Mẫn và Tôi - Phần 1- Phan Tứ

Chương 1            

            - Rồi chưa anh Thiêm làm?

            - Chút xíu nữa.

            Tôi khom lưng, hết lên gân tay, vặn cổ sợi mây song to bằng ngón chân cái. Sợi dây đánh vật với tôi như trăn với cọp. Nó vùng quẫy, trườn, nẩy ngược, quất vào sườn tôi đau điếng, rồi xoắn tròn và giẫy đành đạch. Tôi đạp chân trên lưng nó, lại vặn.

            Chú Dé đến bên tôi, nói khàn khàn:

            - Có du kích hai người, hỏi chỉ huy mình, gấp quá.

            - Khoan, đợi đã.

            Tôi mỏi rã hai tay rồi. Sợi mây chỉ cong lại một ít, không chịu nẻ dọc. Dé bật kêu:

            - May lé ik đớp! (1)

            - Cái gì?

            - Không làm được, để tui!

            Hai tiếng đại bác ngạt mũi trong mưa. Cặp đạn rít vo vo trên cao, biến mất, nổ xa. Mấy hôm nay địch bắn thưa thớt, chúng sợ hết đạn.

            Tôi vừa ngừng vặn để thở phì một hơi. Dé đã giằng lấy sợi mây, kê nó trên một rễ cây, lượm hòn đá đập mươi cái cho thớ mây giập ra, xoắn cổ nó lại rất nhanh. Tôi đã từng làm kiểu ấy, nhưng vừa rồi ỷ sức quá hoá lẫn, kể cũng ngượng.

            Dé buộc đầu dây vào gốc cây gạo. Tôi vành tay lên miệng, gào cho át tiếng nước đổ ầm ầm như mấy chục chiếc ô tô nổ máy tại chỗ:

            - Căng dây ra! Căng dââây!

            Chúng tôi hồi hộp nhìn tổ đầu tiên níu sợi mây lội qua thác. Hình như nó réo to hơn ban nãy. Anh em đã thu ngắn dây súng, treo ngang súng thật cao trên ngực. Áo quần đồ đạc gói cả vào tấm nhựa choàng, buộc túm vác một bên vai, lỡ tuột tay rơi gói xuống nước thì có thể chạy đón đầu vớt lại.

            Đi đường núi, mỗi ngày năm mười lần băng suối lũ là chuyện thường. Nhưng cáu nhất là chúng tôi đang hành quân giữa đồng bằng Quảng Nam, song song với quốc lộ số Một, chỉ cách hơn mười cây số đường chim bay, mà phải mất nửa buổi để vượt một dải ruộng bậc thang kẹp giữa hai sườn đồi, cách nửa tháng chúng tôi cõng gạo qua đây còn thấy khô trắng, nẻ chân chim! Trận lụt quái quỉ đã biến quãng ruộng hẹp thành thác bùn đỏ bầm. Ban nãy tôi với chú Dé phải trút hết súng đạn, ba-lô, buộc dây dù vào bụng - mười khúc dây võng nối nhau - bơi nhào qua thác ở chỗ hẹp nhất, sau đó hì hụi kéo một đầu sợi mây song qua theo.

            Tôi nhẹ người hẳn khi anh em lần lượt níu bụi mua sát mé nước, nhún chân bước lên gò. Việc đầu tiên là đặt gói xuống đất, rút ngay cái quần đùi quấn cổ mặc vào. Về đồng bằng, quân ta giữ tư thế cẩn thận lắm.

            Dé trỏ ngón tay lên đầu dốc:

            - Anh Thiêm đi gặp du kích. Tui qua nước, lấy đồ anh đồ tui. Du kích hai người, kia!

            Tôi vuốt nước mưa tràn vào mắt, nhận ra hai cái bóng mờ mờ trong mưa, đứng im dưới cây dừa thấp. Tôi thấy lạ. Anh Năm Cẩn, chính trị viên, đã đem một tổ đi trước chúng tôi nửa ngày. Chắc hẳn anh qua đây lúc nước còn yếu nên để lại ám hiệu an toàn và đi thẳng vào xóm, tìm gặp xã đội. Nếu hai cậu đứng đấy là du kích Tam Trân được phái ra đón chúng tôi, sao họ cứ thập thò đằng xa? Cũng chẳng phải biệt kích, chúng nó sức mấy mà dám vuốt râu hùm? Coi điệu bộ kỳ lắm.

            Tôi rút súng ngắn cầm tay - một đồng chí vừa đem cái nịt súng sang giùm- cho tiểu đội Một tản rộng, luồn giữa các bụi sim và mua, đi lên đồi. Nhiều trái pháo 105 liên tiếp xoáy mưa trên đầu, nổ phía đường ô-tô. Hai bóng kia vẫn đợi. Họ đội nón lá, trùm tấm nhựa xuống quá gối. Một người mang súng chúc nòng xuống đất. Tôi vạch lá, bước ra trước mặt họ, suýt kêu một tiếng “à”. Hèn gì không dám xuống!

            Họ là hai cô gái rất trẻ, lạ mặt, đang luống cuống gí ngón chân trên bùn, nhìn cắm xuống đất. Chú em trinh sát của tôi nói tiếng Kinh chưa sõi, đàn ông hay đàn bà đều gọi “người du kích” cho gọn. Tôi cười xí xoá:

            - Xin lỗi nghen, tụi tôi dầm mưa ướt hết. Nhờ các đồng chí về báo xã đội anh em đang qua sông, à quên qua ruộng, chừng mười lăm phút nữa đi tiếp được.

