy?
Có cái mái nhà bị thủng, đã kêu đến tỉ lần mà xã
vẫn không dọi cho. Đêm hôm kia mưa dột như sảo,
chúng em phải dậy ngồi quàng áo mưa. Đấy, xã bảo
thương mấy cô trưởng ban phòng không, thương thế
thì cái xương chả còn!
Thủ dừng lại trước cửa, nhe bộ răng trắng bóng ra
cười, nói ỡm ờ:
- Ai bảo kén cho lắm vào còn kêu!
Thế là nói cười càng ồn ĩ, đối đáp ráo riết. Cứ
xem cung cách nói năng như chém chả, nhưng lại
với thái độ vui vẻ, ánh mắt đôi bên ngắm nhìn
nhau rất bạo dạn thân ái, là đủ biết là đồng chí
bí thư đảng uỷ và ba cô gái sống độc thân ở đây
quen biết nhau đến mức nào.
Thủ còn chuyện trò con cà con kê một lúc lâu.
Mâm cỗ đậy lồng bàn để cạnh. Thủ bước tới bắt tay
người anh họ vợ Sửu khiến ông nông dân chuyên nghề
thợ đấu lúng túng với cách chào hỏi mà ông cho là
phù phiếm này. Vào bàn thờ trong nhà thắp ba nén
hương trước bức ảnh truyền thần một ông già gân
guốc cắt đầu móng lừa, vừa quay ra Sửu đã kéo Thủ
ngồi xuống chiếu. Còn nguyên vẹn một mâm đầy. với
đủ các món ăn. Thủ gọi với xuống bếp:
- Bà chủ đâu rồi?
Thủ chưa dứt lời, vợ Sửu đã từ nhà dưới cầm cây đèn
toạ đăng đi lên đon đả, tiếng người đồng bãi trồng
đay vẫn giữ nguyên pha tạp. Nghĩa là phát âm rất
ngọng:
- Giờ bác mới sang. Bác Hợi với bố cháu mong bác
từ trưa. Hôm nay em sắp cơm canh quấy quá nhớ cụ
cháu. Nuôi được con cày béo quá, mà mấy anh em
thợ vụng nàm hỏng mất bộ nòng. Bố nó xem có phải
hâm nại canh không?
Về khuya, gần tàn bữa rượu, mấy ông hàng xóm bên
cạnh mới lệt sệt kéo những đôi guốc mộc sang. Số
láng giềng này Sửu đã mời lúc trưa, bây giờ họ tự
động đến là một cách biểu hiện tình cảm với đông
chí bí thư Đảng uỷ. Vợ Sửu trải thêm chiếu nữa ra
hiên. Mấy ông tự tráng ấm pha trà. Chè móc câu
nhỏ khô săn như gạo rang, bỏ vào xuyến kêu roong
roong như đông. Chế nước chỉ được qua lưng ấm, đậy
nắp, rồi dội một chén nước sôi lên bên ngoài để
xuyến nóng đều khiến chè mau ngấm. Nước róc ra
xanh ánh trong những chiếc chén hạt mít uống sít
soạt rất to, chép miệng rất to, nhưngbnước chỉ thấm
môi. Người sành trà là phải biết tận hưởng, biết
nhâm nhi ngẫm ngợi từng cái hương cái khói toả ra
từ những nụ búp căng nhựa rang khô đang nở ra
trong thủy nhiệt. Đó là phép thưởng trà. Lúc này
chuyện mới nở như ngô rang. Từ chuyện đảng ủy và uỷ
ban cho người đi mua sắn, mua khoai về bán chịu
cho bà con từ mươi hôm trước thật là sáng suốt,
đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no (Họ
khen Thủ đấy!) Rồi nhảy sang chuyện bà con có kêu
ca về việc hợp tác chia ruộng khoán còn có chỗ
chưa hợp lý giữa Giếng Chùa với xóm Trại (Họ muốn
nhắc nhở Thủ đấy!). Rồi sang chuyện nghe đồn lại
có đơn kiện từ dưới này gửi lên huyện, lên tỉnh tố
cáo rằng xã tự ý cắt một số đất canh tác cho con
cháu mấy cán bộ chưa tách hộ làm nhà. Thoắt cái,
chuyện của mấy ông nông dân vươn tới tầm chiến
lược, bàn từ ông Goocbachốp dấy lên cái việc cải
tổ, làm cho một số cán bộ cũ bên ấy về nghỉ như
sung rụng. Thì ra con người cũng như cái kèo cái
cột, dùng lâu quá không mối mọt bên ngoài, thì
cũng ải nát bên trong! Rồi thì từ chuyện ông tai
to mặt lớn đang khuấy đảo cả gầm trời, đến những
anh cu chị cún chỉ quen với con cua cái ốc nơi xó
đồng, các bố đều trộn lẫn với nhau, bàn rôm rả bên
manh chiếu cùng ly rượu chén trà và những hơi
khói thuốc lào sòng sọc.
Thủ giở nằm giở ngồi, tựa người vào tường, làm ra
vẻ say lừ đừ để đỡ phải nói nhiều, nhưng thực ra
đâu óc anh rất tỉnh. Chốc chốc Thủ lại kín đáo
liếc nhìn đồng hồ tay. Anh bỗng thấy nóng ruột bồn
chồn thế nào. Đã hơn mười giờ, nhưng chưa ai buồn
ngủ. Sửu lại pha một ấm trà mới. Mọi người quay
sang bàn tán về chuyện con ma hiện lên ở lêu lão
Quềnh mà bà Đồ Ngật mắt tròn mắt dẹt kề mấy hôm
nay. Hoá ra là một người đàn bà thật. Bà cả Lợi
chủ quán phở ở đâu xã đã thuê chị ta gánh nước và
rửa bát hai hôm nay. Nhưng hình như ban đêm chị
ta lại về ngủ ở nhà lão Quềnh. Sao thế nhỉ? Hay
lão Quềnh đã được tí tá tí mẻ, nên chị ta nhớ hơi
cái ổ nằm? Hay là ma đội lốt người? Mọi người đang
cười hinh hích, thì bỗng phía cuối làng có tiếng
gì ầm ầm và ánh lửa chấp chới. Rất nhanh, cái khối
ầm ào ấy mỗi lúc một to thêm, sáng thêm, rùng
rùng chuyển động giữa đường làng, đi ngược lên
phía uỷ ban xã.
- Cái gì thế nhỉ? Bắt được cướp hay sao?
- Hay đấy chính là một đám cướp?
Mọi người nháo nhác hỏi nhau, rồi bỏ những chén
trà vừa róc chạy ra cổng. Thủ cũng nhỏm người dậy,
mắt vẫn nhìn ngơ ngác như chưa hết cơn say. Nhưng
toàn thân anh bỗng nháy một cái như có tia điện
chạy lướt từ chân lên đầu. Không nhẽ lại chính là
chuyện ấy? Thế thi chết cả nút!. Sửu thu vội ấm
chén, bảo Thủ:
- Ta cũng phải ra xem cái gì anh ạ!
Thủ gật đâu, vùng dậy, châm một điếu thuốc. Không
có ai bên cạnh để nhìn thấy bàn tay Thủ đang run
bắn. Một sự thầm mách bảo rằng cái đám ồn ào và
những ánh lửa nhấp nhoá kia là điều rất gở đối với
anh! Cái điều anh thắt thỏm lo ngại suốt ngày
nay, hình như có đến thật rồi! Không khéo ông Hàm
bị rồi? Thế thì hại tôi, chết tôi rồi? Xoay xở thế
nào đây?.
Khi Thủ vừa lẹp kẹp đến ngõ, thì thằng con trai
lớn của Sửu dưới chân đồi chạy bố lên, miệng lấp
bấp cứ lạc đi:
- Bác Thủ! Bác Thủ! Bác Hàm bị người nhà ông Phúc
trói! Họ.. Họ đang dong lên xã.
Mắt Thủ tối xầm lại, ngực dội lên một cái Chết đứt
rồi! Chỉ tí nữa thì Thủ kêu lên như vậy, nhưng anh
đã lái được sang câu hỏi đến ngớ ngẩn:
- Sao? Hai ông già mà đánh nhau à?
Rồi cả Thủ, Sửu cùng mấy người hàng xóm băng qua
mặt đồi chạy xuống đường. Mặc dù đã chuẩn bị thần
kinh và gân cốt để đương đầu với cánh khan tương đổ
mẻ nhưng người Thủ vẫn rã rời như chỉ muốn đổ sập
xuống khi đám đông đèn đuốc rừng rực, rùng rùng
những mặt người phừng phừng vừa đi vừa hô hoán kia
đã hiện ra ở trước mắt.
Quang cảnh này y như hồi chiến tranh phá hoại, một
hôm cũng vào lúc gần sáng có chiếc F4 đến bỏ bom
trộm trên khu gang thép, bị tên lửa bắn cháy,
thằng giặc lao quáng quàng xuống đến đây thì vỡ
tung giữa cánh đồng Cây Quéo ở cuối làng kia.
Mảnh bắn vung vãi làm vỡ một mái ngói, cháy hai
túp nhà bếp, nhưng may không ai việc gì, kể cả
viên đại uý phi công nhảy dù treo lơ lửng trên
bụi tre gai, dân quân phải bắc thang khều hắn
xuống, rồi dong tên giặc cao lênh khênh bó người
trong bộ quần áo kháng áp nhằng nhịt những túi,
những khoá như dong một con thú mặt người mình
thuồng luồng lên uỷ ban xã. Người các làng đổ đến
như đi xem xiếc.
Lần này cũng gần như cả làng Giếng chùa mất cả ngủ
ngáy, chạy xô vào nhau để nhìn ba bác cháu ông
Hàm bị dòng họ Vũ Đình bắt làm tù binh.
Khi Hàm nhảy xổ vào Phúc, vung tay đấm vào ngực
Phúc, thì ưởng và Ngạc cũng hét một tiếng, huơ
xẻng lên như hai tên hung thần. Rất nhanh một cái
gậy phanh đánh chát vào chiếc xẻng của ưởng và một
cây gậy khác phạt phía dưới, ngang gióng chân,
làm ưởng ối lên một tiếng, ngã sấp vào bụi đồng ré
lá sắc như cật nứa. Cùng lúc cái xẻng của Ngạc bổ
bừa xuống những cái bóng nhốn nháo trước mặt. Một
tiếng kêu á và một phát súng nổ đánh đoàng toé
lửa ở đầu nòng. Không ai động đến Thó, nhưng anh
lính đánh thuê đã ngã nhào xuống, rồi cư lăn
người rào rào trên bãi cỏ như một khúc gỗ tròn,
miệng khóc hu hu. Viên đạn ghém bay sượt qua tai
Ngạc. Biết là chưa dính da, nên một bóng người ở
phía sau kéo giật ngang chân Ngạc, khiến cả cái
khối thịt bị hẫng, ngã đánh hự. Đám con cháu nhà
Vũ Đình nhảy phất ngay lên người Ngạc. Con trai
bà Lộc, một gã thanh niên cao to như cái minh
tinh, cùng xấp tuổi với Ngạc, từng hục hặc với
Ngạc, llên mượn gió bẻ măng, gióng lấy súng của
chồng bà Tài lên đạn lách chách, rồi chọc cái
nòng lạnh ngắt vào mang tai Ngạc, rống lên đắc
thắng:
- Đ. Mẹ! Ta phải bắn vỡ sọ thằng này!
Nhưng ông Tính đã vội giật lại khẩu súng. Vừa lúc
tiếng Vũ Đình Phúc cũng hét lên:
- Không được bắn? Trói tất cả lại!
Thoắt cái, ưởng và Ngạc đã bị trói gô bằng chạc
trâu. Còn lại vị chủ tướng của chi họ Trịnh Bá, ông
Hàm đang oằn oại bên bụi sim. Sau khi đấm cả hai
nắm tay vào ngực Phúc, trút nỗi uất ức rồ dại vào
đối thủ, thì Hàm bị Phúc đá vào hạ bộ, ngã lăn ra.
Thực chất là cả hai ông trưởng họ không biết miếng
mẹo gì cả, đánh nhau như trẻ con, cứ lao bừa, đấm
đá bừa, được đâu hay đấy! Khi Hàm tỉnh lại, thì bị
trói cứng cả hai tay.
- Dong chúng nó lên xã! Hô hoán nữa lên cho cả
làng thấy cái mặt mo mặt mẹt!
- Để nguyên chỗ nó phá, đừng lấp. Sẽ gọi công an
đến làm chứng.
Anh em nhà Vũ Đình hò hét bảo nhau, rồi đẩy ba
bác cháu ông Hàm đi. Những bó đuốc được đốt thêm,
người đổ ra thêm. Vừa đi đám người vừa hò hét khua
gõ ầm ĩ. Một người cháu họ của ông Phúc bị một lưỡi
xẻng của Ngạc bổ sượt qua vai, tí nữa cậu ta bị chẻ
theo chiều dọc! Bây giờ một miếng vải xô trắng
cuốn trên bả vai, trông mùi mẫn như một nhân chứng
của sự cảm tử! Cậu ta vác chiếc gậy đi cạnh bó đuốc
cháy chửng chửng, nhìn dữ dần như một đội nghĩa
quân thời bộ lạc.
Đám người đi đến đâu, đêm vỡ ra đến đấy trong ánh
lửa và tiếng hò hét thinh nộ. Đám đông đã hiện ra
nhỡn tiền trước mắt Thủ.
Đi đầu là con trai bà Tài. Người dài lêu đêu như
con sếu. Hai tay dơ bó đuốc quá đầu, chốc chống
lại huơ tròn cho ngọn lửa bốc cao. Tiếp đến là ưởng
và Ngạc tóc tai bù xù rũ rượi, mặt mũi sây sát,
tối sầm. Rồi đến ông Hàm, vẫn bộ quần áo xanh tàu
tàu, mắt gườm gườm nhìn xuống, mái đầu cắt móng
lừa, tóc dựng lên như bông gáo. Lòng Thủ bỗng quặn
lại, thương ông anh khốn khổ. Mồ hôi vã ra từ lòng
bàn tay. Nỗi đau của tình máu mủ dội lên trong
người Thủ. Uất ức đến nghẹn ứ lên. Trán và sống
lưng chảy mồ hôi lạnh. Thấy Thủ bỗng run toàn thân
như dẽ khi cái đám bộ lạc kia chỉ còn cách mươi
bước chân, Sửu quay sang hỏi nhỏ:
- Anh quay lại vào nhà tôi đã. Coi như anh không
ở đây. Cứ để tôi lo liệu.
Thấy Thủ vẫn đứng ngây ra bất động, Sửu bảo con
trai.
- Thằng Mùi đưa bác về nhà.
Sửu lo Thủ không giữ được bình tĩnh, lại giống như
Nẫm hồi năm ngoái thì hỏng bét. Đang là phố chủ
tịch kiêm trưởng ban công an, chỉ vì bênh em gái,
mà em gái Nấm chúa hay cậy thế gào làng ăn vạ.
Làm thủ kho mà ăn cắp như ranh. Bị Phát giác còn
lu loa xông vào xé áo người ta. Thế là đánh
nhau. Được tin, Nẫm lao bế đến bênh em. Khi bị phê
bình kiểm điềm, Nẫm còn nói chầy bứa: Dù mất chức,
mất quyền, mất Đảng, chứ tôi không cho ai động đến
người nhà của tôi! Đã thế thì mất ráo! Anh mất
chức tháng trước thì em gái mất cái chân thủ kho
béo bở tháng sau. Cả làng cười cho là dại!
Giờ đây Sửu chỉ lo Thủ cũng không giữ được mình.
Anh ấy đang run thế kia. Mặt tái đi thế kia! Dân
gốc vùng này hễ động đến họ hàng ruột thịt của họ,
là họ dễ nổi máu điên lắm. Thằng Mùi vừa kéo Thủ
quay lại, thì Sửu nhảy xuống đường vung tay nói
lớn:
- Có chuyện gì thế này? Tại sao đêm hôm lại khua
ầm ĩ thế hả? Biểu tình hả? Tất cả giải tán ngay!
Có việc gì mai lên xã giải quyết!.
Đám người đang hùng hổ, bỗng sững lại. Như dòng
nước đang sôi sục, bỗng hút vào một con đập chắn
ngang. Những người không dính dáng gì đến dòng họ
Vũ Đình, chỉ đóng vai chầu rìa, nếu cần nhảy vào
đánh hôi dăm ba quả cho sướng tay. Bầy giờ thấy
mặt chủ tịch xã đàng đằng cương quyết, nên lỉnh
ngay. Chả dại dây với chính quyền, trứng chọi đá.
- Báo cáo với ông xã là thế này! Một tiếng nói
the thé rẽ đám người đi lên. Đấy là bà Lộc, người
đành hanh nhất họ Vũ Đình, cũng ham hố vào loại
nhất họ. Khi ông Phúc mất chân chủ nhiệm, bà nói
toang toang là ông anh bà không cùng a kíp với
cánh cán bộ xã bây giờ, chứ còn ai thạo việc bằng
bác Phúc! Thấy chồng về hưu, bà thở dài đánh
thượt: Ông vội về làm gì? Tôi không cần ông phải
chân lấm tay bùn, tôi gánh được tất. ở làng này
mà cả vợ chồng con cái phải bán mặt cho đất, bán
lưng cho giời mới kiếm được miếng ăn, thì không ai
người ta trọng - Bà đang ấm ức khi thấy họ Trịnh Bá
đang lên, họ Vũ Đình nhà bà đang xuống. Cả bên
nội bên ngoại những một đống đảng viên mà lại chịu
đi xuống? Đảng viên mà lại chỉ biết cái cày cái
cuốc người ta bảo quan ba cũng ừ, quan tư cũng
gật, thì còn đảng làm gì! Bà Lộc thấy nội tộc nhà
mình như bị vặt lông vặt cánh. Cho nên lúc nãy
đang ngủ, nghe chồng về báo, bà chồm ngay dậy. Nỗi
căm tức mộ bố bị phá còn chưa sôi sục bằng thấy họ
nhà mình bị thua thiệt. Bây giờ có cớ bà lập tức
như con chim xù lông, thấy đây là lúc tốt nhất để
bà túm tóc cả nhà Trình Bá mà ấn dúi xuống!
- Báo cáo với xã là chúng tôi không có lật đổ
ai, chỉ vì mấy người xấu bụng này định hại cả họ nhà
chúng tôi. Đã đào mộ bố chúng tôi vừa chôn, lại
định đánh chết người nhà chúng tôi ra ngăn. Lúc
nãy thằng con tôi không tránh nhanh thì bị bổ
chết rồi! Hỏi cả cái gầm trời này có còn ai ác độc
hơn thế nữa không? ối bà con làng nước ơi!
Bà Lộc oà khóc nức nở. Chủ tịch Sửu lại huơ tay nói
lớn:
- Nhưng cứ phải giải tán! Đêm hôm không được làm
loạn xà ngầu lên. Có gì sáng mai giải quyết.
Bỗng một tiếng hét cắt ngang từ phía cuối đoàn
người:
- Tại sao lại giải tán? Định âm mưu đánh tháo
những tên có tội hả?
Rồi đến năm sáu bóng người lừng lững xừng xổ đi
lên. Ông Phúc vội kéo tay một người, thì người ấy
nói rinh rích như nhai chính giọng nói của mình
Bác mặc chúng em. Đấy là những người họ xa của ông
Phúc, vừa mắt nhắm mắt mở đến, nhưng đã nghe thủng
câu chuyện, họ lên gầm lên. Đây cũng là những
thành phần ghê gớm, thật ra họ chẳng thù hằn gì
anh em nhà Trịnh Bá, mà lại cay cú với chính Trần
Văn Sửu về việc Sửu giải quyết đất đai không đúng
ý họ từ hơn năm nay, nên họ muốn nắn gân Sửu cho
hả giận. Một người quay sang bà Lộc hét:
- Thím Lộc câm ngay mồm? Việc gì phải khóc? Cái
lý nắm trong tay mình, sao phải khóc?
Rồi ào một cái, cả sáu người đàn ông đứng vòng
tròn quanh Sửu. Lô nhô những đầu gậy và cả một cái
lưỡi thùng lùng nhọn hoắt cứ lấp ló sau lưng Sửu.
Một bàn tay nặng như cùm ấn vai Sửu xuống. Những
khuôn mặt gân guốc như đá đeo, những tia mất sóc
sói như đã nổi cơn điên, cứ xỉa vào người Sửu Một
giọng nói trầm, nhưng rất sắc chõ vào tai Sửu:
- Này ông chủ tịch ngụ cư hãy liệu thần hồn! Mở tai
ra nghe đây: ông định hống hách với ai? ông định
bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai
rồi đổi trắng thay đen, cứt trâu hóa bùn hả? Khôn
hồn phải giải quyết ngay đêm nay, và không được
động đến mấy thằng này, nếu không phải có người
phá hết lúa má, sẽ đốt nhà rồi dìm ông xuống
sông! Những thằng trọc đầu này đã chơi là không
ngán đâu.
Sửu đang tái xám cả mặt mũi, thì chính người vừa
nói những lời dao búa ấy quay ra, đấm tay vào
thinh không, cao giọng:
- Tất cả im lặng! Chúng tôi đã hội ý với ông chủ
tịch! Ông chủ tịch đã bằng lòng sẽ giải quyết ngay
đêm nay. Bây giờ mời ông chủ tịch có vài lời!
Sửu lách người, đứng ra khỏi vòng vây hãm, nhưng
mắt vẫn liếc dè chừng. Cái giọng quyền biến lúc
nãy, bây giờ bỗng ngắc ngứ.
- Xin bà con yên tâm. Tôi sẽ không bao che
khuyết điểm cho ai. Nhưng vì đây là việc phức tạp,
nên phải có mặt của cả đảng uỷ, uỷ ban và công an,
rồi nghe đôi bên trình bày. Vì thế tôi không
muốn gây rối loạn giữa đêm thế này.
Thế là tất cả lại ầm ầm lên:
- Đừng có nói quanh co tù mù thế! Ông có giải
quyết không?
Ông Phúc bây giờ mới lên tiếng:
- Tất cả im lặng, mọi việc đã có tôi. Từ nãy đến
giờ tôi chưa nói, là tôi muốn xem xã định giải
quyết thế nào. Bây giờ chúng tôi yêu cầu: xã phải
lập biên bản ngay. Phải giam giữ luôn mấy người
này! Tôi đã cho người đi gọi trưởng ban công an
và bí thư đảng uỷ tới.
Sửu quay lại Phúc nói thống thiết:
- Đồng chí Phúc, tôi đề nghị chúng ta hãy lấy
tinh thần đảng viên để giải quyết công việc. Đồng
chí định khua cả xã dậy hay sao? tôi được biết tối
nay cả bí thư đảng uỷ và trưởng ban công an đều đi
vắng không có nhà.
Lại ầm ầm như vỡ chợ:
- Khua cả xã dậy cũng được. Đừng có đánh bài chuồn
mà không xong đâu? Làm cán bộ thấy việc phải giải
quyết, chứ không phải chỉ quen nghe người ta mời
vào mâm!
- Bí thư với công an đi vắng, chúng tôi cũng tìm
bằng được có lẩn đằng trời!
Đang nhao nhao, thì bỗng một giọng rất đanh, vang
lên phía trên đồi:
- Tôi đây! việc gì tôi phải lẩn đi đâu!
Rồi Thủ nhảy từ trên thành ta-luy xuống. Đôi mắt
thường ngày hay nheo cười lấy lòng, bây giờ ánh
lên sắc lạnh.
Thủ liếc nhanh sang Sửu như muốn nói: Anh chỉ tổ
gây rối thêm việc! Đáng lẽ phải vờ nhũn để lấy
lòng họ, để dập tắt đám cháy, rồi sẽ tìm cách phản
công sau, thì anh lại chọc tức họ, rõ là chọc tổ
ong, ngốc!..
Sửu đã đọc được những lời chỉ trích ấy và ông chủ
tịch sổ xổ đứng co người lại.
- Thưa bà con! - Thủ cố hạ giọng, nhưng tiếng vẫn
run lên - Tôi mới được tin vội đến đây ngay. Nhưng
tôi đã nghe rõ sự việc. Như vậy là người nhà của
chúng tôi sai. Mức độ thế nào đã có pháp luật
phân giải. Tôi đồng ý sẽ giải quyết ngay đêm nay.
Ngày mai sẽ mời huyện về xem xét. Bây giờ tôi yêu
cầu đồng chí Phúc, đại diện bên tố cáo, cùng
chúng tôi lên văn phòng uỷ ban để lập biên bản.
Còn tất cả xin mời về nghỉ để đảm bảo trật tự an
ninh.
Bà Lộc lại the thé:
- Nhưng giữ ba người phạm pháp này lại không được
thả.
Thủ khoá tay dứt khoát:.
- Tôi đồng ý! - Bên chúng tôi không phải chỉ có
mình ông Phúc, mà phải có cả thằng Quyền con tôi
bị chém hụt, rồi ông Thó bị mua chuộc cùng lên để
kể rõ sự việc vào biên bản.
- Tôi đồng ý!
Một tiếng thở phào từ cuối đám đông:
- Có thế chứ!
- Nghe lọt tai đấy!
Sự nhũn nhặn của người có quyền cao nhất xã, cộng
với sự đầu hàng của người đại diện cho dòng họ
Trịnh Bá đã làm cho quả bóng đầy hơi của chi họ Vũ
Đình được mở van. Cả đến những anh chầu rìa sẵn
sàng nhảy vào đánh hôi tuốt tuột cả hai dòng họ,
giờ cũng toát ra cười hể hả! Những bộ mặt đang hầm
hè hến chùng ngay xuống. Duy nhất chỉ có một người
nghe lời mềm mỏng của Thủ, thấy như mình bị thoi
từng quả đấm vào tim. Miệng chỉ chực gầm lên chực
chửi bới tất cả, chân tay đập phá tất cả. Đấy là
ông Hàm!
Ông trừng trừng cặp mắt cá rói nhìn thẳng vào Thủ,
người cùng giọt máu với ông. Người xưa nay quen
gặt hái trên công lao nhọc nhằn của ông. Ông đã
vì hắn mà nai lưng ra cáng đáng mọi việc như một
con lừa! vậy mà hắn đã bán phéng ông! Đồ đểu! Mặc
cho ông Hàm tức giận đến dựng ngược cả mái đầu
bông gáo, nhưng lên tới văn phòng uỷ ban, ông vẫn
phải ký vào biên bản rằng: ba bác cháu ông cùng
một lúc đã phạm vào hai tội: phá mộ người mới chết
và hành hung thân nhân người chết khi họ ra can
ngăn.
Cả hai tội đều to kềnh! Đó là hai cánh cửa để đón
ba bác cháu vào tù! Biên bản được lập trước sự
chứng giám của những người chủ chốt của chính quyền
địa phương: bí thư đảng uỷ, chủ tịch xã và phó ban
công an.
Đồng chí phó ban công an thực sự bị dựng dậy từ
trong buồng vợ, giữa lúc đồng chí đang lắp ghép
bức tượng người hai lưng? Phó ban công an là cháu
bên vợ Thủ, gọi Thủ bằng dượng. Thế nghĩa là ba
người này: bí thư, chủ tịch xã và phó bạn công an
rất hợp ý, hợp lòng như ba chân kiềng. Vậy mà vẫn
thua. Vẫn phải làm theo yêu cầu của Vũ Đình Phúc,
là xã quyết đinh tạm giam ba bác cháu ông Hàm để
hôm sau huyện về phân xử. Và ba bác cháu ông làm
đã nằm chờ sáng trên mấy cái ghế băng ghép lại
trong căn phòng dùng làm nhà kho ngổn ngang
những cờ, đèn, kèn, trống, panô, khẩu hiệu của xã.
Một căn phòng tối tăm đây những mùi mốc, mùi bụi.
Bên ngoài cửa khoá trái. Đích thị là nhốt những
thằng tù! Xong việc, Thủ vừa ra đến cổng uỷ ban
thì gà gáy canh hai. Người mệt như rút tuỷ. Thủ
cay đắng nhận thấy chính mình, đang có trong tay
cả một chính quyền, nhưng vừa bị thua một cú nốc
ao! Chính anh, vừa phải bàn giao cả uy tín và sức
mạnh của cá nhân mình, của dòng họ mình cho Vũ
Đình Phúc! Hai tay Thủ bỗng chốc như tuột hẫng,
không còn biết bấu víu vào đâu. Xung quanh trống
hoác!
- Anh ạ, ta bàn xem - Sửu bước vội lên gần Thủ,
rụt rè nói.
- Thôi! - Thủ dằng giọng, bước nhanh. Anh cũng tự
thấy mình vô lý khi nổi cáu với Sửu, nhưng lại
không thể ngọt được! Cả Sửu và Cao, phó ban công
an đều không dám gọi Thủ lại.
Vừa ra đến cổng, Thủ bỗng giật mình khi thấy một
bóng người quen quen đang đứng tựa vào gốc cây
bạch đàn phía trước.
- Ai? Cái Đào hả?
Thủ vừa lên tiếng, thì bóng người con gái đang
đứng ủ rũ ngửng phắt lên, giọng đanh lại, đúng là
con gái ông Hàm!
- Phải! Cháu đây! Chú đã cứu một người ruột thịt
của chú như thế đấy! - rồi Đào khóc hức hức lên,
chạy xiêu xiêu nhoà vào những bóng cây tối thẫm.
Thủ đứng lặng, lòng tan nát!
Đào vẫn chạy xuôi theo đường, miệng vẫn khóc nức
lên như bị đòn oan, như bị hắt hủi. Nhưng Đào vốn
là cô bé không chỉ biết có sướt mướt. Mang hình
dáng mẹ, một hình dáng thon óng, gợi cảm gợi
tình, nhưng trong người Đào là dòng máu bố, chất
máu của sự quyết đoán và bạo liệt. Khóc cho vợi
lòng, rồi Đào lần lần nhớ lại. Đào thấy mình đã bị
lừa!
Mà người lừa cô không phải ai xa lạ. Chính cái
người tối tối Đào vẫn phải tìm mọi cớ cho lọt tai
hai cụ via, để rồi cô lao bố ra gốc nhãn, ra điểm
hẹn, điểm say mê của hai người. Đến khi về nhà,
đêm đã rét se se, nhưng Đào vẫn dội nước lạnh để
cho dịu người lại. Da thịt cứ hôi hổi, bừng bừng.
Có hôm cái Hoa sang ngủ chung, đêm nằm mơ, Đào cứ
ôm ghì lấy đưa em, dụi đầu vào mặt nó, đến khi cái
Hoa kêu thét lên, Đào mới tỉnh. Sáng dậy, đang
rửa mặt, cái Hoa bỗng sực nhớ, và ở đứa con gái
mười hai tuổi, đã có nhạy cảm về giới tính, nó
nháy mắt quay sang bà Son: U ơi đêm qua chị Đào
ghê quá? Đào gần như hét lên, lấp liếm cất ngang
lời nó: Im đi! Đừng có nhí nhố! rồi Đào kèm sát
nó, thấy nó định mở miệng là chí tay vào sườn, cho
đến khi nó đi học cô mới thở ra cười thầm. Để rồi
đến tối, trước sự háo hức của người con trai, Đào
hãy tay ra, béo vào tai Tùng khoan đã nào, để
yên người ta kể cho mà nghe chuyện đêm qua người
ta mơ. Rồi kể, rồi cả hai cười rinh rích rồi ôm
cuốn lấy nhau. Những vòng tay siết chặt như bện
thừng!
Đêm nào gặp nhau cũng như men, như lửa. Rồi xa
nhau chỉ mươi tiếng đồng hồ, và chỉ có cánh nhau
một cánh đồng, nhưng lúc chia tay cứ bịn rịn nấn
ná. Người này nhìn như uống lấy người kia. Đang
đi, lại đứng, lại ngồi dùng dằng nối tiếc. Nhưng
tối nay rõ ràng là khác lắm. Hắn vội vội vàng
vàng như người mất của. Vừa đến đầu rặng tre kia là
hắn quay lại phới ngay. Thế mà lúc ấy mình ngu
quá, không phát hiện ra. Hắn đã chạy vội về để huy
động cả họ hàng ra đồi sim bắt mấy người làm bậy. ừ
thì mấy người này sai rồi, nhưng thiếu gì cách để
ngăn cản họ. Chỉ cần một mình hắn chạy ra đánh động
từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré kèn.
Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu,
đã tồ chức ra cái việc bắt bớ này. Đào lại khóc
nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là
tính sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!
Cả bà Son và cái Hoa cũng đang nằm khóc. Cái Hoa
cứ ôm lấy bà Son khóc như bị mắng, bị phạt từ lúc
Đào tất cả chạy theo đám người đèn đuốc rừng rực
dong ba bác cháu ông Hàm lên xã. Lúc ấy bà Son
đi như lê từ ngoài cổng vào. Chỉ tới được chiếc
giường là bà lăn ra như không còn xương cốt. Buổi
tối thấy Thó đến với bộ mặt thấp thỏm, bà đã nghi
nghi. Rồi về khuya thấy ưởng và Ngạc, hai ông cháu
bất hảo đến, thì bà Son thấy rõ mấy người này sắp
làm cái gì vụng trộm. Chiều ý ông Hàm, bà vào
buồng nằm, cố lắng tai nghe, nhưng không sao rõ
được những lời thì thầm của họ. Thôi mặc, lại đến
đi móc trộm gỗ, trộm phản của ai là cùng chớ gì.
Cái ông này đến lạ, có thiếu thốn gì cho cam. Hay
đấy là cái máu của những anh cầm tràng đục? Nhìn
thấy gỗ đẹp, gỗ tốt là cứ mắt la mày lét như anh
háu sắc thấy gái!
Khi họ dắt nhau đi, thì bà Son đã thiu thiu ngủ.
Rồi chó cắn rầm rĩ, rồi người la, rồi những bó đuốc
đùng đùng cứ huơ lên như phát cuồng. Thấy ông Hàm
chưa về, linh tính bỗng báo cho bà có cái gì
không lành. Bà chạy ra đường cái chính. Rồi bà
dụi mắt mấy lần để nhìn xem có đúng là ba bác
cháu ông Hàm bị trói và đang bị dong đi kia
không. Đến khi thấy đúng là thật rồi, chứ không
còn mộng mi gì nữa, bà đã nhìn thấy ông Phúc và
cái đám đông kia hầu hết là anh em họ hàng nhà
Vũ Đình, thì bà Son run hết cả chân tay, ngồi
khụy xuống, nước mắt chảy ràn rụa. Chắc chắn không
phải chuyện gỗ lạt rồi, cái gì đó nghiêm trọng hơn
nhiều. Bà Son chạy tắt về nhà, dựng Đào đang ngủ
mê mệt dậy. Chưa hết tuổi ăn tuổi ngủ, lại được
tình yêu đắm say ru vỗ nên đặt mình xuống là Đào
trôi ngay vào giấc ngủ vừa bềnh bóng vừa thăm
thẳm.
