Mẫn và tôi - Phần 2 (end) - Phan Tứ
Chương 16
Tôi giấu cái vằng sau lưng cẩn thận, nhưng vừa nhác thấy tôi ló mặt đầu bờ, mẹ Sáu đã kêu om:
- Không ai mượn mày! Đi đêm miết rạc người, chưa ngủ bù, mò ra chi đây?
Tôi cười lảng lảng, lội xuống ruộng. Thấy lúa mê quá mà. Những bông vàng mộc to bằng đuôi trâu ngã rạp đè lên nhau, lớp lớp ngồn ngộn như từng loạt tia vàng nấu chảy phun toé lên qua các lỗ chân lông của đất, đông cứng lại thành chùm hạt hiến cho người. Thà ở đâu xa chứ nằm ngay giữa đống của mà địch lăm le cướp nghiến này, tôi cầm lòng không đậu.
Bảy đêm liền xuống Chu Lai dò Mỹ, mở rộng mạng lưới quân báo, lót ổ để nằm lại dài ngày bên căn cứ, tôi vẫn ra đồng gặt được mỗi ngày một buổi. Tôi thường về đến nhà mẹ Sáu lúc 2, 3 giờ sáng, lăn ra ngủ bên cháu Hoàn, lỗ tai vẫn đầy ngập tiếng quạt thùng quay phành phạch như máy bay phản lực, từng lúc chen những tiếng chân gánh lúa gấp và nặng, lúc bó rơi bịch bịch xuống sân và mẹ Sáu gắt nhỏ: “Nhẹ chút con, thằng tư thức trõm lơ con mẳt rồi”. Tôi thiếp đi một giấc ngắn và rất say, kiểu ngủ của xê mình hành quân đêm ùn lại chờ đò, đến tảng sáng được đánh thức bằng hai cách: hoặc du kích nổ súng chặn quân địch rập rình úp sớm vào xóm, hoặc một khối gì như trái mít mềm rụng giữa rốn tôi, tức đến trợn ngược con mắt, phải chồm dậy ngay. Ấy là trò chơi quái quỷ của thằng cháu Hoàn, nó thích đứng dạng hai chân hai bên sườn “chú Xiêm”, thả đít đánh bịch xuống bụng chú, cười rật rật. Tôi ôm cháu vật một hồi, đếm xương sườn, đến khi nó chịu “xua ồi”, thơm đền thật to cả hai má mới tha tội. Hai chú cháu bén hơi nhau rất nhanh. Cháu thèm có ba lắm, chẳng biết bắt chước trẻ con khác hay nghe ai bầy mà nó gọi tôi là “ba Xiêm” hoài, tôi phải lẫy nhiều lần nó mới thôi. Mẫn đã sợ mang tiếng, chẳng nên để nó gọi “mẹ Mẫn, ba Xiêm” thêm phiền cho nhau.
Ăn vội chén cơm nguội, soát lại chỗ nằm của cháu dưới hầm bên chị Ngưng nó – con gái út lên mười của mẹ Sáu – tôi ra đồng ngay.
Đường làng biến thành thảm rơm dày, rơm vắt kín cả hai bờ rào, tôi đi qua những thung lũng vàng xốp, lún chân. Mới tinh sương mà gió đã đẫm mùi lúa hăng nồng như hơi rượu lạ dễ say. Càng về trưa gió càng bốc mạnh, cuốn bụi lúa xoáy tròn thành những cột gió nhám trông thấy được, đem màu lúa lên phủ lợt cả những lá cau trên cao. Còn chính hột lúa thì khó thấy. Nó hiện trên sân một lát rồi biến ngay, địch càn vào chỉ hốt rơm.
Bà con trách ông trời qua miệng cười hổn hển:
- Ổng giựt mất cả mớ ruộng, báo hại tụi mình phải bươn chải muốn chết, bây giờ ổng cho một trận lúa gặt rã tay không hết, ác ôn thiệt!
Vụ lúa sau lụt này quả là cấy khóc gặt cười.
Trên bãi bồi trắng băng, bà con hì hụi đào cát sỏi đến giáp Tết, đói bụng chảy nước miếng trong, mả ông bà rậm rì phải để đó, chỉ cắm vội mấy cây hương, và xin hoãn đến chiều ba mươi sẽ giẫy. Thêm tụi giặc mới bị đuổi khỏi Tứ Nhơn cứ chạy vè vè xung quanh như chó liếm cháo nóng, nghe nó tum tum cốc cốc mà điên ruột, một trăm bà đi đấu lý có đến chín chục bà túm lính mà chửi nhào đầu, chẳng chịu nói nghĩa nhơn gì nữa. Cày gãi bừa xoa gọi là có, chân lội ruộng thấy cứng như bước trên sân nhà gặp mưa, cây mạ cắm xuống cứ đổ nghiêng đổ ngửa. Nhiều nhà đã sửa đôi bầu chồng rổ đi buôn rổ cá, chạy chợ kiếm bữa. Vậy mà được ăn, lại ăn to chưa hề thấy mới kỳ. Tới hồi địch càn líp lại, lúa càng xoè nơm thì ruột người càng thắt. Bây giờ mới thật tin là địch không giật nổi chén cơm sau lụt: du kích đủ sức chặn tụi biệt kích quân và dân vệ xã, còn cái tiểu đoàn chiếm Tứ Nhơn trước đây đã bị ném lên Việt An lần nữa, quân ra trận mà dặn người nhà “Lấy ngày đi làm ngày giỗ”.
Anh Tư Luân bị bà con níu kéo dữ quá, phải đặt ra cái lịch cơm khách, mỗi bữa kéo tôi đi một nhà để ăn cơm mới. Có bà mời chưa được đã nhắn ngay: “Nói giùm ông Tư đi rán đi xa xa một chút, qua trước ngõ cho tôi thấy mặt”. Ấy là để nhớ công anh chạy các nhà rủ dọn ruộng lấp. Anh lên Tam Trân xin từng lưỡi cuốc cũ về, nhét vào tay từng người ngán địch và ngán đất, dỗ ngọt, van nài, nạt nộ, túm tay họ lôi đi. Một mình trên bãi, mím cặp môi đen và mỏng, anh bổ lát cuốc mở mùa xuống lớp cát sỏi đang vùi nhiều xác người xác thú, bà con kẻ trước người sau cũng theo ra đồng hết.
Hồi đó, đội du kích cản giặc mệt đừ, cái khăn tang trên đầu Mẫn không ngày nào khỏi vấy bùn. Mẫn đòi anh Luân dồn hết người ra làm làng chiến đấu. Chú cháu cãi nhau tới một giờ sáng mới ngã ngũ, chịu chia đôi số dân để cào bồi và đào hào. Cây lúa vắt vẻo đuôi gà thì chông mìn mương rào cũng tạm đủ chống càn. Về sau Mẫn nghĩ phục chú, nói với tôi dạo bật ra gò:
- Đánh mấy năm ròng mới lấy được Tứ Nhơn, em sợ mất quá mà. Không vỡ ruộng thì bây giờ xong cả địa đạo rồi, có điều bà con phải bỏ làng đi kiếm ăn sạch, du kích hết gạo cũng tẩu luôn, bỏ đất cho địch tới chiếm! Nhà em rán làm được bốn ang giống cũng nhờ chú thúc riết đó anh.
Trong khi ấy, anh Luân vẫn gật gật, thấp giọng khoe với tôi rằng công đầu giải phóng Tam Sa là thuộc về “con nhỏ đó”. Trẻ nít mới lớn mà mặt nào cũng thấy đều hết. Tôi đoán trong vụ này Mẫn kể đúng sự thật hơn ông chú ưa làm mối.
Cánh đồng mới đấy đã trụi đi hai phần ba, nhanh ghê. Còn phải nhanh nữa. Những chiếc M.113, trực thăng, xe tải đều há sẵn cái miệng toang hoác, trực nhả lính ra và nuốt thóc vào. Tôi đưa mấu vằng xốc vội từng bụi lúa rạp. Bông mẩy, nặng cụp đầu cuộng rơm, cọ vào tay tôi nhám như bò liếm chủ, thương lạ. Lưỡi vằng mới cắt lại chân chấu, xoẹt từng lát sướng tai. Mẹ Sáu tới gần, không gắt nữa - mẹ gắt với đàn ông bao giờ cũng gượng gạo - chỉ hỏi vặn:
-Ruộng nhà gần xong rồi, biểu mày gặt giùm chị em con Hai ít buổi, mày cứ lơ lơ là sao?
Tôi bông phèng cho gọn:
- Sợ người ta nói: “Ăn hàng con gái, đái hàng bà già”.
- Đứa nào bắt chước thằng Ba Thấn, mày chỉ tao trị cho tức thời.
Tôi cắm cúi gặt gấp để khỏi phải trả lời mẹ.
Ba Tâm với Út Hoà vẫn như sừng với đuôi, vừa gặt vừa cãi nhau đằng kia. Mẫn đi rảo thôn này qua thôn khác, gần trưa mới về xử kiện, kì cạch bó và xóc lúa cho các em, trông rất tội. Tôi muốn giúp lắm chứ, nhưng Mẫn sợ mang tiếng “lợi dụng bộ đội”. Mẫn không quen nói dối, phải nhìn nơi khác và ấp úng rất thảm hại. Sau những phút ngây ngất dưới trăng ấy, Mẫn vụt đóng sập cửa sổ lại, chúng tôi chỉ còn nhìn thấy nhau qua lớp kính lạnh. Mẫn tránh gặp riêng tôi, tránh cả cặp mắt tôi dò hỏi. Mỗi khi bàn việc với nhau, Mẫn vẫn nói những lời dịu nhẹ nhưng không thân nữa, như bột ngọt gói sẵn trong túi nhựa trong, ai mua cũng được. Có lẽ mọi người xung quanh khó thấy chúng tôi đã xa nhau nhiều, còn xa thêm nữa. Cái khoảng cách bước lùi này giúp tôi tỉnh hơn. Tôi biết Mẫn không giận hờn gì, chỉ cố cưỡng lại những rung động của chính mình, nhưng tại sao? Để cho Mẫn đỡ phải lẩn mặt, chối quanh, tôi không đến nhà Mẫn, không căn vặn. Một con chim quý sảy khỏi bàn tay tôi, đang nhảy hót trên cây kia, có vậy thôi. Tôi chỉ thấy lạ và buồn một mình.
Chị S.22 được thư anh Tư Luân, đã chịu xếp hầm cho chị Tám với tôi ở hẳn trong ấp chiến lược từ tối mai. Về dưới ấy hẳn tôi nhớ Mẫn cồn cào và cũng nhẹ nhàng hơn, còn quên được Mẫn thì tôi chưa dám tin.
Mới cúi khom một lát tôi đã mỏi lưng. Từ giờ thứ hai, cái lưng sẽ dẻo ra, tôi quen vậy rồi. Dù sao cũng dễ hơn suốt lúa. Mới năm nào tôi còn đeo cái teo bằng tre đan như trống cà rùng trước bụng, hai tay chụp tuốt từng bông lúa, rẫy cho hạt rớt rào rào vào miệng teo xoè rộng, bốn ngón tay rộp lên, toé máu rồi chai dần. Vèo một cái, tôi đã gặt lúa ruộng và ăn cá biển, nếu ở xa Chu Lai chút nữa thì đã sớm sớm ra tắm nước mặn và phụ một tay kéo lưới. Cái ông thời gian đi như vậy đấy, còn ở trước mặt tôi ông nhích chậm như rùa, ngang tôi ông đi vừa phải, ra sau lưng tôi thì ba chân bốn cẳng ông chạy, khiến mỗi khi quay nhìn lại quãng đời đã qua tôi lại nổi một cơn sốt ruột, chưa chi đã béng mất xấp xỉ nửa số tuổi rồi, ông ơi là ông ơi!
Mẹ Sáu đến ôm lúa tôi cắt đem xếp trên bờ, hỏi chuyện dài dài:
- Sao nghe mày học tới ông tú mà biết gặt, Thiêm?
- Tú hu là con tu hú...
- Giỡn hoài. Mấy bữa nay mày xuống dưới đó, tự mắt mày thấy tụi Mỹ chưa?
- Dạ chưa, tụi nó đang nằm co ấp trứng, đợi nở hết mới dẫn bầy lên thăm bà con mình. Lần này con đụng toàn thứ Mỹ lẻ, Mỹ theo nguỵ, mỗi trận lượm vài đứa đầu gành cuối bãi.
- Chắc cũng một nòi thôi. Dạo trước tụi Mỹ lái xe lội nước ghé vô ấp luôn. Mỗi xe hai thằng mặc áo quần vẽ bông vẽ huê rằn rện, tao nghe nó nói với nhau trăm trăm cái miệng, xí lô xí là thiệt kỳ, hèn gì kêu lính Huê Kỳ, là chỉ cái áo với giọng nói của nó đó. Tư Luân nói mày chịu mở lớp dạy tiếng Mỹ rồi. Hễ dạy, tao cũng học với, học để chửi tụi nó cho đã nư, để mấy thằng thông ngôn nói lại thì trụi lủi hết. Thiêm nè, mày nhắm tụi Mỹ vô đất mình, nó chịu nổi không?
Tôi chưa kịp đáp, mẹ đã ôm lúa đi. Trở lại, mẹ tự trả lời chậm rãi:
- Để yên thì tụi nó ở ngon chớ. Hồi cụ Hồ chưa về, tụi sứ, cò, thương chánh, kiểm lâm, lục lộ, lê dương, tao thấy đứa nào cũng mập úc na úc núc. Mà mình đánh riết chắc nó bỏ Tư à. Tao để ý tụi Mỹ lái xe, trời nắng đổ lửa, xe nóng rờ đâu phỏng tay đó mà nó cứ ngồi lỳ chỗ lái, uống hết nước đóng chai thì chờ trực thăng chở thêm, tụi nguỵ đưa cơm nước tới nó không dám nếm chút xíu nào. Nó sợ anh em mình cắc bụp, sợ dân bỏ thuốc độc, sợ ngụy làm phản, đủ trăm thứ sợ. Sau mấy thằng say nắng phải khiêng lên hát-u y tá. Hễ bay xúm vây xiết cái Châu Lai, tụi Mỹ rúc hầm ngộp thở, mươi bữa nửa tháng chắc nó nằm ngay cán cuốc hết trơn á.
Tôi cười, rất thích thú cái chiến thuật bao vây bức rút cỡ lớn của mẹ Sáu. Qua tiếng cắt lúa sồn sột, tôi kể một lô mặt mạnh của quân Mỹ để chọc mẹ cãi chơi. Mẹ hăng, phá bùa phép của Mỹ bay hết, còn chê tôi đánh giặc có sạn trong đầu mà nhát hơn con gái:
- Thì con Hai Mẫn bên nhà đó, vú nó to bằng trái dừa xiêm, đánh giặc phải quấn vải bó vú mới chạy được, mà nó coi thằng Mỹ nước non gì đâu...
Pi-pi-pì-pình!
Bầy pháo 105 khạc đạn cùng một lần. Sườn núi chúa phụt khói sáu chỗ. Mẹ Sáu hét các con xuống hầm, mẹ cũng chui vào một hầm nổi trên bờ ruộng. Bà con chung quanh chạy xuống hầm táo tác, người ở xa thì nằm dài, kéo đệm rơm phủ kín thân. Tôi ngồi xổm bên một bậc cao, đợi đạn kêu rắc rắc đúng hướng sẽ nhào ép vào đấy. Loạt pháo thứ hai ầm ầm đánh xuống gò Trúc. Pháo Chu Lai cả. Xe xích kéo tám cây 105 vào Chu Lai sáng hôm qua. Tụi Mỹ rải đạn bậc thang, chuyển làn nhanh, kiểu bắn coi bộ du côn hơn ngụy nhiều. Loạt ba rơi trúng ruộng đã gặt. Loạt tư nổ trong xóm Đình, xóm của mẹ Sáu. Loạt năm lùi xuống gò Xoài bỏ hoang. Từ đó chúng nã nhích dần lên phía bắc, vẫn một nhịp bắn gấp, đạn rớt khá chụm
Tiếng la làng dội choi chói trong xóm Đình. Tôi mổ cái mẩu vằng xóc vào bờ ruộng, chạy về xóm. Không có khói cháy nhà, hú vía, gió to mà làng ngập rơm khô.
- Ối anh ơi, thằng Hoàn….
- Sao? Sao?
- Nát hết, bay vụn hết trơn!
Tôi phóng như điên. Thật không? Pháo 105 thôi mà. Tôi đã gánh cát đổ dầy một thước trên nóc hầm…
Cách miệng hầm mẹ Sáu mươi bước, những cây chuối nước(1) bị thổi giạt ra xung quanh như nan hoa bánh xe. Một hố lòng chảo nằm giữa. Ba bốn người đi quanh, cúi dòm kỹ. Một vết máu. Nhiều vết máu nhỏ, đất rơi lấp gần kín. Ai đó đã chặt trải hai tàu lá chuối, trên đó đặt một cánh tay bị xé ngang vai, khúc chân đứt từ gối trở xuống, tất cả đều trắng, bụ bẫm, đều sống nguyên, tươi rói, không thể chết
Hai chị em bày cỗ bên miệng hầm. Cháu Hoàn đút ổi cho chó con, bập bẹ dỗ mãi mà chó không chịu ăn ổi, lắc đầu miết. Cả ba vào hầm ngủ. Hoàn dậy trước, lũn cũn đi ra một mình. Cả ngày cháu không đòi không khóc, chỉ quấy khi mẹ về. Mẫn đến thăm con bao giờ cũng phải nín tiếng, đi rón rén tới sát bên lưng, bởi nghe giọng mẹ từ tít ngoài ngõ cháu đã vừa reo vừa sấp ngửa chạy ra đón. Có hôm ngã rách mặt, đổ máu mũi, cháu lồm cồm bò dậy, cứ chạy tiếp đến với mẹ, lúc ấy chỉ riêng cháu cười to, còn người lớn len lén lau mắt. Cháu hái bông chuối nước, cả một bụi rực rỡ những mảng đỏ vàng chơi với cháu, bây giờ cũng nát vụn theo cháu, mỗi lá cờ con muốn đắp một miếng thịt, không nỡ rời.
Tôi sục khắp vườn tìm xác với bà con, chỉ lượm rất nhiều mảnh hoa chuối nước cầm tay, người tê dại đi. Tôi thèm được khóc hu hu như Út Hoà trong nhà kia. Hình như tôi hỏi đi hỏi lại:”Thằng nhỏ họ gì?”, không ai biết cả, và tôi cũng chẳng biết hỏi để chi. Anh Luân chợt nói to đâu đấy:
- Xoá hết dấu máu nghen, Hai Mẫn đi Nhơn Thọ sắp về rồi. Sửa soạn xuất quân!
Tôi tỉnh lại, bắt đầu đau nhức như máu rùng rùng chảy vào xăm mứt gừng trong thịt. Mẫn sẽ chịu cơn đau này sao đây?
Bà con gọi nhau ơi ới. Người từ ngoài đồng túa về đông chật những đường lót rơm. Những bộ mặt quen nhô ra cạnh tôi, đỏ và ướt mồ hôi, bật ra một vài câu rít răng hay quát tháo, lại biến vào cái nền áo trắng nón trắng loa loá.
- Đấu liền tay, mảnh pháo còn nóng nó mới khiếp!
- Hay để hôm sau, góp hai ba vụ ta đi một lần, ngày mùa bận rộn...
- Nam mô A di đà Phật! Thằng nhỏ như cục bột mà ra vầy!
- Xóm Đuồi đủ quân chưa đó hỡi?
- Mẹ cố tổ mày Mỹ ơi, mới bước vô đã ăn thịt thằng cháu!
- Đừng chửi lính nghen bà con, dồn hơi chửi Mỹ thả dàn, bắt chỉ huy ra coi xác.
- Thưa bà con cô bác, giữa trưa nắng nôi, lúa má còn bề bộn, đề nghị ta xuống vây địch dưới Lộc Chánh là vừa, đi An Tân hay Châu Lai xa quá, để lần khác. Bắt nó lập biên bản, ký tờ cam đoan, hễ nó đổ tội cho Mỹ thì vạch tội cướp nước bán nước như hôm kia, vụ bác Ba Nhiệm...
- Tập hợp! Tập hợợợp!
- Ới bà Chín ơi, bồng con theo cho bú cũng được chớ!
- Xóm Giữa, ai mang dầu khuynh diệp bóp đòn đưa tay coi! Bông băng? Bình nước đủ không? Ủa, nó chặn giữa trảng nắng, chịu khát nước khản cổ rồi hô khẩu hiệu như nói thầm à?
- Bỏ mảnh pháo lên xác... không, mảnh mới tinh kia, nó hay đổ cho du kích gài mìn trúng con nít...
- Rán trông giùm heo no con nín nghen ông!
Một tay ôm cái hòm gỗ đóng vội, nắp úp hờ, một tay phẩy cái quạt mo đuổi ruồi, chị Biền dẫn đầu cánh quân chống pháo xuống Lộc Chánh. Chị sẽ nhận cháu Hoàn là con. Ông thầy Mười chống gậy bên Út Hoà xách ấm nước nhôm, là ông nội và chị của đứa bé. Anh Luân đếm được ba trăm bốn mươi mốt người, vậy cũng vừa, gặt xong sẽ mở đợt toàn xã đi vây quận. Chồng chị Biền mới bị vợ gắt vì đóng hòm chậm, thu dọn các mảnh ván thừa, lầm bầm: “Lo hậu sự để dành cho cha già mẹ héo, chứ ai cưa ván quan tài sẵn cho con nít...”.
Tôi với Ba Tâm đào hố để cháu về sẽ chôn gấp. Nếu Mẫn tới đây, anh Luân sẽ bày tiệc kéo Mẫn đi nơi khác, không cho thấy những khúc chân tay nhầy nhụa máu. Tuy nhớ rõ cái hòm của cháu chỉ nhỏ bằng cái tiểu sành dời mả, tôi cứ xắn mãi những lát mai mở rộng miệng hố, bởi quen tay đào huyệt cho đồng đội mãi rồi, bởi tôi biết mà không thể tin rằng cái hộp đựng búp bê ấy đủ sức chứa một con người hẳn hoi, mới sáng nay còn chơi trò mít rụng trên bụng tôi và cười lanh lảnh
Mé Lộc Chánh, trung liên nổ sáu bảy loạt ngắn, nòng chõ lên làng Cá nghe pình pình choác choác. Ba bốn tiếng nổ đầu nòng cối 60 giống tiếng súng săn ca-líp 12, đạn nổ gần mà chỉ bộp bộp như vập thúng, vẫn cái trò bắn doạ bằng đạn khói hai bên cánh quân áo trắng. Tôi cứ đào mãi, đào mãi. Họng pháo hạm đội 7 to lắm, còn bom thả cao xuyên sâu, còn rốc-két dùi công sự, tôi không muốn cháu tôi bị xé thêm một lần. Tiếng hô dội xa đả đảo nhịp ba chỉ còn “ảo, ảo, ảo”. Anh Luân từ bìa xóm tập tễnh về, báo tin bà con đã vô ấp được hết, ổn rồi. Lát sau, út Liềm mượn xe đạp lên cho biết dân Lộc Chánh cũng ùa ra đình, đem xôi và nước tiếp tế, vừa giằng lại mấy người bị địch bắt đánh.
Xế trưa, quân chính trị kéo về râm ran các ngõ xóm. Giết trẻ con là cái tội ác mà quỷ sứ hiện hình cũng không cãi nổi. Lính ngụy bủn rủn tay chân hết. Tên đại uý chịu ký cam đoan “can thiệp với quân đội đồng minh” chống pháo, tạm thời bồi thường mười ngàn. Thằng Chinh con trốn đâu không thấy, hắn biết bà con nổi xung dám nhào tới đánh chết hắn mà chưa chắc tụi lính đã động ngón tay can giùm.
Tôi nâng cái hộp gỗ đặt xuống lòng hố, kính cẩn và gượng nhẹ, khác với sáng nay vật cháu ra thổi rốn phù phụp. Cháu vừa dẫn đầu quân ta đánh thắng một trận đấy. Bà con và du kích sẽ nhắc tên cháu mỗi khi xáp địch. Có thể nhiều năm nữa vấn còn những lính ngụy nhớ tới cháu mà vác súng sang ta. Thôi, vĩnh biệt người đồng đội hai tuổi...
Tôi thèm được thơm cháu lần cuối trên cặp má còn lành, nhưng nắp hòm đã đóng đinh, tôi cúi hôn mặt ván
Tôi chỉ dịu đau từ khi nhớ cháu như nhớ các bạn chiến đấu nối nhau ngã bên tôi. Mỗi người đều thanh thản nhận lấy sự hi sinh cuối cùng, tôi cũng thế, tôi muốn tin cháu Hoàn cũng thế. Chúng tôi chẳng mấy khi nhắc đến cái chết, không phải vì kiêng kỵ, sợ nó ám ảnh hay ngại bị đánh giá thấp như đôi người tưởng lầm, mà chỉ vì quá quen nhảy qua đầu cái chết để giành và giữ sự sống chung, sự sống ấy cuốn hút tất cả suy nghĩ và cảm xúc của người lính. Tôi đã trải qua rất nhiều cuộc chia tay, khi người sắp chết cố cười giỡn một câu khoá sổ, khi người sống sẵn sàng đổi chỗ cho bạn và lớn vọt lên trong nỗi đau thiêng của cuộc bàn giao nghiệp lớn. Cháu nghỉ yên nhé, cháu Hoàn rất yêu của chú, chúng ta rời nhau như hai đồng chí...
Anh Luân đến bên miệng hố, giục:
-Lẹ lẹ chút, lỡ Hai Mẫn về, tội nó lão à.
Anh nói đúng, Mẫn không nên nghe xẻng đất đầu tiên rơi bộp bộp xuống hòm, nhói vào người như hai nắm tay nhỏ đấm vào nắp gỗ đòi ra. Khoan về đã em, đừng xem anh đứng trên lớp đất mà dẫm, em sẽ không thở được khi nghĩ đến đứa con nằm dưới. Trong cơn bão lớn nhất của trái đất ngày nay, một con chim mới nở bị giằng khỏi xác mẹ, theo gió lốc cuốn mãi tới đây rơi vào tay em, trần trụi, thoi thóp. Em góp chung tình yêu của em và hai người mẹ nữa để thương con gấp ba. Giặc Mỹ đuổi theo giết nốt đứa bé. Mới vào Chu Lai vài hôm, chúng đã xé con em ra nhắm rượu khai vị, mở đầu cho bữa tiệc bắn đâm đốt hiếp cuồng loạn trong nhiều năm tới. Nên khóc một chút cho nhẹ đi em, sau đó hãy tỉnh và nhớ nhiều, nhớ mãi, cho oán thù thấm hẳn vào da thịt, cho đến khi bàn tay em xóc lê vào ngực Mỹ cứ tự nó quen vặn xoáy cây súng thêm một phần tư vòng tròn nữa, bắt cái lưỡi lê các-bin hình dao găm của Mỹ rạch nát tim chủ cũ của nó trước khi chân em đạp cái xác sang bên.
*
Tin sang Nhơn Thọ, Chín Cang để tới chiều mới báo cho Mẫn. Mẫn chỉ thừ ra một lúc và lau đôi mắt khô, đi với Cang về Nhơn Ái. Sau khi thắp hương lên mả con nuôi, Mẫn xé vải trắng ghim gần cổ áo, thu dọn đồ chơi và áo quần của cháu Hoàn gói vào tấm nhựa. Thấy Út Hoa sụt sịt mãi, Mẫn dỗ, bị em gắt: “Em bồng nó miết em thương, chị có ở với nó đâu...”
Mẫn không đáp. Mẫn đi soát các bãi chông mới, rẽ luôn ra đồng bó lúa gánh về, đôi lúc còn cười đùa trông rất tỉnh, chỉ thỉnh thoảng hơi đãng trí.
Tôi chong đèn đọc một số tư liệu về quân Mỹ mới nhận được, có nhiều chi tiết còn chừa trống hoặc kèm dấu hỏi trong ngoặc đơn, dành cho các phái viên tìm thêm. Đến nửa đêm, tôi còn nghe tiếng cọt kẹt đưa võng phía bên kia hàng rào: Mẫn thường ngủ trên chiếc võng gai cũ cho mát, hôm nào về không quá khuya thì Mẫn đón con sang nằm chung, cười rúc rích với nhau rõ lâu. Mẹ Sáu đánh thức mấy đứa nhỏ dậy đi đái, nhắc tôi: Ông Luân tưởng dễ. Tao ở với con Hai từ hồi nó lọt lòng, tao biết, như bom nổ chậm... Tôi liếc xuống tập giấy in rô-nê-ô có vẽ các kiểu bom Mỹ, băn khoăn một phút, lại chúi mũi đọc tiếp. Mẫn không thích tôi đến nhà, hẳn rất khó chịu nếu giờ này tôi vác xác tới thăm.
Sáng hôm sau, tôi nghỉ gặt, ở nhà viết báo cáo hàng tuần để gửi về H.68 trước khi xuống vùng biển ở hầm. Pháo Chu Lai bắn dồn về phía Quảng Ngãi, nổ đi rất to, nổ lại chỉ văng vẳng. Du kích trong ấy đánh hăng lắm, bắt đầu bắn tỉa tụi Mỹ rồi. Sân bay Chu Lai thè cái lưỡi bê-tông dài dần vào vùng đông của huyện Bình Sơn, chắc phản lực sắp đậu xuống đây thôi, không sạt thẳng ra tàu mẹ nữa. Từ mai tôi sẽ xem Mỹ tận mắt, rõ hơn thứ ra-đa mắt thần của tụi nó nhiều.
Anh Điển viết thư cho tôi, vẫn ngắn, cộc và thẳng ruột ngựa.
Các báo cáo của cậu đều có chất, tốt. Cậu đùng đoàng với du kích Cu-ba bấy nhiêu thôi, chuyển qua đối tượng mới được rồi. Sửa soạn trả lời hai câu hỏi trong kỳ họp sắp tới:
1. Chủ lực ta đánh Mỹ, đủ sức một diệt một gọn không?
2. Làng chiến đấu Mỹ bước một đủ sức chống cơ giới Mỹ không? Phải đạt mức thấp nhứt ra sao mới chống nổi?
Mình bận đi phía bắc, chưa về chỗ cậu được, sẽ về. Trên đang nhắm lập các khu vành đai diệt Mỹ, đáp lại kế hoạch vành đai trắng của địch. Chịu khó cụ thể và cụ thể nghe Thiêm. Đừng rời con mắt người lính chiến khi coi Mỹ, để sắp tới nắm bộ đội đánh Mỹ cậu khỏi lớ ngớ, và giúp anh em khác khỏi lớ ngớ. Có đồng chí đi Đà Nẵng hai tháng, gửi về cho mình mười bảy trang nhận định về bản chất đế quốc Mỹ và quân đội Mỹ, mình trả lời: tôi vẫn nghe đài và đọc tin rất đều, nhưng tôi cần biết K50 ở cự ly bao nhiêu thì xuyên thủng áo giáp Mỹ, tháo mìn định hướng Cờ-lê-mo cách nào an toàn nhứt! Số người đi ngắm cảnh đã đủ rồi, xin đồng chí làm đúng vai trò của người đi tìm mỏ, cặm cụi khoan từng lỗ đất...
Càng quen lâu, tôi càng thích và trọng anh Điển. Dạo mới về, học trường cán bộ trung đội, hầu hết đám trẻ chúng tôi đều gớm ông thủ trưởng hay bẻ ngược vặn xuôi này, dần dà mới quý anh hơn hết. Ở đấy còn có anh Dần hiền như ông Phật, hay nói “Thôi để anh em tự giác”, chúng tôi mến nhưng biết anh dễ làm chúng tôi hư. Đối với anh Luyến, sau vài tuần chúng tôi đã phê thật tình là quan liêu. Anh chỉ biết chúng tôi qua bản sơ yếu lí lịch, theo dõi chúng tôi trong các cuộc hội báo. Mỗi khi đến làm thân với học viên thì tay anh vỗ vai, miệng anh hỏi: “Khoẻ không?” nhưng mắt đã nhìn đi nơi khác và chân dợm bước đi. Đến cuối khoá, mỗi anh sửa tật cũ đi một phần, nhưng mỗi người rời trường đều biết rằng vốn liếng mang theo là do anh Điển bù trì cho phần lớn. Lần này làm việc với anh, tôi có cái thú của người học trò nắm vững bài gặp ông thầy ham truy. Anh vẫn hà tiện lời khen, nhưng qua những lá thư dặn dò, tôi đọc thấy niềm tự hào mà anh cố giấu.
Tôi viết và vẽ đến trưa, ngoáy thêm một lá thư gửi xê mình nữa. Ba Tơ vừa viết cho tôi, ấy là sự lạ, quanh năm anh chẳng viết thư. Anh nói bóng rằng xê mình đang ăn tập ở vùng bờ biển Đức Phổ, rất nhớ thầy Thiêm. Đọc những dòng chữ to kềnh càng và đầy lỗi chính tả, tôi bồi hồi mất một lúc, trách mình bạc bẽo với anh em. Hàng trăm lần tôi đã ân hận vì có mới nới cũ như vậy, rốt cuộc tôi vẫn hùng hục lao vào cái mới mà ít có thì giờ nghĩ đến cái cũ.
Ba Tâm đợi mang báo cáo về H.68, đang ngáy đẫy trên tấm võng gai mà Mẫn hay nằm. Căn lều rỗng nay có cái chõng tre mới: một chị ghé vào thăm cháu Hoàn hôm qua đã đùng đùng về vác cái chõng của chồng vừa đóng, đến ép Mẫn phải nhận. “Không gì mày cũng là cán bộ xã, khách tứ xứ đến nhà mày phải rút dép lót đít ngồi, xấu cả mặt bà con!”. Tôi lay Ba Tâm. Chú bật dậy, dụi mắt, rút cuốn sổ giao công văn, ghi ngày giờ và bắt tôi ký đàng hoàng, xong xốc bao đi ngay. Chú đoán Mỹ sắp càn, tính đi nhanh về gấp để khỏi hụt một chầu đánh Mỹ.
Cái dáng lòng khòng của Tâm vừa khuất sau rào, Mẫn và Hoà đã bước vào đầu ngõ, mỗi cô gánh hai trái mít già xóc vào khúc cây nhọn hai đầu. Chị em cười với nhau khúc khích. Thấy tôi đứng đợi trên thềm – cái nền nhà cũ rộng gấp đôi căn lều dựng lại - Mẫn tạnh cười ngay. Sao mà mặt lạnh với nhau quá vậy? Tôi khó chịu, bước xuống sân, định về, lại dừng. Anh Luân và mẹ Sáu đều nhờ tôi trông chừng Mẫn. Một tiếng nói nào đó bên trong cũng thầm thì nhắc rằng Mẫn tránh tôi nhưng rất cần tôi đến giữa đám tang mới này.
Làng Cá nhiều vườn mít. Giờ nghỉ trưa tránh cái nắng cháy lưng, các bà các chị hay vác sào liêm đi dạo vườn, dỗ con trai hay em trai đi theo. Cái ná cao su của nó bắn bậy bị la hoài, bây giờ lại được việc: bắn thử những trái mít trên cao, “bịch” là chín, “cốc” là già, chỉ cần đưa sào liêm lên ngoặc đứt cuống. Bà con ít để mít chín. Trái vừa già đã lấy về lột lấy múi phơi khô, hột mít luộc chẻ đôi cũng phơi khô, để dành cả bồ ghế cơm suốt năm, ngon hơn khoai sắn. Còn lại sơ mít đem xào hay nấu canh, lớp vỏ ngoài băm nấu cho heo, không bỏ chút gì. Tôi ở Bình Định ưa khoe cây dừa, anh Ba Tơ ca ngợi cây mía Quảng Ngãi, còn anh Luân cả quyết cây mít phải được xếp hàng đầu. “Lão coi đó, gỗ thiệt tốt nè, trái ăn chín được mà trừ cơm cũng được nè, khỏi chăm bón rào giậu gì hết, heo rừng đi bầy cũng đứng dưới ngó lên thôi. Cây là cây chiến lược đó lão!” Tôi thấy anh có lý.
Út Hoà ngả cái nia lót lá chuối, giơ cao con dao chuối rộng bản, chém xuống trái mít. Cắc! Hoà kêu một tiếng, rút vội con dao, lưỡi dao mỏng bị mẻ một miếng to. Hoà lăn trái mít cắt tròn nhè nhẹ, lấy ra một mảnh pháo bằng hai đốt ngón tay nằm lún khá sâu. Thứ đó khắp xóm rờ đâu cũng đụng, găm trên cột kèo, rạch bàn, đục cửa, nhưng cái mảnh này chưa bị gỉ, những cạnh sắc còn nổi vệt khói sạm và vân xanh lấp lánh. Mẫn đang quạt bỗng ngừng tay, đăm đăm nhìn khúc sắt lởm chởm, mặt sầm lại. Tôi nhặt nó, nhét luôn vào lỗ chuột bên chân cột, nói vui:
-Trúng trái mít chín chắc anh mẻ răng Út ơi, ăn tham quá mà. Sao không kiếm ít múi ngọt về mời khách?
Út Hoà chỉ ngón tay qua vai, cười:
-Khách khứa gì anh... Chỗ giáp rào có trái chín, đâu trên cao, em thấy thơm lắm mà dơi bay hoài. Anh Ba bỏ quên cái ná kia, anh bắn thử cho chị Hai hái. Cây đó mít mật ngon nhứt, để chín ăn chơi chứ không xắt khô.
Tôi bắn ná cao su tồi, thử trái này, trúng trái khác, có viên trúng cây bật lại suýt vào đầu. Rồi cũng tìm được trái chín. Đến lúc ấy Mẫn mới lặng lẽ vác xào ra vườn, giật trái mít rơi xuống, nó nẻ đôi và bốc thơm lựng. Tôi bước tới định bưng, thấy Mẫn đứng sững, nhìn xuống.
Tôi ngó theo, lạnh người.
Nằm nghiêng trên búi cỏ là một vật gì như mảng gáo dừa bằng ba ngón tay, có nhiều sợi tơ đen và mịn, trong lòng còn dính cơm dừa nạo không hết, màu trắng lẫn nâu. Mảng sọ của cháu Hoàn. Chúng tôi tìm mãi không thấy, thì ra nó văng lên cây, vừa rơi xuống.
Mẫn cứ đứng mãi thế, cổ rướn tới, mắt mở to dần đến tròn xoe trên da mặt bết máu, ngực hổn hển hơi cúi, tay phải đưa dần ra sau, quờ quờ tìm cái gì đấy không đụng. Mẫn nhếch mép mấy lần như muốn cười, như cố nén cười. Tôi bứt vội cái lá ráy gần nhất, úp che miếng xương. Một tiếng rú bật lên. Không phải tiếng người, họng người không rú được thế. Mẫn chạy vào nhà, vồ cây cạc-bin trên chõng, lên đạn, nhào ra ngõ. Tôi phóng qua vườn đón đầu, tới cổng vừa kịp túm cánh tay Mẫn, giữ lại. Mẫn mất đà lạng người, ngã quỵ một chân chồm lên, co tay thúc báng súng vào ngực tôi. Tôi né lùi được một ít, vẫn tức điếng. Mẫn hộc trong cổ: “Buông!” Lơ mơ là ăn đạn. Phải làm dữ. Tôi xuống tấn, tay trái chụp nòng súng đẩy lên trời, tay phải nắm cổ Mẫn xô rất mạnh ra sau, tay trái đấm móc quai hàm. Mẫn ngã nghiêng xuống đường, mất súng.
Tôi trừng mắt nhìn Mẫn, rít qua kẽ răng:
-Vô nhà lập tức! Mau!
Út Hoà sụt sịt dìu chị vào. May sao không ai qua ngõ trong phút đánh vật. Mẫn bước nặng nhọc, mắt dài dại nhìn quanh, hai tay níu đuôi tóc thả trước ngực như tự nắm tóc giữ mình lại.
Thấy tôi cầm cạc-bin rẽ sang nhà mẹ Sáu, Út Hoà chạy theo mếu máo:
-Em lạy anh, ở với chị Hai một lát, em hết hồn hết vía đây nè. Để đó em chôn, em sợ chị hơn…
Cũng phải. Tôi bảo Út Hoà xin mẹ Sáu cái vịm nhỏ bằng sành, đào đất chôn mảnh sọ cạnh bên mả ngay đi, rồi vào với Mẫn. Mẫn ngồi trên võng, thở dốc. Đôi mắt đờ đẫn ngước lên, vụt sáng, quá sáng nữa, tôi đọc thấy một nỗi mừng lớn pha nhiều sợ hãi. Võng của Mẫn treo thấp tránh pháo đêm. Tôi đặt cái đòn gỗ trên trái mít, ngồi xuống bên Mẫn. Mặt Mẫn dần dần hồng lại.
- Em…
Tiếng gọi dịu dàng bật ra tuy tôi không muốn. Một keo cự tuyệt, một tuần lẩn mặt đã quá đủ rồi. Chao ôi, sao tôi không được chia cơn đau này với Mẫn như người yêu an ủi nhau…Mẫn nhìn xuống chân, lại nhìn tôi, ánh mắt khắc khoải.
-Tối nay anh xuống ở chỗ chị Tám… xóm chị S.22…lâu lâu anh mới lên trên này một lần. Em hiểu không?
-Dạ.
Mẫn cúi đầu, gật nhanh, tỏ vẻ mình rất tỉnh và biết lỗi.
- Anh lo cho em lắm. Anh… anh thương em lắm. Đừng làm như hồi nãy, anh buồn. Em thôi luôn nghen? Em ừ đi cho anh yên bụng.
- Dạ, dạ…em thôi…
Mẫn úp mặt trên đầu gối, bắt đầu nấc nhẹ, rồi khóc rung người, nức nở. Khối đau sưng tấy đã vỡ. Tôi ra sân đón mẹ Sáu với bà con trong xóm đến thăm, khuyên để Mẫn khóc một lát. Khi tôi quay vào, Mẫn đã nằm ngủ thiếp trên võng, tóc rủ chạm đất, ép một bên má trong lòng bàn tay kê, đôi mày dãn ra cong đều trên mí mắt dày đỏ, nét mặt hiền như em gái nhỏ được mẹ quạt cho ngủ. Tôi xem lại cây cạc-bin, chợt thấy thương quá: Mẫn còn nhớ khoá chốt an toàn trong khi tôi đuổi theo giật súng. Thế nhưng lát nữa thức dậy, Mẫn sẽ ngoảnh mặt nơi khác, kiếm cớ mời tôi về nhà mẹ Sáu. Không đợi Mẫn xua, tôi giao súng cho Út Hoà, ra về ngay, cồn cào yêu và giận đến nghẹn thở.
Chú thích:
(1) Dong riềng
Chương 17
Bà “dì” đánh tiếng thật to:
- Con Tám lên vá lưới coi nhà, dì ra bến đây. Cha, ngó đi ngó lại xế mất, khoai củ chưa ra sao hết, động trời là treo niêu đó cháu.
Vẫn ngồi đun bếp, chị Tám Giàu nói với lên:
- Mấy giờ mà dì đi đón cá?
- Hai giờ kém.
Tôi nín cười, bứt một mẩu lá dừa nước trên mái thả rơi xuống phản, báo rằng tôi vẫn còn thức, không cần gọi. Bà dì S.26 cười nhỏ, quảy đôi quang gánh lên vai, len giữa những nong khoai xắt phơi trắng lốp như bạc đầm xoè, ra ngõ.
Chị Tám đóng vai cháu về thăm dì rất ngon. Chị đàng hoàng ngồi lên đầu chõng, thay dì vá tấm lưới cước treo túm lưng cột. Áo ni-lông hồng mỏng thấy rõ cái coóc-xê viền rua bên trong, quần lụa ba biên ống chật, dây chuyền vàng tây có mặt chữ vạn đeo cổ, dầu thơm láng tóc và nước hoa rẻ tiền thoang thoảng, trông chị rất giống một cô thợ may hay chị hàng xén ở chợ quận, quen chưng diện để làm đỏm, câu khách và quảng cáo hàng, mặt nào cũng lợi. Hôm nào vắng đại đội biệt kích quân có mấy đứa quen mặt, chị theo dì ra bến đợi ghe cá của “dượng” về, coi tàu Mỹ cập bến quân sự dưới kia, đếm xe pháo, mau Ru-by mời mấy thằng sĩ quan hải thuyền hút, lài rài hỏi đủ thứ chuyện.
Chị Tám thoải mái bao nhiêu, tôi cực bấy nhiêu. Kiếp trâu trắng mà. Tôi nằm trên lớp giàn ván kê sát mái, suốt ngày mồ hôi đầm đầm ướt chiếu, phẩy cái quạt mo cũng phải rất nhẹ tay. Ngủ cấm ngáy. Đái vào ống sữa bột Ghi-gô, cấm ra tiếng. Ho, khịt mũi, hắt hơi, cựa mình, cấm hết. Bị nhốt cả ngày trên cái chuồng chim này, tôi tự an ủi rằng dù sao cũng dễ chịu hơn nằm dưới hầm chim, nhất là được việc hơn nhiều: không trông thấy bến, nhưng tôi có thể xem rất rõ con đường ô tô chạy vào sân bay và cả khu Bắc của căn cứ Chu Lai.
Mỗi ngày hai lượt, chị Tám đóng cửa nhà trên cho tôi ngồi dậy ăn cơm, nhưng hễ chạm chén đũa một cái là tôi lại nghe kêu: “Mèo lục tra cá hay sao á!”. Chị rất thạo đặt tên cho mỗi kiểu khua ồn vô ý của tôi để phân bua với những ai tình cờ nghe lọt. Tùy theo tiếng động, tôi biến thành con mèo, con chuột, con chồn bắt gà, con gà mắc đẻ tìm ổ không ra, đủ thứ. Đôi lần tôi được coi gần bằng con người: làm rớt chén là con nít láu táu, hu sù sụ thì đúng là con bệnh cảm gió chẳng sai. Chỉ khi đêm đến, tôi lập cập “xuống thang” bằng cặp chân tê, vặn người, đấm đá một hồi cho dãn gân, mới được phục hồi là anh Tư nghe rất mát tai.
Tôi ghi sổ tay những gì lượm được về lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Tôi góp nhặt đủ thứ như một con ác là táy máy, nắm sấp trên cao này cũng hệt như mọt con ác là trên tổ. Khi tay và vai trái đỡ ngực đã mỏi, tôi lật ngửa ra đọc báo, ngủ chập chờn, mở mắt và lại đếm đòn tay. Những đòn tay tre đón ánh sáng từ dưới hắt lên qua kẽ hở giữa mái và vách đất, hiện ra trên xám dưới trắng. Má tôi hay rầy con: “Ăn no, nằm đếm đòn tay cho tiêu cơm hả Thiêm?”, hẳn khó đoán hôm nay con má đang chơi lại cái trò ấy giữa rốn quân Mỹ.
Đài quan sát của tôi cũng lắm khách ra dáng. Mấy chú chuột quen đường chạy xộc tới đụng tôi, hoảng hồn nẩy ngược lại, chít một tiếng, có con chùm bốn chân rớt xuống đất. Đến thăm ung dung nhất chỉ có cô rắn rồng. Đang đọc báo, duỗi tay sang bên, chạm phải một khúc gì mềm và lạnh, tôi giật mình không kém lũ chuột khi húc người. Có lúc cô ta nhô cao đầu bên hông tôi, giương cặp mắt tò mò ngắm tôi rất kỹ, tôi nghển cổ nhìn lại thì cô lảng, trườn xa. Má tôi dặn gặp rắn rồng đừng ngó lâu, nó mắc cỡ trốn mất, để nó săn chuột cho mình, ổ chuột trong đáy ống tre thì mèo thua mà rắn bắt được hết. Cô này cũng mắc cỡ nhưng không lâu. Chợp đi một lát, mở mắt, tôi lại thấy một khúc ruột chuối trắng lốp vắt chéo giữa hai đòn tay, cách mặt tôi chừng vài gang. Hẵng cứ tạm vơ vào, coi như cô Bạch xà nương này muốn kết thân với tôi đi, nhưng có thể cô đòi chỗ ở bị tôi chiếm, hay coi tôi là một con chuột to, biết đâu. Môn xem tướng của tôi bị trượt một keo nặng rồi, hết thiêng. Tưởng đã hiểu Mẫn đến tim đen tim đỏ, độp một cái, tôi bị cô em lót lá dắt tay mời ra cửa rất êm, từ nay tôi chỉ dám tự tin khi đoán tính nết thằng Mỹ. Tôi cố tránh nghĩ đến Mẫn. Vai trò anh con trai bị đá không có gì hấp dẫn.
Tiếng xe từ cảng lên bắt đầu rền to. Tôi chống tay ngồi dậy thật êm, nhưng giàn ván vẫn nghiến kin kít, chị Tám ở dưới vội than phiền nhà bị mọt ăn nát hết, chưa gió đã lung lay. Giá chị có phép gì cho tôi nhỏ bằng con mọt để nằm trên bàn tổng Giôn… Tôi vạch tấm lá dừa nước, nhìn qua khoảng trống dưới đầu mái có cái tên lạ là “khu đĩ”.
Một đoàn xe Mỹ vừa đổ bộ đang chạy trên con đường lớn rải đá, ngoài rào ấp chiến lược. Những đống sắt lắm hình kỳ quặc, mấu cần gai dây chằng chịt đầy mình, rù rù rột rột rảng rảng, diễu qua mãi đến sốt ruột. Cao nhất là xe cần trục rướn cái cổ cò tới trước, kềnh càng như toa xe lửa là xe trộn bê tông với những cái tĩnh sắt to bằng bồ lúa. Lô-cốt dã chiến đúc sẵn nằm chè bè trên những xe mười bánh. Đợt này toàn xe công binh, có lẽ là tụi Ong biển(1) vào mở rộng sân bay và xây thêm công sự. Đám lính được xơ múi gì không chưa rõ, nhưng các ngài sĩ quan thì phải ở nhà hầm bằng “chất cứng”, đủ điện, nước, máy điều hoà không khí, mới có sức mà đánh nhau được chứ.
Hết xe lớn. Đến sáu chiếc xe vịt(2) đắp một lớp bụi rất dày ở phần dưới thân, chắc ướt vì từ tàu biển bơi thẳng vào, đầy những nửa mặt đỏ lừ dưới mũ sắt. Hai xe bọc sắt khoá hậu. Tất cả bám nhau cà rịch cà tang, kéo một đuôi bụi xù dài như đuôi chồn, chạy về phía sân bay trong xa kia, nơi có cái ống gió bập bềnh trên trụ cao như vỏ sâu kèn rỗng còn mắc sợi tơ treo vào cành. Cái ổ Mỹ nhung nhúc trong ấy đang phình lên rất nhanh.
Những mảng mặt trời loé trắng trên thép xanh lá đã biến hết, tiếng xe tắt, chỉ còn cặp tàu rà đảo mãi như chuồn chuồn bị buộc chỉ sau đuôi. Tôi đếm các cụm lều vây bao cát của quân gác đường, xem lại các đỉnh đồi gần xa đã thuộc nét, thoáng nổi cáu. Mẹ cha nó, giữ đường như giữ mả tổ, nổ mìn trên quãng này không dễ. Thôi được, ngày khó đánh đã có đêm, quả đất còn xoay là Vi-xi còn đem bánh tét bánh hộc(3) vào tăng Mỹ.
Tôi với chồng báo Sài gòn gối đầu, định đọc tiếp các bài về “quân đội đồng minh”, bỗng nghe tiếng đàn bà chửi ré lên, rất tục, tiếp giọng đàn ông lè nhè. Lại lính nốc say quịt tiền. Tôi buông tờ báo, ghé mắt vào kẽ lá, xem một lần nữa cái cảnh đã quen thấy nhiều lần trong năm nhưng chối mắt. Đằng cuối xóm có bốn cái nhà lá phải trông chừng, ở đấy có năm sáu ả là vợ lính kiêm gái đĩ kiêm chỉ điểm kiêm chủ quán, một hạng người bám tụi ngụy kiếm sống như hàu bám ghe biển, nay đang tập uốn lưỡi nói tiếng oeo được coi như văn minh hơn tiếng ô-kê. Chị S.22 đã nắm một người trong số đó, lấy hộ chúng tôi được nhiều tin quí. Lúc này, hai ả đang co kéo một trung sĩ ngụy say mèm, lột xong cái đồng hồ mới thả cho hắn đi. Các bà gánh cá trông thấy hắn từ xa đã tạt vào trong ngõ, né tên cướp ngày. Rồi con đường chật men rào ấp lại vắng tanh.
Cái ấp chiến lược sát cửa sông này còn nguyên, một của hiếm trong năm 65. Nó là một kiểu làng nửa giả nửa thật, như bộ mặt người soi xuống nước xao. Cũng còn sót những rặng dương nhỏ ven con đường đắp đất thịt đè trên cát, năm ba cây dừa cây bàng che bóng trên miếu gạch cũ, một cái cầu gỗ cong lưng chở nhiều nỗi nhớ, nó chưa mất hết. Nhưng nó không phải làng quê ta nữa. Nhiều lớp rào lông nhím và kẽm gai bao kín nó cả ngoài lẫn trong, khoanh riêng từng cụm nhà, cắt nghiến những lối vắng hẹn hò, đi tới đâu cũng mắc những tuyến một, tuyến hai, điểm tựa, bốt gác, chòi canh. Một cơn động đất nào đã để lại trên mình nó không biết bao nhiêu đường nứt nẻ được gọi là chiến hào, thông hào, mương chông. Mấy khoảng đất còn lại biến thành bãi nấm với vô số lều tôn lều rạ xô đẩy nhau chiếm chỗ. Nhà chẳng ra nhà, không nền, không sân, không ngõ, chỉ khác lều chợ ở chỗ có phên che qua loa. Chó từ cửa này đái vót tới hè kia, người ngồi ỉa trước mắt nhau, cả nhà cùng tắm một thùng nước giếng vừa giành được bằng trận đòn gánh, trẻ con giãy nảy không ăn được thứ gạo xám và nhão nhoẹt của Mỹ phát mà bọn tề gọi là gạo lúa miêu… Không phải làng quê nữa đâu, những Côn Đảo thu nhỏ có đủ chúa ngục với cạp rằng cưỡi trên lưng mấy ngàn dân bị tù không án. Sau ngày Diệm đổ, cái làng dị hình dị tướng này được đổi gọi là “ấp tân sanh”, và sự mỉa mai được nhân đôi. Bà con vùng này tởm đến mức không chịu gọi làng là ấp nữa, làng của ta, ấp của giặc, như huyện với quận đấy thôi.
Kể cũng buồn cười, chính cái ấp này đã buộc chị S.22 phải phá cữ, vất lá xanh(4) cho chị Tám với tôi vào ở, tuy chúng tôi chưa có dịp trổ tài chịu đòn cho chị xem. Sau khi xin lỗi đã ngờ chúng tôi, chị gạ ngay: “Hễ các anh nổ to, ở đây tôi cho cháy lớn, ừ nghen?”. Còn phải nói!
Dì S.26 gánh cá về, thì thào với chị Tám một lát. Chị gài cửa, bắc ghế lên trên phản, nhô đầu lên giàn ván:
- Mỹ nó chào cách sao quên rồi, anh?
- À… cứ hê-lô cho gọn.
- Chiều nay, Mỹ bắt đầu tuần đường. Không chừng vô ấp nữa. Đám biệt kích quân bị đẩy lên trên đường Một hết rồi, tụi nó sợ lưng tim lưng mật, vợ con ở nhà cúng vái lu bù.
- Vậy chị thơ rồi, tôi còi miết!
Chị toét miệng cười, rất trẻ, bước xuống dẹp ghế. Tôi đã tập mô tê răng rứa chừ theo xứ Quảng, đang bắt chước những tiếng hay hay, thơ là dễ chịu, còi là khổ cực chẳng hạn. Út Hoà nghe tôi nói cứ cười rũ, gọi réo: “Anh Tư Bình ịnh, thấy ịch ở âu không”.
Tôi rút cây súng ngắn P.38 đã lên đạn khoá cò ra khỏi bao, nhét trần nó vào thắt lưng, ép trên bụng, nằm ngửa đọc báo, thỉnh thoảng liếc qua kẽ lá xem con đường. Nếu một thằng Mỹ ló cổ lên đây, nó sẽ lộn đầu chết ngay. Lập tức chị Tám tung lựu đạn vào bọn ở dưới, ngoài ngõ cũng nổ, cơ sở trong ấp đã xếp đường sẵn cho chúng tôi chạy đến chỗ núp, đợi tối, bà dì S.26 sẽ thoát theo 2 chúng tôi, bỏ nhà đi cho chúng nó đốt. Chị S.22 sắp xếp đã cao tay lắm... Tôi lật báo rất êm. Cả quân đội Mỹ mắc cái bệnh dịch quảng cáo của xã hội Hoa-kỳ. Này là súng cầm tay bắn đạn nguyên tử nhỏ xíu, mỗi phát diệt một trung đoàn địch. Này là kính đeo ban đêm thấy sáng như ban ngày, là ra-đa xách tay phân biệt được đàn ông với đàn bà đi cách ba cây số. Nói láo không sách. À, vô số những rao vặt Help wanted(5) bằng tiếng Anh, chúng mộ thông dịch viên, đả tự viên(6), chiêu đãi viên, tất cả đều phải biết tiếng Anh. Kèm theo đấy là một bài thơ mỉa đời cay cú:
Xếp chữ ta vào, học chữ Anh
Theo thời, thôi cốt kiếm tiền nhanh...
Bếp bồi Tây với thông dịch Mỹ đều sướng hơn anh ký còm, và anh thở dài đánh sượt khi đầu hàng đồng đô-la:
Khẳng khái còn đâu đến thứ mình!
Có tiếng lộp bộp dưới bếp. Cửa hông bị xô mạnh. Nhiều chân đi giày đinh bước lên nhà trên. Tôi rút súng, nhè nhẹ nghiêng đầu, mặt thoáng ngứa muốn gãi.
- Hê-lô!
- Hê-lô!
Tiếng đàn ông khê nồng đáp lời chào của chị Tám. Mỹ đến nhà. Nó đi đường nào mà chui phía chuồng heo? Hai đứa, ba đứa. Tôi không dòm xuống được, chỉ nghe. Một thằng hỏi ồm ồm những câu ngắn: biết tiếng Anh không, những người đàn ông đi đâu, thấy Vi-xi không. Tên này có cái giọng đãi dài của miền Nam nước Mỹ, biết kiểu nói cho người ít biết tiếng Anh dễ hiểu. Đã từng ở Ô-ki-na-oa? Nghĩa là thuộc sư Một lính thuỷ đánh bộ?
Chị Tám cười rất tỉnh, trả lời gọn:
- Nô in-lít! Nô!... Nô Vi-xi!(7)
Chúng không soát nhà, lại hê-lô, bỏ đi lộc ngộc. Vào ấp chiến lược có gì mà lùng. Gót giày nện trên sân gạch nhà bên cạnh. Tiếng chó sủa lan rần rần khắp xóm. Đông quân lắm.
Tôi lại rón tay vạch lá dừa nhìn xuống. Chúng đi như kéo quân dọc con đường ven rào ấp, lấp ló sau các bụi cây, mái lều, như một đám mây châu chấu vừa chụp xuống vạt đậu. Hai tên đứng bác bên cổng, cách đầu nhà mươi thước. Mắt tôi quay phim rất gấp, óc tôi ghi vội. Áo giáp giống áo trấn thủ không tay, cộm lên những ngấn như vảy cá dưới vải. Áo quần lụng thụng rộng hơn nguỵ, à, nhớ cái này để nhận ra Mỹ từ xa, khi Mỹ với nguỵ không đi chung với nhau như cha bên con, hơn kém nhau hẳn một cái đầu như dạo trước. Mũ sắt bọc thêm lớp vải nguỵ trang mỏng, bớt bóng. Súng Ga-ran M.2 cả. Ba-lô vuông trên lưng, có tấm pông-sô quấn tròn, xẻng nhô cán. Hai bình nước móc vào thắt lưng. Gì nữa? Mỗi đứa hai trái hình trụ sơn đen, lựu đạn khói hay lửa, chắc để sẵn sàng đốt nhà khi có lệnh chứ đánh nhau mấy khi dùng của ấy. Gác khá kỹ nhưng dáng sợ sệt. Mặt trẻ, da trắng chưa bắt nắng mấy, hẳn là lính mới bóc tem…
Chúng nó rút ra khỏi ấp, súng cứ cầm ngang, lưng khom một cách máy móc đến buồn cười, đi trong mấy lớp rào mà lấc láo như lội rừng. Tụi này chưa nếm đạn, chưa có cái vẻ vừa uể oải vừa ngổ ngáo của lính nhà nghề đạn lửa. Chắc đã nghe đồn những chuyện đứng tim động trời về Vic-tơ Sác-li(8), nên mặt đứa nào cũng căng như dây đàn.
Mười lăm phút sau, tôi xem đại đội Mỹ đi tuần tiếp dọc đường ô-tô. Vẫn lối hành quân chiến đấu rất mệt người, lội cát hai bên bãi chứ không bước trên nền đường, cự ly ba thước khá đều. Chỉ có một nhóm hai lính da đen đi trước xa, quơ quơ cái cần rà mìn, đeo bộ đàm nhô cây cần ăng-ten mềm, ngúc ngoắc như cái roi cày ghép bằng xương rắn. Thí da đen, chứ không thí da trắng…
Chị Tám lại nhô lên, mặt hơi tái, nói dồn:
- Hồi nó rúc cửa sau xộc lên cả bầy, tôi cuống, thấy lạ quá mà. Hê-lô một tiếng mới hết hoảng. Anh sợ không?
- Không.
- Ừ, giết nó miết mà sợ gì. Nó bỏ mấy cái kẹo chỗ phản kia.
Chị trụt xuống.
Thật tình tôi không có một chút xúc động nào hết, không sợ, không tức giận, bởi bận dồn sức vào xem, nghe và nhớ như cái máy, trong đầu chỉ tuôn tuôn những nhận xét rất nghề nghiệp. Chị Tám dễ cuống là phải. Xóm vắng quá, bà con bị bắt đi làm ấp chiến lược gần hết, nhà nào còn người phải lo kiếm cá, đón cá. Ngay giữa phố Đà Nẵng, tụi Mỹ không chỉ chia đồ hộp thừa ra rủ ô-kê xọp xọp(9), mà còn véo đùi lôi tay đàn bà đòi ô-kê bum bum(10), những tiếng lóng kỳ quặc hình như không có trong cuốn từ điển nào cả. Còn khi đi càn, nếu vắng bà con níu kéo la làng thì chúng vẩy nước hoa lên người các cô, hiếp luôn, chẳng nói gì hết.
*
Đi với nhau đã nhiều đêm trắng, đến nay chị Tám mới chuyện trò với tôi hơi lâu một chút. Cũng tại tôi, ham cái gì là lao vào quên cả trời đất, kéo chị đi ào ào từ ấp này qua ấp khác gặp từng cơ sở, cố nhặt không sót một nét về Mỹ, nhắc nắm thêm mặt này, mặt nọ. Có lần về đến nhà dì S.26 lúc gà gáy đầu, tôi mới nhớ rằng suốt đêm chị Tám phải nghe toàn những sự súng đạn bom mìn, không chen được một câu hỏi nào về đấu tranh chính trị hay binh vận. Tôi xin lỗi, chị cười:
- Anh là con vạc, tôi là con gà. Theo anh để học lỏm quân sự, chớ lính của tôi làm ăn ban ngày ban mặt kia.
Trở lên cái giàn ván, tôi ngủ bù được một ít, còn chị Tám phải lo đi bắt mối, dò tụi địch ở cảng, thay phiên với bà dì canh chừng cho tôi. Chị làm việc gấp đôi tôi. Nhưng, cũng như Mẫn dạo xưa, chị vẫn coi “thầy Thiêm” là trụ cột trong đợt đi chung này.
Đêm nay chúng tôi đợi gặp một lính hải thuyền, em ruột anh S.14. Tụi hải thuyền nguỵ hay bắn bậy chíu chíu dọc cửa sông vậy đó nhưng rất sợ thủ pháo thả vào khoang, đợi tối trời là len lén ghé vào một cồn đất giữa sông, nín hơi nằm ngủ, nửa đêm còn đổi chỗ lần nữa, đánh hơi có động thì dong tuốt ra cù lao ngoài biển. Chúng tôi phải đi sớm để vượt hai ấp vào đúng phiên gác của “người mình”, đến cửa sông ba tiếng trước giờ hẹn. Anh S.14 đón bờ nước, vợ anh gác mé sau, chị Tám và tôi ngồi đợi trong bãi sú.
Bấy nhiêu công khó cũng vì một mình tôi, chứ ba người cùng đi có thể gọi tay hải thuyền kia vào quán, cà rà ăn mì uống bia cả buổi mà đếm Mỹ. Nếu không ngại tụi ngụy bắt lính rất ẩu – chúng thấy ai trẻ trai là chụp như chụp ếch, đói quân số quá rồi – tôi sẽ mượn áo nin-phờ-răng quần téc-gan, tém tóc đít vịt, chừa râu mép kiểu tướng trẻ bầu bò, đập ngón tay trỏ bộp bộp trên điếu Ru-by, duỗi cái cẳng chân dài ra nhún nhún, lắc vai ngoáy đít mà đi công tác ban ngày cho khoẻ xác. Nhưng H.68 cấm ngặt tôi không được “đánh bạc với Giôn-xơn”, chịu vậy.
Thấy chị Tám ngáp, tôi bàn:
- Còn đợi lâu, chị ngủ tôi gác cho. Lát nữa thay.
- Thay tôi gác chị ngủ, ừ không?
Chị này coi bộ hiền mà đùa ngầm chẳng vừa. Không ở bộ đội nhưng rất thạo những tiếng lóng của con nhà lính, chắc chị tập để nói với chồng khi anh ấy về.
- Nè ông tướng, cổ con Hai Mẫn bữa nay còn bị trẹo đó. Ai kêu đằng sau, nó phải xoay cả người.
- Chết cha!
Tôi buột mồm kêu xong mới nóng bừng cả mặt.
Tối qua chị Tám lên Tam Sa. Sao Mẫn đi kể cái chuyện vớ vẩn ấy với chị? Miếng võ đoạt súng, tôi đã giảm nhẹ nhiều lắm mà!
- Giỡn chơi thôi. Thương nhau vặn chéo cổ nhau, quân sự có khác. Sắp tới đại hội chi bộ, cầm chắc con Mẫn vô chi uỷ, ông Luân đang dỗ nó nhận làm bí thư, ông xin rút lui chữa chứng tê thấp. Nói trối vái miết, kêu tánh nó khùng khùng hư việc hết, như hôm đó...
- Anh Luân nói sao?
- Ổng nói khùng mà chạy lui mới xấu, khùng xách súng chạy tới thì bà con được nhờ, đừng lo. Hễ nó không chịu...
Con chim đêm nổi kêu một hồi “kíu kíu” bên trái chúng tôi. Có người. Tôi đứng lên, căng mắt nhìn về phía những chấm đèn dầu dùi thủng vết đen dài của bờ bên kia. Tiếng róc rách đến gần. Thuyền cá ra biển. Thân thuyền chìm vào nền nước đen, tôi chỉ thấy phần trên cùng của lá buồm thiếu gió, một mảnh tam giác trắng mờ trôi lừ lừ giữa các chòm sao trong tiếng chèo nặng nhọc. Dạo này thuyền ra khơi lo chèo đi rất sớm, không đợi gió đất nổi, bởi phải ghé vào năm sáu trạm gác dọc sông cho địch xét giấy, soát khoang. Thuyền tới bến còn bị tàu tuần hay ho-bo(11) của Mỹ chặn hỏi, có khi trực thăng sà sà thả thang dây bắt chủ thuyền đem thẻ lên, cuốn buồm không kịp thì gió cánh quạt nhận chìm. Những ngọn măng sông treo cao trên các thuyền rờ, dăng dăng rất đẹp như điện phố, đã biến hết từ khi địch cấm đánh cá đêm. Mặt sông sẫm lại, chỉ còn đèn pha của tàu biển tàu sông quét ngang, của trực thăng rọi chéo xuống, hỗn như những ngón tay xỉa vào mặt người ta, từng lúc chen mấy trái đèn dù nhểu một thứ lửa trắng ma quái, biến da người sống thành da bềnh bệch cạn máu của xác chết.
Ngồi im một lát, chị Tám buông chậm rãi:
- Nói tình thiệt nghen… coi bộ anh ưng Hai Mẫn hả?
Dù chị không rào đón trước, tôi vẫn cảm thấy câu hỏi ấy ắt sẽ đến. Giấu mãi làm gì, phải nói thôi, dù chỉ một lời thú muộn màng cũng đủ nhẹ người. Tôi đáp trong hơi thở:
- Có.
Tôi đã mến nhiều bạn trai hay bạn gái gặp trên đường dài. Gặp rồi xa, nhớ nhau ít lâu rồi quên. Tất cả những mê say tôi dành cho Mẫn bấy lâu, tôi muốn buộc túm thành một gói, đem gửi vào kho kỷ niệm cho đỡ nặng ba-lô, sau này trà dư tửu hậu sẽ giở ra xem và cười mình hồi trẻ sao mà ngây thơ tệ. Tôi ép mình nghĩ đến Mẫn như một cái gì trôi qua đã lâu, cũ rồi, thích bùi ngùi một chút cũng được nhưng mọi xúc động đã phai hết. Tôi cố triết lý như ông cụ non vậy đó, và thấy dễ chịu hơn. Hòn than lửa vùi mãi dưới tro sẽ tàn.
- Nó cũng thương anh lắm. Thiệt tội.
Chị Tám nói trầm ngâm, tôi nghe như hơi xót xa thì phải. Tôi đợi tiếng “nhưng” rơi xuống, như leo ra mút cành khô và đợi tiếng gãy dưới chân không tránh khỏi.
- Sao anh chưa nói với nó?
Một búng hơi nóng thốc lên cổ. Tôi nuốt nó xuống. Nhắc đến Mẫn phải thờ ơ mới đúng chứ, người ta lạnh ngắt với tôi… Một búng nữa. Một nữa. Cái bình thuỷ ngoài mát trong sôi đã thổi bật nút, pưng một tiếng, bốc hơi cuồn cuộn. Thôi được, cứ kể hết một lần cho hả tức rồi sẽ nguội, nguội hẳn. Người ta còn giả bộ không biết, đợi tôi phải lạy lục nữa ư, đời nào! Người ta hiểu tôi chán chê mê mỏi rồi chị ơi, từ những ngày cứu lụt, dạo nổ súng che chở nhau trên gò hoang, tới cái đêm trăng không bao giờ quên. Không biết, thì việc gì lại xảy ra cuộc lánh né như chuột tránh mèo hiện nay, mà nghĩ kỹ tôi lại thấy là mèo vờn chuột? Nghĩa là gì? Mẫn không hề yêu tôi, dê-rô. Hay Mẫn nghĩ rằng càng thương càng phải rút vào cố thủ trong boong-ke, đứng trong ấy mà ú tim ú oà, thương kiểu đó thì anh em tôi xin kiếu. Hay Mẫn lỡ ưng tôi bây giờ hối lại, bắt đầu dò xem có ông nào cấp tỉnh hay ông trung đoàn nào chưa vợ?