            Cô mang các-bin ngửng đầu, rụt rè:

            - Chúng tôi... đội công tác Tam Sa, dưới kia...

            Tôi không để ý, chỉ gọi tiểu đội Một dàn ra giữ mặt trước, rồi chào vội, bỏ đi. Cô kia bước theo mấy bước, nói hấp tấp:

            - Báo cáo đồng chí, tụi tui ở Tam Sa, vùng bị chiếm...

            - Đây là Tam Trân chớ?

            - Nguy lắm anh à. Xã em... xã chúng tôi lụt ba thước nước, địch còn bắn ngày bắn đêm, bà con chết quá đi... Các anh làm sao xuống cứu giùm... tụi nó nhốt đồng bào trong ấp...

            Tôi quay lại. Cô du kích Tam Sa nhìn tôi bằng cặp mắt đỏ, mí sưng dày. Đôi lông mày rậm đen giương cao, đợi câu trả lời. Hai cánh mũi phập phồng thở mạnh. Biết nói sao để cô hiểu bây giờ? Tôi gạt nước mưa trên mặt, lặp lại những câu đã nói nhiều lần khi qua các vùng bị ngập:

            - Đồng chí hiểu cho tụi tôi phải đi xa lắm, gấp lắm. Phải như khi khác, tụi tôi nhào xuống cứu liền không đợi nhắc.

            - Dạ, tôi cũng biết bộ đội phải lo đánh giặc, nhưng mà...

            Một ánh chớp màu cam chợt loé trong màn mưa đục, bên phải tôi. Một tiếng “inh” rất sâu, rền dài, như trái bom tấn vừa nổ dưới mười thước đất. Đất quẫy rùng rùng. Cái gì vậy? Tôi sửng sốt ngó quanh, chợt thấy hòn Chò bên kia dải ruộng ngập có cái gì khác thường. Trái núi đang cựa mình. Đấy, rõ ràng nó cựa. Mấy thân cây cao in sọc trắng trên núi bắt đầu rung nhòe nét trên nền lá sẫm. Một đường ngoằn ngoèo màu đỏ tươi đang chạy từ đỉnh núi xuống chân, nở to rất nhanh, như luồng sét nào vừa đánh xuống và dính luôn vào sườn dốc. Một đường nứt nẻ. Núi đổ!

            Bị nước lụt xói mãi vào chân, cả một mảng núi đang sụt xuống.

            Sau tiếng nổ lớn, hòn Chò phát tiếp ra tiếng sấm đất, ban đầu nghe xa và bí hiểm, dần dần dội lên, rất to. Các thứ tiếng tách rời nhau mỗi lúc một rõ: lách cách, òng ọc, rắc rắc, rào rào, và từng loạt tiếng nổ râm ran như một tiểu đoàn đang bắn máy bay. Những khối đá to bằng cái nhà bắt đầu lăn, xô đẩy nhau, càng xuống thấp càng lao nhanh, chồm lên nhau như bầy trâu điên nhảy loạn. Một chùm tảng đá cỡ cái chum bị húc văng tốc lên trời, xoay tít, vẽ những đường cong đen trên mưa trắng, rơi bịch bịch; một hòn gieo xuống cách tôi chỉ một tầm ném lựu đạn, quẫy ào ào giữa các bụi mưa như heo rừng bị bắn gãy chân. Đá nhào trước, tiếp tới những cây to của mảng rừng cấm. Cây lăn ngang lông lốc một quãng, cành và rễ biến thành những bánh xe răng cưa lắp hai đầu thân, rồi lần lượt chuyển sang chuồi dọc theo dốc, chân xuống dưới. Tiếp đó, từ vết thương đỏ hỏn của núi, một dòng máu bầm lừ lừ tuôn ra, rất đặc, lan rộng, lổn nhổn những cây đá ngào trong đất lầy, với những hòn đá nhô màu trắng như bọt sủi. Trái núi bị quấy lỏng thành thác bùn mênh mông đang chảy xuống!

            Tôi đứng ngó trân trân, chợt thấy đầu nóng bỏng và chân tay lạnh sởn da gà. Rất may, mảng núi kia lở hướng khác. Nếu nó đổ xuống chỗ C.215 của tôi đang qua thác... Chúng tôi không thể nổ súng đánh bật lùi trung đoàn đá. Dù tìm được hố rãnh núp, chúng tôi cũng sẽ bị chôn dưới mấy thước bùn, cả đại đội biến mất không còn dấu vết, chao ôi! Núi còn sụt nữa. Phải vượt gấp quãng này. Tôi đâm đầu chạy xuống chỗ lội. Đằng sau tôi ai đó kêu to.

                      *

    Anh em đã qua thác gần hết, đại đội trưởng Ba Tơ thắt nịt súng ngắn, hỏi:

            - Gì như động đất vậy Thiêm?