Đào khoác vội áo, rồi vùng chạy theo đám đèn
đuốc. Lát sau lại chạy bổ về kể đầu đuôi cho bà
Son nghe. Bà Son thất kinh, miệng mếu máo kêu:
Giời ơi! Sao thầy mày dám làm cái việc ác ấy?
Chân tay bà càng run như eơn kinh giật. Thì ra
ông ấy thù hằn anh em nhà Vũ Đình ghê gớm quá
nhưng ông ấy lại chuốc lấy tai hoạ rồi! Một lần nữa
ông ấy lại thua rồi. Lần trước thua, ông ấy đã
trút sự uất ức lên đầu bà. thua lần này, ông ấy sẽ
đổ vào đâu ai? Càng nghĩ, bà Son càng tủi cho
cái số của mình, chỉ muốn yên phận mà cũng không
được. tiếng khóc cứ lặng đi. Cái Hoa cũng đã thức.
Ba mẹ con rặt đàn bà con gái ôm nhau khóc như
nhà có đám. Đào lại vùng dậy chạy ra đường.
- Mày còn đi.đâu? - Bà Son kéo áo Đào.
- Con phải đi xem người ta làm gì thầy.
- Đừng có lu loa, Đừng có gây sự với họ nữa con
ơi! Mình sai rồi? - Bà Son nói như van vỉ. Bà biết
tính con gái. Khi cần nó cũng đanh đá ghê gớm
lắm, chứ không mềm mỏng như thằng Dương anh nó. Nó
giống thằng Dinh, tính cục. Ngày mới lớn đi chăn
trâu, Đào đã thấy lần đánh nhau với con trai, mà
lại đánh được! Vì lúc tính cục nổi lên, Đào vớ cái
gì đánh nấy, vớ gì phang nấy. Đám con trai làng
này vừa thích nó, lại vừa sợ nó!
- U cứ mặc kệ con! - Đào vùng vằng rồi lao ra
cổng.
Và cô đã đi theo đoàn người đến tận cùng, đến
phút chót. Đào lùi lại một quãng khuất vào bóng
tối để không ai nhận thấy mình. Đào cố nhìn nhưng
không thấy hắn. Thế tức là hắn ném đá giấu tay!
Hiểm thế! Cụ bô thế mà tinh, ngay từ hôm đầu cụ đã
bảo hắn không phải tay vừa! Tới uỷ ban, Đào núp
trong bụi chuối ở góc vườn. Đến khi thấy người ta
đưa ba bác cháu ông Hàm về gian nhà kho ở cuối
hội trường, thì Đào định nhảy ra hét lớn. Nhưng rồi
cô đã kìm được khi quyết định chờ Thủ ra để trút
hết sự giận dữ lên ông chú đang nắm quyền cao nhất
xã, vậy mà bây giờ đã hoàn toàn bất lực.
Nhưng rồi Đào chỉ ném được câu trách móc ấy vào
người Thủ, rồi khóc tứe tưởi chạy về nhà.
Đào đi sầm ầm lên nhà trên. Bà Son văn mở cửa.
Ngọn đèn con vặn nhỏ đề trên bàn sa-lông giữa
nhà. Bấc đèn có hoa. Người hay tin điềm, cho đó
là một báo hiệu xấu.
Cái Hoa nằm ôm lấy bà Son, rúc đầu vào nách mẹ
như sợ một tai hoạ gì sẽ đến với chính nó.
- Người ta làm những gì với thầy? - Bà Son nhỏm
lên tiếng đã rè đặc.
Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn, khuôn mặt bà
Son như gầy võ hẳn đi.
- Ông Thủ cũng chẳng được cái tích sự gì! Anh em
ông Phúc yêu cầu thế nào, mấy ông xã cũng phải
chịu nghe thế? - Đào vừa nói dằn giọng, vừa róc
nước như xối ra cốc, uống; rồi vặn to ngọn đèn. Bà
Son sửng sốt thấy Đào đã có cái giọng đúng là
người của dòng họ Trịnh Bá khi nói về người dòng họ
Vũ Đình. Nó nhiễm cái máu ấy từ bao giờ? Sao lại
nghe phong phanh là nó với thằng Tùng con bà
Sang phải lòng nhau?
- Lúc đi thầy có nói gì với u không? - Đào vẫn
ngồi lầm rầm ở ghế, giọng đanh lại chứ không còn
sùi sụt nữa.
- Những chuyện riêng của thầy mày có bao giờ tao
được biết? - Bà Son nói ấm ức - Lúc mấy người kia
đến, thầy mày còn không cho tao ngồi gần sợ nghe
thấy. Chả nhẽ việc như thế ông Thủ lại không biết?
Đào buông một câu, càng đúng là cái gien ông
Hàm:
- Có biết bây giờ cũng chối là không!
Chiếc đông hồ ô-đô trên tường buông năm tiếng. Cả
bà Son và Đào chợt khẽ rùng mình. Bởi cả hai người
cùng hiểu sáng ra, giữa thanh thiên bạch nhật,
chuyện nhà bà sẽ càng ầm ĩ cả làng, cả xã. Rồi
những người không ưa ông Hàm, không ưa họ mạc nhà
này sẽ được dịp cười cợt khích bác cho bằng thích
để hả lòng hả dạ. Kể cả những người không yêu không
ghét, xưa nay không có xích mích gì, nhưng thấy
một nhà phong lưu một dòng họ phong lưu bị sa sẩy,
thì họ cũng vẫn cứ thích? Nhất là lại được nói
những lời an ủi, được san sẻ nỗi âu lo với các
người quen đứng ở trên mình, thì sự thích thú
càng tăng! Bởi lâu nay họ phải nhìn thấy anh em
nhà Trịnh Bá may mắn nhiều rồi, làm chơi ăn thật
nhiều rồi, đến bây giờ họ mới được đưa tay ra cảm
thông cùng những lời trắc ẩn để an ủi anh em nhà
Trịnh Bá thì còn gì thú vị bằng! Làm thế là chính
là để tự vuốt ve mình đấy thôi! Được đưa tay cúi
xuống nâng người khác, bao giờ cũng dễ chịu hơn rất
nhiều là phải kiễng chân để xin một ân huệ! Bà với
con Đào cũng sẽ bị họ cười vào mũi! Nhan sắc hơn
người mà! Nhan sắc luôn là con dao phản chủ!
Mặc nỗi lo của mẹ con bà Son, đêm đông tỏ ra sáng
dần.
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, bảy - VN thu quan
Đã sáng một lúc lâu nhưng Thủ vẫn chưa muốn dậy.
Mặc dù từ lúc ở xã về đến giờ anh không hề chợp
mắt. Người cứ như rỗng không. Đêm qua về đến nhà
không thiết rửa ráy, Thủ vào ngã người ngay xuống
giường. Vợ Thủ nằm với đứa con gái nhỏ ở góc bên
kia, nói với sang:
- Thầy nó có đói đi ăn cơm thêm? Buổi tối cậu Lưu
cho thịt vịt em vẫn để phần đấy.
Vì nhà Thủ ở khuất, lại xa đường, thêm cái nết ngủ
của Luyến đến súng bắn bên tai cũng coi khinh,
nên vợ con Thủ chưa hay biết gì cả. Thủ nói lừng
khừng:
- ăn rồi. Sáng mai không được gọi tôi đấy nhá!
Rồi Thủ tắt đèn, mắt mở chong chong nhìn vào đêm
tối. Đau óc nhức tấy lên. Lần này thì Thủ thật sự
bị đôn vào chân tường rồi, không còn lượn lờ dựa
dẫm vào ai được nữa. Về mặt xã và chính quyền, đã
có Sửu và những người khác, họ cứ dựa vào pháp
luật mà thi hành, dễ ợt. Nhưng với Thủ là cả dòng
họ Trịnh Bá trông vào anh. Phải tự xoay xỏa. Lúc
này một mình một ngựa, một mình một chiến trường!
Xưa nay Thủ chưa hề thấy sự bức xúc trong việc
giành chỗ đứng cho dòng họ, bởi Thủ không có những
uẩn ức riêng tư như Hàm, và mọi việc đối với Thủ
đều quá thuận lợi, đều ở trong tàm tay. Vậy mà ông
Hàm chơi cú này đến mất cả chì lẫn chài của dòng
họ Trịnh Bá đây! Thủ cũng đến chết chìm theo con
thuyền này! Chịu khoanh tay phó mặc sao? Muốn
thay đổi thế cờ thì thay cách nào? Đến nước này
trở tay không được đâu. Cánh lão Phúc nó cúng có
sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu đen gì mà dễ
bắt nạt.
Thủ hết nằm ngửa lại nằm nghiêng. Đầu ong ong.
Sáng ra Thủ nghe thấy tiếng mấy mẹ con thì thào
rồi đi lên đi xuống đây sốt ruột, nhưng vẫn không
ai dám đánh thức Thủ. Bây giờ lại nghe tiếng Sửu ở
ngoài sân, rồi vợ Thủ cứ thế á, thế á đầy hốt
hoảng.
Dường như không đừng được nữa, vợ Thủ rón rén lại
bên giường gọi nhỏ:
- Thầy em dậy đi, có chú Sửu đến.
Thủ vừa dụi mắt, chui ra khỏi màn, thì Sửu đã quần
ống thấp ống cao nét mặt rầu rầu như người có lỗi,
đến bên Thủ:
- Gay lắm anh ạ! Cứ ầm ĩ từ sáng đến giờ. Đám trẻ
con thì bỏ cả học, cứ bâu lấy hội trường. Cánh nhà
ông Phúc đã cho người lên huyện báo từ sớm, chắc
lúc nữa họ về. Ta phải làm gì hả anh?
Nhìn Thủ cứ ngồi lựng với bộ mặt mất thần, Sửu càng
lúng túng. Mới cớ một đêm mà anh ấy hốc hác đi
khiếp quá. Đúng như người ta nói đa suy tổn tỳ,
nghĩ nhiều tổn thọ. Sửu lại nói nho nhỏ:
- Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. Đêm hôm qua họ
bí mật gài hai người ngồi suốt đêm ở nách hội
trường để nếu xã đánh tháo bác Hàm, thì họ sẽ la
lối lên.
Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là
tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị vừa dọn bàn,
vừa nói sẽ sàng:
- Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát
cơm.
Sửu quay lại lấy làm may mắn đã có cớ rút lui để
khỏi phải ngồi với Thủ lúc này.
- Thôi tôi ăn rồi. Sáng nay bên tôi vẫn còn nồi
xáo ăn cố mới hết.
Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ:
- Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng
quá.
Thủ đáp sổng:
- Tôi sẽ lên.
Sửu tươi nét mặt.
- Vâng thế tôi lên trước nhé.
Dứt lời, Sửu ra sân dắt xe đi ngay. Sửu còn chưa
nói với Thủ chuyện này: ấy là hai người của nhà họ
Vũ Đình gài nằm lại ở nách hội trường đã nghe hết
chuyện lục đục của bác cháu ông Hàm trong đêm.
Thằng ưởng nằm trên hai chiếc ghế băng ghép lại,
thừa cả đầu cả đuôi. Đang nằm thẳng đẵng như khúc
gỗ bỗng nó co chân đập chan chát xuống ghế, miệng
chửi rầm lên. ở bên ngoài chỉ nghe nó hét Mẹ kiếp!
Mẹ kiếp Không biết nó mẹ kiếp với ai! Rồi nó làu
nhàu những gì, cũng không nghe rõ. ở góc bên
kia, ông Hàm và thằng Ngạc nằm chung trên mặt
bàn. Thằng Ngạc nhổm lên văng tục sang thằng ưởng
Làm đ. gì mà rống lên thế? Ông Hàm nằm im không
động cựa, miệng chỉ làu bàu im nào! im nào Nhưng
thằng ưởng không im, chốc chốc nó lại dộng chân
thình thình, lại văng tục ầm ĩ.
- Thế tức là ông via trưởng họ mất thiêng rồi! Cá
mè một lứa rồi! - Vừa kể chuyện oang oang trước
đám đông, hai người của họ nhà Vũ Đình vừa bình,
vừa đế thêm vào rồi gã con trai nhà bà Lộc cao
như cái sào chọc mít cứ hoa đôi tay dài ngoằng,
hét tướng lên khoái trá: Thế là nội bộ họ lục đục
rồi! Khỉ tự vặt lông khỉ rồi!
Người ta xúm đông xúm đỏ nghe chuyện, cười hấng
nhấc khoái chí lắm!
Thủ rửa mặt, rồi ngồi nhai cơm trệu trạo như nhai
rơm. Bốn gian nhà mái bằng rộng huênh. Mấy đứa trẻ
đã biến hết. Chắc chúng kéo nhau lên xã rồi, bẽ
bàng chưa! Vợ Thủ sàng gạo ròe ròe dưới nhà. Đoán
chừng Thủ đã ăn xong, chị đi lên với bộ mặt bồn
chồn. Những nốt rỗ hoa ửng đỏ lên. Khác với người
chị dâu sắc nước hương trời là bà Son, vợ Thủ tự
nhận mình thua kém chồng cả về cái mã bên ngoài
lẫn sự tài trí bên trong. Hai người lấy nhau hồi
đoàn thanh niên đi đắp đê Hà Châu để phòng mùa
mưa nước sông dâu tràn vào. Dạo ấy Thủ làm bí thư
xã đoàn, một anh bí thư đẹp trai và hào hoa, biết
hát, biết đóng kịch và phát biểu rất hay khi lên
diễn đàn. Vậy mà mới giữa chiến dịch, khi bờ đê
con chạch mới nhu nhú thì những lời đôn thổi đã
tới tấp bay về xã, về làng là anh Thủ và cô Luyến
đang say nhau như cóc ngậm thuốc lào! Rằng là tối
nào bí thư xã đoàn cũng đi hội ý với cô phân
đoàn trưởng xóm Trại ở mãi ngoài bờ đê. Sở dĩ
người ta quan tâm, người ta ầm ĩ lên, nhất là cánh
con gái càng sồn sồn trong việc tuyên truyền,
chính là vì các cô tức? Ai đời tay Thủ đẹp tông
lộng thế kia lại đi mê con Luyến mặt rỗ hoa thì
còn giời đất nào nữa! Các cô thấy như mình bị mất
mát, bị tước đoạt một cái gì! ừ thì con Luyến được
tiếng là nết na, thùy mị, khéo tay và chịu khó, ừ
thì nó có đáng người cá trắm nở nang chắc đậm,
tươi khỏe cứ giống như khoai tím trồng ở đất cát
pha, chất đất màu mỡ đã tạo nên những củ khoai mập
mạp, rắn chắc mà bở tơi! ừ thì nó có hàm rồng hoa
cau và nước da bánh mật. Nhưng da bánh mật sao bì
được với da bánh trôi? Cũng là tổ trưởng nuôi ong!
Cô nào cũng tự cho mình hơn đứt Luyến ở khâu xung
yếu nhất ấy! Thế mà đùng một cái, con cá to bị mắe
vào cái lưỡi câu cùn! Đùng một cái sẩm vớ miếng
gan! Thế là các cô cứ thêu dệt thêm lên. Đồn thổi
thêm lên với tâm trạng vừa bực bội, vừa nuối tiếc!
Đến nỗi Đảng ủy phải gọi ngay Thủ về để báo cáo
tình hình xem hư thực thế nào. Ngày ấy người ta
coi việc yêu đương thầm lén là một vi phạm đạo đức
vi phạm phẩm chất cực kỳ to lớn, cực kỳ nghiêm
trọng. Dù trai chưa vợ gái chưa chồng, nhưng cũng
cấm chỉ hò hẹn thì thụt. Tiền và gái xem ra ít ai
chê, nhưng người khôn thì chỉ thích ngầm và dùng
ngầm thôi, chứ nếu anh dám nói toẹt ra là thích,
thế là anh toi đời! Huống hồ con Luyến này lại
không phải là đẹp, mà hai người lại dắt nhau ra
tận bờ đê, thế là dứt khoát có vấn đề rồi! Trong
việc này đứa nào lợi dụng đứa nào đây? Đứa nào
thoái hóa biến chất trước? Thủ bấy giờ đang là đối
tượng đảng, lớ vớ phen này trắng túi! Nhưng rồi Thủ
đã làm cả đảng ủy chưng hửng! Sau khi nghe ông bí
thư già chất vấn một hồi về những dư luận rằng Thủ
đã có nhiều biểu hiện sa sút trong việc rèn luyện
tu dưỡng, Thủ điềm tĩnh hỏi lại:
- Thế cô Luyến có phải là người xấu không? Gia
đình cô ấy xấu không?
Ông bí thư hơi sững ra, rồi quả quyết:
- Nào ai bảo cô ấy xấu. Là phân đoàn trưởng thanh
niên cả xóm Trại, là thư ký đội sản xuất, người xấu
ai để ngồi đấy. Còn gia đình thì bần nông, cơ bản
đến ba đời sao lại xấu được.
- Thế tôi lấy cô ấy có gì sai không?
Không sai - Bí thư giương mắt kính nhìn Thủ.
Thủ hạ câu chắc nịch:
- Thế thi xin báo cáo với đảng ủy là tôi sắp lấy
cô ấy!
Đơn giản có vậy, mà bấy giờ người ta đã coi như một
quả bom! Mùa đông nămấ Thủ cưới Luyến. đúng nghi
thức đời sống mới. Nghĩa là chỉ có mấy cân kẹo cứng
răng rắc và bọc thuốc lá cuộn. Đơn giản hết cỡ!
Làm cho bố mẹ Luyến. dù có mừng, đã gả chồng cho
con được vào nơi mát mặt, nhưng cứ ngơ ngẩn như
đánh tuột khỏi tay nồi thóc giống! Tưởng thế là
hết chuyện ngồi lê đôi thách, vậy mà người ta lại
còn kháo nhau là Thủ phải cưới Luyến vì đã quá mù
ra mưa chứ thực ra Thủ ta thấy cô nàng cứ lúng
liếng bày ra trước mắt không nỡ để phí của giời,
thì chàng facũng léng phéng cải thiện tí cho
vui, chứ cũng không nghĩ đến chuyện bách niên
giai lão. Nếu bây giờ Thủ đánh bài chuồn, thì coi
như cấm cửa vào Đảng. Vậy mà cũng phải ba năm sau
Thủ mới được kết nạp. Cứ mỗi lần mang ra xét, lại
có ý kiến cho rằng dù thế nào đi nữa thì Thủ vẫn
có điều tiếng trong thời gian yêu đương. Đặc biệt
là thái độ không khiêm tốn, dám vặn vẹo cãi lý
với đảng ủy. Thực ra Thủ bị om chỉ vì mấy câu vặn
vẹo ấy. Thái độ, cái điều tưởng đơn giản và nhỏ
nhặt, nhưng nhiều anh đã bị mờ đời chỉ vì thái độ!
Thủ đã có một thời thanh niên sống đẹp, sống hào
hùng và có bản lĩnh. Còn Luyến từ ngày lấy chồng,
chị sống yên phận làm người vợ, làm người đàn bà.
Chi đẻ sòn sòn bốn đứa, nuôi con rất khéo. Bây
giờ mới bốn mươi lăm, nhưng Luyến đã nói năng,
sinh hoạt đúng cung cách của người chân quê.
Luyến chỉ còn có nlêm vui chiều chồng, quý con.
Có mấy bận nghe phong phanh Thủ đi học, đi tập
huấn cũng có tý táu tí mẻ với cô giáo này, cô hội
phụ nữ nọ, Luyến chỉ cười ửng đỏ những nốt rỗ hoa mờ
mờ Ôi dào máu đàn ông ấy mà! Em chỉ quản ông ấy
khi về nhà. Còn ra ngoài đã có Đảng! Em là cứ
giao hết ông ấy cho Đảng! Chả ai ăn vụng được với
Đảng! Và hình như với chiến thuật buông để nắm ấy,
người đàn bà sởi lởi đến tồ tề này lại giữ được
chồng. Thỉnh thoảng gặp dịp Thủ cũng chỉ hiu hiu
gió thoảng chứ không dám quá đà.
- Thày em có lên xã bây giờ không? - Vừa dọn mâm
bát, Luyến vừa hỏi ngập ngừng.
Thủ rót nước tránh nhìn vợ giọng thẫn thờ cụt lủn:
- Có
Luyến đã bưng mâm lên, nhưng chưa đi, lại hỏi dẽ
dàng:
- Thế định giải quyết việc bác Hàm thế nào?
Bỗng nhiên Thử nổi cáu. Lại một lần nữa Thủ nối cáu
rất vô lý:
- Đi tù chứ còn thế nào! Phen này thì chết cả
nút! Dọn đi, để cho người ta yên!
Rồi Thủ súc miệng òng ọc, phun nước phì phì. Rồi
Thủ thay quần áo cho đàng hoàng tươm tất. Quần
sa-vi-ốt, áo cộc tay màu nước biển. Anh vốn ghét
sự lúi xùi. Hôm nay cũng không được lúi xùi,
không được cho ai thương hại. Thủ vứt bừa quần áo
cú lên đi-văng, rồi không một lời dàn dò, anh hầm
hầm dắt xe đi.
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Tám - VN thu quan
Đã vào gặt chiêm. Làng xóm rậm rịch từ tinh mơ.
Bây giờ không ai chờ phải có kẻng, chờ ông đội
trưởng đi thúc nữa. Khác làm, khác lo. Ngay lông
bông như anh chàng Thó mà bây giờ cũng tự biết
mình phải làm gì. Mặc dù hợp tác chưa khoán đất,
khoán ruộng xong. nhưng vụ chiêm này các hộ đã
nhận diện tích và sản lượng rồi tự chăm bón và thu
hoạch. Hợp tác xã đảm nhận khâu đầu và khâu cuối,
tức là giao khoán cho các hộ sau khi gieo cấy
xong, cuối vụ hợp tác thu sản phẩm theo diện tích
và sản lượng đồng điền.
Mới giao khoán có vậy, mà người ta đã biết cách
làm ra thóc. Vẫn người ấy, đất ấy mà những vụ trước
lúa mọc chó chạy hở đuôi, người làm ra gạo mà
quanh năm thiếu gạo. Bởi eái mẫu hợp tác đánh
trống rồi ghi tên chấm điểm ngày một tạo nên cảnh
thằng còng làm thằng khườn ăn. Số người thoát ly
đồng ruộng ngày một nhiều. Mang tiếng là nông
dân, mà khối anh lại không phải chân lấm tay bùn.
ở trên có văn phòng ủy ban, văn phòng đảng ủy,
thì ở dưới có văn phòng hợp tác xã và ban chỉ huy
đội sản xuất. Đội cũng có phòng tiếp khách hẳn
hoi. Rồi các đoàn thể cũng có người thường trực ở
trên xã. ở đây còn chơi trội hơn các nơi khác, là
xã có cả một tổ truyền thanh tách khỏi sản xuất để
phục vụ loa đài cho các buổi họp. Vì không mấy
ngày ở xã lại không có cuộc họp. Mà bây giờ người
ta không chơi nói khan, phải có bàn, có bục, có
micrô để vừa nói vừa được nghe chính giọng nói của
mình được khuếch đại qua những tiếng lào xào của
cơ khí, có thế nó mới nổi mùi khoa học kỹ thuật?
Thành thử hàng ngày ở xã người cứ ràn rát, nhênh
nhang mà lại làm ra vẻ tất bật. Ai cũng cho là
mình quan trọng, không thể thiếu được. Tất cả số
người ấy hàng tháng được mua thóc ưu tiên ở kho
gọi là thóc điều hòa, chắc ăn bằng mấy những anh
còng lưng ngoài đồng. Thằng còng lưng làm ra
thóc, mà lại quanh năm lo méo mặt vì thóc. Thế
là thằng còng buồn bực, chán làm, chán đất. Nông
dân mà chán đất thì khác gì người sống bỗng dở
chứng chán cơm! Khác gì người lính chán vũ khí,
chán binh nghiệp. Người lính chán binh nghiệp thì
dễ chiến bại khi xung trận, còn nông dân chán đất
thì quanh năm có tháng giặc đói ngồi chồm chỗm
trong nhà!
Mới bắt đầu vào khoán, mà những chức danh tầm gửi
chuyên sống bằng ăn theo kia, xem ra đã lung
lay. Chủ tịch Sửu đã mấy lần đặt câu hỏi ra vẻ
cuống: Bây giờ lấy thóc ở đâu để chi? Các hộ nộp
sản phẩm là để đóng thuế cho nhà nước, vậy xàng xê
thế nào bây giờ?
Sang hè, trời cao, nắng no, lúa vàng như duối
chín. Vụ chiêm này trời đất đã trả công xứng
đáng. Bỏ rẻ cũng trên hai tạ một sào. Nhiều nhà
đã gặt non từ phiên chợ trước. Cái đói đã bị tống
khứ ra khỏi các ngõ. Những anh hay vác rá chạy
quanh, giờ có chất cơm mới, trông mặt mũi đã tí
tởn đáo để! Việc nhà nông lúc này ngập đầu ngập
mặt. Tháng năm chưa nằm đã sáng. Mở mắt ra, quăng
người xuống đất là tay năm tay mười.. Tất bật,
nhưng vui.
Thủ đạp xe thong thả. Đi hết con đường gạch rợp
bóng tre của làng là những quãng đường đất dẫn lên
xã. Hai bên lúa chín vàng ưng ửng. Nón mũ lấp
loáng. Chuyện râm ran. Nhìn thấy Thủ chuyện bỗng
lắng xuống. Những người đang lượm lúa ở cạnh đường
bỗng lảng lảng ra xa. Những ánh mắt liếc xéo xéo
dưới vành nón, nhìn Thủ kín đáo. Chỉ có vài người
gánh lúa lên tới đường không tránh được, dừng lại
chào Thủ với vé vừa rụt rè vừa săm soi. Thủ cố làm
ra tự nhiên như không có chuyện gì, gật đâu trả
lời, chân vẫn đạp thong thả. Nhưng Thủ biết người
ta đang bàn về chuyện ấy và ngay lúc này người ta
đã nhìn bí thư đảng ủy bàng con mắt khang khác
rồi.
Thủ cắm cúi đạp, tiếng líp mới kêu tanh tách. Bỗng
anh giật mình khi thấy xa xa phía trước một đứa bé
gái đang ôm cặp sách, vừa chạy gần vừa khóc. Nó
đang chạy ngược về phía Thủ. Thôi chết! Cái Hoa,
con gái út ông Hàm:
- Chú Thủ! Hư... Hư!...
Cái Hoa cung đã nhìn thấy ông chú qua làn nước
mắt lòe nhòe. Nó càng kêu nấc lên chạy và lại.
Nhưng khi còn cách Thủ dăm bước, nó bỗng đứng
khứng lại, chân dậm bành bạch xuống đất, tiếng
khóc càng vỡ ra, miệng lắp bắp:
- Chú Thủ! Bố cháu!... Hu hu! Tại chú! Chị Đào bảo
tại chú?
Rồi nó càng khóc òa lèn như bị đòn oan. Khuôn mặt
đẹp như vẽ của nó nhăn nhúm chìm đắm trong nước
mát. Thủ dừng xe, đang đứng như chôn chân, thì
cái Hoa đã vụt chạy sang lề đường bên này, vừa
chạy nó vừa gào lên: Tại chú! Tại chú! Rồi cứ tức
tưởi thế. nó chạy như bị xua đuổi về nhà
Sáng nay khi nó đang thiếp đi nặng nề, thì bà
Son lay lay người, gọi:
- Dậy ăn cơm còn đi học chứ.
- Hôm nay con vẫn đi học hả u? - Nó ngồi dậy, vừa
ngáp vừa hỏi. Bởi nó thấy mọi chuyện trong gia
đình bị đảo lộn lên tất cả rồi.
- Thế mày không đi học thì đi đâu? - Bà Son súc
miệng bên bể nước mưa, giọng lầu bầu.
Đào đã sắp liềm hái kéo xe cải tiến từ trong nhà
ngang ra sân. Theo dự tính, hôm nay hai mẹ con
sẽ gặt thửa ruộng xa nhất ở cánh đồng Mái Voi.
Nhưng Đào làm mà cứ như mơ ngủ. Đáng lẽ phải xếp
liềm hái vào xe cải tiến, thì cô lại ngoắc lên
mái gianh. Khuôn mặt trái xoan vốn linh lợi, tươi
rói, giờ nghiêm lạnh. Cặp mắt thiếu ngủ khô và
dáng như mắt người sốt. Chốc chốc lại nhớn nhác
nhìn ra cổng. Chỉ cần một tiếng động cũng làm Đào
giật mình. Bà Son vừa rắc gạo tấm chăn mái gà mới
nở kêu cục cục trong cái bu nứa. vừa nói với Đào:
- Con cứ ra gặt trước đi, để u lên trên ấy xem
việc ăn uống của thày thế nào.
Cái Hoa bưng bát cơm ra thềm đứng ăn. Cạnh đấy con
chó khoang nằm phủ phục, gối mõm lên hai nhân
trước. Cái mõm vừa tròn vừa ngắn, đó là dấu hiệu
con chó vừa khôn vừa có nết, chứng tỏ chủ nhân là
người rất sành chó. Con khoang lử đừ nhìn những
hạt cơm của cô chù nhỏ làm vãi, không buồn la
liếm. Cái đuôi xù to như bông lau trắng khẽ ve
vẩy. Mắt hiu hiu. Hình như nó cũng đang bận nung
nấu những ý nghĩ khuyển mã trong đâu nên coi
khinh những hạt cơm thừa! Không khí nhà cửa thật
trễ nải rêu rã. Ba mẹ con ngại ngùng không muốn
nhìn nhau cứ nơm nớp thấp thỏm thế nào, thấy như
mình đã bị gạt ra khỏi không khí đùm bọc của xóm
làng..
Khi cái Hoa đi học, thì nó càng thấy đứt đuôi là
nó bị hất ra khỏi cái quần thể tươi vui của chúng
bạn rồi. Chưa tới lớp, cái Hoa đã thấy đám trẻ con
chạy tong tả nháo nhác từ khu trường học bang khu
nhà uỷ ban. Hai bên chỉ cách nhau một mặt sân cỏ
vẫn dùng làm nơi kéo co cắm trại và đấu bóng
trong những dịp hội hè.
- Cái Hoa! Chúng mày ơi, ê cái Hoa!
- Ê cái Hoa!
Đám bạn kin kin chanh non chanh cốm vẫn nhảy dây
cùng cái Hoa reo lên, la lên và ánh mắt cửa
chúng bỗng nhìn người bạn vẫn được tiếng là xinh
đẹp và múa dẻo nhất trong đội văn nghệ của lớp lạ
hẳn đi. Chúng nhìn cái Hoa như nhìn một con mèo
lạ. Một đứa thì thầm:
- Thày mày ở bên kia kìa! Bị nhốt ở gian nhà kho
ấy. Đứng ngoài đếch nhìn thấy! Chỉ nghe tiếng anh
ưởng chửi om lên trong ấy.
Đám học trò văn theo nhau chạy à à sang khu nhà
uỷ ban, mặc tiếng trống vào lớp gõ bành bành như
vỗ mẹt và các cô giáo la gọi eo éo.
- Mày có đi không Hoa?
- Có đi xem thày mày không?
Đứa chạy đi đứa chạy về. Những ánh mắt nhai Hoa
hau háu giễu cợt, thiêu đốt. Thằng Đãi hếch, một
thằng nghịch nhất lớp, đen và rắn cấc như củ tam
thất, từ bên khu nhà ủy ban chạy về. Đến trước mặt
cái Hoa nó dừng lại, xỉa cái cầm nhọn và mỏng vẹt
vào sát tận mặt, cái mũi càng hếch ngược lên, hét
lớn:
- Ê! Con lão đào trộm mả! Ê, ác!
Cái Hoa òa khóc. Hai tay ôm lấy mặt, cặp sách rơi
xuống đất. Bọn trẻ càng ùa lại như xem xiếc. Đám
con trai nhảy tưng tưng, cùng bắt chước Đãi hếch
hô lớn:
- Con ông đào trộm mả! Ê! Có đứa bố đi đào trộm
mả!
Cái Hoa như cặp sách rồi vùng chạy. Vừa chạy vừa
khóc như bị đánh. Nó chạy về nhà. Mặc phía sau cô
giáo gọi ơi ới và tiếng ông hiệu trưởng già quát
mắng lũ con trai bất trị. Cái Hoa cứ chạy. Vấp
ngã, vực dậy lại chạy, chạy như bị đuổi bắt. Trước
mặt nó mọi thứ đều nhòe nhoẹt, ướt đẫm, tối sầm.
Cái Hoa như con chim non trúng tên, và kẻ gây ra
không phải là đám trẻ thơ đồng lứa, mà đích thị từ
chính người đã nâng niu tác thành ra nó!
Sau khi hét lên với ông chú có quyền thế nhất xã,
cái Hoa lại chạy riu ríu xuôi đường về nhà. Những
người đang gặt đều quay lên nhìn cảnh hờn dỗi của
chú cháu ông bí thư. Thủ đúng lặng một lát, rồi
đạp xe tiếp. Người nổi rôm lên. Thủ biết hàng mấy
chục con mắt đang ném vào người anh, mà chắc chắn
phần nhiều là sự hả hê thích thú.
Thủ vừa dắt xe vào cổng ủy ban, thì chủ tịch Sửu và
ông hiệu trưởng già đã xua được hết đám trẻ con về
các lớp. Sửu chạy lại phía Thủ:
- Đoàn kiểm tra xét hỏi khiếu tố của huyện về rồi
anh ạ. Bên nhà ông Phúc đưa họ ra đồi Sim để nhìn
hiện trường. Tôi đã bảo cậu Cao cùng đi.
Cao là phó ban công an, là cháu bên nhà vợ Thủ.
Anh chàng đã bị cánh nhà ông Phúc gọi giật ra
khỏi giường vợ hồi đêm. Vì dạo này ông trưởng ban
đi mổ dạ dày, nên mọi việc về an ninh Cao thay.
Đưa Cao cùng đi với đoàn kiểm tra của huyện, là
Sửu muốn nói anh đã kín cạnh đề phòng nhà ông
Phúc nói quá sự thực. Nhưng Thủ lại buông một câu
thờ ơ:
- Việc đã thế này thì ai đi chả được. Trên huyện
về mấy người?
Sửu vừa nói, vừa sít soa như đau răng:
- Ba người anh ạ. Một công an. Một người của viện
kiểm sát và một của ban nội chính. Trước khi ra
đồng, họ đã làm việc với tôi và cậu Cao. Như họ
nói thì căng đấy anh ạ. Tay công an làm trưởng
đoàn tôi chưa gặp bao giờ, mặt cứ lạnh như tiền.
Hắn bảo hồi cuối năm vừa rồi ở xã trên đã có vụ mấy
thanh niên nghe ai xui rằng ngôi mộ cổ đâu làng
là ngôi mộ giả của người Tàu họ giấu vàng đấy!