Chị Tám nghe giọng Bình Định lấp gấp của tôi chắc chỉ lọt tai một phần, tới đấy bỗng cắt ngang, gắt:
- Đừng nghĩ bậy, oan nó. Không hiểu con gái mà cứ nghi như Tào Tháo!
Tôi mím môi ngậm cơn tức đang trào đầy miệng, đòi bật ra. Mấy chiếc thuyền nữa chèo qua, men bờ sông bên kia, chỉ thấy chấm đen bò chậm.
- Nó quý anh, phục anh, mà anh rẻ rúng nó vậy à? Coi nó tàn tệ vậy à? Nó chỉ nói với tôi một đời nó không dám ước gặp một người như anh. Hễ anh xách súng đi là nó kiếm cớ đi theo, có gì nó đưa ngực cản đạn cho anh. Nó năn nỉ tôi ngó chừng anh, đừng để anh xông xáo quá. Thuốc phòng sốt rét tôi đưa anh uống mấy bữa nay là nó gửi đó. Chao, con gái chưa nói một tiếng ưng mà thương trai quá chừng vậy, hèn gì anh... chưa chi mà đã...
Đến lượt chị Tám cố nén giận. Hình như tôi đã trao cả gánh giận sang vai chị cho nên người cứ nhẹ bẫng, ngây ngất. Chùm sao trên trời co lại, giãn ra, từ từ xoay tròn. Tôi nhắm mắt mỉm cười, đợi chị sạc thêm. Cứ nạt tôi một trận đã nư đi chị. Tôi ngu, tôi xấu nết, còn Mẫn của tôi tuyệt quá, tha lỗi cho anh nhé, nện cho anh một báng các-bin nữa đi.
Nhưng tại sao em tránh anh, tại sao?
- Thương anh đứt ruột giả đò ngó ngơ, tội nghiệp con Mẫn…
Tôi nghĩ theo như tiếng vang: tội nghiệp. Nhưng cái miệng tôi cứ buông xóc hông.
- Vậy mới kỳ cục!
- Kỳ, kỳ, anh cứ nói được phần anh thôi, chẳng cần biết nó rầu nó rối sao hết. Rốt cuộc, ông Mít cũng như ông Xoài… Mấy cô đoàn viên hay du kích mới lớn lên, tìm tới các anh nhờ bày vẽ cho làm công tác, lập tức các anh nay bỏ nhỏ, mai gởi thơ, cô nào sạch mắt một chút thì coi như tối tăm mặt mũi. Không trả lời là kiêu, nói “em chưa nghĩ tới” là điệu, từ chối phứt thì kêu cạn tàu ráo máng. Người ta mắc việc nước việc nhà ngập đầu lại còn phải lo dỗ ngọt, phân bua hoài, còn nơm nớp sợ các anh giận nữa.
- Tụi tôi đánh giặc cứ đánh, thương ai cứ thương có bận bịu gì đâu. Chị làm như…
- Thì biết các anh thương chớ sao! Có điều ba bảy cách thương lựa cách nào cho phải, để chị em kịp tiến bộ với chớ. Hồi muốn nói cho xiêu, các anh hẹn mấy năm cũng đợi. Lỡ ừ một tiếng thì đòi cưới liền tay, lần chần xin hoãn ít bữa đã thấy các anh nặng mặt, hờn lẫy, đòi cắt, búi!
- Chớ để lửng lơ con cá vàng làm gì?
- Đó, con Mẫn sợ anh cũng bấy nhiêu thôi!
Tôi cười xoà, bị “suỵt” một cái. Những con chim kíu kíu vẫn gác chung quanh.
- Hồi ở ngoài gò, anh tuyên bố cắn cưa là anh chưa ưng ai, tới khi ưng thì nay gật mai cưới, không dằng dai gì hết, đúng chưa?
Tôi ngẩn ra. Ờ mà có vậy thật.
Hôm ấy, giữa bữa cơm, đội du kích xúm bàn hăng về đường nhân duyên của một cậu đang vấp đau, tôi bốc đồng cũng phát luôn mấy cái ngôn. Rằng tôi ngại trói buộc nên chưa muốn rước một đấng vợ về thờ - điểm này chẳng sai mấy. Rằng đến khi tôi phải lòng cô nào thì nay gật mai cưới, dằng dai xin rút đơn ngay, đang bận đánh Mỹ không có thì giờ xếp hàng, cả hai miền nước ta những cặp đợi nhau đã đông lắm rồi, tôi không muốn góp thêm một cặp nữa - phần sau này tôi huyên hoang cho oai nhiều hơn, tỏ ra chí khí trượng phu không chịu luỵ đàn bà, để khuyên cậu kia đừng buồn khi bị “đổi gác”. Ai ngờ Mẫn nghe kỹ nhớ dai đến thế!
Cho dù tôi nghĩ sao nói vậy đúng trăm phần trăm chứ không vui miệng đấu hót, thì đó vẫn là những ý nghĩ trước khi yêu Mẫn. Khác xa lắm chứ. Hăm tám tuổi chưa gắn với ai, nhưng từng lúc tôi vẫn tưởng tới cô gái sẽ cùng tôi ăn đời ở kiếp, thích nghe những chuyện vui buồn của anh em đã có vợ con, đọc được cuốn sách nào hay thì cố nhớ vài nét về tâm lý phụ nữ, để rồi ngày càng thấy cái việc chung thân đại sự ấy sao nó “dại” quá mất, tốt hơn hết là hãy khoan! Lại còn một chỗ buồn cười nữa: hễ bắt gặp ở đâu một nét dễ thương, tôi hay đem ghép cho người yêu mai sau, buộc cô ấy phải có đủ tất cả những gì đẹp nhất quí nhất trên đời, giá tôi vẽ mẫu đặt com-măng cho xưởng nào đúc giùm cũng chưa chắc đã vừa ý! Mẫn đến, lẳng lặng bước vào đời tôi từ bao giờ chẳng hay, tôi chưng hửng nhận thấy cuộc tình duyên tưởng tượng của tôi từ mây khói lại tan ra mây khói. Tôi đâu có ngờ sẽ yêu một người như Mẫn, trong một thời buổi gay cấn như khi Mỹ đang đổ bộ, và gặp những vấp váp như vừa rồi. Mẫn đã đảo lộn tất cả, còn kể gì một câu nói yêng hùng thoảng qua…
Nhất ỳ nhì nín lặng. Không nghe tôi trả lời, chị Tám coi như tôi gật. Chị không gằn hắt nữa, mà dịu giọng như thương hại đám con trai hay vòi quấy nhưng cũng biết nghe lời dỗ ngọt:
- Chị em tôi quen, ai cũng lo chạy theo không kịp phong trào, rớt lại sau. Ngó lên lửa núi cháy lan, bạn ơi khoan đã lửa tàn sẽ hay. Năn nỉ vậy, các anh có nghe đâu, mà thôi nhau thì… thì không đủ sức. Rốt cuộc, mới mười chín đôi mươi các anh đã cưới gấp, ném cho người ta cái ba-lô mang sao được đó mang, đi biến, lâu lâu viết về nói là trời sinh voi trời sinh cỏ, em đừng lo. Cỏ nào chạy tới miệng voi? Anh thấy đó, chưa đẻ mang con trước bụng, đẻ mấy năm rồi cũng y nguyên đồ đạc sau lưng đeo con trước bụng, có gì thân mẹ che thân con. Cực hết chỗ nói đã đành, mà còn chịu thua em kém chị đứt đi mấy năm. Có phải miền Bắc đâu mà sẵn nhà giữ trẻ cho mẹ gửi con đi làm? Ba-lô đằng sau là việc nước, ba-lô đằng trước là việc nhà, cứ vậy mà đội bom đạn đi công tác, lâu lâu không có món gì gởi cho chồng thì lại nuốt cơm không xuống. Còn ông chồng nữa… ừ, ông chồng thiệt tới hay. Ông ra đi cứu nước thì giỏi bằng trời, xin phục ông sát đất, mà nghe ông tích chuyện nhà thì nhịn cười không thấu. Hay tin con biết đi ông mới về bồng thử, chà, thằng nhỏ nặng tay quá ta, mau lớn đánh Mỹ với ba nghe con. Coi bộ nó có em được rồi, người ta nói con một nó hay trái chứng!
Nghe cái giọng giỡn giỡn của chị, tôi không buồn cười mà thấy tim thắt lại. Ra vậy đó. Tôi mới nghĩ đến Mẫn như cô gái đáng mê nhất, quên biến rằng Mẫn sẽ phải làm bí thư chi bộ, đứng đầu mấy ngàn bà con chọi sức với Mỹ trên mảnh đất vành đai. Trong lúc này… Mẫn chưa thể làm vợ, làm mẹ. Mẫn yêu tôi mà vẫn thấy cái Chu Lai lù lù trước mặt. Tôi không tỉnh được thế. Tôi say Mẫn nhưng chưa thật hiểu và thương Mẫn. Khi bị lảng, tôi chỉ đoán Mẫn đo nước mắm, ngắm dưa hành trong tình cảm, chẳng nghĩ rằng Mẫn chịu hi sinh vì những gì ngàn lần lớn hơn hạnh phúc riêng. Tôi còn vì tôi mà yêu Mẫn. Và Mẫn rất nhạy sắc đã cảm thấy điều ấy từ rất sớm. Mẫn bước lùi, nén mình, giả đò ngó ngơ…
Một đèn dù bật xa, những mảng sáng và tối chạy lừ lừ trên mặt chị Tám, từ cằm đến tóc. Mắt chị long lanh. Có lẽ chị nói với mình, rất nhẹ:
- Con gái bây giờ vậy đó. Các anh đổ xương máu đánh giặc, chịu cực trăm bề, không yêu các anh thì yêu ai nữa, chị em còn lo con trai đi hết, mình bị ế chồng, về già không được chút con, đủ thứ. Có điều trăm mối tơ xe vò một sợi, gì thì gì chị em cũng phải gánh việc nước cái đã. Thêm tay phụ với các anh dẹp cho hết Mỹ, kiếm chút độc lập cho bà già đỡ khổ, con nít đỡ chết, phần mình quá lứa nhỡ thì một chút có sao đâu. Bụng nghĩ vậy mà cứ sợ các anh chê thiếu tình cảm, khô, trông lên… Mẫn nó biết anh bực, nó bồn chồn hoài, hôm qua nó khóc với tôi: “Thôi, ảnh giận trước khỏi giận sau, em gần ảnh miết thì… chắc ảnh biểu sao em làm vậy, em thương ảnh quá rồi. Làm sao bây giờ chị ơi. Ảnh nói vậy đó, mà không nói em cũng biết tánh ảnh, làm gì cũng ào ào tới tới, tận bờ sát góc. Hễ em… em chưa chịu cưới, ảnh lại giận nữa. Mỹ tới sát bên hông, chú Luân cứ sưng khớp hoài, chi uỷ hết người, em vướng chồng con bỏ việc cho ai…” Tôi hỏi: “Vậy em cắt nghiến hết à?”. Nó hoảng, nói: “Không, không, cắt sao nổi, đợi ảnh đi rồi em viết thơ xin lỗi, rồi em ở vậy đợi miết. Vài ba năm, sáu bảy năm, tới hồi thơ thới một chút, hễ ảnh không chê em nghèo em dốt thì em lấy ảnh, hễ nửa chừng ảnh ưng người khác cũng quyền ảnh tự do, chẳng ngại gì hết. Ảnh gan lắm, khí khái lắm chị à, hẹn một câu thì sống chết không đổi không dời. Em chẳng muốn ảnh hứa đâu chị, lỡ sau này em què cụt hay hết đường con cái, làm khổ ảnh cả đời…”
Tôi không nhịn được nữa, bật kêu:
- Tầm bậy! Một mình Mẫn biết nghĩ thôi à? Tôi là cục đất à?
- Ai muốn mua thêm đường mà đi cho mệt, trăm tội trút trên đầu thằng Mỹ chớ trút đâu. Anh tính với nó sao thì tính tuỳ lòng. Chuyện này bàn góp khó lắm. Thuyền chài lơ lửng, tới thuyền câu cũng lơ lửng giữa dòng...
Nãy giờ tôi quên mất chị Tám Giàu, chỉ nhớ đang nói chuyện với một cán bộ đứng tuổi. Mười một năm, hai lá thư, một tấm ảnh nhỏ bị hoen dọc đường, tôi mới biết có vậy.
Sau một lát, tôi hỏi khẽ:
- Chị mấy cháu rồi?
- Nó đánh quá... truỵ thai.
Một chiếc thuyền khác xuôi gần bờ bên này, chim đánh rộn. Chúng tôi lặng im nhìn mảnh buồm trôi trên trời, tắt và bật từng chấm sao. Rồi lặng im mãi đến khi anh S.14 kêu ba tiếng cú báo hiệu, dắt lên một người mặc quần đùi ướt sũng: cậu em đã lặn và bơi gần hai cây số dưới đèn pha pháo sáng để đến với chúng tôi, sau đó sẽ bơi trở về chỗ cồn cát neo bầy hải thuyền, bò vào chỗ ngủ.
*
Út Liềm đạp xe xuống gặp chị Tám trong ấp, đưa mấy tin mới. Nguỵ càn vào Nhơn Phước, khi băng đồng qua Nhơn Ái bị ta xả súng bắn giữa bãi chông, mang về non hai chục khiêng. Trận này Năm Ri cầm quân. Đợt tám xã nhập thị vừa rồi cũng khá, chỉ một cánh bị chặn còn vô được hết. Mẫn xuống Nhị Lộc thay Năm Tuất, chỉ huy phá dứt điểm hai ấp vùng cát, nâng mức làm chủ mỗi ngày lên từ ba giờ chiều đến chín giờ sáng, tiến tới giáp vòng cái mặt đồng hồ. Mẫn nhờ chị Tám cho người đi đêm lên Lộc Chánh lấy cái ống dòm của H.68 gửi cho anh Thiêm, chứ Út Liềm mang xuống dễ bị soát. Vòng vo gớm chưa, cô em không nhắn tôi về lấy cho gọn! Lần này tôi chỉ buồn cười.
Đêm sau ngớt việc, chị Tám và tôi lên Lộc Chánh.
Lửa đốt rào ấp mấy năm trước bốc cao như dãy tháp bơm dầu bị cháy, từ biển khơi nhìn vào cũng thấy, nay chỉ còn phần phật ngang đầu người: tre và dương liễu trong các làng gần sạch rồi, chỉ còn cọc sắt với kẽm gai. Tụi nguỵ đóng ở đây bị Mỹ nống sau lưng, ta chặn trước mặt, thêm đất nổ dưới chân hoài, đêm đến kéo đi ngủ lang thang trên các gò cát vắng, mặt trời lên cao mới dám vào ấp. Thằng Chinh con hậm hực thúc đám dân vệ đi nhổ chông, xăm hầm, lần nào cũng trúng mìn gài, chúng co lại đợi máy rà mìn hay xe ủi đất. Quân của hắn thấm vào cát, vài ngày lại một tên biến mất. Ta chưa đủ sức đẩy địch ra ngoài hẳn, chỉ “thêm xôi bớt đậu” ở Nhị Lộc.
Tôi đợi chỗ hộp thư ngoài ấp. Cái bè cỏ gấu đã đưa Mẫn với tôi đi chơi trên biển cát ngập trăng, lao xao những ngấn sóng lưỡi búa, trong đêm tối trời này biến thành tấm thảm nhám dệt bằng xơ dừa. Tôi nằm ngửa xem sao, nhớ một truỵên cổ Bắc Âu, thấy mình đang dạo Ngân Hà trên tấm thảm bay... Pháo Chu Lai đánh thức tôi dậy. Gần thằng Mỹ, giấc mơ chỉ đếm bằng phút thôi.
Dứt đợt pháo hơn bốn chục trái bủa vòng quanh ấp, chị Tám dắt ra giao cho tôi một cô xã độ trưởng khiếp hồn như cáy vào hang cua, mất tinh thần chẳng phải vì địch. Mẫn ấp úng nói gì đấy, mở vội bao lưng lấy cái ống dòm đựng trong hộp da đưa cho tôi, khi quay lại chị Tám đã bốc hơi đâu mất. Cũng như lần trước, chị vắng mặt đúng lúc. Tôi đón cái hộp, đón luôn hai bàn tay lẩy bẩy của Mẫn. Từ đó trở đi tôi không nhớ mấy. Chũng tôi nói với nhau một câu chuyện sóng gió, rối tinh, có lẽ dài, từ tiếng đàn bầu cho đến tiếng thuốc nổ đều có đủ. Đến đâu nửa chừng, tôi hôn Mẫn thất kinh. Em có thật đây mà. Em của anh không còn là cầu vồng năm sắc lùi mãi xa người. Má em thơm mùi gì nhỉ, mùi mít chín. Em cười thổn thức rất ấm bên tai anh. Con chim xinh mà anh không dám đến gần sợ bay đi đã vào tay anh rồi nhé, em đậu trên vai anh mà đi cùng trời cuối đất nhé.
Tôi nghe tiếng Mẫn, loáng thoáng nhận ra những là địa đạo, lỗi tại em, chè vườn, ông thầy Mười, mấy đêm em không ngủ được, lại địa đạo nữa, Út Hoà, anh cười đi em mới tin, cười đi. Tôi cười, chẳng hiểu gì cả. Giọng người yêu là nhạc không lời, từng đoạn có những nốt rơi khía vào tim, tôi thương buốt đi vài giây. Một lúc chúng tôi ngẩn đi, nhìn nhau, cùng bật cười, lạ nhỉ, sao lại cãi nhau được nhỉ. Dạo ấy chúng tôi trẻ con, nay là người lớn, hay ngược lại chẳng biết. Tôi đòi Mẫn hôn. Mẫn chỉ áp hai bàn tay nâng mặt tôi, soi đôi mắt đen trong mắt tôi thật gần, thật lâu đến nỗi tôi tỉnh ra hẳn. Nhiều lần tôi thấy Mẫn với cháu Hoàn nựng nhau như thế. Có lẽ Mẫn đã ngắm mẹ và các em như thế. Anh đọc ra rồi, em ơi. Tình yêu của em lớn quá đến nỗi em phát sợ, bởi em dồn hết cho em cả phần thương mẹ, thương con nuôi, thương cha bị đày vắng tin, em nối vào cho anh tất cả những sợi dây máu của tim em, nhiều lần bị giặc cứa ngang, vẫn nhỏ giọt chưa cầm. Anh đã làm gì mà được đón nguyên vẹn cả một thế giới yêu thương như thế trong tay?
Chị Tám đến, vẫn nhớ gõ ba tiếng tín hiệu bằng cái nắp bật lửa để chúng tôi kịp giải tán. Mẫn chỉ cười. Mẫn đợi chị tới gần, kéo chị ngồi xuống, nói dịu dàng:
- Em vui lắm. Chị ngồi với em một chút.
Mẫn nắm tay chị, cứ ngả đầu trên vai tôi, không ngượng - lại một sự lạ nữa, không biết đến khi nào tôi mới hết ngạc nhiên về Mẫn - và ba chúng tôi lặng im dưới một trời sao vui, ngắm những đống lửa đốt rào ấy lụi dần ngoài xa. Tôi muốn có anh Ba Tơ ở đây quá. Có lẽ Mẫn và tôi bưng hạnh phúc mới như đỡ một trái mít mật thơm lựng, muốn bổ ngay cho những người thân ăn chung mấy múi.
Lát sau, tôi trở về cái chuồng chim trong ấp chiến lược, ở với lũ chuột và cô rắn rồng. Cái ống dòm trong hộp da áp vào hông tôi nóng hổi, Mẫn mang nó trong bao lưng suốt mấy ngày hôm nay. Chân tôi đi không chạm đất. Nếu tôi nhảy một cái, chắc sẽ vút lên cao năm sáu thước, như người trên cung trăng ấy mà.
Chú thích:
(1)Công binh của hải quân Mỹ
(2)Tiếng lóng gọi xe lội nước
(3).Thủ pháo và gói bộc phá.
(4)Đồng bào Tây Nguyên thường cắm lá xanh trước cổng làng hoặc trước nhà để báo đang “cữ”, cấm người ngoài đi vào.
(5) Cần người giúp
(6)Người đánh máy chữ.
(7) Không (biết) tiếng Anh. Không… Không (có) Việt cộng.
(8) V.C tức Việt cộng (theo lối đánh vần của lính thông tin Mỹ)
(9)Ăn nhé.
(10) Ngủ nhé.
(11) Xuồng máy nhẹ, chạy nhanh.
Chương 18
Tôi nâng ống dòm lên.
Cặp vành áp vào da nóng kinh. Tôi xoay núm một chút, những chùm gai xương rồng lọt vào luồng mắt nhoà đi, hai chiếc máy bay hiện sắc. Chúng bò tới vạch xuất phát. Mỗi chiếc 2 thằng lái, hai động cơ phản lực. Kiểu gì lạ vậy ta, không phải các thứ mũi tên hay vỉ ruồi thường thấy. Mới ra lò nóng giòn chăng?
Cùng một lần, chúng rồ máy rất dữ, thân rung tít, như ngựa bị kìm cương, đang hí và chổng vó đá hậu. Bụi thốc dài sau đuôi. Luồng hơi nóng làm tụi thợ máy và lắp bom đứng ngoài đường băng mờ đi, biến thành những cái xác chìm đáy nước với đường nét lăng quăng. Loại gì mà trông ngang na ná như máy bay Cô-bờ-ra cổ ngỗng cánh quạt hồi Pháp nhỉ. Chúng vọt đi, mới hết nửa quãng lát bê-tông đã rời đất, ngược gió nam ngoi lên, giơ ra sau những cái đít động cơ trống hoác, phun khúc đuôi lửa dài và đỏ lòm màu máu. Chúng quần lại ba phần tư vòng, bay về phía núi, không nhanh hơn Xcai-rây-đơ là bao. Tôi nhìn lên cặp cánh xoè ngang vuông góc với thân, đầu cánh xắn vuông vức giống thứ AD.6 cánh quạt, bỗng nhớ ra. Mẹ cha nó chứ. Cái giống Xcai-nai-tờ, ”Đêm trên trời”, tức F3.D2 đây mà! Trong chiến tranh Triều Tiên, tụi này cất cánh từ tàu mẹ, theo che chở bọn lính thuỷ đánh bộ Mỹ lên bờ, hồi đó phản lực đánh đêm coi như tối tân lắm đấy. Tưởng đã đút kho, nhường chỗ cho F.4 hay F.5 rồi chứ, té ra còn chống gậy lụ khụ đi ném bom vùng giải phóng. Ra ngoài Bắc cho các ông Mic ăn gỏi ít chiếc chơi!
Một cặp nữa đang rú máy, hen suyễn nghe chừng đã kinh niên mà chưa được về hưu. Hai động cơ nằm dưới bụng, khá thấp, đứng dưới đất đút thủ pháo vào họng máy chắc dễ. Tay nào chế máy bay đã trù liệu cho nó chịu được mọi thứ đòn hiểm, đố có đoán rằng nó sẽ bị nhét đằng mồm, và mãi mười lăm năm sau nó vẫn phải trả bằng món nợ máu Triều Tiên, gây ra từ cái tuổi dê cỏn buồn sừng. Lại một cặp nữa…
Có tiếng gọi ồm ồm bật lên mé bên trái, cách chừng năm mươi thước, máy bay ồn không nghe rõ. Tôi từ từ thu ống dòm xuống ngực, co chân cho người chìm dần vào hố cát. Những bụi xương rồng bao quanh tôi rất thưa, nhưng tôi trùm tấm dù hoa – hai chéo dù may liền làm tấm đắp – kín từ đầu đến chân. Còn khuya tụi Mỹ mới thấy được tôi trên gò.
Nhờ cái ống dòm kiểu lăng kính rất tốt, từ trên giàn ván của bà dì S.26, tôi đã tìm ra cái gò cát nhỏ này, nằm kẹp giữa rào biên của sân bay và chân sóng biển. Đêm đầu, tôi bò đến đào hố, cắm thử mấy cành lá trên miệng. Theo dõi suốt ngày tôi không thấy Mỹ leo lên đấy, chỉ đi tuần bên cạnh. Một tiểu đội cắm lều cách gò non trăm thước. Các lớp gác tuần dọc bờ biển và bên trong rào kẽm gai thì xa hơn, không đáng để ý. Thế là tôi mang một túi nhựa dày đựng bốn lít nước uống, hai ổ bánh mì to, một hộp sữa Núi trắng, ba hộp cá trích, tất cả đều của chị Tám mua cho, luồn vào nằm trên gò xem Mỹ hai ngày, đếm được từng nốt ruồi trên mặt tụi bò sát(1) qua lại tại sân bay.
Tôi đưa cái bi đông nhựa lên miệng, chợt nghe tiếng ù lạ. Một máy bay cánh quạt kiểu Chòm sao, cõng trên lưng một cây nấm xoè rộng, bay dọc bờ biển qua đầu tôi. Ra-đa lưu động, chắc đi tìm tàu ngầm hay thuỷ lôi của Việt cộng. Lắm ra-đa gớm. Mỹ dò ra Mỹ thôi, còn tôi chỉ có trên người một khẩu súng ngắn và một ống dòm, tất cả những gì bằng kim loại cộng lại chưa nặng bằng một trái mìn nhảy. Trạm ra-đa trên gò đất đằng kia suốt ngày đêm xoay tròn cái lưới ăng-ten khum khum như mảnh rổ cắt ra. Nò lùng tàu bay của Vi-xi, rất nghiêm chỉnh, không chút đùa nào nhé. Cố ý sục tôi là hai thằng Mỹ rọi ra-đa. Mắt thần kia cũng mù nốt. Hễ mặt trời sắp lặn, hai đứa vác máy ra ngồi dưới một cái lều căng sẵn bên trong rào, một thằng đeo ống nghe và xoay cái máy giống đèn pha bị cháy bóng, một thằng ghì trên giá ba chân và nói trong máy PRC.10. Đêm qua con mắt AN/PPS của chúng rọi vào tôi bao nhiêu lần không rõ nhưng tôi vẫn nằm yên đây, chõ ống dòm giữa những gốc xương rồng mà xem mặt đen mặt trắng, tóc nâu tóc vàng.
- What’ cha you do there?
- Nothing… (2)
Chúng nó qua cạnh gò, cách tôi chừng năm thước. Một thằng dừng lại đái róc róc. Núp coi địch hay phục kích gần đường, tôi ngại nhất những thằng ngu, đang đi chơi rẽ vào bụi cây đái hay ỉa, còn đứa đã ăn chông mìn thì chẳng bao giờ bước ra ngoài dấu chân đi trước. Có lẽ thằng hạ sĩ vừa hỏi, và nó càu nhàu tiếp:
- Cause they put those damn mines everywhere. if you tired of living … Go ahead!(3)
Chúng đi thẳng, nói qua lại bằng thứ tiếng Anh rẻ tiền ấy. Mé biển này chúng chưa bị đánh, chỉ ngại thằng này chôn mìn thằng kia dẫm. Mìn nhiều thật. Giữa rào kẽm gai nhô lên chi chít những mìn định hướng bấm diện, thân cong như miếng vỏ dưa hấu hình chữ nhật, xếp làm nhiều tuyến để nổ lần lượt từ ngoài tới trong, còn thêm lu bù mìn nhảy chỉ thò ra cái que tăm lẫn vào cát.
Quay về hai chục năm trước, thử so sánh buổi đầu của hai đám cướp lớn, đặt bên nhau tên lê-dương Pháp ôm cây trường Mát 36 ngồi gác sau chuỗi ống bơ treo lòng thòng và thằng lính cổ da Mỹ núp kín giữa mạng lưới ra-đa, mìn cơ-lê-mo gọi súng lớn bằng bộ đàm, tàu bay ầm ù trên đầu không ngớt tiếng, tôi càng thấy cái nguy hiểm của kẻ thù mới tới, càng nghiệm ra thế yếu chung trên trái đất buộc chúng vào đây phải lén lút, chối quanh. Chúng ác mà yếu, yếu lại càng ác, hễ quên đi một mặt là lôi thôi đấy. Thôi thèm đánh Mỹ một trận phủ đầu, nhưng nào chúng có chịu thò đầu ra đâu mà phủ! Súng ta nổ giòn chung quanh Chu Lai, nhưng mạn Tam Kỳ chỉ đụng các lớp rào thịt của sư Hai nguỵ, riêng phía nam du kích Bình Sơn đã tỉa được năm bảy tên Mỹ, coi như nắn gân nhau ít chút. Mới chiều qua anh em trong ấy lại được thịt, mấy cây pháo đặt sau bao cát hối hả xoay nòng, giã qua đầu một chuỗi M.113 chạy tuôn tuôn vào hướng Bình Nghĩa.
Tôi ghi xong những nét mới, nhét sổ vào túi, nhô lên đón gió biển quạt trên mặt đầy mồ hôi. Cái nắng dữ dội chan lửa xuống ngập người, nắng trên cát có màu trắng loá của sắt nung sắp chảy. Dễ say nắng lắm đây.
Hễ nâng ống dòm lên, thân thể tôi mất dần cảm giác, tất cả sức tôi dồn vào mắt, đầu và tai, lảng vảng một chút ở mũi nữa là hết. Tôi mê mẩn nhìn xói vào ruột căn cứ Mỹ, óc biến thành bộ nhớ của máy tính điện tử, chỉ đôi lúc cái lưỡi chai như da trâu chậc một cái để thèm máy ảnh. Máy tồi cũng được. Cùng lắm, máy trẻ con chơi loại một đô-la cũng tốt, gặp nắng này thì ống kính cố định f.11 với máy trập ba tốc độ đủ thâu được hết, bấm tách một cái là đỡ bao nhiêu công nhớ và ghi, nét mờ một chút cũng chẳng sao. Tôi sẽ rảnh rỗi để nghĩ nhiều hơn, tìm những kẽ hở của thằng khổng lồ bọc sắt này mà điểm huỵêt, làm sao chỉ bấm một ngón tay là nó cứng đờ như trong võ ta mới khoái. Ông thầy võ Bình Định dạo xưa về dạy gần nhà tôi, lúc thầy nghỉ hay nhắc: “Gặp thằng có gồng Trà kha thứ thiệt, hãy cứ chờn vờn coi kỹ, tìm cho ra chỗ nhiệc mà đánh…Cái tay nó huơ giữ kín chỗ nào là nhiệc chỗ đó chớ đâu! Gồng cứng như sắt cùng mình, nhứt định phải chừa một chỗ thịt mềm… Tìm không được hả? Thì bây giờ giở ngón võ đờn bà bóp dái, xấu xấu chút mà chắc nhứt đa!”. Chẳng biết thầy võ thông gồng thạo tới cỡ nào, chứ lời khuyên nghe lỏm ấy tôi càng gẫm càng thấy có lý nhiều bề.
Thủ trưởng H.68 gửi kèm theo ống dòm một thư nữa, dặn tôi tìm chỗ đánh cho một đại đội chủ lực thử sức tụi cướp biển, chứ đợi nó đi càn chắc còn lâu. Được một đại thì dựa vào làng Cá, thốc xuống hốt tụi lính đóng tràn lan trên các gò đất gò cát đấy. Riêng tôi xin chọn mấy tổ Yết Kiêu bơi biển hay Dã Tượng đánh bộ, dẫn vào đốt tàu bay. Có súng cối cũng đem mà cộp tàu bay. Tôi thèm đánh tụi phản lực, thèm kinh khủng, còn hơn hai ngày qua thèm nước.
Sáu chiếc F.4 mang bom bay ra phía Đà Nẵng sáng nay, tôi rất nghi chúng đi phá miền Bắc. Hơn một tiếng sau chúng về đủ, dưới cánh trơn trụi. Để hỏi lại xem. Nếu ổ cướp Chu Lai dám thò móng tới bên kia Bến Hải, cần choảng ngay một đòn thật đau và điện gửi món quà chia lửa ra ngoài ấy cho bà con mừng. Phản lực Mỹ đánh tới Thanh Hoá đã mất gần ba trăm chiếc, còn hăm he mò ra tận Hà Nội, hỗn gớm chưa.
Miền Bắc…
Khó đếm được bao nhiêu mơ ước của tôi được vẽ trên khung cảnh của miền Bắc. Hai mươi năm nghe lời Bác Hồ dạy đường đi nước bước, tôi là đứa trẻ càng lớn lên càng nôn nao mong được gặp cha, một người cha đi vắng nhưng không ngớt nhắn về khuyên nhủ từng chút, thương con quặn lòng, mừng khấp khởi từ mấy chữ con mới tập viết thăm cha đến cái tin con bắn gục tên giặc đầu tiên trong đời. Ba tôi tập kết ra vẫn sửa máy nổ, làm trong xưởng ở Hà nội. Anh Hai tôi định xin chuyển qua hải quân, dân biển mà, anh đã tự học hết lớp mười, đang kiếm thêm ít vốn ngoại ngữ. Miền Bắc đấy. Miền Bắc là Bác Hồ, là ba tôi, anh tôi trằn trọc ngày Bắc đêm Nam, là cái lò cao Việt Nam đầu tiên nhả gang, là trường cấp hai cấp ba mở tận xã, là nguồn sức mạnh hôm nay và mơ ước mai sau, là tin cậy, kiêu hãnh và không biết mấy yêu thương.
Bom Mỹ xán xuống miền Bắc. Hình như trái bom đầu tiên nổ mé ngoài Bến Hải đã văng một mảnh đến tận tôi, một khúc sắt vặn xoắn như đinh vít. Sau cái buốt dựng tóc đầu tiên, nó cứ xoáy chầm chậm vào thịt, mỗi ngày một ít. Nó leo thang trong tôi.
Sau một triệu trái bom, miền Nam nhận thêm vài ngàn trái nữa ném xuống ruộng xuống rừng có sao đâu, bà con quanh tôi đều nói vậy. Nếu một trái bom rớt trúng cầu Hàm Rồng hay đập Bái Thượng… Mười năm ròng, đồng bào mình ngoài Bắc lấm mặt cháy lưng làm giàu cho cả nước, của nổi của chìm đang ngồn ngộn ra đấy, có thu dọn kịp không, thu dọn được không, hay là…, ôi chao, đứt ruột đứt gan. Tôi biết lắm, cái máy bay đã lên trời thì khoèo cổ nó xuống cũng mệt chứ dễ đâu, còn đậu dưới đất lắm khi chỉ một trái nổ đặt đúng chỗ đủ ăn ngon một lần 3 chiếc. Chúng nó nằm đấy, lù lù trước mắt tôi như những con cú con cắt nhốt trong lồng, một ngày chưa đánh là một ngày cái đinh vít trong thân tôi còn xói sâu thêm. Không đốt được hết thì phá hỏng, không hỏng nát cũng buộc chúng sứt cánh mẻ đuôi, cùng lắm thì quấy rối cho tụi lái máy bay khó ăn khó ngủ, ra ngoài kia gặp cao xạ chúng sẽ run tay sớm vài tích tắc, hoa mắt hơn chút xíu nữa cũng có lợi cho ta bao nhiêu rồi!
Tiếng rền nặng của bầy “Đêm trời” đã quay lại, to dần. Tôi đếm hai lượt, ba lượt, vẫn đủ hai tốp tám chiếc từ hướng Tây bay về, lần lượt đáp xuống. À, sáu chiếc Con ma lại bò ra lượt nữa. Hay là sáu chiếc khác? Tôi hớ, quên không ghi số hiệu của tụi ban sáng, chúng giống nhau như một bầy cá đối.
Thôi, rõ rồi!
Sáu chiếc này mang bom và rốc-két nặng gấp rưỡi. Từng đôi cất cánh xong, không quần tròn đợi đủ bầy, bay thẳng luôn về phía núi, đường bay thấp. Ra đánh miền Bắc chúng đeo bom ít hơn vì xăng nhiều, có cả tên lửa không đối không hình trái đạn ba-dô-ca rất dài. Kiểu lên đường cũng sắm nắm kỹ càng hơn, lên cao đợi nhau, xếp hình xong mới lao đi, hẳn là miệng cầu Chúa trước khi phó mình cho phờ-lắc(4). Quanh Đà Nẵng, nghe đâu trẻ em chăn trâu cũng đã quen nhận ra những tốp đi phá khu Bốn, đếm kỹ để đến tối mở đài đón tin thắng mới. Số máy bay bị thương cố rướn về phía Đà Nẵng để tụi lái nhảy dù cứ tăng lên mãi, một mớ rớt trong vùng giải phóng, một đống xác ùn dần trên bãi cát đâu ngoài Nam Ô, số này miền Bắc không tính, coi như biếu phần chiến công cho bà con trong này. Tam Lý hôm nọ được hưởng một chiếc F.100 như thế, đúng là của trên trời rơi xuống, du kích cả xã gò mỗi người được một ăng-gô mới tinh.
Nam với Bắc nghe nhau qua hai đài chị em đã gần hơn hồi chống Pháp nhiều, giờ lại xích sát nhau với máy bay Mỹ ra vào từng giờ. Tới ngày nào đó, nếu một chiếc phản lực của ta ngon trớn lướt qua đây cho bà con thấy cờ đỏ sao vàng trên cánh nhỉ! Sẽ xảy ra một chuyện rất khó hiểu: tiếng kêu “tàu bay”, lần đầu tiên sau một phần tư thế kỷ, sẽ không báo bom sắp rơi, không gây cái phản xạ tay chụp súng và mắt tìm hào đã quá nhuyễn vào người. Máy bay của ta, của ta, chắc đẹp lạ lắm...
*
Cái gì vậy?
Tôi tự hỏi, hơi lo. Tôi vừa xem đồng hồ 2 lần. Lần đầu một giờ bảy phút, lần sau một giờ hai mươi ba phút. Giữa hai lần xem ấy không có gì cả: không một ý nghĩ, một cử động. Tôi vẫn đứng, vịn tay vào mép hố, nhìn sân bay y như cũ. Chớp một cái, nó đổi như ảo thuật: lũ thợ máy của F.4 biến mất, một chiếc Gip hiện giữa sân bay như đội bê-tông chui lên... Tôi đã lịm đi mười sáu phút, mắt vẫn mở. Coi chừng. Cơn mê sau có thể dài hơn, có thể vĩnh viễn. Năm 61 tôi lạc rừng và sốt nặng chín ngày, tôi biết người sắp chết đói chỉ yếu dần đi mà không thấy đói. Ở đây, cái cảm giác nắng không đánh vào gáy tôi như ma-trắc của cảnh sát địch, chỉ ru tôi ngủ như một ống gác-đê-nan.
Trời vắng mây, đứng gió, rất ác. Nắng trưa rót thẳng xuống hố cát, không né đâu được. Tôi đang trải qua mấy giờ nguy hiểm nhất. Hôm qua canh trưa có gió, đôi lúc mây đi qua đầu, hố cát còn ẩm, nước uống khá hơn, và tôi còn khoẻ. Sang ngày thứ hai, tôi mệt ngay từ lúc mặt trời mới lên một con sào. Căng dù làm lều cũng hay, nhưng lỡ gió thổi rung rinh hay L.19 rà thấp thì dễ lộ.
Trở về với chiến thuật quen, tôi làm việc thật nhiều cho quên cái xác phàm đang bị vùi trong nồi đất hầm muối. Chân tay cựa được ít thì tung hoành bằng mắt, nghĩ bao đồng thêm vào, triết lý càn khôn cứ thả xăng đi. Mỗi lúc quay về với mình, tôi chỉ thấy ngứa rát không sót chỗ nào, từ đôi mí mắt nhám như nổi hột cọ vào tròng, cặp môi dộp và nứt nẻ, đến tay chân cạn mồ hôi teo lại, sần sùi, sắp nứt. Bụi cát đóng dầy tận bên trong mũi, dọc cổ họng và cuống phổi. Đấy nhé, tôi thèm một nước da phong trần dầu dãi để khỏi bị gọi là học trò bột, nay mới được một lần phơi kỹ, phàn nàn gì. Các anh đã từng đánh Tây kể rằng có một số anh em mình bị bắt trong chiến đấu, Tây ép làm lính cho nó, đem đút vào lò, hấp đen thui cho giống lính Phi. Nếu đúng thì tôi cũng đang thi gan chịu hấp đây nè. Qua được hết.
Thú nhất là nghĩ đến Mẫn. Một cô như Mộng Nga dễ chê đen chê gầy – Duy Hảo đừng bực nhé – còn Mẫn thấy tôi về với bộ mặt hốc hác và sạm nắng sẽ quý tôi gấp mấy lần chẳng biết. Người yêu của tôi tuyệt vậy đó. Còn nửa bi đông nước, tôi chỉ dám nhấp vừa đủ dẻo nước bọt và đỡ cháy cổ, nhớ Mẫn chút xíu để bù chỗ nước thiếu. Khi vắng gió cũng vậy, Mẫn thay gió. Tôi sống với Mẫn từng lúc, chỉ vài phút thôi, nhưng mỗi luồng nhớ sáng chói như sét ấy bằng cả một tháng lù mù đèn dầu cộng lại. Sét nổ thì trời dông đỡ oi đúng thật. Sau đó tôi nhẹ người hẳn, lại nhấc ống dòm chõ vào thế giới bên kia, cái “thế giới tự do” đầy kẽm gai và bao cát trước mặt.
Dù mệt đến mấy, cứ xem lính Mỹ sống dở chết dở vì nắng là tôi cười phì, sướng rơn, cứ muốn ông trời đổ thêm than vào lò mà nướng trái đất, tôi đua tài chịu nóng với Mỹ không khó. Cả ta lẫn địch xúm vào dỗ tôi cố gan lì. Đôi má thơm mịn của Mẫn cũng như cái mặt tía nhễ nhại của tụi cổ da đều giúp tôi tỉnh ra, khoẻ thêm. Buồn cười nhỉ. Nhà tôi ở Qui Nhơn có dán một bức tranh ám khói che chỗ tường lở, vẽ một cô tiên đứng trên mây, cọp và trăn lúc nhúc ở dưới, tôi còn nhớ cô tiên bị lé, hai mắt nhìn hai đầu nhà. Mẫn không lé, đẹp hơn.
Cái nôi của Út Hiền treo cạnh đó. Má tôi xay bột làm bánh bán, thỉnh thoảng ngón chân kẹp sợi dây đưa nôi kéo một cái. Má ru to cho con nghe:
Thạch Sanh ngó lại tức thời
Thấy hình quái dị trong đời lạ thay
Trắng, đen, xanh, đỏ đủ rày
Mình thời lốm đốm xem nay có ngời
Mày vàng nanh trắng lạ đời
Con chi nào biết, mình thời có khoang
Trừng hai con mắt chang bang
Mặt bằng cái sịa, hình trang cái bồ…
Cái con chằn tinh ấy, nghĩ tới nghĩ lui lại giống hệt thằng cha lính rằn ri Mỹ, lính Huê kỳ theo cách hiểu của mẹ Sáu.
Tiểu đội Mỹ gác ngoài hàng rào biên đằng kia chỉ bò ra ban ngày, diễn trò cho tôi mua vui không mất tiền. Khoảng bảy giờ sáng, chúng tản rộng khom lưng bước tới chực đánh nhau với lũ hầm hố do chúng đào sẵn. Chiếm lại được trận địa, chúng dựng hai cái lều xanh khá rộng trùm trên hai hầm lớn đã che thêm bao cát, thay nhau ra ngồi gác bên các hố bắn. Lúc ấy coi bộ bảnh lắm, mới thắng trận giành công sự mà. Áo xăn trên cùi chỏ, súng cầm ngang, chân dạng, chẳng thua những chú lính chì bày cửa hiệu đồ chơi. Thằng hạ sĩ mặt ngựa, đeo hai chữ V màu vàng nằm úp sấp trên bắp tay trái thích đi dạo chụp ảnh, trỏ cái ba toong như gậy thống chế. Cấp hiệu Mỹ rối rắm hơn ngụy nhiều, khó nhớ. Mấy đứa lấp ló trong lều đọc báo, viết thư, nhất là đánh bạc ăn tiền, rút ra nhét vào những tờ đô-la xanh lá. Tới khoảng chín giờ trở đi chúng bắt đầu lử lả. Các thứ đè nặng trên người rụng dần. Mũ sắt và áo giáp rớt trước. Rồi áo va-rơ. Rồi sơ-mi, quần dài. Đến trưa chỉ còn một đứa gác ngoài, cả bọn co hết vào trong lều, đỏ lòm như mớ tôm luộc, trên thân độc một cái xi-líp, vài đứa cởi truồng hẳn mà nằm xà-lim vải. Hôm qua thằng gác lăn đùng ra giãy, xe chữ thập đỏ đến chở. Tên thiếu uý hay trung uý gì đó đi soát lính - bị nắng chói, tôi không nhận ra cái vạch ngang trên cầu vai nó mạ vàng hay bạc - chỉ đứng trên xe Gip quát chõ qua rào biên, chuồn gấp, xe nó chạy trên con đường tuần tiễu rải đá giữa hai lớp rào. Mới sáng nay tụi lính chửi nhau té tát, qua ống dòm tôi chỉ thấy những bộ mặt muốn cắn.
Ấy là chúng chưa bị nước vây bốn bề, chưa ăn bắp chuối với hột gắm, chưa lội những ruộng bùn đầy chông, mới chọi nhau với nắng thôi. Kéo vào đóng trên vùng cát hoang để trốn cái thòng lọng đỏ của dân thít cổ, chúng nó rơi ngay vào những “bát bụi” của bang Ô-kla-hô-ma, với bão cát và nắng không cây che. Ngồi nồng nỗng ra đấy ngó lên vùng rừng đại ngàn phía Tây kia, nghe chuyện những người du kích mặc áo ngủ giật gân hơn mọi thứ sách trinh thám bìa đen, chúng vã thêm mồ hôi lạnh ra ngoài mồ hôi nóng, chim kêu cá vùng đều giật thót, cố đoán xem “mười lăm phút hoả lực” mang trên thân có giữ được mạng không. Chúng tìm yên tĩnh trong ma tuý, tìm gan dạ trong rượu, tìm lòng tin ở những lá bùa quái gở nhất mua lậu bằng giá đắt. Tất nhiên chúng còn cầu Chúa. Chẳng mất xu nào, tội gì không cầu phứa đi. Chúa ở khắp nơi xin che chở cho con thoát bàn tay của Vi-xi cũng vô hình mà có mặt khắp nơi như Chúa!
Mỹ đấy.
Thêm một thứ giặc nữa trên đất mình đã chôn không biết bao nhiêu xác giặc, lớp trên đè lớp dưới. Nếu có ma, tụi âm hồn đi cướp cháo lá đa ở Việt Nam hẳn phải nói rất nhiều thứ tiếng, nay lại thêm một bầy nữa biết nói tiếng ô-kê bằng giọng mũi, ông thầy Mười đã dịch ô-kê là con gà đen, ăn nên thuốc.
Cả loài người đang chửi Mỹ rầm rầm, cũng đang khắc khoải hỏi chúng ta: liệu có thắng nổi Mỹ không, các bạn Việt Nam? Ai kia làm cách mạng xa-lông muốn bốc hay xìu tùy thích, còn những anh hùng du kích trên các vành đai Biên Hoà, Đà Nẵng, Chu Lai đã đáp bằng tiếng súng nhịp đôi: thắng được. Tôi đang chĩa ống dòm vào rốn Mỹ đây, tìm chỗ chích mũi gai cho con cua to chết cứng theo kiểu dân chài, cũng xin góp một lời thắng được… Thêm một thằng nữa ngã ngất kia, bên đường băng phụ, nó đang đẩy xe bom đến mắc vào cánh máy bay. Nắng nữa đi, tiểu thử đại thử đi, đặc biệt thử càng hay, nắng đến cái độ xăng tự cháy và bom tự nổ đi!
Hai chiếc C.47 cất cánh xong, ba cặp F.4 ban nãy quay về thành hai tốp. Một chiếc trong tốp đầu bay thấp hơn, loạng choạng, không xì khói. Tụi bò sát kéo ra đông, một xe chữ thập đỏ bóp còi chạy tới, mở cửa sau, cái cáng tải thương thò đầu sẵn. À, thằng lái ăn đạn. Tiếc thật, loại này hai đứa lái, nếu là Thần sấm hay Thập tự quân thì ăn bùn tráng miệng từ lâu. Một xe cứu hoả đỏ lòm cũng tới. Chiếc Con ma rẽ khỏi đội hình, lao xuống, vẫn lúc lắc, lúc lắc, có lẽ hỏng đuôi ngang nữa. Như con voi điên, nó vừa quẫy vừa rống vỡ tai, bay sạt trên dải bê-tông dài tít tắp, bánh xe cách đất chừng nửa thước và cứ trượt mãi trên không khí, tuồn tuột thẳng một hơi không chịu chạm đường băng. Tới đoạn sân đất PSP(5) đằng cuối, có lẽ chỉ dùng đón máy bay quá đà, nó ngoi lên, sà sà vòng lại. Khốn rồi Mỹ ơi! Hồi nãy cất cánh ngổ ngáo cho lắm, tường chừng đã ra ma thì chẳng bao giờ phải chết lần nữa, để bây giờ lắc nhé, rú nhé, đau quá mà. Cái hình lát khế trắng trên đĩa xanh gác hai đôi đũa, phù hiệu của tàu bay Mỹ sơn bên đầu, cũng mở con mắt thất đảm nhìn sự tan xương tới gần.
Lũ người và xe chạy dạt vào các ngả phụ. Cái khối siêu âm trắng bạc gào một tiếng dài tuyệt vọng, ép mình xuống. Bánh xe đụng đất, xịt hai luồng khói trắng, lại bị đất đẩy vọt lên ngay. Thảm hại không. Máy bay của hải quân, vốn quen đi về trên tàu mẹ, bây giờ không đáp nổi cái sân dài thượt trên bộ này, hẳn đã bị đòn âm khá nặng. Nó thử keo thứ ba. Nổ đi mày, cháy đi…Nó gầm yếu hơn, tiếng không khí rít nghe rõ hẳn ra, nhưng thân nó run như động kinh. Nó hết giống voi điên, biến ra con chim dữ bị giập hai chân và mỏi rã cánh, vừa đậu xuống tổ lại phải quằn quại nhấc mình lên. Hỏng nữa. Nó rướn lên cao, bay lảo đảo ra biển với dáng rất là ma lạc mồ, chếch hướng Bắc. Một cặp trực thăng bốc lên giữa bụi mù, đuổi theo ì ạch. Tôi xoay ống dòm theo mãi đến khi cả ba khuất sau hàng dương rậm. Nó đi chết ở đâu? Đủ sức ra đến nghĩa địa tàu bay ngoài Đà Nẵng hay tõm xuống biển với một thằng lái không nhảy dù được?
Tôi đang xem mấy chiếc còn lại hạ cánh, chợt thấy khúc đường băng từ từ cong lên, uốn như rắn. Máy bay và các nhà hầm đảo chòng chành, mờ dần, biến mất.
Tôi nhấc ống dòm khỏi mắt, trông thấy nó tuột rơi khỏi hai bàn tay nhũn đang nắn nắn không khí. Rồi không thấy gì nữa. Chỉ còn lửa. Một vầng lửa xoay tròn, đổi chiều quay liên tiếp, réo ồn. Ngực bị bóp cứng. Tôi ngã xuống hố cát. Cái cảm giác cát nóng đập vào lưng dội từ xa lắm, len lỏi vào đầu tôi đặc những hồ. Ở đấy có một ý nghĩ vuốt êm: “Mình sẽ ngủ, đỡ mệt”. Tôi buông mình vào cơn mê đang đến. Sắp đêm. Tôi được nghỉ rồi. Đêm xoã đôi cánh không trăng sao ôm tôi, nhẹ và mát như xu-xoa(6).
Một ý mới huých cùi tay chen tới: “Ngất thì chết luôn. Chết. Thua tụi nó, thua rồi…”
Cơn tức châm xói trong óc. Tai đau buốt như hít nước vào mũi, quẫy mạnh một cái. Cưỡng lại đi. Không lịm. Cưỡng, mở mắt ra, bắt thân động đậy dù chỉ một ngón tay. Tôi quẫy nữa, chợt thấy mình nằm nghiêng. Đêm đã hé cánh. Co thử cái tay xem. Nó nặng như cầm tạ nhưng cựa được. Tôi chống tay nhỏm dậy một chút, ngã. Nhỏm, lại ngã. Chưa bao giờ tôi bị đạp giúi tàn tệ đến vậy. Một nỗi uất ghê gớm ập đến, xốc ngược tôi lên. Tôi nghiến muốn vỡ răng, vùng rất mạnh, bật người chồm dậy, dựa lưng ngay vào thành cát, ngồi run lập cập, mồ hôi cạn từ đâu bỗng túa khắp thân lạnh sởn da gà. Bắt đầu thở được. Tôi đã thắng cơn say nắng, thắng cái chết.
Chiếm được đầu cầu của sự sống rồi, phải tiến sâu ngay. Tôi căng gân, nhấc bàn tay từng khúc một, dấp ít nước cuối cùng vào khăn, trùm lên đầu. Tôi làm được một việc lớn không ngờ: móc mấy góc dù vào gai xương rồng, thành cái lều méo mó đủ che một mảng bóng. Tiếng máu bật bông pưng pưng trong tai giảm dần. Hơn ba giờ chiều. Tất cả những gì cần nắm, tôi đã xem, nghe và ghi xong cả.
Nghỉ đã, nhưng cấm ngủ.
Tôi ngả lưng dưới tấm dù, phẩy quạt mo, giữ đôi mắt mở to cho tỉnh, buộc cái đầu làm việc, không để nguội máy.
Rõ là tôi bị ngộ độc cái chất lính Mỹ. Suốt tuần qua tôi bám chúng nó đến kiệt sức. Ngày nằm chuồng chim xem Mỹ, đêm thức trắng, lội quanh hay bò vào căn cứ, thêm những cơn căm giận bùng lên nén xuống cũng hao người như mất ngủ. Cả khi chợp mắt một lát - chỉ dám ngủ chập chờn để tránh ngáy và cựa - dưới mi mắt tôi vẫn lổn nhổn từng đống kẽm gai nhào kẹo với lính, mũi tôi thở mùi xăng cháy và bựa đồ hộp, trong khi những khối chiêm bao đen nặng cứ lăn mãi qua đầu, kéo theo chuỗi tiếng nổ lùng bùng không hề dứt. Cuốn sổ tay một trăm trang đã dầy đến hai phần ba những con số, hình vẽ, những dòng lít nhít viết tắt vừa đủ nhớ, những dấu hỏi cần trả lời. Trong khi đó, tôi ngấm độc mỗi ngày một ít mà không biết, đến độ hai ngày phơi nắng đủ quật nhào. Thôi nhé, cho cậu xả hơi vài giờ.
Tôi kéo cánh tay áo trái dầy cộp mồ hôi và đất. Mặt trong của bắp tay ít xù xì nhất. Tôi nhắm mắt, hôn Mẫn một cái thật dài trên bắp tay, gửi đến Mẫn một luồng nhớ sấm chớp và tỉnh ra hẳn.
Có bọn Chu Lai làm nền sẫm, người yêu của tôi càng tỏ rạng gấp bội. Cũng trong những ngày khó nhọc này, tôi càng mừng được yêu Mẫn và được Mẫn yêu. Tôi biết lắm, nếu tôi nằm liệt trong hố cát này, chính Mẫn sẽ đi cứu. Tôi mất đi một tay một chân, Mẫn sẽ bù bằng muôn ngàn chăm sóc nếu không sẻ được tay chân cho tôi. Tôi nghĩ sai, làm bậy, đã có đôi mắt ngạc nhiên của Mẫn ngăn lại, hay một lời khuyên dịu mà rất thấm. Tôi không thể ngờ sẽ tìm thấy một người yêu - đồng chí lạ lùng đến thế trong đời, tuy hồi mới quen Mẫn tôi đi trên mỏ vàng mà chỉ thấy sỏi. “Nó yêu anh, phục anh…”, chị Tám nói vậy. Cái khó bây giờ là tôi phải xứng đáng cho Mẫn yêu và phục mãi mãi – khó lắm chứ - đừng như con công xoè đuôi một lát rồi lại cụp.
Trên người tôi chưa có thứ gì của Mẫn cả, tiếc nhỉ…À, có đây, cây kim băng Mẫn gài thay chỗ đứt nút trên cổ áo tôi. Tôi tháo nó đặt trên bắp tay, hôn lần nữa, bật cười thấy mình trẻ con. Cái miệng ran rát. Môi nẻ nhiều lắm rồi, lớp da ngoài nhám như vỏ cây, cọ đau cả đầu lưỡi liếm. Tôi dốc ngược bi đông, chấm môi vào những giọt rỉ chậm cuối cùng. Cái túi nhựa cho được mươi giọt. Muốn đái mà uống cũng chịu, người tôi không còn một giọt để thải ra nữa, cả mồ hôi cũng kiệt. Cố chịu đến tối. Không cựa quậy nữa, dưỡng sức thôi. Tôi quạt đều, ngắm trời ngắm đất, cho bộ óc đi phép thật xa cái thân cóc phơi hai nắng.
Trên đầu tôi trời trải thảm xanh lơ, đã điểm một ít mây. Trời Việt Nam là gương in hình mặt biển, hôm nay biển lặng nền trời trong. Những cụm mây cao đứng im và mây thấp đang trôi kia là bóng các đảo đang nhìn thuyền ta đi qua. Mấy cục mây đen lấp ló đằng xa: tàu hạm đội Bảy đấy, không thèm ngó, tôi đang giải độc mà. Tôi lim dim uống trời bằng mắt. Tôi lắc lư bay lên, tắm trong biển xanh lâng ấy cho sạch chất Mỹ.
Gió thổi rung tấm dù, không sao, tôi mắc nó rất thấp và con bóng đã đổ nghiêng. Một mảng mây trắng kéo ngang mặt trời, thích ghê. Tôi đang nằm trên cặp cây ganh(7) của một chiếc thuyền tung hết buồm lướt giữa biển xanh và trời xanh, nghiêng ngả. Tấm buồm no gió mở rộng mãi trong mắt tôi.
Buồm trắng… Nhiều cánh buồm lớn trên cao…
Nguyễn Huệ, tôi lại gặp Người?
*
Trường cấp ba Quang Trung rải lớp trong các miếu, điếm canh, nhà đồng bào, dưới những tán dừa Bình Định che mắt tàu bay Tây. Ở đấy có một chú học trò nhóc, đêm xách đèn thầu dầu dừa và ôm ghế xếp tới lớp, ngày lùa trâu ra đồng mang theo vở làm bài.
Chú học chăm, làm nhiều, mơ không ít. Động từ nào của chú cũng thêm tiếng sẽ đằng trước, rất ít đã. Chú ước má may cho một cái quần dài, ước thành tướng của Nguyễn Huệ, hai điều khó gần ngang nhau, bởi má chú nghèo lắm và ông Nguyễn Huệ chết mất rồi. Đêm hè, chú vừa luồn tay đập muỗi đốt chân vừa dịch đoạn văn của Đickenx(8) chép trên bảng, nộp bài xong chú ngồi vẽ những cây thần công dàn trên cửa Thi Nại, còn hai dãy bày chơi trước toà sứ Quy Nhơn. Tới khi gió bấc chuyển lạnh cóng buổi chăn trâu, chú kéo áo tơi lá che cặp chân trần, kê cuốn vở giấy nứa lên đầu gối, tìm cách chứng minh định đề Ơcơlít, đã thèm không được chú mới nhảy lên lưng trâu đánh đi ăn đồng khác, thấy mình đang cưỡi voi tiến vào Gia Định. Cả khi rước đuốc hô loa đòi giảm tô – má chú hẹn bớt tô sẽ may quần dài – chú cũng tưởng đang cùng nghĩa quân Tây Sơn bôn ba đi cứu Thăng Long bị giặc chiếm.
Tất nhiên chú không hở những mộng mị ban ngày ấy cho ai, sợ cười. Giấu sao nổi. Các bạn giễu cả mớ rồi đổi tên chú từ Đặng Đức Thiêm ra Đô đốc Thiêm. Chú gắt, nguẩy, rồi lại thu thú, hay cười tủm tỉm một mình.
Ở cái lứa tuổi mà mặt mũi cũng như tính nết đều đang còn chấm phá, mỗi năm một khác, những ham thích của tôi thường thiếu nét và hay sớm nở tối tàn, chỉ ít lâu sau tôi đã ôn lại để chế nhạo mình. Tuy vậy vẫn có những cái còn nguyên. Thời con nít ấy để lại cho tôi mấy đốm lửa cháy mãi đến nay không tắt, mà đã không tắt thì chỉ có cháy to hơn, lửa thật hay lửa thiêng đều thế cả.
Tôi mê Bác Hồ, mê lắm lắm. Tôi hay nói chuyện với Bác bằng những dòng nhật ký nắn nót, cất rất kỹ tuy không có gì đáng xấu hổ. Tôi tập ghép vần thành những câu thơ nhớ Bác, nóng bỏng và lủng củng, chẳng cho ai xem. Sau Bác Hồ đến bộ đội. Tôi không rời được các anh vệ quốc mặc xita xám hay về làng tập trận, hễ mó vào cây súng là tôi nổi trống ngực thình thình.
Một đứa trẻ biết yêu Bác Hồ và bộ đội, còn gì dễ hiểu hơn, nói ra ai cũng ưng ý cả. Riêng cái cảm tình với Nguyễn Huệ thì khá rắc rối. Đã có lúc tôi rầu rầu nghĩ rằng dù sao ổng cũng lỡ dại làm vua, ai lại đi thương một tay phong kiến bự. Đến khi ánh đỏ của tư tưởng mới đã soi sáng thêm những nét đẹp của Nguyễn Huệ, tôi yên bụng, mừng, nhưng vẫn thấy lạ: tại sao một con người khác xa tôi đến thế lại có sức gợi cảm sớm thế, từ tuổi nhỏ? Nếu vì lẽ sinh ra cùng tỉnh, tại sao ba tôi chẳng để ý đến người đồng hương lớn ấy?
Suy đi gẫm lại, tới nay râu đã rậm cằm, tôi mới nghiệm ra rằng tôi luôn khát khao một cuộc sống lý tưởng, nó cùng chiều nhưng ở trên và đi trước cuộc đời thực hằng ngày, tôi cần cả cái quần dài lẫn cái mộng đánh Nam dẹp Bắc. Những chuyện ông già bà lão kể về Nguyễn Huệ, ngày một ngày hai, đã dựng cho tôi từ lúc nào không biết một mẫu người thật đẹp. Nguyễn Huệ đứng trên cao, trông ít rõ, càng hay chứ sao, một chút huyền ảo ở đây chỉ làm đẹp thêm thôi, và khoảng cách cả vùng trời rộng lại cuốn hút tôi vẫy cánh bay mạnh lên theo hướng anh hùng.
Những năm cạo muội trong xi lanh, chi chút hột lúa rẫy hay lái hướng viên đạn không làm tôi bớt mơ ước. Trái lại, cái thế giới của những Con Người Lý Tưởng càng thêm đông, thêm gần gũi. Chung quanh Bác Hồ với Nguyễn Huệ, có Võ Thị Sáu, Thạch Sanh, Lý Tự Trọng, có chú bộ đội cõng tôi đi tản cư, có anh Năm Xáng chính trị viên đã ngã, có nhiều nữa. Tôi kính cẩn đục đá dựng bia trong tim, dành phần sâu kín nhất trong tôi để sống với những người bạn lớn ấy, lặng lẽ đón những bài học về đạo đức làm người.
Có những phút nào đó – như phút này, nằm rã rời sau cơn say nắng, ngay bên giặc Mỹ - khoảng cách giữa các Con Người Lý Tưởng với tôi dần dần biến mất. Tôi hoá thân, tôi buông mình cho tan vào mơ ước, đến với các anh hùng…
Nguyễn Huệ, có tôi đây bên Người!
Trên đoàn tàu rất mới lạ của Người, tôi đang đứng. Mặt tôi sạm đen qua mấy tháng tập trận trên sông Thi Nại, theo tiếng loa rất trẻ của ông đô đốc Tuyết. Tàu đã căng buồm đón nồm, ra trận. Tôi dạo trên sàn gỗ cao, kiêu hãnh ngắm sáu chục khẩu thần công dàn chung quanh be tàu, cúi xem đoàn voi chiến ung dung cuốn cỏ dưới lòng sâu. Chung quanh tôi là bảy trăm bạn thuỷ binh đợi giờ đổ bộ. Anh đô vật làng Cá với những tiếng mô tê răng rứa còn nguyên, là trưởng đội của tôi. Tôi vác súng hoả mai, đeo mã tấu, cầm ống hoả hổ, đang nghe đọc trong loa lời giáo lệnh của Bắc Bình Vương dạy đường ăn ở với dân. Đằng trước, đằng sau, như một đàn cò lớn chưa từng thấy, hơn một ngàn tàu buồm Tây Sơn ào ào bay trên biển Đông, cờ đỏ vẫy rừng rực giữa buồm trắng. Chúng tôi đây, những người lính thuỷ đánh bộ Việt Nam đội trời đạp đất theo Nguyễn Huệ, thắng từ Rạch Gầm thắng tới Hạ Long, thanh gươm mái chèo thu góp lại giang sơn liền một dải, sảng khoái vô cùng!
Nguyễn Huệ… Người mất rồi!
Người không còn đứng trên bành voi gọi chúng tôi bằng cái giọng Bình Định thân thương, vẫy cánh tay áo sạm khói thuốc súng trước hàng quân kéo vào Phú Xuân, Gia Định hay Thăng Long. Chúng tôi nhảy nước mắt nhớ vị tướng dẫn đầu khi nghe lời thơ cắt ruột của Ngọc Hân khóc Người. Ông đô đốc với anh Sáu Thìn biến vào núi Chúa xanh sẫm kia, ra khỏi tầm mắt trần. Tôi còn đây. Đứa cháu Bác Hồ nằm bên căn cứ lính thuỷ đánh bộ Mỹ đây vẫn nghe sang sảng lời Nguyễn Huệ mắng giặc phương Tây, cái bọn mắt rắn xanh từ biển giạt vào, đem khí cầu bay, tàu chiến và súng to doạ người, có gì mà sợ… Bác Hồ tiếp Nguyễn Huệ. Lời Bác sang sảng mắng giặc Mỹ từng ngày rung trên vòm xanh kia. Tôi bay lên. Hãy cho tôi bay cao, lên cao mãi theo bóng buồm trắng của Nguyễn Huệ và những sóng điện mang giọng Bác Hồ, cho tôi đi vào thế giới huyền diệu của lý tưởng làm người…
Tôi nằm trên cát nóng, mở mắt nhìn trời mà mơ dài dài về xưa và nay, cho đến khi bầy F.105 từ phía Bắc sạt tới chọc thủng tường âm thanh bằng tiếng nổ như sét ngang đầu. Chúng nó đưa Thần Sấm đến Chu Lai. Đánh tụi này, chia lửa với miền Bắc sướng nhất. Tôi nhổm dậy, nhấc ống dòm bằng cặp tay đen và tóp hẳn đi. Khoẻ rồi. Lũ máy bay lởm chởm những ngạnh với mấu quần tròn đợi đáp xuống. Tôi lại đào bới cái chuồng Mỹ bằng luồng mắt, trước khi bóng núi miền Tây đổ xuống đến sân bay và trùm lên biển.
Tiểu đội Mỹ gác đằng kia đã kẹp súng ngó ra ngoài lều, phơi những cái xác đỏ cạch và rậm lông như một giống sâu róm lạ, rất độc. Tôi cần hiểu, nhưng chưa có thì giờ để hiểu riêng từng đứa trong bọn chúng, bởi họng súng của đứa nào cũng nhả cái chết vào bà con tôi. Tôi chưa thể nghĩ đến cái lí lịch găngxtơ của thằng Giắc, giấc mộng làm giàu to của thằng Giô, những cơn điên ma tuý, hêrôin của thằng Gim, mánh lới cờ bạc bịp của thằng Giôn, cuộc đời thất nghiệp dằng dặc khổ nhục của thằng Giery , những đêm khiếp sợ mất ngủ của thằng Giétx, và cả thằng Giêmx vừa bị cấp trên hăm doạ vì nói nhiều lời chống chiến tranh nữa, tôi cũng chưa tách riêng được. Chúng nó giăng trước mắt tôi một cái lô cốt xây gạch, phải nện rất mạnh vào cho từng viên gạch rời ra, hòn nát hòn lành về sau mới biết. Trước hết, phải giết nhiều Mỹ.
Cả khối nổ làm rã lô cốt ấy tôi đã có. Nó nhỏ và nhẹ. Đó là mảnh sọ của cháu Hoàn còn dính óc trắng, loà xoà những sợi tóc mịn như tơ.
*
Ra khỏi hố cát, tôi bò một quãng trong bọt sóng, vọt tiến, nằm ép tránh một tốp lính tuần, túm áo quần vào túi nhựa bơi qua một dải biển thuốn vào đất – chà, nước mặn sao lắm lân tinh, quạt tay rất êm mà vẫn loé xanh biếc – rồi xoa tay dò mìn, trườn qua một lớp rào kẽm gai mới giăng sáng nay. Căn cứ Mỹ mở ra nhanh gớm. Tôi mất hai tiếng đồng hồ để vượt ba cây số, lọt ra ngoài.
Chị Tám đón tôi trong bãi sú với một cặp chai bia cam, em Liềm ít nói, một xoong cháo gà, hai cô du kích. Uống đã. Nước vào đến đâu cái xác héo của tôi sống dậy đến đấy, mát rượi và rất ấm. Đi công tác với các chị được cưng vậy đó, ai chưa biết thì xin truyền kinh nghiệm.
Vừa húp cháo tôi vừa nghe tin sốt dẻo. Trên Tứ Nhơn đang đào địa đạo, việc này giao hẳn cho Đoàn thanh niên, rầm rộ lắm. Út Liềm xuống gọi tôi về làng Cá họp đại hội chi bộ, mời luôn chị Tám dự. Hai cô du kích sẽ dẫn tôi qua vùng cát: có thêm gần ba chục cụm quân Mỹ đóng dã chiến, sư Hai nguỵ rào vòng ngoài kỹ hơn, đường lên xuống phải đổi nhiều. Địch chưa đủ sức càn lớn vì bị hút lên Việt An. Chủ lực ta nện trống chầu trên ấy không ngớt tay, đến trận Việt An 6 rồi, các vùng biển và ven thành được đà rùng rùng nổi dậy. Ta vẫn đua nước rút với Mỹ, rất khoái.
Thấy chị Tám đưa tay ra bắt, tôi hỏi ngớ ngẩn:
- Chị ở lại à?