            Thì ra quả đồi này che khuất cảnh núi sụt. Tôi kể hối hả. Ba Tơ quay lại, hét gọi mấy tổ bên kia qua gấp. Nước lũ đang ngả dần sang màu đỏ tươi pha vàng - màu của lớp đất sâu mới bị quật lên - chảy nhanh vọt, chậm lại, rồi kêu ùng ục như nồi cháo sôi. Chúng tôi túm tay kéo hai đồng chí sang cuối cùng, họ không rút chân được nữa trong chất hồ đỏ sền sệt. Hú vía!

            Ba Tơ cau mày, mặt còn tái:

            - Hết sông ngăn tới núi cản. Đi như rùa bò, đây rồi xê mình mang tiếng gỡ không ra đó Thiêm... Đằng trước mau lên, rửa cái gì, lên đỉnh gò tập hợp!

            Tôi mặc áo, choàng cái quần dài qua cổ, xốc ba-lô. Hai đầu gối còn hơi run, có lẽ vì cơn hoảng vừa rồi. Một cái tình huống chưa hề gặp, cũng chẳng nghe nói bao giờ. Anh Ba vẫn lắc đầu:

            - Trễ hẹn mất Thiêm à. Tới ngày N, chắc tụi mình còn lội nước tận đâu đâu, tiếng bộc phá không tới lỗ tai.

            - Mấy xê kia không chừng cũng mắc kẹt...

            - Tụi thằng Long giữa mùa lụt cứ đi mỗi ngày hai trạm, không nhớ à?

            Nhớ chứ, nhưng tôi không muốn anh sốt ruột thêm. Tôi buộc tấm choàng trùm trên mũ tai bèo, thắt múi sau gáy, khom lưng leo dốc lần nữa. Hai cô gái trên đầu dốc đã biến mất. Hình như ban nãy cô đeo các-bin gọi với theo tôi mấy tiếng thất thanh, rất tội, nhưng giờ thì đâu mà phân bua. Cái lý do đang nằm to tướng sau lưng tôi kia: dòng thác biến thành thung lũng lầy đang nở nhanh, cây gạo đứng chỗ mé nước hồi nãy đã ngập tới nửa thân, còn chưa hết ngập.

            *

         Chỉ có ba chúng tôi trong ban chỉ huy được biết ngày và nơi hội quân, nhưng mối lo trễ hẹn cứ day dứt từ đại đội trưởng Ba Tơ đến chú Dé em cưng mới nhập ngũ. Lính xê mình rất tài coi tướng cán bộ.

            Sau bốn trận thắng khá ngon ở Quảng - Đà, tiểu đoàn chúng tôi được điều vào Quảng Ngãi theo trung đoàn đã vào trước. Sắp làm ăn to đây. Năm Cẩn đi nhận lệnh, về cười khà:

            - Trung đoàn cưng lính thiệt chớ. Các ảnh cử phái viên ra, sắp đặt cho tụi mình vừa đi vừa nghỉ xả hơi, ăn uống bảnh, tới đất Sơn Tịnh là choảng được liền.

            Đời lính mang nặng đi dài, chẳng mấy khi được đi một chuyến hành quân thoải mái như kỳ này. Chúng tôi sẽ đi mỗi ngày một trạm ngắn, nhiều nhất chỉ năm tiếng đồng hồ, toàn ban ngày, ngoài tầm pháo địch. Ba ngày đi, một ngày nghỉ. Hậu cần làm ăn rất cừ, đã đặt ở mỗi trạm nghỉ một chú trâu hay bò đang vỗ béo bên cạnh một rẫy sắn cỡ sư đoàn. Gạo tăng vọt lên “lon quan ba”(2). Cậu Châu, phái viên hậu cần, mọi khi tới đơn vị thường méo mặt kể khó khăn, nay rung đùi thả cửa. Cậu ta khoe tài xoay sở mãi đến nỗi anh Ba Tơ phải chặn: “Thôi được, mày cứ đi với tụi tao làm con tin. Hễ thiếu trâu, tao xẻ mày tao nướng”. Tay Châu này tính cởi mở, xốc vác, rủi bị mấy lần hứa hão nên bị gọi là “ông trâu giấy”. Bị trám miệng, cậu không bực, chỉ rút dao xếp ra liếc trên bàn tay: “Keo này được ăn trâu mập, đứa nào còn nhắc tới trâu giấy là tao xin khúc lưỡi!”

            Quân đi được vài ngày, ông trời bắt đầu phá đám. Mây kéo lên, căng trên đầu chúng tôi một lớp bong bóng heo đều màu. Mưa tuôn xuống, mới đầu là thứ mưa phùn rây bột làm mát người mát đất. Lính ta rất khoái. Mưa vuốt dịu đợt nắng cuối mùa. Mưa làm tàu bay mù mắt, tới trạm mặc sức đốt lửa ban ngày mà lùi sắn, nướng thịt trâu, pha chè rừng nhấm nháp.

            Giọt nước qua mỗi ngày đêm lại nở ra một chút, dày thêm một chút. Những đợt tạnh rút ngắn lại, biến hẳn, mưa chiếm hết trời đất. Mỗi lần sốt ruột ngửng lên nhìn trời, chúng tôi chỉ thấy những chấm bụi li ti từ nền mây đục kia tuôn xuống, chen chúc như trẻ con vừa chạy vừa nghịch huých nhau, to dần, khi rơi bộp trên mặt thì bằng hạt đậu đen. Vất vả rồi. Vắt kéo ra đón đường như tằm ăn rỗi. Quàng nhựa leo dốc, mồ hôi tuôn đầm đìa khắp người, hơi nóng bốc lên mặt hầm hập. Áo quần chịu để thối hoắc, không giặt phơi được. Củi ướt, đất ướt, cơm hết sống lại nhão. Chân bị nước ăn, ban đầu chỉ ngứa rát ở các kẽ ngón, sau cả bàn chân bị nẻ da rỉ máu, nhúng xuống nước đau nhói tận óc.