Người ta bảo trên mạn nhà máy Gò Đầm, đã có người
đào một ngôi mộ đúng hình dáng như thế đã vớ được
hàng ki lô gam vàng! Có cả một con vịt to bằng củ
khoai và bốn quả trứng đúc bằng vàng! Thế là mấy
thằng hám của bảo nhau thì ra vàng ở ngay trước
mũi mà không biết! Nửa đêm rủ nhau ra đào, Nhưng
vừa moi được vài sảo đất thì bị tóm. Thế mà tý nữa
bị tù ba năm. Vì trong luật hình sự có những việc
người ta cho phép xử rất co dãn Từ ba tháng đến ba
năm Vì ngôi mộ kia vô chủ không có chủ nhân đứng
ra kiện, nên mấy cậu thanh niên chỉ phải vác gạo
nhà đi lao động xã hội có nửa tháng thôi. Tôi có
hỏi tay công an trường hợp này nếu hai gia đình tự
dàn xếp được với nhau không phát đơn kiện thì thế
nào? Hắn bảo thế thì tốt quá, huyện đỡ mất công
việc. Cả bí thư và cả chủ tịch huyện rất ghét những
chuyện lình sình, vì dễ mất uy tín với trên. Nghe
nói cụ Luân bí thư rất buồn khi biết bác Hàm là
người nhà của anh.
Có mấy người đang thì thầm to nhỏ trong nhà ủy ban
vừa thấy Thủ lạch xạch dắt xe đạp đến, liền lảng
ngay. Cả ông bõ Vòi hôm nay cũng không chào hỏi
niềm nở như mọi khi, mà gù gù cái lưng trần đen
cháy đi như úp sấp về phía trước, lẳng lặng rút về
căn buồng tối như cái hầm của lão ở phía sau nhà
ủy ban Bõ Vòi là anh em cành trên với ông Đáng,
bí thư mấy khóa trước ở đây. Ông Vòi đi Nam kiếm
ăn từ năm 1954. Sau năm 1975 ông tìm về làng,
không những vẫn trơ trọi trên răng dưới dép một
mình mà không hiểu ăn chơi mang bệnh thế nào mà
Cái Vòi lại phải đệm thêm cao su vào! Vì thế người
mới bỏ tên tục, gọi là ông Vòi, ông sứt vòi! Ngày
bõ Vòi về làng, ông Đáng đang làm bí. thư vì thế
ông Vòi mới được ưu tiên nhận chức tạp vụ và ăn ngủ
luôn tại đây. Ngày ngày đun nước, quét dọn và đi
mua rượu khi xã động mâm bát. Trong những cuộc
chè chén người ta thường chuốc rượu ông Vòi để ông
kể những ngón ăn chơi ở Sài Gòn. Lầy lã, tục tiu
đến khỉ cũng phải đỏ mặt, nhưng từ bé chí lớn cứ
sán đến nghe như bỏ bùa, vừa nghe vừa đế thêm để
cười. Mặc dù là người phục vụ nhưng bõ Vòi hách ra
phết, không biết có phải lão cậy mình là người
thâm niên cố đế, hay là anh trưởng họ của cựu bí
thư mà ở đây chỉ trữ có Thủ và Sửu là lão gọi bằng
anh, còn lại mày tao tuốt tuột. Ngay Sửu, khi có
hơi men vào là lão cũng coi nhờn, ra ý không sợ
anh dân ngụ cư. Chỉ có Thủ là bõ Vòi cúc cung tận
tụy. ấy vậy mà hôm nay không chào mời, cũng không
nước nôi. Lão tránh cũng như những người kia tránh
để Thủ đỡ ngượng, hay họ đã dám lờn mặt Thủ?
Hàng ngày đến đây Thủ có niềm thích thú là được
nhấm nháp, được ngắm vuốt cái quyền của mình nó
hiện ra qua những săn đón, cung phụng ở xung
quanh, chứ Thủ đâu phải là người đam mê ăn nhậu.
Mà có khi nhấm nháp quyền lực nó còn râm ran thấm
thía hơn cả ăn nhậu! Có rượu, có chè thì Thủ cũng
uống chơi chơi cho vui, còn nếu cả tuần không co;
anh cũng không thấy bị thiếu hụt. Nhưng hôm nay
cái điều anh cần nhất, cái đã làm nên bầu không
khí để anh hít thở để tự ve vuốt đã bắt đầu bị
khiếm khuyết, bị thiếu hụt rồi.
Bước vào nhà, nhìn quanh, Thủ nói cao giọng,
nhưng vẫn mát mẻ:
- Nhà cửa sao ngập rác thế này? Đến hớp nước cũng
không có. Đây vô chủ rồi chắc?
Sửu cầm chiếc chổi phất trần quét những bã thuốc
lào đóm vụn trên mặt bàn. ở dưới kia bõ Vòi xách
chiếc siêu đi ra giếng. Cái dáng lật khật của lão
như muốn nói bây giờ tôi mới đun đây! Chẳng việc
gì phải rối lên! Thật là đã khác xa với tuần
trước, đảng ủy họp có tổ chức ăn tươi, vì bõ Vòi là
người điếu đóm, nên cũng hưởng suất ăn theo. Rượu
xong, lão đánh một giấc bí tỉ đến quá chiều. Đảng
ủy họp tiếp, không có nước uống, một người xuống
lay, bõ Vòi vẫn nhấm mắt, nằm đườn trên phản nói
làu bàu sặc mùi men: Làm thì cũng phải có lúc
nghỉ chứ ngậu xị cái con tửu gì thế Vậy mà Thủ chỉ
đứng ngoài sân nói mát vào: Vất vả lắm hả bác
Vòi? Từ mai chúng tôi thay nhau đun nước vậy nhá!
Thế là lão choàng ngay dậy như đã dã rượu hoàn
toàn, đi chui chúi cái đầu dùi đục vào bếp nhóm
lửa, khiến Sửu và mấy đảng viên khác thèm được có
cái uy như Thủ.
Vậy mà hôm nay... Thủ ngồi xuống ghế, nhìn vơ vẩn
lên những tấm bằng khen và cờ thi đua treo đầy
trên tường. Thế là chiếc phao anh ném ra để đo
cái uy của mình, rõ ràng đã tụt xuống quá thấp.
Mới hay bụng dạ người đời, thấy thịnh thì thờ, thấy
suy thì phản. Nhưng chả nhẽ ta đã suy? Thủ quay
sang Sửu đang thông điếu bằng chiếc lông gà, nói:
- Bây giờ tôi đi có chút việc. Anh ở đây tiếp
đoàn kiểm tra. Nói với các đồng chí ấy là tôi
không có đề nghị gì và tôi rất bực với việc làm
của ông Hàm. Vì tôi không biết, nên mới xảy ta
như thế. Bây giờ đi theo luật mà xử tội đến đâu
ông Hàm với thằng ưởng, thằng Ngạc phải chịu đến
đấy. Giờ tôi xuống dặn họ là không được có hành
động chống đối.
Rồi Thủ đi về gian sau nhà ủy ban, nơi ba bác
cháu ông Hàm vẫn nằm ngồi ngả ngốn. Thủm rộng cửa
sổ. Ông Hàm ngồi thu lu trên mặt bàn, im lặng như
một con cù rù. Ông ngước lên nhìn Thủ với gương
mặt hốc hác tối sầm.
- Em dặn bác điều này - Thủ thò hẳn đâu vào trong
cửa nói giọng trầm như vang- Cả thằng ưởng, thằng
Ngạc nữa, nhớ là không ai được phá bĩnh, không
được gây sự họ bảo sao làm vậy. Tất cả mọi việc để
tôi sẽ liệu.
Dứt lời, Thủ khép cửa, rồi xuống sân dắt xe đi
ngay. Vừa ra tới ngã ba, chỗ chiếc lều lão Quềnh,
thì gặp bà Son cắm cúi đi từ phía trên về. Bà
xách chiếc làn đan lõi guột đã ngả màu đen bóng,
lấp ló một đùm bún lớn trong ấy.
- Kìa chú Thủ, thế chú định giải quyết việc này
thế nào? Bà Son đứng sững nhìn Thủ trưng trối. Thủ
cố làm ra vẻ bình tĩnh:
- Sẽ tìm cách gỡ sau, chứ bây giờ biết làm thế
nào. em vừa dặn ba bác cháu rồi, nhưng tí nữa bá
nhớ nói thêm là phải bình tĩnh, không được chống
đối bậy bạ, rồi em sẽ liệu.
Dứt lời, Thủ đạp xe đi ngay, làm như đang rất vội
vã. Bà Son đi tắt vào phía sau nhà uỷ ban. Đây
là bữa tiếp tế đầu tiên của bà cho người tù. Trong
làn là hai cân bún và cút nước mắm ớt. Lúc nãy ở
nhà bà Son đang tính không biết nên mang cơm hay
mang tiền đi lên quán bà Cả Lợi mua quà cho ông
Hàm, thì mẹ thằng ưởng và thằng Ngạc đến, lu loa
từ ngoài cổng. Mọi bận hai bà chị họ vốn túng thiếu
này vẫn thường đến vay mượn vợ chồng ông Hàm, nịnh
bà Son phải biết. Bây giờ vừa trông thấy bà Son,
hai người đã nhảy thách lên, rằng là cậu mợ hại
tôi, chúng nó trẻ người non dạ, có lớn mà chưa có
khôn, nghe ông Hàm xui dại làm điều sằng bậy, giờ
biết cậy nhờ ai? Lúc này ngày mùa nhìn đâu cũng
thấy việc, thế mà người ăn thì có người làm thì
không. Đào đâu ra tiền ra gạo, lấy người ở đâu để
đi hầu chúng nó bây giờ? Bà Son biết hai bà chị họ
đến bắt đền, giao phó mọi chuyện cho bà đây, nên
bà dễ dàng bảo:
- Thôi việc thế nào đã có xã, có huyện, còn
chuyện ăn uống hai bác khỏi lo, em sẽ nấu nướng
cho cả ba bác cháu.
Sức ăn của hai thằng thiên lôi, thằng ưởng, thằng
Ngạc ấy, bà Son biết lắm. Mỗi khi có việc nhờ đến
sức trâu lăn của chúng, thì bà phải chuẩn bị có đủ
ngọt bùi cay đắng. Thức nhắm phải nhiều, rượu phải
như sáo tắm. Riêng hai thằng mỗi bữa đánh bảy cân
rưỡi gạo! Cho nên với hai cân bún này ông Hàm chỉ
ăn uống cảnh vẻ, còn lại để cho hai thằng ăn lót
dạ!
Thấy bóng bà Son, Sửu đi xuống mở cửa. Tay xách
theo tích nước, miệng nói nhỏ:
- Đoàn kiểm tra của huyện sắp ở đồi Sim về đấy,
bác giục ăn uống nhanh lên.
Rồi Sửu càng hạ giọng như thì thầm:
- Tình hình gay lắm bác ạ! có khi cả đồng chí Thủ
cũng bị liên đới!
Mở khoá xong, Sửu quay lại ngay. Mặt bà Son cứ
tái bợt. cũng như những người dân quê thuần phác,
những từ thanh tra, kiểm soát, toà án, đối với Bà
Son nó gợi cái gì rất dao búa kinh khiếp! Bà Son
chỉ mở hé một cánh cửa. Bà biết mấy người đang ở xa
nhìn lên. Đặt làn bún và tích nước lên bàn, bà
nói sẽ sàng.
- Bác cháu dậy đi, súe miệng rồi ăn tạm bát bún.
Bà quay sang ông Hàm, khi Thủ đi, ông lại nằm
dài ra.
- Thầy nó dậy súc miệng có nước nóng đây.
Ông Hàm làn như bây giờ mới tỉnh ngủ, vươn vai ngồi
dậy, bối rối nhìn vợ. Cả hai cùng thầm kinh ngạc
khi thấy những nét võ vàng trên mặt nhau. Thì ra
người ta có thề già đi đến mấy tuổi, bạc một nửa
đầu chỉ trong một đêm là có thật!
- Thày nó này? - Bà Son nói nhỏ - việc đã thế
rồi, giờ người ta bảo thế nào, thầy nó với cháu
nghe thế, chứ đừng gây thêm chuyện gì nữa. Rồi chú
Thủ chú ấy sẽ liệu.
Ông Hàm ư hàm trong cố, ra vẻ đã nóng mắt. Đây là
lần đầu ông phải nghe những lời khuyên giải của
vợ. Ông nói gằn giọng:
- Mẹ nó không phải lo. Cả thằng ưởng, thằng Ngạc
cũng không phải lo, có gì tao sẽ chịu tất.
- Tôi nói thế là lo cho thầy nó, chứ tôi thì...
Bà Son chưa nói hết câu, thì ngoài cổng có tiếng
nhốn nháo. Thấp thoáng những gương mặt lạ. Người
xách cặp, người đeo túi. Nối lên phía sau với
dáng ông Phúc cao lớn đẫy đà. Ông đội chiếc mũ
cát có vòng băng đen. Họ từ ngoài Đồi Sim về.
Đang dở những con bún tay, bà Son chợt run lên.
Ông Hàm nói gì, thằng ưởng, thằng Ngạc nói gì, bản
thân mình trả lời ra sao, bà Son hoàn toàn không
biết, không cảm được gì nữa. Mọi tinh thần của bà
dồn vào thính giác hướng lên nhà uỷ ban, lòng bồn
chồn thắc thỏm. Đến khi Sửu cho người xuống gọi ba
bác cháu ông Hàm lên hội trường, rồi một giọng lạ,
rất vang dõng dạc đọc những câu lủng xoảng: Theo
luật hình sự, công dân Trịnh Bá Hàm cùng một thời
gian đã phạm hai tội...
Bà Son bỏ bát đua đang dọn, bíu tay vào song cửa
sổ, mắt nhìn dại đi, nhìn mà không thấy gì! Rồi
những tiếng à à ầm ầm nổi lên? người ở trong thì
dãn ra ngoài, người ở ngoài thì xô vào. Một lớp
học đến giờ ra chơi: trẻ con đổ oà sang như ông vỡ
tổ, la hét ầm ĩ. Bà trông thấy phó ban công an
vừa xua chỗ này, vừa gạt chỗ kia, miệng là hét dọn
lối. Rồi người ta dẫn bác cháu ông Hàm đi. Đến khi
nhìn rõ ông Hàm đi đầu với cái dáng hơi lùn, to
ngang, mái đầu muối tiêu cúi cúi, rõ là cái dáng
của kẻ chịu tội, thì bà Son cứ kiễng chân lên để
nhìn xem ông có bị trói bị còng không, nhưng đám
trẻ con nhốn nháo xung quanh che lấp cả ba người
tu. Bà Son tựa vào bờ tường, nhợt nhạt cá chân tay
mặt mũi. Những giọt nước mắt dài lăn xuống. Đến
khi nghe tiếng gọi:
- U ơi đi về còn ở đây làm gì.
Đào đã đến từ lúc nào. Quần xắn ngang gót chân,
chiếc áo với những đóm hoa xanh tươi mát như những
hạt mưa rắc lên người, nhưng mặt Đào rõ ràng là
đang có lửa. Cặp mắt rừng rực. nghiêm lạnh. Đào ra
đồng đã gặt được một lúc. Nhưng thấy khắp nơi người
ta cứ rì rầm, nhìn mình soi mói, Đào liền bỏ gặt,
xăm xăm đi về. Tới nhà thấy cái Hoa đang nằm khóc
rấm rứt, Đào quát ầm lên, rồi đạp xe lên xã với
đây vẻ thách thức. Nào, ai dám khinh thường, ai
dám bổ báng thì cứ ra đây Đây chưa chết đâu mà
vội múa tay trong bị! Đào sẽ lên xã, trước bàn dân
thiên hạ để nhìn rõ những ai đang hí hửng rậu chưa
đổ mà bìm đã leo. Đồng thời Đào lên đấy để nhìn
rõ cái người ném đá dấu tay kia, xem anh ta thoả
chí đến mức nào! Xem anh ta có dám nhìn thằng
vào Đào không. Ai chứ với riêng anh ta nếu cần
Đào sẽ...
Khác với Mỹ Châu xưa, cho tới lúc nhận nhát gươm
của vua cha, nàng Mỵ Châu hiền vẫn không mảy may
nghi kỵ người yêu mình lại là tên phản bội. Còn
các cô gái ngày nay họ đã khôn ngoan lắm rồi!
Xin đừng thổi vào tai họ những tấm lòng vàng đá
của các tiên nữ xưa? Này này các chàng trai
thích mơ mộng! Anh muốn làm Trọng Thuỷ để hưởng cả
mối tình và niềm tin của người yêu ư? Giàu trí
tưởng tượng quá đấy? Không khéo chính họ lại dẫn
anh lên đầu đài!
Với Tùng lúc này, Đào đã quyết? Nhưng Đào lên tới
nơi, thì người ta đã dẫn bác cháu ông Hàm đi rồi.
Chỉ còn những tóp túm năm tụm ba rì rầm to nhỏ.
Trông thấy Cao, phó ban công an, Đào vẫn ngồi
trên xe, hỏi:
- U em đâu anh Cao?
Cao hất hàm ngoắt tay. Đào mắm môi đạp qua những
mô đất lởm chởm, ném tia mắt choi chói ra xung
quanh. Cô nhìn lục lọi nhưng không thấy bóng Tùng
đâu. Hay hắn không đến? ờ phải, những người quen
sống bằng những âm mưu, thì không phải họ chỉ hành
động vụng trộm, mà ngay cả lúc cái mưu thành rồi,
họ chỉ dám mừng một cách lén lút mà thôi!
- Về đi U - Đào lại giục bà Son - Chưa chết đâu
mà lo! Giờ u cu về trước, con đạp xe lên huyện để
xem người ta để thầy ở chỗ nào còn lo cơm nước.
Vừa nói lẩm bẩm, Đào vừa dọn bát đũa, gói chỗ bún
thừa còn lại. Hôm nay hai ông thần sùng cũng nuốt
không vào, đùm bún vẫn còn quá nửa.
Đừng có dại mồm dại miệng nữa con - Bà Son đưa ống
tay lau mặt giọng rầu rĩ. Lên trên ấy xem thế nào
rồi về ngay Đào nhé.
Bà Son xách làn, đội nón đi cụm cúp ra về. Một
người đàn ông đạp xe từ trong cửa hàng mua bán đi
ra. Thấy bà Son, người đàn ông phanh kít xe lại.
Bốn mắt nhìn nhau sửng sốt. Nhưng rồi rất nhanh
cặp mắt bà Son đanh lại, và miệng bà bỗng bật ra
những lời chì chiết:
- Thế là ông đã hại tôi! Đã giết tôi! Bao giờ ông
cũng là vừa được ăn vừa được nói!
Ông Phúc, phải đấy, chính là Vũ Đình Phúc, người
tình si mê đầu tiên của bà Son, và bây giờ đang
là tử thù của vợ chồng con cái, của cả họ hàng nhà
chồng bà. Sau phút bối rối, ông Phúc dằn giọng:
- Nhưng tại ai? Bà không thấy làm thế là độc ác
à?
Bà Son nhìn trân trân:
- Nhưng ông ấy là chồng tôi!
- Là gì thì cũng phải có đúng, có sai, ác giả ác
báo. Bà còn oán cái gì?
Bà Son vẫn chỉ một câu:
- Vì ông ấy là chồng tôi!
- Là chồng bà thì được làm càn à? Được làm việc
thất đức à?
Cặp mắt lá răm của bà Son ném những tia chói sắc
vào gương mặt vuông vức với cái cằm rất đầy, lởm
chởm những râu của ông Phúc:
- Ông không phải bẻ hành bẻ tỏi, ông đi đi!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chín - VN thu quan
Khi Đào kéo chiếc xe cải tiến thậm khích đưa
chuyến lúa cuối cùng về tới nhà, thì trời vừa tắt
nắng. Đào xếp lúa thành đống giữa sân, quay vào
hỏi bà Son đang lúi cui trong bếp, mùi cá kho
với riềng từ trong ấy bay ra thơm đậm: Thím Thủ
với các cô ấy về rồi hả u?
Bà Son nói vọng ra cụt lủn:
- Về rồi!
Chiều này cả vợ Thủ cùng hai người em gái ông Hàm
cùng đến gặt cho bà Son. Bình thường những bữa anh
em giúp nhau như thế này là ông Hàm tổ chúc ăn
rất sang. Cá kéo dưới ao, gà nhốt sẵn trong
chuồng, rượu cất từ mấy hôm trước ông Hàm bao giờ
cũng muốn chứng tỏ cả uy thế và sự sung túc với
anh em họ hàng.
Nhưng hôm nay mấy người đến gặt giúp đã nói trước
với bà Son từ chiều là gặt xong về ngay, vì còn
bận nhiều việc ở nhà. Ai cũng biết đó là lý do vờ
vịt, cái chính là lúc này còn vui vẻ gì nữa mà ăn
với uống.
Bà Son về trước nấu cơm, để rồi còn mang lên cho
bác cháu ông Hàm. Bà sợ để Đào mang đi nó sẽ gây
nhiều chuyện. Con bé ương như ổi, đúng là giỏ nhà
ăn quai nhà ấy. Lúc sáng lên huyện, gặp mấy người
ở xã này làm việc trên ấy, thấy họ nhìn với vẻ
giễu cợt, Đào đã đớp lại luôn:Thầy tôi sai đã có
pháp luật phân giải, chứ chưa phải cần đến mấy ông
bà! Bà Son xếp liễn cơm, âu thức ăn và cà men
canh vào chiếc làn lõi guột, rồi lấy mảnh áo mưa
chèn xung quanh cho chắc. Cơm trắng cá trê ướp
riềng kho khô, canh khế chua, đấy là những thứ
ông Hàm thích ăn. Mặc dù lòng bà đang tan nát,
thấy số mình sao mà đen như quạ, quýt làm cam
chịu. Mang tiếng là chồng con nhà cửa đề huề, cả
đời chưa biết đến cái đói, cái rét. Nhưng hỏi tó
bao nhiêu ngay bà thấy mình được sung sướng mãn
nguyện? Có bao nhiêu phút bà được trôi nổi trong
ngọt ngào mê đắm? Đã bao giờ bà thấy mình và ông
Hàm là một đôi cá thờn bơn, mỗi người chỉ có một
nửa tấm thân, một nửa cặp mắt nhìn, một nửa đôi
mang thở, nên lúc nào cũng hoà nhập, tuy hai mà
một, lúc nào cũng quấn quít đắm say? Đã lúc nào
bà thấy mình như vậy? Chưa! Đã bao giờ bà thấy
mình là một cành tầm gửi, và ông Hàm là một cái
cây vững chắc để bị bíu vào, tựa vào? Chưa! Chưa
bao giờ! Nhưng bà đã làm hết bốn phận của một người
vợ, tận tâm, tận lực, chứ không một lời thở than
oán trách.
Bà Son buộc chiếc làn vào sau xe đạp, quay sang
bảo Đào:
- Hai chị em có đói cứ ăn trước đi. Từ sáng đến
giờ em nó ăn ít lắm đấy.
Đào vẫn tiếp tục xếp lúa cao như bức tường thành
giữa sân, ngửng lên:
- U cứ đi đi con nhớ. Cái Hoa có đói để nó ăn
trước.
Xếp xong lúa, Đào kéo chiếc máy tuốt răng khế ở
dưới nhà ngang ra sân. Cô cuộn tóc lại thành một
búi tròn sau gáy, trùm lên đâu chiếc khăn hoa để
khỏi dính thóc dính bụi. Rồi vẫn chiếc áo phông
màu be rất bén, hai cánh tay cứ để trần tròn lẳn,
trắng hồng, khoẻ mạnh và rất thành thạo công việc.
Một tay cầm lượm lúa để sát vào trục máy với những
hàm răng khế bằng sắt sáng loáng, một chân đặt
trên bàn dận, ấn mạnh, vòng trục càng quay tít
mù, phát ra tiếng xình xình dồn dập, khiến những
hạt thóc bị bứt ra càng nhanh. Không đầy một phút,
lượm lúa vàng mẩy đã trơ trụi chỉ còn là một bó rơm
xơ xác, tuốt sạch cả những hạt xanh, hạt lép. Tay
Đào liên tục ném rơm ra xa, rồi với ra sau rút
từng lượm lúa áp vào trục tuốt. Tấm thân thon chắc
mềm dẻo như một cành liễu, như một sợi mây của cô
nghiêng nghiêng bên máy tuốt, loang loáng giữa
những màn mưa thóc. Một bức tranh sống động hoà
mình vào công việc của thiếu nữ đồng quê.
Cái Hoa đuổi trâu vào chuồng, rồi con cón chăn
lợn, chăn gà, lặng lẽ như bà cụ non, chứ không
nhảy nhót vòi vĩnh như mọi hôm. Con khoang hình
như sau những ngẫm nghĩ dông dài quên cả ăn, bây
giờ đói ngấu, lại trở về đúng bản tính loại
khuyển, nhảy ra tranh từng hòn cơm nguội với đàn
gà. Chúng đối thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ bất
đồng. Mấy chị gà con mọn xòe cánh, mắt long lên,
xù lông cồ, ném ra những tiếng túc túc chói
chát, ra điều bực lắm vì bị tranh phần. Còn anh
chàng khoang đánh bài lì, chỉ gừ gừ cục cằn, nhưng
vẫn tắc lẻm những hạt cơm rất nhanh. Cả góc sân
vang động lên. Duy chỉ có hai cô chủ là lặng lẽ,
chân tay làm thoăn thoắt, nhưng miệng nin thinh.
Bỗng con khoang sủa lên một tiếng, nhảy chòm ra
ngỏ, nhưng rồi nó rít lên ư ứ và vẫy đuôi mừng.
Thủ lạch cạch dắt xe từ ngoài vào.
- Chú đấy ạ? - Đào ngừng tay chào.
Cái Hoa vội thụt vào bếp. Nó sợ ông chú đến là vì
nó nói hỗn lúc sáng.
- Bá có nhà không? - Thủ hỏi.
- U cháu đi đưa cơm... Đào nói ngập ngừng, nhìn
một bên má Thủ với lưỡng quyền nhô cao trong bóng
tối nhá nhem. Đào bỗng bùi ngùi thấy ông chú vốn
cân đối, dầy dặn của mình giờ chợt gầy đi với dáng
điệu thật âm thầm.
- Tý nữa bá về bảo sang chú có việc nhá.
Thủ nói nhanh, rồi quay xe. Đào như sực tỉnh:
- Chú vào nhà uống nước đã. U cháu sang có việc
gì ạ?
Thủ buông sõng:
- Việc thầy mày chứ còn việc gì - Rồi Thủ nhảy lên
xe mất hút vào bụi hóp đã tối thẫm ngoài đầu ngõ.
Đào tuốt lúa một lúc nữa. Khi thóc đã lùm lùm
quanh máy tuốt, cô vun đống lên rồi mới nghỉ. Đêm
xuống.
Cái Hoa ăn cơm một mình xong, theo nếp quen, đốt
chiếc đèn con mang lên bàn học ở góc nhà. Nó giở
sách, nhưng cứ ngồi thừ ra: Những hàng chữ, những
con số cứ lỏn nhỏn tẻ ngắt trước mắt nó. Trong trí
nó lại hiển hiện một đám trẻ ầm ầm ào ào đứa thì
cười cợt, đứa nhìn như xỉa xói. Thằng Đãi cái thằng
đen như củ tam thất với hai con mắt rô; như mắt
cua, trợn trửng trợn trạo, hét lên the thé: Con
lão đào trộm mả! Ê, ác! lại vang lên bên tai.
Nghĩ đến buổi đi học sớm mai, cái Hoa chợt so vai
lại, rùng mình.
Thấy Đào đang giũ khăn, giũ áo bờm bợp ngoài sân
cái Hoa nói với ra:
- Chị ăn cơm chưa? Em nhóm lửa hâm lại canh nhá!
Canh cá để nguội tanh lắm.
Đào biết đứa em út đang không thể ngồi yên mà học
được, con bé có nết lắm. Đào nói, cố ra vẻ thản
nhiên:
- Mày cứ học đi, chị chờ u về cùng ăn một thể.
Rồi cô lấy quần áo, cầm chiếc đèn con đi ra giếng.
Có một bóng đen đang đứng nép vào bụi hóp ngoài
ngõ từ lúc nãy. Đứng đấy có thể nhìn rõ cả nhà
trên nhà dưới ông Hàm, mà trong này không tài
nào biết được. Đến cả con khoang tinh khôn cũng
không ngửi thấy có hơi lạ. Thấy Đào đi ra giếng,
bóng đen lập tức khom người chạy tất qua bãi chè,
rồi đi thật nhẹ, thật nhanh, rồi men sát vào hàng
rào cúc tần kề ngay bờ giếng.
Đào kéo nước đổ vào chiếc thau to, rồi quay vào
buồng tắm quây bằng lá cót sơ sài, tựa vào chính
hàng rào cúc tần ấy. Cũng giống như nhiều vùng
nông thôn có cách nghĩ rất cộc lệch trong việc ăn
ở, sinh hoạt. Nghĩa là nhà thì xây rất to, chuồng
lợn chuồng gà cũng xây kiên cố, trộm cắp chỉ có
khóc! Nhưng chủ nhân lại không hề nghĩ phải làm
cái nhà vệ sinh cho ra hồn, mà chỉ quây mấy cái
gianh cỏ rất tạm bợ ở góc vườn như kiểu lính đi dã
ngoại. Nhiều người đến nay vẫn thích hưởng cái thú
từ cổ xưa nhất quận công, nhì ỉa đồng! Nhà ông Hàm
đã bỏ cải thú phóng túng ấy rồi! Nhưng ông vẫn
chưa hề nghĩ đến sự cần thiết phải xây một cái nhà
tắm cho đàng hoàng. Vì thế nhà trên nhà dưới bề
bề, giếng xây kiên cố, bể chứa nước mưa bằng cả
gian nhà có mái che tử tế, nhưng cạnh đấy nhà tắm
chỉ là một lá cót mỏng manh quây phập phà phập
phồng, phía sát rặng cúc tần lại thủng lô chỗ,
nhưng bên ngoài là vườn chè ít người qua lại nên
cũng không ngại.
Xách thêm một xô nước, rồi Đào kéo ngược chiếc áo
phông, trút khỏi người. Một nửa tấm thân với lườn
lưng, lườn bụng thon chắc, trắng hồng, mơn mởn
trong ánh đèn. Khuôn ngực vun đầy, tròn căng với
hai núm nhọn cong vểnh lên cứ như cựa quậy trong
lớp vải mỏng của chiếc áo xu-chiêng cùng màu hoa
đào nhạt. Khắp nhà tắm ấm sực mùi da thịt con gái
rừng rực những nhiệt. Đào vừa vòng tay ra sau lưng
để mở khuy trút nốt vuông vải trên người, thì bỗng
một tiếng gọi hào hển lẫn trong hơi thở kề sát
ngay bên ngoài, phía rặng cúc tần:
- Đào! Đào ơi!
- A! - Đào gần như dựng bắn người lên, hét lạc
giọng, tay cuống quít vơ áo cuốn vào người.
- Kìa đứng sợ! Anh đây! Anh đây! - bên ngoài
tiếng Tùng lào thào hối hả.
Cái Hoa từ trong nhà lao bổ ra cửa, hỏi hoảng hốt:
- Chị Đào sao thế?
- A không, có con rắn ráo vào nhà tấm, nhưng chi
đuổi đi rồi!
Ngó ra nhìn thấy cái Hoa đã vào nhà, Đào vẫn hai
tay cầm áo trùm lấy ngực, quay sang rít giọng:
- Anh cút đi ngay! Còn tới đây làm gì? Anh là
người lừa lọc! Ném đá giấu tay! Anh còn muốn ám
hại nhà tôi những gì nữa hả? Hả?.
Tiếng Tùng như rên lên:
- Kìa Đào! sao em nói thế? Sao nghĩ về anh thế?
Anh có làm gì...
- Lại còn làm gì à? Anh tưởng tôi ngu tôi không
biết anh làm gì thầy tôi à? Chính anh đã đi báo
cả họ hàng nhà anh đến bắt thầy tôi! Anh lại định
chối bay chối biến hả?
Đào như muốn hét lên. Tùng vẫn kiên nhẫn đến khổ
sở:
- Em nghĩ sai rồi! Vu oan cho anh rồi! Thế chả
nhẽ em cho việc làm của thầy là đúng?
- Sai! thầy tôi sai! Nhưng làm gì anh phải bày
ra trò bắt bớ đề bêu riếu? Sao anh không ra một
mình đánh động để họ bỏ chạy? Anh thù ghét thầy
tôi thế à? Anh muốn gì? Muốn yêu con người ta, mà
lại bày trò giết bố người ta! Hay anh muốn bố tôi
phải van xin anh? Còn lâu nhá? Bố con tôi không
hèn thế đâu? Tôi chưa thừa, chưa ế thế đâu? Anh đi
đi! Tôi từ anh?
- Kìa em! kìa Đào! Sao anh lại nghĩ xấu về anh
đến thế?
- Tôi đã bảo anh đi đi! U tôi về bây giờ thì
không ra gì đâu.
- Khoan nghe anh nói đã!
- Hết rồi! Không nói niếc gì nữa! Anh đi đi? Nếu
không tôi sùy chó!
Vừa lúc đó tiếng cô bạn Minh tồ giọng eo éo ngoài
ngõ:
- Đào ơi! giữ chó cho tao! Đã đi ngủ hay sao mà
tối thế này?
Cái Hoa ở trong nhà chạy ra. Bên ngoài rặng cúc
tần bỗng phì lên một tiếng thở dài như đồ sụp cả
người xuống! Rồi tiếng bước chân đi lạt sạt, ngược
về phía hồi nhà. Đằng ấy ông Hàm có mở một ngõ nhỏ
thông ra cánh đồng. Tùng đã thuộc tất cả đường
ngang ngõ tắt nơi đầy. Nhưng bây giờ sự thông
thuộc ấy còn được cái tích sự gì!
Tùng đi tắt qua bãi chè nhà ông Hàm với những
hàng, những lối thẳng tắp như dây căng kẻ chỉ. Ra
tới đường chính, Tùng không rẽ theo lối về nhà, mà
lại men theo bờ đi ngang qua những thửa ruộng
đang gặt. Gió thồi lào sào, những bông lúa chín
cọ vào nhau ram ráp, nghe khô ấm. Muỗm, cào cào
bay tanh tách, phóng những đôi càng gai gai hôi
mùi cỏ vào người Tùng. Mùi lúa chín, mùi chân rạ
vừa cất thơm ngan ngát khấp cánh đông. Năm nay,
hiếm mưa. Bây giờ đã sang tháng năm ta, tháng
bước vào làm vụ mùa, nhưng trời vẫn khô rong róc,
cao tắt cứ như bị vất kiệt nước. Những mặt ruộng khô
cứng lại, đi gặt không cần sắn quần.