Ba cô kia bật cười. Chao, vẫn cái nếp nghĩ quân sự “cà nhắc một chân”! Sáng mai Út Liềm với chị Tám sẽ đèo nhau phóng xe đạp qua mũi địch mà về chứ. Một mình tôi phải tốn hai người tiền hô hậu ủng. Chị Tám và các cô không thấy chỗ kém ấy, cứ trầm trồ khen mãi cái anh gan quá gan hùm, vô sân bay nằm lộn với Mỹ. Thôi được, úm ba la chúng ta đều tốt. Tôi theo hai cô du kích luồn trong các bãi sú dọc cửa sông, thỉnh thoảng nép tránh canô quét đèn pha, men theo rào một ấp chiến lược, xuyên qua kẽ hở giữa hai cánh quân nằm rình dọc đường nhựa, lên làng Cá. Tôi không hỏi tên hai cô, chị S.22 vẫn rất nguyên tắc. Sáng mai họ sẽ về, hoặc đi luôn một chuyến chợ An Tân cho tiện đường. Nhẹ thật.
Mới gần nửa đêm, những con đường ruộng trắng mờ chưa ngấm sương sẫm màu. Tôi rẽ về nhà mẹ Sáu theo chỗ rào trổ sau vườn, định treo võng ngủ thật êm để mẹ khỏi dậy nấu khuya bắt tôi ăn. Nhưng nhà mẹ còn đèn sáng ngoài sân. Tôi vào cửa sau, đi rón rén lên nhà trên. Năm sáu bà con đang đạp chè trên cái sân đất rộng. Tôi định “hù” một tiếng chơi, chợt nghe mẹ Sáu gắt:
- Chè mày, chị em xúm đạp hết rồi. Moi hầm cả ngày, về ngả lưng cái đã, không ai khiến mà mày bòng chanh.
Mẫn đáp từ chỗ ang nước:
- Dạ, chơi một lát thôi mà.
Cái giọng tỉnh dìu dịu ấy… Tôi hồi hộp quá. Phần thưởng cho tôi đến sớm, đâm khó ra. Tôi gặp Mẫn lúc này rất không tiện, bởi tóc lợp nửa tai, râu dựng xồm xoàm như bàn chải răng, hệt những cậu trốn quân dịch trong lòng Đà Nẵng. Áo quần thối hoắc đến nỗi tôi đi ngoài ruộng mà chó trong xóm đã sủa, mé đuôi gió. Chẳng cần đỏm dáng, nhưng phải khác con gấu một chút chứ. Đi ngủ nhà khác, không đành. Tôi lùi vào góc nhà tối, ngồi xuống một bộ ván kê sát đất có ba em nhỏ đang ngáy, quạt nhè nhẹ.
Mẫn lẹp kẹp đôi guốc mộc vào sân. Hình như mới tắm xong, tóc kẹp còn láng và áo quần còn nếp gấp. Tay áo xăn, quần vo cao trên vế như sắp đi gặt. Mẫn phải rửa lại chân tay thật kỹ mới được đạp và giũ chè. Ngày xưa làng Cá còn có lệ ai để chân bẩn vào đạp chè là bị phạt heo, bởi chè cả làng sẽ bị chê nhớp, ế lây.
Moi hầm cả ngày à… Mẫn đang nắm hai thôn vùng cát kia mà. Địa đạo giao hẳn cho các chi đoàn thanh niên nhân dân cách mạng đứng ra tổ chức, sao Mẫn phải… Bỏ mẹ, Mẫn là bí thư xã đoàn, tôi quên phứt, chỉ nhớ cô chi uỷ nắm xã đội hay làm việc với tôi. Lắm chức quá. Mẫn còn là uỷ viên thường vụ của Thanh niên giải phóng, Phụ nữ giải phóng, hình như cả Nông dân giải phóng nữa. Chức nào cũng đúng chỗ cả mới gay. Có lần Mẫn than: “Cháu kẹt lắm, bá nghệ bá tri vị chi bá láp”. Anh Luân gạ luôn: “Mày làm bí thơ kiêm chánh trị viên xã đội, bấy nhiêu thôi nghen?” Chắc chi bộ cũng ưng vậy. Riêng tôi rất mong vậy. Rảnh rảnh để Mẫn được học thêm, được nghỉ một chút, rồi còn làm “chị Thiêm” nữa chứ! Mong cứ mong, nhưng tôi biết tham công tiếc việc như Mẫn thì suốt đời đừng hòng rảnh, trừ phi một lúc nào đó Mẫn ghi vào cuốn sổ công tác đã nát bìa hai chữ “lấy chồng”, kèm một con số thứ tự càng nhỏ càng hay số hai hay ba gì đó…
Người khoẻ bận đào hầm cả, chỉ còn bà già giữ trẻ em ở nhà hái và đạp lứa chè tháng tư âm. Anh chị em du kích hở tay lúc nào lại tạt vào hái một giỏ, đạp vài nhả, trông vào ba lứa chè mỗi năm kiếm tiền sắm võng và áo quần. Cái cảnh đạp chè trông nhàn nhã hơn những đêm mài dừa ở quê tôi. Mỗi người ngả một cái nong sạch trên sân, đặt đèn con trên ghế, kê chung hai người một giá ngang bụng để vịn tay. Chè đã phơi héo. Đôi bàn chân trần đạp nhả chè chầm chậm, nhồi chè thành một khối bằng trái dừa từ từ lăn ra sau, lại túm cả lọn chè ra phía trước, đạp tiếp. Các cử động đều mềm và đẹp.
Mẫn trút chè xanh vào cái nong bỏ không, hỏi:
- Ai hát hay vậy bác?
- Giỡn chút mà. Mụ Ngận với tao giả làm nhơn ngãi hát chơi. Mụ đạp chỗ mày đó.
Út Hoà láu táu chen vào: “Chị Hai hát…”, trượt chân trên lọn chè suýt ngã sấp. Mẫn mắng em như bà mẹ: “Con nít không được nói leo, nhớ chưa?”. Hoà sợ chị một phép, chỉ dám le lưỡi chữa thẹn. Một chị đằng góc tiếp:
- Hát đi Mẫn, mẹ mày hồi xưa thua bác Sáu cái giọng mà giỏi nhớ câu nhứt.
Mẹ Sáu cầm đèn soi vào nong, giũ giũ mớ chè đã nhũn và ngả sẫm gần như đen, chép miệng:
- Có đám hát lớn là bả ngồi sau lưng tao nhắc câu, cha, bả nhớ sắp lớp trong đầu. Mà bả khéo đổi vài ba chữ, chắp câu thành bài thiệt tới lanh. Bả bày mày nhiều lắm mà, Mẫn?
- Con gái đầu lòng, mẹ cháu tập cho hát ru em hoài. Sau thêm ít bài nữ nhi, than nghèo, vè cá vè chim, có gì đâu?
- Bộ mày không nhập tâm được ít chục câu huê tình á?
Mẫn bắt đầu đạp chè, tủm tỉm, có lẽ ranh ngầm:
- Mẹ cháu nói bây còn nhỏ nghe huê tình hư thân, thứ đó đợi lớn lên không ai dạy cũng thuộc nằm lòng.
Bầy pháo 105 dưới Chu Lai nổi bắn ào ào. Đạn nổ mé Quảng Ngãi, chắc anh em vùng Đông Bình Sơn lại làm ăn. Mẫn quay đầu, chăm chú nghe khá sâu, hình như tìm một tiếng gì khác nữa. Mìn, súng nhỏ, lựu đạn, cối cá nhân, những thứ xả dồn dồn vào một người bị lộ giữa rào thép gai hay sa vào ổ phục kích… có phải Mẫn đang lo cho tôi? Út Liềm chưa mang tin về. Tôi muốn gọi riêng cho Mẫn nghe thôi: “Anh đây, em”. Mẫn sẽ được một đêm ngủ ngon, không trăn trở. Khốn khổ cái thân tôi. Ra khỏi vòng vây của hơi xăng, ma dút cháy, tôi càng biết mình quá nặng mùi, và rời bọn Mỹ tồng ngồng thì cái thói quen chỉnh tề của người lính chủ lực, lại làm chủ tôi lập tức. Chịu thôi, đành tạm “co thủ” trong góc tối này.
Đáng lẽ chuồn êm sang nhà chị Biền có cái giếng xây đá ong nước rất ngọt, tắm giặt, cạo râu quay về ra mắt đồng chí xã đội, tôi lại ngồi im ngắm Mẫn cho thoả. Nhớ quá mà. Tại sao hồi mới gặp nhau, tôi chấm bề ngoài Mẫn chỉ được năm điểm trên mười thôi nhỉ? Bây giờ ít nhất phải được tám điểm, còn chừa một ít cho đúng cái lẽ nhân vô thập toàn. Càng nhìn càng ưa, thật chứ. Cả đôi mày rậm đen mà tôi từng chê là Trương Phi cũng góp sức tạo nên một kiểu đẹp riêng không gì thay được, xin gọi là kiểu Phan Thị Mẫn, tôi bắt đầu thấy những cặp mày lá liễu sao nhợt nhạt quá. Đôi chân thon của Mẫn rám đỏ sau mùa gặt, nếu đi đêm hẳn khó làm lộ tiêu cho tôi như trước, đang ấn trên mớ chè, bắp thịt dìu dịu chuyển dưới da như trong một điệu múa dẻo.
Chị hàng xóm giục lần nữa. Tôi đợi nghe Mẫn nhắc cái câu quen miệng: “Mỹ tới bên hông mà còn…” Nhưng Mẫn hơi giật mình, lúng túng như một cô học trò bị gọi giữa lúc đang nhìn qua cửa sổ:
- Dạ, em hát bậy thử…
Chẳng nghĩ ngợi hay đằng hắng dọn giọng gì cả, Mẫn làm luôn mấy câu hò đò đưa. Giọng Mẫn rất ấm và trong, có lẽ là nữ trung, nhưng Mẫn hát hết tám câu cứ trơn tuột đi như ngái ngủ ru em. Coi như dở. Đấy nhé, lần đầu nghe Mẫn hát mà tôi đánh giá được vậy, rõ ra tôi rất công bằng phải đạo. Mẹ Sáu cũng chê thẳng:
- Hát kết mà in thể đọc bài vậy, ai dám kết với mày.
Mẹ Sáu hát. Mấy chị hàng xóm hát. Út Hoà cũng chen mấy câu quấy về một anh sợ vợ: thiếp ơi, thiếp đánh làm chi cho đau chàng! Mẫn nhồi chè đều chân, hai tay tì lên giá, đầu hơi cúi, nghĩ gì đấy. Khi tiếng cười chung quanh lắng lại, Mẫn từ từ ngửng đầu, tôi bắt gặp ánh chớp ranh mãnh, rất quen trong mắt cô gái. Mẫn hát chậm:
Trái lòn bon trong tròn ngoài méo
Trái sầu đâu trong héo ngoài tươi
Thương anh em chẳng dám nói cười…
Cũng cái giọng đò đưa ban nãy thôi nhưng sao tha thiết đến day dứt, xốn xang. Những đôi mắt chung quanh quay lại, đăm đăm:
Nước mắt lai láng chùi hoài không ngớt
Trời hỡi trời, sao chẳng bớt nhớ thương
Sợi chỉ hồng em lỡ vấn vương
Gặp anh một bữa nhớ thương ngàn ngày…
Em hát đấy phải không, em của anh? Hay tất cả những câu hát từ xưa rót vào tai anh đã kết thành hạt châu trong bình mật ong, thưởng cho anh đêm nay?
Con sào bịt sắt gác dọc be đã khô. Qua hết thác ghềnh thuyền xuôi trên mặt lụa của sông Lại hay sông Thu Bồn, quãng dưới. Cô lái đò nghiêng thân mềm tới trước, đẩy mái chèo êm như chỉ vịn trên giá đạp chè, bàn chân phải đưa lướt trên sạp ván theo người, và cánh chèo dài vuốt nước ra sau, không quẫy không xao. Giọng hò lọc qua trăng nước, khi bay đến những bờ bắp và dâu đã trong vắt lại, đẫm thơm hoa dẻ hoa lài. Khuya nữa, xa nữa, con thuyền tan vào sương trắng, chỉ còn lời yêu hiện sóng từ đâu đó toả trong khoảng không phớt xanh, chỉ có riêng tôi mới nhận ra Mẫn… Tôi cố kìm tiếng “em” chớm ngọt trên môi. Chỉ một tiếng kêu thầm thôi, tất cả sẽ ngưng đọng ngay thành người yêu bước đến bên tôi, đêm sẽ đen và vắng lại. Đừng gọi, ánh đèn dầu trên mặt Mẫn nổi sáng quá, xoá hết nét, chỉ còn hai mảng đen của đôi mắt. Hãy để nguyên cho câu hò từ đôi mắt ấy trào ra, run run:
Ngó qua chín bãi mười đồng
Biển xanh xanh lắm mà không thấy người
Mênh mông con nước xa vời
Biết ai còn nhớ những lời ngày xưa
Trông anh như cá trông mưa
Ngày đêm thổn thức như đò đưa trông nồm…
Tôi mím môi, nuốt cái gì nghẹn ở cổ. Mẫn đang kể câu chuyện chúng tôi đấy, từ chỗ ngó ngơ đến một lời gắn bó, rồi những hôm Mẫn nhìn xuống mé Châu Lai. Không thể tin đấy chỉ là những câu gọt tỉa từ xưa tình cờ đến với Mẫn, lồng trong giọng hò. Mẫn có thật. Cuộc tình duyên của chúng tôi có thật. Chiêm bao đẹp không thể kéo dài đến tận hôm nay.
Sợi tóc mảnh của tiếng ngân cuối cùng bay xuôi gió rung rinh, chìm dần vào đêm cùng màu. Một chị đằng kia sờ khoé mắt. Cô Rốt Em cầm đuôi tóc đưa lên miệng cắn. Đợi một lát, Út Hoà khịt mũi, hỏi:
- Sao nữa chị?
- Sao là sao?
- Hát hay mà rầu quá. Thương gì phải la trời cực vậy, mọi bữa chị hát vui hơn.
Mẹ Sáu nhắc, giọng rất trầm, khác mọi khi:
- Nghe riết, chè chín không hay cứ đạp nát hết, tao bị rồi đó…Hồi con gái tụi tao cực trần thân, tới bây giờ sướng quá, chẳng biết gì ráo. Chớ bộ bây là gái đem lòng ưng trai, bây bưng trầu cau đi hỏi chồng à?
- Con trai họ biết chớ. Hả chị Hai?
Mẫn đưa tay vuốt mớ tóc xoã của em gái, nói nửa vui nửa nghiêm mà lại như xin lỗi:
- Mẹ dặn rồi, em còn nhỏ đừng nghe hát nhơn ngãi, tại bác Sáu bắt chị hát… Con trai họ biết bụng mình. Chê thì thôi, hễ thương họ cũng thương gắt em à.
- Thương sao?
- Chà, họ nói … Say em như bướm say hoa, như ong say mật như ta say mình. Mê em vì nết vì tình… Mà thôi, đừng nghe chuyện tầm bậy…
- Bậy đâu, hay lắm chị!
- Thôi dẹp, Mỹ nó chực nuốt sống mà ở đó hát tào lao.
Có lẽ loạt pháo nổ loe loé ven đường Một nhắc Mẫn nhớ cái Chu Lai. Quái lạ thằng Mỹ, giữa lúc Mẫn đang mượn lời cũ nói thương tôi, nó cũng sủa vào phá đám! Mẹ Sáu gật gù:
- Con Hai thiệt tốt giọng, bị cái hát ít quá, để hư mất uổng. Bây giờ sẵn có câu nào đánh Mỹ cho ra thử coi. Hay con Hai giỏi chánh trị cứ đặt ra hát, sửa đi sửa lại riết rồi phải hay. Ào đi cháu!
Tôi phập phồng đợi. Nhưng Mẫn chỉ cười, soi đèn xem chè, trút mớ chè chín vào cái nia, tay trái rót nước và tay phải vẩy nhanh vào các ngón cho nước tưới đều. Nia chè ấy đã đầy. Mẫn ém gọn lại, lấy mấy tàu lá chuối phủ lên trên, ủ một đêm để sáng mai tãi phơi trên nong.
Mẫn đạp nhả chè cuối cùng và nói bông về tụi Mỹ sợ trâu như cọp. Phần tôi được mấy phút nhớ cháy bỏng, thế là vừa. Đến lúc này tôi mới nhận thấy các mẹ các cô làng Cá đen chân khắp lượt, như đi tất đen. Da người ngấm nhựa chè chát ban đêm, sáng ra ngấm bùn ruộng mà. Chân Mẫn rách tươm nhiều lần lại lành, tháo băng trắng muốt rồi đỏ dần lên, ngả nâu với bốn dấu dép cao su hằn rõ, bây giờ đen hẳn trong mùa hè. Hay nhỉ. Tôi không ngờ hai bàn chân có thể kể nhiều về con người đến vậy.
Chú thích:
(1) Tiếng lóng của không quân Mỹ, chỉ chung bọn làm việc dưới đất, không bay
(2) Mày định làm gì ở đấy?
Không….
(3)Bởi tụi nó đặt những trái mìn quỷ quái ấy khắp nơi. Nếu mày chán sống… Đi tới đi!
(4) Đạn cao xạ (Flak)
(5) Lát nền bằng thép tấm đục lỗ (pierced steel plank)
(6) Thạch
(7) Hoặc ghênh: cây do dựng bên hông thuyền để giữ thăng bằng
(8) Nhà văn hiện thực Anh thế kỷ 19
Chương 19
Đại hội chống Mỹ của chi bộ Tam Sa họp hai ngày, mỗi ngày đêm làm việc ba buổi, mười một tiếng, giữa một làng Cá im lìm, người biến đâu hết.
Làng Cá chống líp lại mà chưa từng phải chống hủy diệt lớn. Bà con chưa làm chòi đến lần thứ mười như các nơi đã nhiều năm giữ chính quyền. Ai cũng biết sẽ đến lúc đất này bị bom na-pan dựng rừng cây lửa, xe ủi đất nạo trắng nhà vườn, đồn to đồn nhỏ của Mỹ xổ đạn xuống mỗi dấu hiệu của sự sống, có cả mây hơi độc và pháo lân tinh. Dân làng Cá hay lên non xuống biển, đã thấy những cảnh ấy và nghĩ: “sắp tới lượt mình đây”.
Cái ác liệt đang đến.
Nó không đổ ụp một lần như trận càn nước lũ, ầm ầm năm bảy ngày lại rút, mà leo từng bước, tăng từng ngày, khá rõ.
Buổi sáng nào đó, một trăm quả pháo nổ túi bụi. Mọi người nói: “À, quân nó lên”. Quân không lên nhưng hôm sau pháo lại bắn một trăm và hơn nữa, mức pháo đổ đồng của mỗi ngày đã lên ngang cái độ pháo càn của thời đánh ngụy, còn lên tiếp. Rồi một chiều hai chiếc AD.6 ném bom dọc sông Rù Rì. Bà con chép miệng: “đã dặn đám đốt than, đụng tàu rà quần đừng có chạy mà!”. Không phải địch nghi hay ta lộ gì cả, từ chiều ấy trở đi, máy bay ném mãi những bom nổ ngay và nổ chậm trên các đường mòn dẫn về Chu Lai. Xe tăng Mỹ bắt đầu đi tuần trên đường Một, lảy đạn 40 ly vào các sườn đồi. Đại đội biệt kích Hai của quận thọc vào Nhơn Thọ, bị đẩy xuống Lộc Thứ, không rút đi như trước mà nằm lì đấy. Thằng Chinh con lên tỉnh học cái gì đó một tuần, trở về Lộc Chánh coi trợn trạo hẳn ra, bắt đánh luôn tám người trong đình, hầm hè: “đất này cắt cho Mỹ rồi, ba thằng du kích nhắm chống nổi một sư đoàn Mỹ không mà bây dám theo?”. Tất cả đều găng hơn trước.
Những ai tinh mắt đều thấy Chinh con có cái gì rối loạn ngay trong khi hắn lồng lộn như chó thiến rắc mảnh chai. Hắn chồm chồm đấy rồi run đấy, cười dài một lát lại khóc. Hắn uống say là chửi cộng sản, chửi cha hắn, chửi bọn tướng Sài Gòn, chửi Huê Kỳ, chẳng sót ai. Mỗi người đoán một phách: cha con hắn có máu điên,hay hắn nghiện thuốc phiện trắng, hay hắn rầu chuyện nhà, hay lương tâm hắn cắn rứt, hay bà con bị giết về “đạp hồn”? Có thể mỗi thứ góp một chút?
Ông thầy Mười xuống ăn giỗ dưới Lộc Chánh, cà rà đổ rượu cho hắn say mềm, nghe hắn kể tâm sự. Hắn biết hắn khó sống dai. “Quốc gia” sắp thua được Mỹ vô cứu, so với việt cộng thì bên tám lượng bên nửa cân, chưa dễ gì ai ăn ai, nhưng cái đám tốt đen như hắn cầm bằng bị thí. Mỹ vô đặc nghịt mà không chịu cụ cựa, cứ đẩy lưng bọn chúng đi đánh cộng sản tới tới. Dân vây kiện ca-nông Mỹ, hắn giơ mặt hứng nước miếng. Bỏ việc ư? bọn quận doạ “trước thôi sau bắt”, mà không vô tù thì cũng đi lính làm thằng binh nhì, cũng chết. Cha hắn trúng đạn vô ót, nằm dài ở Tam Kỳ nhai trầu và ăn báo hại, mỗi ngày không đủ một lít rượu thì nhè hắn mà rủa, hắn sợ rủa miết cũng ứng, phải xoay tiền gửi đều. Hắn chạy chọt kiếm một chỗ làm đỡ nguy hiểm, nhưng đút lót chưa đủ, “thành tích diệt Cộng” còn ít. Hắn đang lập công và vét tiền. Có điều tụi thằng Luân con Mẫn đời nào chịu để hắn kịp thoát. Đám tay chân của hắn khiếp dần, rã dần, tìm đường né chỗ trâu bò húc nhau... Chắc là hắn nói thật. Nhưng thằng ác ôn chán nghề vẫn cứ làm ác ôn, giết người, đốt nhà, dẫn quân đi càn.những đứa như hắn vẫn góp sức làm nên cái ác liệt đang lan nhanh trên vùng vành đai.
Trước mặt làng Cá, bọn giặc nổi ngày càng đỏ như vông đông như tiết. Trong làng Cá những tên giặc chìm cũng bắt đầu ngo ngoe.
Ban đầu người ta chỉ nghe tiếng than thở ngắn của số người lẽo đẽo theo sau phong trào, cách một quãng. Chỗ quen biết cả thôi. Ấy là chị Huyền Nhung, xanh rớt và lắm ghẻ ruồi, dạo xưa theo gánh hát Tân Duyên, chưa kịp lên sân khấu đã chửa hoang, phá thai vụng, ốm nặng, nay buôn vặt, õng ẹo với anh chồng hiền đến nỗi khắp vùng đều cười “chị nhõng nhẽo”. Ấy là ông Năm Sô, được gọi là Năm So vì quá đỗi so đo hơn thiệt, hai chục năm biết cách mạng chỉ rút ra được một kinh nghiệm là phải luôn miệng kêu nghèo khổ ốm đau, làm vậy sẽ được chia ruộng nhiều, giảm đóng góp, miễn dân công, lợi lắm. Ấy là bà Nẫm xóm Đuồi, cả làng quên tên thật mà chỉ biết bà Kênh cúa, bởi suốt ngày bà mếu máo “kinh quá đi”, trông thấy con gián đằng xa cũng nhất định kêu nheo nhéo mới ưng. Ấy là cái nhúm người lạc hậu mà làng nào cũng có hoặc ít hoặc nhiều, khi tăng khi giảm, và ở nơi phong trào mạnh thì cái mức lạc hậu cũng xấp xỉ mức trung bình ở nơi kém.
Địch chọn luồng gió trái ấy để thả hơi độc. Vài đứa xấu bắt đầu ghé miệng vào những lỗ tai xao xuyến. Đường đi của tin đồn bao giờ cũng vòng xuôi lộn ngược, khúc ẩn khúc hiện, càng phăng mối gần gốc càng khó tìm dấu.
- Đêm kia, đài mình chửi Mỹ nát mặt. Nó tính thả chất nguyên tử từ đường cái đen qua tới xứ Lào, đá cũng chảy nước hết, ác vậy để chi không chửi!
- Mình lên Tam Lý mua trâu, gặp ông cán bộ nói trong mách-tin nghe bắt mê. Sao hè...Mười bốn triệu dân đánh với hai trăm triệu, súng một cây chống súng trăm cây, dầu cho chết ráo còn một triệu cũng đánh, một người cũng đánh. Chu cha, thiệt là lập trường tới chữ.
- Cái số bà con mất tinh thần chạy về vùng địch đó, bây giờ Mỹ nó mua chuộc riết lắm. Phát bạc đô-la tiêu lu bù nè, đúc nhà xi-măng cho ở nè, ăn diện vung vinh lắm. Ghét nhứt là tới hồi độc lập họ lại sướng hơn mình...mà chắc gì mình còn sống tới ngày đó mà hưởng, hả thím?
- Mấy anh bộ đội nhắc phải cảnh giác nghen. Mỹ có máy dò người dưới hầm,có máy ép hơi độc xuống địa đạo như bão. Xã gì trong kia đào bảy tám cây số đê hai(1) chớ ít đâu, xuống núp kỹ, bị nó giết chẳng sót một mạng, lấp miệng hầm chôn luôn.
Tiếp đấy, tùy theo nét mặt và lời lẽ của người nghe, chúng bồi thêm một câu chuyện “nói riêng thôi nghe” hoặc lảng qua việc mùa màng, hoặc nở một nụ cười cố làm ra đần độn: “Ờ, ờ vậy hả, tôi dốt đui có biết gì đâu cứ tưởng...”
Thế rồi liên tiếp xảy ra những vụ đáng ngại. Chị Ba Phi cắp rổ đi chợ, bị thằng Chinh con chỉ mặt: “Mới được giấy khen xuất sắc, được bầu vô chấp hành Phụ nữ giải phóng, xuống đây không sợ tù à?”. Hắn nói đúng y nhưng không bắt chị: “Để rộng cá trong lu cho mập, làm giỗ luôn thể”. Đội du kích xã hay tập trên gò Trúc buổi chiều, một trận pháo chụp khoảng hai trăm trái thình lình đổ xuống đấy từ ba đến bốn giờ, may gặp hôm anh em nghỉ. Trẻ em chăn trâu tìm thấy trên gò Mù U những dấu giày răng chó và dép cao su còn ướt. Nguồn tin của ta trên quận Lý Tín, tức huyện Nam Tam Kỳ, cho biết ở Tam Sa có hai điệp, một cũ gài lại và một mới lãnh việc, chưa dò ra tên. Ban an ninh xã đang cố lần dây moi củ, nghi mấy đứa mà chưa đủ chứng cớ xin trên bắt. Anh Tư Luân thử truy theo một tin nhảm tới cùng, “họ nói là ai nói?”, tóm một tay liên gia trưởng cũ đưa ra cảnh cáo trước dân, tay này không có gì đáng ngờ là điệp.
Bấy nhiêu cái khó mới đều có thực, đều làm căng óc mệt người. Song luồng gió chính vẫn mạnh. Cái đà xốc tới của đợt vật lộn giải phóng Tứ Nhơn còn đang cuốn người. Xong vụ gặt thiếu bồ thừa lúa, cả làng mừng hể hả. Thanh niên vừa dựng bia căm thù ghi tên những người chết vì tay địch: tấm bảng bằng hai chiếc chiếu dày đặc những tên đặt dưới gốc đa, đánh thức nỗi đau khủng khiếp mới cách nửa năm. Tất cả những cồn cào khi ngó xuống vầng sáng lạnh và chờn vờn của căn cứ Chu Lai, những cơn uất khi ngồi dưới hầm nghe pháo giã rung đất, và khó chịu nhất là cái thấp thỏm bứt rứt chờ địch càn lớn, bà con đem trút hết vào những lát cuốc đào đường hầm, xây dựng làng hầm. Càng mỏi tay càng thấy nhẹ người.
- Rên rỉ ỉ ôi vậy, Mỹ có về nước không hả?
- Ối chào, ai chạy đâu kệ họ, tôi chạy xuống sâu mười thước đất, hết Mỹ tôi lên.
- Cái anh ăn no ngồi gác miệng hầm, bom đạn chưa thấy đâu mà cái chết đói coi như cầm chắc.
- Đưa đây rờ thử đã lưng tim lưng mật hay còn đầy?
Du kích đi đóng cọc căng dây. Bà con mỗi xóm chia thành nhiều tổ, mỗi tổ chia ba kíp thay nhau đào cả ngày đêm, xuống một miệng giếng và sẽ xoi ngang hai chục thước đường hầm. Càng đào sâu khó khăn càng lớp lớp. Lát mai xắn trúng mạch nước to bằng ống tre, ộc, ào ào, chỉ kịp lượm đồ leo vọt lên thang, đi mở giếng khác. Đụng tảng đá to, đào vòng mãi bên trái không thấy hết, rẽ qua phải một chút xíu lại gặp đất thịt. Mở hẹp thì đào chậm, mở rộng lại thiếu người kéo đất lên và gánh đi đổ. Ấy là chưa đến lúc xoi ngang với tất cả những trắc tréo không lường hết. Mấy ngôi nhà tre gỗ to còn lại sau lụt đã được dỡ đi phòng giặc đốt, chủ nhà cho mượn đòn tay tre làm cần vọt, đóng thang. Không đủ. Tre sót lại ngoài bụi sau các đợt làm ấp chiến lược nay đốn hết, không đủ. Các thứ ván thừa, phản cũ, cửa gãy, rồi hoành phi, câu đối gỗ, rồi tất cả những thứ gì có thể tháo khỏi nhà được đều nối nhau đi xuống hầm, không đủ.
Bà con bắt đầu xôn xao:
- Coi bộ phải dời nhà xuống đất cái mới xong.
- Ý đừng. Địch càn vô, chụp hình, nó huyên truyền ở với Việt Cộng khổ vầy nè...
- Còn hơn nó chích mồi lửa! Độc lập, ngả cái nóng nằm phơi bụng giữa trời cũng sướng chán.
- Phải đó ta! Mấy nhà trúng pháo cháy kia, còn chết cau mít quanh vườn nữa. Dỡ nhà chôn kỹ dưới sâu là chắc nhứt.
- Đợi thử chi bộ tính sao...
Giữa cơn lốc của tình hình mới, chi bộ Tam Sa đã lên án gay gắt chủ nghĩa cơ hội và bệnh bè phái, mở đợt phát động lớn “toàn quân quyết thắng giặc Mỹ”, bầu chi ủy mới. Một người ngoài cuộc đọc những câu ấy trong biên bản hẳn không thấy có gì đáng chú ý. Đối với mỗi đảng viên và đoàn viên Tam Sa, đó là mạng sống, nguồn vui.
*
Phiên cuối cùng họp trong đình làng.
Vẫn ngôi đình làng Cá nẻ nứt sứt mẻ từ trên xuống dưới mà không chịu đổ. Tường vôi nhuộm bùn loang lổ, cột kèo chơm chởm những mảnh pháo cắm lút thò đuôi, nền nhà lát gạch bị địch phá đào hào chạy ra vườn, tất cả đều đầy những vết đâm, rạch, khoét, đốt. Mái đình cong sụn xương sống, thủng sáng như sông Ngân. Có lẽ các đồng chí khác ngắm ngôi đình này đều nghĩ như tôi: “Nên dỡ lấy gỗ làm hầm, để Mỹ nó đốt uổng”. Nhưng không ai trong chúng tôi nỡ nói cái đều rất hợp lý ấy.
Sân đình có những nét lạ.
Đoàn thanh niên đã dựng sẵn sân khấu cho đêm kịch hát tối nay, dưới gốc đa, rải lá che bớt phần ngoài cho tàu rà đỡ dòm. Ngay trước giàn ván, anh em đắp nhiều dãy ụ đất nhỏ hình cái chuông. Bà con thường đắp những nắm như thế trước ngõ trong mỗi dịp giỗ tết, cắm lên vài nén hương cho những ai chết bơ vơ. Sáu mươi hai cái “mả cô bác” xếp hàng ngay ngắn dự cuộc vui. Sáu mươi hai người chết trôi không tìm thấy xác vì cái ấp chiến lược khoá cổng giữa lụt, vì đạn trọng liên và pháo chụp rắc trên mặt nước, về đây lặng lẽ nói rằng mất độc lập tự do có nghĩa là mất cả đến mảnh đất chôn thây. Chi bộ đã bàn xong các việc lớn, nhưng mỗi chúng tôi thường nhìn ra chỗ sân khấu để tìm câu trả lới cho những băn khoăn còn lại.
Các vị khách đang nối nhau nói chuyện. Chị Bỉnh to lớn của Tam Trân đã lên huyện đội phó, nhắc phải làm địa đạo gấp hơn nữa. Anh trưởng ban kinh tế huyện nhắn rằng năm nay quân ta rất đông ắt phải ăn nhiều gấp ba bốn lần năm ngoái. Chị Tám Giàu thấy Tam Sa chưa chuẩn bị cho bà con giáp mặt lính Mỹ, nhiều người tưởng hễ Mỹ càn thì cả làng chạy xà đùa như hồi xưa chạy Tây.
Mấy đồng chí nữa từ tỉnh và huyện về cũng góp thêm nhiều ý kiến hay, từ lớp học trẻ em đến trái mìn chống tăng đều không thể thiếu. Cứ như vậy, quả núi công việc phình to lên mãi trước mắt chi bộ, trước năm đồng chí vừa được bầu vào chi ủy đang ngồi một dãy kia.
Anh Tư Luân chưa được nghỉ, lãnh phó bí thư chắc phải làm chủ tịch ủy ban tự quản. Năm Tuất to bè, đen trũi, bắp thịt cuồn cuộn vẫn chắc như xưa và lanh lợi hơn một ít. Cậu Năm Ri nheo nheo con mắt vảy cá, sẽ là một xã đội trưởng khá xông xáo. Cô Cang hay cười tủm tỉm một mình, không bớt cân nào, đã thạo cầm quân chính trị, lại ham các việc văn hoá xã hội. Tới Cô Hai Mẫn, bí thư mới, đăm chiêu nghe lời dặn và hí hoáy ghi sổ tay từng lúc, Mẫn của tôi đấy. Với mái tóc kẹp đuôi chồn thả trên lưng cái áo bà-ba hơi rộng - bận thế này, biết bao giờ Mẫn mới mặc vừa áo cũ nhỉ - lại thêm bàn cao ghế thấp trông Mẫn nhỏ xíu như em học trò leo lên ngồi chỗ thầy. Cô gái vào cỡ trẻ nhất chi bộ đã được bầu với số phiếu cao nhất, hơn cả anh Luân. Đó là chuyện không dễ, tôi biết.
Một cuộc bầu, một bài học. Trước hết là bài học cho tôi.
Trong bộ đội chủ lực rất ít nữ. Chúng tôi lại hay đóng xa dân, đi đường rừng. Mỗi cô y tá hay văn công “trên về” bước vào xê mình thường mang theo một luồng gió thương nhớ. Anh lùi xùi vội đi mượn dao cạo râu, anh cộc cằn đâm ra mát nết, anh lười bỏ giờ nghỉ đi vác củi. Có lẽ không phải vì các cô có sức hấp dẫn gì lớn lắm - xin lỗi nhé - nhưng một cô có mặt đã gợi anh em nghĩ đến những người thân ở xa, từ bà mẹ cưng con đến đứa em gái xinh ngoan. Riêng tôi hay nhủ thầm: “Sức các cô làm những việc như vậy là quý rồi, chớ nên đòi hỏi hơn nữa”.
Tôi quen nghĩ đến phụ nữ như bông hoa làm cảnh, như cây lúa nuôi người, không thay được chúng tôi là gỗ lim gỗ nghiến. Đấy nhé, khoa học cũng nhận là trai khỏe hơn gái. Về đức thì chẳng ai chịu kém ai, còn về tài cần xét kỹ xem: người đàn bà chịu mấy ngàn năm ngu dân nay nở mặt được đấy nhưng cũng phải từ từ chứ, chưa đi đã chạy thì chỉ có ngã đau.
Trên miền Nam dần hiện ra khắp nơi những cô tổ trưởng du kích, cô tiểu đội, cô thôn đội, cô xã đội. Đôi nơi đã có chị huyện đội, tỉnh đội. Tôi nghĩ: “Đúng phải khuyến khích riết đi!” Vào họp thi đua, tôi vỗ tay hoan hô chị em du kích rất hăng, sẵn sàng nhường những phần thưởng cao nhất cho họ, bởi họ cần được động viên hơn. Tôi thấy mình rộng rãi lắm. Lại còn đứng đắn nhã nhặn, rất quí các má các chị, không bao giờ ngắt lời một cô cán bộ ham nói cho hết cả tràng lý thuyết mới được học, chưa một lần cợt nhả với mấy cô văn công tỉnh đội mà anh Ba Tơ cố gán cho tôi. Tốt cả thôi.
Ấy vậy mà mỗi khi thay mặt xê mình đến làm việc với các xã đội, huyện đội, tôi cố tránh gặp cán bộ nữ. Đánh giặc phải có súng thép chứ không thể dùng súng gỗ của sân khấu. Tôi chào hỏi cô xã đội rất niềm nở, thổi phồng việc khiêng thương và đem cơm nước cho bộ đội đến mức cao nhất, còn sự đánh chác thì để dành bàn với anh xã đội. Cô xã đội dễ thương hơn anh xã đội lắm lắm, nhưng địch nó sợ đạn chứ không sợ mắt sáng môi hồng, chuyện xương máu xin đừng trông vào may rủi. Đấy, nhường cô đi trực diện chửi giặc cho khoái, binh vận nữa, cày bừa cấy gặt tha hồ còn nhúng tay vào lãnh đạo và chỉ huy thì hãy khoan một chút... Kiểu lẩn tránh của tôi bấy lâu xem chừng trót lọt, chưa vấp nặng lần nào, có chăng cũng chỉ đôi lần bị hờn lẫy, chẳng chết ai.
Tảng lý sự rất vững của tôi gần đây long lở một ít, về đến Tam Sa mới bị rã vụn. Rã vì tôi hiểu Mẫn.
Khi yêu thì dễ quáng gà ưa thấy mây năm sắc hiện quanh người phàm, đúng vậy. Nhưng tôi đã đánh giá Mẫn từ khi chưa yêu, đang tỉnh như sáo và rất xét nét, công tác là công tác không được lơ mơ. Vả chăng tôi không định yêu một người đáng phục, trái lại, tôi nghĩ một cô gái hơn mình nhiều thì nên kính mà xa vậy. Trước khi vào đại hội, anh Bảy quai nón và Tư Luân kéo tôi ra hỏi thử Mẫn có đương nổi vai bí thư không, liệu chi bộ có bầu không. Tôi nói thẳng: Mẫn là cán bộ vững mọi mặt, nhưng e rằng làm việc trên huyện dễ hơn “cưỡi đầu voi” ở một xã sát Mỹ. Tuổi quá trẻ, mau nước mắt, lại là con gái, được đoàn viên và du kích rất tin, còn chi bộ có lẽ coi trọng vừa vừa thôi...
Chi bộ đã tự tay bỏ phiếu chọn Mẫn. Mừng nhất là anh Luân, ông chú bụng như vàng ròng ấy vẫn coi Mẫn là con gà nòi của mình. Lo nhất là Mẫn. Ngạc nhiên nhất hẳn là tôi.
Ngó em không dám ngó lâu, dù em ngồi giữa mọi luồng nhìn. Cả hai chúng tôi chăm chú nghe, nghĩ, ghi, nói, chỉ ngắm nhau khi có một lũ tàu bay sà thấp qua làng, đáp xuống Chu Lai hoặc rời Chu Lai đi miền Tây, ồn nhức óc trong một phút, phải ngừng mọi việc. Những lúc ấy mắt chúng tôi gặp nhau, gửi vội cho nhau mấy tiếng: hay thiệt hè, lạ chưa, sai to rồi, cái này phải nhớ kỹ. Và khi quay đi Mẫn chớm cười ở khoé miệng để nói tiếp: “Em yêu anh, vui quá”. Mẫn đẹp rạng rỡ trong ánh sáng hồng từ đâu trong tim toả lên mắt, thấm cả ra má với môi. Tôi biết hạnh phúc của Mẫn không chỉ là tôi.
Đại hội chi bộ đối với một số đồng chí chỉ là cuộc họp không thể vắng mặt. Nó là ngày hội, ngày tết của những người như Mẫn.
Cũng như tôi và sớm hơn tôi nhiều, Mẫn đã vượt qua quãng đời làm chiến sĩ mới, trong đó cái hăng say đánh giặc có thể bù đắp cho những chỗ chưa biết. Làm cán bộ từng bước lãnh việc lớn hơn, Mẫn gặp trước mắt mình những ngã ba phải rẽ cho đúng, những con sóng lớn phải bẻ lái cho kịp, những cái gút tư tưởng phải gỡ cho khéo, tất cả cứ đổ xô tới trong cơn lốc của cuộc tiến công “vừa chạy vừa xếp hàng” này. Cái băn khoăn buổi đầu về sống và chết, sướng và khổ của riêng mình đã lùi ra sau, nhường chỗ cho những phút căng óc đến đau đớn để tìm cái đúng, tránh cái sai. Đưa đội du kích về bám dân phá ấp, Mẫn không nghĩ nhiều đến tính mạng mình, nhưng câu bè bỉu “mày thí anh em làm hại bà con” nó cứa vào tin đau như cật nứa. Ngậm miệng chịu đòn ngầm của thằng Ba Thấn, được thôi nhưng phải chăng là hèn yếu? Làm sao để chặn ảnh hưởng xấu của chú Liệp mà vẫn giữ được một cán bộ lâu năm, có năng lực? Tới những điều lớn hơn nữa: giữ chắc vùng Tứ Nhơn không lùi một bước có phải là quá liều, để Nhị Lộc ở mức vùng giằng co ít lâu nữa có phải là nhát sợ? Trong cái chân lý lớn của cách mạng, Mẫn phải tự tìm những chân lý nhỏ của từng việc, từng ngày, phải dám quyết định và gánh hết trách nhiệm đôi khi quá nặng...
Qua đại hội, Mẫn mừng ra mặt. Những ý nghĩ và việc làm của Mẫn hầu hết được nhận là đúng. Còn những cái sai mà Mẫn cố chống lâu nay, chi bộ đã kết luận dứt điểm. Được cử làm bí thư, Mẫn còn sợ nhưng không từ chối nữa. Lửa rừng đã đốt các thứ rêu rác, chi bộ Tam Sa hiện ra như một tảng đá đen bóng, sừng sững trụ chắc trên vành đai, làm chỗ dựa cho mấy ngàn đồng bào chống Mỹ. Mẫn tin ở khối đá chịu lửa ấy, tin mình, tin người yêu, bấy nhiêu tin vui góp lại làm nên hạnh phúc đang sủi men trong tim Mẫn.
Anh Bảy quai nón dự họp suốt hai ngày, gần như không mở miệng. Bây giờ anh mới bắt đầu nói thì ba tốp trực thăng từ miền núi về đã kêu rầm rấm qua đầu, phải đợi.
Cũng buồn cười, nghe gọi tên Bảy quai nón người ta dễ tưởng anh cao lớn phương phi lắm, khi gặp mới thấy khác hẳn: anh gầy, thấp, vai hơi khòm khòm, da mốc tuy mấy năm qua ít ở hầm, nói giọng trầm và hơi cà rà, chỉ có bộ râu quai nón rất rậm là xứng với tên. Anh về làm việc với chi bộ Tam Sa đã năm lần, hay gặp hỏi riêng từng đồng chí và vào các ấp thăm đồng bào, kéo anh Tám Liệp cùng đi.
- Tôi xin thêm ít câu về cái đuôi còn nòng nọc...
Chi bộ xôn xao, cười, rồi lắng tai.
- Tôi nghĩ chi bộ ta cảnh cáo đồng chí Liệp và kéo dài hạn dự bị của đồng chí Quì là đúng .Không thể làm khác được. Giữa lúc bận việc tơi bời túi bụi mà chi bộ dành hẳn một buổi để phê phán đồng chí Liệp, rút ra bài học chung, quý lắm đó. Bây giờ đến phần của huyện. Mỗi lần gặp riêng huyện ủy, nhiều đồng chí phàn nàn ông bí thư cản mũi kỳ đà, ông chi ủy quanh năm vắng mặt, nhờ huyện cất chức hay rút đi nơi khác. Huyện cứ để nguyên. Gần đây, sau khi bị Ba Thấn chơi một vố phản chủ, đồng chí Liệp muốn xin về một ngành ở huyện hay ở tỉnh. Chúng tôi từ chối. Vì sao?
Một mảng bóng nào đó làm tối đôi mắt sắc và hay nheo mỗi khi anh đùa tưng tửng. Lúc này anh không đùa. Ai cũng biết anh với Tám Liệt là bạn cũ hồi đánh Pháp. Anh nói to hơn:
- Giữa lúc bà con Tam Sa gọi đồng chí Liệp là ông cách mạng kẹp dù, ông lộc bình xưa cần đem cất kho, giữa lúc các đồng chí khác phải lo xoa dịu những thắc mắc đối với ông chủ tịch thì đồng chí Liệp buộc tội tất cả. Một lần nghe đồng chí kêu Tư Luân với Hai Mẫn mưu giành quyền, làm đồng chí mất uy tín, tôi buộc lòng phải nói: “Anh còn uy tín đâu nữa mà mất! Dân ta theo Đảng đánh giặc hai chục năm ròng đâu có chịu cho ai làm quan làm giàu trên xương máu của mình!” sau mấy lần thức đêm khuyên nhủ, tôi biết chỉ có chi bộ Tam Sa mới giáo dục nổi đồng chí... Cắt chức, đồng chí sẽ kêu om là cấp trên mù quáng. Rút êm đi à? Đi đâu đồng chí cũng sẽ coi mình là ông chủ tịch Tam Sa đã nhiều năm đứng mũi chịu sào, lo kiếm địa vị, kéo bè cánh, kìm bước tiến chung không cho vượt mình. Những người còn ít nhiều tin ở đồng chí sẽ ngờ chi ủy hất cẳng nhau, huyện ủy không công bằng, và sẽ mang đủ các thứ bệnh đồng chí truyền lại. Không được! Không thể để đồng chí biến chất hơn nữa, làm người khác biến chất hơn nữa! Anh Liệp...
Anh Bảy thở hổn hển. Một luồng nắng qua mái nhà rọi chéo trên mang tai anh làm nổi một một sợi gân to, xoắn, làm trắng hẳn một mảng tóc hoa râm.
- Hai chục năm chẵn...anh với tôi gặp nhau hồi vác dao phay đi lấy phủ Tam Kỳ, cứ tiếc hoài không đụng lính Nhựt để chém cho đã. Rồi bày mưu tính kế với nhau đi bộ đội Nam tiến đánh Tây, bị thiếu cân thiếu thước cũng lăn vô đòi khám lại. Học lớp tự vệ ở phủ, có tay khố đỏ cũ vừa dạy vừa chửi, tụi mình phê thẳng, buộc phải sửa. Hồi đó anh ham giết giặc, vui, cương trực, anh ghét những ai theo cách mạng để kiếm chác phần mình, kêu là “tụi đi hôi của”, đúng không? Bây giờ anh khác lắm rồi... Hôm qua anh nhận lỗi trước chi bộ mà không hứa gì hết. Tôi hiểu anh muốn đi cho khuất, bị kỷ luật rồi ngó mặt anh em bà con cũng dị(2). Đừng, anh Tám à. Tụi mình đầu hai thứ tóc rồi, lăn lộn với phong trào đã lâu, đừng tự ái vặt nữa. Huyện ủy dặn tôi mà riêng tôi cũng tính vậy, nói anh cứ ở lại Tam Sa, giúp chi ủy mới lãnh đạo cho tốt, anh lỡ xả rác thì bây giờ phải dọn. Anh làm được vậy, bấy nhiêu đồng chí ngồi đây còn trọng anh hơn trước nữa kia. Tới đó, anh có đi công tác khác thì đồng chí đồng bào cũng trầm trồ nhắc miết anh, từ cái công đứng ra lập đội Tam Sa, tới tinh thần sửa lỗi của người cách mạng. Anh có hứa vậy không? Dám hứa không?
Từ nãy, anh Tám Liệp ngồi thu hình trong góc, cúi mặt. Câu hỏi ném tới gay gắt nhưng rõ là đẫm thương yêu, làm anh giật mình. Anh từ từ đứng dậy, chớp mắt, mắt anh sâu và thâm quầng. Anh ngó quanh một vòng. Không một nét giận hờn nào trên những khuôn mặt đang quay lại với anh. Khắc khoải đợi ở anh một câu trả lời bật ra từ đáy lòng. Núm cổ anh trồi lên hai lần trước khi anh máy môi, run run:
- Tôi... cảm ơn các đồng chí...
Anh nín lặng, ngó lại một lần nữa anh Bảy quai nón bạn cũ, anh Tư Luân đã đưa anh vào Đảng, Hai Mẫn con nuôi anh với vẻ xót xa hiện rõ trên mặt trẻ măng, Năm Ri và Chín Cang mà anh đã gạt đi không chịu đưa đơn xin kết nạp ra trước chi bộ, tất cả đều muốn anh trở lại là người bạn, người chú của họ. Anh tiếp, giọng chợt vững hơn:
- Mấy hôm nay tôi nghĩ nhiều, lộn xộn. Khi thì ăn năn thấy mình sai quá, khi lại trách các đồng chí nặng lời. Tôi cũng tính bỏ đi xa, đỡ mất mặt... Tối qua, họp xong đồng chí Luân với cháu...đồng chí Mẫn còn giữ tôi lại khuyên nhủ miết, ngại tôi nản, bỏ cuộc. Cảm ơn các đồng chí... Xã mình bước vô đánh Mỹ, tôi xin ở lại với chi bộ, lãnh bất cứ việc gì lập công chuộc tội. Tôi lỡ làm sai nói ẩu nhiều rồi, chắc các đồng chí khó tin, có điều...dù sa sút đến mấy tôi cũng không rời Đảng được đâu, mất Đảng thì đời tôi không còn gì nữa...
Anh muốn nói thêm nhưng cổ tắc nghẹn, chỉ lặng lẽ ngồi xuống. Bẵng đi mươi giây, tiếng vỗ tay bỗng bật ra, không rầm rộ như khi nghe thành tích nhưng kéo dài. Một kiểu vỗ tay trầm ngâm, hơi khác thường.
Anh Bảy khòm khòm bước lại tấm bản đồ khu vực Chu Lai vẽ to ghim trên phông, tìm khúc que cầm tay, quay lại:
- Bây giờ tới việc đánh Mỹ. Tôi xin báo cáo nhận định của tỉnh ủy về cái Chu Lai và chủ trương mới...
Pình!Pình!
Hai tiếng nổ bùng liên tiếp trên không, trầm và dội xa hơn tiếng pháo chụp, kéo theo một chuỗi rầm rầm rắc rắc của núi lở: một cặp phản lực xẹt xuống Chu Lai. Ngói nhảy rổn rảng. Tiếng ồn chưa dứt, một bàn tay nào đó bỗng đặt trên vai tôi, bóp mạnh. Tôi quay lại, suýt reo to.
Anh Ba Tơ!
Sau lưng anh nhô ra một bộ mặt vừa thật vừa tinh quái của chú Dé. Cả hai choàng dù kín người, bốc mùi mồ hôi nồng và khỏe của lính chủ lực, cười cái cười nháy nháy lấp lửng của cánh ta khi sắp ăn ngon một trận mà chưa tiện nói. Gặp những nụ cười kiểu đó, tôi không hỏi nhiều, chỉ đấm cho ít trái và trút hết chất tươi trong ba-lô ra cho anh em chén.
*
Vừa xong buổi lễ phát động chống Mỹ, tôi kéo anh Ba Tơ về nhà, không xem kịch hát. Anh Ba Tơ ghé qua H.68, ở đấy có một đoàn cán bộ sắp về vùng Chu Lai, anh muốn gặp riêng tôi nên bươn bả đi trước, qua sông Rù Rì bị tàu rà thổi cho một cặp rốc-két. Tôi rất mừng khi biềt xê mình sắp về đánh cái trận thử sức mà anh Điển dặn tôi chọn chỗ.
Đêm nay liên hoan to lắm. Xã đoàn thanh niên dám chưng tới bốn đèn măng-sông, đặt người cầm thùng thiếc đứng canh, nghe tiếng cốt sừng trâu báo động là chụp kín đèn. Ngót một ngàn bà con tới xem đều mang theo đệm rơm chống mảnh pháo, ban tổ chức đón ngoài cổng chia các khúc hào mà địch để lại khá nhiều. Tôi bỏ xem cũng tiếc, bởi Mẫn sẽ ca bài chòi, nhưng nóng hỏi xê mình quá, còn ngại đoàn H.68 về sẽ bận chúi mũi, đành nhịn.
Nhà mẹ Sáu có người. Để tránh nạn thì tháo giữ miệng, tôi đưa anh Ba sang nhà Mẫn, bộ đội về làng đến gặp xã đội là phải. Tôi nhấc cái nong thay cửa, thắp đèn, thu thú khi đóng vai ông chủ trong căn lều nghèo xác mà khó vào này.
Đến đây lần đầu, tôi thấy Mẫn hơi gàn. Ba chị em treo võng ngủ đâu chẳng được, nhà cửa mang trên lưng là gọn nhất, công đâu dựng chòi cho địch đốt uổng. Dần đà tôi mới hiểu. Dù nhỏ, rách, có khi suốt nửa tháng không ai về đỏ lửa, cái nhà vẫn là nơi đợi cha thờ mẹ, là cái tổ nhỏ cho ba chị em họp lại bảo ban nhau, không ra bầy trẻ lang thang vạ vật. Mẫn không nhờ, cũng cấm các em nhờ vả bà con trong xóm. Mẫn đã từng nói ngang tàng với chị Tám trong khi ngồi trên mái lợp nhà: “Lấy chồng để dựa à? Biết ai dựa ai! Bớt công tác một chút, em dám lãnh nuôi ba bốn trẻ mồ côi nữa cho coi. Chỗ dựa tinh thần là sao? Nhiều anh mới ra trận, hàm răng đánh bồ cạp lốp cốp, cứ níu em: là-là-làm sao chị Hai, cái nổ-nổ-nổ lực nó mạnh dữ ác vậy... Chị Hai phải vỗ lưng miết, các anh mới bớt sợ!”. Mẫn cười ngất.
Tôi nhen lửa nấu nước. Anh Ba Tơ pha chè núi nấu thành cao mang theo, bỏ ra một xấp thuốc Thượng nguyên lá vàng hươm. Tôi uống mê mẩn từng mẩu chuyện cóc nhảy của anh Ba.
Trung đoàn mình được danh hiệu trung đoàn thép. Mới học xong Lời kêu gọi của trung ương, ai nấy phừng phừng chực đánh Mỹ, xê thằng Long đốt lửa thách tàu bay Mỹ tới chọi nhau, nó không tới. Rẫy xê mình bị chất độc hai keo, cứu được phần lớn. Anh em tập bắn phản lực, bay ngang bắn đón đầu, biết bao nhiêu không, có khi đón tới hai mươi sáu thân tàu bay! Thằng Xứng trúng bụng mảnh cối, có nhắn thăm mày, chôn Sa Huỳnh. Ủa, cái thằng, xê mình hốt gọn một xê lính dù ở Sa Huỳnh, được Chiến công hạng nhứt, không biết à? Chút xíu quên, Năm Cẩn gởi mày một lon tiêu, làm lương khô hay vợ ăn đẻ tùy mày, nó nói mày về Tam Kỳ lâu vậy chắc cưới vợ sắp có con rồi. Quân số bây giờ có thừa...
Qua khói thơm của điếu xì-gà gộc, anh ngắm bộ mặt ngạc nhiên của tôi. Chỉ vài tháng mà lắm cái mới quá sức. Anh còn để dành một cái mới nữa:
- Các ổng nhấc tao lên dê phó, mày lên xê trưởng. Phần tao mày biết đó, nắm một xê còn miệng hô tay vẫy được, lên cái anh tiểu đoàn sao nó to quá, ngó không trùm kêu không khắp, tao ngán. Thôi cũng đành. Tao chỉ băn khoăn cho mày. Họ tính rút mày về tham mưu, làm tác huấn hay quân báo gì đó, ưng không?
Anh lại kéo mấy hơi thuốc, thưởng thức cái vẻ bối rối mà tôi không muốn giấu. Anh biết tôi ngại về cơ quan, nhưng ít cãi giằng co khi bị điều.
- Trâu già chẳng nệ dao phay, tao lên trung đoàn bênh mày riết. Tao nói mày đổ máu con mắt ra xây dựng xê mình, nhớ từ cây tuyn gãy báng đến con cậu liên lạc bị còi xương, anh em tin mày, các ông xốc xới hàng cán bộ vậy lính nó kêu lắm. Số chỉ huy cứng có ít, các ông thấy ai đánh khá thì một hai rút về bàn giấy, tới khi nó lớ ngớ hỏng việc lại xách nó thả chỗ khác, hư hết người. Cái trung đoàn bộ phình to quá rồi, đơn vị cũng như người, hễ to bụng là đâm ỳ ạch, đưa bớt xuống cầm súng dài cho anh em nhờ. Tao nói ngang vậy các ông trung đoàn lại nghe lọt tai mới kỳ. Bây giờ tao còn nắm xê mình, mày về gấp để tao bàn giao. Vác ống dòm coi Mỹ hoài, chắc ngứa tay lắm hả?
Tôi nhấp chén nước chè thơm đắng, bâng khuâng khó nói. Được ở lại xê mình, ngon rồi, nhưng muốn ở thì phải làm trưởng phải thế chỗ anh Ba Tơ. Tôi thường lãnh trách nhiệm mới không mấy khi đắn đo, biết mình có sức gánh nổi. Lần này, tôi nghĩ ngay đến cái tủi hổ của người chỉ huy mỗi khi anh em trong đơn vị cố ý nhắc mãi những mặt giỏi mặt tốt của thủ trưởng cũ, để nhấn rằng người thay còn kém xa. Tôi nhìn khuôn mặt đầy mụn cá và to ngang, biết còn lâu tôi mới theo kịp anh Ba Tơ. Gay lắm.
Tên thật anh là Nguyễn Ba. Để khỏi lẫn, đồng đội ghép cho anh vô số cái đuôi rất quấy: Ba Gai, Ba Lăng Nhăng, Ba Bị, Ba-ri-e, đủ trò, sau anh phải tự đặt là Ba Tơ. Dính lâu nhất là tên Ba Giấu cùng với cái tích buồn cười của nó.
Quãng đầu 63, anh đưa về Thăng Bình một bộ khung cán bộ rất mỏng để xây dựng đại đội. Anh dẫn quân luồn sâu xuống vùng biển, “huậy” gắt, rút thanh niên, quyên lúa, đánh giặc kiếm súng. Trên hỏi, lần nào anh cũng trả lời rất bí, chừng như chẳng làm ăn gì được. Sau đảo chính Diệm, trung đoàn rút C.215 về, chao ôi, cả một đại đội no quân số, có cả cối 60, đại liên! Trung đoàn đã biết trước nhưng kiểm tra mãi không nắm được con số đúng, nay anh mới hết giấu. Anh phân trần: “Tại các ông cứ hăm he rút sớm, mình phải giấu quân, giấu súng, giấu lúa, cũng là giấu cho cách mạng chớ đâu cho mình!”. Nghe anh báo cáo mà ban chỉ huy trung đoàn cười bò ra, đặt cho anh là ông Ba Giấu, cử Năm Cẩn về làm chính trị viên, soát lại giàn cán bộ, cho học một đợt, và xê mình từ đó ngày càng ăn nên làm ra.
Chẳng nói gì nhiều, riêng cái tài bắn của anh đã đủ cho tôi học mọt xương. Anh không chỉ bắn giỏi, phải gọi anh là nghệ sĩ bắn. Với cây Côn 45 có hai nòng dự trữ, một bao đạn chọn đúng thứ đóng hộp năm chục viên và dán nhãn pistol, anh hay biểu diễn cho chúng tôi xem tất cả các kiểu bắn có thể nghĩ ra: bắn nhắm mắt, bắn ra sau lưng, bắn qua túi quần, bắn khi đang nhảy qua tường hay qua hào. Xem vết đạn trúng đích mà kinh, nhưng ngắm người bắn lại mê, tay anh dẻo và đẹp lạ. Khi xung phong, cây súng ngắn của anh được tính xấp xỉ một tiểu liên. Anh bắn thạo tất cả các loại súng thường gặp, cả cối 60 và ĐK.57. Bao nhiêu lần chúng tôi đã đuổi địch dưới làn đạn chỉ đường và mở đường của anh đại đội trưởng, hoặc reo ầm khi một trận mưa cối chợt xé nát cụm giặc chặn phía trước!
Còn nữa. Còn lúc xê mình đang đi đường rừng giữa căn cứ, bỗng nghe bộ phận dẫn đầu bắn lốp bốp, báo truyền gặp địch, rồi đạn to nhỏ từ phía trước ầm ầm đổ tới, rung cây chặt cành. Địch bao nhiêu quân, ở đâu, dàn cách sao, rình sẵn hay thình lình húc nhau? Anh em tản rộng, nép sau các gốc cây, lên đạn, trong khi anh Ba Tơ đứng im đấy, mặt lì ra, miệng đếm lẩm nhẩm. Không thể bàn hay giục trong mấy chục giây rất nguy hiểm ấy, anh sẽ quyết định một mình, ăn vua thua chịu. Anh quay lại hét: “Thiêm, nắm bê Một đánh vỗ mặt, trụ chắc nghe! Các bê theo tôi!”. Tôi lao lên đầu vẫn tự hỏi: “Sao anh dám liều?”. Anh dẫn hai trung đội luồn rừng khá xa, dàn cẩn thận thốc vào đúng cái chỗ có bộ đàm gào và súng cối phọt đạn tùm lum, diệt bộ phận chỉ huy và đánh tan cánh quân giặc. Sau đó anh phải mất nhiều công giảng giải, chúng tôi mới hiểu anh nghe súng nổ thế nào mà nhận ra địch có một tiểu đoàn đụng ta trong khi xuyên núi, đang duỗi dài như rắn và nằm bắn bậy ra hai bên. “Tiểu liên nó cắc cắc trước, rồi súng trường, chặp lâu mới có trung liên, tiếp đại liên với cối, phải chưa? Súng bắn như xay lúa mà đạn bay về phía mình có ít, phải chưa? Không nghe cối tám mốt nó giã rung núi à? Hồi ở Hạ Lào mình với Tây lội rừng tông nhau miết..”. Tôi sẽ xử trí được như anh không?
Vẫn chưa hết. Những so sánh đáng sợ cứ níu nhau tuôn về.
Năm kia, sau một trận tập kích ban ngày, anh Ba cự té tát vào mặt tôi rằng tôi cho trung đội tiến quá chậm, tới chỗ chạy thẳng lưng được vẫn còn bò như rùa, để địch sẩy cả mớ.Tôi cãi không tiếc lời. Hai trung liên địch trên gò quạt xuống nóng rát cả lưng anh em, cho chạy lên để nướng lính à, ông nói ẩu vừa vừa chớ. Không ai chịu ai. Anh Ba kéo cả cuộc họp cán bộ ra chỗ đánh - cách hơn ba cây số- đặt hai trung liên ngay trên hai đống vỏ đạn của địch nhả ra, mời từng đồng chí nằm ngắm thử: đường tiến cũ của chúng tôi khá kín nhờ một múi gò che đỡ, đạn phải đi cao quá đầu. Anh còn thách tôi bắn trúng anh chạy thẳng lưng, hoặc tìm trên thân cây được một dấu đạn xuống dưới hai mét. Tôi thử đủ cách rồi chịu thua, xin nhận kỷ luật. Anh lại gắt lần nữa: “Cái thằng, mỗi lần đạp cứt một lần chặt chân đi à?”. Trong chiến đấu, những chuyện như vậy là cơm bữa, qua nửa tháng mọi người đã quên ráo, nhưng riêng tôi nhớ mãi để không bao giờ phạm lại.
“Anh em tin mày...”. Có lẽ anh em tin tôi ở vai trò đại đội phó đấy thôi. Cậu Sanh chính trị viên phó mất đi chưa có người thay, tôi gánh một phần việc của cậu nữa. Đúng là tôi lo việc quản trị được khá, câu lạc bộ quay lên rôm rả, chịu khó dạy văn hoá, lên lớp các bài lý thuyết quân sự cũng xuôi chảy, từng lúc anh Ba Tơ nắm đơn vị không mắc lỗi gì nặng. Anh em tin ở giáo Thiêm, bầu Thiêm, tay Thiêm “lão binh tri súng” và “lão nông tri rẫy”, được thôi. Nhưng tất cả bấy nhiêu hoa lá làm sao thay được cái gốc lõi là tài cầm quân đánh giặc?
Tôi nói thẳng mối lo ấy với anh Ba Tơ. Ngoài sân đình, tiếng đồng ca chợt im, hai chiếc trực thăng rọi đèn pha dọc đường. Một đang kéo qua, cái chổi sáng quét chéo xuống rung rung nhảy nhảy. Anh Ba Tơ châm điếu xì-gà mới, buông gọn:
- Mày coi ai khá, mách miệng đi, các ổng đưa về xê mình cho lẹ.
- Tôi có nắm cán bộ đâu mà biết!
- Vậy cấp trên nắm, thấy mày làm được, lo cái gì. Tao với Năm Cẩn sợ mày kiêu, không nói ra, vậy chớ bàn lẻ với nhau mày lên xê trưởng là đáng. Hồi đầu năm anh Đạt hỏi ý riêng tụi tao nên lấy ai thay thằng Long bị đạn qua phổi, tao bàn rút mày về phụ trách cái hai năm lăm, sau thằng Long ra viện còn đánh được, các ổng thôi. Mày rồi cứng hơn tao... Thiệt chớ. Tao quen đánh đường rừng kiểu chín năm, giờ chơi với ngụy còn được, sắp tới đánh Mỹ coi bộ tao lạc hậu nhiều bề Thiêm à. Thằng Mỹ lắm cái mới, anh em mình phải động não gắt mới ăn được nó, mà tao ít chữ nghĩa quá, đầu óc đặc sệt học không vô, chưa biết tính sao đây...
Anh không còn khuyên tôi nữa, mà đang nhắc lại một nỗi khổ kéo dài của đời anh, vào bộ đội mới thoát mù chữ. Suốt những năm tôi được học ở nhà trường kháng chiến, anh lặn lội đánh giặc ở Tây Nguyên, Hạ Lào, che chở cho lớp đàn em lớn lên trong vùng tự do. Tôi biết chỉ nên nghe, không nên bàn góp bằng những câu anh có thể nói hay hơn tôi.
- Cách nửa tháng tao đưa anh em đi săn tàu bay thử một buổi. Chỗ đèo Eo Gió, phản lực đi đánh miền núi cứ xẹt qua xẹt lại như nhem thèm. Anh em mới học lý thuyết bắn phản lực, ham lắm, tao cũng muốn tập chỉ huy. Một đại liên, hai trung liên, thêm một tổ yểm hộ ở đồi khác... Mày biết không, đón đầu bốn lần bắn trật cả bốn. Tao đổ mồ hôi hột đó Thiêm. Xạ thủ Ba Tơ mà đốt đạn lấy tiếng nổ, nhục quá. Tao lắp riêng một băng Ba(3), hai viên thường một viên khói, đơm súng đợi. Bỏ tụi đi cao, lựa miết mới gặp mấy thằng Thần Sấm phóng tới, tao rẹt thằng gần nhứt. Cha mẹ ơi, đường đạn vuốt mây vuốt gió chớ đâu vuốt được đuôi nó, lọt đằng sau tới mười phân là ít! Còn may tao phục đường về, tụi nó hết xăng hết bom không quần dai, chỉ xịt đùng ít trái rốc-két... Đó, tao lên lớp cho anh em cứ nhắc miết: học yếu lĩnh mới phải rán bỏ tật cũ, bây giờ chính tao không sửa được cố tật bắn tàu bay cánh quạt, lâu năm quá rồi. Còn nhiều gay cấn nữa Thiêm à. Mày hơn tao ở cái hăng, cái mới, cái khoa học. Anh em giữ được mày ở lại xê mình, hỉ hả lắm. Tiểu đoàn trung đoàn thì quý mày đánh gan mà chăm học chăm làm. Mỗi lần tao tự do du kích hay là nổi khùng cãi bậy, các ổng lại giễu tao ngoài bốn mươi mà không chín chắn bằng đứa thanh niên...
- Chà, thủ trưởng lên cơn khiêm tốn quá ta!
Tôi đùa để cắt ngang cái đà tự vạch lỗi của anh Ba. Anh “hự” một tiếng bực dọc, rồi cười:
- Thì cũng nói cho thấu lý vậy, tao ở tiểu đoàn còn trị được mày chán chê... Trước tiên là tội phá sức. Mày đen thui, ốm nhom, coi thiệt ớn.
Anh đưa tôi cái gương con, càu nhàu:
- Về địa phương vậy đó, làm thì trăm việc tới tay, ăn thì đồng chí chịu khó thắt lưng buộc bụng. Đánh Mỹ bây giờ phải bôn tập từ xa, cõng năm chục ký chạy năm chục cây, mày theo sao nổi? Các cha mượn được người là vắt cho kiệt, hết xài được mới trả cái vỏ chanh. Tay nào bí thơ ở đây? Tư Luân chớ ai nữa! Để lát tao hỏi nó, quen cũ mà tao chẳng nể đâu.
Tôi nghĩ đến cảnh hai ông gia trưởng đụng nhau, cười xoà.
- Bí thơ là cô Hai Mẫn, thương lính lắm anh ơi!
- Úy, con nhỏ chút xíu mà... Chi ủy có nếp có tẻ là vừa, nâng đỡ kiểu đó sụn lưng con gái à! Mà thiệt, dạo chống lụt nó chú chú cháu cháu ngọt như chè hai, hồi nãy gặp tao nó hỏi mấy tiếng ấm ớ rồi lủi mất. Nó bắt chước tay Liệp làm phách cho oai hay sao chớ!
Chết không, anh cán bộ huyện đội Tam Kỳ năm xưa trở lại, lạ nước lạ cái quá đỗi. Tôi phân trần giùm Mẫn rất vội, sợ bất chợt cô em về bị anh nạt cho mất mặt, dần dà lái được câu chuyện sang hướng khác, đùa rằng ở đây các cô chưa chồng đạt tiêu chuẩn bốn tê - đủ sức tự túc và tiếp tế - còn đông lắm, phải cho các cậu “bộ đội phòng không” trong xê mình ở lại bám vành đai ít lâu, ai chứ cô bí thư chắc mừng hơn cả. Ấy cũng là mở đường để nói thật với anh câu chuyện của hai chúng tôi.