            Rồi những cái phiền vặt đó không đáng kể nữa, khi trước mặt chúng tôi mọi chỗ trũng đều biến thành suối, suối thành sông, sông thành cửa biển. Cầu lớn cầu nhỏ kéo nhau về biển Đông hết sạch. Chúng tôi đi bằng cặp chân lội bùn, sau thêm cây gậy, rồi ghép thêm hai tay níu hoặc bò, thêm phao ni-lông độn áo quần và nhồi lá cho phình to đủ sức cõng trung liên. Mỗi ngày năm bảy lần chúng tôi lặn mò súng chìm, chạy dọc thác vớt ba-lô, có khi phải nhào theo các cậu trượt chân bị nước cuốn. Những luồng “nước cống”, mà chỉ khe suối trên núi mới có, hay gầm rống thốc xuống như máy bay chúi, trong chớp mắt biến chỗ lội cạn thành cái thác dữ cắt nghiến đơn vị làm đôi, và chúng tôi đành đứng hai bên bờ nhìn nhau, đợi vài giờ cho nước vợi bớt.

            Cán bộ cũng ngấm nước mưa bợt người và uống đầy bụng nước lũ như anh em, nhưng cứ bị lửa đốt trong ngực: chậm nhất ngày 14-11-1964 phải có mặt tại Sơn Tịnh, sẵn sàng nổ súng. Bộ đội đi từ mờ đất đến nhọ mặt người. Chưa đủ. Năm đội mở đường được phóng lên trước, gồm các “chuyên gia cầu treo”, “chuyên gia cắt rừng”, “chuyên gia dò thác”. Vẫn mất hai ngày đêm để vượt một trạm ngắn.

            Tiểu đoàn đành bỏ đường núi. Từng đại đội tách ra, toả xuống đồng bằng, chia nhiều ngả vào Quảng Ngãi. Anh tiểu đoàn trưởng cười cười, vạch cho C.125 của tôi một nét bút chì trên bản đồ:

            - Các cậu đánh tao ngộ khá, cho ăn nhậu vùng thấp nhứt, tươi không?

            Nét bút, vẽ rất nhạt để sau dễ tẩy, lách qua gần chợ Cẩm Khê, chợ Cây Sanh. Phải đi sát hông sáu đồn to bót nhỏ, cả chục ấp chiến lược, dễ đụng giặc lắm, mà đụng ắt ngứa tay muốn choảng. Anh tiểu đoàn trưởng lấy cuốn sổ trên tay tôi, viết luôn mấy chữ thật to: “Nhớ ba yêu cầu: bí mật, đúng hẹn, đủ quân số võ khí”. Anh trả tôi cuốn sổ, vẫn cười:

            - Mình gửi mấy chữ cho Ba Tơ. Ông bạn cố tri của mình nóng mũi một cây, cậu phải can không cho hắn đánh ẩu dọc đường, nhớ chưa?

            Đại đội tôi đi nhanh hẳn lên sau khi rẽ cương. Chính trị viên Cẩn là cán bộ lâu năm của Quảng Nam, tới xóm nào cũng “đụng đầu người quen cộp cộp”, nên chúng tôi có sẵn đò chực bến sông, du kích dẫn đường, các mẹ lo giùm cơm ăn cơm gói. Địch mắc mưa nằm co trong đồn, bắn pháo hà tiện, máy bay chỉ quần đảo mé trên lớp kính đục che trời. Chúng tôi dấn tới, bù được mấy ngày chậm trên núi, mừng rơn. Rồi nước lại dâng. Con lũ xuống núi đuổi theo chúng tôi, dai và ác như đỉa voi. Đất Tiên Phước lùi về phía sau. Đồng bằng Tam Kỳ đón chúng tôi bằng tiếng trống mõ báo động dội râm ran trên vùng nước trắng băng. Chúng tôi đổ xô vào cứu lụt một, hai, ba lần, đã trễ càng trễ thêm, vừa đi vừa chạy cũng không kịp. Nhiều anh em gục lả. Cơn lũ đã đến trước, chặn đầu những người lính sốt rét đến lập cập lảo đảo, mắt sâu và má hóp, tay rớt da, bàn chân rỉ máu, nhưng vẫn khiêng theo tất cả các đồng chí ốm, lội nước thâu đêm về hướng chiến dịch.

            Ba Tơ phà một luồng khói rất đặc, nhắm mắt, nói lúng búng: “Chà, đã thèm...”. Bộ mặt to ngang và sần sùi biến trong khói. Theo thói quen, anh hoa hoa điếu thuốc trước mặt, ai cần thì đón lấy rít vài khói, nếu không anh lại hút tiếp. Nhưng chúng tôi có đủ mỗi người một điếu thuốc rê cỡ bự trên tay.