Tùng vẫn đi lơ lửng giữa cánh đồng. Phía trước, xa
hút trên cao, mảnh trăng non trôi bồng bềnh
trong những dải mây mỏng như những chiếc khăn voan
vắt tung giữa trời., Trăng trôi hay mây trôi? ở
dưới này Tùng cũng như đang trôi nối giữa cánh
đồng đêm. Đi vào nơi vô định? Tùng không biết.
Anh cứ đi, châng lâng, thập thõm. Lòng rối bời.
Thế là hỏng hết rồi! Không cứu vãn được nữa rồi!
Không phải chuyện giận hờn đùa bỡn như những lần
khác đâu. Tùng biết tính Đào lắm, đấy là người
nồng nhiệt cứng cỏi đến bướng bỉnh. Hắn đã quyết
thì khó lay chuyển lắm! Thế là tuột khỏi tay con
cá to, con chim đẹp nhất vùng này! Buổi trưa nghe
mấy người nói Đào đạp xe lên xã, rồi lên huyện với
điệu bộ nghiêm lạnh, bất cần như sẵn sàng to tiếng
với ai, Tùng đã chột dạ. Tối ăn cơm xong, Tùng lại
ra gốc nhãn với lòng bồn chồn, lờ mờ thấy có điều
chẳng lành. Bảy giờ đến bảy giờ rưỡi tối, đấy là
khoảng thời gian hẹn hò hai người ở gốc nhãn. Đào
ở xóm Giếng Chùa ra, Tùng ở xóm Mới lại, ùa đến
nhau, ào đến nhau, rồi chỉ còn là sự mê đắm, không
còn biết trời đất xung quanh đâu nữa. Tối nay,
Tùng lại háo hức ra, rồi ngồi trên cái rễ đội gồ
lên khỏi mặt đất, ngước nhìn ba chạc cây đan vào
nhau như cái sàn ở trên đầu, lại nghĩ tới buổi tối
hôm qua ngồi ôm chặt ngang người Đào trên ấy,
trong lúc toàn thân cô trẹo trọ như muốn ngã.
Ngồi thẫn thờ một lúc, Tùng choáng người lên khi
bỗng nhận ra chắc chắn là tối nay Đào không đến.
Giữa lúc chuyện nhà bối rối thế này, mà ta muốn
Đào quên hết chỉ nghĩ đến ta, chỉ vì ta, thì thật
ích kỷ. Tùng đứng dậy, đi theo lối tắt, lối quen
thuộc vẫn dẫn Đào ra gốc nhãn. Đi, mà lòng Tùng
vẫn thắc thỏm nghĩ biết đâu lại gặp Đào ở giữa
đường. Thấy anh, cô sẽ chạy ào đến, ngã vào ngực
anh mà nghẹn ngào thổn thức:Em buồn quá anh ơi!
Em xấu hổ quá. Không hiểu sao thầy lại làm như
thế. Bây giờ thì hai họ lại càng ghét nhau, việc
của chúng mình rồi sẽ ra sao?
Tùng sẽ ôm vai Đào, vuốt tóc Đào mà thì thầm: Rồi
sẽ qua! Rồi sẽ đâu vào đấy! Anh cũng buồn nẫu
người, thấy chúng mình sao mà gặp nhiều chuyện
trắc trở thế. Nhưng ta không lùi bước? Không đầu
hàng! Nếu cần ta sẽ dùng tổ chức, dùng luật để ép
các cụ! Thế đấy! Tùng đã tưởng tượng ra thế đấy!
Thật là hão huyền cho anh chàng tình si! Cho tới
lúc nhìn thấy Đào tuốt lúa một mình trong bóng
tối sờ sẫm, Tùng vẫn nghĩ vì Đào buồn, nên không
muốn ra chỗ hẹn. Đang tìm cách đánh động để Đào
biết, thì thật may Đào đã nghỉ. Và khi thấy Đào
ra giếng tắm, thì Tùng nảy ra một ý định trêu
chọc. Ta đứng sát vào bờ cúc tần, nhìn qua lỗ
thủng của phên cót để dành cho em một sự bất ngờ.
ờ phải, ngày đi học thầy giáo dạy văn còn đọc cho
cả lớp nghe bài thơ nói về anh con trai rình trộm
xem người yêu mình tắm kia mà. Khi say nhau thần
diệu thế đấy! Đến cái việc tắm táp của người yêu
cũng có thể biến ra thơ, ra nhạc được! Đào ơi! ối!
Đừng sợ, anh đây! Anh đứng gác cho em đây! Sao
anh liều thế? Đi đi cái Hoa nó biết bây giờ. Em
sẽ ra ngay. Không ai biết đâu, anh đặc công vào
kỳ lưng cho em nhé! Hí, hí! Khi chạy đến bờ cúc
tần, Tùng đã tướng tượng ra cảnh đối đáp kỳ thú
như thế! Nhưng rồi Tùng đã nhận được gì? Một thùng
nước lạnh? Không, hơn thế nhiều! Đào đã tung gio
ném trấu, đã hắt bùn ném đá tới tấp vào người
Tùng? Thật là tối tăm mặt mũi?
Những lời nanh nọc của Đào, đấy là cô đã cấm chợ
ngăn sông, đã rào gai dấp ngõ, đã đào mương đắp
luỹ giữa hai người. Đào cô gái tươi dòn, mạnh me
và đam mê, tối tối vẫn run rẩy ấm mềm trong lòng
Tùng, giờ kiên quyết vạch một đường giới tuyến và
đẩy phắt Tùng bang bên kia bờ!
- Ai kia? Làm gì mà lục sục dưới ấy? - Bất chợt
một tiếng hỏi như quát ở phía trước, cách Tùng một
mặt ruộng.
Cứ đi lơ lững không chủ định, mà Tùng đã tới chân
đôi Quả Bầu lúc nào không hay. Đây là quả đồi
thấp, nhiều đất đỏ, đất sét rất nạc, nên khắp mặt
đồi nham nhở những hố người ta đào đất, nung gạch.
Trước mắt Tùng, bên chân đồi, một chiếc lò gạch
loại nhỏ đang đỏ rực. Lửa phun qua những kẽ nứt
sáng xanh như những lưỡi kiếm. Lửa nung hồng lớp
gạch mộc đắp bên ngoài, khiến nhìn ra cả lô gạch
như một quả gấc chín đỏ treo trong màn đêm.
Đấy là lò gạch của ông Chỉnh, trung tá Chỉnh, người
có cấp hiệu cao nhất làng, nhưng cũng là người vất
vả lận đận nhất trong số những người về hưu của
Giếng Chùa. Thông thường không ai dở dói đất gạch
vào lúc này, vì sang mùa mưa, và là mùa gặt, mùa
cày cấy. Nhưng ông Chỉnh đang giở việc. Làm chưa
xong nhà trên, mà gạch ngói đã thiếu be bét. Làm
ruộng thì ra, làm nhà thì tốn, vậy mà đồng chí
trung tá dự trù cái gì cũng sát sao vừa đủ, cứ
như biên chế quân lính vào các đơn vị, cho nên
giữa mùa làm, ông chủ vụng vẫn quyết bới đất nung
gạch. Và đúng là thánh nhân đãi khù khờ sang
tháng năm tháng mưa ráo trắng ruộng, mà trời cứ
như văn vắt, đến cầm sào chọc cũng không ra nước.
Chú Chỉnh, cháu đấy, Tùng đáp - Vừa nói, Tùng vừa
đi tắt qua nữa vạt ruộng đang gặt giở, đi thẳng
lên lò gạch, cứ như cái khối lửa đỏ rực nầy hút
anh từ xa bước tới.
- ờ Tùng đấy à? Đi bắt trộm hay sao mà đi tắt thế?
Ông Chỉnh từ trong chiếc rêu dựng bằng tấm phệnh
nứa uốn khum lại như nhà của thuyền chài, quần ống
cao ống thấp chui ra. Qua ánh than đỏ, Tùng nhìn
rõ ông Chỉnh gầy rộc đi. Khuôn mặt vốn thon nhỏ
của ông, giờ càng hóp lại, cái cằm tối đen những
râu. Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà, đấy là ba việc lớn
của đời người nông dân. Có người lấy được vợ đảm,
tậu được trâu khôn thật dễ dàng: nhưng đến khi làm
được nhà xong thì kềnh! Vì đã vét bằng kiệt cả vốn
lẫn lực! ấy vậy mà ông Chỉnh lại làm tuốt tuột một
lèo những việc ấy trong quãng thời gian cuối cùng
của đời mình? Gan cóc tía chứ chẳng chơi!
- Chú đốt lửa hôm nào nhỉ? Sao không ra gọi cháu?
Tùng chắp tay đi vòng quanh lò như một ông thợ
cả. Mà thế thật, hai lò trước ông Chỉnh vẫn nhờ
Tùng ra chỉ đạo trong việc xếp gạch mò vào lò, đặt
củi và châm lửa. Ông cứ nắc nỏm khen người con
trai của bạn mình rất giỏi trong việc thổ mộc này.
Hôm nay đang định ra, thì ông chú của cô ái đến
chơi. Ông là chủ thầu cả lò gạch lò ngói bên Sông
Công, thế là ông ấy giúp luôn.
Ông Chỉnh cũng đi vòng quanh lò. vừa kể mình đã
học thêm kinh nghiệm xếp gạch mộc của ông chú cô,
tức người vợ mới lấy gần đây của ông, vừa nhìn nét
mặt âm thầm của Tùng. Bỗng ông kéo áo Tùng, nói
đúng theo giọng cha chú, giọng lính tráng:
- Mày làm sao mà mặt mũi như bánh đa nhúng nước
thế? Đi đâu về?
Tùng chui vào lều, nằm dài trên sạp nứa kêu lạo
xạo. Giọng mềm yếu hẳn lại như cần một ự bảo ban
che chở:
- Gay quá chú ơi! Đúng là việc này cháu đã xử
trí rất sai lầm! Nên bây giờ không sữa được nữa.
Ông Chỉnh đang ngồi tựa vào thành phên nứa, quay
lại nhìn một nửa người Tùng cứ nhoang nhoáng trong
ánh lửa lò sửng sốt:
- Có chuyện gì thế? Mới họp đảng uỷ à? Lại có
chuyện bè cánh à?
- Không, cổ cánh gì đâu. Chuyện con gái! chuyện
tình yêu của cháu!
- Dà! - ông Chỉnh thở ra một tiếng thật trầm.
Tùng ngồi dậy. Và anh kể. Lần lượt, tỉ mỉ với giọng
da diết. Đúng như lời Đào nói, Tùng mắc sai lầm
lớn nhất là đã không chạy thắng ra Đồi Sim đánh
động để bác cháu ông Hàm bỏ chạy, mà lại về giục
bà Sang đi báo ông Phúc. Thế là chuyện đã vỡ lở
quá to để bây giờ không sao cứu vãn được nữa. Thực
là lúc ấy cháu không nghĩ đến đầu đến đũa, chớ
không phải muốn gây ra to chuyện. Lúc nãy cháu
bỗng sực nghĩ hay tại tình máu mủ nên mặc dù
không có ý thức, nhưng nó cứ tự nhiên sui khiến
mình như vậy? Phải không chú? Hóa ra con người
phức tạp quá, phức tạp đến có lúc mình không hiểu
nổi mình?
- Chà chà! - ông Chỉnh chép miệng, rồi quờ tay
lên đầu sạp vớ cái cút ông vẫn nói là càng ngày
mình càng hỏng đi nhiều? Tuổi càng cao thì tính
xấu càng nhiều. Ngày trước mình có nghiện ngập thế
này đâu. Ông bảo Tùng:
- Làm một chén cho ấm đã! Vẫn chưa thấy rượu là
ngon hả? Thế thi mày còn tốt đấy! - ông ực một
ngụm hết cả chén, khà một tiếng, rồi giọng ông cao
lên, rượu vào làm tươi hẳn cái thanh đới!
- Khoan hãy bàn chuyện huyết thống và lòng người
phức tạp! Nhưng mày bảo là cái Đào nó ghét đến
căm thù mày à? Lại căm thù như đế quốc nữa! Thế
tức là nó còn yêu mày đấy! Phải lạnh nhạt như
không mới là hết, mới là trắng túi thành người
dưng nước lã. Chứ còn ghét,. còn căm thừ tức là
còn yêu! Lòng người phức tạp mà! Như trường hợp của
tao mấy năm trước là đủ biết! Tùng ngồi bật dậy
giống như người đang chới với nắm được cọc. Mặc dù
cách nói pha chút bông phèng, nhưng đó là cuộc
đời thật của ông Chỉnh. Ông bỗng trở nên trầm ngâm
khi tự nhắc lại chuyện cũ. Tùng cũng im lặng nhìn
những viên gạch trong lò qua khe nứt, chúng chín
đỏ đến trong lại. Chuyện riêng tư của ông Chỉnh,
và bản thân ông Chỉnh lại liên quan nhiều đến gia
đình Tùng!
Trung tá Chỉnh không phải người làng này. Ông ở
huyện trên, giáp miền núi. Dạo chiến tranh phá
hoại, ông Chỉnh và bố Tùng cùng đơn vị pháo cao xạ
bảo vệ khu gang thép. Bố Tùng hơn ông Chỉnh năm
tuổi, nhưng cả hai cùng là cán bộ trung đội. Những
ngày nghỉ hiếm hoi, Thông bố Tùng, dẫn Chỉnh cuốc
bộ hơn hai mươi cây số về nhà mình chơi. Gần nhà
Thông có hai mẹ con bà Đỗ: một mẹ một con nhà cửa
tềnh toàng, chỗ thủng chỗ dột vì thiếu bàn tay của
người đàn ông. Bà Đỗ cù mì nhỏ thó, nhưng cô Lạc
con bà lại to béo phây phây. Lạc không đẹp, người
to, mặt to, mũi to. Chân tay nần nẫn trùng trục.
Nhưng được cái trắng, trắng như cạo! Và hay cười.
Cười to. Cười giòn, cứ như cả một chảo ngô rang
đang nổ tung trên lửa. Mỗi lần Thông đưa Chỉnh về,
Lạc lại sang chơi. Đến lần thứ ba thì Chỉnh và Lạc
đã say nhau như bỏ bùa. Lính thời chiến, phát
hiện được mục tiêu là điểm xạ ngay chứ không
oong-đơ so đọ. Chỉnh vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ
sớm, chuyên sống với bà cô ông chú, giờ gặp hoàn
cảnh như mẹ con bà Đỗ lạc thì đẹp như trời cho của
còn gì. Đơn vị và vợ chồng Thông - Sang cùng lo
liệu tổ chức đám cưới cho Chỉnh và Lạc. Sau những
ngày tranh thủ ít ỏi, Chỉnh vừa dọi lại nhà, trát
xong vách, thì cả trung đoàn được lệnh chuyển
quân vào miền trong. Một tuần hương lửa đang nồng,
nhưng vui duyên mới, không quên nhiệm vụ là khẩu
hiệu của các đám cưới ngày ấy, nên Chỉnh ra đi nhẹ
như lông hồng, và Lạc ở lại vẫn cười đôm đốp như
tràng pháo chuột hôm cưới.
Vì có chồng đi chiến đấu xa, nên đang từ xã viên
Lạc được điều ra nhà bảo mẫu. Mưa không đến mặt,
nắng không đến đầu mà công điểm văn cao. Thế là
vốn đã béo đã trắng, giờ không phải chân lấm tay
bùn, Lạc càng phốp pháp, da thịt càng rời rợi,
chưa mó vào đã thấy mát như thạch đông! Cặp mắt
hình lá khoai, đuôi kéo dài, nhỏ sắc, cười cứ tít
như sợi chỉ se nhấp nhánh ướt. Người ta vẫn có câu:
Những cô con mắt lá khoai, liếc chồng thì ít liếc
trai thì nhiều! Chả biết có đúng không. Nhưng rồi
một buổi tối có một ông già đi qua nhà bảo mẫu
bỗng nghe tiếng lục sục bên trong. Chuột hay
người? Hay đứa trẻ nào bị bỏ quên thì nguy. Nhìn
thấy cửa không khóa, ông đẩy sầm vào thì đúng là
có hai đứa! Trên người cũng chỉ phong phanh như
trẻ nhỏ chưa biết lẫy, và hai đứa trải chiếu cũng
đang lẫy ngay trên nền gạch! Lạc kêu rú lên, hất
anh chàng đội trưởng sản xuất từ trên người cô
xuống. Anh đội trưởng này chuyên ghi điểm chấm
công cho Lạc!
ăn vụng quen mồm. Rồi người ta còn bắt được Lạc với
anh đội trưởng mấy lần nữa. Cô ả xem ra đã quá
trớn, ngựa không thể quên đường cũ. Chị hội trưởng
hội phụ nữ xã xuống khuyên bảo thì Lạc nói đốp
rằng sướng như nhà chị, ngày nào vợ chồng cũng ra
động vào chạm như vợ chồng sam thì ai chả nói
được! Chồng làm việc ở huyện, vợ ở xã, đêm nào
cũng ôm ấp hú hí no xôi chán chè, tôi mà được
thế, tôi còn đi khuyên giải hay hơn hát, dẻo hơn
đàn! Đời người được mấy cái xuân mà hết năm này
sang năm khác cứ vò võ một mình, nằm quay bên
nào cũng giá như đông. Các bà không bị ăn nhạt
đâu có biết thương mèo!
Mấy bà bĩu môi nguýt dài. Lạc đã nhằm đúng vào
bà dài mỏ vừa nguýt, vừa làm ra ta đây nhất, tức
là vợ ông phó chủ nhiệm lúc bấy giờ, cô quyết hạ
mục tiêu! Sau mấy lần mời ông phó chủ nhiệm phụ
trách ngành nghề và xây dựng đến kiểm tra những
chỗ cần sửa của nhà mẫu giáo, người ta đã bắt được
ông phó chủ nhiệm đang hăm hở sửa một chỗ dột trên
người Lạc giữa buổi trưa hè cũng ở ngay trong nhà
mẫu giáo! Thế là các bà vợ có những ông chồng quý
hóa sợ Lạc như sợ một các lò than, một cái vực
xoáy. Lơ tơ mơ là các ông chồng bị hút vào đấy, bị
cuốn chìm vào đấy, đến kéo không ra? Mà đám đàn
ông cũng khỉ gió lắm kia! Toàn những mặt mũi có
chức có tước cả, nói năng đạo mạo như tiên như
phật, nhưng hễ đứng riêng với Lạc là đầu mày cuối
mắt cứ chớp tía lia! Lạc đã làm cho mấy ông trong
ban quản tri điên đảo cả lên. Đi nói dối con, về
nói dối vợ điêu như ranh! Mấy bà vợ cứ nhớn nhác,
táo tác như gà đẻ bị quạ rình!
Sau chiến dịch đường 9 - Nam Lào 1971, Chỉnh được
về thăm nhà. Gầy xanh vì sốt rét. Ai cũng hồi hộp
chờ xem những chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng chẳng có
chuyện gi suất! Lạc đã tưới lên ngực chồng những
cơn mưa nước mắt nồng ấm và đêm đêm những lời nỉ
non như chất cường toan làm rạn nứt được cả đá, đã
làm cho anh lính chiến trường mềm đi như bún! Suốt
ngày Lạc quấn quít, nấu nướng chăm sóc chồng như
chăm sóc bố già, như chăm sóc con trẻ. Đôi má
bánh đúc cứ đỏ rừng rực. Đi lại núng nính, tung
tẩy. Cô sung sướng. Cô hạnh phúc. Cô yêu chồng.
Chỉnh bị vợ hút đến kiệt sức. Nhưng anh sung sướng.
Anh hạnh phúc. Anh yêu Lạc. Rồi Chỉnh lại đi. Lạc
làm đến ba mâm thịnh soạn. Mời cả ban quản trị đến
dự. Có đến mấy ông cứ liếc nhìn nhau ngượng ngập!
Mọi người đã tưởng thế là yên chuyện. Nhưng rồi Lạc
vẫn chẳng chửa đẻ gì. Người vẫn cứ ngồn ngộn, chắc
nịch như sồi. Gần một năm sau Lạc lao mình vào một
mối tình bão lốc khác. Đó là chủ nhiệm cửa hàng
mua bán xã. Một gã đàn ông bẻm mép và trai lơ.
Da đen đỏ, cuồn cuộn những cơ bắp như một anh thợ
đấu chuyên nghề. Anh ta có đến bốn con gái, đang
ấm ức chưa có người nối cái dõi có nhóm máu D của
mình. Vợ gầy xanh như cái dải khoai, tuồng như bị
chồng con hút cho cạn lực. Cánh đàn ông tán rằng
chị vợ đến phát kinh cái khoản ấy của anh ta.
Chủ nhiệm cửa hàng gặp Lạc, đôi bên đến với nhau
như nam châm hút sắt. Cuồng nhiệt đến mưa rơi chớp
giật! Chị Sang vợ anh Thông, người đã góp phần vun
đắp nên mối tinh của vợ chồng Lạc, đến lấy tình chị
em khuyên giải Lạc. Vì anh em không có ai, bà mẹ
già thì lẩm cẩm, nên Lạc chỉ còn nể chị Sang, người
đoan trang phúc hậu và Lạc chịu được vì chị Sang
không bao giờ lên mặt dạy đời. Nghe chị Sang nói,
Lạc khóc nói ngàn ngạt: Nhưng chả nhẽ đêm nào em
cũng đổ thóc vào xay! Đồ gạo vào giã! Không như
chị vắng anh ấy còn có ba đứa con để lo ăn, lo
việc. Em chẳng có gì để mà lo. U em có ăn đến bốn
bữa một ngày, em cũng chạy thừa gạo. Em biết em có
lỗi với anh Chỉnh, nhưng em khổ quá chị ơi! .
Chủ nhiệm cửa hàng bị kiểm điểm. Tối tối chị Sang cứ
gọi Lạc sang chơi cho khuây khỏa. Nhưng Lạc đâu có
thích kiệu khuây khua suông nhạt như thế! Ngồi ăn
sắn nướng, văn nói vẫn cười, nhưng mặt Lạc cứ bấn
thân hẫng hụt như nhớ như quên cái gí. Một buổi
tối. chị Sang luộc một rá ngô nếp còn non, đang
đọng sữa, ăn vừa mềm vừa béo vừa ngọt. Chờ mãi
không thấy Lạc, chị Sang phải chạy đi gọi. Thì
thấy Lạc đang thay quần áo Lạc nói tối nay cô
Diễm, y tá ở trạm xá, rủ Lạc lên phố huyện xem
phim.
- Chị cứ để phần tý nữa về em sang ngay.
Rồi Lạc đi vội vã. Chị Sang bỗng sinh nghi. Lên
phố huyện những năm cây số sao nó không đi xe? Mà
xe của Lạc thì tốt nhất làng, việc gì nó phải mượn
ai. Tính tò mò bỗng nổi lên đến không thề kìm nén
được, khiến chị Sang không về, mà đi tắt qua mấy bờ
ao ra cánh bãi Chân Vạc trồng bạch đàn ở cuối
làng. Vì chị nghe người ta kháo nhau rằng đấy
chính là cái ổ chuồn chuồn của Lạc và anh chàng
chủ nhiệm cửa hàng. Anh chủ nhiệm cửa hàng ở ngay
xóm Trại chứ đâu xa. Nhưng trước đây anh ta làm
chân chạy vật tư trên huyện, nghe đâu cũng mắc tội
chấm mút, đã phải kiểm điểm, nên anh đã chạy về xã
để nấp dưới bóng ông Đáng bí thư Đảng ủy là người
có họ hàng. Vì thế bây giờ anh với Lạc mới có cơ
hội để lửa gần rơm!
Chị Sang đi len lén dưới những bụi cây tối thẫm,
mặt nóng bừng vì tự thấy ngượng như mình đang làm
một cái gì khuất tất. Nhưng vì chi chưa tin những
miệng lưỡi đồn đại, cho là họ hay đặt điều. chị còn
cãi thay cho Lạc nữa. Cái gì cũng phải hai năm
rõ mười. Trăm nghe không bằng một thấy!
Đang bước sẽ sang, chị Sang bỗng hốt hoảng thụp
xuống, vì chị đã thấy rõ dưới gốc một bụi bạch đàn
rùm ra phía trước có hai bóng người đang ôm quấn
lấy nhau, toàn thân họ cứ vờn qua vờn lại, rồi họ
lại buông choàng nhau ra. Gã đàn ông bỗng nhảy
một chân cò cò quanh người tình, y hệt anh gà
trống xòe một bên cánh như chiếc quạt giấy, rồi
nghiêng người đạp vòng quanh con mái. Chị chàng
ngồi xổm xuống, ôm mặt cười rúc như bị cù. Anh
chàng như càng phởn đến tột cùng, liền nhào người
cắm đâu xuống trồng cây chuối! Hai chân chĩa ngược
lên giãy giãy, rồi đỗ đánh uỵch vào vai cô ả!
Tiếng cười khùng khục.
Chị Sang chợt nhớ tới một lần anh Thông đã nháy chị
ra nhòm đôi mêo đang vờn nhau trước lúc vào ca.
Con cái nằm dán xuống đất, miệng rên những tiếng
ngao ngao đầy nũng nịu mời mọc, trong lúc con đực
cứ nhảy vòng quanh như đang trố một bài quyền vừa
mạnh mẽ, vừa duyên dáng, Rồi đến cao trào là
chàng ta tung mình lên, và như một tay đánh đáo
thiện nghệ, chàng rơi từ trên cao xuống vừa nhẹ
nhàng, vừa chính xác, chàng hạ xuống đúng lưng
nàng trong một tiếng ngào thật hùng hồn đầy sinh
lực!
Trước mắt chị Sang, đôi mèo ngườicũng đã tới giờ
cao điểm. Lạc đang rên hức hức đầy mãn nguyện
trong bụi cây. Chi Sang khom người đi giật lùi,
rồi vùng chạy về. Người bỗng không lâng nôn nao và
miệng thì khô khát như vừa vượt dốc giữa trưa hè.
Sáng hôm sau nhìn Lạc đã rũ hết vẻ ủ ê rầu rĩ,
hai má lại phừng phừng như ướp lửa, chân đi con
cón nhún nhảy như trẻ được quà. Chi Sang bỗng nuốt
một tiếng thở dài, và bỗng dưng chi vừa giận, vừa
ghét, mà lại vừa như ghen ghen với Lạc! Chị đang
hồi xuân!
Giữa lúc ấy tại chiến trường Quảng Trị, đại đội
trưởng Chỉnh cùng đơn vị đang ở sát nách địch bên
bìa rừng Đồng Lâm. Sau khi giải phóng xong khu
vực Thành cổ đại đội của Chỉnh và Thông vác súng
141y5, loạt súng nhỏ của pháo phòng không, cùng
đơn vị bộ binh đánh thốc vào phía tây giáp Huế.
Đã vào mùa mưa. Nước đổ sầm sập trắng rừng. Địch
huy động tổng lực mọi thứ quân trên trời, dưới đất
nống ra quyết liệt. Trận địa của Chỉnh và Thông -
hai người vẫn được ở bên nhau, Chỉnh đại đội trưởng
và Thông chính trị viên - ngày nào cũng bị pháo
địch chà xát, chẻ tướp cây cối cày đất lên như voi
quần. Nhiều cái chết của đồng đội đến suốt đời
Chỉnh không thể quên. Chết vì pháo phát ngang
người. Pháo tiện tứ chi. Chết trong trận đánh giáp
lá cà không cân sức. Và đói, và mưa làm sập
đường, nước ngập lút cát ngầm, nên bên ngoài không
tiếp tế vào được. Gạo của cả đại đội chỉ còn tính
từng bát. Đến bữa hái từng ôm rau môn thục, rau
tai voi, và một thứ rau có vị ngọt mà lính ta gọi
là rau mì chính, rồi độn thêm ít gạo như rắc lá
phép: nấu cháo húp. Người nào người ấy gầy hóp
lại, không còn đoán ra tuổi. Ai cũng mắt trắng
môi thâm vì sốt rét. Hạnh phúc lúc ấy thật đơn
giản là được ăn một bữa cơm no, ngủ có chiếu và
buộc màn thật căng bốn góc.
Hàng ngày chính trị viên Thông phải trực tiếp điều
hành công việc ở khu vực hậu cứ đặt bên bờ suối
dưới chân đồi. Một buổi sáng địch câu pháo phạt
sạch cây cối, rồi máy bay lên thẳng đáp xuống đổ
quân ngay dưới chân đồi bên bờ suối đúng chỗ đại
đội đặt hậu cứ. Một trận đánh giáp lá cà giữa bọn
lính dù, lính thủy đánh bộ của địch với những người
chưa quen đánh bộ binh của ta, gồm tất tật anh
nuôi, quân khí, y tá và mấy chiến sĩ đang ốm do
chính trị viên Thông chỉ huy. Biết bên ta không
cân sức, Chỉnh dẫn một tổ cắp AK từ đỉnh đồi băng
xuống. Nhưng chưa tới nơi thì chiếc HU-1A đã cất
mình lên, hối hả bay về Huế. Mắt Chỉnh hoa lên
choáng váng khi anh nhìn thấy một... hai...ba...
bốn thi thể chiến sĩ ta nằm ngổn ngang. Nắng sớm
chiếu trên những vũng máu chảy đẫm bên người.
Không nhìn thấy chính trị viên, Chỉnh gào lên,
giọng khản đặc:
- Anh Thông! Anh Thông đâu rồi?
Nghe tiếng Chỉnh, cậu chiến sĩ quân khí bò từ
trong bụi cây. Một cánh tay bị thương, cậu ta bị
cuốn bằng cả chiếc áo lót màu đất thó to xù. Cậu
khóc nức lên:
- Đại đội trưởng ơi, chính trị viên chết rồi! Chính
trị viên tự sát rồi!
- Cái gì? Mày bảo cái gì? Hả?
Chỉnh nhảy bổ lại, hỏi như quát. Cậu chiến sĩ càng
khóc rống. Cậu tức tưởi kể:
- Quân địch đông quá. Chính trị viên Thông chưa
kịp bố trí đội hình, thì chiếc máy bay lên thẳng
đã hạ xuống như mọt cơn bão. Địch từ trong đó nhảy
túa ra. Trong khi ấy hai chiếc khác vẫn bay sát
ngọn cây, thấp và khuất đến mức súng đặt trên đồi
không hạ nòng bắn được. Cả khu rừng náo loạn như bị
nhồi vào giữa cơn lốc. Đạn bắn thẳng, cối cá nhân
của địch từ trên bắn xuống, từ chiếc máy bay vừa hạ
bắn ra như tung một trận mưa lửa. Ta bị mất chủ
động ngay từ đầu. Khi phát hiện ra khẩu pháo mới
chữa đang để trong ụ làm dự phòng, đám lính dù
llên nhào vào như hổ đói thấy mồi. Chúng hò nhau
lôi ra đưa lên máy bay. Một tốp khác vội vã
khiêng hai thằng chết, một thằng bị thương lên
theo rồi máy bay nổ máy, bộ cánh quạt chém giồ ào
ào cuốn bụi đất và lá cây mù mịt. Mấy thằng lính
táo tợn còn định kéo một tử sĩ của ta lên máy bay.
Chính tri viên Thông từ bên kia bờ suối nhào
sang xả AK. Anh bắn bị thương một thằng nữa. Chúng
vừa bắn lại vừa dìu nhau nhảy vội vào khoang eửa
sắt. Chiếc HU-1A cất mình ngay lên khỏi mặt đất.
Đạn từ máy bay vẫn vãi ra như trấu. Tất cả những
việc ấy bọn địch làm rất nhanh. Phải nói là chúng
khá thành thạo. Đến mức khi cả ba chiếc máy bay
đã khuất trên đầu rừng, thì một vài người ít ỏi
sống sót ở hậu cứ mới thấy hết vẻ khốc liệt của trận
đánh chớp nhoáng.
Chính trị viên Thông người đây bụi đất vàng khè,
đầu không mũ chân tập tễnh đi quanh khu hậu cứ
nhàu nát, khét sặc mùi thuốc súng, mùi nhựa cây
đắng hắc. Vừa đi anh vừa len rẩm: Chết hết rồi!
Chết hết rồi! Trời ơi!. Anh cúi xuống nắn tay
chân, vuốt quần áo từng liệt sĩ, miệng nói khảo
khảo như dặn dò điều gì. Đến khi tới chiếc hầm cất
khẩu súng dự phòng, Thông mới sững người ra, đứng
như trời trồng. Vì lúc địch cướp khẩu súng, Thông
đang cùng hai chiến sĩ nuôi quân chống trả với
đám lính rằn ri bên bờ suối, cạnh mấy ruột tượng
gạo. Thế là anh đã để lọt vào tay địch vật quý
nhất của người lính. Dạo ấy địch ra rả trên đài,
trên báo về thành tích bắt tù binh, thu vũ khí
Việt cộng. Từ cái bình tông, cái mũ cối của ta,
chúng vớ được, cơ quan chiến tranh chính trị của
chúng cũng mang ra triển lãm, rồi dựng lên những
trận đánh rùng rợn để khuếch trương chiến quả. Vậy
thì cả một khẩu súng vừa chữa xong này, chúng sẽ
ầm ĩ thế nào?
Thông bỗng đưa tay lên bứt tóc, đấm ngực, giọng
khản đặc đau đớn:
- Chết hết rồi! Mất hết rồi! Thế này thì còn sống
làm gì! - Và sự khủng khiếp đã đến! Cậu chiến sĩ
quân khí lúc ấy vừa bò lên khỏi một hố đất, gọi
líu lưỡi Chính trị viên, em đây!. Nhưng một phát
súng ngắn đã nổ đánh đoàng!
Chính trị viên Thông đổ người xuống một bờ hào.
Người chiến sĩ quân khí hét lớn và cũng ngã vật
ra.
- Phải im ngay! Phải khâu ngay miệng lại! Tuyệt
đối không được nói chuyện này với ai nghe chưa? -
Chỉnh nắm áo cậu chiến sĩ quân khí dặn dò mà như
quát nạt. - Coi như anh Thông hy sinh vì đạn giặc
nhớ chưa?
Người chiến sĩ thề sẽ ngậm miệng suốt đời! Dù còn
trẻ, nhưng anh thấy hết sự nghiêm trọng lâu dài
trong việc tự kết liễu đời mmh của chính trị viên
Thông.
Chỉnh thay mặt cấp ủy và ban chỉ huy đại đội báo
cáo sự thiệt hại của bộ phận hậu cứ với các tổ chức
cấp trên. Tuyệt nhiên không ai nghi ngờ gì về cái
chết của chính trị viên Thông. Địa phương và gia
đình nhận được giấy báo cáo vào cuối năm ấy đã làm
lễ truy điệu trung úy Bùi Đức Thông hy sinh anh
dũng trong chiến dịch Quảng Trị. Cho đến mái sau
này Tùng nhập ngũ anh mới hiểu được sự thực về cái
chết của bố mình trong một dịp tình cờ...