Vừa tới đó thì Mẫn bước lên thềm. Chú Dé và Út Hoà đi sau, cười rúc rích.
Trông Mẫn lạ hẳn đi. Mượn đâu được cái áo pô-pơ-lin trắng vẫn rộng hơn người, có lẽ sợ bẩn áo nên Mẫn cầm các-bin và nịt đạn trên tay. Tóc chải dầu dừa, tết hai bím thả trên ngực căng tròn, chắc hôm nay Mẫn không bó ngực nữa. Mẫn tươi ra nhiều, xinh, ừ mà xinh thật, vừa có cái vẻ thẹn thò muốn làm dạn của cô gái đôi mươi, vừa nghiêm nghiêm như bí thư bước vào cuộc họp, khác lắm.
Mẫn khép nép “chào chú”, treo súng và nịt lên đầu con sẻ, vẫy ngay Út Hoà ra sân thì thào cái gì, rồi cả hai băng vườn qua nhà mẹ Sáu. Càng lạ nữa. Tôi đánh trống lảng, trêu chú Dé bằng mấy câu tiếng Co sai nát. Dé đã lên tiểu đội phó trinh sát nhưng vẫn trẻ con lắm, Út Hoà dễ thân là phải.
Chừng mười phút sau, Mẫn lễ mễ bê một nồi cháo vào, Hoà bưng cái mâm đầy thịt gà xé phay và gỏi mít non. À, à, một ai đó đi xem kịch đã báo cho Mẫn rằng anh Thiêm dẫn chú Ba Tơ tới nhà cô, đang đợi ở đấy. Mẫn nhờ mẹ Sáu về trước nấu giúp cháo gà, Mẫn xong phần việc của mình sẽ về mời chúng tôi. Còn cái dáng bẽn lẽn kia... thôi chết, hèn gì, Mẫn tưởng chú Ba Tơ thay mặt đơn vị đến hỏi Mẫn cho tôi! Có thể Mẫn hiểu lầm từ ban chiều nên giữ thế thủ và lẩn mặt, càng hiểu lầm vì chúng tôi đàng hoàng vào chiếm chỗ này như Mẫn đã làm dâu bộ đội trăm phần trăm!
Tôi gặp ngay đôi mắt Mẫn: thương, trách, nũng nịu một chút, và “em lì cho coi”. Tôi lắc đầu, cười, nói luôn:
- Anh Ba về bàn phối hợp Mẫn à. Ảnh nhất định đòi tới nhà xã đội cho đỡ lộ bem, té ra trúng chầu cháo gà, ma cũ không thiêng bằng ma mới đó nghen!
Anh Ba Tơ đã hết bực, cốc nhẹ vào trán Mẫn:
- Chồng con gì chưa, Mẫn? Tao mới nghe mày lãnh cái bí thơ, đang lo giùm đây, chắc con Hoà lấy chồng trước chị nó quá!
- Chú!
Chúng tôi không đợi mời, ăn như rồng cuốn. Mẫn rạng mặt như tất cả các bà chủ nhà của ít lòng nhiều, luôn tay múc cháo, nhắc chú Dé “ăn nữa đi em” bằng cái giọng rất chị Hai. Còn Út Hoà cứ trêu Dé và cười rũ: “Anh ăn chút chút, bằng nhau con gái!”.
Mãi đến hôm qua tôi mới thật vỡ lẽ vì sao Mẫn sợ bị ép uổng. Tôi đi với anh Tư Luân coi khúc địa đạo đầu tiên xoi thông, hai đầu mối cưỡi lên nhau nhưng sửa dễ. Sau khi leo lên, tôi kể luôn tin sốt dẻo của chúng tôi. Anh đứng ngây ra, mắt chói nắng hấp háy. Mảng muội đèn dưới mũi cũng cựa quậy. Anh há mồm một lát mới bật ra tiếng cười khớ khớ, phát lưng tôi một cái:
- Thì mình gả nó cho lão lâu nay mà. Tưởng lão chê, hoá ra mắt tai lão còn tốt. Nghe nói các nước người ta họp con gái lại đấu xảo, thiệt không chẳng biết, có vậy mình dám gửi Hai Mẫn đi liền... Có điều, lão non tay ấn rồi. Thầy pháp sợ ma rồi. Nghề con gái, ưng muốn chết nó cũng phải làm điệu, ừ lập tức sợ người ta coi rẻ. Con Ba nhà mình đó, hẹn hò trót năm với thằng Liễn ở bộ đội tỉnh, tới khi cưới nó cũng than thở là anh Liễn bôn quá, là cha mẹ thương anh Liễn buộc nó lấy chồng, chớ nó tính chờ thống nhứt kia. Mình bày lão cứ cưới phứt, quyền ở lão chứ quyền gì nó, thương nhau cho đủ biên lai tồn căn đi. Lão để lâu sẽ sanh ra nay giận, mai hờn, mốt đòi đổi gác, rối óc mệt người lắm, bà con lại chê là mèo mả gặp gà đồng. Mình kiến nghị với lão một điều thôi: cưới xong lão cho nó ở đây gánh vác phong trào ít năm nữa. Lấy bán than thì phải lên ngàn chớ sao, ác cái chỗ mình kẹt cái khâu cán bộ quá, lão thấy rồi đấy... Nó sợ có con à? Tào lao. Coi bà Bỉnh Tam Trân đó, đẻ cứ đẻ, công tác vẫn cứ công tác. Chị Út Tịch anh hùng cỡ lớn đó. Cả làng Cá không nuôi dùm nó được vài đứa con sao? Cưới ào đi. Ngày xưa người ta đạp cửa vô buồng rồi cũng ăn đời ở kiếp với nhau, con đàn cháu đống. Hễ lão nhịn, con hùm đó dám bắt lão đợi đủ chục năm, nó dựng vợ gả chồng cho em út xong hết mới cho lão cưới à!... Dễ thôi, lão yếu bóng vía cứ để mình đả cho nó thông. Mèo già thì chó cũng già, mi cầm duyên nó mi đà được chi! Lão nhắm tháng nào cưới được?
Tôi ngẩn người khi nghe những lời chí tình mà rất chói tai ấy. Chao, những lề thói cũ còn mạnh đến vậy ư? Tôi quên mất chùm dây leo của phong tục ngày xưa vây quanh người con gái, đã lỏng đi một chút phần nhưng ta bận đánh giặc liên miên chưa kịp dọn dứt gốc, ấy là chưa tính tới các thứ luật hôn nhân và gia đình của địch vun đắp thêm vào. Cái lý nó móc xích khá rõ. Mẫn thú nhận yêu tôi, coi như tôi đã bỏ miếng trầu vào ngõ nhà Mẫn rồi. Một miếng trầu cũng dâu nhà người, tôi xỏ mũi dắt đi càng sớm càng hay, cưới vợ thì cưới liền tay mà. Tôi sẽ bắt Mẫn về nhà tôi, thuyền theo lái gái theo chồng, lơ mơ thì vợ tôi tôi trị, không ai được xía miệng vô. Bỏ mẹ, sao cái quyền nắm dây cương của tôi lại to quá vậy? Ngay anh Luân quý Mẫn hơn ai hết,hễ bàn tới đạo vợ chồng cũng nhận ngay tôi là ông chủ, chỉ mong tôi rộng lượng cho Mẫn ở lại Tam Sa làm bí thư thêm ít lâu! Và cả Mẫn nữa, ngày mới quen còn khá ngang tàng, từ khi yêu tôi bỗng đâm sợ sệt, bởi chưa biết tôi sẽ thống trị Mẫn ra sao... Ở bộ đội, ở những nơi lứa trẻ tuổi sống chung với nhau đông đúc, chúng tôi được học về luyến ái quan mới, về bình đẳng giữa gái và trai. Còn trên mảnh đất hết lụt đến lửa này, từng ngày phải chọi với địch để sống còn, ai lại đi gợi những chuyện ấy cho thêm rắc rối sự đời!
Thế nhưng cuộc sống tự nó cũng thải bớt những cái lỗi thời. Từ ngày về Tam Sa, tôi chưa hề nghe nói tới một chỉ thị nào về cán bộ nữ, rốt cuộc chi ủy mới năm ngoái vẫn có hai cô rất trẻ, được bầu không phải vì cần “có nếp có tẻ” mà vì họ thực sự có bản lĩnh. Từ coi trọng cán bộ nữ về mặt chính trị tiến tới coi trọng người phụ nữ nói chung trong nếp sống nếp nghĩ hằng ngày, khoảng cách hình như không xa lắm. Có lẽ vì thế mà khi tôi khuyên anh Luân đừng vội đả thông Mẫn, anh ngẫm nghĩ rồi cười:
- Cũng phải. Con nhỏ không vừa đâu, ép nó, nó lý cho mình cứng họng liền. Ngựa hay thường có chứng, lão ráng trị cho khéo mà dùng, đừng bỏ uổng. Hồi nào bí tụi mình xúm vô giúp lão.
Nhớ câu chuyện hồi ấy, tôi ngắm Mẫn và buồn cười: ban nãy cô em định sa tiền hay đá hậu đấy? Bây giờ êm rồi. Mẫn ngồi trên góc chõng tre, trao từng bát cháo cho chúng tôi, mủm mỉm nghe chuyện dây kẽm gai căng giữa các ngọn tre chống trực thăng ở Tiên Phước và diều giấy cản đường phản lực ở Điện Bàn, thỉnh thoảng đôi mắt đen lại trùm lên tôi một vầng sáng biết ơn. Được đánh giặc, được yêu, Mẫn chỉ cần bấy nhiêu để vui trọn một đời không hết vui. Mỗi lần chúng tôi nhìn nhau qua khói cháo gà, lại thêm một giọt nữa gieo vào bình vui chung của hai đứa để dành. Rượu quý càng để lâu càng nồng men thôi.
- Cái thứ áo giáp đó Thiêm à, tao bắn thử rồi. Đạn Côn xa mười thước không lủng, còn A-ca, Xê-ca-xê đùi toác hết. Thứ đạn ít thuốc mà xuyên mạnh khiếp. Mẫn thử chưa?
- Cháu đã thấy đâu mà bắn,anh Thiêm?
Tôi lắc. Anh Ba Tơ cau mày:
- Gay đó. Mày bám địch riết rồi quên ta mất. Út Hoà coi đừng đi khoe nghen, địch nó biết chủ lực. Đóng cửa lại.
Chú Dé vác súng quấn kín trong tấm choàng nhựa, ai hỏi chú đáp tỉnh khô: “súng hư, mang đi sửa”. Chú tháo bọc, lấy ra một cây súng trường mới tinh hảo, hình vóc hơi giống cây mút-cơ-tông Pháp hồi xưa. Tim tôi đập gấp khi tôi đưa tay đỡ nó như bồng con, và thấy ngay nó đẹp, rất gọn, nặng vừa phải, cái lưỡi lê xếp mới nhìn đã ưng. Nghe khen hoài các kiểu súng của bộ đội miền Bắc, nay mới được cầm tay, tôi muốn hôn nó một cái. Giá trị ra sao chưa biết, vượt bao nhiêu đường đất vào được tới đây là quý lắm rồi. Mẫn đưa tay vuốt nòng súng, chớp chớp mắt.
Tiếp liền đó thói quen nghề nghiệp trỗi dậy. Tôi khám cây CKC với tất cả cái khó tính của người lính đã bắn qua mấy chục kiểu súng góp nhặt, từ Anh-đô cũ kỹ tới AR.15 của Mỹ mới ra lò, chỉ thua anh Ba tơ có thứ súng Nga hoàng dài thòng và trường Nhật cỡ đạn nhỏ xíu, có vỏ sắt bao kín khoá nòng. Biết ơn miền Bắc cho súng là một việc, đánh giá cây súng tốt hay xấu để dùng phải cách là việc khác. Anh Ba Tơ chỉ cho xem từng chi tiết nhỏ một, chúng tôi xúm hỏi mãi, thử mãi bắt mê, mỗi lúc một thêm hớn hở; cứ như tôi đến tận xưởng đặt kiểu nhờ đúc dùm, và anh em thợ đã thêm vào đấy bao nhiêu cái hay cái mới mà tôi chưa từng gặp. Rốt cuộc, chính anh Ba phải giằng súng cất đi, hẹn hôm sau cho chúng tôi bắn thử, và thì thào bảo rằng xê mình còn nhiều thứ ngon nữa, cả súng chống tăng B.40 bắn chảy thép như đèn sáp.
Mẫn tròn mắt tròn môi:
- Cha mẹ ơi, xã cháu được một cây như chú nói đó, cháu lãnh giữ nó lập tức, coi thử xe sắt còn húc vô nữa hết!
- Lần lần rồi có chớ. Mỹ vô một ngàn súng mình cũng phải thêm đôi cây mới mới... Thôi đi ngủ!
Chỉ trong vài tiếng mà tôi mấy lần bị anh “giật gân sư” này làm cho nổi sốt. Hiểu thêm chút ít về Mỹ, lại chậm chân hơn xê mình một quãng xa rồi, đuổi sao cho kịp đây!
Đến sáng hôm sau, anh Ba Tơ mới ngạc nhiên. Quì trên mỏm đồi gần gò xoài, nơi Mẫn đưa tôi đến nhìn xuống đường nhựa dạo trước, anh xoay ống dòm một vòng xem những quân Mỹ đóng chi chít suốt từ An Hoà đến sông Trà Bồng, từ ven biển đến đường Một, với những chuỗi tàu lớn nhỏ đậu như lá bàng, lá tre sau lưng. Anh buột miệng kêu: “Gớm hè”.
Anh chưa thấy một căn cứ nào to và dày đặc như thế.
Chú thích:
(1) Đ2: tiếng lóng gọi địa đạo
(2) Ngượng
(3) Ký hiệu tắt cuả trung liên Mỹ Braoninh (BAR)
Chương 20
Thật tình, tôi ngậm miệng nhưng cũng sửng sốt không kém anh Ba Tơ. Chỉ sau hai ngày họp chi bộ, tôi chĩa ống dòm vào một căn cứ Mỹ đã đổi khác quá nhiều.
Hồi bật ra ngoài gò, tôi nhờ Năm Ri dẫn đi sờ cái Chu Lai mấy lượt, lại thường lên núi Chúa nhìn xuống: nó biến hình rất chậm, cũng mệt mề như đám lính ngụy xây nó. Tới khi chính mắt xem Mỹ đổ quân, đổ của vào ùn ùn, tôi vẫn không cho rằng chúng hối hả, có lẽ vì một giờ của tôi trong hố cát chỉ có thể dài bằng hoặc dài hơn một giờ của địch. Mãi hôm nay tôi mới nhận thấy kẻ thù trước mặt đang vội ghê gớm. Một bầy mối kéo tới chỗ lạ kiếm mồi đang cuống quít moi tổ, vừa xoi lò ngang ngách dọc dưới sâu vừa đùn lên những ụ đất phình nhanh. Ai đã làm nhà trên vùng đất mối đều nhớ cái nạn mối đắp hầm nổi từ chân cột chân vách leo lên, bẵng đi vài ngày quên soi đèn phủi mối là đủ cho con đường bằng đất sét rỗng ấy ngoi đến mái, và những cặp càng đen hoặc nâu bắt đầu xé gỗ trên kèo.
Không đâu như trên miền cát mênh mông này, các thứ đồ nghề ăn cướp của Mỹ được múa gậy vườn hoang thả giàn. Thằng lính tốt đen có thể say nắng ngã quay ra, mặc, lũ binh khí kỹ thuật cứ ngày đêm ầm ù. Chỉ riêng một khoản làm đồn cũng đủ thấy địch dám liều, dám tốn kém. Tụi công binh đáp trực thăng xuống đỉnh gò, đặt từng tấn chất nổ, sau vài giờ đã hớt gọn đi cái chỏm tròn trên đồi như ta chặt trái dừa uống nước. Tiếp bầy xe ủi đất vừa leo lên vừa mở luôn con đường trôn ốc cho ô-tô theo sau, trong vài ngày đã nạo phẳng một mảng cao nguyên đỏ hay xám. Đất san và nén tới đâu, bọn cần cẩu bay xách những lô-cốt bê-tông đúc sẵn thả xuống tới đấy, xe ben và xe cẩu đi xếp bao cát làm tường, lắp đều đặn những khung châu mai cũng đúc sẵn. Nằm trên chuồng chim của bà dì S.26, tôi đã xem tụi Mỹ xây đồn Gò Miếu theo kiểu ấy, và hôm nay nó hiện trong ống dòm như một con nhện núi khổng lồ nằm im giữa mạng lưới kẽm gai xõa rộng gần tới chân gò. Các cụm quân đóng dã chiến, các bãi xe, bãi pháo quanh sân bay cũng vậy, mới đây chỉ có lều vải xanh và mấy vòng kẽm gai, ít đống bao cát, nay đã cộm hẳn lên với lô-cốt, tường thành, rào chen mìn, đường ô-tô. Chắn chắn cái phần bên trong thuốn sâu xuống đất còn công phu hơn nữa. Cứ theo cách nhìn của bác S.24 có bộ râu dài chống bắt lính, bầy giòi Mỹ đã nở ra lúc nhúc lắm rồi, nhưng mới có một số hoá ruồi xanh đi ném bom bên ngoài thôi.
Anh Ba Tơ mới ngạc nhiên vì thấy căn cứ Mỹ to, chưa thấy cái sức phình gấp của nó. Nghe tôi tả lại cái Chu Lai cách đây ba tuần, anh buông ống dòm, trầm ngâm:
- Chạy đua với Mỹ, chắc là mệt. Thằng Pháp ở Điện Biên ra sao mình không biết, chớ khu Năm mình đánh nó cũng động trời lắm, mà...
Anh khoát tay về phía trước thay cho một so sánh. Tôi cười:
- Anh bước vô cuộc chiến tranh thứ ba rồi nghen!
- Ờ mình tưởng hai cuộc là xong, té ra còn thêm keo nữa. Lần này chắc là sự bất quá tam. Tới khi Mỹ thua rồi, đố thằng đế quốc nào đụng độ với ông Việt Nam! Có điều... cậu báo cáo lên ông Điển cũng y như nói với mình hả?
- Chớ sao!
- Các ổng có quy cho cậu phục Mỹ, sợ Mỹ không?
Tôi ngẩn ra. Lại có chuyện vậy nữa kia? Anh Điển chỉ nhắc tôi phải nhìn tụi Mỹ bằng con mắt của người lính chiến, thấy cho hết cái dễ, cái khó để rồi đánh nó, không được hời hợt hay một chiều. Anh có chụp ngầm cho tôi cái mũ nào chăng, tôi không biết và cũng chưa cần biết, chỉ lo tìm hiểu tận ruột thằng Mỹ và nghĩ cách thắng nó. Tất nhiên tôi có thể nghĩ sai, nhìn lệch, nhưng từ đó đến chỗ sợ và phục Mỹ cũng xa bằng Chu Lai đến Ca-li-phoóc-nia!
Tôi vặn:
- Anh thấy tôi nói dựa cấp trên hồi nào chưa?
- Không. Mình quý cậu ở chỗ dám nghĩ, dám nói, dám làm, mà lại ít nóng mũi cãi bướng như mình. Nhưng mà...Năm Cẩn mới đụng Sáu Bồng, hơi găng. Mình thấy già Cẩn nói đúng, nhảy vô...
Anh nhăn mặt như vừa uống dầu cá. Tôi biết cái kiểu “nhảy vô” của anh, rất thật bụng nhưng xốc xổ đổ tháo hệt con trâu nhảy vào lò chén. Bỗng dưng tôi nhận ra từ sáng đến giờ anh đổi cách xưng hô. Anh tránh lối mày tao suồng sã trước mặt cán bộ Tam Sa, hay muốn từ nay tôi nhớ rằng tôi gần ngang cấp với anh, không nên tự hạ mình nữa trước cái khoảng cách mười ba tuổi và cả một lần kháng chiến? Có thể cả hai. Tôi không hỏi, trước sau anh cũng tự nói ra thôi. Chúng tôi chưa hề giấu nhau chút gì.
Sáu Bồng ở quân khu mới về làm chính trị viên C.255. Chúng tôi gặp mấy lần, thấy cậu lanh lợi, vui, hăng, bị cái bệnh giải thích nhiều quá nên không có thì giờ nghe ai cả. Một lần nghe cậu giảng cho một nhóm chiến sỹ rằng Bô-li-vi là một nước ở Bắc Phi, rằng đại liên 30 là pháo tự động cỡ 30 ly, tôi đã ngắt ba bông râm bụt bó lại, tới bữa cơm mới đưa tặng cậu. Anh em cười ồ, cậu ta cũng cười, có lẽ không hiểu cái ý ba hoa.
Trong lớp tập huấn vừa rồi, nhân bàn về công tác tư tưởng, Bồng nói rất bốc:
- Mỹ đang đổ bộ ào ào, bộ máy tâm lý chiến của nó làm rùm beng về sức mạnh Huê Kỳ, bây giờ mà ta còn nhắc tới mặt mạnh của nó nữa là nối giáo cho giặc, bộ đội dễ hoang mang!
Năm Cẩn cứ lành lành:
- Cha, vậy nói sao ta?
- Phải nhấn miết cho anh em thuộc lòng rằng ta mạnh địch yếu. Thằng Mỹ đáng ghét, đáng khinh, đáng tởm, không đáng sợ chút nào hết.
- Chỗ đó mình đồng ý cái rốp! Rồi sao nữa?
- Gì mà sao?
- Giả dụ như... có nên nói trước đánh xe tăng khó hơn đánh xe lội nước, bắn phản lực khó hơn bắn tụi cánh quạt?
- Cái đó anh em tự giải quyết thôi. Tư tưởng thông, tự nhiên nảy ra biện pháp tốt.
- Đồng ý nữa. Đã quyết ắt sẽ biết! Có điều “anh em” là ai? Mình ở đại đội, ra trận cũng cầm tiểu liên, đeo thủ pháo như chiến sĩ, mình phải nghĩ chung với anh em, tìm cách đánh sao cho thắng chớ...
- Anh cứ nghĩ sa đà về kỹ thuật, võ khí thì chỉ có thua thôi! Người lính ra trận phải sôi máu căm thù, phải say khói súng, không được thoáng qua một chút lo lắng trước sắt thép của Mỹ, không được trù tính đường lui! Nghĩ à? Nghĩ cho lắm rồi nổi run lên, thấy toàn khó là khó, đâm bàn rùn chớ ích gì!
- Tới đây mình khác cậu rồi. Cái gan phải kèm cái khôn, diệt địch phải nhớ giữ mình, tinh thần phải cộng với tài năng...
- Anh bị tàu bay đại bác ám ảnh quá rồi đó!
- Mình ham diệt thứ đó lắm...
- Chung quy cũng là tư tưởng sợ Mỹ, là thiếu lòng tin!
Tới đấy cả tổ xúm vào tranh luận rất hăng. Mấy người ngả về ý Sáu Bồng. Ba Tơ xăn tay áo “nhảy vô” theo lối của anh:
- Mình dốt chữ, cho mình nói nôm thôi nghen... Bồng à, cậu tới xê mình động viên anh em thử coi đi. Lòng tin hả? Mình gặp nhiều lòng tin hay lắm. Hồi đánh Tây, có số ngụy ra trận mà tin đeo bùa khỏi chết, hay chết ba ngày sống lại. Tổng Diệm sai các cha tuyên úy dỗ lính rán giết cộng sản rồi Chúa cho lên thiên đàng. Tụi Mỹ chắc cũng vậy, thêm ít chai rượu nữa... Cậu muốn anh em tin kiểu đó chớ sao? Cứ nhét bông vô tai rồi đâm dạn súng à?
Cậu Long, đại đội trưởng của Bồng, bật cười ha hả:
- Hễ chưa tin như cậu thì ắt sợ Mỹ. Bàn tới các tình huống trắc trở tức là dao động. Kế hoạch rút lui chỉ nên để ban chỉ huy nắm thôi. Học quân sự chi cho mệt, hễ tin thắng là thắng thôi mà!
- Đó, thấy không? Công tác chánh trị trong quân đội má cậu làm như dạy trẻ vỡ lòng, ai chịu nghe!
Khi lan ra cả lớp, cuộc bàn cãi ấy được nâng cao hơn. Năm Cẩn vốn không ưa dài lời, đã lên hội trường với đề cương cầm tay, nói suốt một giờ về con người anh hùng cách mạng. Anh em vỗ tay muốn bật cả mái lá.
Anh Ba Tơ kể tới đó chép miệng:
- Mình quen tay Cẩn lâu, tới hôm đó mới biết hắn giỏi lý luận ghê.
- Bớt “xấu cái bụng” chưa?
- Còn đau hoài. Thầy thuốc đoán phải mổ dạ dày mới đỡ.
Anh lại nhấc ống dòm xem hòn núi Sàm, nơi tôi chọn để xê mình đánh cái trận thử sức. Câu chuyện còn thiếu khúc cuối vì pháo Chu Lai bắn lên núi Chúa cắt ngang. Tôi nhận ra khẩu 155 qua tiếng đạn hú trầm và rền, tiếng nổ rung đất khá mạnh. Hôm trước địch mới đưa vào loại 105. Chín giờ, có lẽ đoàn anh Điển đang qua sông Rù Rì. Sáng nay tôi chỉ đưa anh Ba Tơ đi “nếm mùi Mỹ” qua loa thôi, anh Điển tới sẽ làm việc kỹ.
Tôi đi gọi chú Dé ngồi gác mé dưới, cả ba kéo nhau về. Pháo vừa dứt, một chiếc Mô-hoóc hai động cơ cánh quạt bắt đầu làm xiếc. Nó rà sát sườn đồi, luồn lách qua các đèo yên ngựa, cái cần ăng-ten trắng dựng trên lưng nghiêng qua nghiêng lại như râu gián đánh hơi. Loại này địch dùng đã lâu, bà con hay gọi là tàu bay Úc, nhưng nó rà ngửi đất vùng gò sau lưng làng Cá cũng là một cái mới nữa. Đấy, cuộc chống Mỹ từng ngày từng giờ ném ra bao nhiêu dấu hỏi, làm sao tôi có thể lẩn tránh không tìm câu đáp?
Anh Ba Tơ lại nhăn mặt khi phải kể cái đoạn anh ít ưa nhất:
- Sáu Bồng nó nổi đoá, quay sang đả mình thiệt dữ. Cũng có chỗ trúng, như nó nói mình dốt, gia trưởng, ưa rượu, tức là ăn chơi trụy lạc, mình nhận hết. Bây giờ thêm cái dao động về chánh trị, bỏ giò đằng sau chực chạy, cái đó trật bậy rồi. Chắc cậu khó tin, mình không nóng mũi chút xíu nào hết mới kỳ, mà cứ chăm chăm nghĩ thêm lý lẽ để bàn cho nát nước thử coi, là bởi vấn đề nó nêu lên thiệt tới to. Chuyện xương máu không được xập xí xập ngầu(1)...
Tôi gật đầu. Tính anh đúng vậy, dễ cáu vì những cái không đâu, nhưng vào việc lớn thì rất bình tĩnh và vô tư.
- Cuối cùng ra sao?
- Ông Đạt lên sơ kết, cũng chẳng khác gì tài liệu đang học, chống hữu phòng “tả”, tập phương pháp tư tưởng đúng... Tay Bồng coi bộ còn hậm hực. Mình nghe đồn... mà thôi, đợi hồi nào biết chắc đã. Nó nói thẳng vậy là tốt, còn hơn mấy cậu cứ nghe lỏm ngậm tăm, hay là xì xào ngoài rìa.
Cái điều anh ngại không muốn hở ra vì ngại ghép cho đồng chí mình một động cơ xấu, tôi đã biết.
Hai cậu phái viên từ một trung đoàn khác về H.68 có hỏi Sáu Bồng được phục chức chưa. Bồng ít quen súng đạn nhưng nói khoác hơi nhiều. Sau trận đánh điểm cao 89 tít trong Khánh Hoà, cậu ta bị hạ một cấp và rút về khu vì bỏ quân mà chạy. Qua tám tháng, cậu được đưa về trung đoàn tôi lãnh chức cũ, có lẽ cấp trên thấy cậu hối lỗi, vả lại chỉ mất uy tín chứ chưa gây tai hại gì đáng kể, mũi phụ công bị cậu thả rơi vẫn thắng to.
Dễ nghĩ rằng Bồng muốn tỏ ra rất “tả” để bù lại cái hữu ở nơi khác, dũng cảm bằng miệng thường nhàn hơn bằng chân tay. Nhưng thôi, cũng như anh Ba Tơ, tôi không thích úp chảo gang cho những ai khác ý mình, tuy biết mười mươi rằng trong hàng ngũ ta còn một số tay “cách miệng” khôn róc mấu kiểu ấy. Dù sao những cán bộ mất chất chạy dài như Tám Liệp cũng gây khó nhiều hơn khi quân thù mạnh kéo tới, mặt chống hữu vẫn là chính, cấp trên dặn rất đúng. Hãy cứ tạm cho rằng Bồng hơi quá sốt sắng khi chuộc lỗi – như quả lắc đồng hồ - hoặc còn mang nếp nghĩ đơn giản và lòng tin ngây thơ, hoặc cáu tiết muốn ăn thua đủ một keo “được ăn cả, ngã về không”... Còn phải chờ xem.
Còn tôi...
Mới đêm qua đấy thôi. Sau chầu cháo gà, tôi đưa anh Ba Tơ với chú Dé về ngủ nhà mẹ Sáu. Tôi đấm lưng cho anh than đùa: “Một thân hai cuộc trường kỳ, hai mươi năm chẵn còn gì là xuân!”. Cả nhà cười ồ. Được, chúng tôi còn khỏe, câu giỡn hóm ấy nhẹ như vết muỗi đốt. Gặp hồi xuống sức, nó sẽ là con ký sinh trùng sốt rét phá vỡ các hạt đỏ trong máu, quật nhào được những con người vạm vỡ mà đạn Mỹ không gặm nổi. Ai dám khoe mình được miễn dịch đối với các thứ vi trùng tư tưởng?
Đã tới bụi tre đầu làng bị pháo chặt gần trụi. Tự dưng óc tôi rẽ sang vụ anh Tám Liệp, từ đó nghĩ về đôi bàn tay thon mềm của Mẫn, suốt mấy năm vừa đánh giặc vừa lần gỡ từng mối tơ, nay mới tạm xuôi. Bàn tay ấy đưa thuốc phòng bệnh cho tôi uống thì kí ninh vàng cũng hoá ngọt.
*
Dưới những vòng quần “chẹt người” của chiếc Mô-hoóc, đoàn cán bộ của H.68 chia nhiều nhóm băng qua đồng lớn Tam Trân, qua vùng gò hoang bây giờ loét lở những hố bom to, xuống làng Cá. Tất cả đều mặc bà ba đen, đội nón lá, bao và súng bỏ vào giỏ bội quảy trên vai, hệt bà con đi cắt lá bỏ chuồng trâu. Mười bốn người tất cả, đông khiếp!
Tôi mừng muốn reo. No dồn đói góp, hồi nào lặn lội một thân như con heo chiếc(2), bây giờ lu bù chất phái, chất nghiên! Mẫn với Ri đón đầu làng lo cuống lên: địa đạo đang lem nhem, lỡ địch càn lên, giấu đâu cho hết mấy “ông to”? Còn dân làng Cá thì tò mò nhưng giữ ý rất khéo, chỉ ngoắc tôi vào trong ngõ hỏi rỉ tai:
- Gần chưa Thiêm?
Tôi nháy một cái, lấp lửng nhưng tỏ ra ăn ý. Vậy là thoả mãn.
Anh Điển đi với nhóm gần cuối. Gánh còn trên vai, anh kéo luôn tôi tới một góc rào: “Về đây, mình tên là Châu, Hai Châu, nhớ nghen”. Cùng đi chuyến này có hai anh trên khu về bàn việc lập Đảng ủy vành đai, một anh địch vận quân khu, một đại đội trưởng đặc công với bốn trinh sát, có cả anh Giai tham mưu phó của trung đoàn tôi nữa. Sướng quá đi mất. Anh Điển thắt nịt súng đeo bao xong, búng vào tai Mẫn:
- Cô bí thơ coi bộ rầu ghê ta. Đang đợi quân súng dài, thấy về cả một lô súng ngắn, bắn đâu giặc gãi đó...
- Chú!
- Khỏi lo đi. Tụi này bóc lột cô một buổi thôi, sau đó toả xuống Chu Lai hết, cô tử tế thì cho mượn một tổ du kích dẫn đường. Tôi để Tư Thiêm về gởi rể đất Tam Sa lâu nay, đòi trả công bấy nhiêu...
Mẫn bịt hai tai, kêu:
- Chịu thua chú rồi mà.
Năm Ri mượn xe đạp đi mời anh Bảy quai nón đang xem làng chiến đấu Nhơn Phước với Tư Luân. Con đường đất chạy thông bốn thôn Tứ Nhơn đã viền kín những hầm chông và hố chống tăng, người gánh và xe đạp khéo lái còn qua được.
Tôi bị tẽn khi vội đưa tin sốt dẻo về Mỹ: anh Điển và anh Giai vừa đi vùng Đông Bình Sơn về, suốt ba ngày lội vòng mặt nam của Chu Lai, còn xem du kích đánh bật một trung đội Mỹ đi tuần ven sông Trà Bồng. Nhưng anh Điển nói toạc ngay rằng cậu phái viên ở phía đó hiểu Mỹ qua đài nhiều hơn bằng tai nghe mắt thấy. Nghĩa là phần việc của tôi vẫn còn nặng, chưa rút ngay được để về nắm xê mình như anh Ba Tơ giục mãi.
Trong buổi họp chiều hôm ấy, anh Bảy báo cáo rất ngắn về các xã quanh Chu Lai. “Để dành thì giờ nghe cậu Thiêm nói chuyện Mỹ, tụi tôi dốt cái mục đó lắm”. Tôi căng tấm yếu đồ, cố trình bày thật gọn vẫn mất một tiếng rưỡi. Vừa dứt lời, câu hỏi từ bốn phía đã ném đến tới tấp, tôi ghi hối hả, ghi mãi, đếm lại những mười bảy câu tất cả! Trời xui đất khiến cách sao mà tôi được hai ngày nằm trong hố cát trước nhà ga tàu bay của Chu Lai, nếu không thì xin cứng lưỡi lập tức! Anh Điển cũng biết vậy, cười khà:
- Cậu trúng tủ rồi nghen! Có oán mình đai đi đai lại cái cụ thể nữa không?
Màu đất bãi biển mặt Đông sân bay? Cát trắng, đôi chỗ trắng xám, dưới các vạt dương liễu có lá rụng màu nâu đen... Tôi không biết thằng tướng Mỹ đã đến Chu Lai chưa, nhưng thấy một thằng đại tá ra vào cái hầm đánh số A7 trên yếu đồ đây. Biết chớ, nó đeo cấp hiệu con chim đại bàng mạ bạc trên cầu vai... Mặt đường băng nhiều bụi, có hai chiếc xe hút bụi rất to làm việc buổi trưa, khi máy bay ngớt lên xuống... Công sự pháo của nó để hở mặt lưng quay vào căn cứ, ấy là cách đây ba ngày, tới nay không biết đã thay đổi gì chưa...
Hỏi nữa và hỏi nữa. Bến cảng, cửa sông, đường ô-tô, đồn ngoại vi và quân đóng dã chiến. Có mấy chỗ tôi bí, vài lần phải lục sổ tay tìm hình vẽ hay con số, ngoài ra tôi cứ lật đều tập ảnh trong đầu, khỏi kiếm đâu xa. Anh Điển nhắc: “Cậu cho những chi tiết khó nắm từ xa, hoặc ban đêm vào tận nơi vẫn khó thấy...”. Từ lúc nào không rõ, một ngọn đèn măng sông được treo lên giữa nhà – chúng tôi họp trong nhà ngói của xã Chinh – ngồi trên những dãy ghế mà đại hội chi bộ để lại.
Khi tôi ngồi xuống lần thứ ba, anh Luân nói trịnh trọng:
- Đây mới là phần địch. Hồi nào các đồng chí muốn biết tình hình Tam Sa trong nửa năm qua, nhứt là cái khúc gần đây giành lại vùng bàn đạp Tứ Nhơn và dàn trận đón Mỹ ra sao, đồng chí Thiêm nắm rất chắc...
Tôi nóng bừng mặt, lắc đầu. Anh Bảy quai nón xởi lởi bồi luôn:
- Cũng tội. Cậu ta mới về Tam Sa, đụng càn lớn bật hết quân tướng ra ngoài gò, vậy là lăn lưng vô đánh thí xác, nắm du kích, mở lớp quân sự, chẳng kể khi đói khi đau. Tôi trách xã miết, xài cán bộ trên về vậy lỡ nướng mất thì sao, Tư Luân nói chi ủy còn có một người rưỡi, ông Điển biểu cứ để cậu ta làm tới đi cho được toàn diện, thôi đành... Nghĩ tức cười, khắp bà con Tam Sa ai cũng tưởng cậu Thiêm được cử về luôn đây, hồi sáng có chị tìm ủy ban kiện trâu ăn lúa, cả tổ đào hầm xúm bày tới ông Thiêm xử cho, ổng là phó chủ tịch hay xã đội trưởng gì đó!
Chung quanh cười rầm. Tôi muốn chui xuống đất. Biết rằng anh Bảy anh Luân lựa dịp này để khen tôi, cũng là khen chung cán bộ Quân giải phóng chịu khó giúp địa phương nhưng nếu các anh hiểu những lúc tôi sốt ruột định xốc ba-lô đi nơi khác... Rất may, anh Điển đã chấm dứt:
- Tạm đủ đó. Coi như kiếm chút vốn giắt lưng, tối nay xuống thăm Mỹ khỏi ngợ, còn phần chủ trương sắp tới sẽ có cuộc họp khác. Bàn cho đã ngán, để khi Mỹ nống ra mạnh không bỏ việc đi họp được đâu.
Bước ra ngoài, tôi chưng hửng thấy trời sẫm. Gần bảy giờ tối rồi, chỉ kịp ăn vội trước khi thọc xuống biển. Anh Ba Tơ bấm vai tôi, rỉ tai:
- Chết cậu nghen. Được việc kiểu đó, cầm chắc cậu về tham mưu, đừng trông trở lại xê mình.
Tôi giật thót. Nước đời, sao lắm nỗi trớ trêu! Đành bông phèng cho qua.
- Phận bèo bao quản nước sa…
- Gì?
- Không. Ri ơi, Ri, anh Ba đây chớ!
Năm Ri với anh Ba Tơ tách riêng một hướng, nắm kỹ cái đồn núi Sàm. Tôi dẫn các anh khác xuống vùng biển.
Mẫn đưa một tiểu đội du kích đi giúp chúng tôi đêm đầu. Hai tổ ở lại giữa hành lang qua đường nhựa, một tổ nữa theo bảo vệ. Số đông cán bộ sẽ về ngay trong đêm, chỉ còn bảy người nằm lại dưới ấy, rải ra ba nơi: tổ đặc công ở xóm năm nhà có chị S.12, anh Giai được gửi cho bác S.24 râu dài, anh Điển với tôi lên chuồng chim trong xóm chị S.22. Út Liềm với hai cô nữa đã xuống từ trưa dò đường, xếp chỗ. Cô Tươi và bà Dì S.26 sẽ đưa tin lên nếu cần. Bộ máy của chúng tôi đã khá trơn dầu, chạy đều.
Thấy Mẫn bần thần, tôi trêu:
- Chịu khó trả công lần này là dứt điểm, khỏi phải lùa bầy trâu trắng nữa, Mẫn à.
Mẫn cười gượng, vẫy tôi ra góc vườn tối. Mấy hôm nay chúng tôi không hở ra lúc nào để nói riêng với nhau. Được cái, nếu rủ nhau ra chỗ vắng một lát thì không ai ngờ tình ý gì cả, hai anh chị có khối việc mật để hội ý hội báo!
Mắt Mẫn long lanh dưới bóng cây dừa thấp đang dựa lưng:
- Em ở lại dưới đó... với anh.
- Đừng, Mẫn. Em phải lo trên này...
Mẫn nắm cánh tay tôi bóp mạnh, hơi gắt:
- Anh... anh liều quá. Chiều nay em mới biết anh vô nằm trong căn cứ. Sao anh giấu em? Anh không nói em hay? Sao?
Mấy tiếng cuối cùng, Mẫn quát qua kẽ răng, nghe rất lạ. Câu trách của Mẫn càng lạ: chính Mẫn cũng nằm trong ấp chiến lược như cơm bữa. Những ngón tay búp măng siết tôi đến đau, lay dữ. Tôi đứng sững, chưa tìm ra câu phân trần, Mẫn đã quàng tay ôm ghì tôi. Cả người Mẫn run bắn. Mẫn hổn hển nói khẽ bên tai tôi những lời đứt quãng, nóng như hơi lửa lò:
- Em không chịu nổi... thà em đỡ đạn cho anh... ngó theo hoài... thà em được đứa con cho đỡ nhớ... tại em...
Mẫn lả trong tay tôi.
Tôi phải khỏe, phải tỉnh cho cả hai trong cái lúc Mẫn đuối sức này. Rõ rồi. Đã căng và mệt liên miên, Mẫn còn thêm nỗi nhớ khắc khoải chưa quen chịu, từ khi yêu tôi. Mỗi phút yêu thương của Mẫn cứ phải kèm theo một cái tang hay một nỗi đau kéo dài, ít nhất cũng một mối lo, thật tội nghiệp. Cơn hốt hoảng ập tới giữa lúc không ngờ. Nếu vắng tôi, nó chỉ là mấy phút Mẫn đãng trí, rồi giật mình quay vào việc đang làm...
Tôi hôn Mẫn, dỗ thì thào rất lâu, không đầu không đuôi. Chỉ cần Mẫn hiểu tôi yêu, tôi sẽ về. Mẫn định bắt tôi đợi mười năm, lại không đợi tôi được ba ngày, thua chưa? Hồi nào ngại tôi đòi cưới, bây giờ mong có con?
Mẫn bịt miệng tôi, rồi lau mắt. Mưa nhỏ cũng đủ làm tan cơn dông. Mẫn cười nhẹ, xấu hổ:
- Em điên điên, anh hè? Đừng giễu thì em nói... Cái đêm em gặp lại anh, hiểu anh rồi, em như đứa bị hút hồn... Em sợ cưới thiệt đó, sợ lắm, rồi có khi em lại muốn... làm vợ anh.. ra vô em được ở miết bên anh, em quạt anh ngủ, em nấu cơm anh ăn, bà con kêu em là chị Thiêm, vui ghê, năm bảy ngày rồi anh đi bao lâu cũng được, em có cả mớ kỷ niệm chung hai đứa, mặc sức mà nhớ. Có được đứa con nữa... Em thích con trai hơn, giống anh, đi đâu em bồng nó theo, cũng như gần anh, thay thằng Hoàn...
Loáng cái, tôi thấy lại chị Tám Giàu đang kể tội đàn ông để khổ cho vợ, nhưng lại nghẹn lời khi nhắc tới đứa con bị sảy. Cả hai bận chị đều thật bụng.
Mẫn cũng rất thật khi yêu tôi và tránh tôi, khi sợ vướng con và ước có con. Một lòng sông chứa hai dòng nước xô đẩy.... Tôi chợt nhận ra cái nghị lực ghê gớm của những người khao khát yêu và được yêu như Mẫn, khi nén tình riêng xuống để dồn sức làm việc lớn. “Các anh gan lắm”, tôi thường nghe nói vậy. Có lẽ chúng tôi đơn giản mới đúng. Mẫn gan hơn nhiều khi dám ngoảnh mặt trước một người con trai mà Mẫn yêu đến mất ăn mất ngủ, chỉ vì lo chi ủy hết người. Tránh sao khỏi một lúc bải hoải, chùng gân. Tôi phải tiếp sức cho Mẫn...
- Đừng cười em, nghen anh? Con gái vô duyên mà. Mẹ em hay bác Sáu nghe em kể lể với anh vầy đây, chắc chửi em là đứa trắc nết, nói với chồng, chồng còn khinh, huồng gì trai mới thân... Lạ lắm, cái gì em cũng muốn anh biết chung, chuyện làng nước, chuyện riêng em, chẳng sót một chút. Ăn một đũa xôi, em cứ xắn đôi ra cho anh một nửa, rồi em ăn giùm phần anh, in thể con nít. Em nhớ hồi mới gặp anh, em tức anh lắm, sao bây giờ em ngợ miết, hình như em thương anh từ khi mới ngó thấy kia. Chẳng lẽ mới vài tháng gần đây mà em đã thương quá quắt vậy sao, đúng rồi, phải từ năm ngoái... Em hư lắm phải không? Nói đi anh...
- Anh yêu em gấp năm. Anh trọng em gấp mười.
- Thiệt chớ?
- Thiệt. Em tin anh, em mới nói hết.
Mẫn nhấc đầu khỏi ngực tôi, ngửng đôi mắt đen nhìn vào mắt tôi đăm đăm. Sau này tôi sống với Mẫn, hẳn không một lần có thể nói dối trót lọt trước đôi mắt này.
Có tiếng mấy người nói trong sân:
- Thiêm đâu rồi?
- Chắc đang ăn cơm. Tổ trinh sát cũng chưa xong.
- Nhảy thử vài cái coi... hai, ba!
- Pin sáng quá, thêm vài lớp nhựa đi...
Ba bốn đốm lửa thuốc lá rít vội, hừng đỏ, soi lên vành mũ tai bèo vài giây. Đèn pin bọc nhựa xanh loé thử nhiều lượt, mỗi lượt sẫm màu thêm một tí. Súng ngắn lên đạn rắc rắc, nhỏ thôi, còn các-bin kêu rất ồn, “róc, xoảng”. Ai đó nhắc khoá cò, lấy nước đầy bi-đông.
Mẫn cười, giọng đã trở lại rất dịu:
- Tụi mình bỏ cơm tối. Để ém vô ăng-gô, đem theo. Anh lấy em, phải tập nhịn đói từ giờ cho quen, chịu không? Giỡn thôi, lỡ hết gạo em hớt thịt trên mình xào cho anh ăn liền, giống chị gì trong truyện thơ mẹ hay kể. Đời xưa làm nổi, em còn dám gấp mấy kia chớ, coi như địch nó tra hay trúng mảnh pháo, dễ ợt.
Tôi rùng mình. Mẫn không đùa đâu. Phải nghe tận tai, tôi mới biết một cô gái có thể yêu đến chừng mực nào, nếu ai nói lại chắc tôi không tin chút xíu. Mẫn rất dám nuôi tôi bằng thịt mình, nhưng cũng không ngần ngại xả cho tôi mươi viên đạn vào đầu nếu tôi nhảy sang phía thù, rõ lắm.
- Chị Tám cho ảnh đi tập kết một cái nhẫn vàng khắc tên, chụp hình với nhau nữa. Em chẳng có nhẫn, hồi nhỏ chụp một lần cũng bị lụt trôi mất hình. Em tính khi nào anh đi xa, em chặt cho anh một đốt ngón tay út, bên trái này nè, anh đem làm kỷ niệm. Cắt tóc dễ hơn, có điều anh lại nghĩ: “Hễ tóc nó ra dài như cũ, nó lại quên mình”. Để khúc đốt cũng thừa...
Hết chịu nổi rồi. Mồ hôi vã lạnh hai thái dương. Tôi bóp vai Mẫn như kìm sắt:
- Em nghĩ bậy!
- Bậy đâu... úi, đau vai...
Mẫn cứ tỉnh rụi. Cái nguy là Mẫn nói sao làm vậy. Tôi gượng lắm mới buông được mấy tiếng:
- Ta đi hè, anh em đợi.
- Để em bới cơm...
Mẫn thoăn thoắt đi vào. Tôi dựa lưng vào gốc dừa, vuốt trán, thấy họng nhám, đau rát và đầu choáng váng như vừa bị bom xốc lên thả xuống.
Ai đó gọi Mẫn, và Mẫn reo: “Bốn chục! Quí lắm đây anh... Không cho, em ăn trộm. Lấy đạn trong bao chớ không chơi ác tháo trong băng đâu...”. À, Mẫn được quà đạn các-bin. Cây vẫn ra hoa trên núi lửa.
*
Chuyến đi này cũng xuôi lọt.
Mỗi người một chuồng chim, ngày xem Mỹ, đêm ra trảng cát họp nhau đi sờ nắn căn cứ Chu Lai. Tổ trinh sát rất khoái cái hố giữa xương rồng của tôi, thay nhau vào đấy nằm phơi nắng, chỉ một cậu bị lính tuần đạp trúng bàn chân khi vượt rào biên, phải ném hai trái lựu đạn và rút, chỗ núp không lộ. Tôi kèm riết anh Điển, thường nhắc rằng anh nặng kém ba chục cân đầy một tạ, chớ nên để đứa gầy như tôi phải vừa cõng chạy vừa bắn trả địch, khổ lắm. Anh Giai được bác S.24 cho ăn cá đến tận mũi, phải rời giàn ván một ngày để vào nằm buồng gói với cái nồi đất lót tro đậy vung, đêm lội trảng còn xoa dầu cù-là vào bụng nhiều lần. Tôi qua nhà chị S.22, mất cô bạn rắn rồng – má tôi bảo rắn rồng nhớ người không thua chó – bù lại được một chú mèo mướp rất lành, đợi tôi ngủ thiếp là leo lên nằm khoanh giữa ngực tôi như cái gối bông.
Giữa hè rồi, nắng càng trắng loá trên cát trắng, đứng trong bóng thò tay ra nắng cứ như nhúng vào nước ba sôi hai lạnh mà mẹ Sáu pha ngâm giống theo kinh nghiệm miền Bắc. Bà con các ấp bị bắt đắp đường mỗi trưa khiêng về năm bảy người say nắng. Đã có chỉ thị trên dặn vùng này tạm nín hơi cho địch khỏi sục, nhưng lác đác có những khúc rào ấp tự bốc cháy, ngay lính ngụy cũng đồn rum là “bà Hoả” đốt, còn tụi Mỹ cho rằng tre khô cọ nhau phát lửa là sự thường. Chị S.22 nheo đôi mắt xếch, nói xuê xoa: “Chị em họ mở thêm ít cửa ra vô cho dễ thôi mà”. Chị Biền, chị Tám Giàu, chị S.22 có cả một lớp các chị như vậy làm gì các cô cán bộ trẻ chẳng mau lớn. Tuy rất nguyên tắc nhưng chị S.22 có chỗ yếu nặng: Hai Mẫn nhờ chị làm gì cũng được, cái lần từ chối nửa vời chị Tám và tôi ấy chính là bởi có mặt hai chúng tôi, chị muốn thử cho chắc. Nay có tin gì dính tới Tam Sa, chị vẫn cho người đạp xe lên làng Cá ăn giỗ gấp.
Bọn lính cổ da sục đều các ấp chiến lược từ bến vào sân bay. Chúng mộ được một số thông dịch đeo lon trung sĩ ngụy, nói tiếng Anh theo kiểu lúy câm bớp lúy ba bớp(3). Tôi suýt phì cười khi nghe một tên kể chuyện Việt cộng với Mỹ trong nhà chị S.22. Tay Quả này ưa lấy le trước mặt hai cô em họ của chị - hai cô du kích bí mật đã dẫn tôi lên làng Cá chuyến trước – cố nói lấy nhanh:
- Vi-xi men líttơn, phai mêni. Vixi gơn líttơn, kiu mêni. Vi-xi oan gô in Su-lai, gô(4)
Bốn thằng Mỹ tròn mồm dựng mắt. Qua giọng kiêu hãnh của tay thông dịch, tôi cảm thấy hắn khoái làm cho Mỹ sợ người Việt, dù là người Việt ở phía bên kia, để bù lại những lúc hắn bị Mỹ coi rẻ. Tụi Mỹ chẳng thèm giấu chút nào rằng chúng rất trọng Vi-xi, rất khinh đám quân ngụy ăn hại đái nát. Chị S.22 hứa sẽ nắm được trung sĩ Quả.
Vùng biển nhốn nháo với những tội ác đầu tiên của Mỹ ngay quanh nơi đóng quân. Liên tiếp đàn bà ở nhà vắng bị Mỹ hiếp, trong hai ấp đã biết được chín vụ, sự thật còn nhiều gấp mấy vì các cô gái trẻ xấu hổ không nói ra. Một lính hải thuyền đâm chết tên Mỹ hiếp vợ mình, xong biến mất, chắc sang ta.
Xóm Miếu trong ấp tôi ở - có cái miếu thờ ông cá voi chết dạt vào – nổi trống mõ kéo ra vây Mỹ sau khi một tên bắn gãy chân em nhỏ chăn trâu giữa ban ngày, chẳng có cớ gì. Cũng không rõ vì sao thằng Hary mới phát kẹo lấy lòng đấy, bỗng nổi cuồng xông vào nhà bà Chín đập nát hết các ghè mắm, châm lửa đốt nhà, đứng coi và cười rú đến đứt hơi. Sáu chiếc thuyền đang đánh cá ngoài cửa, tại sao cặp tàu đoan(5) lại xả súng bắn chìm chiếc thứ tư, gây ra cuộc đấu tranh lớn của dân chài? Bà con ta, cả tụi ngụy nữa, đều thấy giặc Mỹ là khó hiểu. Chúng nghĩ gì đằng sau cặp mắt đục lờ kia, khi xoa đầu trẻ và khi giết trẻ, khi cầm ảnh vợ khóc hu hu và khi cười sặc trước nhà cháy? Chị S.22 rất sốt ruột vì học tiếng Anh không vào, mãi chỉ nhớ được mấy tiếng nô Vi xi, chưa đủ hỏi chuyện bọn Mỹ. Bác S.24 hằm hằm: “muốn biết nước dừa chua ngọt, cứ vác rựa bửa đôi cái sọ dừa ra là mau nhứt!”. Cả hai đều có lý.
Buổi chiều ngày thứ ba chúng tôi xuống biển, trời kéo mây khói đèn vần vụ. Tôi ngồi ghi trên giàn ván, chợt nghe một tiếng mìn nổ phía Lộc Chánh, tiếp lựu đạn và súng nhỏ dậy lên, lúc khoan lúc nhặt. Du kích bí mật làm ăn ban ngày, cừ lắm. Lát sau, pháo Chu Lai nã lên đấy dồn dập. Tôi nhặt thêm được một nhận xét: nền mây thấp dội tiếng nổ đầu nòng trở xuống như cái trần nhà, pháo 105 bắn liều thấp mà ồn nhức tai, dễ lầm với 155. Rồi trời đổ mưa to. Tôi chợp mắt được một lát bù đêm trắng.
Một bàn tay bấm gọi tôi dậy. Khuôn mặt chữ điền rám nâu của chị S.22 nhô lên thì thào:
- Anh vô buồng có người gặp
Tôi đeo bao lưng trèo xuống. Chắc Mẫn cho Út Liềm đi đón chúng tôi, hành lang qua đường Một dạo này phải thay đổi luôn. Nhà trên đóng hết cửa, kín như cái hộp. Tôi đẩy cửa buồng trong tối om, thấy một bóng áo trắng ngồi trên giường.
- Liềm hả?
- Em đây.
Mẫn! Làm sao Mẫn xuống được ban ngày? Mà xuống để làm gì? Có lẽ biết tôi sắp gắt, Mẫn chặn luôn:
- Thằng Chinh con xuôi cẳng sáo rồi. Em bị thương chút xíu.
- Ồ...
- Không nghe tụi em đánh à?
Chị S.22 bưng vào cái chậu nhựa, giữa đặt ấm nước nóng. Tôi thắp cây đèn con, vặn nhỏ hạt đậu, tháo bao lấy các thứ cấp cứu. Mặt Mẫn đánh phấn dày, đôi lông mày nhỏ và nhợt hẳn, môi tô son hình trái tim, tóc bọc lưới, trông rất khác. Tôi hiểu ngay trận vừa rồi. Mẫn cười ngượng nghịu:
- Chị gác giùm, để anh Thiêm băng em. Ảnh có nghề y tá mà.
Chị S.22 cau đôi mày xếch, hất hàm. Mẫn cúi nhìn xuống, chụp ngay cái chăn sợi trên giường trùm kín người, hẳn vì Mẫn mặc ni-lông mỏng và dầm mưa ướt sũng, nãy giờ không để ý đến mình trong bóng tối. Tôi phớt, chỉ rảy thuốc tím bột vào ấm nước, rồi ghé đèn xem vết thương. Bắp chân trái của Mẫn bị đạn xé một đường thịt bằng hai đốt ngón tay, không nặng, bị cái máu ra nhiều vì để vậy mà chạy. Lần này tôi sẽ chỉnh mạnh cho coi. Tôi giội rửa, rắc bột xun-pha, băng kỹ để đi không tuột. Tôi tiêm luôn cho Mẫn một ống kháng sinh dầu mà bà dì S.26 đổi của Mỹ: mỗi ống thuốc có sẵn pít-tông và kim tiêm bọc cao-su, tiêm xong vứt cả, hai nải chuối được một hộp hai chục ống, kèm bộ phận đẩy thuốc bằng nhựa cứng dùng nhiều lần.
Thấy tôi lì lì, Mẫn cũng trùm chăn ngồi im xo, đến cuối mới rụt rè:
- Anh ra ngoài chút, em thay đồ ướt. Mấy giờ, anh?
- Năm rưỡi.
- Em lau mặt được rồi. Phấn ngứa kinh.
Lát sau tôi vào buồng. Mẫn mặc bộ bà ba đen của chị S.22 rộng phùng phình. Bộ ni-lông ướt và vấy máu túm gọn vào khăn tay, mặt Mẫn gần sạch phấn sáp. Mẫn kéo tôi ngồi bên:
- Anh đừng làm mặt giận nữa, em sợ... Em phải trả thù cho vợ chồng chị Biền chớ.
- Sao?
- Nó cắt cổ chị... lấy gan... mới sáng nay... ảnh cũng chết rồi...
Mẫn nuốt khan nước bọt, cắn môi. Tôi lạnh buốt sau gáy. Đốm đèn phình to bằng cái nón rồi co lại nhỏ tí, cứ vậy nhiều lần. Mẫn nói bên tai tôi mà tiếng nghe chơi vơi đâu xa lắm.
Huyện và xã đều biết trước sau địch cũng xúc dân Nhị Lộc xuống dưới sâu, nhốt vào ấp chiến lược, tạo bãi trắng dọc đường Một. Ta đã cho một loạt gia đình ở đấy dời lên vùng giải phóng, sắp xếp lại quân chìm. Sau khi được bí mật kết nạp vào Đảng, chị Biền đưa cả nhà xuống ở với mẹ đẻ, trong ấp Lộc Chánh, mượn cớ chồng ốm yếu chịu pháo không nổi. Hai vợ chồng sẽ để cho địch dồn, bám bà con mà hoạt động. Trong số ba đảng viên và năm đoàn viên được gài thêm vào Nhị Lộc như thế, một mình chị Biền bị lộ, tại sao?
Thằng Chinh con tra hai anh chị suốt ngày hôm qua trong đình Lộc Chánh, máu và những bãi bọt xà-phòng lênh láng đầy nhà. Anh Biền chết lúc xẩm tối trước mặt chị. Đêm, du kích Tam Sa thọc vào ấp hai lần không lọt, chỉ bắn nhau với bọn biệt kích nằm rải vòng ngoài, hạ ba tên. Sáng nay thằng Chinh con họp dân Lộc Chánh lại, nói:
- Chẳng chánh trị, chánh trọt gì cho rắc rối. Tuyên truyền hay như ông Nhu ông Diệm rồi cũng mặc sơ-mi gỗ. Đem cả thiên đàng địa ngục ra mà nhử mà doạ như mấy lão cố đạo, dân cứ theo cộng sản. Tôi chẻ hoe ít câu vầy đây. Đất này Mỹ mua rồi. Chống Mỹ thì chết sớm. Theo Mỹ còn sướng được ít lâu mới chết. Tôi lựa đĩa thịt nạc với chai bia, tôi theo Mỹ. Tôi bán nước cho Mỹ, Mỹ còn trả đô-la. Các người bán mạng cho cộng, cộng trả cái gì? Độc lập chánh nghĩa... ai có thứ đó, đưa tôi coi thử nó tròn méo ra sao mà các người chuộng dữ vậy? Nước với lửa đụng nhau đây nè. Mời bà con coi đứa theo Mỹ giết đứa chống Mỹ!
Hắn rút dao găm rạch bụng chị Biền, móc gan, lấy túi mật bỏ vào ve rượu. Chị Biền kêu: “Bác Hồ ơi, bà con ơi, trả thù cho tôi”, hắn đưa dao cắt đứt cổ họng chị. Đại đội biệt kích đơm súng gác quanh sân, cả chục đứa nôn thốc. Bà con hét lên, phá vòng lính chạy về nhà, chỉ còn vài đứa bắn doạ.
Tin lên làng Cá trước tiên, loang nhanh. Cả Tam Sa điếng người. Chi ủy đang bận đi mỗi người một thôn, Mẫn báo ngay: truy điệu, phát động căm thù, chặn luồng gió khủng khiếp, đánh gấp một đòn trị tội.
Thằng Chinh, tên đại đội trưởng biệt kích, thằng Khả công an quận thường đạp xe về vùng biển từ ba giờ chiều, đem theo vài đứa hộ vệ, chín giờ sáng mới lên Lộc Chánh. Đánh buổi sáng không lánh kịp, địch lùng suốt ngày khó thoát. Phải thọc xuống lập tức, chiều đánh, tối rút.
Bốn giờ sau khi chị Biền tắt thở, đoàn xe bọc sắt Mỹ tuần đường Một kéo qua. Bụi chưa tan hết, hai chiếc xe đạp chở bốn cô gái mặc lòe loẹt từ mé An Tân phóng về Lộc Chánh, rẽ theo con đường đất cạnh ấp, xuống biển. Bọn biệt kích lui vào bóng cây trốn nắng chỉ hỏi với ra mấy câu cợt nhả. Mẫn, Liềm, Rốt chị và Hồng B giấu xe, chôn mìn vùi mình dưới cát, dương liễu còi chỉ đủ che cái đầu nhô lên nhìn, không bớt nắng. Qua vài tiếng nữa, trái mìn 105 và một loạt lựu đạn xé nát chuỗi xe gắn máy và xe đạp từ Lộc Chánh đổ tới. Một tên biệt kích trụt đằng sau nhảy xuống xe, bắn bừa vài loạt rồi chạy. Hồng bị một viên xuyên vai. Mẫn cho Liềm và Rốt dìu Hồng rút sâu vào rừng dương, núp đợi tối.
Mẫn kẹp cây tom-xơn mới lấy, đi rà lại năm tên địch lăn lóc, bồi thêm mỗi đứa ác ôn vài viên giữa ngực cho chắc, nhưng không bắn tên hạ sĩ biệt kích què chân vì mìn: “Mày chưa đủ tiêu chuẩn, cho sống!”. Rồi Mẫn vác ba tiểu liên, khoác năm nịt đạn và súng ngắn, rẽ sang hướng khác. Tụi “nghĩa quân” ở ấp gần nhất ào tới. Mẫn núp trong bụi, kê hai tiểu liên trên hai cành cây, bóp cò cả hai tay, sợ lộ giọng con gái không dám hô đại đội trung đội gì cả. Quét ẩu vậy mà bốn đứa nhào mới kỳ. Phải chi trời sinh có ba tay để bắn ba súng một lần cho đã nư. Mẫn xả đạn túi bụi một hồi, lại vác súng chạy riết, trời thương cách sao đổ cho trận mưa dông mịt mù, che mắt địch và xoá dấu. Giữa lúc mưa to nhất, Mẫn chôn các thứ, lột nón của bù nhìn giữ dưa, luồn qua một chỗ rào “bà Hoả đốt”, vào lối chuồng heo chị S.22, cũng không ngờ tôi nằm ngủ dưới mái.
- Biết anh ở đây, chưa chắc em dám vô. Sợ anh thấy mồ...
Tôi không đủ can đảm để trách, chỉ năn nỉ:
- Em bây giờ làm bí thơ, phải tính lợi hại chớ.
- Tính kỹ rồi anh à. Đánh ban ngày, con gái mới đi lọt, mà Chín Cang nó mập quá chạy không thấu, Rốt chị biết đánh không biết chỉ huy, Út Liềm quen đường lại dốt quân sự. Rút lại, em phải nắm quân. Được cả mớ ác ôn...
- Giết ba đứa ác mà mất người lãnh đạo chủ chốt của xã, nên không?
Mẫn trầm ngâm một phút, rồi lắc đầu, nói chậm:
- So với tụi nó thì mạng em quí hơn. Có điều so với anh chị Biền, số bà con tụi nó giết đang cần trả thù, so luôn với cái lợi lâu dài cho phong trào sau khi khử tụi nó, mạng bốn đứa em không đáng kể đâu anh.
Tôi tắc họng pha trò:
- Suốt đời, chắc hai đứa mình trách nhau đánh ẩu!
*
Cơ sở vùng biển tiễn chúng tôi bằng một loạt tin khá nóng: lính ngụy dồn gạo vô ruột nghé, vợ lính đi chợ mua cá thịt làm lương khô và hương đèn về khấn ông bà, bọn tề bắt mỗi ấp ba trăm dân gói theo bốn ngày gạo mắm, đại đội Mỹ tuần đường chiều nay không thấy qua, thêm mười hai trực thăng xuống Chu Lai và ở luôn đấy. Địch sắp càn.
Tổ du kích của Rốt chị chẳng sao cả, tụi biệt kích ùa xuống chỉ đuổi theo hướng Mẫn rút. Út Liềm đàng hoàng vào ấp cô Tươi. Cô này cắt mẹ đi dò thử địch có giết hay bắt được ai không, dắt cậu Xáng lội mưa ra cõng Hồng B vào một khu “mả thiêng” rất rậm, cho uống sữa, băng, đợi tối lại cõng ra chỗ hẹn góp quân. Các cô gặp nhau, tất nhiên có rất nhiều ồ à ý ới và tí chút nước mắt, nhưng mọi việc đều trôi chảy.
Mười hai giờ đêm, chúng tôi về đến làng Cá.
Ba giờ hai mươi lăm, Ba Tâm chạy từ huyện xuống mang một thư hoả tốc mời anh Điển và tôi lên Tam Trân gặp anh Năm Đông. Anh Điển cho biết đó là tên mới của anh Tám Xuân, ủy viên Trung ương.
Bốn giờ kém mười chín, sáu cậu trinh sát của trung đoàn tôi về bám cái Núi Sàm, đưa một mẩu giấy do anh Năm Đông viết: “Cứ ở lại Cu-ba, đợi mình”. Chúng tôi lo cuống lên, Tư Luân bứt tóc, tóc hớt trọc không bứt được. Năm Ri chạy rút du kích các thôn khác ngậm tăm kéo về làng Cá. Chín Cang báo các tổ du kích bí mật hôm nay nghỉ đào hầm, đi chôn mìn, sửa soạn đánh lớn.
Bốn giờ hai mươi bảy, anh Năm đến, chỉ đem hai cậu bảo vệ. Anh Điển với anh Luân đón, còn tất cả những ai đánh được đều ra bờ đai. Tôi tóm được Mẫn tập tễnh đi soát quân, bắt giam lại dưới hào, giữa anh Ba Tơ với tôi. Mẫn cười: “khi chẳng có mà coi, khi cả voi cả ngựa. Voi trắng, ngựa trắng hết thảy!”. Tôi tính thử, trong làng Cá lúc này có thêm mười ba súng ngắn, chín tiểu liên và súng trường tự động. Khá mạnh đấy. Chơi một trận Ấp Bắc nho nhỏ được lắm.
Năm giờ kém mười lăm, pháo Chu Lai nổi gầm một loạt như sấm dậy. Tôi đứng tim trong vài giây. Đạn rền phía nam sân bay. Địch càn vùng Đông Bình Sơn.
Hú vía!
Mười phút sau, trừ các tổ du kích trực chiến, còn tất cả làng Cá và số “ngoại lai” đã trở lại công việc hằng ngày. Anh Năm đang ăn cơm trong nhà xã Chinh, thấy chúng tôi kéo vào, cười xoà:
- Mình biết nó không lên phía này mới đột kích các cha chớ! Kỳ này đang búi, mình xẹt ngang một ngày thôi, chuồn chuồn chấm nước cái đã... Đồng chí Thiêm đâu? À, đây. Mình đọc cái báo cáo cuối cùng của ông, có mấy chỗ muốn hỏi, ghi bên lề sẵn rồi. Ông coi lại, lát nữa trả lời. Nhơn tiện ông lướt qua lá thơ mình mới nhận, cho biết cảm tưởng luôn. Tám giờ ta gặp nhau, hè? Từ mười giờ tới tối, nhờ xã đội dắt mình đi coi Mỹ, thăm làng chiến đấu, được chớ?
Anh Năm nói giọng Quảng Ngãi pha một nửa Nam Bộ. So với dạo đến nói chuyện ở trường cán bộ trung đội, anh gầy và đen đi nhiều, tóc bạc rõ hơn ở hai thái dương, nhưng trông vẫn lanh, sắc. Tôi tưởng anh đến sẽ gọi hết chúng tôi lại, giảng cho tình hình và nhiệm vụ, ai dè anh chỉ hỏi, lại hỏi riêng từng nhóm. Mẫn ngồi bên anh Luân đợi làm việc trước, mồ hôi đọng mấy giọt to trên mũi như học trò vào thi miệng. Tôi cầm hai xấp giấy ra vườn mít, treo võng nằm đọc. Trực thăng từ Chu Lai đã bay đưa thoi phía nam, tiếng máy chỉ nhỏ lại rồi to lên, không đứt đoạn: càn rất gần vẫn cưỡi máy bay, Mỹ lắm.
Tôi mắc cái tật giống anh Ba Tơ là ngại gần cấp trên. Không phải vì sợ bị chỉnh, hay cho rằng mình khỏi cần học tập ở các anh, trái lại. Gần cấp trên có hai cái phiền khó nói. Một là dễ bị điều đi làm các việc linh tinh: trung đoàn đã nhiều lần rút tôi làm quân giới, chụp ảnh, lấy cung tù binh Mỹ, dịch tài liệu, anh Ba Tơ phải kiện thưa mãi mới bớt, cho đến đợt này tôi lại làm quân báo. Nghĩa là bị biến thành cán bộ ô-rê-ô-mi-xin, bệnh gì cũng chữa được một tí, không có thì giờ đi sâu vào nghề chính. Hai nữa, dễ bị anh em nghĩ rằng tôi chơi trội, cầu cạnh, ngoi lên theo đường tắt. Tôi rất ghét thói nịnh trên nạt dưới, không muốn ai hiểu lầm tôi như vậy. Tóm lại, tôi thấy cứ cánh ta ăn ở với nhau quanh năm là sướng nhất. Thế nhưng công việc cứ đẩy tôi đến chỗ phải gặp riêng các anh trên, biết làm sao.
Lần này, tôi thừ người ra sau khi đọc hai báo cáo.