            Năm Cẩn đón anh em lúc sẩm tối ở thôn Sáu xã Tam Trân, gọi tắt là Sáu Trân nghe hệt tên người. Anh mua nửa con bò chết đuối và gạ vay được lúa đảm phụ giải phóng, nhờ bà con sấy và xay giã gấp, đất cũ người quen có khác. Chúng tôi đánh một chầu cháo bò nhiều hành, nêm nước mắm nhứt, ăn vào tới đâu biết tới đó. Nước mưa ngấm da bị đẩy ra từng giọt to, tôi trút được tới vài ca mồ hôi, người nhẹ thênh. Lập tức nửa đại đội được chọn đi cứu lụt ở hai thôn gần, hẹn bốn tiếng phải về để kịp lên đường lúc gà gáy đầu. Chi ủy họp gấp trong căn nhà tranh của chị xã đội trưởng Tam Trân, ngồi trên những bó lúa can sớm gặt dưới mưa còn xếp đống to giữa nhà, chảy nước ra nền lênh láng. Vùng này kịp gặt xong cả, rất may.

            Hồi chiều anh Bảy quai nón, bí thư huyện Tam Kỳ, đã tìm gặp Năm Cẩn, nhờ bộ đội góp sức cứu lụt vài hôm, nhất là cứu đồng bào bị giam trong các ấp chiến lược dọc đường Một. Số người chết đến sáng nay đã ngót bốn trăm, còn tăng nữa, nước cứ lên không ngừng. Trong chuỗi tên của các ấp bị nặng nhất, tôi nghe có làng Cá thuộc Tam Sa. Cô du kích Tam Sa có đôi mắt sưng, chỉ kịp nói vài câu ấp úng...

            Ba Tơ hơi gắt:

            - Kéo xuống tận đường Một... Mình ăn cơm Tam Kỳ mòn răng đây nè. Mỗi lần đi gấp qua đây, cứ phải úp mũ giấu mặt, không thì bà con túm áo níu lại, bắt ghé ăn gà uống rượu suốt ngày. Năm Cẩn cũng vậy, phải chưa? Thử hỏi xê mình đứa nào mấy bữa nay khỏi sốt ruột sốt gan?

            Không ai cãi, nhưng anh sừng sộ to hơn:

            - Các cha nhớ đó, hồi nào trực thăng nó chụp xuống đầu làng, cả xê mình xách súng chạy ra rừng, bị bà con chửi cho rát mặt. Tới khi hốt được cái Gò Sậy, dắt tù binh về một xâu, các mẹ mới nấu cơm cho ăn. Bây giờ cũng vậy. Cứ đậy mo lên mặt mà đi, nhồi đất sét vô lỗ tai mà đi...

            Các đồng chí đưa mắt cho nhau qua ánh đèn dầu lù mù, thở dài, chép miệng. Mỗi người đang bị giằng xé rất đau, và hơn cả vẫn là Ba Tơ, tôi biết. Những tin xóm trôi người chết xóc mãi vào anh cán bộ huyện đội Tam Kỳ năm xưa, gãy trong thịt như gai xương rồng. Anh cáu kỉnh giục bộ đội đi gấp nữa, anh cãi nhau với mình, tự thúc mình đấy thôi. Những lời oán trách của cán bộ và đồng bào sẽ trút xuống đầu anh trước hết. “Thằng Ba Tơ dẫn đại đội nó đi thẳng một hơi, bà con chết lụt nó không thèm ngó. Thà rằng ai đâu xa lạ, chớ nó ăn dầm nằm dề đất Tam Kỳ...”

            Chúng tôi lật đi lật lại các công thức gỡ bí, nhưng chính người đưa kế ra cũng biết rõ mình đang tự dối mình. Gãy hết. Một cuộc họp bị tắc tị, buốt ruột.

            - Đại đội ở lại một ngày hai đêm, sau đó đi hoả tốc; anh em đã đuối càng kiệt sức hơn, số lên cơn sốt rét tăng vọt, đến nơi làm sao đủ sức đánh dài ngày?

            - Chọn để lại một trung đội khoẻ mạnh, cứu lụt vài ngày, xong đuổi theo đơn vị?

            Ý này của tôi, và tôi muốn lãnh trung đội ấy. Tôi còn khỏe, bơi khá. Nhưng ai sẽ vác súng cối, khiêng người ốm, gánh đạn và gạo đi trước?

            - Cho người chạy hoả tốc tìm gặp ban chỉ huy tiểu đoàn xin ở lại cả đại đội? Tiểu đoàn đi trước khá xa. Chúng tôi không có tàu bay, máy điện tín. Đường bộ ngập lênh láng, xe đạp tắc. Đường sông không có. Vài người chạy bộ vào tới địa đầu Quảng Ngãi rồi trở ra, nước lụt đủ thì giờ về biển hết. Vả lại ngày hẹn là do trung đoàn hay cấp trên nữa qui định...

            Chi ủy tính nát nước. Mỗi lúc chúng tôi lặng im, tiếng trống mõ từ phía Đông lại bay tới lao xao, chen những loạt cối to cối nhỏ, những tràng súng máy từ các đồn trên cao xả xuống chỗ nào có đốm sáng. Chạy lụt trong đêm mưa phải có đèn. Tôi nhìn cái đèn pin nhựa Vasa thò đầu ra khỏi túi dết của Năm Cẩn, thoáng rùng mình. Thứ đèn này bán khắp nơi, đầu bằng nhựa trong, rọi xuống đất vẫn lộ một cục sáng trắng to sù...Địch đã bắn nhào bao nhiêu bà con soi đèn chạy lụt đêm nay?