Ngay sau mùa hè đỏ lửa ấy, Chỉnh cùng đơn vị phối
thuộc vào sâu hơn. Làm một lèo cho tới 1975, anh
cùng đơn vi đánh thốc từ trên cao nguyên xuống
Nha Trang. Đến khi đã hoàn toàn im tiếng súng,
những người lính trận từ khắp các cánh rừng đổ về
với nước da sốt rét bợt bạt, áo quần cũng bợt bạt.
Trên người lỉnh kỉnh búp bê, cả những anh lính trẻ,
chưa biết mùi vợ cũng búp bê vắt vẻo trên chiến ba
lô? Và khung xe đạp. Chỉ có thế. Những thứ quà
nghèo nàn, trông vừa thương vừa tội như chính
những chủ nhân đang vô cùng hăm hở kia.
Trên chốc ba lô của tiểu đoàn trưởng Chỉnh cũng có
một con búp bê váy áo sặc so và vài tấm vải may
quần áo phụ nữ. Anh chỉ nhận được thư của Lạc ngày
mới vào chiến trường Trị Thiên. Một lá thư da diết
mùi chăn gối vợ chồng. Lạc nói cô nhớ những ngày
sum họp, những đêm ái ân đến bồn chồn cả người. Đọc
thư vợ Chỉnh bâng khuâng đến nao cả lòng. Anh
không dám cho ai đọc, kể cả Thông. Bởi những lời
lẽ sướt mướt ấy bấy giờ người ta kiêng kỵ lắm. Chỉnh
không trách, mà chỉ thương Lạc vì quá đậm tính đàn
bà, thiên về tình cảm, giờ phải xa chồng đằng đẵng
kể cũng tội.
Chỉnh về tới nhà đã nhập nhoạng tối. Căn nhà trên
một gian hai chái, kiểu nhà từ cổ xưa, mái lợp lá
cọ gió khua xào xạo Tối mò và im lìm lim. Dưới
cái túp dùng nấu bếp, lửa lom đom. Nghe tiếng
gọi, bà Đỗ còng gập lưng như người đi ngang lập cập
bước ra. Khi cặp mắt bạc mờ như khói của bà đã nhận
ra Chỉnh, thì bà ngã xuống òa khóc, nói như lạy
người con rể có tấm lòng quý hóa hiếm thấy:
- Tôi có lỗi với anh! Tôi có lỗi với anh? Tôi đã
không bảo được nó không dạy được nó để nó hư thân
mất nết, nó không biết tấm lòng vàng của anh.
Lạc đã bỏ đi với chủ nhiệm cửa hàng từ tháng trước.
Cô nói với bà Đỗ là cô không thể gặp Chỉnh được.
Anh hãy coi như mình chưa vợ! Chủ nhiệm cửa hàng
cũng bỏ cả vợ con để ném mình vào gió bụi cùng với
Lạc. Anh ta đã bị khai trừ đảng và thôi việc khi
ông Đáng nghỉ bí thư. Lạc cũng không được giữ trẻ
từ lâu. Nhưng đôi sam ấy vần không ngán, như là
đến bước ấy thì phải bám vào nhau để sống Họ dắt
nhau lên tỉnh. Không ai biết họ ở đâu và sống bằng
gì chỉ đoán chắc chủ nhiệm cửa hàng cũng phải có
lưng vốn kha khá, nên họ mới dám đánh cuộc với đời
như thế. Khi bà Đỗ mất được hơn hai tháng, và lúc
ấy Chỉnh đã lấy cô gái vẫn người Giếng Chùa, một nữ
quân nhân chuyên nghiệp phục viên, tuổi đã cứng,
nhưng là người thật tốt, thì Chỉnh lại nhận được
tin về Lạc? Vì đám ma bà Đỗ, Chỉnh đã cùng dân
làng lo liệu rất chu tất, bởi lúc này Chỉnh đang
dự một lớp tập huấn của quân khu rất gần nhà. Sắp
đến cúng một trăm ngày bà Đỗ, Chỉnh bỗng nhận được
giấy báo ra bưu điện nhận tiền. Anh đã nhận năm
trăm ngàn đồng từ Sài Gòn gửi ra. Với số tiền ấy
bấy giờ có thể dựng được một cơ đồ. Cùng với tiền
là lá thư của Lạc, có viết mấy dòng ngắn ngủi: Em
biết anh đã hết lòng với u em. Thời buổi này được
người như anh chả có nhiều! Với anh, em có tội
lớn, nên bây giờ em rất mừng cho anh. Em biết cô
ái là người tốt từ bé. Em gửi ra số tiền mọn này
cảm phiền anh trang trải hộ em với những ai mà u
em đã vay, chứ em không dám trả công anh. ở
trong này em đã có một sạp hàng để sinh sống. En
không ở với anh Túc, chủ nhiệm cửa hàng trước đây
nữa, vì anh ấy chỉ muốn có con giai mà em thì hóa
ra là người vô sinh. Chả lẽ giời phật đã bát tội
em! Thôi trăm lạy anh! Ngàn lạy anh!
Chỉnh bàng hoàng cả người. Sao cô lại biết rành rẽ
đến thế? Cứ như ma xó! ồ phải, xã này đã có mấy
người chuyển vào trong ấy. Họ ra vào buôn bán như
đi chợ. Chim nhớ tổ, cá nhớ đàn, Cô ấy đâu phải đã
là người hỏng cả. Chỉnh cứ nghĩ vẩn vi mãi. Đấy là
lá thư và tin tức cuối về Lạc. Bây giờ đến ngày
giỗ bà Đỗ, vợ chồng Chỉnh vẫn làm cỗ thắp hương để
tưởng nhớ bà...
- Cứ yên tâm, đừng lo lắng quá, tao cam đoan là
cái Đào nó vẫn yêu cậu! Tính kỹ đi, cậu gặp nó ở
chỗ nào? Vào lúc nào? Để tao sẽ gập nới chuyện với
nó. - Trung tá Chỉnh đang đóng vai người hướng dẫn
viên cho thượng sĩ Tùng. Mặt anh chàng thất tình
đã tươi lên, lắp ló hy vọng. Nhưng rồi Tùng xua
tay ngay.
- Nhưng mà chưa thể gặp hắn được chú ạ. Hắn bướng
bỉnh lắm! Gặp chú hắn sẽ không nói gì, thậm chí
còn vui vẻ nhận lời gặp cháu. Nhưng thấy mặt cháu
là hắn sẽ dồn ngay: Anh bỏ ngay cái trò nhờ vả mối
lái ấy đi! Việc gì anh phải thở than với ai? Anh
tưởng thày u tôi báu họ hàng nhà anh lắm đấy à!
Vân vân! Đại khái sẽ thế đấy chú ạ! Tính khí hắn
cháu biết lắm! Thôi hãy cứ để thư thư!
Uống một chén nước chè hãm đặc trong bình tông,
Tùng hẹn hôm nào ông Chỉnh giỡ gạch, anh sẽ giúp
một tay, đoạn đứng ra về. Nhìn cái dáng đậm chắc
của Tùng mờ dần dưới chân đôi, ông Chỉnh chợt nhớ
cái hôm Tùng ở đơn vi về tranh thủ đã sùng sục đến
tìm ông.
- Chú có nhớ anh Liêm là chiến sĩ của đại đội chú
không?
Khi cô ái vừa xuống bếp, Tùng ngửng lên hỏi. Ông
Chỉnh bỗng chột dạ. Chiến sĩ dưới quyền ông có đến
hàng trăm, nhớ sao xuể? Nhưng riêng Liêm thì ông
nhớ. Bởi vì ông đã giao hẹn với Liêm là phải kháu
mồm lại! Liêm là anh chiến sĩ quân khí ấy? Thế mà
hắn đã thất hứa rồi! Đã cắt chỉ khâu đi rồi? Màn
bí mật đã được vén lên!
Ông Chỉnh vờ ngạc nhiên:
- Liêm nào nhỉ? Đã bao nhiêu năm, ai mà nhớ hết
tên chiến sĩ trong đơn vị mình.
- Anh Liêm trước làm quân khí trong đại đội của
chú với bố cháu Bây giờ anh áy đang làm chủ nhiệm
hậu cần của trung đoàn cháu! Tùng hạ giọng, mắt
chơm chớp nhìn xuống.
Thế là đột ngột ông Chỉnh nổi cáu ông hỏi dồn:
- Thế thằng Liêm nó dọa mày những gì? Nó muốn
chứng tỏ cái gì? Đến nước này thì tao phải lên tận
nơi đốp vào mặt nó! Chính nó là thằng sợ lên trận
địa nhất, cho nên viện mọi lý do là súng hỏng hóc
phải mang xuống hậu cứ để chữa cho yên tĩnh. Đã
mấy lần tao với bố mày vặc nhau vì nó. Bố mày thì
chỉ sợ nó chết vì lúc ấy chỉ còn mình nó là biết
sửa chữa. Tao thì muốn đưa nó lên chốt để có gì
sửa chữa ngay trận địa. Nó đã ỷ vào bố mày để nằm ở
hậu cứ. Thấy mặt tao là nó lảng, nó tránh. Bây giờ
nó định lên mặt cái gì? Nó muốn đảo ngược cái gì?
Tùng hốt hoảng:
- Không, anh ấy có nói gì đâu. Khi biết cháu anh
ấy nói chuyện riêng thế thôi.
Ông Chỉnh vẫn giận đến run cả tay.
- Nhưng về cứ nói đại đội trưởng của nó mà lính
tráng vẫn gọi là Chỉnh húc ấy, vì tao học hành ít,
đánh nhau cứ lấy cái gan lỳ ra húc, rằng lão
Chỉnh húc chưa chết đâu! Chớ có vừa khỏi vòng đã
cong đuôi? Thất hứa với tao là không xong đâu!
Còn mày không việc gì phải cắn rứt. Lương tâm là
cái khỉ gió gì? Chả nhẽ người dám nhận cái chết
giữa trận tiền lại không có lương tâm? Bố mày đã
hy sinh như những người hy sinh hôm ấy, nghe chưa?
Quả nhiên ông Chỉnh không thấy Tùng nhắc lại
chuyện đó nữa. Ông Chỉnh lại với cái chai, chiêu
một ngụm nữa. Người nửa nằm nửa ngồi, mắt lim dim
gà gà. Chỉnh bỗng nhớ đến Thông, và lại thầm hỏi
sao anh ấy lại xử sự hấp tấp thế hả? Quá uất ức vì
tổn thất của mình, hay anh ấy sợ trách nhiệm? Sự
đời thật tai quái. Nhiều thằng chẳng có trách
nhiệm gì, chẳng nghĩ đến ai khi giáp mặt cái
chết, thì bây giờ thì sống quá vung vinh. Đi đâu
nó cũng trương cái mác đã qua chiến trường để được
mọi người nể trọng, bắt xung quanh phải có trách
nhiệm với hắn! Như thằng Quản ấy, cái thằng xạ thủ
phục phịch đã ba lần đái ra quần khi máy bay lao
xuống quá thấp. Vì dạo ấy đạn tiếp tế chưa vào
được, gạo phải ăn dè và đạn cũng phải bắn dè. Chỉnh
quyết định phải để máy bay xuống thật thấp, rồi
nghe lệnh anh mới được nổ súng. Thấy máy bay lao
xuống cứ như cắm vào đầu mình, chưa kịp bắn những
viên đạn lửa, thì cái súng phun nước của Quản đã
phóng ra ướt đẫm quần! Những ba lần! ấy vậy mà vài
năm sau khi về tỉnh đội, Chỉnh đã thấy Quản chẫm
chệ ngồi ghế phó phòng rồi! Nghe nói Quản luôn
luôn khoe đã qua chiến dịch đường 9, chiến dịch
Quảng Tri. Mấy trợ lý lính cậu hốt Quản ra mặt!
Còn Liêm, khi Chỉnh và Liêm khâm liệm Thông và
những người hy sinh hôm ấy, Liêm cứ run cầm cập.
Rồi Liêm cáo ốm nằm bẹp đến hai ngày trong hầm.
Sang ngày thứ ba, đang đánh nhau thì một khẩu
súng bị tắc, Chỉnh xuống hầm lôi Liêm ra, chỉ vào
chỗ súng hóc, bảo: Chữa đi, tao đứng che đạn cho
mày đây rồi! Giờ Liêm đang là thiếu tá chủ nhiệm
hậu cần trung đoàn, nghe nói béo tốt lắm và cũng
hay khoe cái tem đã từng vào sống ra chết với lớp
đàn em. Liêm có hứa với Tùng là sẽ về thăm Chình,
nhưng chờ mãi không thấy. Hay Liêm vẫn ngại Chỉnh
húc?
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười - VN thu quan
Tùng ra tới ngã ba, nơi có chiếc lều lão Quềnh,
thì gặp bà Son dong xe đạp đi trước, đi sau còn
một người đàn bà nữa. Tùng chào, bà Son vẫn trả
lời dịu dàng như mọi ngày. Tùng thấy mừng, bởi thế
có nghĩa là Đào không nói những nghi ngờ của
mình với bà.
- Bá chờ em một tý, em vào lấy cái này.
Người đàn bà đi sau nói với bà Son, rồi đến bên
chiếc lều lão Quềnh kéo tấm cánh đại lách vào
thán thuộc như chủ nhân.
Đó là người đàn bà có đứa con chết hôm trước ở
đây. Mấy hôm nay chị làm chân rửa bát quét dọn ở
quán phở bà Lợi béo. Nhưng bà Lợi trông người
phương trượng thế mà lại kiệt vắt cố chày ra nước,
cho chị ăn đói quá, mà công việc thì luôn chân
luôn tay từ sáng tới tối. Buổi chiều chị chủ ý gặp
bà Son, nói là có cần một chân gặt thuê, chị xin
giúp. Đúng là hai mẹ con bà lúc này rất cần thêm
người giúp việc đồng áng.
Khi bà Son và người đàn bà về tới nhà, Đào vẫn chờ
cơm. Cô và Minh tồ đang rì rầm ngoài thềm. Trong
nhà cái Hoa ngồi học mà hai mắt cứ ríu lại. Đào
dọn cơm cho ba người ăn. Người đàn bà nói ăn rồi,
nhưng bà Son cứ kéo chị ngồi vào mâm, và chị ăn
llên bốn bát nữa một cách ngon lành. Vừa ăn, chị
vừa kín đáo quan sát Đào ngồi ở đầu nồi với dáng
nghiêm nghiêm lạnh lạnh. Nốt ruồi to đậu trên gò
má chị ta động đậy, như đấy cũng là một con mắt
đang giương ra nhìn từng cứ động của hai mẹ con bà
chủ. Hôm nay trông... chị đã hồi người, mặt mũi
tỉnh táo quần áo sạch sẽ, không còn dáng điệu một
người hành khất nữa.
Bà Son đứng dậy trước. Bà vào buồng lấy chiếc
chiếu một mang ra trải lên chiếc chõng tre đặt
trong góc nhà, rồi quay lại bảo người đàn bà:
- Tý nữa chị nghỉ ở đây. - Rồi bà quay lại hỏi Đào
- Chú Thủ dặn u sang ngay à?
Trong lúc bà Son mở tủ buýp-phê tìm đèn pin, thì
người đàn bà cầm tay nải và chiếc nón đến ngồi mớm
vào bên chõng tre dành cho mình. Chị ta vẫn len
lén nhìn Đào, cô chủ xinh đẹp nhưng trông sắc
quá, bụng thầm nghĩ, cô này không phải tay vừa
đâu! Rồi chị thong thả ngắm bốn gian nhà với những
giường tủ, bàn ghế vàng lấp loáng trong ánh đèn.
Trên cao chiếc bàn thờ nhấp nhô những lư đồng, mâm
quả, cốc chén. Rõ là một dinh cơ phú gia.
ấy vậy mà chẳng ai ngờ, thật quá nằm mơ giữa ban
ngày, rằng người đàn bà trên bước đường phiêu bạt
xin được làm thuê làm mướn để sống đắp đổi qua
ngày đang ngồi còm róm kia, sau đây lại trở
thành bà chủ của chính dinh cơ bề thế này!
Bà Son đã rước người đàn bà lạ về nhà như rước một
tai hoạ! Một tiền đinh!
Nhưng đấy là chuyện của một tháng sau nữa!
Thủ đang nằm trên đi-văng kê cạnh bộ sa lông giữa
nhà. Bao đầu lọc để trên bàn. Khói thuốc trùm kín
cả người anh. Buổi sáng Thủ đạp xe đến chỗ người
bạn kết thân từ thời cùng làm công tác đoàn. Bây
giờ anh ấy đang làm chánh văn phòng huyện uỷ. Qua
chuyện trò với người bạn đồng lứa, Thủ được biết cả
bí thư và chủ tịch huyện đang rất buồn rầu về anh.
Trong dự kiến huyện uỷ viên ở cơ sở khoá tới, Thủ
được ban chuẩn bị nhân sự nhất trí đề cử. Thế mà
đùng một cái. Đành rằng ai làm người nấy chịu.
Nhưng dù sao cũng không thể đưa một người làm việc
quá bê bối đến thành tội phạm vào huyện uỷ được.
Thế thì bằng ngồi xổm trên dư luận còn gì. Ngay
việc để anh đứng đầu một xã cũng phải tính đấy.
Hàng ngàn dân sẽ nhìn anh ra sao? Sẽ nghĩ về
huyện ra sao? Thời buổi lấy dân làm gốc này đừng
có thách thức! Thí bỏ một con bài dù tốt, nhưng để
được cả quần chúng, được cả phong trào, huyện chọn
đằng nào? Thủ nghe mà bồn chồn cả người. Anh hỏi
nhỏ:
- Nếu bây giờ chúng tôi thu xếp được với bên nhà
ông Phúc, để họ không kiện cáo, không cần nhờ đến
pháp luật can thiệp, mà chỉ phạm vi hai gia đình
tự giải quyết với nhau thì thế nào?
Cặp mắt người bạn đồng tuế vụt sáng lên:
- Nếu được thế thì tuyệt! Xoay chuyển được tình thế
như vậy thì tôi cam đoan đích thị cụ Luân bí thư
sẽ mua bia khao tài thuyết giáo Tô Tần của ông.
Cụ ấy ngại những chuyện lình sình lắm.
Chia tay anh bạn chánh văn phòng, Thủ đạp xe
lang thang cho đến quá trưa, rồi sang thăm vợ
chồng Lan là em ruột của Luyến ở bên kia sông
Đào. Chồng Lan đi lao động ở nước ngoài đã về phép
hơn chục ngày nay, cứ nhắn Thủ sang chơi, vì anh
ta đi được cũng có phần của Thủ giúp đỡ.
- Ô kìa anh Thủ! Bác Thủ!
Vợ chồng con cái Lan đang ăn cơm, thấy Thủ vào
cùng bỏ đũa kêu lên. chồng Lan sai dẹp mâm, mặc
dù nồi canh cá đang bốc hơi nghi ngút, rồi tự tay
anh ta đi thịt con gà công nghiệp mới mua vẫn nhốt
trong lồng.
- Anh Thủ nghe nói bác Hàm bên ấy... Lan đến Thủ
hỏi nhỏ, giọng lo lắng giống hệt chị Luyến.
- Không sao, rồi đâu sẽ vào đấy - Thủ khẽ cười.
Nét mặt anh ta bình tĩnh trở lại. ấy là Thủ lờ mờ
nghĩ ra cách xoay chuyển tình thế, giàn chiến
thắng ở ngay thời điểm tưởng đã bị đôn vào bước
đường cùng.
Vừa chén chú chén anh, Thủ và chồng Lan chuyện
trò rất vui vẻ. Rồi Thủ nằm dài cho tới ngay
chiêu, như người vô tư lự đang đánh một giấc say
sưa. Kỳ thực anh chỉ thiếp đi mươi phút, rồi mặc dù
hai mắt vẫn nhắm như đang ngủ, nhưng đầu óc cứ
trong suốt. Thủ đang tính, đang tính...
Khi Thủ về tới văn phòng Đảng uỷ xã, thì đã gần
hết giờ làm việc buồi chiều. Trần Văn Sửu và mấy
người nữa vẫn đang ngồi quanh chiếc bàn giữa nhà
hút thuốc vật, nói chuyện lầm rầm. Nhìn thấy Thủ,
tất cả cùng im bặt, mặt ai nấy bỗng sường sượng thế
nào. Thoáng nhìn không thấy có Cao, phó ban công
an, cháu gọi Luyến bằng cô, cánh tay của Thủ, vậy
đích thị là họ đang bàn về chuyện gia đình mình,
đang bàn về chính mình! Thủ nghĩ. Vì trong tình
thế giằng co thì phải đưa Sửu lên thôi, chú trong
sâu xa Thủ biết lắm. Anh chàng Sửu này cũng có
tính hay nhỏ to thì thầm. Nhiều lần họp Đảng uỷ,
họp thường vụ, Sửu không phát biểu gì khác với
xung quanh. Nhưng đến tối Sửu lại sang tận nhà Thủ
kể rỉ róc nhiều chuyện bê bối của bà đảng uỷ viên
này, ông thường vụ nọ. Phương châm của Thủ là đứng
xa tạo gió để rung cây, chứ không muốn mình phải
trực tiếp lay gốc. Chính Cao, chiếc ăng-ten của
Thủ đã nói nhỏ là Sửu đang tính nhiều cách để củng
cố uy tín của mình. Lấy lòng người này, thì thầm
rung cây người kia. Ngay những người Sửu không
thích, anh cũng vẫn nắm tay rất chặt, hỏi han rất
vồn vã để thêm bạn bớt thù. Nghe vậy Thủ chỉ cười,
cho rằng Sửu không bao giờ dám rung vào mình. Thủ
luôn nghĩ chính mình là gốc, còn Sửu chỉ là lá,
là cành! Sửu tự tay tráng ấm pha nước sôi, rồi nói
với Thủ:
- Hôm nay chúng tôi họp với ban quản trì bàn về
việc thu sản anh ạ. Số người còn khê động từ năm
tời bảy tạ còn nhiều lắm. Vụ chiêm này cố gắng thu
được quá nửa, còn lại cho nợ tới mùa.
Ngồi bàn về công việc, nhưng Thủ cứ ngầm thăm dò,
lắng nghe xem mọi người đối với mình thế nào, có
còn coi ý kiến của mình là ý kiến cuối cùng nữa
không. Khi Thủ gật đầu đồng ý đứng dậy coi như
xong, thì anh thấy mấy người tỏ ra mừng rỡ, như là
được giải thoát một không khí nặng nề.
Ra cổng, nhìn sang khu trường học, thấy thấp
thoáng bóng áo trắng của mấy cô giáo, nhưng không
thấy có những tiếng gọi véo von như mọi hôm. Thủ
lằng lặng đạp xe về nhà. Thế là rõ rồi, việc xoay
chuyển thế cờ đối với anh lúc này là việc cốt tử
mang ý nghĩa tồn tại hay không tồn tại! Uy tín và
vị trí của chính anh, uy tín của cả dòng họ Trịnh
Bá lúc đặt hết lên đôi vai Thủ. Tình thế bắt anh
phải chèo chống, xoay xoả bằng mọi cách để chuyển
bại thành thắng. Không còn sự lựa chọn nào khác.
trôn tại hay không tồn tại?
Với tâm trạng ấy, Thủ đáp thẳng đến nhà ông Hàm
tìm bà Son. Và bây giờ anh đang nằm chờ.
Thấy con ki ki, con chó lai, to như con gấu rừng
hộc lên rồi lao xồ ra cổng. Liền đó tiếng bà Son
quở nó, Thủ choàng dậy. Luyến đang nằm ôm thằng cu
con trong buồng, tất tả nhạy ra, hai bầu vú căng
sữa không nịt, đội hớt cái áo lên, đánh lúc lắc
theo mỗi bước đi của Luyến. Bá sang chơi - Luyến
niềm nở. Từ tối đến giờ không có ai để nói chuyện,
Luyến buồn đến khô nhạt cả mồm! Nhưng khi Thủ pha
nước xong, ngồi co chân lên, châm tiếp một điếu
thuốc nữa với nét nghiêm nghi, thì Luyến biết đã
đến lúc chị phải rút lui.
- Em đã tính kỹ rồi - Thủ bắt đầu lên tiếng, chỉ
vừa đủ cho bà Son ngồi đối diện bên kia bàn nghe
- bây giờ chỉ có bá là dẹp yên vụ này! Bá nghe em
nói đã. Vụ này không thu xếp được, thì nguy đến cả
họ nhà ta. Nhiều việc lâu nay họ không dám nói,
thì nhân dịp này nó sẽ bới tung ra. Ngày thằng
Dinh nhà bá đi lao động nước ngoài, đã có đơn
kiện lên huyện là còn ba tháng nữa mới hết hạn
nghĩa vụ, mà thằng Dinh đã được ra quân để đi.
Lúc ấy nhà mình mạnh, huyện với xã là một nên dù
có kiện nữa thì chúng cũng là con kiến kiện củ
khoai! Chứ nó bới vào lúc này là tướt bơ. Sáng
nay em đi một vòng từ xã lên huyện càng thấy rõ
là nhiều người đang muốn lật ta! Họ đang muốn mượn
gió bẻ măng, nên ta phải thu xếp gấp rút vụ này.
Trong một tuần các cơ quan trên huyện thụ lý hồ
sơ, ta phải thu xếp bằng xong, chứ để đến khi ra
toà thành án thì không thể thay đổi được nữa!
Thủ lại châm điếu thuốc khác. Bà Son cứ thấy lạnh
cả chân tay. Thủ giảng giải luật hình sự cho bà
Son nghe, bà càng sợ tái người. Chỉ còn một tuần
nữa, một tuần để cứu ông Hàm và cứu danh dự cho cả
một dòng họ! Chân yếu tay mềm như bà khác nào lấy
đũa chống trời!
- Việc to như thế thì chú bảo tôi làm được gì?
Bà Son hỏi nhỏ, mặt càng héo đi. Thủ vẫn im lặng
hút thuốc. Cứ cho cái sợ thấm sâu nữa vào người bà
chị dâu, để đặt bà ấy vào tình thế không có con
đường nào khác là phải răm rắp làm theo kế hoạch
của Thủ.
Anh càng hạ nhỏ giọng nghe càng nghiêm trọng:
- Bây giờ ta đang ở thế yếu, nên không thể dùng
đòn rắn, đòn cứng để chọi lại, mà phải dùng đòn
mềm, lạt mềm buộc chặt! Phải dùng tình cảm để
thuyết phục. Mà dùng cách này thì em đã tính hết
nhẽ rồi, chỉ có bá mới xong!
- Tôi á? Bà Son tròn mắt lên.
Thủ càng hạ giọng:
- Phải! Chính bá! Bá sẽ gặp ông Phúc!
Bà Son giật người lên trong ghế ngồi. Mặt hết tái
lại đỏ rần lên, và đôi mắt thì ngơ ngác đến bạc
dại đi. Thủ đưa hai tay lên mặt bàn đan vào nhau,
giọng trang nghiêm:
- Bây giờ ta phải điều đình với ông Phúc Mà gặp
ông Phúc để nói chuyện này thì bá là tiện nhất.
Bá đừng nghĩ quẩn. Tất cả anh em nội ngoại nhà ta
không ai nghĩ xấu về bá. Không ai nghi ngờ bá có
chuyện gì với ông Phúc. Với lại lúc ấy bá chưa lấy
bác Hàm thì ai có quyền gì mà trách. Ngay em với
nhà em lúc chưa lấy nhau cũng bị đồn thổi khối
chuyện, miệng lưỡi thiên hạ chín người mười tính,
biết đâu mà lần. Cái chính là từ khi lấy nhau, ăn
ở với nhau thế nào? Điều ấy thì mấy chục năm nay
anh em chú bác nhà ta quý bá. Cả em dâu em rể
cũng quý bá, tịnh không có lời ra tiếng vào. Bá
yên tâm. Bây giờ bá gặp ông Phúc, bá đề nghị ông
ấy rút đơn kiện và nói với huyện là vì tình làng
nghĩa xóm còn ăn đời ở kiếp với nhau. Không những
đời ta, mà còn con cái cháu chắt sau này, vẫn sớm
tối trông thấy nhau, thế thì gây thù chuốc oán
nhau làm gì. Việc vừa qua chỉ như người say: không
còn biết khôn dại là gì. Bây giờ đôi bên tự thu
xếp với nhau ồn thoả, không cần pháp luật can
thiệp nữa. Việc của bá nói làm sao để ông ấy đồng
ý rút đơn kiện, còn lại sau đó em sẽ lo hết. Em sẽ
nói với huyện với xã là chính em đứng ra xin họ
hàng nhà ông ấy. Có vậy anh em nhà ông ấy mới mát
mặt. Hãy cứ để cho họ được thắng. Dân làng có bảo
em là chịu nhún nhường, chịu lép vế phải ngửa tay
xin cũng khòng sao, em sẽ nhận hết. Sẽ không ai
biết bị đến gặp ông Phúc. Cả bác Hàm, bác Long và
nhà em cũng không cho biết. Việc này chỉ riêng bá
với em.
Bà Son đưa hai tay ôm lấy má, nước mắt chảy ràn
rua. Bà lặng lẽ ngồi khóc. Bà đã hiểu. Thủ chưa
nói hết, nhưng bà biết là Thủ muốn khuyên bà dùng
hết cái tình xưa nghĩa cũ ra để thuyết phục ông
Phúc. Cái điều xưa kia là tội lỗi, là tai tiếng để
dòng họ phải hổ lây, là cái gai trong lòng ông
Hàm, thì bây giờ lại là lá bùa bảo hộ cho chính
ông Hàm, cho cả dòng họ Trịnh Bá! Tình thế bắt bà
không thể chối từ!
- Thế tôi phải đến tận nhà ông ấy à? Vợ ông ấy lại
chả làm ầm lên - Bà Son nói nghèn nghẹn.
Thủ kín đáo trút một hơi thở nhẹ nhõm. Điều khó
trước tiên là bà Son nhận lời, vậy đã xong. Những
bước tiếp theo Thủ đã thiết kế tiếp, sẽ là đạo diễn
trong màn kịch mà anh phải dành phần thắng bất ngờ
này!
- Ai lại dại dột đến nhà ông ấy. Rồi ba gặp ông ấy
ở đầu vào lúc nào, em sẽ lo. Em dặn bá điều này
nữa, là khi gặp ông Phúc bá không nói do ai bảo,
mà tự bá nghĩ ra, thấy cần làm thế.
Bà Son đưa ống tay lao mặt, miệng lẩm bám như nói
thầm:
- Tôi biết rồi. Tôi nghe chú. Thôi thì tất cả vì
ông ấy nhà tôi vì họ Trịnh nhà mình!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười một - VN thu quan
Rồi cả đêm Thủ nằm tính, tìm ra cớ để bà Son gặp
ông Phúc sao cho kín đáo và có vẻ tình cờ nhất.
Trong màn kịch này, Thủ quyết định phải huy động
thêm một nhân vật nữa, để trợ sức với anh, đó là
Cao, phó ban công an, cháu họ Luyến. Năm nay Cao
bã ba mươi nhăm, nhưng tính nết vẫn bộp chộp, xốc
nổi, thích làm nhưng cũng hay để hỏng việc. Cao
ngồi được vào ghế phó ban công an như hiện nay
cũng nhờ Thủ làm công tác tư tưởng rất khéo với
một số người có thành kiến nặng với Cao. Vì thế
ngoài tình cảm gia đình, Cao còn coi Thủ là người
dìu dắt, một người che chở, cho nên khi cần một
cánh tay tin cẩn, hết lòng với mình, Thủ nghĩ
ngay đến Cao.
Tạm yên trí với kế hoạch của mình, Thủ ngủ thiếp
đi nặng nề, thì vừa lúc gà gáy sáng.
Khi Luyến sẽ sàng gọi chồng dậy ăn cơm, thì bỗng
có tiếng ông bõ Vòi réo ồm ồm ngoài ngõ. Ông
mang giấy mời họp gấp đến cho Thủ.
Giấy triệu tập các bí thư đảng uỷ sang ngay xã Tân
Phú cách đây hơn chục cây số để dự cuộc sơ kết rút
kinh nghiệm đợt thí điểm đầu tiên huyện triển khai
nghị quyết 04 của Trung ương về công tác làm trong
sạch đội ngủ Đảng. Tân Phú là xã được nêu tên có
nhiều vụ việc bê bối nhất, nên huyện quyết định đưa
đội công tác về làm đầu tiên. Từ đây rút kinh
nghiệm để làm tiếp các xã khác.
Thời gian họp rút kinh nghiệm là hai ngày. Trong
đó có tham quan nhà máy luyện kim màu và nhà máy
cơ khí nông nghiệp nữa buổi. Thủ vo giấy đút vào
túi, thở dài. Bình thường đây là những cuộc vui.
Ngồi nghe chuyện của người khác, những niềm vui
nỗi buồn của người khác, rồi mời nhau vào bàn
tiệc. Rồi xem vi-đê-ô có nhiều pha tươi mát đến
người già cũng nổi cơn hứng tình. Những cuộc rút
kinh nghiệm như thế là những cuộc thư giãn thần
kinh. Bây giờ đang búi lên thế này. Nhưng dù sao
cũng không thể vắng mặt. Ông Luân không thấy mình
đến sẽ nghĩ gì?
Đúng là Thủ vừa đạp xe đến đã thấy bí thư huyện uỷ
ở đấy rồi ông Luân chưa kịp hỏi gì, thì Thủ đã nói
nhỏ:
- Tôi đang cố gắng thu xếp chuyện ấy ổn thoả anh
ạ.
Đang lúc có mấy người chèo kéo tíu tít, nên ông
Luân cũng chỉ nói vội vã:
- Cố gắng dẹp êm đi chớ không thì phiền lắm đấy.
Rồi cho đến kết thúc hội nghị không có cuộc nói
chuyện nào nữa. Cả hai đều cố ý tránh gặp riêng
nhau. Các bí thư xã khác cũng nhìn Thủ nghi
ngại. Họ chỉ thì thâm nói nhỏ với nhau chứ không
dám hỏi Thủ. Lần đầu tiên Thủ biết thế nào là người
có phốt, quay hướng nào cũng lưỡng vướng như cá mắc
câu.
Hết hội nghị, Thủ đạp xe về ngay. Tới nhà đã nhập
nhoạng tối. Luyến vẫn đang lúi húi tưới rau ngoài
vườn. Chị nói to từ ngoài vào:
- Bác Tươi lúc nãy đến gọi thầy em đi họp đấy.
Hỏi thêm, Thủ biết đó là họp chi bộ của cụm dưới
này gồm có Giếng Chùa, Xóm Mới và Xóm Trại. Từ
trước đến nay ba xóm này là một chi bộ. Thủ sinh
hoạt Đảng ở đây. Thế này thì cập rập quá, chưa kịp
nói gì với Cao, Thủ thầm nghĩ. Nhưng đành phải cố.