Bản của tôi được anh Năm đọc kỹ, rất kỹ, ghi dấu chéo và gạch đít những chỗ quan trọng bằng bút bi đỏ. Có nhiều dấu hỏi và câu hỏi ngắn ngoài lề nữa. Điều làm tôi băn khoăn là tất cả những ngờ vực của anh Năm đều dồn vào mặt mạnh của Mỹ và khó khăn của ta. Còn các phần nói Mỹ yếu, khờ, nhát gan, những gợi ý của tôi về cách đánh, anh để y nguyên. Rất có thể anh đánh giá tôi là gờm Mỹ, hoặc gí mũi vào mảng đen trên bức tranh nên không thấy toàn cảnh màu tươi!
Lá thư của cậu Hải khác hẳn. Cậu này tôi chưa hề gặp, được cử về vùng Nam Chu Lai sau tôi. Tất cả những điều cậu viết đều có thật: Mỹ sợ trâu, sợ nắng, sợ thuốc độc, sợ chông, sợ bệnh, đủ hết. Nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi, một bài báo giải quyết tư tưởng ngán Mỹ, dù viết sống, dí dỏm, ghi rõ nguồn tin cho thêm chính xác, vẫn chưa phải một bản điều tra tốt của quân báo. Anh Năm ghi trên đầu: “Sao gởi anh Bảy và X.4”. Trên tám trang giấy mỏng viết tay, chỉ có một dấu chéo và một dấu hỏi. Anh Năm thích cách nhìn Mỹ thế này ư? Hay anh cho rằng lớp cán bộ thực hiện như cậu Hải và tôi nên đơn giản thì hơn, còn những gì phức tạp rắc rối hãy nhường cho cấp trên suy nghĩ, cân nhắc, bày cho mà làm?
Nếu quả đúng vậy, tôi sẽ nói trắng rằng tôi không đồng ý với anh Năm. Cùng lắm, tôi sẽ xin giữ ý kiến riêng trong khi chấp hành. Ai muốn qui cho tôi là bướng, kiêu, hỗn cũng đành chịu.
Tôi vào ngồi trước mặt anh Năm với ý định vuốt ngược lông, xoa trái khoáy như thế. Các anh Điển, Giai, Ba Tơ cũng dự nhưng ít bàn góp.
Ban đầu tôi trả lời từng câu hỏi một, cố giữ giọng tỉnh táo, gần như lạnh. Rồi không lạnh được nữa. Mỗi câu thốt ra ở đây được rút từ những ngày nặng ứ bao nhiêu rung cảm, hết đau xé ruột tới mừng ngây ngất. Có thể nào dửng dưng khi nhớ lại cháu Hoàn bị bay từng mảnh, các đồng chí du kích bị đạn xỉa vào lưng? Làm sao quên được những bà con tự đốt nhà mình soi bắt tù binh, những chị em chuyên đánh giữa rốn địch, những gia đình sẵn sàng chịu chết để giấu tôi trên giàn ván? Lựa lời giữ miệng sao được, khi hàng ngũ ta chưa sạch những người nắm đuôi phong trào kéo lùi lại như nhóm anh Tám Liệp, những người vừa “lạc quan tràn trề” bằng lưỡi đấy lại xoay ra dùng lưỡi để “than rằng, hỡi ôi” khi gặp khó? Tôi có thể sai lắm chứ. Tôi mới về đây hai tháng rưỡi, tầm hiểu biết chỉ là của một cán bộ đại đội, tuổi Đảng tuổi đời đều non. Mặc dù sạn còn lẫn vào thóc, dù chẳng có cái dại nào giống cái dại nào, tôi cũng đã từng cầm xẻng xúc thật lực vào cuộc sống ngồn ngộn, cố vác mỗi ngày một bao tải đầy căng mà đắp vào nghiệp lớn của chúng ta, tôi đã hiểu đồng bào đồng chí vành đai qua bấy nhiêu ngày đổ mồ hôi và máu. Tôi phải nói hết sự thật.
Từng lúc anh Năm ghi vài chữ trong sổ tay, cau mày nhìn tôi, mỉm cười, lại nhăn trán nghĩ. Tôi dứt đưa tay áo quệt mồ hôi trán, liếc đồng hồ: chao ôi, diễn thuyết tới bốn chục phút! Anh Năm nhắm mắt, bật cười khà, lại ngó thẳng mắt tôi, nói nhát gừng:
- Ông... hăng thiệt. Tốt. Chịu khó sục sạo, tìm tòi, nghĩ, hay lắm... Nè, ông nhắc miết là phải khách quan khi đánh giá Mỹ, tại sao?
- Vì tôi thấy cách đánh giá của đồng chí Hải... chưa khách quan.
- Mình cũng thấy vậy.
- Tại sao?
Tôi buột miệng hỏi trống không, như trong cuộc họp của xê mình.
Anh Năm cũng đáp như bạn bè trả lời nhau:
- Sao hè... tại mình theo chủ nghĩa duy vật biện chứng!
Tất cả cười ồ. Tôi cười theo, nóng mặt. Tôi đã mím môi căng gân, húc vào cánh cửa mở sẵn!
Chú thích:
(1) Chín bỏ làm mười
(2) Lợn độc, lợn đi rừng một mình
(3) Tiếng Pháp bồi: “nó như con bò, không phải con bò” để chỉ con cọp
(4) Tiếng Anh bồi: “Việt cộng ít người, đánh nhiều. Việt cộng ít súng, giết nhiều. Việt cộng muốn vào Chu Lai là vào”
(5) Tiếng đồng bào gọi tàu tuần tiễu nhỏ của địch, giống tàu của bọn thuế quan hồi Pháp thuộc
Chương 21
Bay khỏi thôn Nhơn Thọ một quãng, chiếc C.47 lừ lừ vòng lại.
Đít nó xì một luồng khói đen dài. Tôi nín thở, nhớ ngay mấy lần cứu độc ở vùng ven núi. Chú Dé vẫy vẫy, ném cho tôi cái bao nhựa trong lắp túi lọc không khí, treo bán nhiều ở các chợ vùng giải phóng. Địch muốn diệt ngay Tam Sa bằng hơi độc ư? Khó tin…Cái đuôi khói đứt rời, nở dần, loãng màu khói xám, hiện những chấm li ti như cặn bùn, rồi như hạt cát, càng xuống thấp càng trắng ra, hứng nắng nhấp nháy. À, truyền đơn. Bốn đám mây truyền đơn trùm lên các thôn Tứ Nhơn. Gió hây hẩy thổi, từng tí một vẫn lùa gần hết bấy nhiêu tấn giấy ra đồng. Lâu nay tụi nguỵ chỉ dùng L19., rải ban đêm “cho dân chúng dễ lượm”, sáng ra mặt ruộng phủ trắng những lá bèo chữ nhật lạ mắt, trẻ em ra mương ỉa khỏi phải bứt sẵn lá mua mang theo.
Thằng C.47 quần hình bầu dục, dòm. Rồi nó lấy đường nhựa làm cữ, bay thấp hơn, đùn ra bốn luồng khói khác. Hình như cố ý sao đó, ngọn gió nồm bỗng dứt hẳn. Bầy bướm chết cứ vậy lúc lắc rụng xuống mặt đường đen, biến nó thành tấm vải rằn dệt ô nhỏ. Gay hơn nữa là súng dưới đất bắt đầu nổ lốp bốp khi nó sà lần hai. Nó vẽ thêm một số 8 do dự trước khi quay về Chu Lai. Chúa đã theo Việt Cộng rồi ư?
Tôi đang cười thằng tâm lý chiến, chú Dé bỗng gọi nhỏ mé trên:
- Mỹ lên, anh Thiêm!
- Gì?
Dé đưa tay chỉ phía núi Sàm. Tôi rút súng ngắn, lách bụi đi tới lom khom. Dé trao cho tôi cái ống dòm:
- Mỹ chỗ trắng kia, bằng nhau nhiều con kiến.
Cứ tưởng tụi thám báo sục lên trái đồi chúng tôi đang núp!
Một cánh quân khá đông từ Chu Lai đang băng trảng cát keo đến ấp cô Tươi. Chừng sáu trăm lính bộ. Mười sáu xe M.113, có bốn chiếc phủ bạt đi cuối, chắc để chở đồ ăn uống và lượm tụi say nắng, chờ trực thăng đến bốc. Hành quân tuần tiễu sau lưng quân nguỵ thôi, mà Mỹ làm như cố chọc thủng vòng vây Việt An, dùng hat u mở đường, đội hình tản rộng, tiền vệ trắc vệ đủ hết. Có thể chúng lên tập trận, hay sẽ càn thẳng lên Nhị Lộc. Ấp cô Tươi có một tiểu đội du kích bí mật lâu nay ngứa ngáy vì bị khoanh vùng “chưa được đánh”', vừa rồi đã nhận lệnh sẵn sàng nổi dậy phá ấp. Chị S22, bác S24 và ngót hai chục cán bộ bí mật khác mạn Bắc Chu Lai đang nắm quân chìm, nao nức đợi giờ nổ lớn. Phía Bình Sơn cũng vậy. Căn cứ Chu Lai nằm lọt giữa một bãi mìn điện chôn rất kín, hai đầu dây nằm trong tay ta đang nhích dần tới khối pin.
Từ Tam Sa đổ xuống biển, hàng vạn người đang sốt ruột chung chung, chờ. Mới có ba người biết giờ đánh: Bí thư Tam Sa, cậu xê trưởng đặc công mới hăm mốt tuổi đang nằm trong xóm chị S22, và tôi. Sáng mai, trưa mai, tối mai, tin tối mật sẽ loang ra từng nấc, mười một giờ bốn mươi đêm mai sẽ bấm điện.
Cũng như ngọn đòn trả thù sau lụt, kế hoạch của tôi đưa lên bị vỡ vì quá chật. Nó phình lên thành một chiến dịch nhỏ. Đánh máy bay trong Chu Lai, đánh bến cảng, đánh sư bộ sư hai Nguỵ, cắt một loạt cầu trên đường Một, nhiều nữa. Riêng cái trận tốt lõi được giữ nguyên: C.125 sẽ diệt đại đội Mỹ đóng trên núi Sàm trong một cuộc đấu lê ban đêm.
Sau khi rà số quân địch quân ta như một tổ trọng tài khó tính, ban chỉ huy trung đoàn mới ghép cho xê mình ba mươi bảy chiến sĩ nữa để bù chỗ chênh lệch, nhưng không chịu thay những cậu đang sốt rét. “Bộ đội mình sức khoẻ vậy đó, súng ống vậy đó, không thêm bớt gì hết, dám một diệt một với Mỹ thì oánh! “. Cả đại đội hoan hô rầm một góc rừng, lao ngay vào tập đánh đêm. Tiểu đội trưởng Thuỳ tung ra thuật đánh xẻng – cậu ta hết đạn, đã giết năm nguỵ ở Việt An bằng cái xẻng đào hầm mài bén ngọt – gây được phong trào rất mạnh. Tháo mìn định hướng, chống ra-đa, né pháo sáng, lấy M.79 bắn lại địch ngay … tất cả phải luyện xong trong một tuần.
Anh Ba Tơ nhường tôi chỉ huy. Tôi thú thật là không đương nổi, chỉ xin phép theo giúp anh thôi. Xa anh em ba tháng, cả đi đường và ở Tam Sa, tôi đã tụt hậu kha khá rồi, phải cay đắng mà nhận vậy. Trên bằng lòng. Xong trận này tôi sẽ về H.68 dự tổng kết năm bảy ngày, rồi trở lại nắm xê mình.
Sau khi tiễn anh Năm Đông tới sông Rù Rì - anh đi thăm làng Cá suốt trưa đến tối, cậu Ri nảy ra sáng kiến dẫn anh xem địa đạo thật nhiều, nói chuyện với bà con đào hầm, tránh được loạt pháo chiều gần trăm trái – anh Điển đã kể thật với tôi:
- Nhiều nơi muốn rút cậu lắm. Quân báo, địch vận đòi căng nhứt, rồi tới ông tác huấn, ông Giải phóng xã, cả Hát sáu tám nữa. Ông Năm biểu đừng, cứ để cậu ở đơn vị lợi hơn, nhưng phải thúc cậu học nhiều và giao việc nặng. Ổng thấy cậu nhìn thằng Mỹ được chiều sâu mà thiếu chiều rộng, dân Mỹ chống chiến tranh rầm rầm, cậu lại cho lính Mỹ ít chịu ảnh hưởng, ví dụ vậy.
- Tôi chưa thấy nét nào…
- Tất cả chúng ta đều chưa hiểu rõ kẻ thù mới, đang mò mẫm tìm cách nào đánh Mỹ ít tốn xương máu nhứt, thắng gọn nhứt. Võ đoán là dại. Tuy vậy, những quy luật chung vẫn không thay đổi. Cậu cứ vẽ một cái bảng giống như bảng Men-đe-lê-ếp trong hoá học, điền vô những nét về Mỹ đã nắm được, để rồi coi, trong các ô trắng sẽ lần lần ghi thêm: chống lệnh, chạy trốn, binh biến, đầu hàng!
Anh Điển vẫn là ông thầy năm xưa, sẵn sàng viết thư dài tám trang trả lời câu hỏi của một cậu học trò đã rời trường nhiều năm. Anh nói kín đáo, cũng đủ cho tôi hiểu rằng anh muốn rút tôi, còn anh Năm khuyên nên để tôi chiến đấu và mạnh dạn đề bạt. Mấy tháng qua anh khen tôi rất ít, đòi hỏi nhiều, nhưng đằng sau những câu văn điện tín giao thêm việc, tôi đọc thấy một ý lặp đi lặp lại: “Mình tin cậu nên mới giao”. Anh thương tôi kiểu ông cha nghiêm, và tôi thích thứ tình cảm gân guốc ấy.
Sở chỉ huy của anh Điển không đặt ở làng Cá, hòn đảo này dễ bị vây kín. Anh cắm nó trong một thung lũng rậm cây, lút giữa rặng núi chia đôi hai tỉnh Nam Ngãi, cận đường liên lạc giữa hai vùng Bắc và Nam Chu Lai. Trước khi chia tay, anh lại búng vào tai Mẫn:
-Thoát nạn lính cùi chỏ, nhớ làm gà ăn mừng nghen. Nội bấy nhiêu súng ngắn, cô thích có một cây Pê băm tám thôi!
Mẫn không mắc cỡ như tôi tưởng, nói bướng:
-Súng nào bắn giặc nhiều, cháu thương!
…Một cây trọng liên trên núi Sàm bỗng xổ đạn thông thốc xuống phía Nhơn Phước, tiếp mươi trái cối 106,7. Cô Cang vẫn gài du kích bắn tỉa phía đó, nay đã ngừng, có lẽ địch nã theo con cầy con cáo nào thôi…Không phải. Các cỡ súng Mỹ rộ lên một lát, rồi hai chiếc H.34 đến quần trên đồn.
Anh em trinh sát dồn cả lên chỗ quan sát, chuyền tay nhau cái ống dòm. Xem Mỹ tắm dưới trực thăng phun nước mấy lần rồi mà vẫn tò mò. Tôi phải buộc các cậu tản bớt vào các mương xói, phòng một trái M.79 rải bất tử. Tôi đã thấy cảnh ấy nhiều lần dưới Chu Lai, ghi thêm được một thời cơ nện cối vào Mỹ và hạ trực thăng treo đứng, kiểu tắm có vẻ sang đấy, thật ra rất chán, bởi trận mưa giả bị gió cánh quạt thổi xuống rất mạnh, ban đầu xốc bụi mù mịt, về cuối lại toé bùn lỏng, đứa nào tắm xong cũng vấy bùn tới đầu gối là ít. Cũng như cái nạn nhà lầu thiếu thang máy thôi: Mẹ Sáu tin rằng dân thành phố ở gác năm gác sáu là sướng nhất, ăn ngủ ỉa đái trên đầu người khác mà!
Chiếc trực thăng thứ hai hạ xuống thu quần áo đi giặt đã rời sân đồn. Đại đội Mỹ bên kia co hết vào chỗ mát, chỉ còn thấy những lô cốt loang lổ màu sẫm và những bao cát trên đen dưới xám sau mưa. Kẽm gai đọng nước nổi thành chuỗi đốm sáng li ti. Mấy cây sàm còn sót lại cũng sáng từng chùm lá. Một trái đồi to nằm ven đường Một, mé trên, được gọi nâng đỡ là núi. Những cây sàm mọc qua kẽ đá, thân vặn vẹo nhám nhúa, lá nhỏ và rất dày, bóng như nón mới quang dầu, đã bị xốc trụi hết. Trong mươi ngày, tụi Mỹ dựng xong trên núi Sàm một đồn khá to, bằng quân nguỵ bắt dân làm kỳ cạch ba tháng. Chúng sẽ bị diệt trong vòng nửa giờ.
Trưa đứng bóng rồi. Tôi luồn dưới bụi mua định ngủ một giấc, chú Dé lại xuống gọi:
- Anh Thiêm, du kích…
- Đâu?
- Du kích chị Mẫn đi đánh, chưa xong qua đường xe sắt.
Tôi chồm dậy, bươn nhanh lên lùm gai bờm rậm sau lưng Dé, đón ống dòm.
Một múi gò bên trái che mất làng Cá. Chỉ thấy hai bóng người cắm lá rậm đang men các bụi cây đi xuống. Cặp tàu rà vẫn xoay như đèn kéo quân, gác trên ấp cô Tươi, vòng quần mở rộng gần tới Lộc Chánh. Chiếc thứ nhất vừa quay đuôi, hai bóng kia phóng ngay qua đường nhựa, chạy khom giữa các vồng khoai đắp rất to cao của vùng cát, lại thụp vào một cụm lá tránh chiếc thứ hai sà tới. Đằng sau họ vài chục thước, có hai người nữa. Rồi hai nữa. A, đội du kích Tam Sa chiếm Lộc Chánh! Tôi hiểu. Bọn biệt kích ở đấy đã rút đi dẫn Mỹ, trong buổi sáng bỏ trống quãng đường Một và cái ấp chiến lược đang rào lại nham nhở. Tin lên làng Cá, du kích ập xuống ngay. Chiều nay, cánh quân Mỹ sẽ thình lình bốc trúng than lửa. Vào đất Tam Sa phải toé máu phòi ruột cho coi. Đánh giữa vùng cát phẳng, địch vây bốn mặt, thiếu hầm hố, chọn được buổi chiều là hay nhất.
Chộp ngay thời cơ như thế, dám tấn công vừa liều vừa khôn như thế, tôi biết chỉ có Mẫn nghĩ ra trước. Năm Ri chưa tới cỡ đó.
Tôi bò thằn lằn thật chậm đến một bụi sim đằng trước, thẳng hướng lỗ châu mai bên núi Sàm ngó qua. Chúng bắn có lúc chứ.
Thấy rõ làng Cá rồi. Từ ngõ nhà cũ chị Biền nay bỏ trống, du kích từng đôi chạy đến gần đường sắt, núp, vọt qua cái ta-luy đắp cao, núp, đi men bờ bụi tới sát đường ô tô, núp, xẹt ngang dải nhựa đen và các bãi khoai, núp, tuồn vào ấp Lộc Chánh. Hai người đứng nép chỗ góc vườn nhà chị Biền dưới cây mít bị pháo chặt ngọn, chỉ trỏ. Bóng cây giữa trưa đen đặc lại, khó nhận ra ai. Một người nhô ra nắng, cái báng cong trên súng loé tia nắng. Mẫn đi à? Mẫn cũng đeo vòng nguỵ trang rậm lá không xăn quần đến gối như mọi khi – giấu vết thương chưa lành – chạy theo một cặp gần cuối. Người thứ hai tập tễnh đi vào làng Cá. Anh Luân ở nhà.
Ngõ xóm đã vắng.
Các vườn cau trong làng Cá thưa hẳn sau những trận pháo từ trăm quả trở lên, đất đỏ pha vàng hiện lỗ chỗ. Mỗi ngôi nhà biến đi để lại trên nền cây xốp ấy một cái giếng sâu, thành giếng sém nâu và đáy đọng tro đen nếu là nhà cháy, thành xanh đáy vàng khi chủ nhà tự tay dỡ nó, lấy gỗ lát địa đạo và tre lá dựng cái lều nhỏ trong bụi rậm. Làng gần hết sạch mái nhà. Ống dòm của tôi soi chéo xuống hòn đảo dài, chỉ gặp mảng ngói đen điểm trắng của mái đình cong võng, nhô lên đấy như người làm chứng già đứng kể tội giặc. Đường hầm dưới mười thước sâu đã thông hẳn. Bà con đang hối hả lắp cửa chống hơi độc, moi hố chống thả thuốc nổ, khuân xuống những chum vò chứa nước, gạo, than, mắm, dầu, cả sữa hộp và chõng buộc sào tre làm cáng cho người bị thương. Những người đào đất ngày đêm và chi chút lo cho cuộc sống trong lòng đất ấy, khi địch tràn vào sẽ ở lại bên trên giữ kín các miệng hầm, níu kéo không cho giặc phá làng. Cán bộ và du kích Tam Sa đã có thêm nhiều cây số rễ ngầm để bám chắc vành đai. Rễ chính có, rễ phụ còn mọc thêm mới, sẽ nối liền vùng Tứ Nhơn, vùng gò, xuyên qua đường Một…
Tôi bò trở về lùm gai bờm, lật mũ tai bèo ra lau mồ hôi mặt đầm đìa. Mồ hôi vã nhiều khi tôi xem Mẫn vọt qua ta-luy đường sắt. Mẫn với tôi năn nỉ nhau đừng liều, cũng chẳng đi tới đâu. Mẫn sẽ đáp gọn lỏn rằng bí thư cần có mặt trong trận chống Mỹ đầu tiên của Tam Sa, rằng ném sáng kiến ra cho người khác làm thì khác nào mồm miệng đỡ chân tay, rằng “anh như em, anh còn xách súng chạy lên trước nữa chớ!”. Hoà cả làng. Ngủ thôi.
Ba giờ chiều, anh em lay tôi dậy. Cánh quân Mỹ ra khỏi ấp cô Tươi, lên Lộc Chánh. Đại đội biệt kích áo quần đen dẫn đầu. Rất tiếc, anh em đang khao khát bắn lính Mỹ kia.
Tới cách bờ đai ấp một cây số, tụi nguỵ tách sang con đường đất bên cạnh, tuôn lên nằm dọc đường Một như mọi ngày, xem kiểu đi đủ biết chúng mù tịt về ta. Quân Mỹ tản rộng, theo sau lũ M.113 vào ấp. Sướng rồi.
Chiếc xe đầu sùng sục băng cát, xốc hai luồng bụi trắng như rẽ bọt hai bên xích, hệt tàu đít vuông vào bờ. Tôi chăm chú xem nó, một mình nó. Nó chồm chồm trèo qua các luống khoai, nghiến hai vệt đen trên bãi mè rộng. Tránh đường. Cách cổng vào ấp chừng trăm thước, nó dừng lại, dòm. Vào ấp do nguỵ giữ, nếu húc bừa hàng rào thì bọn “da màu” sẽ cười Mỹ nhát, và có thể cãi bay nếu Mỹ dẫm mìn, tụi ac-vin(1) là chúa đểu. Hẳn nó nghĩ vậy hoặc thằng chỉ huy đằng sau nhắc vậy, nên nó leo lên mặt đường, xịt một hơi khói đen cạnh sườn, tỏ ý chẳng sợ, rồi cho cặp xích loang loáng ngoạm đất. Bầy xe ghép hình dẻ quạt, tiến theo. Lưng tôi lạnh dần. Cặp tàu rà xuống sát ngọn tre, nghiêng cánh xoay tròn. Mười bốn chiếc xe đầy lính tung bụi ùa tới, chĩa súng chơm chởm. Du kích không có súng chống tăng…Mìn? Mìn lớn đâu có đủ để chôn khắp các hướng. Anh Biền chuyên cưa bom đúc thủ pháo đã bị giết. Nếu có tôi trong cuộc, tôi sẽ…
Trái mìn nổ, không phì khói tròn mà phụt thẳng đứng, dựng cái lọng rất cao. Mìn lõm của Mỹ! Chiếc xe chồm như ngựa chứng, đổ nghiêng, bụi trùm kín nó. Chung quanh mấy chiếc đi gần bật lên những đốm lửa tung toé. Đòn phủ đầu khá lắm. Lựu đạn ném sai nhiều quá đấy Mẫn ơi! Súng trên xe bắn dữ. Hình như du kích thụp xuống hào tránh đạn. Đừng tránh Ri ơi, xe nó xóc mạnh, lính đang hoảng hồn thụp đầu, chồm lên mà đánh! Ri, kìa thằng Ri, coi đạn quạt vào lưng chừng cây tre đó, trúng trật gì, xốc tới mau! Tôi gầm nhỏ trong họng, rướn mãi tới. Cậu Lập nắm vai tôi kéo lại: “coi chừng nó thấy”. Nó nào nhỉ…Mày bỏ lỡ phút này, chết đó Ri…A, hay lắm! một bựng lửa khá to bùng giữa một khoang xe, cả khối sắt bốc cháy tức khắc, như khói đen biếc của dầu nhờn. Cát bay mù trời trước cổng ấp. Màn khói bụi vẫn đầy những tia lửa lằng nhằng. Của địch cả. Tôi suýt reo khi thấy chớp lửa to màu da cam của thủ pháo. Anh em luồn trong đám mây đặc ấy, nện tiếp. Rất khá, đừng xài đạn, để dành lát nữa, chỉ trái nổ thôi nghen Mẫn…
Làng Lộc Chánh đã ngập một nửa trong khói. Cối và phóng lựu M.79 của quân bộ ngoài trảng phóng vào như mưa đá. Nhiều đám cháy. Bốn chiếc trực thăng phản lực bay tới, quần do dự trên cao, chắc sợ trúng đạn cả đôi bên. Tôi xem mãi đến hoa mắt, phải trao ống dòm cho anh em, chợt thấy tim đập dữ và ngực đau, có lẽ tôi quên thở quá lâu. Các tiếng nổ nhập cục lại thành sấm đất, bây giờ tôi mới nghe. Tai còn vo vo bung bung. Người xem đá bóng lắm khi mệt hơn cầu thủ.
Cậu Lập thay tôi theo dõi trận đánh, hết ứ trong mũi lại ái đằng mồm. Tôi muốn gắt cho cậu ta im, sau chỉ hỏi:
- Tới đâu rồi?
- Nó phóng một loạt trái mù. Rút … Rút thiệt rồi.
- Mi-tăng(2) thôi, hay là…
- Xe quay đầu. Quân bộ cũng lui... Gut-bai Vi-xi(3). Đường về Chu Lai còn xa lắm, co-ca-cô-lâ đã cạn từ lâu...
Tôi phì cười. Gần năm giờ, tụi Mỹ chuồn thôi. Pháo Chu Lai nổi gầm từng loạt. Giai đoạn thù vặt bắt đầu.
- Chắc đồng bào hỏi miết đâu rồi bộ đội.
Câu nói lơ lửng của chú Dé làm tôi nhói ruột. Thôi chết, lúc thường mang súng dài súng ngắn dạo khắp xóm, Mỹ lên đốt đuốc tìm không ra ông nào, tránh sao khỏi… Ai đó sẽ lên tiếng: “Cái tay Thiêm ăn cá uống bia lâu nay đó, đâu rồi ta”?. Ai khác cười mũi: “Hì, một tấc đến trời!”. Mẫn đỏ hai tai, nâng các-bin lên ngắm để khỏi nhìn quanh. Chẳng lẽ Mẫn kêu toáng: “Anh Thiêm đang theo dõi cái núi Sàm để tối mai khiêng chống chầu(4) về diệt, đừng nói bá láp!”'. Ừ mà cho đến nay tôi vẫn là phái viên của H.68 về bám Tam Sa, có gì khác trước đâu. Tam Sa đánh Mỹ lần đầu, cũng là trận chống Mỹ đầu tiên của khu vực Bắc Chu Lai, tôi đã để bao nhiêu kinh nghiệm vàng ngọc tuột khỏi tay! Rủi, rất chi là rủi, đành vớt vát thôi.
Trung đội trưởng Lập lãnh bộ phận này, nhưng vì tôi có mặt nên cậu cứ quên vai trò chỉ huy, nay xin trả lại cậu. Tôi chỉ mượn cây AK với hai trăm đạn, cây súng này làm tôi mừng sửng sốt khi bắn thử. Chú Dé đòi theo, tôi không chịu, chú xịu mặt ngay. Tiểu đội phó mà trẻ con vậy đó.
Tôi gặp Dé năm ngoái khi về chuẩn bị đánh đồn ở Trà Bồng. Chú dẫn tôi đi, đón tôi về. Tôi chưa thấy một ai có mắt, tai, mũi lạ lùng như Dé, tinh nhạy đến phát sợ, thua người chỉ cái miệng. Chú mến tôi, rồi mến xê mình, cứ nhất định “nhập ngũ anh Thiêm” thôi. Bao nhiêu lần chúng tôi đã trầm trồ với nhau: “Thằng nhỏ, đúng là trời sanh ra làm trinh sát!”. Cái đồi núi Sàm kia, chú đã vào ngoay ngoáy tới tận ruột nó tới bốn lần. Tôi hay chọc Dé là “khôn chợ dại nhà”, chọi với địch một ngàn mánh khoé mà ở với ta chỉ biết tít mắt cười hề hề. Cái cười ấy, cùng với bộ mặt bấm ra sữa và giọng Kinh chưa sõi đã giúp cho Dé được các mẹ cưng nhất trong xê mình.
Tôi về đến làng Cá lúc gần tối.
Đường làng đầy ngập những nhóm vừa đổi phiên địa đạo, lấm lem từ đầu đến chân. Hai người phủ bột đỏ, vác cuốc. Năm cô sàn sàn nhuộm bùn lỏng màu xám lợt. Một tốp nữa toàn đất sét vàng, trên khô dưới ướt. Giống nhau chỉ có bộ mặt vằn vèo muội đèn và bộ râu Hít-le đen kịt dưới lỗ mũi, tuy đã thắp dầu phụng cho đỡ khói. Bà con chỉ bàn thì thào – cách mạng miền Nam ai làm nấy biết, quen nếp rồi – mà cái khoái cứ xì qua giọng nói:
- Pim pim! Tránh xe ủi đất nghen!
- Chỗ đó rút tấm ván cầu, thằng nào nhảy xuống … éééo!
- Tò te là tum cốc...
- Nó tàu bay, mình tàu lặn, thử coi ai ăn ai!
Đội du kích chưa về. Nhiều cặp hát u thả đèn dù và bắn như xay lúa dọc đường Một. Tụi nguỵ áo đen suốt buổi chiều dạt về mạn bắc, nằm giữa trảng cát cho máy bay dễ nhận, không dám đến gần ông bạn Mỹ vụng như gấu mà rất đa nghi. Bây giờ pháo đang nện gắt vào chỗ trảng ấy. Tụi ác-vin chết mặc kệ, miễn là chặn được đường lui của Vi-xi, chắc tên chỉ huy Mỹ nghĩ vậy.
Tôi bám anh Luân đi xem suốt lòng địa đạo, soát lại các cửa đã nguỵ trang rất khéo, xong còn ăn cơm nhà mẹ Sáu và tắm một chầu, đội du kích mới về. Anh em vòng hình chữ U vào phía Nam tránh pháo và trực thăng. Tuy đã thắng được những cơn sốt dồn dập, lúc này tôi vẫn đâm bổ ra đón. Một khiêng lúc lắc, võng buộc vào cây tre. Một cái đầu băng trắng. Cậu Diêu, Mười Diêu ở Nhơn Lộc hi sinh. Đã cho khiêng thẳng về làng. Địch hả? Mấy người đếm, ít nhất mười bảy, nhiều nhất hăm lăm xác, số nhào trong xe chưa biết được. Từng khuôn mặt lấm, cười loé răng, diễu qua cái luồng sáng đèn dù xen kẽ với bóng cây lá, ném cho tôi một câu hối hả. Các cô được tản đi tắm giặt trước, cánh con trai khiêng thưng và lo việc linh tinh. Phụ nữ làm bí thư có khác. Mẫn đi gần cuối, ấn luôn vào tay tôi một cái xắc cốt rộng và dẹt, nói như đang dở câu chuyện:
- Thầy Thiêm coi dùm đi. Nó rớt ra, cát lấp, bà con bới tìm súng mới đụng. Họp nhà xã Chinh, mười giờ…
Mẫn đi thẳng. Ngại tôi bắt bẻ, không muốn tôi thấy rách, bẩn, hay giấu một vết thương mới? Đố biết.
Năm Ri ẩy vào nhà xã Chinh hai tên trói ké, một đứng tuổi mặc bà ba đen, một trẻ mặc tây rất sang. Anh Luân thắp thêm ngọn đèn ve rượu bạc hà, soi lại hai bộ mặt tái xanh, gật đầu:
- Ngon rồi, bắt gọn không?
- Ụp xuống là tới thăm nhà lập tức. Thằng Hoè đang diện bảnh, dắt xe đi đón ông nội Huê Kỳ, bản đồ với thẻ công an chìm nhét trong quần lót. Thằng Cống làm heo, nấu xôi, để sẵn sáu két bia. Anh em đại liên một trận, dàn quân hơn tiếng đồng hồ Mỹ mới lên. Tài liệu chôn dưới chuồng heo, cả mớ vàng với tiền đây nữa.
Cậu ném ra gói giấy bạc một trăm mặt xanh mặt đỏ, và xâu nhẫn vàng chừng hai chục cái. Anh Luân xổ mớ thuốc rê xuống mặt bàn, lấy cái túi nhựa trong bỏ các thứ vào, thắt lại:
- Để giao Năm Tuất làm tiếp…Hỏi chưa?
- Rồi. Nó biết Mỹ sắp càn Tứ Nhơn, không biết ngày giờ.
Năm Tuất vào, “à” ngay một tiếng nhẹ nhõm. Vẫn rất củ mỉ, lớp lang, anh đọc cho hai tên điệp nghe giấy bắt của huyện. Thằng Cống buôn mắm. Thằng Hoè chích dạo(5), đã được bà con Lộc Chánh bám sát lâu nay. Thế nhưng chi uỷ không tin hai đứa này dò ra tông tích chị Biền. Ngay tôi là “cố vấn” đáng tin cậy cũng chỉ nghe Mẫn kể sau khi vợ chồng chị bị giết. Các đồng chí khác về vùng cát vẫn yên ổn.
Cũng chẳng phải thằng Chinh con “giết lầm hơn bỏ sót”. Không, hắn ăn gan chị Biền, uống say, nói toáng rằng mụ này mới kết nạp, gan đảng viên nằm vùng béo hơn đảng viên nhảy núi là nhờ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, ở núi ăn lá thì gan dai nhách.
Vụ án chị Biền vẫn chưa tỏ. Tên địch giấu mặt nào đó đớp lấy một câu sơ hở như cá đớp bọt, lặn ngay, chưa mò ra.
Anh Tám Liệp đến sau, vẫn chững chạc trong bộ quân phục ka-ki, lẳng lặng đếm tiền, đếm vàng, rút giấy viết biên bản giúp Năm Tuất. Bàn tay anh có cái gì đó ngượng ngập khi đặt tờ giấy kín chữ trước mặt Mẫn: còn khi hỏi Tư Luân mấy việc gấp về kho lúa, anh có vẻ tự nhiên hơn. Anh chưa quen làm việc dưới quyền cô con nuôi. Cũng không quen chào chung một tiếng và rút êm để chi uỷ họp. Mẫn ngước nhìn theo ông chú đi ra cửa, chớp chớp, mắt hình như kín đáo thở dài.
Tôi đã hiểu vì sao anh Bảy buộc Tám Liệp phải ở lại Tam Sa để dọn những chỗ xả rác. Những cán bộ lâu năm như anh Liệp, công rất nhiều, khi sai cũng không ít tội, nhưng họ khác xa lũ Ba Thấn, họ đủ tỉnh táo để bước lùi trước cái vực đen của sự phản bội. Chiếc xe bò ì ạch thật đấy, nhưng khi nó chuyển thì lại vững và khoẻ hơn xe đạp gấp mấy. Tám Liệp đã chuyển. Anh về ở hẳn Làng Cá, xóm Đuồi, trong mươi ngày đã sắp xếp gọn đống bòng bong kinh tế mà Năm Tuất suốt hai tháng ròng không gỡ nổi. Bây giờ anh đi từng xóm giải quyết nốt số ruộng công, tổ chức làm mùa tháng năm. Những tiếng trách và giễu xung quanh lặng bớt, nhưng khen thì chưa. Ở nơi hằng ngày động đất này, bà con coi người trên việc làm. Không ai rỗi hơi để nhắc hoài chuyện cũ, cũng chẳng tội gì mà đi bốc thơm một cán bộ đã bỏ dân khá lâu.
Từ nãy tôi thắp đèn riêng một góc, trải tấm nhựa trên nền sạch, soạn lại xắc-cốt Mỹ. Khi mới tới, Mẫn đặt trên bàn một nải chuối tiêu to, mời: “các chú ăn nếm đi để cháu ăn với, đói kinh”. Một kiểu mời rất nông dân. Đợi chú Liệp đi khuất, Mẫn mới dám bẻ chuối ăn, vừa nhai vừa đọc biên bản. Ký xong, Mẫn dặn:
-Anh Năm xin trên một phần tiền, mua sữa trứng gửi cho hai cậu bị thương, mua thuốc cho du kích nghen…Nhắc ai giải tụi nó, hễ cởi trói cho đi ỉa như thằng Ba Thấn thì vô trại cải tạo luôn do…Đứng lấy du kích, một tổ phụ nữ vác dao phay đủ rồi, mượn vài trái lựu. Anh cầm luôn cái tờ em lấy cung hoả tốc hồi trưa, đây. Khiêng thương hai cáng sáu nguời…Dạ, anh đi.
Mẫn bẻ mấy trái chuối đem lại cho tôi. Ngoài sân ai đó kêu to “tàu rà”. Ở vùng tàu bay dệt cửi trên đầu này, hai tiếng được rút gọn thành “tơra” ấy mới đáng coi như báo động. Đèn tắt phụt, trong xóm đèn lửa vẫn để nguyên. Tụi tàu rà thuộc làng đến độ ban đêm có thể nhận ra những đốm lửa khác thường và gọi pháo bắn. Tôi quờ tay cầm chuối, nắm cổ tay Mẫn. Mẫn ghé sát tôi, giọng hơi lẳng và đậm mùi chuối chín:
- Thấy tụi em đánh không?
- Thấy, giỏi một cây. Năm-bờ-oăn(6). Băng chân…
- Rồi. Anh bớt nóng ruột chưa?
- Nóng chuyện khác thôi.
- Gì
- Lấy vợ!
Một loạt tiếng đập nồi đất trên không. Tôi buông tay Mẫn khi đèn chùm bật sáng, soi qua các cửa sổ đã tháo tháo hết cánh đưa xuống hầm. Một bóng người cao lớn nhô trước cửa chính, thở phì phò, chân tay quờ quạng như say rượu. Từ sau bóng lạ, tiếng Rốt chị dội tới:
- Chị Hai đâu? Có người hỏi chị Mẫn, hay anh Thiêm cũng được!
Mẫn ra cửa. Cặp tàu rà để nguyên đèn hiệu lượn trên làng. Cái bóng to ngồi thụp xuống thềm, lắp bắp:
- Tôi…Xáng đây…
Tôi nhận ra chồng cô S.16... Mấy luồng sáng trắng quét qua một bộ mặt đầy vết máu chảy trên da nhợt. Áo rách thành mớ dài treo trên cổ, cũng vấy máu. Xáng hổn hển:
- Mỹ vô … hiếp vợ tôi…không chịu, nó đâm chết…
- Trời, con Tươi bị! – Mẫn kêu rít răng.
- Tôi trốn trong buồng, nhảy ra cứu, không kịp, tôi bóp cổ, cắn, đâm…
- Anh có sao không?
- Gai cùng mình…chạy qua bãi xương rồng…đáng kiếp, đau đáng kiếp…
Tôi thấy một chùm gai xương rồng xóc gãy trên vai Xáng, so le như chòm râu lạ. Xáng giết được một Mỹ, thoát, núp nhiều chỗ, ban nãy mò lên lại bị mấy thằng biệt kích nguỵ chụp bắt ngoài ruộng, cách bìa làng Cá ba trăm thước phía Bắc, vật lộn nữa. Xáng chạy được, chỉ bị gai lún sâu thêm vào thịt, đau dựng tóc. Địch không bắn theo. Trinh sát hay quân vây?
Năm Ri cho người đi tuần và giao út Hoà cứu chữa cậu Xáng. Cậu lắc đầu nói mãi: “Tại tôi, tại tôi hết…”. Bị gai xương rồng, phải tắm xà phòng thật sạch, lấy nhíp nhổ râu rứt từng cái một, các mũi gãy sâu thì để làm mủ mới nặn ra được. Tôi dặn nhỏ Út Hoà cho cậu uống một liều an thần. Mẫn ngồi vào bàn, tay chống cằm, nhắm mắt hồi lâu trong khi anh Luân nói cho Ri với Cang biết về cô Tươi.
Sau mấy phút choáng váng, tôi day chỗ bắp thịt rút đau trên má bên trái, cố dồn óc vào công việc. Tôi thắp đèn pin xem lại tấm bản đồ vùng Chu Lai trải rộng. Không có chữ hay dấu gì ghi trên ấy cả. Trong kẹp chỉ có giấy tờ linh tinh: Phiếu trả lương cho trung uý Rô-bớt S. No-ton, biên lai chuyển tiền, một số báo Sao và sọc, mấy cái thư, mươi thẻ kẹo cao su dài dẹt như quân bài tổ tôm xấp tư.
Tôi chợt thấy trên mặt nhựa cứng của chỗ đút bản đồ có chữ viết bằng bút chì mỡ đỏ. Chút nữa quên. Tôi gập tấm bản đồ thật đúng nếp cũ, khu vực càn hôm nay nằm trên cùng như trước. Nhét lại dưới lớp nhựa trong như kính. Những chữ đỏ nổi rõ ngay trên nền giấy xanh lá đầy các con số toạ độ và điểm cao.
Tên Mỹ ghi trên góc 26th – 3 pm.., khoanh tròn, kéo một đường vào Lộc Chánh. Đè luôn trên hình con cái quẫy của Nhơn Ái có đề 27th – 7 am. Hai mũi tên chĩa vào đấy. Mũi hướng đông có chữ ACars – Mar. Mũi từ bắc xuống đề ARVN. Trên gò Mù U còn thêm một cánh cung phòng ngự: Hel-Mar.
Tim tôi từ từ thắt lại. Tôi nghĩ một lát, cầm bản đồ tới đặt trên bàn cho chi uỷ xem. Anh Luân nâng kính dòm vào:
-Gì hè…Hăm bảy, tháng bảy âm. Nó cũng theo lịch âm ta hả?
Quân Mỹ đã đến Lộc Chánh chiều ngày hăm sáu, ba giờ, đúng kế hoạch. Sáng mai hăm bảy sẽ đánh vào làng Cá, tấn công hẳn hoi chứ không phải nghênh ngang đi tuần. Mũi đường Một lên có xe bọc sắt và lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Mũi bắc giao cho quân nguỵ. Trực thăng sẽ đổ lính thuỷ đánh bộ xuống khoá gò Mù U. Còn vùng đồi hoang hẳn là giao cho máy bay và pháo nện vô tội vạ.
Năm Ri buột miệng:
- Mắt quá mắt thánh! Anh học hồi nào tài dữ vậy?
Anh Luân và Chín Cang cũng khen vùi. Mẫn im, mắt lóng lánh. Trong một phút, người nghe có thể tưởng đọc được tấm bản đồ còn quan trọng hơn đánh thắng trận càn ghi trên đó.
Tôi viết thư, giao Ba Tâm chạy đêm tới sở chỉ huy anh Điển trao cái kẹp. Mẫn đang tính lại số mìn với Ri, dặn với theo: “ở lại luôn đó nghe em, lỡ có hoả tốc…”. Tâm tảng lờ không nghe, phóng ngay. Chú ta là người của huyện kia mà.
Mẫn đằng hắng, nói nghiêm nhưng chỉ nhìn ngọn lửa:
- Chi uỷ họp nhận định về trận Lộc Chánh chiều nay, bàn cuộc chống càn sáng mai. Tôi mời đồng chí Thiêm dự, giúp chúng ta…
Tàu rà vẫn treo đèn dù trên vùng gò và đồng Tam Trân, sẽ thay nhau quần đến mai. Trực thăng rọi pha dọc đường nhựa phành phạch. Những luồng sáng lạ chạy không ngớt qua các lỗ hổng của nhà xã Chinh, tôi thoáng nghĩ tụi Mỹ soi pin tìm ác ôn. Chỉ có cối trên núi Sàm bắn ra chung quanh dàn pháo Chu Lai ngủ sớm để mai dậy sớm.
Hai giờ sáng, Ba Tâm ra bãi mìn mới đặt tìm tôi, đưa mấy dòng lổn nhổn chuyện buôn bán và cày cấy của anh Điển. Du kích Tam Sa phải cố chặn không cho Mỹ vào làng, nếu vào cũng không được đóng lại, để trận núi Sàm tối mai – tối nay đúng hơn – khỏi bị vướng đường tiến đường lui. Tôi sẽ ở lại giúp Tam Sa chống càn, kiếm kinh nghiệm luôn.
Nhất rồi còn gì!
Chú thích:
1. Tiếng Mỹ gọi quân nguỵ, theo chữ viết tắt ARVN “quân đội Việt Nam cộng hoà”.
2. Nghỉ giải lao giữa cuộc đấu
3. Tạm biệt Việt Cộng!
4. Đón bộ đội chủ lực
5. Tiệm thuốc rong
6. Số một, hạng nhất.
Chương 22
Sau một trận đơn giản, tôi có thể kể ngay từ đầu đến cuối những sự việc chính, công của anh em nổi nhất, cả một mớ râu ria thú vị ngoài lề nữa. Còn mới đánh xong một trận lắt léo, ác và kéo dài như cái ngày chống càn hôm nay, tôi lại nhớ rất ít. Nếu có ai chộp hỏi ngay, tôi chỉ có thể nói về mấy tình huống khó xử nhất, mà cũng kể lơ mơ thôi, thua cả người đứng ngoài xem. Lúc thân thể tôi đầy bùn, mồ hôi và những vết sây sát, cũng là lúc đầu tôi đang chất bộn những nét vơ vẩn không đâu, từ con sâu trên lá rơi lọt cổ áo đến thằng giặc chết sao cứ ngọ nguậy bàn chân phải tuột giày. Kỳ vậy đó.
Trong khi giao chiến, tất cả các giác quan đều mở hết máy, phóng lên óc hàng ngàn tia điện loang loáng, biến thành hàng trăm ý nghĩ xô đẩy nhau như những hạt điện từ xung quanh hạt nhân, tụ lại thành mươi cái quyết định nói ra mồm vào những lúc gay go. Cũng như anh Ba Tơ, tôi cho rằng người đại đội trưởng giỏi không nên hò hét nhiều, càng không nên quát tháo làm anh em cuống. Phải nhìn khắp, hiểu rõ địch và thấy hết ta, nghĩ kỹ, nhưng cũng phải biết để cho cán bộ trung đội tiểu đội tự tìm cách đánh tốt nhất, chỉ ra lệnh khi cần, và lúc đó cái lệnh phải mạnh như mười cân bộc phá. Tôi thường bám chỗ mũi nhọn của trận đánh, kìm mình lại để cán bộ cấp dưới cầm quân như không có tôi, nhắc khẽ để họ xử trí, có khi suốt một giờ chỉ một lần mở miệng to để phát lệnh xung phong, kéo cả đại đội lao tới. Chính vì vậy mà tôi mệt óc; bã người hơn ngày xưa làm anh đội viên súng dài, tuy chỉ vọt từ chỗ này qua chỗ khác như dạo xem, bắn mươi loạt hay ném vài trái lựu phụ với anh em. Khi đã hơi mụ đi, tôi vẫn đủ sức xoáy sâu vào cái phút đang diễn ra, vẫn lái đúng mũi khoan của xê mình thuốn vào ruột địch, còn những gì trước đấy và sau đấy thì nhoà nét dần, ngay cái xác tôi cũng biến đâu mất, có người nhắc tôi mới biết đang ngậm cơm trong mồm hay có một viên đạn vừa cứa đứt thịt đùi. Cũng may, chỉ sau một lần đi soát đơn vị, trao đổi với anh em, nghỉ một lát nữa càng hay, tôi đã đủ tỉnh táo để dựng lại cuộc chiến đấu vừa qua trên đường lên gặp tiểu đoàn. Đấy mới là bức vẽ phác, về sau mới có thung lũng nối liền các đỉnh, và cây xanh hoa đỏ sẽ dần dà hiện đủ.
Mỹ càn vào làng Cá dữ thật!
Chiều qua chúng đi lớ ngớ, húc vào cái đình Lộc Chánh, bị sứt trán phải bỏ chạy. Hôm nay khác, chúng cố đóng đinh cho thủng vành đai của ta.
Giàn pháo Chu Lai băm vằm từ mờ sáng. Đội du kích dàn trong hào phải rút hết xuống địa đạo, chờ. Những chén mẻ đựng dầu phụng thả bấc được thắp nhỏ ngọn từ các hàm ếch nhỏ xắn vào lưng vách soi xuống từng bộ mặt đăm chiêu. Pháo nện như cả xóm cùng giã gạo chày từ trên đầu. Bà con đã gánh cát vun đống ngoài ruộng về đổ dầy trên nóc hầm nhà, đạn 155 không phá nổi. Người thoát đất, còn trâu buộc hầm cạn, còn nhà vườn… Cô Xuyến bật rên: “Cả ngàn trái”. Ai đó xuỵt, Năm Ri nhắc hà tiện đạn. Cô Rốt chị, xã đội phó mới được cử cách đây năm tiếng, sẽ nắm một tiểu chặn quân ngụy phía bắc đang vạch que bàn gì với các bạn, cười lúm đồng tiền trên má phính. Cậu Sung trung đội trưởng ngồi quãng giữa cái cầu thang chót vót trèo lên miệng, từng lúc gọi xuống: “Bớ ba quân, kíp mau mau thượng lộ!”, rồi lại xua tay khi loạt pháo mới rầm rầm trút xuống.
Tôi ngồi nghe pháo và xem Mẫn ngủ gật. Ước chừng mười hai cây 105, bốn cây 155. Không nhận ra được thứ 175 chưa quen nó. Ban chỉ huy chống càn đây: Ri xã đội trưởng, Mẫn chính trị viên, tôi cố vấn, thêm Ba Tâm chạy giấy và Út Hoà đeo túi thuốc nữa. Tất cả đều mệt lử và rất bốc sau trận Lộc Chánh. Còn Chín Cang nắm quân chính trị, anh Luân lo hậu cần nữa. Cái ngày Mẫn với tôi dắt nhau đi bắn tỉa mỗi đứa một phát đã lùi xa tít, tưởng đâu như trước đồng khởi. Riêng đội du kích xã bây giờ đã tới sáu chục người, gần năm chục súng.
Dựa vào vai cậu Giáp, cây trung liên Ba nhô cái đầu nòng chẻ tư hau háu: chị Bỉnh huyện đội phó đã trao nó cho xã đội giữa một ngàn người hò reo, trong lễ phát động chống Mỹ. Quanh năm vẫn thấy quân ngụy vác thứ này đi nghễu nghện, trông mà ngứa mắt, nhưng đêm ấy ai cũng muốn sờ nắn cây súng. Rồi khen nhé. Du kích được thưởng trung liên là vinh dự lắm, mấy xã bên đâu được vậy. Kê tiểu liên trên thùng thiếc bắn mãi địch cũng nhận ra, quát tướng những cái lệnh đại đội bọc lưng hay tiểu đoàn xung phong riết rồi chúng cũng hết mắc mưu, chỉ có xả mấy loạt pằng pằng tụi nó mới sợ: “Chủ lực đó bây, chạy!”. Vốn liếng khá rồi, mặc sức kiếm lời làm giàu. Thứ này lại sẵn đạn, chẳng như cái anh vanh cách(1) hai cò, nổ xong một băng là lo vác đi giấu. Đánh giỏi rồi súng gì cũng có. Mà… nè các cha, một trăm cái xấu không gì xấu bằng để mất “cây hoả lực” đó nghen, trung liên rớt vô tay địch thì cả xã mang nhục, chẳng riêng gì tụi bây đâu…
Bà con xúm bàn tới tấp vậy đó. Mẫn cũng lanh, nhân cái đà bốc chung ấy mà kêu gọi cô bác vót chông nhiều gấp đôi, rán tìm bom hư đạn thối làm thêm mìn. Chông mìn thật dày, giặc đừng hòng chồm lên cướp trung liên. Lừa cho tụi nó lọt giữa bãi chông mìn, xổ một băng, nó chạy toé ra, vãi xác khiêng không hết. Ngon như gỏi. Bà con hoan hô tơi bời khói lửa. Từ hôm ấy, chông gánh tới giao cho du kích không kịp đếm. Cây súng máy biến thành một cái gì tượng trưng cho sức lớn lên và sức kết chặt của du kích Tam Sa, to hơn giá trị thực của nó gấp năm mươi lần.
Năm Ri quay nhìn tôi, nói trống không:
- Lên được rồi hè…
Tôi cười, khoanh hai tay ra ý dứt khoát chỉ làm người xem. Mẫn ngấc đầu, dụi mắt:
- Bớt pháo, lên mau! Ai về chỗ nấy!
Anh em hối hả bươn tới cái cầu thang hình chữ chi. Dép cao su giẫm thình thình trên tấm phản lim bắc qua miệng hố chông lớn, dội lên các bực đất bịch bịch. Tôi liếc đồng hồ: sáu giờ kém mười, tức bảy giờ kém mười theo Sài Gòn. Tôi bấm đèn pin đi cuối cùng, thổi tắt các ngọn lửa trên vách, leo sau lưng Út Hoà, qua cửa. Khí trời mát và sáng dội ập vào mặt như một gàu nước giếng đầy ánh nắng. Tôi phải lim dim mắt khi đóng nắp, xoá dấu, khi mở mắt được hẳn thì mũi và họng đã thấy khét đắng, khói thuốc nổ còn đọng dày như sương mù trên làng. Đạn pháo rít qua đầu, đánh vùng gò. Tiếng trực thăng đến gần. Tụi Mỹ càn đúng giờ hơn Ngụy nhiều.
Tôi đóng kỹ vai cố vấn suốt đợt chạm trán đầu tiên.
Tiếng pháo khạc đạn dưới kia bỗng tắt phụt như ai giật cầu dao điện. Bầy trực thăng đang bay xế phía nam né luồng đạn, rẽ ngoặt sang phải, tốp “xe tăng bay” dẫn đầu áo ào bắn xuống gò Mù U đã bị cào xới đỏ loét. Số mìn chúng tôi chôn ở đấy còn sót bao nhiêu chẳng biết. Tôi chưa gặp một thứ gì ồn tai nhức óc hơn một cuộc đổ bộ trực thăng với mấy chục máy bay xúm chùm hai tầng trên đầu, tầng dưới lại xối đạn như tưới nước. Nghe kỹ, vẫn tách ra được tiếng nổ nhát gừng của du kích bắn lên. Mặt ấy cầm chừng bấy nhiêu thôi. Mạn bắc, Rốt chị còn hăm he lấy cho được súng của tụi biệt kích ngụy. Nặng nhất là khúc lườn con cá này.
Mũ sắt nhô lấp ló trên ta-luy đường sắt, với năm bảy chỏm dưa hấu. Pằng! Năm Ri quay sang phải quát ngay: “Bắn bá láp, lộ hết!”. Được!
Tôi luồn theo một nhánh hào phụ đã sụt lở nhiều khúc, cầm con dao chuối mới lượm được, giơ lên ngọ nguậy mấy lần rồi dựng im. Rắắắc! Rắắắc! Ba bốn họng súng máy quạt vội vào lưỡi dao. Đợi nó nảy một cái, tôi thu dao chạy khom về hào chính. Ri với Mẫn cúi xem ba vết đạn nhỏ bằng mút đũa, rất chụm, xuyên qua chỗ sắt giày đến hai li mà vẫn trơn mép, sắc như dấu kìm bấm trên vé xe lửa. Đạn AR.15. Ở Chu Lai, mới có tụi thám báo dùng loại này. Súng tốt, kỹ thuật khá nhưng đứa bắn không bình tĩnh, nã mãi mới trúng lưỡi dao cộng sản. Mẫn cau đôi mày rậm:
- Thám báo rình… chắc đợi xe lên trước. Giấu quân kỹ nghen Ri. Thủ pháo phủ đầu.
Ri gật, vỗ thắt lưng.
Mẫn giục hai em vào hầm chỉ huy, đợi đấy, cấm cãi nhau. Cũng tức cười, Mẫn đã sắp xếp cho Tâm với Hoà mỗi đứa đi một hướng, xa nơi nguy hiểm, rốt cục tới trận này không hẹn mà bộ ba lại dồn cục như cũ. Thêm tôi nữa là bốn. Cái gia đình nho nhỏ của Mẫn chỉ bấy nhiêu. Nếu trúng một trái pháo… Thôi, hơi đâu tính chuyện rủi. Tiếng xe đã nổi bên kia con đê rải đá củ đậu, rống to nhỏ không đều. Quân Mỹ tiến chậm, quá chậm. Một trái mìn lớn nổ trên gò Mù U, tiếng trầm và đất rung tận đây, chắc được thịt. Ái chà, một trái nữa! Tụi lính H.34 nhảy xuống lớ ngớ coi như ngả rạ. Mẫn hít hà không ngớt.
Bảy giờ hai mươi. Trận địa của chúng tôi vẫn phải nằm chờ dưới L.19 bay cao và hát u rà thấp. Bốn chiếc đờn cò xếp hình chữ A, đầu chúc xuống nhưng vẫn bay ngang như bầy cá rô gặm rêu đáy suối, xăm đất túi bụi bằng rốc két xuyên sâu. Từng tràng tiếng đá hộc lăn xuôi mái tôn đập vào gáy chúng tôi. Đạn thuốn vào ruột đất, mấy giây sau mới nổ một tiếng ục xa lắc, con hào rung rinh lở vách, còn vết đạn chỉ là một cái hang chồn xoi chéo đút lọt thân che, rắc lác đác trong lòng những mảnh đuôi rốcket cong giống như mảnh bát vỡ, đất quanh miệng hơi cộm lên và nẻ chân chim. Tới vòng quần thứ hai, tụi trực thăng bắn dữ gấp mấy, kèm rôcket có thêm đại liên gài cò xối đạn như cả chục máy bay cùng chần áo trấn thủ. Lại một cậu phát cáu chĩa Ga-ran lên lảy ba phát liền, hụt, may không lộ. Mẫn lách hào đi rảo một vòng, nhắc anh em cố nín hơi. Bắp chân Mẫn có vệt đo đỏ: vết thương hôm nọ còn rỉ máu.
Bảy giờ ba mươi tám. Phía Rốt chị, súng nhỏ rộ lên cùng một lần, rất đanh. Ta bắn trước, nửa phút sau địch mới kịp bắn trả. Mẫn quay về phía tôi, nhoẻn cười:
- Rốt chị xài ngon rồi. Địch tới gần bìa tre mới cho nổ, mặc sức lấy súng. Con nhỏ ngoéo tay với em…
Khúc hào bỗng nhảy chồm lên như con trăn đang ngủ bị đạp lưng. Chúng tôi lăn nhào. Đất sụp chụp trên mình. Tôi vọt dậy ngay trong tiếng nổ xé tai. Gì vậy? Cả một đoạn taluy trước mặt bị hắt lên trời, chới với, những tảng đất to từ trên không, từ từ rã vụn và rơi chìm vào bựng khói đen khổng lồ đang lộn tròn dâng lên. Hàng tạ, hàng tấn tô-lit. Nhiều đống thuốc nổ xếp cách quãng, bấm điện… Tôi túm vai Mẫn, hét:
- Dồn thủ pháo, chặn cửa mở, kia!
Bầy xe bên kia đường sắt rú ga như sấm đất, đang ùa tới mảng thành bị phá toác. Trước mặt chúng là một quãng ruộng cạn, không mìn, không hào, không chông rồi tới bìa xóm Giữa. Không ai ngờ chúng sẽ thúc vào đúng chỗ sườn ba(2) của làng chiến đấu! Bãi mìn lớn chen nhiều hố chông được đặt bao quanh nơi con đường làng rộng băng qua đường sắt, ở đấy đất cứng và dốc lài dễ vượt nhất. Địch đã khiếp đường, tránh được bẫy.
Đá cục xoáy vù vù như ong chưa rơi hết. Mẫn gọi lanh lảnh đằng kia, vẫn bằng giọng hằng ngày không đổi:
- Tiểu Một, tiểu Một… Để tổ Bảy Thới ở lại giữ ngã tư, còn tất cả dồn về trung đội, về trung đội.
Tôi chạy tới xóm Giữa. Chân lún sâu vào đất xới. Một cành cây từ đâu sạt xuống, gõ đầu. Xe địch chưa ló ra. Chúng đâu dám xung phong dưới mưa đá củ đậu như ta. Nhưng trước sau chúng cũng sẽ tuôn tới. Lấy gì mà bịt đê vỡ? Đạn cối huýt còn reo réo, rơi đầu gành cuối bãi, cốt lấy tiếng nổ.
Loang loáng, tôi nghĩ tới cây ĐK.57 cóc gặm của xê mình với vài trái đạn ụp ùm. Biết ta có súng không giật, chúng chuồn ngay. Hay một cây M.79 mang cái tên “cối cá nhân” rất nát người. Hay một cái nòng cối 60, không chân không đế, dựng bắn ước chừng cũng được. Hay một túi lựu đạn phóng, chụp trên nòng trường Mát mà bắn như Lăngxơ patát Pháp, lắp thêm ống trên trường Anh đầu bằng, chắp đuôi tống đi bằng trường Mỹ. Bất cứ một thứ súng cầu vồng nào. Năm Ri ngoảnh lại nhìn tôi, mở to riêng con mắt vảy cá giữa mặt bết bụi:
- Chặn xe cách sao anh? Chỗ mình trống hoang vầy…
Tôi thở mấy hơi, gạt mồ hôi cay như tương ớt chảy vào mắt, không nói. Ri tiếp:
- Hay là xuống đê hai?
- Không được!
Mẫn tới sau lưng tôi bao giờ, ném hai tiếng cộc lóc như súng nổ cắc bụp. Thả địch vào làng là sự thường. Co cánh tay quân sự thì đấm luôn quả chính trị, có sao. Lần này không được. Hai giờ chiều nay, Năm Ri sẽ biết vì đâu. Mẫn đếm từng tiếng rõ:
- Nằm im đã, đợi nó tới bìa xóm, nhảy lên chiếm xe! Mỹ kia!
Sát hai mép lỗ hổng rộng hơn chục thước, hai cần ăng ten nhô lên, ngọ nguậy như râu gián từ hóc tủ thò ra. Hai cái đầu xe M.133 cùng rướn tới một lần, xanh bóng, trơn trùi trụi, tưởng chừng không có thứ gì xuyên nổi, đạn nào cũng trượt văng. Năm Ri bật chửi rất tục, cho truyền miệng gấp: “Núp kín, đánh gần”. Anh em lui bớt vào hàm ếch tránh trận mưa mới, lúc này là mưa phóng lựu M.79 từ đoàn xe sắt trút ra.
Chúng tiến chậm rì, lắc lư, xích cắn đất từng nấc một như lựa chọn chỗ mà bước giữa các hố bom, bắn vỡ đầu chúng rất dễ. Tôi thèm súng chống tăng đến điên người mất. Thằng lái đậy nắp chỗ ngồi, nhìn qua khe hẹp. Thằng bắn trọng liên bên phải đã chất thêm nhiều bao cát nhỏ vây quanh đầu, vỏ bao bằng nhựa trong hắt nắng loa loá, chỉ còn thấy họng súng xịt khói không ngớt. Phải nhận tụi Mỹ che mình kín ghê gớm sau một lần trót hở bị thua đau. Tám giờ lẻ bốn phút. Chúng đã bắn suốt một trăm hai mươi bốn phút trước khi thò đầu. Tôi chưa tìm ra chỗ khe giáp trên cái vỏ cua để luồn mũi gai vào.
Mẫn buột miệng:
- Úi trời!
Anh em kêu rú lao xao dọc hào, giương súng. Tôi gào:”Bắn xe bên tay mặt, bên phảảải” nhảy tới chụp cây trung liên trên tay Giáp, xả liên tiếp mấy loạt vào hàng mũ sắt ló trên chiếc M.113.
Ai đó vừa đâm bổ ra đánh xe. Ai? Một cái bóng to lớn, ôm khối gì đen trước ngực, đang chạy sấp ngửa dọc bờ cỏ dưới chân ta luy. Mẫn gọi lạc giọng: “Bắn! Bắn che anh Xáng, ngắm kỹ!”. Súng ta nổ suốt dọc con hào. Tôi rẹt một loạt nữa. Cái nòng to như khúc tre tươi kê trên thành xe văng ra sau cùng với mũ sắt, cây M.79 câm luôn. Bớt được một!
- Giáp, thay băng!
Tôi nghiêng bụng trung liên cho Giáp đâm băng bên dưới. Cậu Xáng,… cô Tươi mới bị giết, hiểu rồi… Tay đôi với thằng trọng liên nè. Tôi soi đường ngắm vào khoảng trong giữa những bao cát. Một chùm đạn, hai chùm, ngắm lại, ba chùm, bốn chùm, tao xăm mặt mày, tao chém gẫy súng mày! Cái ống tản nhiệt đầy lỗ chợt ngoáy một cái, chổng ngược, dựng chếch lên trời, cứng khừ luôn như đợi bắn tàu bay. Bớt hai! Tôi vuốt mặt nhìn. Xáng đã tới cách xe mươi thước, trái mìn năm cân trong tay. Cậu lén lấy mìn hồi nào? Muốn đánh, sao không hỏi xin thủ pháo? Một mũ sắt nữa nhô trên thành xe, thò súng, tôi thúc cho mươi viên, nó thụp. Nhưng… thôi chết, nó tống lựu đạn! Thằng lái thấy nguy rồi. Chiếc xe giật lùi. Lùi là sai to, mắc kẹt, nhưng nó cuống. Lựu đạn ném ra đâu bảy tám trái, chỉ nổ hai, nhiều đứa quên rút chốt. Ngực tôi chợt bóp cứng, đẩy tiếng kêu vọt ra. Mẫn cũng rít đau đớn. Xáng ngã rồi! Cậu lăn xoài bên một cục khói lựu đạn vừa bùng, cách sườn xe ba thước!
- Giáp, thay băng!
Răng tôi tự nó nghiến két một cái. Coi tao trả thù đây, Mỹ nè!
Cái xác ngoài kia bỗng lật sấp, chồm dậy, chụp mìn bằng tay trái. Tay phải biến mất, chỉ còn một vòi máu. Máu từ cổ tuôn ồng ộc trên cái ngực trần hẳn còn gai góc chi chít. Xáng thét một tiếng gì không rõ, ép mìn vào ngực, lao cả thân vào sườn xe, phía trên xích.
Một búng lửa vàng óng, gần như trắng, hiện thay chỗ người chồng cô Tươi.
*
Dòng nhớ của tôi đứt quãng từ đấy, nhưng mỗi mảng còn đọng sắc hơn, sống hơn, hệt khúc suối mùa khô đầy ứ những cá quẫy.
Một lúc nào đó, trận địa vắng và im hẳn. Mẫn cho khiêng hai đồng chí bị thương xuống địa đạo, liếc ra chỗ xác xe đổ nghiêng, quệt mắt nhanh. Năm Ri cắt hai tổ rảo quanh xóm tìm hầm sụp. Tôi lầm bầm đi dọc bờ đai, cay đắng nghĩ rằng tụi Mỹ đã chọc trúng chỗ yếu nhất của làng Cá, sau đòn đổi mạng của cậu Xáng mới tạm lùi. Cũng chỉ còn lối đánh xáp lá cà của Mẫn… Các cô áo trắng lên khỏi hầm, gọi nhau ơi ới: “Tản cư ngược, chị Cang nói kia. Mau, tháo mũi trâu, còn gì đáng tiền xách theo”. Chín Cang núng nính leo qua những tre cau đổ ngang ngõ xóm, gọi hổn hển: “Nằm chặn đường cái đen, nhớ… kiện pháo phá làng…”
Một bàn tay bật hai nút bấm trên vỏ bi đông Mỹ tôi đeo sau lưng, rất thạo. À, mẹ Sáu. Mẹ mở nút vặn, cầm cái ấm nhôm to rót nước chè đặc đầy bi đông cho tôi, nhắc tôi ăn cơm nắm.
- Ta ở lại cơm nước cho tụi bây đánh. Nó vô, tao đấu sau cũng được.
- Đừng mẹ, tụi con đủ hết…
- Biết bây giỏi, mà có nước đồng nước sông mới dẫy chứ. Tao cứ rập rình ngó chừng sau lưng, sợ bây bị úp như dạo đó, trâu bốn chân còn trượt huống chi người hai cẳng!
Mẹ đi gấp, tìm người khác cần nước.
Rồi tới đợt hai. Ngắn thôi. Một xe tăng nhẹ dừng trên đỉnh dốc, chỗ ngã tư vào xóm Đình, bắn pháo 40 ly che đầu cho chiếc xe rà mìn lùn tịt bò xuống dọc đường làng. Hú hồn hú vía, tôi đã tự tay chôn trên cùng một trái mìn lõm M2.A3 nặng sáu mươi cân rưỡi, vỏ bìa và phễu thủy tinh, ra đa không ngửi được. Một cột đất và lửa thốc lên cao, chiếc xe cóc lộn hai vòng, phơi bụng giữa ruộng, bốc cháy như hàng mã. Chiếc tăng vừa rú ga đi tới mấy thước, lại giật lùi, biến mất. Chỉ kíp nắn gân nhau bấy nhiêu, tạm biệt!
Khi địch húc vào lần thứ ba, mặt trời đã gần đứng bóng. Tôi không ngờ tụi lính công tử bột có thể say máu đến vậy. Có lẽ thằng chỉ huy không dám bỏ lại hai xác xe và cả mớ xác lính.
Pháo Chu Lai dập túi bụi thêm nửa giờ. Một khúc taluy nữa bay tan hoang. Quân đổ bộ trên gò Mù U trực xông qua ruộng. Tụi ngụy áo đen bò dưới đại liên dệt lưới lửa. Súng nổ khắp nơi, đạn cheo chéo đan nhau trên làng. Quần lộn ẩu rồi.
Một chuỗi M.113 tuôn qua cửa mới phá, băng ruộng đâm vào chỗ đuôi con cá. Năm Ri chạy đón đầu, hét như sấm:
- Dậu, tổ Dậu lên! Đánh nó hộc cơm cho tao!