            Năm Cẩn thì thào một điều chúng tôi đã biết:

            - Vùng giải phóng ở mé trên này, cao hơn, ngập lác đác từng chỗ còn dễ cứu. Dưới kia khó, anh Bảy mới năn nỉ nhờ tụi mình...

            Câu nói đông lại trong cổ anh. Anh rướn cổ, nuốt mạnh hai lần, nín luôn. Rõ quá rồi. Tiếng mõ và tiếng súng thay anh kể tiếp. Địch nhốt đồng bào vào các ấp chiến lược quanh chân đồn, chỗ thấp, sát họng súng, rào thép gai và mìn vây kín, cổng ấp khoá cứng. Sẽ còn ai sống sót không để tả lại cảnh địa ngục đang hiện hình dưới kia: nước dâng réo ầm ào trong đêm đen kịt, hàng ngàn con người rú thét chạy loạn, mìn nổ tới tấp dưới chân đạp, đạn giặc quét vung vãi xuống đầu, trời đất ơi! Một đồng chí bước vội ra hè, không kịp nén tiếng nấc. Anh Ba Tơ nhìn tôi trừng trừng, bàn tay anh đang nắm lặng lẽ bật lên một ngón, hai ngón. Anh hất hàm. Tôi lắc đầu. Năm Cẩn thở dài. Ba chúng tôi đều biết không thể trễ hẹn, dù chỉ vài ngày. Đến trễ là phạm kỷ luật chiến trường, là trốn chiến đấu, là đào ngũ, là làm cho trung đoàn bị què cụt, là phá vỡ cuộc tiến công rập ràng. Chúng tôi có vô khối lý do để khỏi bị trách phạt. Nhưng người đảng viên trong mỗi chúng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, chưa nói đến cả chi bộ, chi đoàn, cả xê mình sẽ cảm thấy lần đầu mang nhục...

            - Thôi giải tán. Còn ba tiếng nữa, rán ngủ.

            Ba Tơ nói khẽ như báo tin thất trận.

            Chúng tôi treo võng dồn vào một đầu nhà. Bên kia đống lúa chưa đập, ba đứa con chị Bỉnh chủ nhà ôm nhau ngáy trên bộ ván kê sát đất, mẹ chúng đang chạy góp người góp gạo cứu lụt. Năm Cẩn viết vội mấy chữ gửi anh Bảy quai nón - lại phải phân trần. Thêm một mớ đạn 105 chừng mười hai trái nữa hú dài, chớp lửa gần, rung đất dưới chân tôi. Ba Tơ đang ngồi, co chân lên bôi thuốc đỏ vào các kẽ ngón, ngửng đầu. Mắt anh có đốm lửa.

            - Thiêm à, tao muốn ăn non một cú quá, mày!

            - Cú sao đó?

            - Pháo kích. Sơ sơ một chục trái cối sáu mươi, thả vô chỗ hai trăm lẻ năm của tụi Chóp Chài. Cũng nhẹ vai anh em chút đỉnh. Tụi nó nghi bộ đội huyện, biết sao được chủ lực đánh lẻ...

            Tôi rút cuốn sổ tay, giơ cho anh xem lại mấy chữ của tiểu đoàn trưởng ghi. Đây là lần thứ ba anh nóng mũi. Anh “hự” trong mũi, thả phịch đôi vai to bè bè xuống võng, kéo tấm đắp lên trùm đầu, không cựa quậy nữa. Tôi khoác tấm nhựa, lê chân đau nhức đi gặp các trung đội. Anh em cứu lụt đã lục đục về gần đủ. Quay lại nhà chị Bỉnh, tôi chỉ còn đủ sức nhấc hai chân đầy bùn đặt lên võng.

         *

    Khi lịm nhanh như hòn đá rớt xuống ao, trong tai tôi vẫn xoáy tròn tiếng trống mõ của vùng dưới. Tôi giật mình thức giấc có lẽ vì cái tiếng nhoi nhói ấy biến mất. Đúng, nó dứt rồi. Chỉ còn mưa tuôn sùi sụt, chuột kêu trên mái, vài loạt súng lạc lõng. Nước rút, hết báo động. May quá... Tôi nghĩ chập chờn bấy nhiêu, đã thấy cái đầu đặc sệt lại buồn ngủ đến nhũn người. Giọng phụ nữ nói khẽ, nói to, nói khẽ. Giọng quen quen. Của ai? Đến giờ báo thức chưa nhỉ? Lỡ cậu gác ngủ quên... Tôi cố mở cặp mi mắt đè nặng như chì, xoay cổ tay xem mặt đồng hồ lân tinh dưới tấm đắp. Mới gần hai giờ sáng. Hai rưỡi dậy, ba giờ ra đi. Vẫn cái giọng quen quen bên kia đống lúa, cạnh bếp. Tôi hé tấm dù nhìn sang.

            Chị Bỉnh xã đội trưởng Tam Trân đang chất thêm củi vào bếp. Hai cô gái nữa ngồi sưởi. Cả ba đều ướt sũng, quần vo quá gối. Một cô nói rụt rè:

            - Thôi chị, ngập lụt khó đi củi...