Đây là thời cơ. Đã mất hai ngày rồi. Còn lại
không đầy một tuần nữa. Anh phải xoay sở trong
quãng thời gian gấp rút ấy.
Thủ sai con đi gọi Cao sang. Còn anh đến ngay
nhà ông Hàm để trực tiếp dặn bà Son. Từ xa đã
nhìn thấy nhà bà Son chưa nghỉ việc. Cây đèn toạ
đăng để trước thềm, soi sáng cả trong nhà ngoài
sân. Đào và người đàn bà làm thuê vừa tuốt lúa
xong, bây giờ người cào, người quét rơm trên đống
thóc ngồn ngộn giữa sân. Cái Hoa ngồi băm rau lợn
kênh kếch một góc. Tất cả lặng lẽ như một nơi chưa
biết dùng ngôn ngữ?
- Bá có nhà không? - Thủ vừa bước vào cổng hỏi to.
- A chú - Đào ngửng lên, rồi cô quay lại gọi:
- U ơi, chú Thủ đến.
Tiếng bà Son từ trong bếp vọng ra. Bà đang nấu
cơm. Thủ đi thẳng vào bếp. Sau mấy lời nói nhỏ chỉ
đủ bà Son nghe, Thủ quay ra về ngay. Không ai
nhìn thấy bà Son ngồi thừ ra, mặt tái bợt. Đang mổ
mẻ cá tươi rói, chúng thi nhau nhảy toanh toách
trong rổ, tay bà Son cứ run bắn lên. Thế là cái
việc bà phải làm, nhưng sợ vô cùng đã đến rồi! Thủ
vừa quay ra khỏi sân, mắt còn đang quáng đèn,
thì tý nữa đâm sầm vào một người quang gánh kĩu
kịt cũng đang xăm xăm đi vào.
- Ai gồng gánh gì thế này? - Thủ lùi lại hỏi như
gắt, thì một giọng phụ nữ lại rất sởi lởi:
- Ôi giời chú Thủ đấy à? Con mẹ Đủ đầy! Cha mẹ đặt
tên thế, nhưng quanh năm vắt mũi đút miệng! Vay
nồi thóc cứu đói của bà Son tháng trước, giờ phải
giả tắp lự ngay đây! Chứ không cái lão nhà tôi nó
lại cho men vào thì lên chai hết! Đúng là tướng
đàn ông răng hô mồm cá ngão chỉ siêng ăn nhác
làm!
Thủ phì cười, cũng nói tếu:
- Ai bảo bà đẻ cho lắm vào? Thóc gạo đã ít, lại đẻ
gấp đôi gấp ba người ta còn kêu.
- Cơ mà khổ lắm chú ơi! Nhà người ta còn có đài,
có máy hát để nghe nhạc nghe nhiếc cho dãn xương
dãn cốt, chứ nhà tôi không có thì đêm hôm còn
biết làm gì!
- Rõ khỉ cái bà này!
Thủ né sang bên cho người đàn bà cao lớn như đàn
ông cười khi khí gánh thóc con cón đi vào. Thủ
không biết rằng bà ta đang cười thầm và tự đắc về
cái tài dùng chuyện tếu của mình để đánh lạc sự
chú ý của người khác. Bà ta không hề vay thóc của
vợ chồng ông Hàm. Và một số người khác cũng không
hề vay mượn gì, nhưng mấy tối nay nếu ai tinh ý sẽ
ngạc nhiên thấy nhiều người gánh thóc đi xuôi đi
ngược thì thì thầm thầm, kín kín hở hở. ấy là họ
đang thực hiện một chiến thuật phòng thủ cho cái
dạ dày rất thần tình! Lúc này ở chính nhà Thủ,
Luyến hốt hoảng nói như rên với một người đàn bà
cũng tuổi sồn sồn như Luyến:
- Chết thôi! Em đã bảo em còn nghĩ đã, thế mà bá
lại gánh ngay đến thế này? Nhà em biết thì chết!
Thôi để vào trong xó nhà ngang kia. Mau lên, nhà
em sắp về đấy!
Người đàn bà hớn hở gánh thóc vào, nói trấn an
Luyến:
- Cô cứ yên trí, ông ấy có biết khối?
Lẳng bì thóc vào xó tối, rồi chị ta quay ra biến
ngay. Hỡi những nhà quản lý nông thôn! Những người
gánh thóc đi ngược đi xuôi chính là những người
đang thiếu sản! Họ đang nợ hợp tác xã đấy! Chứ
không nợ cá nhân. Người nào cũng dăm bảy tạ cả. Nợ
từ mấy vụ trước. Chiêm năm nay khá nhưng họ chỉ
quyết nộp một ít gọi là, chứ không thể thanh toán
sòng phẳng ngay được - Nộp hoét để nhe răng ra
à?. Họ bảo nhau. Quân tử phòng thân, ta là tiểu
nhân thì cứ phải nắm chắc lấy bị gậy!
Nhưng không nộp thì phải cất giấu ở đâu, chứ để lù
lù ngay trong nhà, đội thu sản của hợp tác xã đến
thì bằng lạy ông tôi ở bụi này, còn gì! Thế rồi
không biết do mưu mẹo của ai, họ bảo nhau chắc
chân nhất là mang đến gửi ngay ở những nhà không
có nợ nần gì với hợp tác. Nếu gửi được vào những
nhà cán bộ thì càng hay! Lấy độc trị độc mà! Khi
cần đến lấy từng thúng một, nói là đi vay, đố anh
nào dám bắt thu sản!
Do Luyến là người dễ tính, hay nể nả, nên Thủ
không ngờ chính nhà mình là nơi tàng trữ, đồng
loã cho hai nhà trốn thuế.
Hạt thóc, đồng tiền lên khúc ruột; để giữ nó, thì
ngay những bà một chứ bẻ đôi không biết cũng nghĩ
ra được lắm kế tàng hình!
- Chú gọi cháu à? - Cao đang uống nước sịt soạt ở
bàn, thấy Thủ về ngồi dịch vào.
Với dáng người đậm, đen, mái tóc để chờm tai, lại
thêm hàng ria mép và quần lúc nào cũng ống bó.
Rồi lại thích bắn súng! Thỉnh thoảng Cao lại bắn
chỉ thiên đòm đòm, bảo là xin được đạn, nên muốn
bắn thử xem còn tốt không! Hễ được tin làng nào có
chuyện gì liên quan đến nghiệp vụ của mình, là
Cao lập tức sắn sả đi ngay. Dù vội mấy Cao cũng
đóng đúng mốt một nhà chức trách rất bảnh: Bộ bò
mốc mua đến hai nồi thóc, mũ lơ-vít, kính râm mát
to, giầy cao cổ súng ngắn đeo trễ bên hông. Có
hôm lại cố ý không cần bao, mà dắt khẩu súng chì
đen ngòm dưới bụng, rồi nhảy lên chiếc ba-bet-ta
đã tróc hết cả sơn lẫn mạ, vậy mà phải đổi hết bốn
tạ thóc giữa lúc gạo đắt như vàng, khiến cả mẹ và
vợ Cao như bị cắt từng khúc ruột. Cao rồ máy phóng
đến nơi có chiến sự với cái dáng hiên ngang của
người cầm pháp luật, mà vẫn đủ dáng dấp một thám tử
trong những phim phản gián giật gân. Vô số những
gã trai làng nhìn Cao với con mắt thèm muốn. Còn
những người lớn tuổi thì bảo Cao vẫn còn tính học
đòi lấc cấc! Bởi vậy đã có ghế phó ban công an,
và Thủ ra sức vận động, nhưng Cao chỉ mới trúng
chân hội đồng nhân dân xã với số phiếu vừa đủ, còn
bên Đảng thì ngay ở chi bộ nhỏ này đã đề cử nhiều
lần nhưng Cao không sao len được vào chi uỷ.
- Có việc này phải làm ngay - Thủ nói nho nhỏ.
Nhưng nhìn nét mặt và cữ chỉ nghiêm trang của Thủ.
Cao biết là việc rất hệ trọng.
Thủ bắt đầu rầm rì vừa nới, vừa phân tích sự bức
thiết phải thực hiện bằng được kế hoạch này. Nếu
không sẽ là chuyện giậu đổ bìm leo, không chỉ uy
tín dòng họ Trịnh Bá bị chìm, mà cái ghế hiện nay
có liên quan đến dòng họ này cũng sẽ bị chặt chân,
rút ván! Cao vừa nghe, vừa gật gù, rồi cũng cố hạ
cái giọng vốn ồm ồm rất vang của mình:
- Mấy hôm nay bỗng có tiếng đôn là trên huyện
đang bất bình với chú, đang đặt câu hỏi nghi vế
là chú có thành kiến với ông Phúc như bác Hàm
không? Có cùng là người chủ mưu không? Một việc
như thế, anh làm em không thể không biết. Cháu có
hỏi thẳng ông Sửu là tin từ đâu tung ra? Ông ấy
cười cười bảo: Miệng lưỡi thiên hạ có giời lần?
Nhưng cháu nghĩ là chính ông ấy đang tung hoả
mù! Vì đây là cơ hội tốt để ông ấy củng cố uy tín.
- Không cần chấp vặt! Cứ yên trí là khi lật ngược
được thế cờ thì tất cả thòng đong tép mại đang a
dua nhảy nhởn đớp bóng lại tự khắc im rè!
Thủ vừa nói vừa đứng dậy, như đó là lời kết luận.
Chú cháu họ bước ra khỏi nhà.
Trăng đầu tháng uốn một mảnh cong gài trên ngọn
tre.
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười hai - VN thu
quan
Họp chi bộ vào khoảng tám giờ tối, thì bí thư Xuân
Tươi (dân làng vẫn gọi đồng chí Tươi bằng cả tên
con tên bố như vậy để khỏi nhầm) phải đến từ bảy
giờ. Đi mượn chìa khoá cửa của cô giáo Oanh ở tận
cuối xóm, rồi tìm dây treo đèn, kê lại bàn ghế,
tất cả những việc ấy bí thư phải làm tuốt ráo!
Trước đây vẫn có nếp ai làm bí thư, thì họp chi bộ
luôn ở nhà người ấy. Gia đình chuẩn bị sẵn nước
chè, điếu đóm, cứ như nhà có đám. Nhưng rồi thấy
lợi bất cặp hại, là nhiều việc Đảng viên chưa tỏ,
mà quần chúng đã tường. Nhiều điều chỉ mới bàn
riêng trong chi bộ thì ngay hôm sau đâu làng
cuối xóm đã nói ầm ầm, bởi chính vợ con bí thư đã
đi phổ biến nghị quyết của đảng một cách đầy sốt
sắng và kiêu hãnh! Thế là phải dời địa điểm. Cho
dù làm vậy có hạn chế tính quần chúng, tính thân
mật, nhưng được cái Đảng ra Đảng, dân ra dân! Đảng
thì có nhiều việc chỉ được biết trong phạm vi hẹp,
còn dân thì bao giờ cũng thích chia vui cho cả
làng cả chợ! Nếu thấy ít chưa đủ vui, thì họ suýt
ra nhiều cho xôm trò! Bé xé ra to?
Đây là lớp mẫu giáo, nơi trung tâm nhất của cả ba
xóm. Đây chính là nhà giữ trẻ từ những năm còn
chiến tranh, nơi cô Lạc vợ trước của trung tá Chỉnh
đã làm việc và đã gây ra những vụ xì-căng-đan
khiến nghiêng ngã cả làng Giếng Chùa. Phó chủ
nhiệm và đội trưởng sản xuất lúc ấy đã bị Lạc bắn
tỉa vàdiệt gọn ở chính trong nhà này.
Bí thư Xuân Tươi chuẩn bị xong, sang nhà bên lùa
vừa hút thuốc lào, nghe chừng mọi người đã đến đầy
đủ, anh mới quay về. Xuân Tươi là cán bộ ở phòng
văn hoá huyện, chỉ nhinh hơn Thủ vài tuổi, nhưng
đã hưu non từ năm kia, vì nghe đâu năng lực cũng
không được dồi dào lắm; cả văn lẫn hoá cũng chỉ tạm
dùng khi bấn người! Nhưng được cái lúc nào cũng hồ
hởi lạc quan, cứ vui như Tết! Xuân Tươi được nổi
tiếng ở đại hội chi bộ năm ngoái. Hôm ấy người ta
tranh luận khá căng thẳng về vấn đề đoàn kết trong
chi bộ chưa tốt. Có hiện tượng mâu thuẫn cá nhân
bắt nguồn từ mâu thuẫn gia đình, dòng bọ. Giữa lúc
không ai thắng ai, chủ toạ không thể kết luận
được, thì Xuân Tươi lúc ấy chỉ là một đảng viên
thường, mới mang giấy sinh hoạt đảng về được vài
tháng, giơ tay xin nói. Anh lên bục đàng hoàng.
Xuân Tươi bắt đầu mở máy. Anh nói làu làu tư duy
mới là thế nào, xu thế thời đại hiện nay là từ đối
đầu chuyển sang đối thoại ra sao. Chiến tranh giữa
các vì sao là thế nào! Rồi chương trình SDI của
Mỹ, rồi đề nghị huỷ bỏ vũ khí tầm trung của Liên
xô! Rồi giải trừ quân bi, hoà bình là mái nhà
chung của nhân loại! Những chuyện ngoài lề của
cuộc gặp gỡ cấp cao Xô-Mỹ mà anh ngồi chầu rìa
nghe hóng được, Xuân Tươi tung ra như mưa rào. Mọi
người đang căng thẳng vì những chuyện quá cụ thể,
giờ được nghe chuyện trời cao đất dày thấy sướng lô
tai, nên ai cũng há mồm ra nghe. Khi kết thúc
bài nóiquan trọng, Xuân Tươi đã giơ tay lên quá
đầu như một chính khách, và anh kêu gọi thống
thiết: Các đồng chí! Chúng ta hãy nhìn xa trông
rộng bằng đôi mắt đại bàng, chứ đừng nhìn thế giới
bằng đồi mắt gà ri! Tiếng vỗ tay rầm rầm. Một tiếng
hô lớn Xuân Tươi muôn năm!
Đến khi đề cử cấp uỷ mới, Xuân Tươi đã được mấy
người giới thiệu, và anh đã trúng phiếu cao nhất!
Một bí thư không có trong dự kiến.
Thực ra Xuân Tươi trúng cử không phải do bài phát
biểu tịt mù cung thang kia, mà cái chính là Xuân
Tươi không phải người gốc ở đây. Cả vợ anh cũng
không dính dáng với dòng họ nào trong làng. Hắn
là dân ngự cư,và cũng chỉ là anh ba hoa chích
choè, không lợi không hại. Nhưng thà thế còn hơn
là để rơi vào tay người đối chọi với mình. Rồi sẽ
lôi kéo hắn dần dần! Xuân Tươi không thể biết được
những thủ lĩnh của những dòng họ lớn của ba xóm đã
dặn dò đàn em của mình như vậy. Nhưng cho đến nay
Xuân Tươi vẫn chưa bị người của bên nào lôi kéo. Vì
ham vui, nên có thể la cà say sưa với bất cứ ai,
làm như mình cũng có thể ban quyền phát lộc cho
người khác, nhưng rồi Tươi không làm gì cả! Mà sự
thực là anh có làm được gì! Đến thảo nghi quyết và
điều hành những cuộc họp có nhiều vấn đề phức tạp
là Xuân Tươi đã như gà mắc tóc rồi! Anh quen với
việc kẻ pa-nô, dán ap-phích và chăng cờ kết hoa
cho các hội nghị hơn là ngồi chủ toạ hội nghị.
Những người định lôi kéo Xuân Tươi đã thấy anh chỉ
là người tào lao! Tất cả mọi tinh anh, Tươi đã
phát tiết luôn ra cửa miệng trong những lúc
chuyện gẫu rồi! Người ta đồn là sự nghiệp chính trị
của Xuân Tươi cũng chỉ được hết khoá này là cùng!
- Thôi ta vào đi các vị! - Xuân Tươi vỗ tay bồm
bộp. Anh mặc chiếc áo trắng đã ngã màu cháo lòng
nhưng lại dắt vào trong quần cẩn thận. Khuôn mặt
nhỏ, nhưng mắt và miệng lại to, tiếng cứ vang
vang.
- Hôm nay nhiều vấn đề lắm. -ông Thủ đi họp về có
gì mới không? Rút kinh nghiệm thực hiện nghị quyết
04 à? ông Luân hay ai chủ trì? Ngày mình ở phòng
văn hoá, thì ông ấy bên tổ chức, cùng cán sự òn
èng như nhau. Thế mà nhoáy cái tay ấy lên nhanh
thế.
Đón điếu thuốc từ tay Thủ, rồi Xuân Tươi vừa như
nói với Thủ, lại vừa như nói với mọi người:
- Hôm nay họp bàn ngoài mấy nội dung đảng uỷ phố
biến hôm trước, còn có thêm một việc mới đây uỷ
ban và ban quản trị hợp tác xã có nhận được đơn của
ba đội sản xuất ở Giếng Chùa xin gặt chiêm xong
cho họ được tách ra khỏi hợp tác xã lớn, để họ xây
dựng hợp tác xã nhỏ như hồi chưa sát nhập. Tất
nhiên chi bộ không giải quyết việc tách hay
không. Nhưng đồng chí Sửu đề nghị tôi là họp chi
bộ chúng ta cần tìm xem nguyên nhân từ đâu? Có
vai trò Đảng viên ta không? Rách việc thế đấy các
ông ạ! Các bố trên huyện cứ hay kêu cán bộ dưới cơ
sở không đi sâu đi sát để tìm hiểu nguyện vọng của
bà con. Thế còn muốn anh em vào sâu đến đâu!
Tiếng cười hí há. Đấy cách làm việc của bí thư
Xuân Tươi đấy! Cứ chuyện nọ xọ chuyện kia. Đang tư
nhằng sang công. Đang chuyện ngoài lề bắt cầu
ngay vào nghị quyết. Giở thật giờ đùa, chớt chớt
nhả nhả! Thủ đã góp ý mấy lần, những Xuân Tươi vẫn
như con hổ, chỉ một cái là quệt vào tai là quên
sạch!
Nào ta bắt đầu! - Xuân Tươi đứng bên chiếc bàn kê
trên cùng, phía dưới xếp thành hai hàng là bàn
ghế của lớp vỡ lòng thấp lè tè. Gần hai chục đảng
viên đứng ngồi lố nhố. Chỉ có hai phụ nữ tuổi đã
trung niên, áo cánh quần thâm, rụt rè như đi ăn
cỗ.
- Các đồng chí bầu cho chủ toạ và thư ký - Xuân
Tươi nói tiếp.
Một người tận dưới cùng nói to:
- Vẫn như mọi bận thôi!
- Đúng đấy! Đồng ý!
Xuân Tươi ngồi xuống ghế vui vẻ, bỏ qua phần biểu
quyết, gọi ngay người vẫn quen được hội nghị bầu
làm thư ký vì văn hay chữ tốt:
- Thế thì xin mời đồng chí Tùng lên làm nhiệm vụ!
Còn chủ toạ chính là anh. Mọi bận vẫn thế!
Tùng ngồi xeo xéo phía bên kia, giáp bờ tường,
đang đốt thuốc mù mịt. Vận bộ quần áo lính gọn
gàng sạch sẽ, đầu tóc ngay ngắn. Với tuổi hai tám,
Tùng là Đảng viên trẻ nhất ở chi bộ này. Đã được
quân đội rèn luyện, lại có văn hoá, nhiều người
nói chính Tùng phải là bí thư ở chi bộ này mới
đúng.
Tùng dụi thuốc, lặng lặng bước lên. Không ai hiểu
sao hôm nay anh chàng vốn hoạt bát và tươi bưởi
này lại ỉu sìu sìu thế kia. ông Phúc ngồi mãi dưới
cùng trong góc mờ tỏ, vẫn đang rì rầm nói gì với
người bên cạnh. ông mới đến. Khi đã vào họp, nhìn
quanh không thấy ông, Thủ bồn chồn lên vì lo. Bây
giờ là anh yên tâm là màn kịch sắp được bắt đầu!
Nhưng có như mình dự đoán không? Chỉ cần họp xong,
ông ấy lại đi có việc ở đâu đó, thế là hỏng bét.
Mấy hôm nay bà Son đã chuẩn bị cho cuộc gặp này
thế nào? Sao lúc nãy nghe mình dặn xong, mặt bà
ấy lại thảng thốt đến thế? Còn thằng Cao nữa, vừa
mới nghe mình nói, mắt mũi đã sáng lên như sắp
được đóng phim phản gián! Rồi cái thằng lốp bốp
trâu luộc cả con này sẽ làm ăn ra sao?
Thôi riêng vấn đề tách hợp tác ta sẽ phát biểu
sau - Xuân Tươi đứng dậy xua xua tay như rung
chuông, cắt đứt dòng suy nghĩ miên man của Thủ -
Các đồng chí cứ phát biểu về việc thu sản trước mắt
đã. Đang có dư luận là những người khê đọng nhiều
vẫn tiếp tục ì ra không chịu nộp sản trong chiêm
này. Nghe nói có Đảng viên và anh em họ hàng của
Đảng viên cũng nghĩ như vậy. Nếu đúng thế thì ta
còn vận động được ai nữa.
- Dưng mà ta phải xem là tại sao người ta không
muốn nộp sản - Một trong hai người phụ nữ đang
phát biểu thì bị Xuân Tươi cắt ngang, nhưng chị vẫn
đứng đấy chứ không chịu ngồi. Tươi vừa dứt chị lại
tiếp ngay. Thì ra hai bà này chẳng bẽn lẽn chút
nào, chẳng chịu để cánh đàn ông áp đảo, nhất là
động vào bát cơm manh áo của họ thì coi chừng! Chị
nói tiếp với giọng chao chát:
- Ai chả biết làm ruộng phải đóng thuế. Nhưng tại
sao làm quần quật mà chúng tôi vẫn không đủ vắt
mũi đút miệng? Nhà nông cái gì cũng phải trông
vào hạt thóc. Nào ma chay cưới xin, nào cha già
mẹ héo; nào sách bút cho con, tiền đóng học cho
con môi năm một cao, tất cả đều trông vào hạt
thóc. Gạo không đủ ăn, nhưng vẫn phải thắt bụng
cho chặt vào để bán thóc thì mới có tiền mà đóng,
mà nộp. Vậy thế cho nên vụ chiêm này chúng tôi
cũng không thể nộp sản hết số còn khê đọng lại.
Nộp hết thì chúng tôi sống bằng gì? Xã cứ bắt
những người tham ô nộp trước đi đã. Người tham ô
tiền của đội 202, tức là tiền vét con sông Đào ấy,
đã nộp chưa? Người ở trại giống lấy thóc thịt đánh
tráo vào thóc giống, rồi mang thóc giống đi bán
chênh lệch đã nộp chưa? Rồi đến gạo nếp để ủng hộ
bộ đội ở biên giới, ở Trường Sa cũng bị tham ô, thế
thì chúng tôi còn biết tin ai? Ngay cái nhà ta
đang ngồi họp đây, nếu năm ngoái chúng tôi không
đấu tranh thì cũng đã bị dỡ đi rồi. Hỏi rằng dỡ
hai cái nhà kho, ba cái nhà chăn nuôi từ ngày
hợp tác Giếng Chùa làm, vậy bây giờ ở đâu? Của đau
con xót, chúng tôi làm chúng tôi phải thế. Tiền
có còn hay đã chui vào chai, nhảy lên đĩa cả
rồi?
- Gớm, bà cứ làm tiền cũng biết nhảy như ếch không
bằng!
- ếch nhảy cũng chẳng bằng người nhảy!
- Bà cứ nói thắt bụng lại cho chặt, nhưng tôi thấy
mấy bà ở đội 3 xóm Chùa mới năm ngoái nghỉ đẻ, mà
bây giờ đã lùm lùm đội kênh cả áo lên rồi!
Tiếng đẻ xen ngay vào, rồi cười khùng khục, phá
tan không khí căng thẳng.
- Thôi trật tự! - Xuân Tươi vỗ tay bôm bốp - Tôi
đề nghị chúng ta đi vào nội dung chính.
Thấy rõ là Xuân Tươi đang lúng túng. Việc đòi
tách hợp tác là việc lớn, không thể bàn ghép vào
cuộc họp này. Thì đã được biết có chuyện đơn xin
tách hợp tác từ nửa tháng trước. Những người làm
đơn xin tách hợp tác còn tố cáo một loạt lthững
việc bê bối của ban quản trị và các đội trưởng sản
xuất hiện nay. Mà phần đông những người trong số
này đều có dính dáng đến nhà họ Trịnh Bá. Thủ đã
nói với Sửu đây là việc hệ trọng: phải xem xét đã,
chưa nên bàn rộng vội. Vậy tại sao Sửu đề nghị Xuân
Tươi đưa ra bàn trong cuộc họp này? Có phải Sửu
đang muốn rung cả một bụi cây?
Thủ giơ tay, rồi đứng dậy với giọng rất nhã nhặn:
- Việc xin tách khỏi hợp tác xã lớn để trở về hợp
tác xã nhỏ như trước là một vấn đề lớn, nên chúng
tôi đã có bàn là phải xem xét kỹ rồi chi bộ sẽ
bàn riêng trong một cuộc họp khác, cứ bàn chung
với nhiều việc như hôm nay sẽ không đạt được kết
quả.
Ông Phúc không giơ tay, mà đứng bật dậy, lời lẽ
khúc chiết:
- Vậy tôi đề nghị ngay tuần tới ta phải họp để xem
xét yêu cầu của bà con có hợp lý không? Đồng thời
đây cũng là một việc xem xét chính Đảng viên cán
bộ mình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chưa? Tại sao
không được bà con tin như trước? Đây là cơ sở để
chúng ta tiến hành theo nghị quyết 04! Bà con
người ta đề nghị có văn bản giấy tờ, thì chúng ta
cũng phải xem xét cho nghiêm chỉnh Tránh tình
trạng để dây dưa. Việc nhà nông có mùa, có vụ. Mất
một vụ làm ăn ở người dư dật, có chức có quyền thì
vẫn không sao, nhưng với người giật gấu vá vai mà
lỡ một vụ là cả nhà treo niêu đến mấy vụ sau. Bây
giờ trên đã cho phép rồi ở đâu cán bộ yếu kém
không lãnh đạo nổi cả hợp tác xã lớn thì nên xé
nhỏ ra cho vừa sức mình. Cho nên bà con người ta
đòi chia lại hợp tác là có lý do chính đáng của
họ. Vì mấy hôm nay đã có tiếng xì xầm chê bai
những người làm đơn xin tách hợp tác là thiếu ý
thức chính trị, thiếu tinh thân chủ nghĩa xã hội!
nói vậy chính là không nắm được chính sách! Lại
muốn quay lại cái thời đánh trống ghi tên để người
siêng làm cho kẻ lười hưởng!
Có những tiếng cười nho nhỏ đó đây. Thủ thấy da
mặt mình đã sầm lên? nhưng anh là người biết kìm
nén, biết lùi một bước để tiến hai bước, nên Thủ
vẫn ngồi thản nhiên. Anh lại nghĩ đến Sửu. Thế là
việc châm ngòi của Sửu đã thành công rồi! Biết
đâu hôm qua hôm kia Sửu đã đến gặp ông Phúc!
Thấy Cao nhấp nhổm có vẻ nóng tiết, Thủ phải đưa
mắt cho Cao ra hiệu hãy cho qua! Hắn nói lốp bốp
chỉ có hỏng việc. Rồi Quàng phụ trách quỹ tiết
kiệm, em ruột Quềnh, ngồi ru rú đằng kia. Rồi anh
em Thanh, Thánh với chú cháu Đệ, Đạo Rồi Hoạt,
Đích, ông Na, ông Bùi. Bố con ông Vi - Vu, anh
em sinh đôi Hảo Hán. Đấy là những người họ hàng xa
gần, hoặc được liệt vào hàng ngũ thân tín của Thủ
đều ngồi im nên phát súng khai hoả của ông Phúc
như đã nổ vào chỗ không người Dù vậy ông Phúc và
những người ủng hộ ông ra dáng hỉ hả lắm. Hai người
em rể ông Phúc chồng bà Lộc, bà Tài. hai khẩu đại
pháo trên nghị trường của chi họ Vũ Đình cứ ngồi
rít thuốc tràn cung mây, như muốn nói đây chưa
cần xuất tướng! Cuộc họp suông sẻ cho đến phút
chót.
Xuân Tươi tuyên bố cuộc họp kết thúc với vẻ mặt
thật hớn hở vì theo Tươi cuộc họp đã thành công
tốt đẹp đúng với tinh thần dân chủ, đối mới, mà
tính chiến dấu nói thẳng, nói thật mỗi Đảng viên
rất cao!
Mọi người túa ra vê. Thấy ông Phúc lững thững một
mình theo lối rẽ, Thủ quay lại tìm Cao. Nhưng anh
chàng thích đóng phim phản gián còn nhanh hơn
Thủ, đã biến trước rồi!
Thủ nhìn đồng hồ mười giờ đêm.
Ông Phúc bước những bước thon thả. Ông đang rất
hài lòng với mình. Dân Giếng Chùa đang thì thầm
là dòng họ Vũ Đình lâu nay chỉ ở mức lập lờ, không
chìm nhưng cũng chưa nổi lên được, thì phen này
xem chừng cờ sắp đến tay! Trước đây chỉ có mình
ông Phúc và hai người bên ngoại là Đảng viên, nên
cả thế lực còn yếu. Bây giờ cùng lúc thêm đến bốn
Đảng viên về làng, mà người nào cũng sành sỏi cả.
Tùng lại được vào tận Đảng uỷ xã. Dù hai cậu cháu
còn trục trặc, nhưng chẳng bao giờ anh em họ lại
bỏ nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã Bên Trịnh
Bá định lấy âm trị dương cho êm ả sạch sẽ, nhưng
không ngờ gậy ông lại đập lưng ông rồi! Bây giờ
thì họ Vũ Đình không cần làm gì hết. Tất cả đã có
luật pháp. Vố này cả nòi Trịnh Bá cứ là tai tiếng
để đời!
Ông Phúc đằng hắng một tiếng rất sanh như tự thưởng
cho sự hiện diện của thình trong cõi đời, rồi dừng
lại bên bụi duỗi tối đen khum tay che gió bật lửa
châm điếu Hê-rô của anh em Hảo Hán lại mời thuốc
ông Phúc! óng ưa thuốc lào kia, nên bây giờ chẳng
nên câu nệ, lòng ông đang thảnh thơi quá, thuốc
gì chả ngon?
Ông Phúc vừa xoè lửa, thì bỗng một tiếng gọi rất
sẽ ngay bên cạnh, trong bụi cây:
- Ông Phúc!
Gần như giật nảy người, ông Phúc lùi lại một bước
với dáng điệu tự vệ, khiến người gọi cũng cuống lên
vì sợ ông bỏ chạy!
- Ông Phúc! Tôi đây? Tôi đây mà!
Chưa dứt những lời hào hến, bà Son đã hiện ra ngay
bên cạnh. Bà mặc quần đen và chiếc áo xanh vốn rất
đẹp của Đào, giờ đã cũ, nhưng còn rất bén, khiến
cái dáng đầm đậm tấm thước của bà vẫn gọn gàng mau
mắn. Bà chỉ mặc quần áo cũ của Đào mà vẫn được
tiếng là trau chuốt. Trong đêm, ông Phúc thấy bà
vận toàn đồ đen. Từ người bà toả sực lên mùi quết
trầu thơm cay, ấm nồng.
- Bà đấy à?... Bà... Bà gọi tôi? ông Phúc ngỡ
ngàng, hơi bối rối đến ngờ vực.
- Thế ông nghe chưa thủng hay sao? Tôi phải chờ để
gặp được ông từ tối đến giờ. Sao mà cái thân tôi
nó tội đến thế! Tôi muốn thưa chuyện này với ông!
Bà Son vừa nhả bã trầu, vừa nói trầm trầm rầu rĩ.
Bà ăn miếng trầu cũng là để giết thời gian mà
thôi. Bà đứng, đầu hơi cúi, hai tay vòng trước
ngực. Mái tóc còn rất dày cuộn một búi tròn sau
gáy.
Ông Phúc bóp điếu thuốc trong tay, hỏi nhỏ:
- Bà định nói chuyện với tôi? Có chuyện gì nữa mà
nói?
Giọng bà Son trở nên tức tưởi:
Ông bây giờ thì còn thiết gì, còn biết gì đến ai!
Ông chỉ cần được việc của ông. Ngay từ ngày xưa ông
đã như thế! Có bao giờ ông coi lời tôi làm trọng
đâu! vậy mà lúc nào ông cũng nắm được đằng chuôi.
Tôi vẫn nghĩ chả khi nào tôi phải gặp ông để cầu
cạnh. Thế mà rõ thật cái số tôi!
Ông Phúc giật lùi chân một bước, kêu lên:
- Chết! Chết! bà nói gì thế? Sao lại chuyện nọ sọ
chuyện kia như thế? Đứng đây nhỡ ai đi qua...
Bà Son cũng giật mình sực tỉnh. Bà đã chuẩn bị sẵn
từ tối những lời nói với ông Phúc. Vậy mà bây giờ
bà không kìm nổi sự dồn nén của tiềm thức. Tiếng
là cùng làng, nhưng từ lâu môi người mỗi cảnh, mỗi
phận. Làng xóm luôn luôn nhìn vào, họ hàng
nghiêng ngó, nên không bao giờ hai người còn đứng
chuyện trò với nhau. Từ ngày có hợp tác, mỗi người
ở một đội, nên càng xa nhau. Thảng hoặc bất ngờ
gập nhau ngoài đường chỉ khe gật đầu chào nhau vội
vã chân vẫn bước. Người này hoàn toàn không biết
được người kia nghĩ những gì về mình. Yêu hay
ghét? Trong lòng có còn chút bâng khuâng nào,
hay đã hoàn toàn giá lạnh? Bấy giờ nghe bà Son
nói với giọng chì chiết giận hờn, tim ông Phúc
bỗng nhảylên như bước hụt! Thì ra bà ta văn nhớ
hết! Cấm bỏ sót tí gì! Ngày ấy khi gia đình nhất
quyết bắt bà phải lấy chồng. buổi tối gặp nhau ở bờ
sông, bà ấy đã nói thế nào nhỉ?
- à quên! Tôi xin ông! Bà Son hoảng hốt khi thấy
mình không kìm nổi những điều âm ỉ vẫn cất kỹ
trong cõi lòng. Nhưng sao lại nói những chuyện ấy
vào lúc này?
- Tôi có câu chuyện muốn nói với ông, mà phái
nói dài dài nó mới ra nhẽ. Đứng đây không tiện.
Ông vui lòng đứng khuất vào trong này một tí.