Hai tay hai thủ pháo, Dậu nhảy khỏi hào, ném trái đầu. Hụt! Dậu nép gốc dừa, chuyền trái sang phải, rướn lên. Một luồng lửa dài phóng tới như rắn vọt. Đuôi vừa đứt khỏi xe, đầu đã đập vào ngực Dậu, con rắn quấn quanh người. Súng phun lửa! Dậu nhào sấp, quằn quại giữa khói. Chiếc xe rẽ tới chà Dậu dưới xích. Một trái lựu từ dưới hào bay lên, đập giữa đầu xe, rơi nổ giữa hai xích. Nó cứ chạy, leo lên bực đất vào xóm, vẫn phùn phụt nhả lửa.
Tôi kẹp AK bổ tới, bị cậu Kính húc ngã ngửa. Cậu ta xách một túi thủ pháo, mặt trắng bệch, chồm qua chân tôi định chạy tiếp. Tôi quát: “Đưa bao đây!”. Kính ngó tôi bằng cặp mắt lạc tròng, thả cái túi, khom lưng chạy biến. Ba Tâm vừa theo kịp, chửi Kính một câu vuốt đuôi, hỏi vội:
- Em lên nghen?
- Rành không?
- Tập nhiều, chưa đánh thiệt. Chơi được mà.
Tôi gật. Hai chúng tôi luồn hào thật gấp. Qua bên Mẫn, tôi chỉ ném lại mấy tiếng: “Anh choảng đây!” . Tâm cung cúc xách túi chạy theo tôi, không nói. Người của huyện mà, được cử làm liên lạc riêng của anh Thiêm, ai cản nổi.
Đoàn xe sắt đã nghiến cây rắc rắc trong xóm Đuồi. Xe lội vườn khó thấy ta hơn. Tôi rướn cổ xem, hỏi Tâm:
- Em ném trúng đích không?
- Cũng như ném xoài…
- A, số dách.
Cái túi đựng sáu bánh thuốc bom độ ba lạng của du kích tự đúc, lắp ngòi nổ huyện cho, và bốn lựu đạn. Chúng tôi chọn chiếc xe đang phun lửa đốt nhà bà Chí, đón lõng ở rặng mít cuối vườn chè. Ném qua ngọn chè thấp đỡ ngại cành cây hất trái vào mặt mình. Tôi kê tiểu liên thật vững, đợi. Tâm nhai cái gì tóp tép trong miệng, nhăn răng cười khì khi tôi hỏi:
- Mít khô, anh ăn không? Em đói thấy bà…
Tôi nhìn bộ mặt tỉnh khô, biết chú nhỏ này chơi được thật. Cánh tay còn khẳng kheo ấy chỉ nên ném thật gần. Con voi phá rẫy đang đi tới, chếch qua bên phải tôi, tốt lắm. Lọt vào đây trông nó cao to gấp đôi khi xéo ruộng. Lửa bên sườn nó lại phụt, đốt cái chòi chứa bồ lúa và cày bừa nép dưới bụi tre. Tôi đợi thấy hết hông nó… Rồi!
Cây AK nổ giòn quá đi mất. Tôi rẹt một đường ngang vào dãy mũ sắt ló trên thành xe, nào lại gần nữa, vừa thấy một cục đen rơi tõm giữa lòng xe. Nổ! Trái sau cũng xoay tròn, đi y nguyên đường cũ… nổ!
Tôi kéo Tâm xách túi vọt xuống hào, rút. Chiếc xe cố chạy tới mươi thước nữa mới dừng, bốc lửa lằng ngoằng qua khói đen. Tôi đấm lưng Tâm một quả nặng.
- Tưởng mày chỉ biết ném xoài, Tâm ơi!
- Xe to hơn xoài, dễ ném mà!
Lát sau, chúng tôi đánh què một chiếc nữa. Khối TNT ném trượt rơi trước xe, nhưng thằng lái không thấy cứ chạy sấn tới. Nổ. Sợi xích vẫn chạy, nhưng chạy tuồn tuột xuống đất và dính dài luôn đấy, để hàng bánh sắt trơ khấc ra, càng quay càng trượt và lún. Chiếc re rống, xoay tròn tại chỗ như cọp bị bẫy kẹp chân. Một chiếc khác xồ tới bắn dữ, chúng tôi phải phới gấp, vừa chạy vừa cười rúc rích.
Vừa lúc ấy, Năm Ri dẫn một tổ luồn dưới địa đạo nhô sau lưng địch, đánh cháy một chiếc nữa. Chúng móc dây lôi nhau tháo chạy. Tôi với Tâm vòng đón đầu, lại gắp khúc cuối. Trái thủ pháo lọt thùng xe nhưng bị lép. Tâm đang vò đầu bứt tai thì bị một luồng lửa thổi tới, may xe xóc nên trượt lên cao, chỉ xém ít tóc. Tôi vớt vát một tràng AK khi nó leo lên bờ ruộng để hở lưng, hình như được vài thằng. Út Liềm từ đường nhựa chạy lên, nói địch rút thẳng về Chu Lai. Tôi cười khà, ngồi xuống, chợt thấy khát, ngứa khắp người, đói, buồn ngủ, chân tay mỏi rã, lại muốn chạy quanh làng Cá một vòng để hét tin thắng trận vào các miệng hầm và khoe thằng em “thiên tài ném xoài”.
Tới một lúc khác, bà con ùa lại xem cây AK, được dán ngay cái nhãn “trung liên cá nhân xã hội chủ nghĩa” rất dài. Ấy là sau khi tôi bắn bị thương chiếc tàu rà bay cao ba trăm thước, nó xì khói đuôi sóc, xà về Chu Lai. Mới qua năm bảy cửa miệng mà đã nổi ngay tiếng đồn súng này có chất nguyên tử, anh Thiêm bắn mấy xe sắt toác loác hết. Ai nghe cũng tin rắp rắp: súng phe mình, cỡ như anh Thiêm mới được xài còn phải nói! Tôi vội cải chính rằng diệt hai xe trong vườn chè là nhờ bom lép bà con đào được giao cho du kích nấu đúc thành bánh, người đánh lại là thằng nhỏ Ba Tâm hay chơi rông, còn anh chủ lực mang AK chỉ bày mưu và bắn che tí chút. Câu chuyện mới đến đây, ông thầy Mười chống gậy đi coi vườn đã kêu ồm ồm ngoài ngõ:
- Bớ người ta, đi khiêng thịt với tôi! Được con heo rừng nặng bốn đòn, khiêng té lên té xuống, tính bỏ giòi ăn hay sao á!
Mấy chục người đang xúm xít nổi reo ầm ầm, chạy đi coi xác Mỹ.
Giữa vạt chè bị xéo tơi bời, vết tích toé đi các hướng như những đường ray ở ga chính nào đó, một thằng Mỹ nằm úp mặt. Xem vết máu, tôi biết nó trúng đạn, nhảy hoảng ra khỏi xe, rúc đầu vào bụi rậm nằm im hoặc ngất đi, khi bò ra bầy ra đã chuồn mất tăm. Cái xác còn ấm, nặng ngót tạ, tóc nâu, mắt nâu. Tôi thu hết giấy tờ. Anh em vần nó tháo nịt đạn, giày đế sắt, áo giáp. Ông thầy Mười khuyên chém đầu nó cắm cọc bêu trước cổng làng như thời xưa, làm gương cho giặc sợ. Tư Luân nãy giờ thu xếp ba thương binh về huyện, chôn cất hai cậu Xáng và Dậu, tập tễnh chống gậy đến, can ngay. Mẹ Sáu lẳng lặng ôm tới một chiếc chiếu cũ chùm kín được hai phần ba thằng Mỹ. Mẹ nói chậm với cái xác:
- Mày còn sống thì dao phay dao chuối tao cũng a vô tao chặt. Mày chết rồi, thôi… Tao thương là thương bà mẹ đẻ ra mày, chưa nhờ đỡ gì mà phải mắm đùm cơm gói đi tìm mả con. Cho mày miếng đất góc rào đó, nằm cho ấm xương đợi mẹ mày tới nhận, kiếp sau còn làm người thì bỏ nghề ăn cướp đi nghen!
Đứt một quãng nhớ nữa, trong tôi, trăm thứ việc không tên sau mỗi trận. Mẹ Sáu giặt bộ áo quần rách và bết bùn, không cho tôi giặt. Tắm xong một chầu, đã treo võng giữa hai gốc mít, ngả lưng, tôi lại bật dậy. Đánh xong núi Sàm đêm nay, tôi sẽ rời làng Cá, có lẽ phải nhờ chi uỷ gửi bản nhận xét theo chứ không còn dịp quay lại. Nghỉ sao được trong những giờ cuối cùng này. Tôi cuốn võng, ra giúp anh em đặt mìn trên hai mảng taluy bị phá.
Một cây nào đó bị mảnh phạt, tới giờ mới đổ răng rắc. Bom chậm nổ trên gò Mù U. Còn tiếng rống kia là gì? Tôi ngửng đầu, băn khoăn. Bẵng đi nửa phút, lại nghe tiếng rắc, rống, nổ lần này mạnh hơn. Pháo rồi. Chiếc tàu rà lượn trên cao tít, chỉ chỗ. Trái thứ ba bay như phản lực xẹt sát đầu, tôi thoáng thấy lằn đen của nó đâm vào xóm Giữa, dựng cây nấm khói cao bằng bom. Đạn to đến nỗi mắt người trông được. Tiếng rền khạc đạn vẳng từ xa, từ biển khơi. Pháo hạm đội Bảy! Chừng một phút sau, cả chuỗi sét đánh rung làng Cá. Ước tám họng pháo lớn. Hai trăm lẻ ba, hai trăm rưởi, ba trăm? Chịu dốt về hải quân Mỹ.
Đường về các cửa địa đạo bị chặn. Năm Ri kéo tôi xuống hầm chỉ huy. Tôi ngồi phịch gần cửa, luồn tay gãi ngực, vai, bụng, không rõ bị kiến bò hay da tôi nổi gai. Cây AK nhìn tôi bằng miệng nòng đen như một con mắt hạt nhãn buồn, nó phải chịu ngậm câm. Tôi cũng bó tay. Có thể bắn rớt tàu bay, đút thuốc nổ vào họng pháo đất, phá xe tăng, đánh chìm tàu nhỏ, tụi chiến hạm dàn ngoài khơi kia làm sao mà diệt? Bom trút xuống còn có chừng. Lũ đạn khổng lồ không cần tránh né nhau, chẳng sợ chúng ta, cứ lăn xả tới như bầy sói điên trong khi chúng tôi đành giơ lưng chịu trận đòn huỷ diệt!
Cacbin kẹp nách, Mẫn chạy ào xuống hầm, suýt xô vào tôi.
- Vô trong đi anh, mảnh bay dữ ác! Năm Ri đâu?
- Gì đó chị Hai?
- Coi chừng nó càn chiều. Tụi mình trực luôn đây, mình chia hầm ra, đừng để sụp nhốt cả chùm. Mình cho bà con xuống đê hai núp tạm. Xếp ba trăm quân áo trắng rồi, ngớt pháo họ đi quận. Năm thôn kia Chín Cang cho xuất sớm, chắc qua khỏi cống trắng. Mẹ cha nó, pháo gì to quá chừng?
- Chưa to bằng họng đờn bà kêu kiện… Chị bám đây, tôi qua hầm bà Lạng.
Ri lách qua cửa, vọt lên hào. Tôi bước theo, bị Mẫn gọi giật:
- Đừng đi chung!
Tôi quay lại, cười. Mẫn bẽn lẽn vì quên nghĩ trong hầm chỉ còn hai đứa. Căn hầm bỗng chao nghiêng. Cây trần vập vào nhau bốp bốp. Đất bột trên đầu rơi xuống từng dải rộng và mỏng. Làn pháo đã lui đến bìa xóm. Mẫn nắm tay tôi, kéo vào trong đáy hầm:
- Ở đây với em… Mai anh đi, bữa nay còn lăn lộn đánh miết, tội quá…
Tôi ôm vai Mẫn, tránh dựa vào vách cho đỡ bị xô, chúng tôi ngồi nép vào nhau trên tấm ván kê nằm.
Bên ngoài, đá rơi từng tiếng nặng, mảnh sắt chém nhau chát ngắt. Dưới biển hình như có thêm vài chiếc tàu nữa vừa chĩa xong những dãy nòng chụm răng bừa và bấm nút. Chuỗi nổ tống đạn bây giờ nhồi dính lại như xe rồ máy. Đạn réo đủ thứ tiếng kỳ quặc tôi chưa từng nghe, tuy đã quen phân biệt các cỡ pháo. Có ngựa hí, bò rống, sáo diều trầm, trâu bầy chạy gõ vó lốp bốp, còi xe lửa rít, có cả những cây gậy rạch mạnh xuống nước kêu rong róc. Trận pháo tách hẳn làm ba phần rời nhau: cái máy giết người chạy ầm ù tận khơi xa, một vườn bách thú treo lơ lửng trên mây, và cơn động đất phọt núi lửa làm cho làng Cá quằn quại. Những cơn giật bất lực của tôi đã tan: một lần nữa tôi quên trái đấm chính trị. Hàng vạn người ùa tới vây tỉnh đường hay quận đường, dễ sợ lắm chứ. Em tôi không quên…
Một trái rơi gần, bưng căn hầm sảy mạnh. Chân Mẫn bị đất sườn hầm ụp xuống lấp gần đến gối. Tôi đỡ cho Mẫn rút chân, moi dép, xé khăn buộc lại vết rách thịt cũ chưa lành, bỗng thấy thương Mẫn đến nghẹn thở. Sẽ tiếp nhiều cơn bão thép thế này, trong đó người yêu của tôi mềm mại như chồi tơ không có tôi đỡ bên mình, còn phải đứng trụ cho bao nhiêu bà con dựa. Mẫn vững lắm. Tôi vẫn chưa hiểu vì sao thân thể mảnh khảnh của Mẫn lại chứa nổi bấy nhiêu sức mạnh.
Lúc này Mẫn yếu hẳn. Tì cái trán lấm bụi vào cổ tôi, nhắm mắt một lát, Mẫn mới thì thào:
- Tập cho quen…
- Gì, em?
- Tập xa anh. Lỡ quen hơi bén tiếng rồi, vắng anh mấy ngày đầu chắc nhớ đứt ruột, em sợ… Phải chi em gan được như anh… Phải chi anh đừng cấm, em cắn đứt luôn ngón tay đây, đưa cho anh, để anh tin con nhỏ đó không tiếc gì với anh hết, anh thương đừng bỏ nó…
Tôi hôn mãi ngón tay út khét mùi thuốc súng của Mẫn. Tay Mẫn chai nhiều quá, đến nỗi cuối cái ngón búp măng nhỏ xíu cũng có một mảng cứng như sừng. Hở một giờ ra cuốc ruộng cũng hối hả mà.
Đạn pháo đã lùi một tí, rơi trên dưới nền đường sắt. Căn hầm chỉ còn lắc lư như khoang thuyền. Hai chúng tôi được bấy nhiêu phút thôi để yêu nhau trong khói bụi dày đặc.
- Em… cho em lên đi anh.
Mẫn gỡ tay tôi rất chậm, bước lên cửa hầm. Trong mỗi ngày đêm dài lắm trên vành đai, cái phần Mẫn dành cho hạnh phúc riêng – nghĩa là cho tôi- hẳn phải tính bằng phút trên đầu các ngón tay.
Tôi lên mặt đất, sau Mẫn một chút cho bà con đỡ thấy cặp kè như đôi sam.
Đã xế chiều, gió biển thổi nhẹ chỉ lùa thêm khói từ hàng rào lửa ven đường sắt vào làng làm rát cổ họng. Đường xóm, sân, nền nhà đã dỡ, tất cả những nơi in mòn dấu chân người đều không còn nguyên, hoặc xoáy những hố bằng vũng trâu đầm mùa hạn, hoặc phủ dày một lớp đất lổn nhổn trộn nhiều lá tươi. Mấy nhà bị thổi bay toé mỗi nơi một tấm tranh. Các vườn hư nặng. Những cành mít giòn gãy lìa vung vãi. Cau và tre bị chém ngang hông, thân gục nhưng ít chịu đứt rời khỏi gốc. Qua hơn một giờ xốc xới bằng pháo lớn, làng Cá mất thêm một người và hai trâu. Người chết là ông cụ Xíu có ba con cầm súng cho địch cả, một tình nguyện và hai bị bắt. Vẫn cái bi kịch quá quen của gia đình lính nguỵ. Bà con sắp khiêng cụ xuống quận.. Cặp trâu của cụ đứng gặm cỏ chỗ góc vườn như máy, một con ruột thòng gần đến đất, con kia cúi liếm cái chân gãy từng lúc, dường như cũng lây cái dáng cam chịu của ông già chỉ biết rên rỉ mà không dám mở miệng đòi lại một đứa con.
Bà con nối nhau leo qua miệng địa đạo, phủi, gọi nhau cười, chửi từng tràng. Quân áo trắng của Chín Cang coi bặm trợn(3) lắm, đợt này sẽ đánh dữ đây.
Qua ngõ nhà Mẫn, tôi dòm vào, thấy ngay dãy hàm ếch khoét vào bực đất sau nhà, là hầm tạm dành cho khách. Thôi, bay mất cái tổ nhỏ! Một hố pháo sâu ngót một sải xoáy đầu hè. Vạt chè giạt ra chung quanh, bị tuốt hết lá, như cái rá đan dở còn xoè nan. Căn nhà tranh xinh xinh bị bốc gọn, ném thốc vào các gốc mít, ép giúi giụi, bẹp gí nhưng không nát, Mẫn buộc khung nhà kỹ ghê. Trên mặt sân rải đất vụn ẩm có dấu dép hai người: Mẫn vào đến thềm rồi quay ra, Út Hoà sục kỹ thu các đồ vặt còn sót.
Mẹ Sáu đã dắt các con về xem nhà. Tôi rẽ rào sang, vừa nghe mẹ mắng con:
- Khóc thì khóc kha khá đi, lấy nước tưới mấy dây tiêu cho sống lại tao nhờ! Hay để tao dẫn xuống quận, níu thằng quận trưởng mà khóc đứng khóc ngồi!
Cô bé càng hu hu. Mẹ dịu giọng:
- Của đi thay người, nín con… anh mày kia nè!
Cả bầy năm đứa trẻ ùa ra đón tôi, rối rít kể tội Mỹ phá hết những dây tiêu xây tròn quanh thân cau, má đã chia mỗi đứa một gốc, lo bón hái mà may áo quần. Mẹ Sáu gạt tôi ra, không cho giúp dọn mảnh vườn bị phá.
- Rảnh rảnh, mày ghé qua nhà cho có cái hơi đàn ông, vậy được rồi, đừng rờ vô việc của tao. Ở lại cho mấy em nó vui một lát, ăn cơm rồi tao đi đấu pháo. Sẵn con nít đó, hồi nào mày với con Mẫn cưới, đẻ một đứa, cứ thả đây cho nó theo bầy dễ nuôi.
Tôi mắc cỡ, xốc con nhỏ Út Ngưng:
- Mẹ làm thầy bói, muốn đắt khách hơn bà thầy Lèo quá!
- Bói ứng gì, mày ngủ nhà tao, nhè tên con Mẫn kêu mớ hoài, bằng con Ngưng mớ thằng Hoàn chớ ít đâu. Cũng duyên phận cách sao, bao nhiêu anh ngấp nghé mà Hai Mẫn nó thương mày đành vậy.
- Chắc mẹ coi tướng…
- Ừ, coi con mắt nó ngó theo mày muốn cháy tóc đó.
Cơm xong đã bốn giờ chiều. Tôi tìm Năm Ri xem đội du kích được nghỉ chưa. Anh em cần ăn sớm để sẩm tối nhận việc mới. Tối nay đánh đồn, mai mốt còn chống càn dồn dập nữa, phải cố giữ sức.
Các họng pháo lớn đã im. Chỉ còn hai cây 155 của Chu Lai nện đều đều vào dải đất hoang kẹp giữa đường sắt và đường nhựa, đạn huýt sáo nghe rõ. Tôi bước tới bìa xóm, đứng trên miệng hào xem những bụi tre khói mọc và tan bên kia taluy, đoán tụi Mỹ bắn chặn đường quân ta đuổi theo. Nhất định thằng dưới đã cho thằng trên đeo kính phóng to: quân Mỹ vừa giao chiến với một trung đoàn chủ lực Vixi. Thế mới đỡ nhục. Lũ xe sắt bị hất khỏi làng Cá đời nào dám thú thật chỉ đụng những du kích mặc pygiama đen.
Lửa đỏ loè chụp giữa mặt tôi. Một đệm bông đang cháy đánh thốc vào người. Tôi văng lên, đạp chân chới với. Mặt đất đập cằm đau nhói. Cảm giác đau giữ tôi tỉnh. Tôi nhỏm ngực lên, bực mình và hơi xấu hổ. May, tôi chẳng sao cả. Sỏi rơi rào rào trên mình, lọt nhiều vào cổ áo, lại phải cởi ra giũ. Gì nổ vậy ta? Có ai trúng mảnh không nhỉ… Tôi chống tay ngồi dậy, xoay người dòm quanh, sợi dây nào thắng ngang lưng tôi đứt sật một cái. Bụng nổi ngứa, rồi ngứa rát, rồi nóng, khó chịu lắm. Ai áp vào đấy một túi chườm nước nóng sôi. Bên phải, một trái mìn nổ cách năm chục thước, hay là bom chậm. Tôi cúi nhìn bụng, chỉ thấy chập chờn vải phủ bụi. Cái túi chườm phình nhanh, trống hốc, nống lên đốt phổi. Không thở được. Tôi há miệng, đau quá không kêu được. Tôi nằm ngửa ra, lịm dần với một câu hỏi láy đi láy lại nhịp ba trong đầu: mìn, bom, pháo?
Thêm một tiếng nổ lạ nữa, đấy…
*
Tôi giương mắt nhìn kỹ, vẫn thấy đen kịt. Ai đấy nói không rõ giọng:
- Mình chết rồi.
Tôi nhắm mắt. Những mảng đỏ, vàng, trắng lượn lờ dưới mí, thứ ánh sáng của người mù. Hễ tôi mở mắt chúng lại biến hết. Cái chất đen đặc như xu xoa bọc kín tôi, mềm hơn vải liệm. Không một chấm sao, một tiếng dế, một hơi gió mà mỗi đêm bình thường đều có. Cố nghe, tôi bắt được tiếng ve kêu xa cùng tiếng ì ùm của biển động hay đến trong chiêm bao của người dân biển. Cái giọng mơ hồ ban nãy lại nhắc:
- Mình chết rồi, chôn rồi!
Tôi nghĩ một câu trả lời, chật vật như tập đánh máy chữ:
- Bậy, chết sao mở mắt được?
Cái máy gõ nhanh hơn:
- Chưa chết. bị sụp hầm thôi.
Tách một cái, nó nhảy lên gài chữ hoa, tuôn một tràng to tướng:
- Sụp hầm là cơm bữa. Nằm ỳ đó chịu thua à? Tồi!
Tôi lắc đầu thật mạnh. Một mũi dùi nung đỏ từ bụng tôi xóc lên ngực. Bị thương ở bụng là một, đâu nữa hè? Tôi nắm và mở hai bàn tay, động cái chân, thấy còn đủ cả. Bảnh rồi. Nhưng thằng tôi thứ hai đứng chìm trong bóng tối, bẻ bằng giọng của tôi đúng y:
- Nhớ thằng Hải trúng ruột không? Nó hấp hối suốt một ngày…
Có lý. Tôi nằm lơ mơ, đoán chất sống trong người tôi đang chảy qua chỗ ruột rách từng tí một. Hôm qua có thằng Thiêm qua lại, cười, bắn, bông lơn, cãi ồn. Hôm nay thằng Thiêm sắp lãnh sáu tấm gỗ đi ngủ, ngủ luôn không dậy. Uổng lắm chứ. Còn nhiều việc dở dang vất bừa ra đấy. Bao nhiêu người đang cần tới nó sẽ chưng hửng: cái thằng, chết hồi nào chẳng được, lại nhè khi búi xờm xờm… Tóm lại, tôi chưa thể chết. Đừng lầm lì và cam chịu như con trâu lòi ruột cuả ông cụ Xíu. Cưỡng lại đi. Cái chết vẽ trong sách chỉ có một bộ xương khoác áo đen, vác lưỡi hái cũ kỹ, bấy nhiêu chứ mấy, sức tôi chơi được ngon. Với lại tôi chẳng lạ gì nó. Bao lần nó nhét tôi vào buồng tối tráng phim, tắt hết đèn, tôi vẫn mò mẫm tìm ra công tắc điện.
Một luồng chớp trắng từ phía chân thốc lên mặt tôi, đọng lại, chói nhức mắt. Đằng sau nó bật tiếng Út Hoà mếu máo:
- Anh Thiêm tỉnh chưa anh Thiêm? Mở mắt đi anh! Mở đi!
Hoà cứ chĩa cái lõi sáng đèn pin đỏ lòm trên mí mắt tôi nhắm. Tôi bật cười, bị mũi dùi xoáy nhói.
Rọi vậy… không mở được…
Hoà quẹt lửa châm dầu phụng, chụp tay tôi, vừa khóc vừa kể cái gì líu ríu cả chuỗi. Rồi cùng một lần Hoà bắt tôi kẹp nhiệt, tiêm thuốc, nghe chuyện Hoà và nói thật kỹ trong người ra sao. Con nít mà. Tôi chỉ cười, rất mừng; Tôi thèm nắm một bàn tay sống, nghe tiếng sống rót vào tai, nhìn ánh lửa do người đốt. Cứ như dạo tôi lạc chín ngày đói meo trong rừng nguyên thủy, đã mừng reo khi gặp một đám rẫy lúa non của bà con Thượng, gặp dấu vết của con người bè bạn, còn các thứ tàu bay réo trên đầu thì chẳng khác voi rống cọp gầm.
- Mấy ảnh khiêng anh về, chu cha, ruột anh nó đùn trên bụng… bằng cái niêu mốt vậy đó, mũi miệng hộc máu đỏ lòm, em run quá… Chị Mẫn biểu khiêng anh xuống đê hai liền, đỡ pháo to. Bà con kéo xuống thăm dữ quá, em đuổi lên hết, sợ anh ngột thở. Họ đi rồi em lại mất hồn, vắng ngắt, lỡ anh chết làm sao…
Hèn gì! Tôi nằm trong lòng đất, nơi không khí đen nhánh như mực tàu, những tiếng quen nghe dội xuống đây hoá ra huyền bí. Theo lời Út Hoà, tôi bị thương vì một thứ pháo lạ, “huýt tiếng ngắn ngủn như con chích chòe vậy thôi, nổ liền tay. Nó bắn năm sáu trái mình mới biết là pháo”. Đúng, tôi mải nghe tiếng hú dài của cặp 155 ngắn nòng, không để ý. Có lẽ là pháo cực nhanh, bắn chen với pháo thường nên khó nhận ra. Cũng trị được thôi, phải sống mà đòi nợ. Mỗi giọt máu đổ ra, tôi quen tính lãi đắt lắm.
Cô bé tiêm xong sinh tố K cầm máu, lại thút thít. Tôi nắm bàn tay nhỏ:
- Lớn rồi, khóc xấu. Còn khóc là còn bị nửa tá. Ai lại bắt thương binh đi dỗ thầy thuốc…
- Ứ
- Anh còn mạnh ù… đó, khiếp chưa?
Út Hoà bị tôi bóp tay đau điếng, toét miệng cười. Hoà giống Mẫn như đúc, nên tôi càng dễ thấy chỗ khác nhau rất xa giữa người chị hai phải luôn mẫu mực và cô em út cười khóc tha hồ. Tôi bước vào cái gia đình mới này thật thoải mái. Hoà mến tôi từ đầu, bênh tôi chầm chập, doạ Mẫn: “Chị đổi gác anh Thiêm thì em cắt đứt chị!”. Ba Tâm khó tính hơn, sau mấy trận gần đây mới chịu tôi đáng làm anh. Chòm xóm ưng bụng cả, chỉ có Út Liềm ghen rất dai: “Chị Hai bỏ rơi tụi này hết trơn”.
- Chắc trên đó tối rồi. Anh nằm đây, em kêu người khiêng lên, mà đừng chơi ác chết ngỏm đi nghen!
…Tôi tỉnh dậy lần thứ hai. Trên mặt tôi là cái trần hầm lát cây có chen hai tấm câu đối gỗ sơn đỏ, khác vòm đất lồi lõm ban nãy. Hầm chỉ huy, Út Hoà đang súc ống tiêm, chắc mới tiêm dầu long não. Hình như tôi ngất khi anh em khiêng ngược các bậc dốc đứng, võng bị lắc mạnh.
Tôi cố nhớ ra mối băn khoăn nào đó đã bật lên giữa câu chuyện rối tinh của Út Hoà, chưa nói ra được. Tôi nghĩ một cách xộc xệch khó khăn, như vặn ống khoá gỉ. Chán thật, cái đầu mụ mị… Nó chợt đến. Tôi mừng húm, gọi thành lời ngay cho nó khỏi biến mất:
- Ba Tơ!
Út Hoà quay phắt lại. Tôi chặn cơn lũ câu hỏi của cô bé:
- Mấy giờ, em?
- Đâu bảy giờ, bảy rưỡi. Tàu rà đang kêu ta hàng trên đầu kia.
- Nói chị Mẫn vô anh gặp, một mình chị thôi, mau!
Hoà leo lên con hào, réo om:
- Chị Hai, anh Thiêm biểu chị qua đây, gấp lắm, người khác đừng vô!
Cây đèn dầu lửa có tấm mo cau buộc trên bầu, che ánh lửa hắt ra cửa hầm. Từ trong khoảng tối ấy, Mẫn nhô ra gần như tức khắc. Mẫn lật mũ tai bèo, chụp trên đầu nòng cácbin, dựa súng vào vách: một cử chỉ rất thuộc. Rồi Mẫn vịn khung cửa, đứng nhìn tôi trân trân, một vết bùn chạy chéo qua cặp môi trắng nhợt.
- Lại đây anh nói nhỏ chút.
Một nét gì như khiếp hãi hiện trên mặt Mẫn. Mẫn rùng mình, đứng lặng vài tích tắc nữa, bước gấp đến cạnh tôi, quỳ một gối. Tay Mẫn vịn trên thành chõng tre, tôi cảm thấy giường rung. Mẫn ghé tai gần mặt tôi, thở gấp. Tôi ngạc nhiên:
- Em mới chạy đâu về?
- Không… đợi ngoài… anh nói đi.
- Đêm nay, núi Sàm, em nhớ kỹ chớ?
Mẫn gật, thở chậm hơn.
- Lo liệu được gì rồi, kể anh nghe.
Mẫn hít một hơi dài, nín một tí rồi mới nói, chưa hết hổn hển:
- Chi ủy bàn hồi trưa… Năm Ri đưa mười du kích đi đón ở sông Rù Rì. Em lãnh phá hai ấp vùng cát. Quân chánh trị giấu quanh quận đường sẵn rồi, mờ sáng ụp vô. Cây AK của anh, cậu Ri mang, đánh xong trả chú Ba Tơ. Dân công đủ số trăm hai.
Tôi cười khoan khoái. Đánh Mỹ cả ngày, tôi sợ Mẫn quên đi khiêng trống chầu, hay nhớ mà không kịp sắp đặt, lại giống mấy vị cán bộ xã ưa “cho ý kiến” một tràng rồi xách gói đi biến, để bộ đội tự xoay sở từng tí vặt.
Mẫn nhìn xói vào mắt tôi, ngập ngừng:
- Anh… gì nữa không?
Trời đất, ra vậy đó. Tôi vô ý làm Mẫn đứng tim, bậy chưa. Khoả lấp bằng tiếng cười là gọn nhất.
- Còn khỏe lắm, chưa trối trăng gì đâu đồng chí ơi. Một tháng nằm viện là cùng. Có lên thăm người ta, nhớ gánh một đầu dừa một đầu mít, đèo trã cá kho với gói thuốc Cẩm Lệ to to để chia cho anh em.
- Anh… thiệt à?
- Chị bí thư đi thăm thương binh hay tặng cả bài xã luận, tụi này hô khẩu hiệu đáp từ hơi mệt. Anh thích cái kiểu vợ lính thăm chồng có gánh quảy theo.
Mẫn bật cười, hai má hồng lại. Vừa máy miệng định nói, Mẫn mím môi, nuốt vội cái gì đó ở cổ, chớp mắt lia lịa, đứng dậy đi ra cửa. Thò tay xách cây súng lên, Mẫn lại ngẩn ra như người mất hồn, từ từ buông nó xuống, thong thả quay vào thổi phụt ngọn đèn. Trong tối, Mẫn quàng hai tay ôm đầu tôi, hôn mãi trên trán, mắt, môi, cằm để cho nước mắt chảy nóng rực khắp mặt tôi. Lâu lắm Mẫn mới thốt được mấy câu nức nở:
- Cho em… khóc một chút… thấy anh tội quá mà… Anh đừng chết nghen anh… rán sống với em…
- Bỏ vô cối giã anh cũng sống. Cần ký cam đoan không nè?
- Em dại, độc miệng… thôi, em hết nói bậy rồi… tánh con gái nó vậy, em không mất tinh thần đâu, anh đừng cười…
Mẫn nín dần, rút cái khăn nhỏ lau mặt cho hai đứa.
- Đáng lẽ em theo anh về bệnh xá, ở với anh miết tới khi lành, chớ ai lại… Anh coi, việc như nước lụt vậy đó, em phải đi Lộc Chánh ngay bây giờ. Bữa sau ngớt càn em lên thăm anh, làm dâu bộ đội ít bữa. Anh đừng nhắc nhiều em nóng ruột, đi đâu vấp đó, thương để bụng thôi nghen…
- Để bụng, bụng rách nó rớt ra, làm sao?
- Quỷ sứ, người ta hết hồn mà ông giỡn hoài. Em đi đây.
Mẫn thắp lại ngọn đèn, ra cửa. Tôi thoáng thấy một vết sẫm trên cái băng trắng quấn quanh bắp chân rám nắng. Chợt lo vết thương Mẫn động mãi không lành, làm độc mất. Và đó là giọt nước làm tràn cái cốc bình tĩnh. Tôi phải cấu tay xuống giường đến đau các móng mới khỏi buột miệng kêu Mẫn, giữ Mẫn bên tôi một lát nữa, bởi còn cái gì đó cần nói lắm mà tôi chưa nghĩ ra, bởi hình như tôi chưa nhớ được khuôn mặt tuyệt vời vừa đi khuất.
*
Pháo chụp xòe lửa dai dẳng trên đồng Tam Trân và vùng gò, gần mười một giờ đêm mới trụt khỏi làng Cá. Chắc máy điện tử đã tính giúp tụi Mỹ giờ nào Vi xi sẽ đi tới đâu nếu đánh xuống Chu Lai, chúng cho làn đạn lùi bậc thang khá đều.
Anh em bà con đến thăm tôi suốt buổi tối, cả trăm người. Căn hầm biến thành một hành lang cho người thân diễu qua, ai cũng nói phải để tôi nghỉ nhưng ai cũng ghé vào. Tôi mở mắt, cười, chỉ thấy chập chờn những khuôn mặt quen sau lớp mùng trắng có nhiều vẩn mồ hóng chao qua chao lại.
Rồi cũng lên đường khi ngớt pháo. Con trâu trắng đổ xuống làm phiền bốn người: Út Hoà đeo túi thuốc theo, hai cậu khiêng võng cầm hai cây gậy to có nạng, cậu nữa gánh ba lô của tôi và không biết bao nhiêu đường sữa chuối trứng nếp của bà con đem cho. Con đường xe trâu qua vùng gò hoang đã bị đào bới gần nát, phải bỏ, nhưng nó nứt vỡ thành năm sáu lối mòn ngoằn ngoèo, nhỏ và kín hơn.
Tôi cố chống lại cơn buồn ngủ, hay cơn mê chẳng biết.
Hụt trận đêm nay rồi. Ba tháng lượm từng nét về quân Mỹ, mới nói qua loa với anh Ba Tơ, anh tham mưu phó trung đoàn, đến keo thử sức đầu tiên tôi lại lăn ra như một cậu giữ xe mật lên cơn sốt rét, để bộ đội nhịn đói và vác súng rỗng đi đánh. Cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui, anh em sẽ an ủi tôi vậy. Tôi cũng tự an ủi bằng cặp mắt mở, tìm những bóng đồng đội có thể gặp ngược đường. Nằm lắc lư trên võng tôi chỉ cần trông thấy những nét tròn nét thẳng của mũ tai bèo bên súng nối nhau lướt qua, nghe tiếng lích kích của lựu đạn gõ nhẹ vào khoá nòng, ngửi mùi mồ hôi nồng của quân mình bôn tập. Tôi nghiện những thứ ấy. Được bấy nhiêu thôi thì tôi đã lành đi một nửa.
Đến sông Rù Rì, tôi kêu đau, đòi nghỉ một chút để may ra còn gặp xê mình. Anh em đặt đầu đòn khiêng trên cây nạng, kê éo vào hai thân cây. Chỗ mương nước cũ đây, bị bom phát quang hẳn đi, chắc còn những đám bông bạc ngày nọ. Tôi nhờ Út Hoà hái cho một bông. Hoà tưởng tôi thích, soi pin hái cho tôi cả một bó to tướng, tiếc ghê. Tôi sờ soạng ngắt một bông, nhét vào túi áo trái. Khi qua sông, tôi lén thả bó hoa đã mở dây, tin rằng chúng được trả về với nước sẽ hối hả tìm chỗ bám rễ, sẽ múa điệu múa ngàn năm của đôi ngón tay xòe.
Lại đi, tôi mệt lắm mà cứ phải tỉnh, đợi. Qua được nửa đồng lớn Tam Trân, trời chợt nổi chớp trắng liền liền đằng đông. Út Hoà kêu hoảng:
- Pháo biển bắn kia!
- Không, mình đánh…
Các thứ rađa và đèn soi mù hết, máy nghe và lính gác điếc hết, xê mình đã nổ đủ tràng bộc phá trước khi tụi Mỹ chụp súng.
Tôi níu hai mép võng rướn cổ vừa đủ sức chịu đau ở bụng, muốn há miệng hớp lấy những luồng đạn hoa cà hoa cải. Tôi thấy rõ vô cùng những lưỡi lê xã hội chủ nghĩa mạ trắng bạc xóc sần sật vào các bộ ngực lông xồm không kịp mặc áo giáp. A, còn những lưỡi xẻng mài sắc như mã tấu, những lưỡi lê các bị hình dao găm, những báng súng Garan M.1 to nặng, còn đế cối lởm chởm mấu nhọn và lưỡi rựa phát rẫy đã vẹt nửa thân, tất cả bấy nhiêu móng vuốt của mối thù ghê gớm đang vằm nát mặt Mỹ! Tôi đuối dần, vẫn xem… Rồi! Ba pháo hiệu đã dựng cần câu trên trời, hai đỏ một xanh.
Thắng trận!
Tôi thả đầu xuống võng, mắt nhoà không nhìn được nữa. Những câu trả lời. Chỉ trong ngày nay, tôi đã tóm được những đáp số nở ruột nở gan, trả bằng giá máu: du kích đủ sức thắng Mỹ càn, bộ đội còn đủ sức một ta diệt một Mỹ. Và cho riêng tôi nữa, một lời giải nho nhỏ của bông hoa nép bên tim mà tôi hái dọc đường dài. Mẫn… Chết lúc này vô lý quá.
Tôi lả đi, vẫn tin mình sẽ sống.
Những người thân lại đi diễu qua thăm tôi, đến xen kẽ từ Quy Nhơn và làng Cá, từ Đắc Lắc rồi Đà Nẵng. Họ hiện trên nền trời rậm sao chòng trành hay dưới mí mắt tôi hồng màu nắng. Tôi chào hỏi rất vui, Thằng công an Ngụy đá vào cằm tôi ngày xưa cũng ló ra, tôi nắm họng nó, đấm…
Một giọng trầm nói buồn, tiếng Pháp:
- Mê sảng, sắp chết rồi.
Tiếp một giọng quen:
- Bạn tốt nhất của tôi đấy.
Tôi mở mắt một lát mới nhận ra Duy Hảo. Tại cậu ta gỡ kính để lau mặt hơi lâu, trông khác đi với hai mảng trắng nằm hai bên tinh mũi. Cạnh Hảo, ông thầy thuốc tóc hoa râm và gầy vẫn nói chen tiếng La tinh cả tràng, tôi chẳng hiểu gì. Sương đặc xuống nhanh. Hai người mờ nét dần, tan trong màn trắng, những câu lạ tai còn rì rầm một ít nữa rồi mới dứt.
Chú thích:
(1) Trung liên Pháp, kiểu 1924 – 1929
(2) Chỗ sườn cạnh nách, đâm xuyên vào đấy sẽ trúng tim.
(3) Hăng, khoẻ
Chương 23
Cái đốm lửa lắt lay dính lại trong tôi, sau nhiều ngày sốt dữ, nhiều lần mổ kéo dài, nhiều cơn mê cạn hơi thở, vẫn không tắt hẳn. Nó cháy đỏ lên dần.
Mấy người nói tôi thoát chết là sự quái lạ. Tôi khác, tôi biết tôi sẽ qua khỏi, chỉ ngạc nhiên vì các vết thương sao hay trở chứng quá, không chịu lành gấp. Bấy nhiêu thôi, chẳng có gì rùng rợn ly kì hết. Cho đến một buổi sáng, bác sĩ Lẫm- người nói tôi hấp hối, đã vá chỗ bụng rách và lỗ thủng ở ruột cho tôi với ý nghĩ còn nước còn tát – cùng với Duy Hảo ngồi lại bên giường tôi thật lâu, kể lại những bước xáp lá cà đánh lùi cái chết, tôi mới mang máng thấy có thể đi đứt như chơi. Lạ nhỉ. Tôi biết vậy nhưng cũng chẳng biết mừng hay hồi hộp gì cho cái mạng mình cả, chỉ dành tất cả xúc động để cảm ơn các đồng chí đã giúp tôi vượt cạn.
Sức khỏe quay về rất chậm. Từ trên đỉnh cao của Hòn Kẽm đá dừng, tôi đã rơi tõm xuống vực nước đen, ngoi ngóp được nhờ phao của thầy thuốc ném cho, bám tay vào bờ. Nay đến cái đận phải trèo ngược lên từng nấc một. Lắm lúc trồi lên tụt xuống như con cóc leo tường, một cơn biến chứng xoá đi vài tuần chạy chữa, phát ớn.
Tôi bị buộc phải lo cho con người mình, cá nhân mình một cách trăm phần trăm theo nghĩa đen. Cái xác phàm mà tôi tha hồ bắt dầm mưa dãi nắng, xách ném vào kẽm gai lộn mìn, vùi đất lại bới lên xài tiếp, bắt vác cả tạ mà cấm kêu, nay nó ườn ra đấy bắt tôi hầu hạ từng chút. Theo lệnh thầy thuốc, tôi cố nuốt thêm mấy muỗng nước cháo nuôi thân, rình nghe những luồng đau âm ỉ hay quằn quại ở bụng, xem chừng mấy chỗ thịt đùi và vai bị mảnh xé, thò tay đón mũi kim vào mạch, tự súc họng bằng nước muối, đưa mắt và mũi ra nhận những giọt thuốc nhất định vào những giờ nhất định. Cáu nhất là khi phải ỉa đái, đã đau thất kinh còn thêm xấu hổ, hộ lý lại toàn các cô trẻ mới phiền. Đành cố tập lỳ. Khi chân tay ngừng động đậy, tự nhiên sức sống trong tôi dồn cả vào đầu và tim. Tôi giống cái quạt điện, cánh bị kẹt không quay được thì bầu máy cứ nóng lên mãi, biết làm sao.
Ngày lại ngày, tôi sống bằng cháo loãng và kỷ niệm. Bỏ mặc súc thịt mềm nhũn trên giường đấy, tôi bay về với bà con làng Cá. Các đồng chí khiêng thương từ Chu Lai lên thường nán lại bên tôi, kể đủ chuyện trên trời dưới đất, chung quy đều là chuyện ta thắng Mỹ thua, vành đai bị cấu xé rất dữ mà vẫn đứng vững. Một cậu trinh sát bị thương trong khi lội quanh Chu Lai với Mẫn là một ống thuốc bổ giúp tôi mau lành. Chỉ tiếc cậu ta ra viện quá nhanh. Tôi không nhắn tin cho Mẫn, sợ Mẫn nghe kể rằng tôi gầy giơ xương, xanh rờn, tóc trùm tai như đám con trai hippi cáu tiết với đời. Thôi, để tự tay viết thư cho Mẫn yên bụng hơn.
Nhớ chán lại nghĩ. Nằm dài mà nghĩ, ắt dễ nghĩ lăng nhăng. Biết là lăng nhăng mà vẫn nghĩ.
Cái ý “chết uổng lắm” hôm nào giữ tôi sống, nay lại mang một nghĩa khác đáng ngờ. Nói cho công bằng, nó không xui tôi làm cái gì quá tệ, như rời hàng ngũ chẳng hạn. Nó chỉ thì thầm nhắc tôi nhớ rằng hăm tám tuổi mới là non nửa cuộc đời thôi, không ai ép tôi lăn mãi vào chỗ bom đạn dày đặc nhất, tôi có thể đi nốt quãng đời cách mạng còn lại bằng những con đường dễ sống lâu hơn mà vẫn không mất đi chút vinh quang nào. Nếu tôi nhận việc ở tham mưu hay địch vận, xa tuyến lửa, ai dám đánh giá tôi thụt lùi? Tôi nghe nó, cười, coi như “ý kiến tham khảo”.
Cùng với tiếng ti te bên trong, có những lời khuyên bên ngoài mà tôi biết là chí tình của ông bạn Duy Hảo và vài người quen mới nữa.
Vì tay nghề vững hơn, anh Lẫm tự tay mổ cho tôi, nhưng Duy Hảo là người chữa chính, mất nhiều đêm trắng bên tôi nhất. Lần đầu tôi thật tỉnh, cậu ta cởi băng che miệng, hất hàm:
- Chào Đê Đê Tê! Con người sát trùng suýt nữa bị trùng nó sát. Chịu khó nằm im ít lâu cho hạ hoả bớt, mày bốc quá rồi đó.
Cậu chẳng tha gì mà không giới thiệu tất cả chuỗi tên bố láo đã gán cho tôi: Đô Đốc Thiêm, Đạo Đức Thiêm, nhà ngôn ngữ học kiêm phó nháy kiêm thợ máy kiêm xích lô, nay là nhà cách mạng có nhãn hiệu trình toà. Tôi biết cậu muốn cho tôi khuây khoả và đúng là những lời tán phét của cậu giúp tôi thêm vui trong những ngày quá dài không cựa quậy được. Anh chị em trong bệnh xá quen tôi nhanh, bên cạnh cái chăm lo chung đã có một chút mến riêng mà tôi cảm thấy được ngay, cũng nhờ có Hảo.
Hảo thường hỏi bệnh và bắt tôi trả lời bằng tiếng Anh, bí thì cho phép chen tiếng Pháp, bảo là cả hai cần cạo gỉ các ngoại ngữ để còn chọi với đế quốc lâu dài. Tôi không thích nhưng phải chiều cậu. May là chỉ có hai thương binh nặng hơn được xếp một buồng riêng; đồng chí kia đã khỏe, học tới lớp bốn mà biết năm thứ tiếng của các dân tộc Tây nguyên nên không thấy khó chịu khi chúng tôi nói với nhau. Trong câu chuyện của Hảo thường pha chút giấm chua giễu cợt:
- Cho mày cái mô tô, mày sẽ tháo lấy còi hay đèn pha chơi, còn vất hết. Mày dùng cuộc đời cũng vậy thôi.
- Mày hay khoe tánh mày ruột để ngoài da, đây là một bằng chứng.
- Tao tưởng các siêu nhân không bao giờ đi bằng vai người khác chớ.
Hằng ngày săn sóc tôi là Thu Yến, mới ra vùng giải phóng được vài tháng, còn nguyên mái tóc uốn sóng dài bỏ xõa và cái e thẹn hơi đỏm dáng của cô nữ sinh Đà Nẵng. Theo Hảo đi khám bệnh, Yến bưng khay thuốc đứng mé sau, im lặng giương đôi mắt bồ câu nghe chúng tôi đấu mép. Yến hay ở lại bên tôi hỏi chuyện rủ rỉ. Cô quý chung các anh bộ đội, nhưng coi thích riêng anh bộ đội có chữ nghĩa và gốc thành phố hơn. Ban đầu tôi hơi ngại anh em thương binh nghĩ khác, sau mới biết chính họ nhắc Yến ngồi trực chỗ tôi càng nhiều càng tốt, bởi tôi bị nặng nhất. Dần dần tôi quen với nụ cười hồng khi Yến băng cháo đến và nhại mấy tiếng Nhật nói giọng Pháp của cậu Hảo:
- Đôdô, ôtabênaxai!
- Arigatô(1)!
Và lát sau chúng tôi gật đầu chào nhau: Xayônara(2). Tất cả đều tinh tế, nhẹ, êm ả.
Bệnh xá đóng trong làng Cẩm Tú khá giàu, mới giải phóng, chưa hề bị bom pháo. Tôi ở nhà tên quận phó đã đem vợ con chạy trốn. Sau bấy nhiêu năm hết ở rừng với ngủ hầm, bây giờ tôi được nuôi mập trong căn buồng quét vôi xanh nhạt, nằm trên giường tây có đệm và mùng tuyn, với một lô sữa trứng, chuối đặt trên cái bàn mặt đá vân, bên cây đèn dầu to phủ chao lụa hồng. Cách mạng miền Nam mà sang vậy đó. Nếu bớt đi tiếng máy bay ầm ù trên cao, thêm đèn điện, tôi dễ tưởng đang điều trị ở Sài Gòn hay Hà Nội. Và dáng người áo trắng, mái tóc uốn, lối đùa hơi kiểu cách của Thu Yến lại rất hợp màu hợp nét với khung cảnh trang nhã của căn buồng, càng tạo nên cái yên vắng vây quanh giường bệnh. Tôi chỉ còn nghe pháo đánh nóc hầm giữa giấc chiêm bao.
Mất một tháng rưỡi tôi mới đứng dậy được. Các vết thương khép miệng, kéo da non đỏ hỏn. Đồng chí cùng buồng đã ra từ lâu, thương binh còn ít nên Hảo xếp tôi ở một mình. Rảnh việc, anh chị phục vụ mỗi chiều hay đèo nhau xe đạp ra dãy quán dọc đường ô tô chơi, họp bà con nói chuyện phòng bệnh hay tập múa hát cho trẻ em trong làng. Yến ít đi đâu, hay đến buồng tôi hỏi về đời bộ đội, cô rất chăm nghe và dễ xúc động. Anh Hai của Yến là chính trị viên tiểu đoàn, về hoạt động quanh Đà Nẵng, đã đón Yến ra khi Đà Nẵng đang sùng sục vì những vụ lính Mỹ hiếp phụ nữ.
Bà con Đà Nẵng coi anh giải phóng quân như thần, Yến cũng vậy.
- Con Lan hay đi biểu tình với em, hai đứa quanh năm mặc áo cùng kiểu cùng màu, nó thề chính mắt nó nhìn thấy tàu ngầm bên ta nhô lên khi chạng vạng, cho xuồng cao su lắp máy chở mấy anh “mũ sụp” chạy vô Sơn Trà, biến mất. Đêm sau các anh đánh rụm mấy chục tàu bay ở Đà Nẵng.
Yến cười thẹn thò, mặt rất hồng bên cái chao đèn lụa.
Tôi đọc nghiến ngấu những tập Văn nghệ giải phóng và hai cuốn truyện mỏng, thèm quá. Sách báo đã ít, qua bao nhiêu lần dời chỗ lại mất dần hết, theo Hảo nói thì một số anh em ta vẫn khoái cái câu “lấy sách không phải là ăn cắp”. Yến mượn trong làng cho tôi được nửa bộ Thủy Hử, tôi ngoém hai ngày là hết, không biết các ông tướng quen rượu rót bát to, thịt xắt miếng lớn ấy sẽ nổi dậy ra sao. Ăn không ngồi rồi quả là một cực hình. Tôi viết thư cả mớ, gửi má và em Hiền, gửi ba và anh Hai ngoài Bắc, xê mình, bạn gần bạn xa, gửi Mẫn ba lá rất dài. Tôi chưa ngồi được lâu, đi vài chục bước các vết thương đã đau nhức, thường đọc nằm, viết nằm nên mau mệt. Rốt cuộc món giải trí hàng ngày vẫn là những câu chuyện rủ rỉ của Yến trong giờ trực.
Thu Yến có khuôn mặt xinh xắn, da trắng xanh với những nét gì như gọt tỉa quá kỹ và hơi mỏng mảnh. Sống mãi trong thành phố bị chiếm đến mười tám tuổi mà Yến vẫn nết na, hiền và ngoan, có lẽ nhờ mẹ và các chị kèm riết. Đôi lúc còn những cái cũ chưa gột hết: ông tỉnh trưởng, bà Nhu, văn hiện sinh hay lắm, nghe nhạc dịu Sài Gòn có sao đâu. Nhưng vượt lên trên bấy nhiêu vặt vãnh, tôi nhận thấy Yến khao khát được lao vào cuộc sống lớn đang bày ra trước mắt. Con chim mới ra ràng, từ trong tổ nhảy lên được cành thoáng, đang đập cánh muốn bay cao bay xa. Yến hay lắc đầu bướng và hơi nũng:
- Các anh chị ở đây coi em như… con búp bê. Việc gì nặng nặng khó khó là gạt đi không cho em rờ tới, nói mày con nít làm nhiều khó lớn. Da mày bạch tạng chưa quen ăn chịu, để mày lo động viên các anh thương binh thôi.
Người hay ngăn nhất là Duy Hảo, tôi biết
Nhiều lần, tôi bắt gặp mình nhìn ra cửa đợi Yến đến. Tôi bắt đầu áy náy khi sờ cằm thấy nhám râu hay phải mặc bộ bà ba vá đụp nhiều chỗ. Khi soi gương, tôi không còn khó chịu vì nước da bụ sữa đã quay lại, lớp sạm phong trần bay mất. Lại còn thấy hay hay nữa, điển trai một chút đã sao, tôi đã tới ba mươi đâu. Tôi tự giễu mình đổi nết, đâm ra trai lơ và ham bề ngoài, nhưng giễu mà vẫn tha thứ cho những “tật xấu đáng yêu” ấy.
Hảo nói tôi khắc khổ, sớm già, có lẽ đúng chăng?
*
Cậu Sang, cán bộ của H.68 đến thăm tôi lần nữa với quà và thư anh Điển: “tính để cậu nằm cho yên ít lâu, nhưng đành phải tới rút ruột cậu một mớ…”. Kèm theo là mười sáu câu hỏi về Mỹ và kinh nghiệm đánh Mỹ, tôi sẽ đọc và trả lời cho Sang ghi, coi như dự tổng kết từ xa.
Tuy Hảo không bằng lòng mấy, tôi vẫn nằm làm việc trong hai ngày liền. Càng nói càng bốc, có lúc tôi chồm dậy, cố thuyết phục Sang rằng tự làm mìn chống ra đa rất dễ, mà du kích cứ nghĩ dễ dùng ni lông gói mìn vỏ gang là địch không ngửi ra, bị mất cả lô rồi đó. Tôi hầm hè cãi nhau với ai đấy vắng mặt rằng chớ nên bị ám ảnh bởi giày đế sắt và áo giáp Mỹ mà bỏ chông. Chông sắt vẫn xuyên được phần da trên đế, chông tre chông cau sẽ xóc bụng và chân tay Mỹ khi chúng nhào sấp tránh đạn ta… Sang đi rồi. Tôi nằm soài đấy, mệt phờ nhưng nhẹ tênh tênh. Tôi còn có ích đấy chứ. Cái vốn hiểu Mỹ của tôi tuy nhỏ xíu nhưng vẫn được dùng, may lắm.
Tiếp đó, một anh địch vận của tỉnh mang đến cả chồng tài liệu Mỹ mới lấy được năn nỉ tôi dịch. Lần này Hảo cấm hẳn. Tôi nghĩ ra một mẹo: trước mặt Yến, tôi đưa bản hướng dẫn phòng bệnh của lính Mỹ nhờ Hảo dịch hộ. Cậu ta ngứa nghề, làm luôn, còn đi lấy từ điển Anh-Pháp và Pháp-Anh để tra kỹ. Từ hôm ấy, pho từ điển dày cộp nằm lại trên cái bàn mặt đá vân cùng những tập sách Mỹ không quan trọng mà anh kia bỏ lại. Hảo răn đe chán chẳng được, sau bắt tôi hứa chỉ làm việc vừa đủ óc khỏi gỉ.
Tôi chợt nhớ số giấy tờ lấy trong cái xác Mỹ bỏ lại giữa những vết xích xe. Giữa lúc tôi mê, anh em thay cái áo đẫm máu đem giặt… Tôi tìm ra cả xấp trong đáy ba lô. Thằng này chết vì hai viên AK của tôi trúng cổ, nó thò đầu hơi cao trên thành xe.
Lính Mỹ lắm giấy thật, chẳng bù với anh em mình… Tôi xem kỹ tấm thẻ căn cước dán nhựa cứng cả hai mặt, có dán ảnh chính diện chụp cái đầu cắt trọc với bảng đen đề tên bằng phấn kê dưới cổ, như tù đeo biển số. Hình như bọn cầm quyền muốn tập cho lính quen chịu nhục từ khi phát thẻ trở đi. Những dấu lăn tay gợi cảnh phu mộ bán xác đi tân thế giới. Con người không còn cha mẹ, không địa chỉ quê quán trên đời, biến thành con số dài thòng: SB.24943715. Thêm hai câu chữ xanh in theo chiều dọc, kẹp hai bên: Tài sản của chính phủ Huê Kỳ. Tôi muốn nghĩ tài sản ấy là tất cả thằng lính Risớt L. Cácxơn chứ không riêng tấm thẻ.
Tôi đọc lần lượt những mảnh bìa bằng cỡ sổ tay in chữ nhỏ. Có thẻ ăn, thẻ mua hàng, thẻ xem bói bằng chữ ký, thẻ ra vào trại, thẻ y tế, nhiều nữa. Tất cả những quy định và lời khuyên vặt đều in thành thẻ. Mới tinh, có lẽ chưa đọc lần nào, là cái thẻ dạy đường cư xử gồm sáu điều, mở đầu bằng việc bảo vệ lối sống Mỹ, chấm dứt với lòng tin ở chúa và ở nước Huê Kỳ. Thằng lính chẳng bỏ thì giờ xem những dòng lít nhít ấy, để lo tập nói toi xin đàu hang lợi hơn nhiều chứ.
Thằng Risớt này mới sang ta đã nhận nhiều thư. Cô Giâynơ gửi một lá thư tình đánh máy hơi gượng gạo, nhắc dài tới những tối nào đó lắm muỗi ngoài vườn nhà bà cụ N., cô này viết tắt và nhớ muỗi hẳn không chỉ vì mặc kiểu áo váy ít vải nhất. Kèm một chuỗi ảnh dính nhau, chụp rẻ tiền bằng máy tự động ăn xu đặt đầu chợ, của một cô gái vẽ đôi mắt quá dữ và có nhiều đường nhăn bao quanh miệng, trông sớm héo. Tới thằng em trai viết rằng ba say rượu và đánh con nặng tay hơn trước, hỏi anh đã nghe tiếng húppi(3) rùng rợn của Vi xi chưa? Và sáu thư liền liền của bà Bétty… Tôi đọc lướt, rồi đọc kỹ từng lá thư theo thứ tự ngày tháng.
Đây rồi, cái nét mà anh Năm Đông bảo rằng tôi đã coi nhẹ khi tìm hiểu lính Mỹ:
… Người ta bàn cãi khắp nơi, mỗi người một phách. Chú Étdy nói thời nào cũng có chiến tranh, tránh sao khỏi, xưa chú đánh Đức thì nay lứa con cháu đánh cộng sản thôi. Ông chủ cửa hàng của mẹ vui lắm, vỗ vai mẹ khen có đứa con anh hùng, các bạn mẹ đều nói ông có nhiều cổ phần trong ngành máy bay, sắp giàu to rồi. Ba con như người điên, uống say lại đập cốc, kêu trót dại lấy vợ đẻ con làm gì, đứa làm đĩ, đứa chết ở Triều Tiên, tới thằng Đicky(4) cũng mang bệnh giang mai và ma túy về nhà, sao không chết hết một lần cho rảnh. Mẹ chỉ biết khóc và cầu Chúa…
Đến một thư khác:
… Mẹ sợ lắm, mẹ không ngủ được. Tờ giấy đòi rút các con về nước mẹ để ngót tuần nay trong ngăn kéo mà không dám ký. Cái hội gì đấy tên dài lắm đã gọi điện cho mẹ hai lần, nhắc phải cứu con gấp. Chị Bácbara cũng đến khuyên mẹ một tối, chị là người ngoan đạo và đáng kính nhưng bị mấy tờ báo trong bang gọi là cộng sản. Mẹ biết làm sao con ơi? Ba con thất nghiệp lâu quá rồi, nếu mẹ mất luôn chỗ bán hàng này nữa thì cả nhà chết đói mất. Mẹ đã phải bỏ xe trôlây, đi xe buýt vòng xa hơn, tránh qua nhà các chủ nợ, lão Lông Cừu Vàng đòi găng nhất và doạ đưa ra toà…
Lá tiếp theo không có gì hay. Đến lá mới nhất, có chữ thằng Ri-sớt ghi nhận hai ngày trước khi chết, bà Bétty viết hối hả giữa cơn sốt:
Thế là mẹ, như người ta nói, đã dấn thân rồi Đicky ạ. Chủ nhật vừa rồi mẹ đi biểu tình trên phố Loxơn và bạn bè tới năm ngàn người và người hàng phố còn đứng hoan hô nhiều lắm, họ giơ hai ngón tay chữ V và đưa ngón tay cái khen ngợi, chỉ có vài đứa bĩu môi thôi. Thì ra những người lương thiện đều chống cuộc chiến tranh của L.B.J. cả con ạ. Chúa thiêng liêng soi xét lòng mẹ, dù mẹ bị đuổi việc hay bị xem như cộng sản hay mẹ đang làm cộng sản thật đi nữa thì con mẹ sẽ không bị đày hoả ngục vì nhúng tay vào máu người vô tội mà thằng Đicky bé bỏng sẽ về với mẹ…
Tội nghiệp cho bà Bétty! Thằng Đicky đã nằm lại làng Cá, trong góc vườn mẹ Sáu, đợi bà. Hai viên đạn AK của tôi là cái dấu hết - một gạch, hai chấm hai bên - cho cuộc đời cướp biển còn rất ngắn của nó. Dù nó bị ép hay lầm lẫn, tội ác vẫn là tội ác, bản án cứ phải thi hành thôi.
Tôi ghi địa chỉ của bà: Bétty A. Cacxon, 1625 đại lộ Loxơn, thành Đantơn, bang Gioocgia.
Khi có dịp, tôi sẽ gửi thư an ủi một bà mẹ Mỹ đáng kính và đáng thương, còn bây giờ tôi phải lo giết thêm thật nhiều lính Mỹ chưa buông súng, dù biết có nhiều đứa giống thằng Đicky. Trước hết tôi phải thương những cháu Hoàn bị xé xác tìm không đủ xương thịt, thương tất cả những ai trên trái đất này đau khổ vì gót giày sắt của thằng Đicky đã đạp hay đang doạ đạp tới, tôi thương cả mẹ nó trọn đời long đong khốn khổ, nên càng cố bắn cho trúng nó. Tôi vẫn đo chiều dài của đời tôi không phải bằng năm tháng, mà bằng số lính Mỹ tôi sẽ bắn gục hay trói giải về. Bà hiểu không, hỡi bà mẹ Mỹ mà tôi rất muốn xoa dịu nỗi đau quằn quại?
Tôi buông xấp thư, nằm im nghe chỗ bụng rách đang ngứa vì kéo da non, nghĩ về lời nhận xét của anh Năm Đông. Rất đúng. Đài và báo ta nói nhiều về nhân dân Mỹ chống chiến tranh, tôi vẫn nghe và đọc đều. Khi ở thành, tôi cũng tìm xem không ít sách báo tiến bộ về nước Mỹ. Tại sao tôi lại cố dẹp đi những cảm tình đã có đối với người Mỹ? Tôi chưa lúc nào muốn “tỏ vẻ lập trường vững”. Có lẽ chỉ vì tôi mắc cái bệnh “hẹp van tim”. Tim tôi hẹp, không chứa nổi cùng một lần nỗi căm uất ghê gớm và lòng nhân đạo mênh mông của người cộng sản. Tôi chưa đủ sức cùng một lần thương chị Biền bị moi gan với bà Bétty bên kia trái đất.
Ngày xưa, tôi tìm đọc về nước Mỹ như một người trẻ tuổi tò mò muốn tìm hiểu một xứ rất trẻ, dù nó là cái bồ đựng chế giễu và khinh miệt của châu Âu thầy cũ, dù nó tự phơi thân làm trò cười cho thiên hạ trên những tờ quảng cáo phim: hình như trên đất Hoa Kỳ con trai chỉ lo bắn nhau bể sọ dừa, con gái chỉ biết cởi truồng, tên vua dầu lửa bụng phệ chỉ mút xì gà gộc, người da đen chỉ đứng hầu ngơ ngác, và cảnh sống quái gở ấy luôn luôn diễn ra trên cái phông đầy nhà tổ ong của đồng cỏ đang cháy. Tôi đã phải chọc thủng cái bức màn vừa đểu vừa ngu ấy để tìm đến những người Mỹ lương thiện. Tôi mến Giắc Lơnđơn và Mác Tuâynơ, rồi gặp Hêminguê, sau mới khám phá ra cả cái kho tiểu thuyết lên án xã hội trước thế chiến hai. Tôi đau nỗi đau ngàn đời của người nô lệ da đen, khao khát được sống như Hariơt Tớpman và chết như Giôn Braonơ(5). Tôi theo những người thất nghiệp bới rác kiếm ăn, lết từ bang này qua bang khác. Tôi cùng nổi dậy với dân thợ mỏ ở quận “Haclan đẫm máu”. Đó, nước Mỹ thật, nước Mỹ của bà Betty đã xuống đường!
Anh Năm nói phải. Ta với địch cài răng lược nhau suốt từ Chu Lai đến Nữu Ước, tôi lại cứ muốn gạch một đường ranh giới thẳng băng theo kinh tuyến, gạt tất cả người Mỹ sang phía bên kia cho gọn, đâu được.
Tôi cười một mình, thiu thiu ngủ dần với những nét ngoằn ngoèo chạy dưới mi mắt.
*
Tôi được thư Mẫn vào một buổi trưa, sau bữa cơm.
Trống ngực tôi đập gấp khi cầm cái bì nhỏ có nét chữ tròn hin, người thon thả mà chữ lại giống cô Chín Cang mới kỳ, đề rõ trên đầu là Hai Mẫn. Ba thư của tôi đều gửi anh Tư Luân cho kín đáo một chút, cũng để anh hiểu tôi hơn. Còn Mẫn lại rất bạo, hay nhỉ.
Mở ra, tôi cụt hứng. Chỉ được mươi dòng ngoáy vội. Mẫn nói tới nay mới biết được số hòm thư của bệnh xá, thương nhớ lắm mà chưa đi thăm được, bận quá. Lá thư đầu tiên của Mẫn gửi tôi từ ngày quen nhau đấy, thăm người yêu vừa thoát chết đấy, chán không. Tôi buông mảnh giấy rách bụng từ sổ tay xé ra, thấy tủi không thể tả.
Lâu nay tôi háo hức đón hỏi tin vành đai Chu Lai, tin Tam Sa, xoáy vòng trôn ốc để hỏi tới cô bí thư. Tuy vắng đi những cơn nhớ sấm chớp ngày trước - có lẽ nằm lâu quá, tình yêu cũng mềm đi cùng với con người chăng - nhưng hình ảnh của Mẫn lại lắng sâu hơn, kết tinh hơn. Tôi sốt ruột đợi thư Mẫn với cái thu thú của trẻ con đợi trái ổi lồng chín cây, càng lâu càng ngon. Mãi Mẫn mới chịu ném cho tôi mấy chữ miễn cưỡng thế này: Em búi việc quá, mong anh thông cảm… Rốt cuộc Mẫn vẫn có lý. Có lý mà thiếu tình. Hay nếu chỉ có tình đồng chí đồng bào thì Mẫn yêu mấy chục triệu người chứ yêu riêng gì tôi mà thương với nhớ! Tôi giận Mẫn rồi.
Mẫn đổi lòng ư? Khó tin. Nhưng trận nào chẳng phải tính tới tình huống xấu nhất!
Câu chuyện của trung đội trưởng Lập hôm xưa, kể thì thào dưới bụi cây rậm gần đồi núi Sàm, vụt trở lại với tôi rõ từng lời:
Cậu yêu một cô ở quê, giúp cô nhiều. Lập đi bộ đội, hai người vẫn thư từ với nhau suốt ba năm đằm thắm. Năm ngoái cậu về phép thăm nhà, gặp lúc cô vừa trúng vào huyện ủy. Cậu lại dò dẫm tìm đến cơ quan huyện ở khá xa, phải qua vùng đang bị càn. Trạm giao liên không nhận vì giấy phép ghi là về xã, chẳng có công tác gì mà phải gặp huyện, cho cậu vào thì lộ địa điểm, mời ra trạm thì cán bộ huyện mắc họp cả. Lập cáu nhưng đành nằm đợi, viết thư nhờ cầm vào cho chị Liên Hoa. Sáng hôm sau trạm mới có người đi, đến trưa đồng chí kia trở về với một câu nhắn vội: anh chịu khó chờ, mai chị mới ra được. Lập cuốn võng, xốc ba lô đi biến, gửi thư cắt luôn.
Nghe chuyện, tôi chỉnh cậu một mẻ. Vợ thăm chồng chịu khó chờ được, chồng thăm vợ đợi chút đã sao. Lập cãi:
- Mới đầu cũng có nóng mũi thiệt. Qua cơn nóng, tôi cứ thấy cắt là phải. Tới hồi cô ta lên tỉnh lên khu còn búi gấp mười, tôi không đủ thì giờ đi tìm, rồi còn chầu chực, rồi biết đâu người ta chẳng xấu hổ vì thằng chồng cấp thấp. Về lâu về dài, chắc tôi phải lo hết heo gà cơm nước, vì công tác của cô ta bao giờ cũng quan trọng hơn, đưa lý ra là tôi cứng họng… Thôi, nồi méo úp vung méo!
- Phong kiến dữ ta!
- Anh lâm cảnh tôi mới biết. Mà lâu nay ta kêu gọi đàn ông đảm đang việc nhà cho vợ đi cứu nước lần nào chưa? Hay là tôi giải ngũ về giữ con?