            Cô rút bớt mấy thanh đang cháy. Ngọn lửa soi một khuôn mặt hơi hóp, có đôi lông mày rậm đen như mày đàn ông, nhưng uốn cong đều nên trông vẫn dịu. Người cũng gầy, cái nịt đạn Mỹ bó ngang eo lưng mảnh dẻ trông to bản hẳn ra. Cô du kích Tam Sa ban chiều đây rồi.

            - Em về, chị.

            Chị Bỉnh gạt phắt:

            - Tầm bậy! Đạn chê thì nước cũng nuốt mày, đợi sáng đã!

            - Em về. Mai chị cứ cho số anh em đó xuống thẳng gò Trúc, em đón...

            - Mày điên hả Mẫn? Bộ cả chi ủy có một mình mày biết lo thôi à? Đưa súng đây!

            Chị giằng cây các-bin băng cong trên tay Mẫn, dựng trái vào góc phên, nhắc cái đòn kê đến ngồi bên Mẫn, quàng tay ngang vai Mẫn. Chị to gấp đôi Mẫn, trông như mẹ bên con. Mẫn úp mặt trên đầu gối. Chị Bỉnh ghé tai Mẫn thì thào hồi lâu, tôi không nghe được. Cũng chẳng đẹp đẽ gì cái lối nghe trộm, nhưng tôi biết họ chỉ nói chuyện cứu lụt nên cứ lắng tai. Chợt Mẫn thổn thức hơi to:

            - Không phải đâu chị!

            - Còn ngập thì còn đánh mõ la làng chớ, đây im xo hết...

            - Chết sạch trơn rồi, lấy ai nữa mà báo động!

            Một luồng lạnh buốt giội từ đầu xuống chân tôi. Tại sao tôi không đoán ra cái điều dữ dội mà rất đơn giản ấy? Nước rút sao được dưới trời mưa không dứt hạt? Tôi run tay bíu vào mép võng, muốn chồm dậy, muốn kêu to rằng bộ đội sẽ đi ngay bây giờ. Nhưng tôi không hất nổi tảng đá đè trên ngực. Tôi phải ỳ ra như cái bị thịt. Áo quần biến thành tôn lạnh bó cứng chân tay, và dọc lưng tôi luồng lạnh ban đầu cứ đọng lại mãi, như nước chảy theo dây võng đã ngấm ướt nửa người bên dưới. Nằm im đấy, bịt tai, nhắm mắt, rồi cuốn gói đi trước sáng. Nhắc lại với cô du kích kia những lời phân trần xoắn xuýt để làm gì, trong khi bà con mắc lụt cần tay giúp hơn cần mồm mép!

            Chị Bỉnh hất hàm về phía bốn cái võng của chúng tôi:

            - Hồi chiều mày gặp ai?

            - Anh gì còn trẻ, trắng trắng, cao, bộ tướng như học trò thành phố, nói giọng tỉnh trong...

            - À, anh Thiêm, Tư Thiêm đại đội phó. Sao?

            - Ảnh mới nghe thấy tiếng đã phủi như phủi tàn lửa. Em nghe nói có chú Ba Tơ, chú Năm Cẩn, tính hỏi thăm mà ảnh đâm đầu chạy mất. Coi người như rác!

            Tôi điếng người. Rất may chị Bỉnh nói giúp:

            - Tay Thiêm đó tao biết, cũng tốt nết lắm. Cả đại đội bị bết xà lết mà phải đi thí xác, coi thiệt thương. Hồi tối chi ủy họp ở đây, tính chuyện cứu lụt, bàn riết rồi chịu bó tay, anh Cẩn nói vậy. Gà gáy đầu họ đi rồi. Đừng oán, tội anh em.

            - Oán ai đâu. Chỉ ghét cái người làm bộ làm tịch. Thôi em về, dứt khoát. Dậy, Liềm!

            Mẫn lay cô gái thứ hai nãy giờ ngồi dựa phên, ngoẹo đầu ngủ say. Liềm mới trạc mười lăm, gầy nhom, da nâu. Chị Bỉnh thở dài, nhấc thử cái bao bột mì to đặt trên ghế đẩu, chép miệng không nói. Dưới vải gồ lên những quả gì tròn, bằng trái cam, có lẽ là cơm cứu đói. Mẫn luồn hai tay ra sau, gạt rất gọn những thứ đeo trên thắt lưng ra trước bụng: mấy băng các-bin ngắn, hai lựu đạn mỏ vịt, một cái võng xi-ta xếp nhỏ. Xem cái dáng quen thạo của Mẫn, tôi biết cô này đã đeo súng nhiều năm, không phải mượn súng người khác đem theo giữ mình. Mẫn khoác hai quai bao cơm vào vai, chống tay trên gối, mím môi cố đứng dậy. Liềm đưa súng, choàng cho Mẫn tấm nhựa rách mấy chỗ. Vừa nhích vào bước, Mẫn lảo đảo vịn cây cột, tay run. Chị Bỉnh vội đỡ cái bao to gấp bốn vòng bụng Mẫn, gắt:

            - Bỏ ra, mày bôn(3) thì đi trước, lát nữa tụi tao đem cơm xuống!

            Mẫn hít mấy hơi dài, ngửng lên, gạt tay chị:

            - Em ngồi lâu, đứng dậy... hoa mắt chút thôi.