Bà Son nói những lời ấy một cách hào hển, rồi bà
lui vào cánh bãi sau gốc duối, đến ngồi thu mình
cạnh bụi cây dành dành và bụi dứa dại, với những
tàu dứa vừa to vừa dày và nhọn hoắt như những
thanh gươm chĩa lên tua tủa cao quá đầu người, từ
bụi dứa sang bụi dành dành, dây tơ hồng giăng mắc
chằng chịt, trong bóng tối, đêm nhạt mờ nhìn như
một tấm lưới sắt.
Ông Phúc đứng lặng một lúc lâu, lòng ngổn ngang
rối bời. Ông bỗng thấy như mình vừa như lay lại một
cái gì, nhưng lại mơ hồ có một điều gì phấp phỏng
lắm. Ông vừa muốn nghe bà Son giãi bày, lại vừa
lảng tránh, bởi chắc chắn những điều bà sắp nói
chẳng vui vẻ gì; thế nào cũng liến quan đến cái
người mà không bao giờ ông muốn nhìn mặt. Nhưng đã
đên nước này thì không thể trốn được nữa. Trong
thâm tâm chưa bao giờ ông ghét bà Son. Chưa bao
giờ bà ấy là người lừa lọc.
Ông Phúc dắng một tiếng nhỏ trong cổ, rồi lùi vào
rặng cây bước từng bước rất chậm. Đã về khuya, ánh
sáng sao nhạt nhoà, hơi sương phơ phất như khói
nhạt khiến cánh bãi lờ mờ như trong chiêm bao.
Ông Phúc khẽ khàng đi lại bụi cây dành dành,
người bỗng châng lâng sợ sợ. Bà Son ngồi xổm, hai
tay ôm lấy gối, đen sẫm, lặng phắc như bất động.
- Ông ngồi xuống đi! - Bà Son nói trầm trầm, khó
khăn như rút từng lời từ trong ngực - Hôm nay tôi
gặp để xin ông một việc. Đúng là cái số tôi chẳng
ra gì! Muốn sống yên phận cũng chả được! Mang
tiếng là chồng con nhà cửa dè huề, nhưng có lúc
nào tôi được vui, được thoa nguyện. Chủ không ra
chủ, tớ không ra tớ! Ngẫm ra đời tôi lận đận là từ
cái ngày tôi phải lòng ông! Từ bấy giờ tôi không
làm chủ được cả thân tôi! Lấy những là để giừ cái
tiếng cho bố mẹ thế là vì bố mẹ chứ đâu phải vì
mình! Nếu ngày ông thực lòng vì tôi, cùng ý với
tôi bỏ đi nơi khác làm ăn, no đói có nhau, thì
chắc đời tôi không đến nỗi. Có no mà không có
vui, có lành mà không có ấm như thế này!
Tiếng bà Son tắc lại, ngạt đi. Bà gục mặt xuống
hai đầu gối, vai run lên từng nhịp. Bà không định
nói thế. Nhưng vừa cất lời lại không kìm được
lòng. Những điều u uẩn vẫn cất kỹ từ lâu, mấy hôm
nay lại bồn chôn bật dậy. Từ tối đến giờ đã chực
sẵn nơi đầu lưỡi. chỉ cần giáp mặt người vừa yêu vừa
ghét kia là những lời ấy bật ngay ra.
Ông Phúc hốt hoảng nhìn quanh, rồi tự thấy mình
đứng lêu đều như thế này thì thật là ngớ ngẩn, dại
dột nữa. Ông liền lóng ngóng ngồi xuống, và chẳng
biết nói gì, hỏi gì, cứ nhìn lom lom vào đôi vai
còn tròn trịa của bà Son đang run lên trong tiếng
nấc, lòng dạ bồn chồn rối rắm.
Đã lâu lắm rồi, xa xưa lắm rồi, từ ngày ông còn là
cậu giáo Phúc trường đồng ấu, đầu xanh mỡ, mặt
vuông. da trắng. Mặc dù đã yên bề gia thất, nhưng
ông vẫn đứng núi này trông núi nọ, vì càng gần
người vợ bố mẹ chọn cho, cái cô Dần khô chân gân
mặt ấy, thì cậu giáo Phúc càng thấy đời mình trống
vắng thiếu hụt. Vậy mà khi người con gái đẹp nhất
làng, đã cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu,
rủ cậu bỏ làng ra đi liều! Tối ấy, khi bố mẹ nhất
quyết phải bắt Son lấy chồng, Son đã tất tả chạy
ra gốc cây bạc thau trên quãng vai cày bờ sông,
áo quần bay lật phật, mái tóc dài cuốn vội vã,
chiếc lược thưa vẫn cài vắt vẻo đỉnh lọn tóc. Cô ào
đến Phúc, đổ người vào ngực Phúc. vừa nói vừa thở
dốc:
- Bỏ đi đi anh! Đi đâu cũng được! Mình có hai
bàn tay, chịu khó chịu khổ thì ở đâu chả kiếm được
miếng ăn. Thấy u em nhất định bắt em phải lấy thằng
thọt ấy rồi! Họ đang bàn với nhau là tuần sau
cưới! Thế thì em chết còn hơn! Bỏ đi anh! Báu gì ở
cái đồng đất thóc mách này. Thế nào? Anh nghĩ thế
nào mà đứng đực ra thế?
Son ngửa khuôn mặt nước mắt chan hoà lên vừa khóc,
vừa lắc người Phúc như lắc, như run một cái cây
chết đứng! Đến khi Son xoắn tay vào bả vai Phúc
hỏi dồn, Phúc mới lâm bẩm như người mất hồn:
- Nhưng biết đi đâu bây giờ? Sểnh nhà ra thất
nghiệp! Thế là bà Son đấm bình bịch vào ngực Phúc,
gào lên: Thì ra anh là người hèn nhát! Anh lừa
tôi? Anh coi tôi là đồ chơi? Anh còn nhớ anh thề
thốt những gì không? Nói ra anh chỉ gan cái lỗ
mồm! Anh chỉ biết đến thân anh! Anh tiệc cái nhà
ngói, cái sân gạch chứ gì? Anh tiếc con vợ mặt
lưới cày chứ gì? Đã thế thì anh về đi! Bước cho
khuất mắt tôi đi!
Có tiếng gõ lách cách vào mạn thuyền đuổi cá dưới
sông, Phúc bịt miệng Son, nhưng cô vằng tay ra như
một con chim cắt xù lông vẫy cánh, giọng cứ rít
lên:
- Không việc gì phải sợ! Cả làng, cả tổng người ta
nói dăng dăng là tôi dan díu với anh, tôi không
sợ thiệt thì anh lo gì! Giời ơi khổ thân tôi!
Vừa nấc lên trong tiếng khóc, Son vừa chạy vụt đi.
Lon tóc xổ ra, gió quạt tung toá phủ kín cả lưng.
Đêm ấy - ông Phúc nhớ lắm, cũng sáng lờ mờ lợt
nhợt như đêm nay. Đấy là đêm gặp gỡ cuối cùng của
hai người, và khởi đầu của mối tình thù dai dẳng
đến mấy chục năm!
Sau đêm ấy một tuần Son lấy chồng, lấy anh Hàm
thọt. Rồi Son vẫn sống như mọi người vợ, mọi người
đàn bà khác: chẳng việc gì phải chết như cô nói!
Từ đấy môi người một phận, mỗi người một con đường
riêng. Vẫn thấp thoáng trông thấy nhau. nhưng
không còn biết gì về nhau nữa. Vậy đêm nay bà ấn
định nói chuyện gì? Chả nhẽ gặp dấm dúi thế này chỉ
xới xảo những chuyện ngày xửa ngày xưa? Bà Son vẫn
úp mặt vào lòng bàn tay trên đầu gối. Đôi vai đã
bớt rung. Chỉ còn những tiếng xịt soạt khe khẽ. Ông
Phúc hỏi rụt rè:
- Bà còn định nói với tôi chuyện gì nữa?
Bà Son như sực tỉnh. Bà ngồi thẳng lên, lấy ống
tay lau mặt, nói rì rầm:
Thôi thì dù sao tôi phải lo cái phận tôi. Lo cho
mấy đứa con tôi. Thôi thì ông ghét tôi. Ông
khinh ông Hàm nhà tôi, nhưng ông hãy rộng lòng
với mấy đứa con tôi! Chúng nó chả làm gì nên tội.
Ông hãy bỏ qua cái vụ này, ông rút đơn kiện về!
Rồi tôi sẽ nói anh em họ Trịnh có lời xin ông. Thế
là ông được trả ơn cho cả một chi họ. Còn mẹ con
tôi đã được ông làm phúc.
Ông Phúc bỗng sững người ra giọng đã tỉnh khô:
- Ai nói với bà đi làm việc nay? Có phải tay Thủ
không?
Bà Son cuống quít lên. Bà quay sang hốt hoảng nắm
lấy tay ông Phúc đang chém chém vào không khí
như sợ ông chạy đi mất. Bà nói vội vã, môi run
bắn:
- Không! Không! Không ai xui tôi đâu. Đây là tự
tôi nghĩ ra. Các ông chỉ nghĩ đến kiện nhau, thì
tôi cũng phải nghĩ ra làm cái gì chứ! Ông hãy vì
tôi mà làm phúc làm đức. Cả đời tôi chỉ xin ông
một lần này!
Vừa nói Bà Son vừa nắm chặt tay ông Phúc. Bàn ta
bà lạnh giá, run lật bật. Đang sắp nổi cáu, ông
Phúc bỗng chùng hẳn người xuống. Miệng ắng lại. Cơn
hoả vừa lốc lên, những lời cay nghiệt vừa định cất
lên bỗng khô cứng lại trong miệng. Toàn thân ông
như có một luồng điện chạy. Ông ngồi đơ ra. Rồi như
một bản năng, một tia lửa vẫn tờ mờ le lói tiềm ẩn
ở mãi nơi thầm sâu, giờ đang lần lần hồi nhiệt.
Ông quay sang se sẽ nắm lấy tay bà Son. Bàn tay
nhỏ nhắn, vẫn những ngón thon mềm đã một thời siết
chặt vào da thịt ông, nhưng tuột khỏi ông gần hết
cả cuộc đời rồi! Bà Son văn để yên tay mình trong
lòng bàn tay ông Phúc.
Cả hai cùng bàng hoàng nhìn thẳng vào mắt nhau,
đờ đẫn thẫn thờ! Ông Phúc hỏi lập bập:
- Thế ra bà cũng khổ à? Tôi lại nghĩ là bà sung
sướng lắm.
Bà Son nói lao hển như hụt hơi:
- Đâu phải có ăn có mặc là sướng. Có khi bữa rau
bữa cháo vẫn sướng, mà có cơm ăn ba bữa, có quần
chùng áo dài lại vẫn là khổ.
- Nhưng chả nhẽ bà lại không có quyền gì ở trong
gia đình? Nghe người ta nói bà muốn may sắm gì,
mua bán gì, từ bộ quần áo đến việc đi góp giỗ ở
bên ngoại cũng phải hỏi chồng?
Thế là ông Phúc đã khơi trúng vào chỗ dễ buồn tủi
nhất của lòng mình, bà Son khóc nức lên. Bà bíu
chặt vào cánh tay ông Phúc. Một trong những đòng
tác nhiệt thành của cô Son từ thời xa xưa chợt
thức dậy, sống dậy với cả hai người. Bà nói thổn
thức không cần phải giữ gìn nữa:
- Đấy, tôi sướng thế đấy! Sướng đến có tiền có gạo
trong tay là chi tiêu may sắm gì cũng phái ngửa
tay xin! Rõ thật cái thân tôi!...
Vừa nói, bà Son vừa xoắn vào cườm tay ông Phúc.
Chính lúc ấy, lúc hai người xoá đi những e dè
ngăn cách, đang bộc bạch những nỗi niềm không dễ
nói với ai, thì đánh rào một cái, như từ trên
trời rơi xuống, như từ dưới đất mọc lên; một bóng
người tối thẫm nhảy qua bụi cây từ phía sau lại,
gằn giọng trong cổ họng, sắc lạnh:
- Ngồi im! Động cựa tôi bắn!
Tiếp lên là ánh đèn pin sáng loè, hoa vào mặt
hai người rồi chiếu lom lom vào bàn tay bà Son
đang rụt vội khỏi cánh tay ông Phúc. Phó ban
công an Cao kéo chiếc mũ lơ-vit sụp xuống mặt cho
ra dáng thám tử, đứng sững sững trước mặt hai
người, súng ngắn đeo thây lây giữa bụng. Một bóng
người nữa từ bụi duối ngoài đường hấp tấp đi lại.
Bà Son kêu lên kinh hãi khi nhận ra cái người đi
rình thứ hai là ai:
- Chú Thủ? Chú định làm cái thế này? Chính chú
bảo tôi!...
- Bá im ngay! - ông em chồng vội cắt ngang lời bà
Son, nói lấp ngay đi:
- Bá có thể về được! Rồi anh em tôi sẽ nói chuyện
với bá? Đồng chí Cao làm nhiệm vụ đi! Bà Son vùng
đứng dậy, vừa chạy tong tả, vừa oà khóc.
- Bây giờ chúng tôi đề nghị ông làm biên bản! -
Cao tắt đèn, nhưng vẫn nhìn lầm lầm vào ông Phúc,
nói gằn từng tiếng.
- Biên bản thế nào?
Ông Phúc hỏi nhỏ ngơ ngác, rõ ràng là giọng của
người đang chịu nhún. Nhưng Cao đã như muốn nổi
xung. Anh vô bồm bộp vào bao súng: nói như đọc
lệnh:
- Còn biên bản gì nữa! Biên bản của hành động vụng
trộm bất chính! Đêm hôm khuya khoắt dắt nhau vào
bờ bụi để ôm ấp than thở, vậy là cái gì? Hay ông
đang thảo luận về việc xin tách khỏi hợp tác xã
lớn đấy?
Ông Phúc đứng bật dậy, củng đã muốn xô xát lắm
lắm.
- Chính các anh bày ra cái trò đốn mạt này! Các
anh bảo bà ấy đến gặp tôi để xin tha tội.
Cao đã nổi cáu, tiếng đã như muốn gầm lên:
- Đứng im! ông có hành động chống đối tôi nổ
súng.
Thủ tiến lên một bướcn giọng dẽ dàng, cái dẽ dàng
của một con mèo vờn chuột, của người đã nắm chắc
phần thắng, nên không có việc gì phải ồn ĩ:
- Cao thôi, không cân to tiếng. Bây giờ ta bàn
việc người lớn với nhau.
Thủ quay sang ông Phúc dù đêm nhạt nhoạ dưới ánh
sao mờ nhạt, nhưng vẫn thấy rõ bốn mắt gườm gườm
nhìn như xỉa vào nhau. Thủ hạ giọng đến ngọt ngào:
- Bây giờ thế này ông Phúc ạ. ta lấy tinh thần là
người làng người xóm, lấy tinh thần đảng viên để
nói chuyện với nhau! Gia đình chúng tôi muốn yên
chuyện mà ông cũng vậy. Chứ bây giờ làm ầm ĩ cho
cả làng biết rằng ông với bà Son dắt nhau ra đồng
giữa đêm khuya thì còn ra thể thống gì! Lại giữa
lúc ông Hàm đang như thế! Người ta sẽ nghĩ ông đã
lợi dụng! Rồi về mặt tồ chức, chi bộ có để ông yên
không? Ông xấu mặt đã đành, mà bên gia đình
chúng tôi cũng không thơm tho gì! Vậy thì ta cần
bàn kín với nhau, không để hở cho ai biết, cả ông
Hàm chúng tôi cũng sẽ không nói. Chúng tôi chỉ
yêu cầu ông rút ngay đơn kiện về. Chính trên
huyện đang mong như thế. Các đồng chí đó không
muốn có rắc rối. Khi ông đi rút đơn, tôi sẽ nói
với mọi người là hai gia đình đã tự giải quyết được
với nhau. Cụ thể là nói với ông đã lấy tinh thần
cán bộ Đảng viên ra thoả thuận,lới nhau, vì nghĩa
lớn đã bỏ qua những việc vụn vặt. Như thế ông chỉ
được tiếng tốt chứ không mất mát gì. Ông đồng ý
chứ?
Ông Phúc nói với giọng của người đã bị mắc câu:
- Sao anh không nói thẳng với tôi như vậy? Việc
gì phải bày ra cái trò nhí nhố này?
Thủ hình như khẽ cười. Người ta bảo Thủ có tiếng
cười rít gớm, cái cười của mật ngọt chết ruồi!
- Thôi không nên để ý những chuyện vặt? Ta thống
nhất với nhau như thế. Nhưng làm gì cũng phải cho
đàng hoàng, cho nên vẫn phải có một cái giấy cho
có đầu có đuôi. Ông yên trí, xong xuôi mọi việc,
tôi sẽ xé tờ biên bản này trước mặt ông. Cao viết
đi!
- Giấy gì? Biên bản gì? - ông Phúc hỏi giật
giọng.
Thủ vẫn ngọt nhạt:
- Cũng vẫn chỉ là chuyện thủ tục bình thường thôi!
tôi đã hứa danh dự với ông là xong việc sẽ hủy
ngay.
Rồi như đã chuẩn bị đâu vào đấy, cao cởi dây súng
đưa cho Thủ, ngồi xuống bật đèn, rút quyển sổ
trong túi quần, bấm bút bi tanh tách, viết soạn
soạt rất nhanh. Thủ thắt dây súng vào ngang sườn
đứng lom lom như canh gác cả hai người.
- Xong rồi, tôi ghi thế này.
Cao ngẩng lên, dắt bút vào túi đọc:
Chúng tôi là Trịnh Bá Thủ, bí thư đảng uỷ và Trần
Cao, phó ban công an, trên đường đi làng nhiệm vụ
về lúc mười giờ đêm, đã bắt được ông Vũ Đình Phúc
và bà Ngô Thị Son đang làm những việc vụng trộm
bất chính ở bãi trồng bạch đàn cạnh cánh đồng Ma
Voi. Để giữ gìn trật tự an ninh và sự trong sáng
của xóm làng, chúng tôi không hô hoán làm to
chuyện, mà chỉ góp ý xây dựng và làng biên bản
này để có chứng cớ là chúng tôi không bịa chuyện.
Chúng tôi can đoan là nói đúng một trăm phần
trăm sự thật. Dưới đây là chữ ký của đương sự
Ông Phúc chồm lên:
- Không đúng? Xuyên tạc! Vu cáo? Vụng trộm bất
chính ở chỗ nào? Tôi không ký liếc gì cả.
Vừa nói ông Phúc vừa vùng vằng định bỏ đi, thì Thủ
đã buông lời sắc lạnh:
- Ông không thể đi được! Nếu ông bỏ chạy, bắt buộc
tôi phải nổ súng! Làng xóm sẽ ầm ĩ lên. Còn bà
Son thì ông nên biết, lúc này tôi bảo gì bà ấy
phải nghe! Khai thế chứ khai nữa cũng được. Vậy là
chúng tôi những ba người, ông chỉ có một không, ai
thắng ai? Nhưng tôi không vu vạ đâu. Cao xoá mấy
chữ vụng trộm bất chính đi. Vậy là được chứ?
- Phải yêu cầu ghi rõ là chính bà ấy đi tìm gặp
tôi để yêu cầu tôi rút đơn kiện.
Ông Phúc đáp xẵng, nhưng Thủ vẫn nhẹ nhàng. Con
mèo đã nắm chắc phân thắng, cần gì phải múa vuốt
với chuột!
- Ông có thể ghi thêm tất cả những điều ấy, vì
chúng tôi có biết bà Son nói những gì với ông
đâu! Ông cứ viết thêm tất cả ở phía dưới, rồi ký
tên. Cao đã bấm đèn và đưa sổ, đưa bút cho ông
Phúc. Và ông Phúc đã gù gù cái lưng, cố giữ cho
khỏi run tay, viết thêm nửa trang giấy trong
quyển sổ Mậtcủa Cao, rồi ký tên.
Bút sa gà chết! Con chim đã lao vào bẫy! Con cá
đã chui vào lờ! Thủ cầm quyển sổ, bấm đèn nhìn
lướt qua những dòng ngều ngào và chữ ký run run
của ông Phúc, hài lòng nhét vào túi. Đoạn Thủ
quay sang ông Phúc nói với giọng gần như thân
tình:
- Ông Phúc ạ, hai giờ chiều mai tôi chờ ông ở uỷ
ban xã. Tôi sẽ nói với cả Đảng uỷ và uỷ ban là tôi
với ông đã giải quyết mọi chuyện với nhau ở phạm
vi gia đình, đã vì tình nghĩa làng xóm mà xoá
hết những hiềm khích cá nhân. Vậy là tôi đã làm
đẹp cho ông! Ông nhớ nhé! Dứt lời. Thủ tắt đèn
quay gót đi ngay, bóng tối trùm lấy người anh!
Có tiếng cú rúc phía đồi ông Bụt. Mấy hôm nay bà
Cả Ngật cứ hấp háy cặp mắt lông quặm mà thì thầm
là tối tối đại bàng bay về đậu đen trên cây si cụt
ở đồi ông Bụt, tiếng quạt cánh của các ngài cứ vù
vù như tiếng quạt hòm! Rồi đom đóm lập loè như sao
sa, rồi cú rúc quanh cây si ấy, nhiều điềm lạ lắm!
Chưa ăn thua! Nào đã thấm tháp gì! Những điều lạ
ấy còn khướt mới sánh được với điều lạ vào chiều
ngày hôm sau ở ủy ban xã! Lạ mà lại nhìn thấy nhỡn
tiền, lạ mà thật như đếm mới càng lạ!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười ba - VN thu quan
Vố này thì không phải chỉ riêng làng Giếng Chùa mà cả xóm Mới, xóm Trại, tính sơ sơ hơn hai ngàn hộ hơn sáu ngàn khẩu cứ chăm chăm xem cánh nhà Vũ Đình sẽ hạ bệ cánh nhà Trịnh Bá thế nào. Tông tộc của Đại - Sang - Phúc - Quý Lộc - Tài sẽ dồn đẩy tông tộc của Hoành - Hàm - Long - Thủ - Ngọc - Báu vào ngõ cụt ra sao thì bỗng chách một cái, tất cả kinh ngạc đến ngã bổ chửng!
Theo lệ thường, hai giờ chiều, văn phòng Đảng ủy và ủy ban - gồm hai gian nhà ở liền nhau, mới lác đác có người đến. Nhưng hôm nay mới hai giờ kém mười lăm, Thủ đã có mặt. Quần màu be, áo cộc tay màu nước biển, tóc chải ngôi, mặt mũi điềm tĩnh. Người ngoài nhin không biết anh vui hay buồn. Thủ dựng xe rồi đứng trên hiên gọi to:
- Bác Vòi đâu? Lên mở cửa nhá
Bõ Vòi đang dội nước tắm uôm uôm, tưởng có khách trên huyện, trên tỉnh về thay xống áo tập tễnh đi lên. Đến khi chỉ thấy một mình Thủ, lão ngạc nhiên. Vừa mở khóa, bõ Vòi vừa thầm hỏi:Quái, sao hôm nay anh cu này lại có vẻ hách thế nhỉ? Giở chứng chắc! Người ta đang đồn là sắp mất chân bí thư đến nơi, chẳng nhẽ khôn róc như anh ta lại không biết?
- Bác để nhà cửa bẩn quá đấy - Thủ vào nhà nhìn quanh, nói nhẹ nhàng nhưng lạnh lùng.
Bõ Vòi vừa đi tìm chổi, vừa nói lầm bầm, trong lòng càng thấy lạ:
- Chiều hôm qua các ống ấy họp về muộn, tôi chưa kịp dọn. Hôm nay có khách ở trên về hả anh?
- Không có trên nào cả, nhưng vẫn phải phải sạch sẽ, có nước có chè.
Nói rồi Thủ bước ra ngoài, đi loanh quanh nhìn ngắm mấy khóm hoa, khóm táo, rồi thủng thẳng sang khu trường học, điệu bộ thật thong dong nhàn tản. Bõ Vòi nhìn theo không còn hiểu ra làm sao. Cứ tưởng ông bí thư đang bí rì rì, cuống cà kiêng lên mới phải, chứ còn lòng dạ nào mà ngắm hoa thưởng nguyệt. Chính Bõ Vòi đã bảo mỗi khi Thủ sang khu trường học để thăm mấy cô giáo viên là anh đi thưởng nguyệt đấy! Những lúc ấy lòng dạ phải phơi phới lắm. Vậy hôm nay trúng quả gì mà anh ta lại túng tắng thế nhỉ?
Vừa thấy chủ tịch Sửu đến, bõ Vòi đã từ dưới bếp chấm phẩy chạy lên, ghé sát vào tai Sửu thì thầm, cặp mắt vần vú những tia đỏ vì ngấm nhiều rượu cứ đảo lên. Nghe xong Sửu chỉ cười khủng khỉnh, rồi xách cặp bước lên nhà với cái dáng của ông chủ số một ở đây: Sửu được biết trên huyện đang rất buồn bực về Thủ. Hôm qua lên trên ấy có việc, cả chủ tịch và trưởng ban kiêm tra cứ hỏi liệu trong vụ đào bới này có vai trò của Thủ không? Sửu đáp lập lờ: Không biết thế nào mà lường! Vì bí thư của chúng tôi có phải là người ruột để ngoài da đâu! Về xã Sửu khuyến khích những người xưa nay vẫn muốn chống Thủ nhưng chưa có dịp, thì bây giờ đã có cớ đẩy Thủ vào thế cô lập rồi. Lâu nay Sửu vẫn phải đưa vào Thủ để củng cố vị trí của mình, nhưng Sửu văn âm thầm ấm ức khi biết mọi người vẫn nhún mình là cái bóng của Thủ, vẫn coi mình là anh ngụ cư phải sống tựa vào Thủ, nên nhìn việc Thủ bao sân sang công việc chính quyền, có những quyết định độc đoán, Sửu vẫn phải vui vẻ, phải lặng thinh. Như hồi trong năm mới đây, xã quyết định mở chợ ở đầu cầu treo bắc qua sông Công phía cuối xã kia. Hôm bàn cụ thể về việc thu thuế cầu, thuế hàng Thủ lại vắng mặt. Hôm sau Sửu nói lại. Thủ bỗng gắt ầm lên và chỉ ra những chỗ hớ đến ngờ nghệch trong những quy định của bọn Sửu.
Lần sau cái gì không biết nhớ hỏi tôi đã, chớ vội vàng như vậy thì đến mấy con mẹ buôn vặt nó cũng vừa dược ăn, vừa được cười cho! Thủ xẵng giọng nói, còn Sửu thì cứ phải ngồi ngay tán tàn. Vì cái thế của Thủ đang mạnh. ở trên huyện Thủ quen thân hơn Sửu nhiều, còn dưới này thì vây cánh đông lắm Sửu cứ phải làm thinh chịu lép. Nhưng bây giờ thì khác rồi! Gió chuyển rồi! Mấy hôm nay đã có người nói vui: Bác Sửu chuẩn bị kiêm luôn chân bí thư đi là vừa! Thì quyền bí thư cũng được. Sang năm đại hội, cờ sẽ vào tay bác chứ ai! ở đâu không biết chứ ở đây bí thư vẫn quan trọng hơn chủ tịch nhiều. Bởi thế nghe câu nịnh mình dù quá sớm, nhưng Sửu cũng thấy sướng tai!
Sửu vừa bày số sách ra bàn thì Thủ về.
Anh đấy à? - Sửu quay ra vồn vã như thường ngày, rồi đứng dậy tráng ấm pha trà.
Thủ ngồi xuống ghế cũng hỏi với giọng bình thường như mọi khi:
- Mấy hôm nay có gì không?
- Không anh ạ! - Sửu rót nước ra chén, mùi chè ướp hoa sói toả thơm ngát- Tối qua bên anh họp chi bộ à? - Thủ nhìn vào mặt Sửu, nói thăm dò
- Họp để triển khai nội dung mấy hôm trước thường vụ ta đã bàn.
Rồi không thấy Sửu nói gì, thế có nghĩa là Sửu chưa biết những chuyện diễn biến sau đó. Tốt lắm. Thủ hỏi sang điều mà anh mới nghe được:
- Nghe nói anh đã quyết định bỏ tổ truyền thanh?
Sửu vẫn chép chép từng nhụm nước nhỏ qua kẽ răng, và mặc dù giọng vẫn ngọt ngào nhưng rõ ràng đây là lần đầu tiên Sửu vẫn dám tự ý quyết định một công việc, và cũng lần đầu tiên Sửu nói với Thủ bằng gịong của người ngang hàng, cũng là một cách thăm dò sự phản ứng của Thủ ra sao!
- Thì việc này tôi đã nói mấy lần trước trong các cuộc họp là bây giờ lấy thóc đâu chi cho tổ truyền thanh? Xà xẻo như trước là gay rồi! Tổ những ba người, bây giờ cũng ít việc, mà lại ăn thóc bằng người làm việc cả ngày là không hợp lý. Thêm nữa, dạo này lại nghe người ta xì xào là cậu Hiên với cô Gấm cùng trong tổ truyền thanh nhiều chuyện léng phéng lắm. Vậy thì tốt nhất là giao quách máy cho trưởng ban văn hóa bắt anh cu Đích phải học thêm cách điều khiển máy. Truyền thanh với cờ đèn kèn trống về một mối là gọn.
Thủ cũng vừa nhấp nước, vừa thủng thẳng hỏi lại:
- Nhưng lại có ý kiến cho rằng phải bỏ chính cái anh chàng Đích chúa tào lao chúa qua loa đại khái ấy thì sao? Rồi giao luôn những việc cờ đèn kèn trống cho tổ truyền thanh. Sang năm ta thành lập thư viện như kế hoạch đã bàn, thì tổ truyền thanh kiêm luôn cả thư viện, vì cô Gấm trước đây đã học trung cấp thư viện, do phân công đi xa, nên cô ấy bỏ, anh không biết sao?
Mới có thể mà xem chừng Sửu đã bị 1-0! Sửu đang lúng túng chưa biết tự biện hộ cho mình ra sao, thì bỗng có tiếng líp xe tanh tách ngoài sân: rồi phó ban công an Cao bó người trong bộ bò mốc loang lổ, hiện ra ở cửa, Hôm nay có vẻ trọng đại thế này, mà chiếc ba-bét của Cao lại hỏng.
- Báo bí thư và chú tịch, ông Phúc có việc muốn gặp đảng ủy và uỷ ban
Thấy Sửu sửng sốt, đến không biết làm gì, Thủ đứng dậy vồn vã:
- à mời đồng chí Phúc vào đây - Rồi quay sang Cao - Đồng chí sang gọi anh Bí, rồi cùng đến đây nghe luôn.
- Rõ! Cao đáp như một người lính, rồi quay gót.
Lương Văn Bí là phó bị thư thường trực. Vì là người trung dung tốt tính, nên mọi người vẫn gọi là Lưu Bị. Bí cùng ở trong thường vụ với Thủ và Sửu. Nhà Bí ở cạnh khu trường học. Lúc nãy Thủ sang đấy dặn Bí cứ ở nhà để tý nữa có cuộc hội ý thường vụ, chứ đâu phải Thủ đi tán gái như bõ Vòi vội nghĩ hấp hoảng.
Ông Phúc mặc bộ quần áo tàu tàu, bỏ chiếc mũ lá cọ ra, ngồi xuống ghế. Mặc dù miệng khẽ mĩm cười cho có vẻ tự nhiên. Nhưng ngay Sửu là người chưa biết tí gì về màn kịch này, cũng không thấy điệu bộ ông có cái gì gượng gạo. Cập mắt ông khô khô hình như thiếu ngủ. Thủ đứng dậy, tự đi xúc ấm pha trà mới. Sửu không biết làm gì, liền rót nước sôi tráng từng cái chén, bụng càng hồ nghi. Quái quỷ thật, hai ông này như Sơn Tinh - Thủy Tinh, sao bỗng dưng lại thân mật với nhau thế này? Mà sao lại cả thường vụ và công an ngồi nghe cái gì nhỉ? Hòa hay chiến đây? Tay Thủ không nói gì, nên Sửu cũng lặng thinh. Thành ra cả bí thư và cả chủ tịch cùng làm ra vẻ chăm chú vào việc pha trà để phục vụ một đảng viên thường! Và ông Phúc cũng như đang dằng co điều gì trong lòng nên im ốt. Không ai dám nhìn vào mặt ai. May quá Lương Văn Bí và Cao đã tới. Thủ nlồi xuống ghế ở chính giữa: đúng vị trí của người chủ trì. Anh đã quên khuấy ấm nước vừa pha. Giọng mềm mỏng, cân nhắc.
- Đây không phải là họp thường vụ, mà tôi chỉ muốn sự có mặt của thường vụ và công an để chứng kiến sự hòa giải giữa hai gia đình và họ hàng chúng tôi với gia đình và họ hàng đồng chí Phúc. Cũng xin thông báo với thường vụ biết, có cuộc hòa giải này là do tôi đã chủ động gặp đồng chí Phúc tối hôm qua, và chúng tôi đã nhất trí việc làm sai của ông Hàm để hai gia đình chúng tôi tự giải quyết với nhau. Thôi thì chín bỏ làm mười, chứ nhờ đến pháp luật can thiệp thì nó sứt mẻ đến cái tình làng xóm láng giềng! Để cho đàng hoàng ba mặt một lời nên tôi có mời đồng chí Phúc tới đây, coi như chúng tôi thông báo cho cả thường vụ được biết. Về phần tôi, tôi rất cám ơn đồng chí Phúc đã giữ đúng lời hứa. Bây giờ xin nhường lời cho đồng chí Phúc!
Cả Sửu và Bí cứ trố mặt ra hết nhìn Thủ lại nhìn ông Phúc, cứ như mình đang bị cặp đối thủ này cuốn vào một trò chơi ú tim. Ông Phúc vẫn hơi mỉm cười gượnh gạo. Ông hắng giọng, rồi cũng nói như lời gần như Thủ. Cả hai người đại diện cho hai dòng họ ghê gớm, chưa chịu nhường nhau đến một sợi tóc, bây giờ đúng thời điểm tốt nhất để sát phạt, có dịp dồn nhau vào tận chân tường, thì bỗng cả hai bên cùng đề cao chuyện nhân nghĩa! Cũng vì tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, xí xóa hết mọi hiềm khích nhỏ nhen. Đến nước này thì ếch trong mả, cua trong lỗ cũng phải bò ra mà chúc mừng hoà bình vạn tuế!
Ông Phúc nói xong tất cả cùng ngồi lặng phắc, đến nỗi Thủ phải nhắc khéo Anh Sửu anh Bí có ý kiến gì không?.Lúc ấy Sửu mới sực tỉnh và anh lập bập nói: Xin thay mặt chính quyền xã rất hoan nghênh thiện chí của cả đôi bên. Sự kiện này sẽ là tấm gương đáng cho tình đoàn kết không chỉ ở Giếng Chùa mà là tấm gương cho cả xã!