Tôi cười ngất. Lập cho biết thêm cô Hoa đã gửi cho cậu bốn lá thư phân trần và trách móc. Tính cậu Lập bộc tuệch, dễ vui, đòi lìa cô Hoa Sen mà chẳng thấy vương tơ lòng chút nào.
Đến nay, tôi chợt nghĩ rằng Mẫn với tôi cũng có thể lâm vào cảnh ấy thật. Nếu cả hai đứa đều bận ngập đầu thì tình yêu cứ lặng lẽ phai mầu mỗi ngày một tí, héo dần tới khi chết khô. Tới đó, chúng tôi sẽ vất vả lắm mới viết được kín một trang giấy thăm hỏi, khi gặp nhau cũng chẳng có gì mà nói. Gượng gạo mãi cũng ngấy. Một đứa sẽ hỏi trước: “Hay là ta coi nhau như bạn?”. Chia tay xong, mỗi đứa bùi ngùi tiêng tiếc ít nhiều gì đó, lại nghĩ: “May là chưa cưới nhau, không thì chán chết”.
Chao ôi, chúng tôi mà chán nhau ư?
Tôi rùng mình. Một sợi gân nào đó bên thái dương bỗng rút mạnh, rất đau. Tôi nằm xuống giường, cảm thấy ngay nước mắt Mẫn đang tuôn lã chã trên mặt tôi, mặn và nóng rực. Mãi mãi sẽ không bao giờ có một cô gái nào yêu tôi mãnh liệt như Mẫn. Chỉ tình yêu dành cho mấy ngàn bà con mới đủ sức ngăn không cho Mẫn lên ở với tôi như gái nuôi chồng ốm. Hay là… hay là Mẫn bị thương, vẫn cố ở lỳ trên vành đai, gắng lắm mới ghi được bấy nhiêu chữ cho tôi khỏi lo?
Tôi chồm dậy, đưa tay quờ thắt lưng súng ngắn. Nằm ăn vạ đến bao giờ nữa.
Tay tôi run khi mở bao, xem lại súng. Cây P.38 trung thành đã sùi lên nhiều vết gỉ. Nó chỉ còn hơn chục viên đạn. Đạn chín ly bây giờ không kiếm ra, số cũ lép nhiều, mấy cậu quen khuyên tôi đút kho cho rảnh, tìm Côn 45 mà đeo. Phải chăng, cũng như nó, tôi đang gỉ ra, trở nên lỗi thời cũ kỹ, đi dần vào kho? Tôi thắt nịt vào bụng, bước ra cửa, lại phải tháo nịt ngay cho đỡ đau. Khi ngồi xuống giường, mồ hôi đã thấm ướt áo tuy trời mát. Tôi ngả lưng thở hổn hển một lát cho đỡ mệt, cơn nhức đầu kéo dài đến chiều.
Tôi chưa hiểu được những phút cuồng ấy vì đâu mà có. Chỉ biết rằng tôi không chịu nổi bốn bức tường vây quanh nữa. Tôi phải đi đâu đấy, làm cái gì đấy, không sẽ chết ngột mất. Người lính chiến trong tôi bất thần nổi loạn, đòi về đánh giặc và sống với xê mình. Còn chuyện tình duyên kia thì tới đâu hay đó. Tôi có thể trách Mẫn, nhưng không bao giờ quên được Mẫn.
*
Chiều nay, tôi được phép tập đi không quá một cây số, vào giờ tạnh máy bay.
Cắt tóc và tắm xong, tôi mặc bộ quân phục mới nhất đã lót dưới đệm cho thẳng nếp, đội cái mũ tai bèo đính dù ngụy trang, đến trước tủ gương lớn và sửng sốt khi thấy một ai khác trong gương. Một chàng lính cậu phốp pháp, rất là công tử bột, như đứa em trai cách tôi năm tuổi mới vào bộ đội, chưa qua tháng tân binh nào. Tôi ngượng, quay đi, vừa lúc Thu Yến bước qua cửa. Yến dừng ngay, nhìn tôi đăm đăm, trong cặp mắt bồ câu có cái ánh lạ mà tôi bắt gặp đôi lần nhưng không muốn – hay không dám - nhìn kỹ.
Tôi hỏi hơi vội:
- Yến đi đâu?
- Đi với anh. Lỡ anh lăn ra đường, em cõng về, khỏi cản trở giao thông.
Yến vỗ vào túi thuốc bên hông, cười nghịch ngợm.
Chung quanh vườn có tường cao vây kín. Lâu nay tôi mới lê đến cổng dòm ra. Yến kèm bên tôi, nhắc: “Chậm chậm thôi, anh”. Tôi chợt nhớ chưa lần nào được thong thả đi dạo bên Mẫn và nói chuyện bâng quơ, cóc nhảy mà trai gái hay nói với nhau.
- Tụi em đặt tên đường Thanh niên đó, anh. Bắt chước Hà Nội mà.
Chúng tôi đếm bước dọc con đường viền dừa chạy ven con sông nhỏ. Làng Cẩm Tú xứng với tên, đẹp lắm. Địch bị nhừ xương ở Việt An, rút một lèo bảy đồn to, trả cho ta thêm một mảng đồng bằng rất giàu này nữa, sáu vạn dân được giải phóng. Cẩm Tú nằm xa các trục đường ô tô và máy bay, suốt hai tháng qua mới bị vài trái pháo rớt tít ngoài ruộng. Nhà ngói nhiều, nhà tranh cũng cột kèo gỗ cả, cha mẹ đánh nài bằng bẹ chuối khô cho con leo cột nhà, tập hái dừa và đánh bóng cột luôn thể. Các nhà nghèo nhất đã bị địch bắt đi đinh điền, ai sót lại cũng không dám nghèo ra mặt với tụi hội đồng. Bây giờ bộ máy chính quyền và các đoàn thể đã lắp đủ, chạy đều, coi bộ trơn tru như hàng cột lim. Và lúc này, khi mặt trời sắp lặn, sau mây đỏ, những tiếng vui dần dần nổi lên trong các ngõ xóm. Máy bơm xình xịch gọi cấy ngoài kia, trẻ em reo đón mẹ về,gà tao tác tìm chuồng, lát nữa sẽ rộn thêm tiếng trẻ em tập hát và trống làng gọi người lớn đi học bình dân hay bàn việc ruộng đất.
- Nghỉ chút đã, anh.
Yến bước vào vệ cỏ rộng bên đường, định ngồi xuống một súc gỗ to. Tôi bật kêu:
- Chông!
Yến ngẩn ra, khi hiểu mới cười rũ, kể một hồi ra vẻ thạo:
- Chưa có chông mìn, anh ơi. Anh xã đội ghé chơi bệnh xá cứ than thở bà con ở đây phát miết mà động ít, cày cấy chăm mà đóng góp kém, học bình dân đông mà làm làng chiến đấu thì nhác. Họ còn sợ đánh to bị chết người cháy làng… Gớm, anh đi qua Điện Bàn, Duy Xuyên chông cắm tận nóc hầm kia, khiếp. Địch càn vô đây mặc sức mà ruồng. Bệnh xá mình về đóng, họ cứ kêu trước sau tàu bay cũng tới, tụi em phải đi phát thuốc, chích dạo, làm thân từng nhà…
Làng này được giải phóng bằng quân sự, số đông còn ngỡ ngàng chưa động. Tôi đã nghe nói vậy từ trước. Không sao, cứ phát mãi đi, đến một lúc nào đó tia điện mạnh sẽ biến mây thành nước. Đừng ca ngợi suông lớp vỏ láng bóng bên ngoài, cũng chớ cho rằng nơi lạc hậu sẽ ở chót đuôi mãi. Lá cờ đầu còn nhiều năm tháng để chuyền tay, cô bé ơi.
Yến đang kể về một bà gặp ai cũng kêu ốm đau, xin thuốc để dành, vừa rồi bị ngộ độc gần chết, chữa xong bà mới đưa ra một bát to thuốc viên bỏ lộn lạo mấy chục thứ không nhãn không chữ: “Thuốc uống vô, không lành cái này cũng bổ cái khác chớ?”. Tôi nghe lơ đãng, chợt nghĩ đến làng Cá bị giành đi giật lại, trầy vi tróc vảy chưa biết bao giờ mới dứt. Cũng là thôn giải phóng cả, sao cái làng Cẩm Tú này chưa mất và không muốn mất chút gì hết?
- Em chán, còn anh Hảo lại thích ở lại đây, sẵn chất tươi mà ít bom pháo… Anh Hảo khen anh có tài mà có chí ép xác quá. Thiệt vậy không anh?
Tôi cười trừ, nghĩ tiếp: cùng theo cách mạng cả, sao cô Yến này đi ngay vào chỗ êm ấm, còn Mẫn của tôi chưa hề được hưởng trọn một ngày vui riêng? Ừ, cứ vậy mà suy, tại sao dân tộc ta lại phải trả cái giá đắt chưa từng thấy để giành độc lập, thống nhất?
Duy Hảo hãm xe ngay chỗ chúng tôi, thả hai tay phanh tanh tách, bước xuống. Cậu hơi nghiêng đầu, nheo cặp mắt trông sâu hoắm sau kính cận, buông lửng bằng tiếng Anh:
- Rất bảnh trai. Và rất đẹp đôi.
Thu Yến học đệ nhị, kém sinh ngữ nên không nghe được gì, còn cậu Hảo tự cho mình là lịch thiệp lại cứ nói tràn những câu thế đấy. Hình như cậu cố ý chọc tức Yến. Anh em trong bệnh xá nói rằng Hảo rất chịu khó chiều Yến, nhưng Yến cứ lờ nên cậu trả đũa chơi. Tôi giả bộ không hiểu hết ý:
- Mày chỉ quen nhìn giống đười ươi thôi à?
- Thông minh đấy. Tao ngắm quái gì mày, chỉ chiêm ngưỡng một thành công lớn của nghề y. Người ta khiêng tới một con đười ươi lòi ruột, ốm nhom, đen thui, sắp phải chôn. Tao đã biến nó thành một con người mập, trắng, đẹp và nó bắt đầu nói bậy. Nó lại sắp nuốt mất con chim én sa vào tay nó…
Hảo cười to, rất thú khi tìm được cách chơi chữ mới: swallow là nuốt, cũng là chim én, là Yến. Tôi ngượng khi thấy Yến ngoảnh mặt đi, hẳn rất khó chịu vì không hiểu Hảo cười ai. Tôi khoả lấp cho xong:
- Lo phần mày đi, tao có rồi.
- Ai?
- Một cô du kích dễ thương. Sẽ giới thiệu với mày. Con chim én vẫn bay tự do.
- Rất tiếc, cô ấy thân mày mà lạnh với tao. Tao không thích những bi kịch bộ ba, cũ rồi, nên tìm cách mới.
Một nhóm bà con xong buổi cấy về qua. Tôi suỵt Hảo im. Hảo ngả sang tiếng Việt khá kiểu cách, giọng và mặt tươi lên rõ:
- Kỷ niệm đúng một năm Duy Hảo bước vào đời chống Mỹ, chúc mừng người hùng Đô Đốc Thiêm tái xuất trận buổi đầu, xin mời hai bạn tối nay họp đồng hương Đà Nẵng.
Hảo mới nhận được một chuyến tiền nhà nữa, mười ngàn. Tôi biết cậu kiếm cớ để khao chúng tôi thôi. Hảo đạp xe ra quán với cái giỏ mây khá to, tự mua các thứ ăn nhậu, khoản ấy cậu rất sành.
- Ta xuống bờ sông chơi, anh.
Yến hay buông tiếng “anh” cuối câu, nũng nịu. Cô nữ sinh mười tám tuổi này, nói cho công bằng, đẹp và duyên dáng hơn Mẫn nhiều. Hảo vừa bảo cô ấy mến tôi, thì ra lâu nay tôi đoán chừng cũng không đến nỗi vơ vào. Có thể cô mến như người anh, người bạn trai, như anh bộ đội kể nhiều chuyện hay. Nên dừng ở đấy là vừa. Dù trách Mẫn thờ ơ, tôi vẫn biết đời tôi gắn liền với Mẫn như cây chò xanh một gốc hai thân. Không thể đùa bỡn với một người thứ ba, nhất là với một cô gái trong trắng và cả tin như Yến.
Đang bước trên những viên đá dẹt lát bãi sông- lại một con suối được đề bạt non- tôi bật kêu:
- Chà, bông bạc!
- Đâu, anh?
Tôi chỉ cho Yến xem một mảng bông bạc bằng cái nong, nhô từng cặp cánh hoa trên mặt nước. Yến ngồi xuống sát bờ, đưa tay ngắt một bông, lắc đầu:
- Xấu òm. Vườn đằng kia có nhiều hoa đẹp, để em xin về cắm bình.
- Người yêu tôi thích nhứt bông bạc. Cô ta khuyên tôi đừng bao giờ ngắt. Nó chỉ đẹp khi vùng vẫy giữa nước chảy xiết.
Yến ngồi im, nhìn bông hoa trên tay, quay lưng lại tôi khá lâu. Rồi Yến kéo ống quần lội luôn xuống sông vốc nước rửa mặt. Tội nghiệp. Tôi nhẹ người sau khi thốt ra được cái điều cần nói rành mạch nhưng phải rất êm.
Lau mặt xong Yến mới bước lên, mỉm cười, giọng hơi khản:
- Chắc chị ấy… đánh giặc giỏi lắm.
- Cô ta đánh nhiều trận tôi không hiểu nổi.
- Ghê thiệt! Chị… chị đẹp không anh?
- Đẹp theo kiểu một cô du kích. Như bông bạc kia.
Yến chợt buông một câu giễu, hơi lạ tai vì khác thói thường:
- Vậy anh làm sao ngắt về nhà được?
- Thì lội ra giữa dòng mà gặp nhau!
Đèn đã nhấp nháy trong xóm. Chúng tôi lặng lẽ về trên những đường mòn trắng mờ. Tôi hơi mệt sau chuyến đi thử sức đầu tiên, và hình như bước chân của Thu Yến cũng nằng nặng.
“Hội đồng hương Đà Nẵng” họp quanh một nồi bún Tàu(6) nấu thịt bò thơm lựng, mấy đĩa kẹo mè xửng, một chùm chai bia 33 và nước cam vàng. Ngoài ba chúng tôi còn có thêm cậu Hưỡn, thấp lùn và đen như than đá, chiến sĩ biệt động Đà Nẵng, vừa phải cưa tay trái. Hưỡn rất ít nói, chỉ cười tủm tỉm cả ngày, nhiều người tưởng cậu bị điếc. Cậu đang nhấp nhổm đợi liền da là về đơn vị đánh tiếp. Hưỡn ăn bún uống bia xong, lẳng lặng biến mất, có lẽ không thích lối nói lắt léo của Hảo. Còn lại ba đứa khề khà tán chuyện Đà Nẵng.
Trời đổ mưa. Cửa sổ lắp kính loe loé hình chữ nhật trắng. Những đêm thế này trên vành đai cực lắm. Trẻ em giãy khóc, không chịu ngủ dưới hầm lầy lội, các bà mẹ nhìn những chớp pháo đen lộn sòng và chớp trời mà lo thắt ruột. Mưa gõ mái lều ồn ào, nghe sao được tiếng đạn hú mà chồm lưng che mảnh cho con.
Tôi bần thần một lúc, rồi bị cuốn theo dòng kỷ niệm chung. Ngọn đèn bão đủ sáng để gợi ánh điện. Tiếng sáo của cậu tiếp phẩm ở nhà sau từng lúc nổi véo von, bay vào buồng như tấm lụa hoa màu tươi làm nền cho chuyện xưa. Căn buồng xanh chuyển mình rất êm, lắc lư, biến thành con thuyền ngược sông, đưa chúng tôi trở về thăm các bến quen đã phủ một lớp sương bạc. Ba người trẻ tuổi từ Đà Nẵng nối nhau ra đi, cùng nhớ một khúc phố, một mảnh bờ biển, một bà bán canh hến có tiếng rao ngọng líu. Nhớ lắm. Những gì lởn vởn hằng ngày tan đi, còn lại ba người bạn đường dài rất muốn thương nhau, đang thương nhau hồn hậu mà buông thả…
Sao thế nhỉ? Con sông chỉ có hai bờ, sao Đà Nẵng có nhiều bộ mặt đến thế? Sao mỗi đứa lại thấy Đà Nẵng từ một góc xa nhau đến thế? Tôi lại nghĩ rồi…
Đà Nẵng của Hảo hiện qua cửa sổ biệt thự và khung kính chiếc xe hơi Đôphin xinh xắn, có những dạ hội ồn nhạc pốp nhạc pít và đẫm thơm nước hoa Paris, có vị ngon của bánh xèo bà Trĩ hồi xưa đã mươi đồng một cái, có nhiều trai “chịu chơi” và gái “đợt sóng mới” ưa đón chàng sinh viên y khoa con nhà giàu hay mua vé máy bay từ Sài Gòn tót về chơi phố quê. Hảo ưa triết lý rằng làm cách mạng cứ làm, học cứ học, chơi cứ chơi, phải nếm cho hết mùi đời muôn vẻ. Nghe lời khuyên rất khẩn khoản của cha, Hảo bước theo cách mạng, thấy mình được việc chẳng thua ai. Hào hoa phong nhã vẫn đánh Mỹ tốt chứ.
Thu Yến biết một Đà Nẵng khác.
Đó là phòng thi đầy tiếng học trò nức nở trước một đề bài cố bắt trượt, những lời rầu rĩ của người cha giáo chức con đông thêm mà lương teo dần vì tiền mất giá, những mâm cơm cuối tháng phải úp vội lồng bàn khi có khách bước vào căn nhà chật, nhất là những hoàng hôn u uất đè nặng trên hồn người đang chết mòn. Đôi mắt bồ câu của Yến mở to nhìn chặng đường đằng trước, chỉ thấy bùn nhơ, đá lởm chởm, nhiều máu, rất nhiều hơi dịch bệnh bốc nồng, mà phần Yến chỉ có nước mắt. Mãi đến năm ngoái Yến mới liều xuống đường lần đầu với các cô bạn. Lập tức cái chất lửa vùi tro trong người Yến nổi dậy, Yến không ngờ nó mạnh đến vậy. Sau một buổi đầu óc quay cuồng, Yến về đến nhà trong bộ quần áo trắng lấm lem, nón guốc mất hết, nhớ mang máng rằng mình giật được micro một lần và đá hai trái lựu đạn cay, hụt một. Trong chín ngày thanh niên học sinh làm chủ Đà Nẵng, Yến không biết mình ăn cơm ở đâu và gọi loa những gì đến nỗi mất tiếng. Thế rồi nhà Yến bị soát, Yến bị bắt giam một ngày. Thằng công an không đánh mà chỉ bẹo má: “Xinh quá ta, cho anh yêu một phát đi”. Yến thù nó tím ruột. Rồi lại tiếp những ngày xám xịt sau khi bị đuổi học và ghi sổ đen, Yến lang thang tìm việc mà mắt phải ngó chừng lính Mỹ chẹt xe hay bóp ngực, giúp nhà thì một ngày chỉ mua nổi hai bó rau với một lọn củi cho mười người. Cứ thế đến khi anh Hai gọi cho ra.
Tới phần tôi… Tôi chưa đến nỗi ôm chiếu rách đi rải chân cầu, giữa đêm mưa chui cống rác tránh vây ráp như cậu Hưỡn ít lời, khi cậu còn là “dân lậu giấy” ở Đà Nẵng. Tôi thuộc các phố ở Đà Nẵng lắm bởi đã nhìn chúng qua cặp mắt xoay tròn vì đói, trong khi gò lưng đạp xích lô dưới nắng cháy nhựa đường. Tôi quen cả các đường lẻ ngóc ngách ít gặp cảnh sát thổi còi phạt vạ, đỡ đụng lũ xe nhà binh ưa húc nhào xích lô. Tôi nghe tiếng Đà Nẵng đêm đêm lách qua cửa đóng kín, vào căn bếp sáu thước vuông mà tôi thuê rất đắt, lấy chỗ phóng ảnh kiếm thêm tiền gửi má và em. Đó là tiếng khóc ti tỉ của chị trên gác vừa bị xe cây bịt bùng đến bắt mất anh chồng thợ điện, tiếng chửi sa sả của mụ chủ nhà - một tay buôn lậu cỡ bự được cảnh sát che chở nhờ khéo lót tiền và lót thân, tiếng cười sặc sụa dội từ ngôi nhà rực nêông bên cạnh một con hạm no mồi, tiếng ho khúc khắc của cô gái điếm lao phổi khuya về rón rén. Tôi cởi trần ngồi trước máy phóng, giao cái lưng ướt mồ hôi cho muỗi chích, từng lúc nảy người khi chuột cắn thử đầu ngón chân hay giật xé tờ giấy ảnh đã bị một con gián xập xòe đậu vào dưới luồng sáng, còn lũ gián từ lũ cống bên hè bò lên vai lên cổ thì mặc kệ chúng. Mãi sau này, ngay cả lúc sốt rét nằm run giữa rừng hay húp chén canh sắn không muối trừ bữa, tôi vẫn rùng mình khi nhớ lại mấy năm kiếm ăn ở Đà Nẵng, nơi tôi đã hiểu thấu đến tủy sống hai chữ bất công, nơi tôi học thù ghét mọi kiểu bất công trên đời.
Hồi ấy giặc đang mạnh. Trên tờ giấy ngâm vào thuốc hiện, từng mảnh đậm lợt nổi lên dần, mà những đau xót, căm uất, những cơn điên đòi bắn chém cắn xé trong tôi còn phải ứ mãi như hình ẩn chưa gặp thuốc. An ủi chỉ đến từ nửa đêm trở đi, khi cuộn phim giấu kỹ được moi ra, rồi trang truyền đơn hay trang báo nổi chữ li ti trên giấy ảnh. Tôi đọc vội những lời cháy lửa của ta gửi cho ta dưới đèn an toàn lù mù, đó là những phút chói lọi nhất trong cái vòng tròn hăm bốn giờ quay mãi mà chưa thấy sáng. Tổ chức cấm tôi lộ mặt, tôi càng giống cái nồi hơi bị khoá mất xupap, rất dễ nổ. Những gì Thu Yến và các bạn làm gần đây như cơm bữa, dạo xưa là những cơn thèm dữ dội của tôi: đốt cái xe Mỹ vừa húc mình nhào, và bơm xích lô nện vào đầu tụi lính hở lính kín, nửa đêm cầm lựu đạn luồn tới bót cảnh sát hay tiệm rượu dành riêng cho Mỹ.
Tôi đã biết vì sao tôi tham gia gợi chuyện cậu Hưỡn lầm lì, vì sao Thu Yến thích gần tôi hơn. Hảo chưa hiểu. Đi song song với nhau trên hai bờ kênh lâu lắm rồi. Tôi quý Hảo, biết ơn Hảo hết lòng giữ cho tôi sống, càng phải bắc nhanh cái cầu để hai đứa tới sát bên nhau.
Trời mưa mỗi lúc một lớn. Chớp đánh khi xa khi gần. Gió hú. Tôi ngắm hai khuôn mặt tươi nở, cảm thấy hơi ấm của tình bạn đang bao quanh tôi, thấm vào từng ánh mắt, từng câu tâm tình thấp giọng. Phải đấy, bên ngoài dông tố càng to, chúng mình càng phải nhích lại gần nhau hơn, sao cho tình bạn rất đẹp của tuổi trẻ ngày càng thêm chất men thiêng của tình đồng chí.
*
Đêm sau, anh xã đội trưởng mời tôi đi gặp cán bộ và du kích. Thu Yến vẫn mang túi thuốc kèm tôi từng bước, qua chỗ khó lại đưa vai cho tôi vịn, rất ngoan. Anh em trầm trồ, tấm tắc, xuýt xoa khi nghe chuyện Tam Sa đánh Mỹ. Chính tôi cũng thấy lạ: khi đang ở trong cuộc, cái gì xảy ra cũng có vẻ bình thường, không thể khác; nay ôn lại mùa hè chống Mỹ trên vành đai, tôi mới nhận ra mỗi ngày và mỗi mái nhà ở làng Cá có một sức chứa kỳ diệu, bao nhiêu sự tích anh hùng vẫn đựng được hết.
Lá thư của Mẫn chọn đúng lúc này để đến với tôi. Trở về nhà, tôi thấy ngay cái phong bì nhỏ dán bằng báo cũ đặt trên giường với nét chữ tròn của Mẫn. Dày hơn thư trước. Miễn là Mẫn không gửi tài liệu địch cùng mấy chữ nhờ tôi dịch. .. Hai tờ giấy kép dứt từ giấy vở trăm trang, viết kín, cả chung quanh những chỗ thủng bụng cũng lèn thêm được mấy dòng:
Anh Thiêm của em ơi!
Giặc Mỹ xúc gần hết hai thôn vùng cát rồi anh à. Mấy bữa nay em không nhắm mắt được chi cả, hễ nằm một lát lại đập tay xuống chiếu giận muốn kêu trời!!! Mình diệt xong cái núi Sàm thì sáng ra giặc Mỹ càn lên đông đen mà tụi em cản không thấu, nó đốt nhà đánh người rất thâm độc rồi ra lịnh không dời xuống biển thì nó thả hơi độc hủy diệt hết trơn, may phước tụi em rình diệt được một cánh hai mươi mốt tên nó mới chịu rút, bà con chưa đến nỗi phải ngậm hờn lìa quê! Từ đó giặc càn đổ đồng ba ngày hai trận, đóng thêm hai đồn trên vùng gò sau lưng ta…
Tôi hồi hộp chờ gặp những tin xấu nhất. Nhưng bốn thôn Tứ Nhơn vẫn trụ vững, bám chắc. Bà con Nhị Lộc lai rai kéo về được chừng một nửa, còn về tiếp. Du kích xã và thôn đã tăng gấp ba, súng gần đủ, “con số bao nhiêu anh biết rồi”, cẩn thận đấy. Mạnh nhất là mảnh đất Cuba, nơi tôi gắn bó hơn cả. Mẹ Sáu bị đốt mất nửa số lúa giấu. Út Liềm có người anh trúng pháo gãy tay. Ông thầy Mười biến thành thầy địa, chuyên chống gậy đi coi thế đất đặt bãi chông mìn. Những người thân nhắc tới tôi luôn, ngóng tôi về thăm một chút để tin chắc tôi còn. Các đồng chí tiến bộ hết, “con số tăng gấp rưỡi mà cái chất thì vô cùng phấn khởi”. Chú Tám Liệp rất xông xáo, hay nhắn thăm tôi, kể rằng trước kia ăn ở với tôi có lúc chẳng ra sao. Bây giờ Mẫn đang lo vụ cấy, máy bơm bị phá, trâu chết nhiều, người ra đồng dễ trúng đạn xỉa bốn bề, đấu gắt thì địch ngớt năm bảy ngày lại bắn nữa. Còn phải đưa bớt trẻ nhỏ ra xa vành đai, mở lớp học cho trẻ lớn. Còn việc chữa bệnh, đòi đi chợ, vót chông đúc mìn…
Một trăm cái lo, em chẳng lo gì bằng bà con mình ngán Mỹ. Đụng mấy trận đầu dữ quá nhiều người cũng ngán thiệt, bây giờ đỡ rồi anh à, các bà nói hồi xưa sợ cháy nhà hư vườn tao có hơi né né tụi nó, giờ nó phá sạch trơn rồi tao chẳng còn gì mà phải né, tao đánh thí xác cho đã nư. Mà giết một thằng Mỹ giá trị bằng mười thằng Ngụy, nghe nói Mỹ đóng cùng trái đất mà chẳng chết, tới nước mình mới chết, bà con hỉ hả lắm, em cũng mừng…
Tôi chưng hửng khi biết Mẫn mới nhận được ba lá thư của tôi hôm kia – nghĩa là cách đây bảy ngày. Thì ra anh Tư Luân lên Tam Lý uống thuốc bắc chữa khớp, tôi đề gửi cho anh nên thư chạy vòng mất, anh về thăm xã mới đưa tận tay cho Mẫn.
Ôi chao, chị Tám nạt em một trận hết hồn! Chị kêu chưa thấy đứa nào tệ như em, nói yêu anh mà thơ không ra thơ, người chẳng thấy người, anh có sao thì tội về em hết. Em nghe chị trách mà đứt ruột anh ơi, bụng em đâu đen bạc vậy. Đưa anh đi rồi em chống càn mà nhớ anh không nuốt nổi miếng cơm, tới khi Út Hoà về nói anh không nguy thì em mới như người sống lại. Việc búi quá mà em dốt nát, viết thơ xong thấy lạt lẽo quá em lại xé đốt, cứ lần lữa tính lên thăm anh mới tỏ hết nỗi lòng, dè đâu mắc lỗi với anh quá thể, thôi anh thương phần nào em nhờ phần nấy, lỡ rồi, em chỉ còn chịu lỗi với người yêu quý nhứt của đời em…
Đọc lần nữa, tôi nhận thấy thư Mẫn đoạn đầu và đoạn cuối viết bằng bút bi, khúc giữa bút máy. Đâu đến bảy tám lần nét chữ bỗng đậm hẳn lên, có khi giữa câu. Mẫn viết từng khúc như ghi nhật ký, giữa những đợt pháo cực nhanh thình lình nổ toé bên mình, và đố biết bao nhiêu chục người đã đâm bổ tới với tin hoả tốc hay một việc không tên nào đó, ngắt quãng những phút Mẫn dành cho tôi. Một trang giấy dính bùn lau chưa hết, chắc bom hắt qua miệng hầm…
Tôi tắt đèn, vẫn ngồi chống cùi trên bàn, hai tay ép là thư vào trán, buông mình vào cái yên tĩnh mênh mông đang toả khắp chung quanh và ngấm vào người tôi từng chút một.
Sáng ra, tôi bàn với Hảo khi cậu khám bệnh:
- Tao đỡ rồi. Cho tao nằm chung với anh em bị nhẹ nghen.
- Nhà thừa lu bù, mày ở đây giữ cái câu lạc bộ Đà Nẵng, tụi mình đấu hót cho vui. Chẳng ai so bì với đồng chí trọng thương đâu.
- Một mình một cõi, vắng quá…
Tôi biết mình chưa ra viện được. Chẳng nên sồn sồn đòi về đơn vị để rồi làm phiền anh em cõng gạo cho ăn, mang giúp ba lô khi đi đường, có lúc phải khiêng cả người, bỏ thương vương tội. Nhưng tôi cần nhích dần tới mặt trận, thở cái không khí cay nồng mà anh em mang từ tuyến lửa về như cây bị rợp cần ngoi ra nắng, tự kiếm lấy màu xanh diệp lục để lớn lên.
Cuộc chiến đấu trên giường bệnh có mặt nguy hiểm riêng của nó.
Bị buộc phải hầu hạ cái thân xác quá lâu, tôi đã thắng các vết thương nhưng lại mắc một cái gì nữa na ná như tác dụng ngược của thuốc. Cảnh sống nhàn rỗi no đủ làm nhão bắp thịt; sự chiều chuộng của chung quanh và những “tính toán giùm” của Hảo gợi cho tôi nhiều đòi hỏi, so bì mà trước đây tôi không có. Tôi vẫn cưỡng lại chúng, không buông xuôi hẳn, nhưng sức chống đỡ ấy yếu và lộn xộn. Cặp mắt đã kéo màng ích kỷ, còn mỏng nhưng cũng đủ làm cho mọi thứ nhoà đi, lộn lạo, có khi đảo ngược. Rất may, tôi mới bị vài cơn quáng gà thôi, chưa nặng…
Độp một cái, bệnh xá được lệnh dời gấp. Máy bay Mỹ sắp đánh phá vùng này, chúng không để sót một góc ấm nào cả trên đất miền Nam.
Chú thích:
(1) Mời ngài xơi
- Cảm ơn
(2) Tạm biệt
(3) Tiếng thét xung trận của người Anh điêng, tức da đỏ (Whoppel)
(4) Gọi tắt và thân tên Risớt
(5) Herriet Tubman, đàn bà da đen và John Brown, đàn ông da trắng, đều nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh giải phóng nô lệ da đen ở Mỹ.
(6) Miến
Chương 24
Phản lực đánh mỏ vàng Bông Miêu suốt năm ngày đêm qua.
Cứ con mắt nhà binh mà nhìn thì Bông Miêu phải là chỗ đầy nhóc Việt cộng: một khu mỏ lớn nằm sâu trong “vùng đỏ”, sát núi, nhiều hầm lò ngóc ngách rất tiện tránh bom. Ảnh chụp từ máy bay cho thấy đường ô tô ra vào còn nguyên, nhiều nhà gạch nhô mái giữa cây rậm. Các bản “không đồ” chụp bằng tia cực đỏ đã ghi được nhiều chỗ tập trung kim loại dưới vòm lá kín. Hẳn Vi-xi đóng ở đây hàng sư đoàn, đặt các kho súng đạn, có thể đang đào quặng nấu vàng làm giầu nữa. Đáng ném mấy ngàn tấn chất nổ lắm!
Mỗi tờ mờ sáng, cặp tàu rà vè vè bay lên, hứng ánh mặt trời dưới cánh đỏ lòm như bết máu, tìm dấu mới, đợi tốp cường kích đầu tiên ào tới mới thổi rốc-két khói. Tụi trâu điên đổi ca nhau rất đều, không nghỉ trưa, gặp mưa to cũng thả bom áng chừng qua mây. Đêm, những chiếc C.47 hay C.130 cõng ra-đa quần chậm như diều giấy, đốt chớp ma-nhê-di chụp ảnh pình pình, từng lúc thả một loạt đèn dù cho phản lực đánh cầu may. Cái thung lũng hẹp đã loét đỏ và sạm đen gần hết, chúng vẫn làm tới nữa vì Việt cộng có những hoạt động khó hiểu cứ tăng dần. Sẩm tối ngày đầu, giữa lúc ít ngờ nhất, hàng chục súng máy từ mặt đất đã gần đen kịt chợt bắn lên như vòi phun, hạ tức khắc một F.4 và một C.47. Qua suốt đêm treo đèn, sáng sau tốp UH.1B câu về hai bộ xương sắt đã mất hết những bộ phận nào có thể tháo được. Rồi lại có những đống lửa do người đốt bỏ lại, một túp lều từ lòng đất mọc lên như trong thần thoại, đôi cái áo trắng phơi ngay bên miệng phễu. Tức chịu hết nổi! Tất cả số máy bay và bom dành cho vùng mới mất, tụi Mỹ tống cả vào Bông Miêu, chỉ đôi lần đánh lẻ dọc đường ô-tô lên Trà Mi, bắn nhà thờ An Lâu gãy đầu tượng Đức Mẹ, đuổi theo bầy trâu nhảy loạn ở Phước Hiệp.
Anh Ba Tơ với chú Dé đã đem cho tôi xem số giấy tờ lấy được trên ba cái xác Mỹ chưa bị cháy, hẹn gò làm quà một ăng-gô loại bảnh bằng vỏ đu-ra. Chính xê mình quật hai chiếc hôm nọ. Bây giờ đang bận học, giao cho xê khác đến khu mỏ vàng bỏ hoang mà tập bắn cho đã thèm.
Tiểu đoàn tôi về cách bệnh xá mươi cây số, sắp đánh lớn. Anh Ba Tơ đi chuẩn bị trận mới. Anh rỉ tai làm tôi ngừng thở: “Hiệp Đức, Quế Sơn, dọn sạch hai quận một lần!”. Cha mẹ ơi, vậy mà tôi phải nằm đây đến thối lưng!
Thấy tôi bồn chồn quá, anh Ba nán lại với tôi một buổi để nói thật kỹ kinh nghiệm trận núi Sàm. Ở Tam Sa anh giục tôi về xê mình gấp, bây giờ anh dỗ tôi cứ chữa bệnh thật lành, “ở nhà” mọi việc toàn màu hồng cả. Anh tô hồng vụng nhưng tôi giả vờ tin cho anh vui, và không tin cũng chẳng ra viện được ngay. Chú Dé vừa được thêm một huân chương sau núi Sàm – chuỗi bộc phá ngon lành nổ từ hàng rào thứ nhất đến lô-cốt đầu cầu là do chú đánh - cứ lắc đầu quầy quậy:
- Cái bụng anh Thiêm xấu. Anh Thiêm làm cái bụng tốt tốt, về xê mình.
Đã bắt tay ra đi, anh Ba Tơ còn quay lại, rút đưa cho tôi một tập giấy in rô-nê-ô khá dày, ngập ngừng:
- Chắc thằng Giai cự tao… thôi, mày cứ giữ mà đọc kỹ, hồi nào trung đoàn cho người tới lấy thì đưa, đừng gởi giao liên. Mày nói cũng phải. Tụi mình không sợ địch mà sợ dốt, sợ phụ lòng anh em tin cậy. Rán học cho nó khuây nghen Thiêm.
Đó là ba bản kinh nghiệm rất quý. Một về bắn máy bay Mỹ, một về chống cơ giới và các binh khí kỹ thuật mới của Mỹ, hai xấp này chỉ đóng dấu mật. Hẳn cánh cán bộ đại đội rất dễ “cầm lầm” của nhau món này, chong đèn chép tay vội vàng trong vài đêm, khi trả thì đưa ngực chịu đấm mà trừ. Tập thứ ba là một bản báo cáo tối mật về quân đội Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, kèm theo những kinh nghiệm chống Mỹ đầu tiên và một loạt gợi ý cho cán bộ tự nghiên cứu thêm. Chủ biên là anh Điển, trong nhóm biên soạn tám người có cả tên tôi, chao, ông thầy cũ chu đáo lắm. Bản này đánh số 09, cái phiếu mượn tài liệu kẹp trên đầu cho biết anh Ba Tơ chỉ được giữ nó đến ngày mai. Ngót trăm trang mà cho mượn có năm ngày, hẳn là của hiếm, anh cứ giúi bừa cho tôi, thật tội.
Tôi đang ngốn vội như học trò sắp thi, anh Giai cho một cậu cầm thư đến, đồng ý để tôi giữ luôn cả ba bản. Riêng cái báo cáo tối mật, anh Điển có gửi phần tôi một bản riêng, trung đoàn sẽ lấy nó mà dùng. Anh Giai còn gửi biếu tôi một hộp đựng tài liệu mật bằng sắt tây, chứa sẵn một lạng thuốc nổ, khi lôi thôi sẽ giật nụ xòe và ném cho tan hết. Kỷ luật bảo mật ngày càng nghiêm. Có ông bảo vệ đã doạ tôi: “Chết mà mất tài liệu thì tao viết giấy cảnh cáo bỏ vào hòm mày, thương tiếc để sau!”.
Sáng nay, tôi treo võng giữa hai gốc cau, gần miệng hầm, nằm ngửa tập bắn máy bay. Vòng quần của tụi phản lực phá Bông Miêu mở đến tận cái xóm nghèo và thưa thớt này.
Khó tin tiếng rống nhức tai từ hẻm núi dội lên chính là do mấy con chim nhôm ấy phát ra. Tôi nhớ những chiều xê mình làm cỏ rẫy trên sườn núi, cả trăm người bỗng nổi hét ầm ầm khi một bầy vẹt thả xuôi cánh nhọn chực đáp xuống ăn bắp già, chúng hốt hoảng lao qua vòng vây tiếng dữ, bay trốn, và chúng tôi cười thả cửa. Hình như lúc này đất mình đang quát đuổi máy bay mới phải… Tôi nhắm mắt, mở ra, chộp ngay chiếc phản lực đang phóng tới, nhận thật nhanh nó là kiểu gì, bay bao nhiêu mét giây, độ cao, chiều dài của thân và sải cánh, tính gấp khoảng ngắm đón, hô thầm một lệnh bắn. Đơn giản và thú vị nhất là “ngắm giữa đầu, bắn!”, nhưng đâu phải lúc nào cũng được ăn ngon như vậy.
Đây nhé… Ép một trăm, hai trăm năm mươi mét giây, cao ba trăm, đòn mười bốn thân.. Chậm quá. Nó qua khỏi vật chuẩn, chúc đầu về phía mỏ, ụp-ùm. Đằng xa tiếng rốc-két vẳng lại. Tôi bực như vừa nổ súng vuốt đuôi, liếc xem lại tập giấy. Thuộc đấy mà chưa nhuyễn. Có thể bắn chiếc thứ hai hay vòng quần thứ hai, nhưng đường bay đã khác, chỗ núp lộ, bom sẽ rơi từ rất cao xuống trận địa ta. Ước sao tôi không bao giờ phải nghe tiếng “hừ” bực dọc của anh em xê mình sau khi bắt hụt, đọc trong mắt của các đồng chí bị thương một lời trách thầm lặng, ngậm miệng nghe bình cán bộ: “Anh Thiêm đánh gan, hoà mình được với anh em, có điều chỉ huy còn non…”
Tôi bắn nhẩm một loạt nữa, đỡ chậm, nhưng chưa trúng.
Có phải vì ba tôi khi xưa đã tát bốp vào mặt tôi khi khám cái bu-gi mà tôi vừa đánh sạch, thấy khe hở giữa hai điện cực bị rộng thêm một phần mười ly? Hay vì tôi nín thở cân đúng nửa gam brô-mua, lấc láo dòm từ cây kim đồng hồ đến cái nhiệt kế to chỉ từng phần tư độ trong khi tráng phim màu? Hay vì tôi quý anh em lắm, nên khi cần đổ mười giọt máu thì quyết không chịu đổ tới mười một? Dù sao, trong nếp suy nghĩ của tôi vẫn đầy những lo toan kiểu ấy, tôi cố tìm một sự tối ưu mà đôi người thấy là máy móc. Khi cần liều sẽ hay…
Yến bật cười bên tôi:
- Cúng ai mà khấn hoài vây, anh Thiêm?
Tôi quay lại, cười theo:
- À … Cúng ông Địa, xin ổng một miếng bụng đắp vô.
Từ nãy Yến lúi húi moi giúp tôi cái hầm cũ cho rông thêm, cần ngủ dưới ấy tôi cũng đỡ co đôi chân dài. Đi đò với ngủ hầm, cứ muốn chân tay có ốc tai hồng để tháo bớt ra cho đỡ cấn. Yến xúc từng xẻng đất hắt lên nắp, khá vụng, đất rơi xuống khăn trùm đầu từng vốc, hai bàn tay Yến xỏ trong túi vải thay găng.
- Anh đào bao nhiêu hầm mới hết đau tay, anh Thiêm?
- Chín mười tuổi tôi đã cuốc đất khoai.
- Dóc tướng!
- Thiệt. Hồi nào đỡ, tôi đi cày Yến coi.
- Cày đường nhựa trước Thiên thai ảnh viện…
Tôi thích chụp cho Yến một tấm ảnh màu giữa lúc này. Màu hoà hợp rất đẹp nhé. Râm bụt xanh có hoa đỏ, thân cau trắng, áo cỏ úa dính từng mảng đất nâu non, mặt hồng dưới khăn dù hoa. Trong ba lô của Yến có cái áo dài quần trắng giấu kỹ, nhưng tôi đã chụp quá nhiều giai nhân trong buồng khuê, xin đủ thôi. Còn các cô “đầm lô-can” mặc váy mini phơi đùi xoài tượng khảm xà cừ, áo hở nách bày cánh tay giống cửa tiệm đồng hồ, thì tôi ngấy đến trăm tuổi già chưa hết ngấy.
Câu lạc bộ Đã Nẵng từ căn buồng trang nhã dời về một nhà tranh nhỏ rất ấm tình người. Bà mẹ với cô em nhận nuôi anh thương binh nào bị năng nhất, thương tôi như người nhà. Cái thời rảnh rỗi ở Cẩm Tú đã dứt, anh chị em nhân viên phải đào hầm, cõng gạo xa, cuốc ruộng cấy lúa tự túc theo lệnh mới. Hảo với Yến vất vả hơn nhưng thân nhau hơn, Hảo ngừng chơi nước thượng và Yến không lạnh mặt nữa. Cái tình bạn bộ ba của chúng tôi coi bộ sống lâu, còn cậu Hưỡn chỉ gần tôi mà tránh nhập bọn với “các anh chị học cao”, tôi dỗ không chuyển. Phần tôi, sau hai đêm vịn cậu Hưỡn lê được mười ba cây số, đã bắt đầu tập mang ba lô đi bộ. Mức cao nhất tới nay là hai cây số với năm cân trên lưng, nịt súng đạn vẫn phải khoác vai chứ chưa thắt bụng.
Nắng đã lên cao. Tôi cuốn võng vào nhà nằm đọc cho đỡ chói mắt.
Tụi phản lực hôm nay cố đánh nát con đường ô tô từ mỏ chạy ra, sạt qua xóm thấp hơn. Hồi nhỏ xíu tôi đã nghe những tiếng hệt vậy. Tôi theo ba tôi vào chỗ sửa xe của hãng STACA, chơi tha thẩn rồi chui vào xó ga ra ngủ thiu thiu, trong tai vẫn ồn tiếng những thùng phuy rỗng lăn từ xe tải xuống theo cai cầu nghiêng, thúc mạnh vào thùng khác. Thằng cai Tây bắt gặp, đá vào hông đuổi tôi ra ngoài, phạt ba tôi một ngày lương…
- Anh Thiêm!
Tôi chưa kịp quay lại, đã biết Mẫn đến.
*
Đồng chí an ninh thôn thấy cần phân bua rất dài:
- Là tại chỉ chớ. Đang khi tàu bay bắn gần, chỉ đi tìm bệnh xá, tôi liếc xéo thấy cái gì như súng lục dưới áo, nghi liền. Coi giấy, chẳng được chữ nào là bệnh xá hết. Tôi nói không có đâu, chỉ cứ nói có. Tôi hỏi quen ai ở đó, chỉ nói bạn anh Thiêm thương binh. Tôi lắc: bạn không được, cha mẹ vợ con mới được, cơ quan cấm vô tràn lan, lộ điểm. Chỉ nói là em gái. Em, sao mặt mũi không giống, phỉnh tôi được à? Chị lại nói là vợ anh. Cha, cũng một người mà cả vợ, cả em cả bạn, chắc điệp rồi. Tôi vặn: chánh hiệu tôi là bạn anh Thiêm đây, tôi biết ảnh chưa có vợ, đừng nhận ba láp. Chỉ đứng khờ ra, cười ngỏn ngoẻn. Tôi hô du kích bắt. Chỉ cười, tháo súng đưa, còn dặn đừng táy máy nổ bậy. Giải về nhận mặt thử coi…
Mẫn đứng bên cửa ngó tôi, mắt long lanh, má đỏ ửng. Tôi ngây người nhìn Mẫn, quên cả mở miệng. Cậu an ninh chợt nghi lần nữa:
- Ủa, vợ sao anh không biết mặt?
Tôi bật cười ồ, đứng dậy:
- Đúng vợ tôi chớ. Vợ sắp cưới. Ông cứ yên chí lớn.
- Chẳng tin anh thì tin ai, có điều… tên gì anh nói thử?
- Mẫn. Phan Thị Mẫn. Thôi, xin cây súng.
Tôi đón cái nịt nhỏ đeo cây sung ngắn 7 ly 65 với hai cái băng ngoài, đón luôn bao lưng và mũ tai bèo của Mẫn. Cậu an ninh gật gù quay ra, còn kể bô bô câu chuyện bắt vợ anh Thiêm ngoài sân, thêm một lần ngoài ngõ. Lập tức bà con trong xóm và anh chị em trong bệnh xá kéo tới chơi, coi chị Thiêm ra sao mà đến cách ly kỳ vậy.
Chúng tôi chưa kịp nói với nhau câu nào đã tiếp khách ngay như một đôi tân hôn. Cũng rót nước, mời ngồi, trả lời một trăm câu hỏi săn đón. Mẫn rụt rè hơn cô cán bộ một tí, rất vừa. Tiếp tới bà mẹ và cô em đi cấy về, Mẫn xuống bếp nấu cơm, bà mẹ đuổi hai chị em đi tắm giặt với nhau để mẹ lo hết.
Hơn ba giờ sau nhà mới vắng hẳn. Hai đứa ngồi đối mặt nhau hai bên cái bàn như hội đàm, khay nước đặt ở giữa, rất ngoan. Mẫn trách ngay:
- Gớm, con mắt…
- Sao?
- Đông khách mà anh ngó em chằm chặp, mắc cỡ khiếp. Em tưởng mặt em dính đất hay lọ nồi, phải lén đi rửa.
- Tại anh nhớ quá. Không nói được, anh phải ngó thôi.
Mẫn từ từ cúi đầu, tay vo cái khăn, giọng rất buồn:
- Em sợ…
- Sợ gì?
- Đi dọc đường, em đoán chắc anh giận, có khi anh chẳng thèm hỏi tới. Trăm dâu đổ đầu tằm, em chịu trái với anh hết…
Suốt đời cô Hai này chỉ biết nghĩ tới người khác thôi ư? Bên cạnh cái gánh công tác trĩu vai, Mẫn phải lo cho cha mẹ, các em, con nuôi nay đèo thêm mối lo người yêu chưa được săn sóc, sao Mẫn không tính tới mình một chút cho công bằng? Cái nếp vận cả vào thân ấy chưa dễ gì thay đổi. Hãy làm cho Mẫn tươi chút đã… Tôi nghiêng người tới trước:
- Anh hôn em nghen.
- Úi, người ta thấy!
- Vậy em cười một cái thiệt vui cho anh coi, trừ nợ… Hôn đây nè, cười không?
Mẫn lau mắt, cười gượng, nấc nhẹ trong cổ, lại cười rất xinh, cười dài:
- Chết với anh mất. Đêm em nằm cứ nhớ bao lần anh giỡn, em cười rúc rích, con Hoà kêu: “Chị Hai, mơ gì vậy?”. Em phải nói chiêm bao thấy cái gì vui lắm, quên rồi. Tới hôm được ba lá thơ anh, em coi rồi cứ bắt hát một mình hoài, mừng quá mà.
- Vợ lính thăm chồng, cho cái gì chưa thấy bày ra?
Mẫn “à” một tiếng, tung tăng đi mở cái bao xi-ta trên giường. Hạnh phúc của Mẫn đấy, cái hạnh phúc được đem cho. Áo bà ba của Mẫn vá đắp một miếng trên vai phải, dây các-bin nhai áo rất khoẻ. Quà cả đống, lấy ra xong cái bao chỉ còn bằng cái túi dết. Chuối khô, mít khô ngào đường, chè nhỏ, sữa bột, đường, cá ngừ chà bông, chao ôi, mỗi người gửi một ít, của ngon làng Cá kéo lên đây hết còn gì!
Từ nãy tôi đã thấy Mẫn đổi khác nhiều, mặt và người đầy đặn hơn, da trắng hơn. Tại sao nhỉ? Tôi bưới tới gần, Mẫn hơi né người một chút.
- Ông tướng, đừng ẩu nghen. Bà con cười em chớ đâu có cười anh.
- Sao coi bộ em lên cân…
- Em quên chưa kể, em lên tỉnh học nửa tháng, mang các thứ theo mà không kịp ghé bệnh xá. Càng học càng mê, dốt khổ lắm anh ơi. Tỉnh nuôi sang ghê, nói cái gì quý nhứt phải dành cho vành đai, bắt em tiêm thuốc lu bù nữa. Chín rưỡi tối chưa ngủ thì y tá thổi đèn, kỳ không vậy, làm gì chẳng mập! Khi về em nói đi thăm anh, các anh chị trong Đảng uỷ ưng hết, chị Tám Giàu biểu em ở lại thiệt lâu, chưa hết Mỹ đâu mà sợ mất phần. Chị còn dặn… thôi, để sau sau đã. Em ở đây với anh… ba ngày được không?
- Ồ!
Tôi thú quá. Mẫn tưởng tôi chê ít, năn nỉ:
- Anh nghĩ giùm, bây giờ em phải nắm du kích mười hai xã, ngợp quá, chưa biết cạy gỡ ra sao cho thấu..
Chị Tám với Mẫn được chỉ định vào Đảng uỷ khu vành đai diệt Mỹ Chu Lai mới lập. So với hồi làm bí thư xã thì đỡ búi việc hơn, các anh chị nói Mẫn là em gái út phải cho học nhiều. Khu này ngang huyện. Đồng chí huyện uỷ trẻ thật, càng trẻ măng ra sau nửa tháng được ngủ đẫy giấc, hồi ở Tam Sa tôi chưa bao giờ thấy Mẫn được ngủ đến bốn tiếng mỗi đêm ngày, có khi thức trắng băng đi cả tuần. Tôi bước tới nữa. Mẫn nép hẳn vào cột, rất hoảng:
- Kìa, đừng có điên điên…
- Không đâu, anh thấy em lạ lắm…
Mẫn ngạc nhiên, buông các gói quà đang tháo xem bị mốc hay không, quay lại. Lạ thật. Mẫn có đôi mắt đàn ông, bây giờ thêm đôi má phính tròn như trẻ em, cặp môi bậu và đỏ tươi rất con gái. Ba giới trên một khuôn mặt, sao đến giờ tôi mới nhận ra?
Chắc hẳn Mẫn quen với mặt mình, ít ngắm vuốt, không để ý đến những nét riêng ấy. Đứng trước tôi, Mẫn chỉ hiểu rằng mình đang được yêu. Một người con trai yêu Mẫn, còn nồng nàn gấp mấy cái độ Mẫn chờ đợi bấy nay. Tình yêu ấy tưởng chỉ còn trong câu hát đêm trăng thôi chứ, ngoài đời cũng có thật ư… Hơi men mạnh quá. Mẫn say. Mẫn đứng dựa cột, hai tay vịn vào phên như choáng váng sắp ngã, mỉm nửa miệng cười chung chung, mặt ngời lên vầng sáng hồng bên trong mà tôi hay thấy. Chúng tôi ngắm nhau đắm đuối, rất lâu. Rồi Mẫn chép miệng một cái, đi ra sân, ngó quanh, thoăn thoắt quay vào, sà luôn vào tay tôi:
- Tội nghiệp… anh hôn em đi.
Bầy phản lực vòng qua gần hơn. Dưới gầm cầu sắt có xe lửa chạy qua không ngớt, tôi hôn Mẫn cái hôn cháy rực có mùi mít chín của làng Cá. Bàn tay Mẫn vuốt má tôi rất nhám. Lại cuốc ruộng đêm mãi. Tôi hôn những vết chai trong lòng bàn tay mềm. Rốc-két rít lên tiếng nghiến răng trên đầu.
*
Tôi sống hẳn với khu vành đai ba ngày, bên Mẫn. Mặt trời lặng lẽ đi vội từ biển về núi, còn các bữa cơm và giờ làm thuốc cứ đến lia lịa không để cho chúng tôi yên thân. Yên nghĩa là chuyện trò với nhau, chứ không phải ngồi một chỗ.
Sáng ra Mẫn thu quần áo chăn chiếu của thương binh đi giặt, về lại xắt chuối cho heo, nấu cám, quét dọn, nấu cơm trưa, đi hái rau chiều giúp chị nuôi, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy chào tôi sang ngủ chung với Thu Yến. Ban đầu tôi cũng như mọi người can Mẫn đừng làm, nhưng thôi ngay sau khi Mẫn nhắc khẽ: “Anh đi với em”. Tôi biến thành cái bóng của Mẫn rất “hợp pháp”. Mẫn hỏi to: “Giặt chiếu chỗ nào, anh?”, tôi khoác nịt súng vào vai đưa Mẫn ra tận con suối đá dưới chân đồi, bà mẹ biết tôi sẽ về chậm vì chưa đi được nhanh. Vào bếp, hai tay Mẫn vừa buông dầm lại cầm chèo, tôi ngồi trên cái võng gai nghe chuyện, ai thấy cũng khen chị Thiêm chăm làm và anh Thiêm quý vợ.
Mẫn thạo việc đến nỗi không cần nhìn xuống tay mà cái gì cũng xong gọn trơn. Lên ba đã bắt đầu giữ em, lên sáu biết “nồi cơm bắc xuống, nồi chè bắc lên”, thêm vài tuổi nữa đã lo liệu “ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau”. Hồi ở làng Cá, phải qua nhiều ngày gần nhau tôi mới tin rằng Mẫn có thể vừa đạp chè hay vá áo vừa bàn kỹ một kế hoạch tác chiến. Tôi thì chịu, làm gì cũng hùng hục chúi mũi vào một việc thôi. Đông Tây kim cổ, các cô gái luôn luôn được ví như hoa chứ không ai so sánh với rau. Tôi rất thú khi biết bông bạc có thể luộc ăn được. Mẫn đấy, bông hoa nuôi sống người.
- Tiếng Mỹ, gì là bỏ súng xuống, em quên…
- Gân-đao-n!
- Đằng sau quay?
- Phây-xơ-pao, tơ-n! Em học nhiều chưa?
- Mới mươi tiếng. Tức cười, bữa đánh núi Sàm, bắt được hai Mỹ, các ảnh giao thằng Tâm nhà em giải về huyện đội. Nó trói cả hai cho đi trước, nó đằng sau cầm lái, biết được có gâu là đi. Tới chỗ rẽ, nó kêu miết mà thằng Mĩ cứ trật đường, nó nổi vung chạy lên hét: “Mẹ cố tổ mày, tao biểu gâu bên tay mặt, mày cứ gâu tầm bậy là sao?” Sau nó tháo dây võng cột chằng hai đứa, dắt đi như cặp trâu.
Tôi cười đau bụng. Mẫn học nhẩm mấy từ mới, kêu thứ tiếng gì nói trẹo bản họng rồi ngừng tay xắt chuối cây trầm ngâm:
- Dỗ miết mà đám con gái nhất định không chịu bắt tù binh Mỹ. Biết ta cần thứ đó, vậy chớ chị em nhỏ con sức yếu, sợ nó đánh nhào giựt súng, sợ nó giải khó nuôi, mà cũng thù nó hiếp nữa. Để em tự bắt một thằng đem về cho chị em tin.
Mẫn nói như sắp tóm con heo sẩy chuồng. Mới hỏi vài lần, tối đến Mẫn đã thuộc lòng hơn chục khẩu lệnh, giọng khá đúng. Kiểu đó chắc Mẫn làm y như lời, hay hơn thế nữa.
- Anh biết chưa, nắm đầu được cái thằng điệp hại vợ chồng chị Biền rồi. Thằng Hờ, Mười Hờ, nhớ không? Anh nạt nó một lần đó!
Tôi “à” khoan khoái.
Nhớ chứ. Mặt hắn đen choắt, tóc gọng kính ngoặc tai. Xưa nhà hắn giàu sụ, hắn thua bạc mấy năm bán ruộng lần lần cho xã Chinh hết, xoay qua nghề mổ heo. Hắn chạy xuống vùng địch ở ít lâu lại về, kêu sợ bom đạn không bằng sợ đói. Hôm nhà bà Miện trúng pháo chết mất đứa con trai và con trâu mộng, tôi đến giúp chôn cất, gặp hắn quảy tới đôi rổ sảo, dao thớt, hòn đá mài dẹt. Bà Miện đang khóc con bên cái nhà bay nửa mái, hắn ngồi xuống tỉ tê: “Chỗ chòm xóm gặp hồi tang ma, tôi chẳng có gì giúp đỡ, chạy được ngàn bạc đây, bà cầm mà lo đám cho thằng nhỏ, tội nghiệp. Còn con trâu chết bỏ cũng uổng, bà để tôi xẻ, chắc gì được đủ một ngàn, thôi của đổ đi tôi cũng rán hốt về…”. Tôi nóng mũi lắm rồi, còn cố nén để tìm Năm Ri hỏi lại. Con trâu tám chín ngàn bạc, mổ ra bổ rẻ cũng được năm ngàn, hắn đưa một ngàn, bán chịu tới mùa lấy lúa, thu được không phải chỉ gấp năm! Tôi quay lại thì bà Miện đã cầm tiền, vẫn khóc nức nở. Mười Hờ đang trải lá chuối trên nong, nói oang oang: “Lúa mùa hay lúa chừ(1) cũng được, tiền thì không, xin thưa trước vậy cho khỏi mất công xách lên thả xuống!”. Tôi muốn đấm vào mặt hắn, sau chỉ xạc một trận. Anh em du kích kéo tới xẻ giúp, thu tiền và lúa cho bà Miện gần đủ giá vốn.
Hắn làm điệp theo lối buôn chuyến, được món nào lãnh thưởng món ấy. Nhà hắn sát sau nhà chị Biền. Hằn rình nghe được câu chuyện chị Biền rỉ tai khuyên chồng xuống ở vùng cát, anh chồng bị đánh nhiều đâm nặng tai, lại nhất định đòi biết ngay, biết kỹ mới chịu rời làng.
Tam Sa lúc này tạm coi như tẩy sạch giun sán, nhưng thứ đó sẽ sinh thêm. Triều đại cha con xã Chinh đã dứt, bọn quận cử về thằng Huề làm đại diện kiêm cảnh sát trưởng, tên này vừa gửi thư thăm ủy ban Tam Sa vừa lo tìm vây cánh, để coi ra sao.
- Em trả lời nó rồi. Đổi nghề khác được ăn cơm chín, làm nghề này thì cơm cúng chẳng có mà ngửi hơi. Hung sùng như Chinh cha Chinh con cũng nhào đầu hết, bộ tướng thằng Huề như cò ma rúc xó đồn Mỹ, liệu hứng nổi mấy viên? Cứ tưởng nói tiếng Mỹ róc róc là thoát chết à?
Mẫn chửi một câu thật độc. Nói như xem thằng Huề bằng rác, nhưng rõ ràng Mẫn rất chú ý đến tên tề này.
Cuộc sống vành đai là vậy. Cái mới cứ đến từng giờ, bà con quen ngay với pháo cực nhanh và đạn lân tinh, với điệp viên của CiA và tề học trường Mỹ ra. Rời vành đai hai tháng rồi, tôi về đấy sẽ lạc đường lầm ngõ, nói toàn chuyện đời xưa, gặp đồng chí xã đội lại hỏi thăm “em vô du kích chưa?”. Giữa lòng những biến động nhanh đến chóng mặt ấy, cái lõi không đổi mà chỉ lớn lên vẫn là chất anh hùng trong mỗi con người. Những giọt sương đọng rải đây đó trên đá trên cỏ, trong đêm chỉ biết có mình, khi nắng lên đều mang giữa lòng một mặt trời đỏ như ngực người đeo huy hiệu Bác Hồ. Chúng mình nhận ra nhau và yêu nhau ngay cũng nhờ chấm lửa ấy trước hết, em nhỉ?
Chiều ngày cuối cùng Mẫn ở, anh Lẫm bệnh xá trưởng mới về. Anh có mái tóc đốm bạc, cách nói lựa chữ, những câu vui hơi ồn ào của người trí thức đứng tuổi muốn trẻ lại và gần anh em. Anh vừa học chung lớp với Mẫn, rất thú cô tổ trưởng nhỏ hơn con gái đầu lòng của anh. Tỉnh giữ anh lại bàn rút người đi lập một trạm phẫu tiền phương cho Chu Lai. Gặp Mẫn, anh mừng muốn reo:
- Trời đất, tôi tiếc hoài! Muốn nhờ chị về bệnh xá nói chuyện, thấy chị bận quá, không dám. Cái báo cáo điển hình của chị tôi ghi đủ hết, tính về kể lại, may có chị tới đây, xin một buổi thôi! Chị nắm lý lịch số anh em xin đi vành đai, hay là…
- Dạ không, cháu ở khu đội mà.
- Hà hà, tôi biết, các vị ở Chu Lai lựa kỹ là phải. Thăm dò ngay tại chỗ mới chắc. Tôi khuyên chị nhắm được ai cứ lấy luôn cho sớm.
Mẫn luống cuống rõ. Tôi đáp thay:
- Thăm người thôi, chưa muốn lấy người đâu anh ơi.
- Lấy ngay càng tốt chớ sao?
- Chị ta kêu chưa xứng đáng… Mặt trời mọc trong nhà, coi kìa… Úi, thương binh đang bị chà đạp giày xéo!
Mẫn vừa ấn mũi dép trên chân tôi, lủi biến. Anh Lẫm ngớ ra. Khi biết chuyện, anh vỗ đùi cười phá, nói tiếng Pháp:
- Tuyệt, trong lòng bản anh hùng ca có thêm một tình ca. Chúc mừng anh nhé!
Anh bàn với hai chúng tôi một điều khó xử.
Trên định tách năm người lập trạm phẫu. Bảy đồng chí đã nộp đơn xin ra tuyến lửa, trong đó có Thu Yến rất thiết tha đòi đi. Còn thiếu một bác sĩ. Tay nghề mổ xẻ của Duy Hảo hơi non nhưng rất quý ở một vùng ác liệt. Hảo được thực tập nhiều, sẽ mau lành nghề. Nhưng Hảo tỏ ý không muốn đến chỗ khó. “Bác sĩ chớ đâu phải nghề bảy đáp(2) mà mổ cho mau cho nhiều. Tôi cần thì giờ để nghiên cứu mấy vấn đề về các vết thương chiến tranh…”. Hảo nói lơ lửng vậy, không thấy nghiên cứu cái gì, lâu nay chỉ gặp những vết thương một hai ngày khiêng đi đường… Tôi là bạn Hảo, nếu có thể khuyên Hảo một chút thì hay. Mẫn kể chuyện vành đai sẽ giúp anh chị em nghĩ thêm.
Anh Lẫm bóp trán mãi mới tìm ra chữ đúng:
- Anh chị đừng hiểu lầm Hảo. Cậu ta bây giờ vẫn tốt, tốt trung bình, vừa phải. Trong ca anh Thiêm, cậu rất chịu khó. Nếu không đi Chu Lai, Hảo vẫn là một cán bộ có ích, không nên trách. Nhưng…
Anh nhảy sang tiếng Pháp, và tôi dịch cho Mẫn: “Trong cuộc sống, có cái tốt, cái tốt hơn, cái tốt nhất. Tinh tế là ở chỗ đó”
Chúng tôi nhận lời, cả hai, tuy đêm nay Mẫn định “giúp anh Thiêm tập đi” để ra suối ngắm trăng non với nhau.
“Chiến dịch không quân” đã dứt. Đèn măng sông cháy ri ri, sáng xanh. Mới báo tin khi chiều, cán bộ và du kích đã tới hai trăm, bà con kéo vào đình đông nghịt. Xã này đang bốc mạnh tuy vừa mới được giải phóng cùng một đợt với làng Cẩm Tú Khoảng sáu trăm người ngồi nghe chị Thiêm kể chuyện vành đai. Cùng một huyện Tam Kỳ cả, nhưng đó với đây có bao nhiêu khác lạ.
Tôi đã biết câu chuyện Mẫn kể.
Chỉ có một vốc của dòng thác lớn thôi. Tam Sa hoá thành làng S., làng Cá là thôn Một, tôi được gọi bằng cái tên dài “anh bộ đội chủ lực về giúp địa phương và điều nghiên cái Chu Lai”, còn Mẫn thì biến hẳn trong đám đông không tên. Cuộc sống ầm ào toả ánh cầu vồng dưới kia trở nên trần trụi, nó mất hẳn đi những vui buồn sướng khổ của người trong cuộc. Thế nhưng tại sao mắt người nghe cứ lặng lẽ sáng lên, long lanh ngấn nước, và tôi cũng kín đáo gẩy một giọt bên khoé?
Phải không, Mẫn ơi, em cố giữ giọng thường để tả cái chết của một bà già bị pháo chém trên mái đình lụt - mẹ của em, của đứa trẻ lên hai bị bay từng mảnh- con nuôi em, em đã xốc xới lên nỗi đau dồn sẵn trong mỗi người nghe từ khi biết đời đến nay? Em nhắc lại những keo địch hất ra, ta lăn xả vào, giành chính quyền từng xóm một. Hồi ấy có anh. Chúng mình đã tìm hạnh phúc thế đấy, cả dân tộc ta vật lộn giành sống cũng vậy, loài người đánh lấn đế quốc từng bụi tre một trên làng Cá của em, và bà con đây đang ứa những giọt nước mắt tự hào, đúng chứ?
Những trận “ăn ngon” tới rồi, mắt em lấp láy. Đôi mắt mới hai mươi mốt tuổi mà đã thấy hết một quãng lịch sử lớn nhiều thế kỷ. Em thấy tàu bay và lính Nhật ngay sau khi mới sinh, em xem cha đánh Pháp, em nhằm thẳng vào Mỹ để giết. Qua đôi mắt rất đen còn hay khóc, những ngàn năm trước đang cùng em nhìn giặc Mỹ, cùng làm nên cái tia chớp gan và khôn lạ lùng loé giữa đôi hàng mi dày khi em sắp đánh một đòn chưa ai nghĩ ra. Em ngó anh, định hỏi gì… Hiểu rồi. Em kể hay đấy, bấy nhiêu bà con đang cười giàn giụa vì em… Không cần đâu Mẫn ơi, ai lại thắc mắc vì em tránh nêu tên, chỉ cần nghe em vuốt ve mấy tiếng “anh chủ lực” là anh nhận ra ngay chút hương riêng của tình yêu không lẫn được trong câu chuyện đánh Mỹ đầy khói thuốc nổ đêm nay.
*
- Ác mà đừng liệt, nhớ nghen anh.
- Đồng ý. Nè, dọc đường em coi chừng biệt kích với thám báo. Thử cây súng ngắn bắn ruồi chưa đó?
- Rồi. Em đi, anh…
Chúng tôi bắt tay nhau, cười. Như hai người lính chia đi đánh hai hướng.
Mẫn không quay đầu lại. Thu Yến đưa Mẫn tắt bờ ruộng đến đầu mối đường to, đỡ vòng xa. Tôi đứng bên ngõ trông theo. Từng mảng màu trên người Mẫn chìm dần vào nền xanh sẫm của xóm bên kia, chỉ còn hai bắp chân trắng động đậy, nhỏ dần.
Nhớ đôi mắt là sự thường, sao tôi nhớ mãi cặp chân người yêu? Hôm kia đưa Mẫn đi giặt suối, tôi để ý xem vết đạn cũ. Nó đã lành hẳn, sẹo thu nhỏ và nhợt màu, nhưng trên chân Mẫn lại thêm hơn chục nốt tròn màu đen, tím đỏ của vắt cắn. Hỏi mãi, Mẫn mới thú thực đã theo hai anh trinh sát đi băng rừng gần đồn Phước Lâm, đêm mưa lắm vắt, bùn phủ trơn không gỡ được. Là để thêm một ngày được ở với tôi… Bờ xóm sắp che khuất Mẫn. Hai đốm trắng dừng một phút, Mẫn nhìn lại mà không vẫy, rồi rẽ vào ngõ. Tôi đập nhẹ vào trán, xua một ý dại về những mảnh cối rạch đất khá dài khi bay ngang, mới chớm đã xóc đau trong ngực. Những bông bạc hai cánh đung đưa bám đất chắc lắm, đừng lo gở.
Chừng một giờ sau Yến mới về, mắt sưng đỏ. Tôi đang ngồi thừ ra nhìn xấp tài liệu mà không đọc được chữ nào, bị Yến gắt ngay, rất găng:
- Anh Thiêm tệ kinh!
- …
- Chị Mẫn yêu anh vậy, chị vừa đẹp vừa giỏi, mà anh… anh hất hủi chị…
- Ủa!
- Anh đi được mà không đưa chị. Ra tới khúc đường vắng, chị nổi khóc hu hu làm em khóc theo. Chị gởi cái gói cho anh. Em mở coi thử… Mua cho anh cái tranxittơ mà không dám đưa. Tính gặp anh làm lễ cưới, cũng thôi luôn. Tại anh hết đó!
Yến giẫm chân, bắt tôi thề suốt đời không phụ bạc chị Mẫn rồi mới chịu trao cái túi nhựa. Tôi thề ngay, chưa hiểu gì cả, chỉ biết rằng Mẫn cấm tôi tiễn, ắt không thể giận tôi.
Trong túi có một cái máy thu thanh Cơraonơ nhỏ bằng gói thuốc lá, kèm ống nghe và một tá pin con. Máy đựng trong túi màu xanh da trời thêu ba chữ đỏ “Tiếng người thương” và hai chữ M.T. lồng nhau. Lại một mảnh giấy thủng bụng nữa, chỉ có mấy dòng:
Em mua cho anh mất ngàn mốt thôi, là tiền bán chè khô mít khô, mấy chị em ưng hết, con Hoà còn trách em mua thứ rẻ quá. Em đưa tay sợ anh kỳ kèo, anh đừng lo bọn em thiếu thốn gì hết. Con Cang thêu tặng anh cái túi đó. Còn bức thơ kia anh coi cho vui, đừng giận con nhỏ tội nó lắm, nó yêu anh lắm lắm!
Tôi lướt vội qua lá thư của anh bí thư tỉnh ủy gửi bệnh xá, dặn nếu hai đồng chí Thiêm và Mẫn định cưới nhau thì nhờ bệnh xá hết lòng giúp, tổ chức hai bên không kịp đến…
Tôi chồm dậy. Không cưới thì thôi, tùy Mẫn. Phải đạp xe trả ngay cái máy bán dẫn. Chị em Mẫn ăn mặc ra sao tôi biết hết. Có cái gì vô lý trong cách yêu của Mẫn. Tôi đọc lại mảnh giấy, hơi khó, chắc người ốm dễ xúc động. Cuối cùng tôi hiểu rằng không thể trả. Tôi phải để Mẫn nhẹ chân đi về vùng lửa trong tấm áo màu gụ vá vai, cười một mình vì món quà cố giấu, nhẩm tiếng Mỹ, lau mắt nhớ tôi và phác qua một trận mới.
Con người Mẫn cứ như thế, biết làm sao!
*
Các thầy xúm khám tôi lần nữa, hẹn sẽ cho ra viện khi tôi mang được mười cân đi mười cây số, ước chừng phải mất thêm nửa tháng. Tôi cố rút xuống mười ngày, viết luôn ba con số 10 dán lên cột. Mỗi ngày tập đi bốn tiếng chia hai lần, sáng sớm và chiều tà. Các giờ tự học, giúp dân xếp vào lúc nắng quá hay tối quá, thêm hẳn giờ sửa máy nữa. Xếp xong bảng thời gian ấy, tôi không còn thấy bệnh tật đâu cả.
Các buổi tập của tôi vui hơn trước nhiều. Tôi đi qua các vườn và leo đồi chè sau nhà, nghe ngóng sức căng của những thớ thịt mới liền lại như người thợ tiện cho tăng vòng quay tí nữa, tí nữa. Tôi bỏ máy thu thanh trong túi áo ngực, nhét lọt ống nghe vào một tai, nghe “tiếng người thương” suốt buổi này sang buổi khác mà vẫn trả lời được bà con qua lại. Những đợt hành quân hàng tuần hàng tháng dọc đường núi sẽ tươi gấp mấy. Cái máy chỉ có một băng, cũng đủ cho tôi nghe sóng 297 mét của Hà Nội và hai viên pin bằng ngón tay nuôi nó được gần tháng. Mẫn đã chọn trúng món quà tôi ưa nhất.
Còn cái nghề sửa chữa vặt thì tôi đã chọn ra từ trước.
Dạo mới đứng được, tôi nghe anh Lẫm gắt dữ một cậu y tá làm hỏng bộ dụng cụ khám mắt tai mũi họng rất quý. Quà tặng của Cộng hoà dân chủ Đức, không gửi về thành tu sửa được mới gay chứ. Tôi bảo Yến lấy cho xem. Máy tinh vi mà đơn giản: một tay cầm chứa pin, có thể lắp bảy tám cái đầu khác nhau với những gương và thấu kính nhỏ xíu, những bóng đèn soi tí tẹo thật xinh. Tháo sơ ra, tôi bật cười: pin chảy trong lòng ống làm gỉ chỗ chạm điện, vậy thôi. Mười lăm phút sau, Yến hí hửng mang trả anh Lẫm bộ đồ khám đã sống lại, rọi những luồng sáng bằng đầu đũa khá mạnh. Anh sửng sốt, cảm ơn tái tam tái tứ. Tôi cũng ngạc nhiên: một việc quá dễ vậy mà các ông bác sĩ không lần ra được.
Dần dà tôi đắt khách đến nỗi Hảo phải chặn bớt. Trong gánh đồ đạc linh tinh của bệnh xá, tôi moi ra một hộp dụng cụ sửa chữa nhỏ cũng của Đức. Nhờ có nó, bao nhiêu đèn pin bút máy, đồ dùng khác thoát kiếp bị gỉ và mối ăn. Vớ được một thùng pin bộ đàm của địch vất lại, tôi tháo vụn, ghép thành pin nghe đài cho bệnh xá và pin cầm đi đêm cho y tá trực, cái xóm nhỏ bỗng ồn lên và sáng lập lòe được vài tuần. Tiếng đồn sao không biết, xã bên cạnh cho cán bộ tới với một công văn nài nỉ tôi đi sửa giùm cái máy xát gạo ở chợ cây Đề, có xe đạp và mô tô đèo cẩn thận. Anh Lẫm nhất định lắc.
Đôi lúc tôi làm liều. Hảo khám tôi, tôi cũng khám và chữa cái đài Sôny ba băng mười bóng của cậu. Mò tướt mồ hôi cả buổi tôi mới tìm thấy một mối hàn bị rời nhưng vẫn chạm hờ. Hèn gì lúc nói lúc câm, thợ Tam Kỳ chém cả ngàn bạc mà vẫn chưa về đòi lại được. Hảo đeo máy cưỡi xe đi công tác một ngày, tối về mới nói: “Chịu mày rồi đó Thiêm”. Tôi đã tìm được cách trả ơn kín đáo. Nhiều anh đưa tôi cả đồng hồ nhờ sửa, không chịu tin rằng tôi dốt, nghe nói thiếu dụng cụ họ mới gật đầu.
Tôi mang ba lô tập đi, tạt qua chỗ Hảo:
- Tối nay tiểu liên nhà tao, rảnh không?
- Đồng hương à?
- Mình mày thôi. Cho nghe chuyện tao nóng giòn.
Hảo đối với Mẫn vẫn giữ cái vẻ kính mà xa, rất ít tin rằng tôi yêu Mẫn thật. Không sao, tôi chỉ muốn mượn cớ để khuyên cậu ta đi Chu Lai. Ở Hảo đã có sẵn than hồng, tôi muốn góp một hơi thổi cháy lên ngọn lửa. Dù Hảo ưa khích bác bẻ vặn tôi hơn cả, tôi vẫn biết cậu coi trọng lời khuyên của tôi, cãi ngang cành bứa xong lại làm theo.
Sau bữa cơm, bà mẹ đi học chính sách ruộng đất, cô em tập múa. Tôi bắc sẵn nước sôi đợi Hảo. Cái tông đơ hỏng nằm đợi trên bàn, dưới chân cột thêm cái bếp dầu lửa Ai-đa bị tắc. Tôi mở đài, lơ đãng cầm tông đơ lên xem, và cơn ngứa nghề bốc nhanh lạ.
Gãy lò xo. Trước hết, vừa tháo vừa nhớ chỗ các chi tiết. Vẽ sơ cho chắc, kẻo khi lắp lại thừa ốc thừa vít. Các kiểu lò xo gãy trên đời, hãy tập hợp đây coi thử. Ruột gà thiếu, lá mía, díp… tạm tắt “tiếng người thương” đã, chịu khó em nhé, sửa máy gay hơn đạp chè, cho anh nghĩ.. Đẩy nhé. Gạt hai đầu. Nống lưng…
Duy Hảo lò dò vào. Tôi kêu:
- Ơrêka(3)!
- Lại một phát minh thuộc thế kỷ mười tám?
- Không, mới trong thế chiến thứ hai, của thợ hớt tóc Việt Nam.
Tôi vẽ ngay kiểu lò xo mà tôi trông thấy ngày xưa: một sợi dây thép cứng uốn ba vòng, hai đầu nống hai càng tôngđơ, rất gọn. Hảo gật gù khen trong khi tôi đi pha chè làng Cá, bày các của ngon Mẫn đem lên, đã chia phần cho anh em bà con mỗi người một chút thơm thảo. Hảo đăm chiêu khá rõ từ khi anh Lẫm về, chắc lại cái vụ đi tuyến lửa.
Hảo lau kính, bỗng nhớ ra:
- Thằng Tốn phóng viên đem máy ảnh đi chụp, nửa chừng ống kính bị con nít rờ tay dầu phụng vô cả mớ rầu như cha chết. Nó nhắn hỏi mày lau giùm được không?
- Kiểu gì?
- Quên hỏi. Đâu như máy Nhật.
Các công thức pha chất rửa ống kính chạy qua đầu tôi lổn nhổn. Axêtôn khó kiếm. Xà phòng, cồn thì sẵn. Để xem lớp tráng chống phản quang màu gì, chịu cồn được không. Giấy quyến… Tôi ngẩn ra:
- Nó gặp mày lâu chưa?
- Hôm nàng mới tới, nó ghé đây. Thấy mày cuống quýt, tao biểu nó đừng phá đám, phải biết nhân đạo là gì.
- Hại tao rồi! Rửa một lát chớ mấy. Tao đang ước có cái máy chụp Mẫn, từ nhỏ tới lớn Mẫn chưa được tấm hình nào. Cha, bao giờ mới gặp lại!
Hảo nhìn tôi một cái nhìn dài sau những ngấn kính cong xếp lớp.
- Tưởng mày ghét những thứ phù phiếm của người trần. Thôi, mày giúp thằng Tốn, dặn nó về vành đai chụp Sêhêradát, gởi ảnh theo. Chắc không đẹp bằng mày bấm đâu, tao biết. Mà nè, mai kia nàng được phong anh hùng thì cả thế giới treo ảnh nàng đầu giường, riêng gì mày!
- Ăn chuối đi cho giọng hiền bớt!
- Kim tiêm không chích được tượng đá. Đúng, mày là đá nguyên khối. Con Nga đúc bằng thạch cao, đặt mày lên bể liền. Cỡ tao hay Thu Yến là gì hè, sành hay gốm?
- Lại lên một cơn triết lý.
- Tao đang cần triết. Có tin buồn: con Nga về ở Đà Nẵng rồi, đòi ly dị. Thằng kia chạy theo dỗ sướt mướt. Ba mẹ tao cãi nhau, nghe nói có sự tát tai và rách áo. Dễ hiểu thôi, tay kỹ sư chỉ lo đào mỏ, bòn tiền ăn chơi, mẹ tao gả ép cho con cái bằng rỗng. Rốt cuộc con Nga chịu dang dở. Gia đình tao bốn mạng chia hai phe, ăn riêng hai mâm. Cái buồn khóc đã gặp cái buồn cười. Cả nhà chỉ còn thằng Ái Trung biết cười…
Tôi nhấp chén nước rất lâu để tránh cái nhìn của Hảo rõ ý “tại mày”. Nhưng Hảo không từ:
- Thu Yến rất hiểu những bi hài kịch kiểu đó. Mày thì không, mày chỉ biết có khổ đói lạnh hay nhục mất nước thôi, còn những cái đau tâm lý chỉ là chuyện vẽ vời của ba đứa ở không. Mày chê con Nga… đừng cãi, tao cận thị số bốn mà tinh mắt… chê nó thiếu lý tưởng, thiếu nghị lực. Đúng hết. Bây giờ mày biết nó làm gì không? Ăn rồi nó ẵm con gởi nhà bạn, kéo guốc đi biểu tình chống Mỹ. Nó khoe nó là “biểu tình viên chuyên nghiệp”, nó đang truy lãnh cái phần xuống đường lâu nay phải nhịn, hạnh phúc của nó chỉ còn cách mạng là một, bé Trung là hai, đố ai biết nó nói thằng Trung nào… Mày phục chưa?
- Phục lăn!
Tôi nói rất thật. Hảo gật đầu thú vị. Cậu thương Nga lắm, thương nhất nhà. Chắc vì nhiều chỗ u ám nên Hảo không đưa tôi xem lá thư mới của Nga.
- Tao thèm cái đơn giản của mày, Thiêm ạ. Mày như hòn đạn. Súng chĩa thẳng hướng, bóp cò, mày cứ vậy mà bay tới đích, mưa gió không cản nổi, bụi đời không kịp bám, chẳng phải chọn ngã tư nào hết. Cũng tốt thôi. Mày tính ra viện rồi đi đâu?
- Về đơn vị. Dạo này ta đánh lớn…
- Biết mà. Một lần nữa tao khuyên mày nên giữ chừng mực. Dám nghe hết không?
- Rất muốn nghe. Nằm đây hai tháng tao cũng nghĩ chuyện đó, tính bàn với mày.
- Tao vẫn không hiểu tại sao mày cứ lao vô chỗ dễ chết nhứt, dễ què cụt nhứt, làm việc theo tốc độ lút số bốn chớ không chịu xuống bớt ga cho đỡ hại máy? Mày là đứa nhiều tài tao mới tiếc. Đem năm sáu chục ký vàng đổi lấy một viên chì vài chục gờ ram, nên không? Nếu mày mơ lên tới cấp tướng, tao không nói gì, hay bị ép nhứt thiết phải ra trận thì coi như bất khả kháng. Cả hai ca đều không phải. Mày hẹn hết chiến tranh mày sẽ trả chức vụ, làm thợ máy nổ, còn chụp ảnh là nghề tay trái. Coi cái điệu mày ham máy, tao biết mày nói thiệt…
- Thiệt chớ!
- Ừ, vậy tự mày đang chống lại mày. Làm thợ giỏi phải có sức khỏe, phải học kỹ. Hiện giờ mày đang phá sức, đang chúi mũi học làm chỉ huy, lo chạy theo cái trước mắt. Chết thì gọn thôi, mày coi cái chết như lông hồng, rất đáng kính. Nhưng nếu về sau mày tàn phế, còn một tay với chút nghề học lỏm, mày sẽ làm gì cho hết cuộc đời dài? Đừng đập bàn nghen. Mày đã phá cữ cho tao vô chỗ thờ phượng rồi mà… Tới đó sức mày còn một nửa, đầu mày cùn học không vô, lại đụng toàn kỹ thuật tối tân, máy lạ, mày làm ăn sao cho thấu? Mày thuộc quyền một tay kỹ sư nào đó, như chồng con Nga học bên Âu Mỹ về, nó giao mười, mày rán hết cỡ mới làm được ba, bốn rồi năm. Nó sẽ lễ phép thưa với mày: “Thiệt tình, cháu coi chú như cha, chú hi sinh cho bọn cháu được học thành tài. Ác cái bây giờ phải bảo đảm năng suất chú à, mấy tháng qua chú bị hụt mức nhiều, ấy là thiệt hại cho dân cho nước chớ đâu phải hại cho cháu. Thôi để chú lãnh việc vừa sức hơn, chú thay ông gác cổng mới về hưu, cách mạng việc gì cũng vinh quang…”. Nó đuổi mày đó. Mày cứng họng chớ cãi gì nữa! Mày sẽ cay đắng bỏ nghề, trách mình hồi đó chẳng nghe lời thằng Hảo, lo việc chung chừng ba phần tư còn dành một góc cho tương lai của mình, có phải bây giờ… Chối tai lắm không?
- Chối, mà nghe kỹ. Mít khô ngào đường đây mày.
Hảo rất khoái trá với tràng diễn thuyết của mình, cười tủm tỉm, nhai mít. Tôi trầm ngâm nhìn cậu:
- Hình như mới có bên nguyên lên tiếng. Còn bên bị nữa.
- Mày cãi đi.
- Không, bên bị cũng là mày. Trong người mày có hai thằng Hảo kia mà, mới một đứa mở miệng…
- Ranh lắm. Phải, còn thằng Hảo cách mạng nữa, nó thua mày xa. Để nhường mày phát ngôn. Chè ngon ghê ta. Đậm, thơm mộc. Của nàng hả?
- Ừ. Thứ này vợ tao tự nhồi bằng tay, hái một đọt hai lá…
Hảo cười phì suýt sặc. Chẳng hiểu sao tôi chợt thấy rất khó chịu. Khi nghe giễu một người vắng mặt, tôi thường bực hơn chính mình bị đả trước mặt.
- Tao giả dại để mày tự nhiên với cô Mẫn, ai dè mày kịch luôn với tao. Hai đứa mày cưới nhau hồi nào lẹ vậy?
- Chưa, sắp.
- Từ cốc đến môi, đường xa lắm. Từ yêu đến cưới còn xa gấp triệu lần. Càng rõ là mày đơn giản. Mới mấy tháng trước, mày nói cô ấy là vợ người ta, nhớ chưa?
- Hồi đó mới quen. Bây giờ chắc như hai với hai là bốn.
- Nghĩa là không chắc gì cả, theo toán học mới. Mày… lỡ rồi phải cưới, hay công nhân ắt phải lấy nông dân để liên minh với nhau?
Đến lượt tôi cười. Ba tôi chưa hẳn đã căn vặn tôi kỹ như Hảo. Cũng hay, tôi càng dễ trả lời thẳng chứ sao.
- Mẫn với tao yêu nhau kinh khủng, đợi nhau suốt đời cũng được.
- Biết mà! Mày cực đoan đến từng sợi tóc. Mày đang mê đánh giặc, cô nào đánh giỏi mày mê luôn. Mày lẫn lộn giữa tình yêu và tình cảm cách mạng, giữa chọn vợ và chọn anh hùng. Cấm tự ái. Mày cũng biết Mẫn không đẹp, mới thoát mù chữ, ngoài cày cấy cô ta không biết nghề gì trong tay. Tới thời bình, một cô chỉ huy du kích khó lòng được phong làm sĩ quan chính quy. Cứ lấy nhau đi. Hai mươi năm sau tao đến thăm mày, sẽ thấy chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa - ấy là chân tay chúng mày còn đủ - trong nhà chẵn một chục tàu há miệng đang kéo còi muốn bay mái. Mày sẽ giơ hai tay lên trời: “Ôi, tình yêu lý tưởng!”
Tôi cười đau cả bụng. Cái thằng lưỡi nhọn khiếp không!
- Cho mày nghỉ ngơi một chút, chuối gần hết rồi.
- Tao mổ xẻ bấy nhiêu thôi. Đừng mở đầu bằng câu “chủ nghĩa cá nhân trầm trọng và có hệ thống”. Nhớ là tao đang tính dùm chuyện mai hậu cho mày. Mày bay bằng cánh miết, tao thương mới chắp cho cặp chân.
- Cảm ơn. Để tao bắt chước mày triết lý thử coi…
Tôi vẫn giữ giọng bông lơn, nhưng Hảo biết là tôi không đùa, cũng như cậu nãy giờ không hề đùa.
- Những hạt và sóng vật chất quay tít trong vũ trụ, tới lúc nào đó tình cờ tụ lại trên hòn bi xoay gọi là trái đất, tạo nên một chấm bụi nhỏ xíu được đặt tên là thằng Thiêm. Thằng Thiêm hiện rồi biến chỉ trong một chớp loáng. Loài người đo kích thước và thời gian theo kiểu của mình, nói thằng Thiêm cao một mét sáu mươi chín, nặng sáu chục ký, sống sáu mươi năm. Thằng Thiêm tự hỏi: “Mình sanh ra để làm gì? Nếu chỉ cố ăn nhiều cho chấm bụi to thêm chút đỉnh, khéo lẩn tránh để kéo dài thêm một ly lai nào đó cái chớp loáng tồn tại phần mình, thì cần gì có mình trên đời? Trước khi tan biến vào mênh mông, mình phải làm lợi nhiều nhứt cho đồng loại, cho mai sau. Mình sẽ để lại một dấu vết có ích nào đó trên hòn bi chở mình”. Nó nhìn, nghe, hỏi, nghĩ và kết luận rằng việc làm ích lợi nhứt lúc này là chống Mỹ, cứu nước, tiếp đó là chống bất công, nghèo khổ, dốt nát.
- Phi lộ cừ ghê ta
- Vừa thôi. Tại mày cứ nhấn rằng tao đơn giản, như người Pháp gọi thằng ngốc là thằng trí óc đơn giản…
- Ăn gian. Mày cố đọc giữa hai dòng chữ!
- Thôi được, tiếp. Có lẽ mày nghĩ: thằng Thiêm ấy à, cha nó làm thợ, nhà nó nghèo, nó vừa giữ trâu vừa theo học nhà trường kháng chiến, ôtômatich là nó yêu nước, thù giặc, nó theo cách mạng đắn đo gì nữa. Lầm to. Đứng trước sống và chết, sướng và khổ, người khờ nhứt cũng phải cân nhắc. Mỗi người có một cách chọn đường, mau hay chậm, nhẹ nhàng hay trầy trật, đúng hay sai. Hễ sai thì đã làm ngụy, làm tề điệp, luồn lách, trùm chăn, tùy mức. Mày với tao đã chọn con đường đúng là khổ chung rồi sướng chung với số đông bà con. Mỗi đứa chúng ta đã được phóng lên do cái sức đẩy ban đầu của dân tộc, của cha anh. Như mày nói thì tao còn được thêm liều thuốc phóng của giai cấp nữa, đúng. Nhưng quyết định mỗi cuộc đời vẫn là sức bay của chính mình thôi Hảo à. Mày với tao không đứa nào là hòn đạn cả, bởi lúc nào cũng có thể trở nên anh hùng hay rớt xuống làm “chiến sĩ họ Đào”, có thể lựa lái đường bay cho trúng đích hơn hay cố ý trượt ra ngoài. Nói chữ thì đó là tính năng động tự giác của người cách mạng, nghe hơi dài.
Duy Hảo ngó tôi trân trân. Lâu nay tôi ít cãi lý nên cậu tưởng tôi chỉ hứng là làm.
- Uống đậm nữa không?… Tới cái chừng mực làm cách mạng. Tìm chỗ khó hay chỗ dễ, trên đường rất xóc nên mở số bốn hay số một, số hai? Mày ngại tao chết, què, cảm ơn, tao cũng không thích vậy. Có điều tao nghĩ trong kháng chiến ai khỏe nên cầm súng đánh Mỹ, tao liệu sức đánh được nên cố xin ra trận. Cháy được năm năm ắt không phải lửa rơm. Mày chê tao dại à? Tao thích làm gì cũng tận sát bờ góc, vượt hẳn lên hàng đầu, đã theo cách mạng thì theo hết mình, đóng góp tới mức cao nhất, được vậy tao sướng lắm, hễ thậm thụt nửa vời thì chính tao là đứa buồn khổ trước. Mày coi, tao có quên phần tao đâu, tao rất khoái được hưởng cái hạnh phúc của sự tận hiến và những quý mến chung quanh mình. Đừng tưởng tao đánh giặc để kiếm chức, sau này may ra kiếm lương khá. Mỗi lần đề bạt tao lo ngay ngáy, mày thấy tao học ngày học đêm đó… Đến lượt tao khuyên mày. Mày góp công cứu tao sống, tao nhớ ơn mày… Chớ vội khiêm tốn, tao còn đập nữa mà. Tao thấy mày mới hết lòng chạy chữa cho riêng tao thôi, còn với các đồng chí khác thì mày một vừa hai phải. Anh em bệnh xá mến mày dễ dãi, vui tính nhưng lại yêu và phục anh Lẫm hay gắt hơn mày nhiều. Ngay cô chim én xinh xắn bưng khay thuốc đi bên mày miết, khi muốn tâm sự lại đến tìm tao, đúng chưa?
Tôi bắt chước các cô y tá vừa bơm thuốc vào mạch vừa xem nét mặt người được tiêm. Trán Hảo đỏ dần lên, cậu chỉ lặng lẽ rót nước vào chén. Chịu được.
- Mày giả bộ phớt đời, nhưng bên trong mày có mặc cảm, tao biết. Mày chơi tốt với mọi người, sao họ chỉ thân với mày vừa vừa? Mày rất chiều Thu Yến, sao cô ấy lạnh mày? Vì mày cảm, nghĩ và sống theo lối trung bình. Anh em coi mày như người bạn giải trí, vài ngày một lần cười nở phổi với nhau, còn muốn học chuyên môn phải hỏi anh Lẫm là người say sưa yêu nghề, muốn hiểu bão táp chống Mỹ họ tìm tới anh em thương binh. Cùng đi trên đường dài, họ muốn gánh được thêm vài cân công tác, mà càng gánh nặng càng phải chạy mau chân, họ không thể kết bạn với anh chàng mang nhẹ đếm bước, có gặp nhau chăng chỉ khi đặt gánh nghỉ mươi phút xả hơi. Mày nói Thu Yến rất thông cảm với những buồn riêng của mày. Đúng. Nhưng sự thông cảm dừng ở đó thôi, còn cái mảng lý tưởng, hoài bão, còn những ước mơ đẹp và thiêng liêng nhứt trong hồn cô ấy thì mày không hiểu. Đem kể với mày để mày giễu cợt à? Tao tiếc lắm. Mày với Yến có thể đi xa hơn tình bạn nhiều.
Mặt Hảo đỏ gắt. Khó ngờ anh chàng đã từng gửi thư tán ba bốn cô một lần lại mắc cỡ như cậu học trò nhỏ bị ghép đôi. Bên trong lớp vỏ khinh bạc, một tình yêu trong trắng đang nở gấp, có lẽ rất mạnh. Hảo lắc đầu, cười gượng:
- Quỷ Cốc tiên sanh đã gieo quẻ…
- Bậy, sao lại bói? Yến rất muốn thân mày, dù chưa yêu. Cô em năn nỉ xin về vành đai, mong gặp mày tại đó, nhưng coi bộ thất vọng.
- Đã ngã ngũ gì đâu…
- Mày nên tình nguyện đi. Lớp trẻ tụi mình có nhiều câu hỏi lớn mà tuyến lửa mới trả lời nổi. Lẽ sống, nghề nghiệp, tình yêu, tình bạn… mày thử ít tháng coi. Cứu thêm được nhiều người thoát chết hay khỏi tàn phế đã đành, riêng mày sẽ đổi khác dữ lắm Hảo à.
- Nếu không bị cái gì cắt ngang…
- À, tao không đoán ẩu giùm ai. Phần tao đã tính kỹ rồi. Hồi nãy mày nhấn trúng một chỗ: tao không sợ chết mà sợ phải sống thừa. Có điều tao tin chắc tao không bao giờ thừa. Tao lòi ruột mà vẫn sửa ngon bộ đồ khám Đông Đức kia. Mất tay chân tao cũng xoay sở được, chẳng lo. Mà không phải chỉ kiếm ăn thôi đâu, tao còn sáng chế phát minh cho mày coi. Nếu có tay kỹ sư nào đuổi khéo tao như mày doạ đó, tao sẽ nói: “Chú chịu tàn tật để cháu được học, bây giờ cháu dạy nghề lại cho chú đi, thêm một tay là quý”. Hễ tao nằm dài kể công, hết trách lại đòi, thì tao đáng đuổi lắm. Còn nếu tay kia xì, trề hứ háy, nó sẽ rớt. Rốt cuộc, ta đoàn kết giúp nhau là hay nhứt. Chúng ta làm cách mạng đâu phải để nuôi mập một số đầu cơ chuyên nghề chạy chọt, lót ghế ngồi cao cho mấy tay rùa ăn giấy, thay thế bất công kiểu cũ bằng một bất công kiểu mới? Cô Mẫn của tao cũng góp sức hạ một tay con vua ở xã đó, tay này giờ tiến bộ nhiều…
- Gan vậy à?
- Không thì phong trào bị cản mũi, nằm ỳ… Chút nữa quên, còn cái khoản chục đứa con. Nhiều quá, quanh nồi cơm đặt vài cái máy xúc thôi!
- Chắc mày bực. Đang bay chín tầng mây, làm vệ tinh cho công chúa Arập…
- Bây giờ tao xuống đất. Hai đứa tao say mà rất tỉnh, không để cùn đời cạn điện đâu. Mày nhận xét Mẫn đúng cả, nhưng chưa thấy cái chất người. Mẫn thèm học ghê gớm, đang tự học riết. Mẫn làm nông rất giỏi, cũng là nghề chứ sao. Còn mặt mũi, chà, chín người mười ý, tạm coi như thuộc một trường phái riêng trong giới má hồng. Cái cốt lõi là Mẫn có sức vươn lên rất mạnh…
- Tất nhiên, anh hùng mà!
- Mày muốn tách riêng: anh hùng phần này của cô, gói cất đi, còn phần tình yêu này của tôi?
- Mày cần cả hai?
- Cả hai. Ở Mẫn, chất anh hùng quyện vô tình yêu rất rõ. Cho phép tao so sánh…
Tôi uống một chén nước để hãm đà. Không thể so với Mộng Nga được, bởi Hảo cố ghép Nga cho tôi, và Nga khác xưa nhiều rồi.
- Mày từng rủ hai cô thân nhất, Ánh Tuyết với … gì… Duyên Hương, cùng ra căn cứ. Ánh Tuyết khóc một dòng sông nước mắt. Cô Hương nói như thánh tướng rồi bận đi Đà Lạt nghỉ mát. Tất nhiên họ không ở lại Sài Gòn, Đà Nẵng để biểu tình như em gái mày! Chính mày đã đặt tên: một tình yêu còi xương, một duyên phận buôn vàng Mỹ Ký. Thử điểm lại các cô mày thân, xem có ai dám đưa ngực che đạn cho mày, dám ăn đói mặc rách để sắm cho mày cái bán dẫn kia, dám lãnh nuôi một chồng hai con khi cần? Tất cả, Mẫn đều làm được gọn trơn. Nói riêng với mày, tao tin rồi Thu Yến sẽ như vậy. Mộng Nga qua nhiều cay đắng, cũng sẽ có chất anh hùng trong tình yêu mới, không chịu lấy một thằng đào mỏ nữa đâu.
Hảo thẫn thờ buông từng tiếng:
- Có nhiều cuộc đời phải bắt đầu lại từ đầu…
- Đừng bi, hết chiến tranh, Mẫn với tao cũng phải tập thích nghi gần như từ đầu. Tụi tao không lo. Thứ thép được luyện nhiều lửa rồi, đem đúc súng hay rèn lưỡi cày đều chịu ăn cả.
Chúng tôi nói với nhau những lời đốp chát ấy bằng cái giọng tưng tửng như bàn cách chữa tông đơ. Chưa biết câu chuyện càn khôn còn kéo dài tới đâu nữa nếu Thu Yến không vào bắt tôi tắt đèn đi ngủ. Tôi mời chuối khô, Yến ăn tự nhiên, cười tươi:
- Anh diễn thuyết cái gì nghe toàn Mẫn là Mẫn. Thiệt em chưa gặp ai còn trẻ mà dễ thương như chị. Trên cho em về Chu Lai rồi, nhứt định em làm đuôi theo chị riết.
- Theo cô Mẫn nhà tôi thì lu bù bom đạn!
Yến mở to đôi mắt bồ câu rất đẹp:
- Chớ sao nữa. Chị em dưới đó chịu được, em tập miết cũng chịu được, thua gì ai. Hồi mới xuống đường, nghe súng em sợ tái xanh, lát quen. Để rồi em tự tay bắn Mỹ anh coi.
Đợi Yến uống nước xong, Hảo mới đứng dậy bảo tôi:
- Viết thơ sẵn đi. Hôm nào tao xuống vành đai đưa tận tay cho Mẫn, khỏi sợ lạc.
Tôi thấy rõ Yến quay đi giấu nụ cười vui.
*
Tôi tập hành quân thêm hai ngày nữa. Chú Dé đi thâu đêm tới bệnh xá, chưa kịp nói đã mếu xệch miệng, rút đưa một mảnh giấy ướt mồ hôi.
Ta đã quét sạch địch trong quận Hiệp Đức, đang lùa vịt ào ào qua quận Quế Sơn. Anh Ba Tơ bị thương nặng, sau vài giờ thì chết, dặn gửi cho tôi chút kỉ niệm cũ. Trung đoàn gọi tôi về gấp, tạm thay anh làm tiểu đoàn phó D.210.
Tôi chống gậy dời bệnh xá lúc một giờ sáng, chú Dé mang giùm ba lô. Dừng nghỉ trong suối tinh mơ, tôi mới kịp mở gói quà của người anh lớn. Đó là một cái túi nhỏ dệt nhiều màu, những hình thêu vàng và bạc đã phai đục. Trong túi có một lá thư gần nát, chữ Lào loăn xoăn, mấy sợi bông trắng xen lẫn với tóc dài, một cái khăn nhỏ dính nhiều vết nâu nhạt, phải xem kỹ mới biết là máu lâu năm.
Chú thích:
(1) Lấy ngay bây giờ
(2) Đồ tể
(3) Tìm ra rồi! (tiếng reo của Acsimet)
Chương 25
Chuỗi đèn dù vừa úa màu một chút, chú Dé đã phóng gấp qua trảng cát. Dù ngụy trang bay xõa đằng sau như buồm.
Tôi hừ một tiếng lo lắng. Ban đêm máy bay khó thấy người, đành vậy, nhưng cái bóng đen hằn rất dài trên nền trắng kia, phình to gấp ba do tấm choàng phồng gió, vung vẩy lướt tới, thằng mù nhìn xuống cũng nhận ra: Đánh trên vùng cát, quên bóng mình là khốn ngay. Những đốm xanh đỏ vàng kết hình chữ thập lừ lừ xoay. Chiếc C.47 quay lại. Chú tiểu đội trưởng trinh sát thoắt biến mất. Tôi nép sau gốc dương, dòm mãi mới thấy một cái mu rùa nhỏ xíu úp sấp giữa mảng cỏ chông chông. Cậu Thắng cười phì, tôi cười theo. Đừng nói tụi Mỹ lớn xác, ngay chúng tôi cũng khó tin rằng cả người lẫn súng có thể khoanh tròn lại chỉ bằng cái thúng năm ang.
Máy bay qua khỏi đầu, Dé chồm dậy chạy tiếp dưới ánh sáng vàng bủng, ập vào chỗ chúng tôi, vừa lúc một chuỗi đèn mới lộp bộp xòe lửa trắng. Chú ngồi phịch trong bóng cây, thở như thụt bễ. Đại đội trưởng Thắng hỏi dồn. Chú lắc đầu, thả từng tiếng chật vật:
- Không… được đi…
Dé trông thấy tôi, mừng quá, nói luôn tiếng Co cho đỡ nghĩ:
- Lé ik hoi truốc né… Truốc hớ kơ xây. Gô gioi xê mình.
- Hú ơn Mỹ?
- Lé e(1).
Tôi dịch cho Thắng. Dé xốc súng, hơi lảo đảo, dẫn bộ đội rẽ sang phải rừng dương thấp gần sát chẫn sóng. Chú đưa trinh sát đi trước dò đường, vừa chạy một mạch bốn cây số về đón anh em. Sau một ngày chống đổ bộ, trung đoàn đã rút hết. C.125 được cử ở lại phá thật nát những xác máy bay và xe sắt, lượm súng địch bỏ vung vãi. Tôi kèm cậu Thắng, rất khoái đi với xê mình.
Quá nửa đêm. Chiếc tàu chở máy bay phơi lưng phẳng giống cái hộp ngoài xa kia không thấy ánh sáng đèn, chắc đã cuốn gói. Ba tàu chiến to còn đậu lại, điện lấm tấm năm bảy tầng, rọi pha quanh mình như nhện duỗi chân nhún nhún. Các cây pháo trên dưới hai trăm ly ngừng nổ, hôm nay chúng bắn đến chảy nòng. Còn lại hai chiếc gì như khu trục hạm mới đến mới đến thêm lúc chiều, đậu mé trong, vẫn giã cầm canh vào làng Vạn Tường. Một luồng lửa màu cam vọt chếch lên trời, một luồng khác đối xứng, lợt mà dài hơn, cũng loé trên mặt gương đục của biển. Trái đạn xẹt sợi đỏ dài, biến mất, rồi chớp trắng bật sau những bóng cây dương gẫy ngọn. Hầm tránh pháo của bà con trong làng vững lắm, cỡ đạn ấy chỉ đủ gãi bên ngoài.
Một cặp tàu đoan chạy rù rù lên phía bắc. Cặp nữa dừng cách chân sóng năm chục thước, xả đại liên vào mấy cái xác xe rải rác mà chúng tôi vừa đốt lại, cháy lửa ít khói nhiều. Hai M.113, một M.118, một tăng. Thứ tăng gì to gớm ghiếc, như chiếc tàu há miệng chạy lạc lên bờ, súng trên súng dưới quét ào ào, một mình nó đi làm nên cơn bão. Chúng tôi thúc dồn đạn lõm vào, nó liệt máy, câm dần. Đến khi chồng người leo lên vẫn trượt toanh toách. Một cậu vừa tới tháp pháo, bị nó xoay nòng gạt ngã xuống đất. Tôi với Thắng hè nhau xách bổng chú Dé ném lên đằng đuôi. Chú bám được, cạy nắp chơi luôn hai thủ pháo nửa cân vào ruột nó, đã hằm hằm rút trái thứ ba, tôi phải hét để dành. Soát lại, thấy tụi Mỹ trong xe bị hơi nổ lột sạch áo quần, xác xém từng chỗ, mềm nhũn. Bây giờ đạn Mỹ đang trượt trên vỏ thép của nó. Những viên đạn lửa lắp cách quãng đi thành tràng chấm dời như mũi kim máy may, thuốn vào đám cháy, vọt toé ra chung quanh, khá xa mới tắt.
Đại đội rút về phía nam. Tôi ngoái cổ lại xem hai chiếc tàu tuần rất là ăn quẩn cối xay kia, thấy thèm quá. Mò theo rặng dương đến gần, đặt cây 12 ly 7 mới lấy, chúng chưa kịp quay đuôi đã ăn ngay một trăm đạn vào bụng… Thôi đành, cứ nuôi đấy đợi dịp khác.
Trời sẫm, vắng sao. Mặt biển và trảng cát vẫn sáng gắt dưới đèn dù. Xê mình rải hàng dọc đi lẫn trong cây. Những bóng lạ không rõ hình người, gặp chỗ sáng bỗng hiện thành anh bộ đội vác bó súng hay thùng đạn to, loà xoà lá ngụy trang vẫn giữ dày. Dáng đi mỏi mệt và chắc chắn của người vừa thắng. Truyền khẽ những lệnh miệng bằng giọng khản và sẵn sàng cười. Vài tiếng gắt của một trung đội trưởng nóng tính, nhưng rõ ra gắt yêu, vì cậu chiến sĩ hút thuốc lá vào bi đông vừa đi vừa hút kia đã hạ mười hai Mỹ trong ngày. Tôi thuộc nết xê mình, ngó sơ một vòng đã thấy ngay cái khí thế hăm hở mà kín đáo ấy. Nếu gặp một tiểu đoàn Mỹ chặn đường, những người đang bước uể oải trên cát lún, vừa đi vừa ngủ gật kia sẽ nảy lên như bị gí điện, bật lê nhào tới…
- Dừng lại, tản ra đợi. Thắng.
- Dừng lại…
Sáu chiếc UH.1B từ tàu mẹ ngoài khơi bay vào, một rọi đèn pha kèm một bắn. Còn gì nữa mà vớt vát cho mệt!
Tôi đứng trên trận địa của C.255. Anh Ba Tơ vẫn thường nhắc tới “xê thằng Long” bằng giọng kiêng nể: thua xê mình về khoa hạ máy bay, nhưng đánh xe thì vượt nhiều. Hôm nay, anh em 255 bẻ gãy hẳn một mũi đổ bộ của Mỹ. Chiếc tàu há mồm bị cháy đã được kéo về Chu Lai, chỉ cách mười lăm mười sáu cây số thôi. Còn lại hai cái xe M.118 chết ngập nửa thân không trục nổi, chiếc tàu đoan chìm ngoài xa hơn, nhô khúc cột nghiêng. Tôi đến bên Thắng, định nhắc cậu xem xê bạn mình đánh ngon, nhưng cậu đã tròn mắt khen trước:
- Anh coi, các chả ném pháo thủ như đánh đáo lỗ! Còn tay Nhự nữa, ăn chiếc tàu mất đâu có hai ba trái cối, nó ưa bắn không lắp chân. Xác Mỹ còn kia, anh Thiêm!
Ba cặp trực thăng dăng hàng ngang kéo tới rầm rộ, chưa tìm được gì. Ba luồng đèn pha xanh lè, rọi tới đâu đất lồi cao lên tới đó, bóng cây đổ dài và xoáy như kim giây đồng hồ. Một cái xác Mỹ vùi ngửa dưới cát chỉ cách tôi hơn một chục thước, hiện lên rõ như ban ngày với nửa đầu hơi ngoẹo, bàn tay, hai khúc chân từ gối trở xuống, một co một duỗi.
“Các G.i(2)! Ra khỏi căn cứ phải luôn luôn mở mắt dòm chừng, dù có con gái Việt Nam xinh đẹp đi gần.”. Trại lính Mỹ dán đầy những áp phích nhắc vậy. Thằng Mỹ này mở to mắt nhìn lên. Bấy nhiêu thứ ánh sáng giả chỉ đủ làm cho nó hoa mắt, còn bầu trời trên cao kia vẫn đen và khép kín. Bọt trắng mỗi lần lên xuống đều nấn ná xoáy tròn chung quanh mặt nó, nước biển Đông chưa quen đón nhiều mồi cá loại này, còn tò mò. Sẽ quen thôi. Sóng loang loáng ánh dầu mazut màu thép có nhiều vân, đẩy bập bều những hộp khẩu phần C, một trái táo, mấy lá thư, gói thuốc lá, nhiều mảnh ván từ tàu dạt vào. Thêm mấy con sứa nữa.
Chẳng phải vạ đi moi cát tìm súng dưới đèn dù đèn pha. Cũng không chôn xác được. Kệ nó.
Tôi đứng đợi, vẫn ngó tên Mỹ. Khi còn là nô lệ đào mỏ vàng bên kia biển lớn, nó chỉ là nạn nhân. Bước sang đây, có lẽ nó vẫn tưởng nó là nạn nhân, chưa biết tội mình lớn đến đâu. Nó đã làm tất cả những gì có thể làm để được sống sót. Nó cầu chúa, mua con heo gỗ và câu thần chú giữ mạng của một người lính thế chiến thứ hai bán lại bằng giá rất đắt, xem bói năm bảy lần và cố giết tất cả những người da vàng nào mà nó nghi có thể hại nó, cả trẻ em và bà già.
Bây giờ nó bị giết, Sư đoàn lính cổ da của nó đã rút, con thú bị thương chui vào hang Chu Lai liếm vít rồi. Trong đêm nay, con nước lên sẽ làm một trong ba việc: vùi nó sâu dưới cát, đưa nó ra cho cá ăn hoặc buông nó vào một dòng hải lưu nào đó, cho trôi mãi đến tận đâu không rõ, Úc hay Nhật, đày nó vào cảnh cô đơn khủng khiếp mà chỉ một xác chết mới chịu nổi. Bạn đường của nó hoạ chăng chỉ có mấy con sứa kia, mang trên lưng cái hình vẽ bốn nhánh mầu xanh lá - hình con bài tép chuyên báo điều may mắn cho người phương Tây - như một lời mỉa mai bám mãi lấy nó. Một đợt sóng lật ngửa ra, lại một dịp nó mở to cặp mắt hỏi trời cái câu vì sao đã lộn tròn trong đầu khi nó ngã nhào, giày đế sắt vừa đạp vài bước trên đất của ta. Nó không kịp hiểu lời đáp bằng chì bọc đồng đã vào giữa ngực.
Tôi bàn với Thắng:
- Chôn quách thằng kia hè!
Thắng liếc xéo tôi, gãi tai:
- Tụi nó không để mình chôn…
- Ta đào sẵn cái hố chỗ này, ngớt đèn ra lôi tuột nó vô, lấp luôn. Mau thôi mà.
Anh em mệt, đói, buồn ngủ, nhất là buồn ngủ. Hai đồng chí được giao đào hố lẳng lặng rút xẻng làm ngay. Hố khá sâu. Bầy trực thăng vừa đổ sang rọi làng phía tây Vạn Tường, thêm hai cậu nữa tự ý ra giúp nhấc cái xác Mỹ vào, không kéo lê. Xách luôn được cây M.16 nằm lọt dưới hông nó. Mươi phút sau, từ cuối hàng quân có bốn cậu chạy lên theo. Bê Một đi đầu cười rúc rích:
- Mỹ to con, bắn dễ trúng mà chôn thiệt ớn.
- May nó có thứ trực thăng hốt xác…
- Xì, cái Chóp Chài năm ngoái nó hốt đâu, ném bom giết sạch tụi bị thương. Mất công mình băng từng đứa mệt đừ.
- Đồn ngụy, nó kể số gì.
- Để coi, đó rồi Mỹ hủy diệt Mỹ, biết đâu. Kẹo cao su đây này!
- Kẹo gì lại lạt nhách, bã là bã…
Lũ trực thăng bắt đầu xổ đạn. Ba cái chổi trắng, giờ thêm ba cái lược đỏ chải rất kỹ khoảng đồng từ Vạn Tường đến chân núi Phổ Tinh, nơi sáng nay trực thăng rụng nhiều nhất. Pháo lớn vẫn nã đều vào làng, tàu đoan bắn dọc bờ biển, tất cả đều tàn bạo và ngớ ngẩn, đều thiếu lòng tin đến cái độ tuyệt vọng.
*
Diệt đồn xong, chúng tôi có thể thấy hết chiến thắng phơi ngồn ngộn ra đấy trong vòng kẽm gai. Dứt một trận lớn như Vạn Tường lại khác, nỗi mừng đến chậm, kéo dài, to lên mãi, khám phá thêm mãi. Cả tháng sau, khi trung đoàn đã lên đường vào Bình Định, “tiếng người thương” rủ rỉ trong tai tôi vẫn còn đưa tin thêm về cái ngày chống càn không mấy ghê gớm kia. Té ra tụi Mỹ coi cú đổ bộ ấy là trận tấn công phối hợp hải lục không quân lớn nhất của Hoa Kỳ từ trân Ôkinaoa tới nay, và chịu nhận nó là thất bại nặng nhất của quân chủng lính thủy đánh bộ Mỹ từ xưa đến giờ. Một lần nữa, trung đoàn tôi tô đậm câu trả lời thắng được.
Quân ta chỉ việc toét miệng cười với nhau. Cứ như khi bắn rớt trực thăng, tưởng nó chở muối mè, lại lôi ra được một thằng tướng đeo đầy những sao! Thêm một Quân công giải phóng hạng nhất anh em càng nhẹ chân leo núi giữa mùa mưa. Mỗi đồng chí thường ít nói mình được bao lần khen thưởng, nhưng rất thích khoe lá cờ danh dự mà xê mình được tặng sau trận núi Sàm, hay những huân chương cỡ lớn gắn trên ngực con-người-trung-đoàn-thép.
- Mưa chơi chơi, các nơi mưa nữa!
- Ba lô nhúng nước không kịp phơi…
- Thôi mày, ướt còn cháy mất.
- Nhìn áng mây che mịt mù rợp trời(3), bài hát đó, coi như mưa là cái chắc!
- Dầm bấy nhiêu chưa đã ngán sao ông?
- Trời mưa có đất chịu, mình đi giữa hề gì!
Bước đi của mưa miền Trung dễ thấy.
Vào hè, khi khói đốt rẫy toả nâu xám trên các sườn núi, mưa còn ẩn đâu đó sau đỉnh cao, chỉ hé một vẩn mây đen và buông đôi tiếng sấm xa thúc giục. Mỗi xế chiều mây lan thêm một ít về đằng đông, đưa sấm đến gần. Những giọt đầu tiên rơi xuống to bằng hột bắp nhảy trên mặt đất nung khô như cơn mưa đá, xốc bụi mù, gọi lúa rẫy ngoi lên. Rồi những cơn mưa giông chiều vừa nhích về đồng bằng từng bước một, vừa lấn vào ngày và đêm: mưa bắt đầu sớm hơn, dứt chậm hơn. Cứ vậy từ tháng này qua tháng khác cho đến khi giáp vòng hai mươi bốn giờ mưa tròn trĩnh. Cái vòng mưa thành hình trong một ngày, biến đi, lại hiện ra suốt hai ngày, ba ngày. Bây giờ, cả miền Trung ngập trong mưa trắng mênh mông.
- Mưa gắt cho tàu bay rã cánh đi ông ơi!
- Mùa khô Mỹ chết khô, mùa ướt Mỹ chết… chết tươi, cũng được. Có bài báo tường mà thiếu cái tường, ôi chiến sĩ Vạn Tường!
- Cô giao liên thân mến ơi, nuôi vắt chẳng chịu nhốt, thả chạy cùng rừng vậy á?
- Ông trời vừa nắng vừa mưa, bầu trời…
- Giôn-xơn thắc mắc kiện thưa ông trời. Hay, ta hè?
Trong các căn cứ ven biển, quân Mỹ nhìn mùa mưa từ núi đi xuống bằng con mắt kinh khiếp. Thoát cái nắng giết người, rơi ngay vào chiến dịch nước. Thêm nước nữa trên cái xứ đã quá thừa thãi nước này, lạy chúa tôi… Đó là mùa của những hầm hào sục bùn lỏng tới gối, những cặp chân loét chảy máu trong giày ống, những chiếc cầu lặn xuống đáy sông sâu, những máy bay tiếp tế không tìm ra kẽ hở trên nền mây để thả dù, những phản lực cụp đuôi và xe tăng phủ vải bạt, những bom thả lầm và pháo đấm lưng, những đạn cối bay và đồn rất kín giữa sấm chớp và gió hú, những lính cảm tử của Vixi đút ngòi thuốc nổ vào tận chỗ nằm, chao ôi! Quân Mỹ nằm chập chờn trong lô cốt ngập, chiêm bao thấy dãy núi trên kia lừ lừ bước xuống trong mưa, dễ sợ hơn cả những điều khải thị của thánh Giôn. Chúng tỉnh dậy, bốt gân dựng tóc, muốn gào lên một tiếng đứt hơi trong sự chờ đợi quá căng, chờ bị đánh. Khi bị đánh thật thì dễ chịu hơn nhiều, bộc phá hay lưỡi lê ném thẳng chúng từ giấc ngủ vào cõi chết, nhẹ bỗng.
Chúng tôi ra trận dưới mưa, thi gan chịu cực với Mỹ.
Tất cả đều giống tháng này năm ngoái, nhưng lụt nhẹ hơn. Chỉ một năm thôi ư? Một năm…
- Plâyme có gì mới không, Thiêm?
- Thơ mụ xã ở Mộ Đức đây, đứa nào coi bỏ ra điếu thuốc thẳng. Ôkê Xalem!
- Ghì khiếp lắm, Mỹ la trời.
- Chẳng thà cắt tóc đi tu, lấy vợ Mộ Đức…
- Êm cũ rích, đèn đỏ, cờ xanh, đuôi thằn lằn, lạc hậu một cây.
- Nó phải ném bom sát bờ kẽm gai, dữ dằn.
Đời người có năm dài và năm ngắn, có ngày sườn dốc và ngày chóp đỉnh. Tôi đã thêm một tuổi thật to, tuổi bản lề giữa hai cuộc chiến tranh liền nhau, ba trăm sáu mươi lăm ngày đầy ắp cái mới, mỗi tờ lịch của riêng tôi đều muốn được in chữ đỏ. Biết Mẫn cũng tròn một năm rồi. Để nhớ lần nổi cáu đầu tiên ấy, tôi đã gửi thư biếu Mẫn tám thằng Mỹ mà tôi tự tay bắn gục ở Vạn Tường.
Bầy cháu nội ngoại sẽ nghe tôi kể: “Ông gặp bà giữa hồi núi sụp rầm rầm, nước dâng như chưa hề ghi trong sử sách…”. Chúng cười khì, tưởng tôi mượn chuyện thời vua Hùng. Nếu nói ông thắng trận Vạn Tường, bà ở làng Cá mới được mấy ngày rảnh tay chống càn mà làm cỏ ruộng, lại có vẻ xếp đặt cho trẻ con dễ hiểu. Sự thật lắm khi khó tin hơn lời bịa. Đành vậy, lớn lên chúng sẽ biết, sẽ nhớ. Tôi phải giúp chúng nhớ. Đừng để những bông hoa mai sau tự rứt mình ra khỏi cây vì không muốn dính dáng với bầy rễ cắm vào bùn.
Mẫn hứa viết cho tôi ít nhất nửa tháng một lần, không sợ tôi chê dốt chữ nữa. Lá đầu tiên đã đến, chậm hai tháng. Nó đuổi vòng vèo theo tôi ra Quế Sơn, vào Vạn Tường, lên núi một quãng, lại rẽ hướng Bình Định. Một chuỗi thư trắng. Một đàn bồ câu nhỏ đang nối nhau bay tìm tôi theo con đường bùn xuyên rừng, có mồ hôi và máu vắt cắn chảy trên những dấu chân bấm sâu năm ngón, thêm những lỗ tròn chi chít của gậy chống nặng tay viền hai bên mép. Sẽ thoảng mùi mít chín trên tờ giấy từ vở rút ra, mang nét chữ tròn vo giống cô Cang sắn luộc, có đủ tin bà con chòm xóm, phần riêng Mẫn chỉ được riêng một câu thương nhớ cuối cùng. Chuyện xưa của ta vẫn đặt câu hay nhất ở cuối.
- Yoong Thiêm ơi!
- Gì đó?
- Lan nơi nau xang cau xúc pí, yoong Thiêm? Rơngót pơnay chắc!(4)
Trung đội trưởng Bôn hay khích tôi học tiếng Gia Rai của cậu, lấy cớ rằng Bình Định với Gia Lai như môi với răng, tôi lại chỉ nói được một ít tiếng Co với tiếng Cà Tu, vậy là bạc bẽo. Tôi hiểu câu hỏi dò nửa đùa nửa thật ấy, vẫn giơ hai tay xin hàng.
- Cau pí xúc piai Gia Rai!(5)
Đường này thẳng về quê cậu Bôn, nhưng chúng tôi sẽ dừng tại An Khê. Chưa được phép nói, Tôi cũng chưa biết chiến dịch sẽ mở rộng hướng núi hay biển, Bôn sẽ được gặp vợ hay tôi sẽ về gần Quy Nhơn, đón má tôi với Út Hiền ra thăm một chút.
Quân ngụy Nam Triều Tiên đóng chật cứng trong phố cảng, giá gạo củi tăng gấp ba bốn lần, thở sao nổi, còn chưa nói tới tụi ác ôn rồng xanh cọp trắng ấy phá phách đến chừng nào. Má tôi không bao giờ chịu làm những nghề vặt có dính líu tới địch, như giặt ủi, bán quà hay may vá vặt, má sẽ sống bằng gì và lấy gì nuôi Út Hiền hoạt đông? Hồi đầu năm, chị chủ tịch xã quê má đã rỉ tai rằng em gái tôi “còn nhỏ chút mà được tin cậy lắm”, bởi một anh tỉnh ủy đã dặn sẵn sàng đón Út Hiền nếu bị lộ, không ở Quy Nhơn được nữa. Tới đó gia đình tôi sáu người sẽ ở đúng sáu nơi. Ba tôi sửa ô tô trên tuyến lửa khu Tư, gửi thư nói anh Hai đi học tên lửa bên Liên Xô chứ không sang hải quân, chị Ba lấy chồng trong sông Cầu…
- Bê năm hai!
- Bê năm hai!
- Bê…
Lệnh báo động truyền gọn, vọt rất nhanh, mỗi tiểu đội chỉ nhắc một lần và lập tức tản rộng tìm chỗ núp. Hèn gì nãy giờ trời tạnh mà không thấy máy bay lảng vảng. Tôi đi gấp lên chỗ tiểu đoàn bộ. Anh Sáu Ngân tiểu đoàn trưởng, Năm Cẩn chính trị viên phó đang đứng bên bực đất hõm ven suối, chuyền tay nhau cái ống dòm chiến lợi phẩm:
- Thiêm ơi, cây sáng kiến nghĩ ra cách hạ tàu sừng trâu chưa?
Tôi cười, đón ống dòm:
- Đưa đặc công qua đảo Guam. Chiếm tàu bay Mỹ bay lên đánh. Không thì đợi anh Hai tôi khiêng tên lửa Liên Xô về!
Tít tắp trên chân trời nhô lên một sợi khói trắng, duỗi ra rất chậm, bốn năm phút sau mới tới gần. Đuôi to, đầu nhỏ, trên cùng có một chấm đen: một con sán xơ mít căng dài trên trời, các thức giun sán khác phải tránh hết. Nó vẫn nhoi lên. Đã thấy rõ sợi khói gồm bốn tao song song, phụt từ cánh một chiếc máy bay rất to, xương xẩu, duỗi cặp cánh gầy ra sau như con trâu sừng chéo. Gió thổi rất mạnh mà sợi khói đứng im, chỉ nở đuôi dần dần, kẻ một vĩ tuyến đâu hơn chục cây số trên cao. Tiếng máy rì rì rất nhỏ. Tôi xoay ống dòm, tìm. Sau chiếc dẫn đường, từng tốp ba chiếc một lừ đừ bò theo, cách quãng khá xa.
- Lệch sang trái rồi Mỹ ơi. Tụi tao ở đây kia mà!
- Cho đi nghen?
- Đợi chút, gần tới chỗ nghỉ…
Bà con quen gọi là tàu bảy đầu, bởi thấy một đầu giã, bốn cặp động cơ, hai thùng dầu phụ. Đúng ra là chín đầu. Năm Cẩn ưa truyện cổ, thường nhắc tới thứ “cửu đầu trùng” thời Tây Du sót lại sau trận đòn của Bát Tý Na Tra, vừa bay vừa nhểu máu trên biển Đông, truyện viết rõ rằng tới nay còn gặp. Một thứ bửu bối ném thêm vào đất này chỉ đủ làm nảy một thần thoại mới. Đấy, hãy xem Vạn Tường hay làng Cá. Đàn chim dữ ỉa ra sấm sét bằng mười lần, mười cơn bão, cua sắt và chuồn chuồn sắt bay trên bò dưới, nhả ra đông như kiến những con quỷ đầu xanh trơn bóng, mình có vây cá, chân đen gót sắt, vừa đi vừa khạc tiếng nổ, thổi lửa, phun khói độc. Người Việt đánh tan hết. Trong những chuyện Thạch Sanh hay trường ca Đam San của thời hạt nhân này, có thể lấy tên cô Mẫn mau nước mắt, chú Dé chưa kịp lớn và vô vàn người khác.
Thảm bom bắt đầu rải ầm ầm mé bên trái, cách chúng tôi chừng sáu cây số núi. Tiểu đoàn đi tiếp.
*
Một quãng rừng vừa bị “tàu cánh dơi” B.57 chặt cây đổ lổng chổng hôm qua. Đến hai cây số rừng non trúng chất độc hoá học và napan nhiều lượt, nay đang đâm chồi mới, những búp lá nhỏ xíu mở rụt rè như mắt trẻ em trên thân cây xém. Rồi tiếp rừng đại ngàn, cây lớn cây con chen nhau ngoi lên trời, dây leo trườn đan võng, rất nhiều bụi đang rủ lá xù xì đuôi sóc hay buông cái ngọn khô giống một chuỗi cẳng cò chắp lại. Trung đoàn bộ đây rồi.
Ba chúng tôi chưa rẽ vào vội, đứng bên đường ngắm anh em đi cho sướng mắt, anh Cẩn với tôi còn phải cố nhớ mặt nhớ tên từng người. Tôi rất ngượng khi gọi lầm tên, mà các chiến sĩ mới lại giống nhau như đúc. Tuy đã chính thức làm tiểu đoàn phó nhưng tôi chưa thật nhập vai. Chà, cứ chơi vơi thế nào, “ngó không trùm kêu không khắp”, anh Ba Tơ nói đúng. Và cái cảm giác gắn chặt với xê mình suốt mấy năm qua vẫn còn y, tôi chưa kịp quen với hai tiếng dê mình. Phải cố tập cho nhanh.
Năm Cẩn huých tôi, rỉ tai:
- Xê mình coi bặm trợn chưa kìa?
Tôi chỉ cười, gật, nhưng tim đập vội. Giữa chúng tôi có cái bí mật nho nhỏ ấy: thương xê mình hơn một chút, chút xíu thôi, không nói ra nhưng anh em đều cảm thấy, cũng như cảm thấy anh Ba Tơ còn đi chung đánh chung với cái đại đội mà anh khai sinh và gièn giũa. Cậu Thắng mới hăm bốn tuổi, khi nghe trên điều về C.125 đã hoảng tam tinh, nay cũng như tôi, quen dần. Hay nhỉ, quân ta cứ như đi ngược thời gian, mỗi năm lại trẻ thêm một ít, lứa tuổi của tôi bây giờ trong hàng cán bộ được coi như cỡ trung bình. Những khuôn mặt thân diễu qua, cười, ném vội một câu làm quà:
- Gặp tiền trạm chưa, anh Thiêm?
- Anh Cẩn, thằng Hớn đòi đi, không cho khiêng đây nè…
- Còn thuốc cho điếu, Thiêm?
Đúng là xê mình bặm trợn. Vác nặng, mặc quần đùi áo lót chống gậy lội bùn mà vẫn rõ khí thế Vạn Tường. Tôi trả lời vội, giúi điếu thuốc, ném trả một câu vào lưng cậu vừa ghẹo. Cái bận rộn tíu tít này, vắng nó tôi nhớ kỳ cục lắm, như đứa trẻ nhớ nhà mẹ đông vui hay bà mẹ nhớ bầy con lộn quấy.
Ban chỉ huy trung đoàn ở một lán to lợp hai pông sô và hai tấm tăng. Mươi người ngồi xổm ăn cơm. Anh chính ủy ngoảnh ra, mép dính nhọ nồi;
- Hai trăm mười hả? Đợi chút, tụi mình đói mờ mắt. À, nè Thiêm, cái bụng thiệt tốt chưa?
- Số một Đông Dương!
- Ờ, lát có chuyện.
Tôi đã bỏ nhỏ trước, xin nắm một đại đội đánh mũi chính. Được xê mình càng hay. Chớ nên mừng vội, lỡ có lệnh biệt phái keo nữa thì sao.
Chúng tôi xuống suối rửa. Anh Ngân lập tức cởi áo quần, ném đá ùm ùm, hụp xuống mò cá trong hang. Năm Cẩn rửa những cành chè ngụy trang, đun nước bằng những viên cồn Xtécnô mà anh em vẫn quen gọi là xăng đặc. Cái nạn lầm phó mát với mìn dẻo, coi sôcôla là chất độc đã qua nhanh, lính mình biết bắn M.79, xoay mìn định hướng, cũng quen xơi các món lạ miệng của Mỹ, tất nhiên là phải thử kỹ. Tôi nhét ống nghe vào tai, lần tay đẩy núm vặn cái máy bán dẫn trong túi ngực, xong mới cởi quần dài để khâu vội đường chỉ đứt. Nhạc hùng một phút.
Mời các bạn nghe tiếp bài bút ký “Thăm vành đai diệt Mỹ Chu Lai” của Thu Duy, do thông tấn xã Giải phóng phát.
À, tin quê mới. Tên người tên đất viết tắt cả, biết ai là ai. Đâu như chuyện vùng Đông Bình Sơn. Ủa, mà… chị M. có đôi mắt đậm nét, cây cácbin liên thanh… ôi chao, Mẫn đây rồi! Tôi cuống quít xoay núm cho tiếng to thêm:
…Chiều đã ngả. Chị M. dẫn chúng tôi đi xem ngôi đình lớn đã bị giặc Mỹ dã man đặt mìn phá sập, cả cây đa cổ thụ cũng bị đánh mìn trốc gốc. Giữa quang cảnh tàn phá ấy, hình ảnh người nữ du kích vành đai nổi lên hết sức kiên cường. Cô gái hai mươi mốt tuổi này đã trưởng thành trong khói lửa, nay là người chỉ huy du kích đầy dũng cảm và mưu trí. Cây cácbin báng cong của chị đã diệt trên bảy chục tên giặc, cả Mỹ lần ngụy…
Mặt tôi nóng rực. Mẫn đến với tôi bằng con đường ít chờ đợi nhất. Thu Duy là cậu Duy Hảo với cô Thu Yến, chém chết không sai! Mẹ S. giựt lại cặp heo, có lẽ mẹ Sáu. Cô Út L. đưa truyền đơn cho lính Mỹ, em Liềm rồi. Bác N. là ai? Anh S nữa… Con nít thật, tôi nghe đài mà cứ đòi toàn chuyện người quen sao được. Đồng chí Ba T. ném thủ pháo diệt xe rất trúng đích, có đôi mắt giống chị, nay là tiểu đội trưởng du kích rồi, thằng Tâm khá lắm. Hảo ơi, kể nữa đi, lạy mày, mày nói chữ in ít chớ!
Trước khi sang xã khác, chúng tôi thóc mách hỏi chị M. về đời tư. Người yêu của chị là một anh bộ đội giải phóng nhiều tài đức, đã cùng chị chiến đấu và đổ máu để giành lại quê hương. Chị ngượng ngùng đáp: “vậy đó, ảnh với em như bông bạc giữa dòng…”
Thêm mấy câu chung chung nữa rồi nhạc nổi, “Các bạn vừa nghe xong…”Tôi ngẩn ra, cái quần đứt chỉ cầm tay, đợi đài chuyển qua buổi khác. Tôi hụt mất phần đầu của bài bút ký, gọi là nhắn tin cũng được, chỉ còn bần thần gỡ mấy con vắt no tròn trên chân.
- Mời các vị lên. Úi mẹ, thằng Ngân được ba cá niên!
- Dốt, hai niên, một vọp, một sốc đây nữa. Cho mày con sốc. Tối nay mặc sức húp canh chua nè Thiêm!
Chúng tôi kéo vào lán, bẻ lá lót đất nhão, đặt ba lô trên lá, cưỡi ba lô, lật sổ tay. Trung đoàn trưởng cao chạm mái nhà, vừa lau miệng vừa nói hối hả:
- Ta làm hè. Tham mưu cho biết quân số… Hoan hô. Bà con kịp nghe bản tin trưa nay chưa? Ta đánh hai trận khủng khiếp ở Chu Lai, Đà Nẵng tối qua. Đài mình mới nhắc tin phương tây sơ sơ. Điện của quân khu hồi chiều bảnh lắm, mộ trăm tàu bay trở lên, đang đợi thẩm tra. To nhứt cái anh Chu Lai, chà chà, cả đặc công cả cối, diệt phi công như sắp củi. Còn cánh Plâyme lập kỷ lục diệt tăng với xe thép toàn miền Nam rồi, ghì dữ dội, sư không vận Mỹ rún xương. Mình nghe, mình cứ đánh gậy trong bụng. Coi thử trung đoàn Vạn Tường làm ăn sao cho biết…
Anh ngây mặt nhìn chúng tôi như cố nhớ một cái gì, quờ tay tìm cái ba lô treo trên mấu cây, rút một chiếc đũa ngà voi, đập đập vào không khí, quay vào tấm bản đồ vẽ tay treo đứng.
- Tới lượt tội mình rồi… Hốt mảng này!
Anh gõ bộp đầu đũa.
Một cụm cứ điểm nằm trong nét khoanh đỏ đậm nhảy vọt vào mắt tôi, choán hết luồng nhìn. Có đến sáu bảy cái tam giác đen to nhỏ. Một quả bóng nào đó vỡ nhẹ trong ngực tôi, toả hơi ấm đến chân tay. Đánh to. Đánh rất to!
Đất Tây Sơn mà. Về chỗ có “cây đa khởi cổ, cây cầy xuất binh” của Nguyễn Huệ, chơi vậy mới đã. Từng tảng đá rêu phong sẽ ngửng đầu xem con cháu Bác Hồ đánh Mỹ, gật đầu khen giỏi. Trinh sát của ta đã sờ nắn mãi mớ ung nhọt kia, đánh dấu vết rạch bằng hai gạch chéo trên bản đồ. Các lưỡi dao đã gí tận nơi. Nhiều bàn tay muốn cầm dao.
Bắt gặp mắt tôi khẩn khoản, anh chính ủy cười, gật gật, xỉa một ngón tay. Tôi nổi rôm cả người. Được nắm mũi nhọn rồi! Hết biệt phái tới nằm viện, nay mới gọi là có chút đền bù chứ!
- Đà Nẵng, Chu Lai chưa gượng dậy ngay. Plâyme đang hút địch mạnh. Ta làm keo này được lợi nhiều bề, vậy chớ phải coi chừng nó rút lính thủy đánh bộ Mỹ ném lên chữa cháy, sư Ba nó còn đông…
Càng hay anh ơi. Cho tôi ích kỷ chút xíu, tôi đang muốn giết đỡ cho Mẫn một ít lính cổ da đây… Mà công bằng thôi. Đánh Chu Lai, chắc Mẫn lại kẹp cácbin đưa các anh đặc công lội trắng đêm trên cát và đời nào em tôi chịu vắng bóng trong đợt pháo hoa cuối cùng. Tôi chia lửa cho Mẫn là phải, riêng tây gì đâu. Phải không em, Mẫn, dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau; có phải lúc này em đang quấn quít bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt nên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng?
10-1971
Chú thích:
(1) Đi đường này không được… Đường kia tốt. Tô dẫn xê mình
- Nhiều Mỹ không?
- Không có
(2) Tiếng dùng để gọi lính Mỹ.
(3) Bài hát của Lưu Hữu Phước
(4) Đường này đi đến nhà tôi được không, anh Thiêm? Nhớ vợ quá (Tiếng Gia Rai).
(5) Tôi không nói được tiếng Gia Rai!
LỜi NGƯỜi VIẾT
Cuối sách, tôi xin đề gửi lòng biết ơn không bờ bến tới đồng bào đồng chí ở Tam Kỳ và Bình Sơn – hai huyện bao quanh khu căn cứ Chu Lai – đã nuôi dạy và che chở cho tôi suốt những năm tôi công tác tại đấy.
Tôi cũng xin nhắc rằng tất cả những tên người, tên đất, tên sự kiện lịch sử trong tiểu thuyết này đều là mượn tạm hoặc do tôi đặt ra.
Phan Tứ
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top