Thủ lại tiếp lời:
- Theo kế hoạch giữa tôi và đồng chí Phúc đã thỏa thuận, ngay sau dây đồng chí Phúc và đồng chí Cao thay mặt trưởng công an sẽ lên huyện làm việc với các cơ quan chức năng nội dung vừa rồi. Theo tôi để cho đàng hoàng, để cho các anh trên huyện thấy đây là sự tự nguyện chứ không phải ai ép buộc ai, ta nên có biên bản về cuộc gặp gỡ này
Cao ngồi một mình giáp phía tường, liền nhau nhảu đứng lên:
- Tôi ngồi đây nghe đôi bên trình bày đã thảo luôn biên bản rồi.Giờ đây các đồng chí xem, rồi hai đương sự ký trước, dưới là chứng thực của chính quyền địa phương.
Lần này thì không những Sửu Bí mà ông Phúc là người bất ngờ nhất, bị động nhất. Chỉ có Thủ là không một chút ngạc nhiên, vì tất cả đã diễn ra đúng như ý định của anh. Rất đẹp! Thủ xem trước ra vẻ chăm chú rồi ký rất đậm phía dưới. Mấy người tiếp theo cứ như bị thôi miên, cùng ký soạn soạt trên mặt giấy. Thủ tự tay gấp tờ biên bản đưa cho Cao rồi đứng lên như là tuyên bố kết thúc cuộc gặp gỡ. Anh giục Cao và ông Phúc lên huyện ngay kẻo hết giờ làm việc.
- Tôi tưởng chỉ một mình chú Cao lên huyện là đủ - Lương Văn Bí hỏi khẽ Thủ.
Thủ liếc nhanh ông Phúc, giọng đến là thân tình:
- Có mặt bác Phúc càng đẹp! Vì bác là bên nguyên chủ động rút đơn. các anh trên ấy cần hỏi gì càng tiện.
Nhìn hai người dắt xe ra khuất bụi tre. Thủ mới quay lại Sửu giọng vẫn ngọt như không:
- Mấy việc anh quyết định vừa rồi, hôm nào họp thường vụ ta bàn lại. Nếu thấy cần thì anh cứ giải thích với mọi người là những công bố hôm trước mới là dự kiến. Bây giờ tôi phải về có chút việc gia đình.
Dứt lời, Thủ bước xuống sân dắt xe đi ngay. Nhiều bóng người lố nhố trong nhà bõ Vòi đồ ra, mon men đi lên. Đây là những người đi xin dấu xin giấy và cả những người tò mò đi săn tin về cuộc họp với những thành phần rất lạ mắt này. Bí nhìn theo bóng áo màu ghi rất nhã của Thủ đang mờ dần trong năng quái, rồi quay sang lắc đầu với Sửu:
- Tài thật! Xoay chuyển được đến thế thì tài thật! Đối thủ này cao cường lắm, ông chưa lay được đâu ông Sửu ạ!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười bốn - VN thu quan
Chỉ đến chiều tối là cái tin đích thân ông Phúc cùng với phó ban công an Cao đã lên tận huyện để xin cho bác cháu ông Hàm được về, bác cháu ông Hàm trắng án, đã lan truyền khắp mấy làng, từ Giếng Chùa bắt sang xóm Trại, lây lan sang xóm Mới, nhanh như lửa cháy, gây sự sửng sốt y như năm ngoái thằng cu Biếu con ông phó Biếng hoạn lợn, đi lên tỉnh xem đá bóng, mua chơi cái vé xổ số năm hào, đã trúng thưởng năm triệu! Hôm ấy vợ chồng phó Biếng suýt chết ngất vì sướng! Lần này không ai phải suýt chết, nhưng rõ là mọi người kinh ngạc đến mức cứ há mồm ra mãi lúc sau mới hỏi được: Thế là thế nào? Thì còn ai biết thế nào! Chịu! Chỉ còn bí thư chi bộ Xuân Tươi, ông thần lạc quan, là lớn tiếng khái quát ngay rằng như vậy mới đúng xu thế thời đại đối đầu chuyển sang đối thoại! Rằng lịch sử đã sang trang, vậy chả nhe một phân tử nhỏ là làng Giếng Chùa lại dậm chân tại chỗ!
- Đối đầu mới chả đối đuôi! Nói tù mù như bác rõ chán mớ đời! - Mấy bà thợ gặt nghe Xuân Tươi hùng hồn, chỉ nhe răng hạt na gỉơ đen giở nâu ra cười.
Giữa lúc ấy Thủ đã tắm táp xong. Anh mặc bộ pi-gia-ma màu sáng, ngồi ngả trên ghế sa-lông, lim dim nhả khói thuốc. Anh đang tận hưởng chiến tích của một trận thắng lớn giữa lúc anh đã mười mươi chiến bại. Chuyển bại thành thắng. Anh đã bắt được đối thủ đang ở thế thắng phải hạ vũ khí và tự nguyện làm tù binh? Lúc ra khỏi văn phòng ủy ban, Thủ về thẳng nhà, cũng không cần báo cho mẹ con bà Son biết vội. Từ hôm qua tới giờ anh chưa gặp bà Son. Hãy cứ để cho những âu lo buồn tủi thấm đậm vào người bà ấy! Chiều nay Thủ không muốn tiếp ai, không muốn gặp ai. Sự thỏa mãn làm Thủ đến lặng cả người! Anh cứ ngồi như thế cho đến lúc nghe Luyến nói láo pháo ngoài ngõ, rồi tiếng xe cải tiến chở lúa cót két ngoài sân.
Thày em về rồi đấy à? - Luyến hỏi vọng vào, rõ là tiếng hỏi của người đang sung sướng.
Thủ vừa ngồi thẳng dậy, chưa kịp trả lli, thì Đào với hai tay áo sắn cao tóc búi cao mặt đỏ ửng như cô vừa ngừng tay tuốt lúa, huyện vừa từ trong bếp chui ra, bẽn lẽn đi vào rồi dừng lại trước cửa nói rụt rè lễ phép:
- Thày cháu vừa về mời chú sang chơi.
Thủ đứng đậy nhin cô cháu gái xinh đẹp và bướng bỉnh, mấy hôm nay có lúc đã dám nói hỗn; ánh mắt của Thủ như muốn nói : mày chỉ là con nhãi nông nổi!. Thủ khẽ ờ mà không cần hỏi thêm một câu. Đào quay ra bảo Luyến: Thím đừng nấu cơm chú đấy nhé, lên cháu đã sắp rồi, có cả anh Cao ở chơi. Rồi cô tong tả đi ngay. Những bước chân cứ như múa.
Lát sau trời tối hắn, Thủ mới thong thả đi tắt qua những bãi chè sang nhà ông Hàm. Từ xa đã thấy nhà ông trưởng họ sáng choang nhờ cây đèn lớn treo ngoài hiên, dấu hiệu lồ lộ là nhà cửa đang vui, đang trà dư tửu hậu.
Một đống lúa xếp cao ngất giữa son. Chiếc máy tuốt đứng cạnh, nhưng không ai làm. Mẹ con bà Son đang tíu tít dưới bếp. Cả người đàn bà làm thuê hôm nay cũng phụ bếp. Thóc lúa hãy bỏ cả đấy đã. Mùi xào nấu từ bếp bay ra ngào ngạt. Thủ quở con khoang, rồi đi thẳng vào nhà trên. Bộ pi-gia-ma màu sáng bắt ánh đèn trông càng nhã, lại thêm những bước đi khoan thai đường bệ. Bởi chính anh là tác giả cửa chiến thắng này, của cuộc vui này. Vậy thì anh cũng phải được tự ngắm vuốt mình một chút, được kiêu kỳ một chút chứ!.
- Chú đấy à? - ông Hàm đang tìm đồ thay trên cái chạc móc áo dựng ở góc nhà, quay lại hỏi Thủ. Rõ ông trưởng họ lại cháu chào trước những người dưới quyền mình. Chắc ông vừa tắm xong, đang tìm bộ tươm tất để tẩy hết cái lốt thằng tù trên người! Cao đang giở nằm giở ngồi trên đi-văng liền vực dậy, nói nhỏ với Thủ:
- Cháu chưa nói gì với bác Hàm đâu. Trên đường về cậu ưởng với cậu Ngạc cứ hỏi, cháu chỉ nói xoay chuyển được thế này là tất cả do chú, cháu không biết tý gì.
Thủ khẽ gật đầu, hỏi ngay cái điều anh đang quan tâm:
- Bí thư và chủ tịch đã biết chưa?
- Cả hai cụ đang ở dưới Phú Ngọc dự triền khai nghị quyết 04. Nhưng cháu đã gặp chánh văn phòng bạn chú, ông ấy mừng lắm và phục lắm, hứa là hai cụ về sẽ báo cáo ngay. Mà có khi tin đã bay xuống Phú Ngọc rồi! Các cơ quan huyện bàn tán ầm lên rồi còn gì! Buồn cười, lúc làm các thủ tục xong, cháu quay lại đã không thấy ông Phúc đâu nữa. Chuồn nhanh thế! Hẳn là ông ấy cú lắm! Nhưng như thế cũng là được, đôi bên cũng có lợi, coi như không có chuyện gì đã xảy ra.
Thủ cười nhạt, hỏi nhỏ:
- Thế anh tưởng sự việc dừng lại ở đấy à?
Thấy Cao ngơ ngác một cách thành thực, Thủ càng hạ giọng, nhưng tiếng nào rõ tiếng ấy:
- Tuần sau ta triển khai nghị quyết 04, đấy là thời cơ để ta dứt diềm trường hợp Vũ Đình Phúc! Chứ làm nửa vời rồi có lúc chết! Nhưng làm thế nào thì phải tính kỹ đã!
Ông Hàm đi ra trong bộ quần áo màu gụ, vải mỏng, may rộng cho mát. Thủ quay lại hỏi:
- Thằng ưởng với thằng Ngạc về nhà luôn à?
Ông Hàm cầm thiếc lông gà thông điếu bát mặt ông gầy hẳn đi, nhưng đôi mắt cá rói cứ chơm chớp, biết là ông chưa hết xúc động:
- Thì để nó về cho các bá ấy mừng.
Con khoang bỗng sủa hộc lên. Bà Son từ nhà bếp chạy ra. Một giọng khề khà từ ngoài sân:
- Dì đấy hả? Nghe nói dượng về, tôi sang mừng đây.
Thì ra là ông Khừu anh rể bà Son, một đệ tử của thần ma men. Mới ngoài sáu mươi, nhưng ông đã kheo như cổ xưa như người sống hàng thế kỷ. Cao chạy ra dìu người đàn ông lọng khọng trông như được cấu tạo bằng toàn những gióng những đốt! Ông Khừu thập thỏm bước lên thềm, hấp háy cặp mắt nhìn nào giọng vẫn ề à:
- Chú cứ mặc tôi, trông thế chứ tôi còn trường sức chán! Tôi đã nhẩm tính có dễ đến hơn ba tấn rượu đã đi qua người tôi chứ ít ỏi gì! Lộc trời đấy chú ạ! Không phí đâu! A ông Thủ đây rồi, hay quá! Từ tối đến giờ tôi nghe làng bàn tán là ông đã xoay xoả dẹp yên được cái vụ này thật là giỏi. Tôi phục quá. Ông đúng là người tề gia trị quốc tài nhất cái xã này!
Thủ khẽ cau mà nhưng miệng vẫn cười hỏi ông thần rượu những câu tầm phào cho vui. Vừa lúc Đào lễ mễ bưng chiếc mâm đông lên đặt vào chiếc giường chân quỳ. Thịt gà luộc chặt to, cá trắm cỏ rán vàng, nem cuốn, dứa xào lòng gà, đĩa nào cũng to xếp có ngọn. Ông Hàm bê cả cái hũ da lươn đặt lên giường. Thủ quay ra gọi to:
- Bá lên trên này.
Bà Son mặc chiếc áo trắng cộc tay thấm đẫm mồ hôi, tất tả chạy lên, vồn vã:
- Thôi tôi ngồi dưới này, đâu cũng thế. Mời bác, chú với anh Cao xơi rượu với bố cháu. Vừa nói, bà Son vừa km đáo nhìn Thủ để đo chừng thái độ của ông em chồng thế nào. Nhưng bà chỉ đọc được sự tảng lờ trên gương mặt trái xoan rất thanh, rất nhẹ, vậy mà từ đêm qua đến giờ bà luôn nơm nớp lo sợ gương mặt ấy.
Giữa lúc ở đầy mọi người đang nâng chén vại rượu tăm đục lờ đờ gắp vào bát cho nhau những miếng thịt gà vàng ênh, trong nhà ngoài sân đèn sáng rời rợi. Cả đến con khoang hôm nay cũng đi với chú mèo mướp tham lam đang ngàu ngàu trong xó nhà. Đúng là khi chủ nhân vững thế thì cái khí cái thân từ con vật nuôi trong nhà cho lới đầu hè xó bếp cũng có sắc diện, mất tiêu sự lạnh lẽo, yếm thế.
Sự lạnh lẽo hôm nay đã sà đôi cánh xuống nhà ông Phúc. Ông vừa về, đi lặng lẽ lúi súi như bộ dạng một anh mất của. Cả nhà chờ mãi, vừa ăn cơm xong. Hỏi, ông đáp nhát gừng ăn rồi. Rồi đi rửa chân, lên giường nằm ngay. Bà Dần vợ ông định nói là lúc chập tối chú Tính, chú Hảo tức là hai ông em rể chồng bà Lộc bà Tài sồn sồn đến tìm ông. Nhưng thấy ông củ rủ quá, nên bà thôi. Bà Dần sực nhớ là ngay từ đêm qua, lúc ông đi họp về đã có cái gì bồn chồn lắm, cứ lục sục hết nằm lại dậy uống nước, hút thuốc như người có bệnh mất ngủ rồi sáng hôm nay ở nhà tuốt lúc ống ấy cũng bần thần thế nào ấy. Cho đến chiều tối nay người ta bàn ầm lên là ông Phúc bị hớ rồi! Bị mắc quả lừa rồi! Bà túm lấy hỏi, thì người ta trợn mặt lên : Bà về mà khảo ông ấy! Đúng là người ta có lý, là chủ nhaan bắt được trộm giờ bỗng dưng lại đi xin tha cho thằng kẻ trộm. Thế có phái là người dở hơi không? Có phải bị ăn quả đắng không? Hay ông ấy đã nhận cây nhận chỉ của nhà ông Hàm nên mới giải hòa thế. Bà Dân đang muốn hỏi ông cho rõ ngọn ngành đây. Trông thất thần thế kia thì làm gì có cây với chỉ. Có mà chỉ rối! Bà Dân giục thằng Cân đi học bài, rồi bà đổ gạo vào cối giã. Mấy hôm nay cái máy xát nhà ông Quản Ngư bị hỏng, nên cả làng lại phải xay tay, giã chân như thời xửa xưa. Bà Dân nhún từng nhịp cối, óc cũng như để đâu đâu. Cái chầy cứ nhẩn nha nện từng nhát thịch... thịch... nghe buồn rã rời như là cái cối cũng đang ngủ gà ngủ gật!
iReader
Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười lăm - VN thu quan
Khi khi bà Son đã làm xong hết mọi việc trong ngày từ dọn dẹp ngoài sân, cất con dao cái thớt: rồi soi đèn nhìn lại cửa chuồng gà xem chị em Đào đã đóng chưa. Lúc ấy trên nhà, anh em bác cháu Ông Hàm mới bắt đầu pha tuần trà thứ nhất. Sau cùng, bà Son xách siêu nước lên đổ thêm vào phích, rồi vẫn lặng lẽ bà câm chiếc đền con đi vào buồng.
Cái Hoa chưa kịp dắt màn, đã nằm dang cả hai tay ra ngủ thiêm thiếp. Thật tội con bé mấy hôm nay nó cũng ăn ngủ thất thường, mặt mũi cứ thờ thẫn như người thiếu hồn thiếu vía. Chỉ từ tối đến giờ nghĩa là từ lúc ông Hàm về, nó mới bừng sắc lên. Bây giờ ngủ lăn như một sự đền bù. Bà Son buông màn, nhè nhẹ sửa hai tay con bé cho thẳng thớm, rồi bà nằm xuống bên cạnh, trút ra một hơi thở dài. Nhà năm gian, ngăn hai đầu hai uồng. Đây là nơi ngủ của bà với cái Hoa. Ba gian giữa là bộ mặt chính của gia chủ gồm có bàn thờ tủ buýp- phê, sa -lông và chiếc giường chân quỳ bóng sẫm toàn lát chun, đây là nơi nghỉ của ông Hàm- Gian buồng đầu bên kia đùng cất thóc lúa, dựng xe đạp và kê một chiếc giường nhỏ đấy là chỗ ngủ của Đào. Tối nay Đào sang ngủ với Minh tồ vì bố mẹ Minh về tận Chã ăn giỗ mai mới lên. Mọi hôm người đàn bà làm thuê cũng nghỉ trên này để mẹ con bà Son thêm bóng thêm vía. Từ lúc ông Hàm về, chiếc chõng tre đã được xuống nhà ngang để người khác hộ tịch ngủ dưới đó. Xem ra bà Son và cả cô chủ nhỏ sắc sảo là Đào đều hài lòng với người đàn bà vô gia cư này. Chị ta làm rất khỏe, ăn rất khỏe. Cơn gạo chiêm mà mỗi bữa cứ đánh bay sáu bát, nhưng được cái trả công thế nào cũng được. Nhà còn nhiều việc nên bà Son bảo chị cứ yên tâm ở đây. Bà Son tắt đèn, nằm lắng nghe chuyện của mấy người đàn ông ngoài nhà. Bình thường như mọi hôm, bà cũng ngồi uống nước góp chuyện phiếm, nhiều lúc còn nói át cả ông Hàm. Nhưng hôm nay thì bà không thể ngồi vào đấy được. Bốn người ngồi kia có đến hai đã rình nghe hết những chuyện đêm qua của bà. Bà đang như con cá bơi giữa một chùm lưỡi câu cứ dăng lơ lửng quanh mình. Bà về đi, rồi anh em tôi sẽ nói chuyện với bà Từ đêm qua đến giờ tiếng nói sắc lạnh ấy cứ luôn văng vẳng bên tai bà. Lúc đó bà đã chạy gần về nhà, vừa chạy vừa khóc với nỗi tủi hờn uất ức. Cả đêm cứ giở thức giở ngủ người người mệt như vắt sức đi. Sáng dậy bà vẫn đi làm như thường, trưa vẫn đi đưa cơm cho bác cháu ông ăn như thường, nhưng bụng thì thắc thỏm như có ai sắp túm lấy áo mình. Buổi chiều nghe người ta bàn tán về cuộc họp tay ba tay tư ở trên xã, bà đã bỏ dở buổi gặt về nhà bụng dạ bồn chồn ngong ngóng chờ. Đến khi trông thấy Cao đèo ông Hàm về, bà lao bổ ra, vừa cười vừa khóc:
- Kìa thày nó! Anh Cao đi giúp bá đấy ư? Hoa ơi, thày về!..
- Thôi mẹ nó im đi, tôi về đây rồi! - ông Hàm nhìn bà nói nói trầm trầm. Đó là câu nói yêu thương nhất đời của ông.
Đào cũng bỏ gặt về. Mấy mẹ con cứ quýnh lên. Nhưng tất cả đều ngai nói ngại cười. Lặng lẽ đi chuẩn bị bữa tối. Bà thở ra âm thâm. Thế là ông ấy đã về. Đã tai qua nạn khỏi. Liệu có chuyện gì nữa không? Người ta vẫn bảo Thủ là đa mưu lắm, làm cái gì là làm đế cùng, có thật không? Thì đã cầu được ước thấy rồi còn mưu với mẹo để làm gì nữa?
Bà Son lắng nghe. Ông anh rể có rượu vào đang nói ầm ầm. Nhưng bây giờ là rượu nói chứ không phải ông Khừu nói, mười câu chẳng được một tiếng cứ chuột đi như người rụt lưỡi. Bà Son mới một nhắm mắt, thấy như có một làn sương tê mê toả xuống người mình. Bà thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.
Lúc ấy bên ngoài đã tàn đến ấm trà thứ ba. Cao ngáp dài đứng lên. Ông Khừu củng đứng lên. Cao lại phải hộ tống ông tần ma men chân nam đá chân xiêu về nhà. Bây giờ chỉ còn hai anh em ông hàm cùng ngồi duỗi chân, tựa lưng vào thành giường. Vừa ngh Thủ kể sự tình - Thủ thấy cần phải cho ông Hàm biết, bởi còn nhiều việc phải làm tiếp nữa, chứ chưa dừng ở đây, nhưng ông Hàm đã hỏi với giọng hỏi lại:
- Thế chú và thằng Cao có theo sát ngay từ lúc nó gặp nhau không? Chắc chắn là chưa có chuyện gì không?
Thủ vẫn mềm mỏng, vai trò cố vấn, vai trò chỉ huy lúc này là anh chứ không phải là ông Hàm nữa :
- Bác cứ bình tĩnh không được sồn sồn lên. Nào đã có chuyện gì. Khi thấy bà ấy khóc lóc, vừa kể lể, mà lão ta vẫn trơ ra, chỉ lo lão nghe nghe hết chuyện mình rồi đánh bài chuồn thì thật sôi hỏng bỏng không, vì thế em với thằng cao mới nhảy ra. Phải lập được cái biên bản thì mới xoay được theo ý mình. Chứ bác tưởng xỏ mũi hắn dễ lắm đấy. Thế là đã xong bước một. Bây giờ phải tiếp tục tận dụng triệt để thế mạnh ta đang có. Cánh bên ấy thêm mấy đảng viên mới về, rồi ông Chỉnh, ông Kính cùng bộ đội dễ vào hùa với nhau nên họ đã mạnh rồi đấy. Chỉ đến khoá tới này anh chàng Tươi mất chức bí thư với họ. Thế thì ta phải nhằm ngay vào cái gốc chính mà nhổ! Không có anh đầu trò thì rồi sẽ lộn tùng phèo, mỗi người một phách.
Thủ vẫn đang say sưa với phương án phải bẻ gẫy cây cột cái nhưng ông Hàm đã như không nghe thấy gì hết. Máu ông đã nóng lên rồi! Ông cắt ngang lời Thủ, tròng mắt đã tối lại:
- Thế nhà tôi nó khóc lóc kể lể những gì? Nói xấu tôi những gì? Trong lúc cả làng đói vàng mắt, cháo không có mà húp, thì ở đây ăn vẫn ba bữa no lòi kèn ra, thế thì còn đòi gì nữa?.
Thủ nhìn bàn tay ông anh với những ngón to ngắn, đầu tù thô nháp cứ rung rung khi cầm chén nước. Thủ biết ông ấy đã nóng mắt lắm, nên anh càng dẽ dàng
- Bác cứ bình tĩnh, em kể cho bác biết là để phải cùng lo việc lớn trước đã, chứ việc nhà như cái trong nơm, làm gì phải vội!
Thủ chưa dứt lời. Ông Hàm đă đập tay xuống chiếu. Thoắt cái, ông lại ngồi vào đúng cái chiếu trưởng họ của mình:
- Chú không phải dạy khôn tôi! Đến lão Khừu say đái ra quần mà còn biết có yên gia mới bình được quốc, nữa là người khôn, người tỉnh! Những việc chú thấy cần làm thì cứ dấn lên, càng nhanh càng tốt! Còn việc trong nhà thi tôi phải lo!.
Hli anh em cùng lắng đi, không ai nói một câu. Lúc sau Thủ đứng đậy hạ giọng rất trầm. dặn dò ông Hàm:
- Bác đừng làm ầm lên hỏng việc, lúc này đang rất cần đến bác đấy!
Rồi Thủ ra về. Anh em nhà này vốn không quen chào mời đưa tiễn nhau. Ông Hàm cứ ngồi lầm rầm rên giường. Niềm vui được thoát nạn trong ông đã nhẹ vợi hẳn đi. Lúc chiều khi thằng ưởng, thằng Ngạc hỏi: Cao chỉ nói: Tất cả là nhờ chú Thủ. Ông Hàm đã tưởng vì quen thân bí thư và chủ tịch huyện, nên Thủ đã xin được, nào ngờ. Đành rằng lập được cái mẹo này cũng là đáo để, nhưng ông vẫn như bị mất một cái gì. Ông chợt nhớ hồi năm ngoái sang bên sông ăn cỗ, tình cờ ông đã gặp một anh biết xem tử vi cùng ngồi chung một chiếu rượu. Mặt mũi hắn còn non choẹt nhưng sau một lúc tính toán, hắn đã phán câu này nghe ghê cả người: Tuổi ngựa của bác là sáng trí lắm. Tuổi này thuộc cung ly, tính nóng, sách đã có câu cung ly chính hướng nam phương, ai mà cung ấy tính người nóng thay. Bác rất hoa tay. Thích tự làm lấy mọi việc bằng chính đôi tay của mình. Người cung này trông khô, nhưng lại đam mê. Có thể vứt bỏ tất cả vì tình! Thờ ơ với mọi lời khuyên can! Nhưng chính vì thế mà dễ bị lừa vì tình, vì mù quáng quá!.
Có phải ta đã mù thật? Đã bị lừa thêm một lần nữa thật? Ông Hàm nóng nảy thục chân xuống nền nhà, tập tễnh đi đến cửa buồng, kéo tấm màn gió, gọi trống không vào khoảng tối mông lung:
- Ngủ rồi à?.. Hả?
Bà Son cựa mình như là vừa thức vì tiếng gọi, nhưng tiếng bà trả lời lại rất tỉnh:
- Ông gọi gì?
- Ra đây đã!
Thế là đã đến lúc! Bà Son biết ông chồng đã gọi to như vậy tức không phải để làm cái việc ấy. Theo lệ ngầm giữa hai người từ rất lâu rồi, từ ngày con cái đã khôn lớn, vợ chồng bà không ngủ chung giường. Nhưng hễ đang ngủ, bà Son bỗng thấy có bàn tay rờ rờ lần tìm, rồi hai đầu ngón tay thô tháp bấu vào cổ chân mình, lay lay, thế là bà biết cái bóng người lờ mờ đang lẹt sét đi ra giường ngoài kia là ai, và đang cần gì ở bà. Bà se sẽ ngồi dậy, cố không để cái Hoa thức giấc. Bà rút chiếc khăn tắm, và trên người chỉ mặc phong phanh, hai chân bước thật nhẹ đi ra. Rồi khi bà vừa ngả người xuống chiếc giường chân quỳ thoang thoảng mùi rượu và mùi thuốc lào, ông Hàm đã hăm hở mà vẫn lặng lẽ không một lời mơn trớn; tấm thân to ngang, rắn chắc của ông đã trườn phủ lên bà.
Nghe nói những người có khuyết tật từ bẩm sinh, hoặc thọt chân, khoèo tay, hay cận thị, thì bà mụ nặn sẽ đền bù sang cơ quan sinh tồn, họ trở nên mạnh mẽ khác thường. Ông Hàm đúng là người như vậy. Ông tuổi ngựa, chỉ còn hai niên nữa là ông đã lục tuần, nhưng chưa bao giờ Trịnh Bá Hàm chịu bất lực khi làm chức năng của người đàn ông. Hình như cái thân, cái cốt đầy cường tráng của nòi nhà mã mà ông cầm tinh đã thấm sâu vào từng mao mạch cua ông. Dẻo dai. Ông Hàm lúc nào cũng dẻo dai. Những lúc ấy, bà Son cũng không nói không rằng không chểnh mảng và cũng không chờm hợp, bà làm bổn phận của mình, mặc dù bà đang ở giai đoạn cuối của tuổi hồi xuân thời điểm của ánh hồi quang cuối cùng lóe lên trước khi mặt trời tắt lịm. Vâng ánh sáng của tuổi mãn khai dường đánh thức những tế bào và sự khát khao bừng nở một lần chót trong mỗi người đàn bà, họ bỗng trở nên nồng đượm đến cuồng nhiệt, hơn cả tuổi dậy thì rất nhiều. Nhưng với bà Son, trước sự bào trơn đóng bén của ông phó mộc, bà chỉ lẳng lặng làm tròn nghĩa vụ của mình. Rồi cả hai cùng thở dốc. Các khớp xương như lỏng ra, đầu óc trống rỗng bợt bạt. Trong lúc ông Hàm lim dim nằm thở ầm ề như vừa xong một công đoạn, thì bà Son mở cặp mắt thẫn thờ không nhìn ra, mà soi ngược trở vào, thấy rõ một cái gì cứ cạn dần, lịm tắt dân trong người mình.
- Đêm hôm qua bà nói xấu tôi những gì? - ông Hàm ngồi xếp bằng trên giường, hỏi độp một câu như vậy khi bà Son vừa từ trong buồng đi chân đất bước ra.
Chiếc đèn to treo ở cửa lúc nãy đã tắt. Cửa đã đóng. Giờ chỉ còn chiếc đèn con đặt cánh chiếc lư đồng trên bàn thờ, khiến ba gian nhà chỗ mờ chỗ tỏ. Ông Hàm ngồi nghiêng bên ánh đèn, khiến một nửa người và gương mặt gân guốc của ông cũng chỗ tối chỗ sáng. Bà Son lặng thinh như chưa nghe thủng,bà cuốn vội mái tóc còn rất dài, rất dày, chỉ ban ngày mới nhìn thấy loáng thoáng những sợi bạc, còn bây giờ văn đen mun. ánh đèn chiếu sáng một bên gáy còn đầy đặn, khuôn cổ vẫn tròn chắc, bà sẽ sàng ngồi xuống đi-văng, hai tay đặt trên gối, mặt lặng tờ như một con chiên chờ cha phán bảo. Và ông cha cứ ngồi gườm gườm trên giường, cha biết rất rõ mình chỉ làm chủ được phần xác, còn bất lực trước phân hồn. Cha luôn luôn không hiểu được những buồn vui nóng lạnh trong con tim. trong khối óc của đấng chiên tinh rất nhũn nhặn ngay trong vòng tay mình đây.
- Tôi hỏi bà đã nói xấu tôi những gì? Ba nghe rõ chưa? - ông Hàm nhắc lại tiếng đã đanh lắm...
Bà Son nói đều đều trong khi toàn thân vẫn ngồi yên như bất động. Bà không khóc, không kêu xin oán trách. Chỉ những lúc người ta mất hết niềm tin vào những lời khuyên bảo, hứa hẹn, thì mới có dáng điệu và âm sắc vô hồn thế này:
- Chú Thủ bảo tôi, thúc tôi đi gặp người ta, chứ tôi không tự ý.
Ông Hàm đập đánh rầm xuống chiếu, khiến mấy cái chén ngã lăn trong khay, xô vào nhau lanh canh:
- Ai chả biết chú Thủ bảo đi gặp. Nhưng đi gặp là để nói công nói việc chứ không phải đi gặp để khóc lóc, quị lụy, để bêu riếu chồng, bêu riếu họ hàng. Họ nhà này không thèm quỳ gối trước thằng nào nghe không? Từ ngày về đây bà phải khổ sở những gì? Thiếu thốn những gì? Cả đến chị gái anh rể của bà lúc túng, lúc thiếu cũng chạy đến đây!
Cái Hoa bỗng kêu thét trong buồng:
- U ơi! U đâu rồi?
Rồi nó lồm cồm bò dậy, đầu tóc bù xù chạy lao ra ngoài nhà. Ông Hàm đang há miệng định nói nữa thì, bỗng đứt nửa chừng. Bà Son vụt đứng dậy chạy lại như con gà mái dang cánh che chở cho đứa con bé bỏng. Hai mẹ con ôm nhau đứng giữa nhà. Bà Son quay lại, lúc này nước mắt mới tuôn ra lã chã:
- Thôi vì con cái tôi xin ông! Ông đừng để chúng nó phải nghe, phải biết những chuyện chẳng hay hớm gì! Còn số thóc vợ chồng bác Khừu vay, đến lượt chợ sau phơi phóng xong, bác ấy sẽ giả. Chẳng ai ăn không được của ai. Còn cái việc tôi phải đi gặp người ta, đi xin người ta cũng là vì con, vì chồng, chứ riêng thân tôi việc gì tôi phải xin xỏ cầu cạnh ai. Đã xui tôi làm, giờ lại còn bắt tội tôi?
Rồi hai mẹ con dìu nhau, hay chính cái Hoa là điểm tựa dìu bà, bước loạng choạng vào buồng. Ông Hàm ngồi đờ dânn. Được chứng kiến việc này, không phải chỉ có con bé Hoa út ít, mà còn một người nữa, mặc dù chỉ nhìn qua khe hở nhưng cũng thấy được thấp thoáng, và đặc biệt là được nghe rõ từ đầu tới cuối. Đó là người đàn bà làm thuê ngủ dưới nhà ngang. Chị đã dậy ngay từ lúc nghe tiếng òm òm trên nhà.
Nhưng rồi còn việc này nữa, cũng ngay trong trong đêm thì chỉ có hai người chứng kiến ấy là một hồi lau sau, có dễ đêm đã nghiêng về sáng, bà Son đang lơ mơ chập chờn, thi bỗng thấy có người kéo chân mình! Rồi lay lay? Bà Son rùng mình tỉnh hẳn. Những ngón ta chuối mắn hình như ươn ướt mồ hôi, lại nắm vào cổ chân bà giật giật. Rồi biết chắc bà đã tỉnh, cái người lay chân lại mới lệt sệt lê dép đi. Bà Son thở ra thật to, đưa tay lên xoa mặt. Hai hàng mi thấm ướt nước mắt trong giấc ngủ nặng nề kết dính vào nhau, khiến mặt mũi cứ lưỡng vướng như chăng một tấm mạng nhện, đến mở không được. Bà Son vừa dụi, vừa thở dài. Cài gì? Muốn an ủi con người mà duyên phận đã buộc chặt đời mình, bị đau khổ dằn hắt mấy hôm nay? Hay là vì phận sự? Bà lại se sẽ ngồi dậy, lần vẫn bước ra trong khoảng không tối mờ tắt hết đèn đóm. Rồi vẫn những gì đã quen, đã cũ kỹ đến ghê sợ. Mùi rượu, mùi hành sống, mùi thuốc lào và những động tác rất ít, rất tiết kiệm nhưng dứt khoát, như cưa như đục từ những ngón tay tay đổ mồ hôi trộm, và vẫn không một lời như thế cả hai cùng mắc bệnh câm. Ông Hàm chỉ ậm è trọng cổ họng, rồi ập cả sức nặng của mình trùm kín từ chân đến đầu tấm thân nóng hôi hổi, phập phồng phía dưới. Hai bàn chân ông, ngón cái và ngón chỏ quặp lấy hai ngón chân cái của bà, chắc như ông vẫn bắt vít! Những đợt sóng từ trên cao dội xuống, dội xuống.
Bà Son nằm đờ ra chịu trận, lặng lẽ khóc!
iReader
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top