            Mẫn cười nhợt nhạt, trao các-bin cho Liềm, níu cửa bước ra chầm chậm. Chị Bỉnh lắc đầu, cầm đèn ra thềm. Bên ngoài tấm rèm mưa buông từ mái tranh, chỉ có một khối đen đặc của trời và đất nối liền nhau bằng những cuộn chỉ trắng tuôn hoài không dứt đoạn. Quãng ruộng ngập trước nhà, hồi mới tối còn chảy im lặng, giờ đã réo lên tiếng thác ồ ồ trong đêm, đầy đe doạ.

  *

 Từ mé trên, một lệnh ngắn chạy dọc hàng quân:

            - Dừng lại, nghỉ chỗ khuất. Mời anh Thiêm lên.

            Lại gặp một con sông nào đó mới ra đời trong lụt! Tôi đưa trả cây trung liên cho cậu Kỷ, vòng lên, lội lõm bõm dọc các bờ ruộng bậc thang đã biến thành vô số đập nước tràn, tránh một chỗ bờ bị xói sâu hoắm, chợt thấy một người đang hoa tay nói gì giữa trung đội Hai. À “ông trâu giấy”. Có tin mới đây rồi!

            Tay Châu nhác thấy tôi, vội kêu:

            - Giật gân, gay cấn, ai yếu tim bịt tai đừng nghe!

            - Trâu bứt mũi chạy ra rừng hả?

            - Tào lao, Bác Hưng đánh rồi. Hốt trụi một lính dù chánh hiệu rằn ri, cha chả, đang vây đồn mần nữa. Cắt tiểu đoàn cậu ở lại Quảng Nam cứu lụt mươi ngày. Gởi tặng mỗi xê một đài chiến lợi phẩm mới tinh hảo, xê cậu được một Xô-ni. Đã đời chưa? Hơn ăn trâu mập chưa?

            Anh em cười rộ. Vui thắng trận có, mà mừng được cứu lụt chắc là phần nhiều. Những đôi mắt hõm vụt tươi lên. Tôi cười theo. Hình như tôi vừa hất khỏi vai một khúc gỗ sém nặng ghê gớm trong những ngày khiêng cây dọn rẫy. Riêng anh Ba Tơ không cười. Anh lẳng lặng kéo tôi đi lách lên trước. Chính trị viên tiểu đoàn đón chúng tôi giao việc mới. Ba Tơ liếm một giọt mưa đậu trên mép, dặng hắng, hỏi ngập ngừng:

            - Diệt tụi dù... gọn không?

            - Cũng khá. Sẩy đâu bốn chục thằng đuôi.

            - Mình bị bao nhiêu?

            - Mất ba, bị thương tám. Đánh dưới mưa đỡ bớt cái tàu bay. Tù binh một trăm hai, chạy gạo cho nó ăn mệt đừ.

            Đến lúc này những nét đăm chiêu trên mặt Ba Tơ mới giãn ra. Anh gật gật, cười, những giọt nước đọng trong râu rớt xuống. Trung đoàn không vì chúng tôi vắng mặt mà gặp khó, vẫn đánh ngon. Tôi thầm ngượng vì trót vui quá sớm và ồn ào khi được lệnh mới. Thân này ví xẻ làm đôi được...

            Chính trị viên ngồi xổm, cầm que vạch sơ đồ trên mặt bùn, nói vội:

            - Sáng nay nước lên non một thước nữa, nguy to, tràn lan hết. Mình đi trên sườn núi, ngó xuống phía Tam Sa, Tam Lộc, thấy lút ngọn tre mất rồi. Ba Tơ à, cậu là thổ công hà bá đất này, lãnh luôn cánh nam Tam Kỳ đi. Vùng giải phóng bị nhẹ, tự lực thôi, cậu đem quân nhào xuống mé đường Một mà cứu. Địch bắn thì kêu loa cảnh báo gắt, cực chẳng đã mới nổ súng. Có điều nhứt thiết phải để dành một trung đội nắm trong tay, phòng càn. Hễ ngớt mưa là trực thăng chụp xuống lập tức, nó tuyên bố mượn sư đoàn nước diệt hết Việt cộng rồi đó, mẹ nội nó chớ diệt!

            Năm phút sau, C.215 quay ngược chiều, sải chân trở lại Sáu Trân. Ban chỉ huy vừa đi vừa bàn. Năm Cẩn bị buộc phải nắm trung đội “ứng viên” vì đau dạ dày. Tôi giành đi Tam Sa. Cái tên ấy được nhắc đi nhắc lại mãi, thôi thúc quá. Tôi còn mắc nợ riêng cô du kích Tam Sa có đôi mắt đàn ông. Những bà con đang chới với trên mái nhà sắp bị nước cuốn, nếu nghe Mẫn nói tới anh bộ đội nào đó “coi người như rác”... Tôi sởn gai trên mặt. Một phút vô ý, không, chỉ vài giây thôi, nhưng vô ý đối với một người đang khổ đến cùng cực...

            Tôi treo cái máy thu thanh Nhật mới nhận trên cổ, vặn nút. Chưa tới giờ đài Giải phóng. Tôi tìm Hà Nội, khoảng một ngàn ki-lô-xích. Đây rồi. Một cô gái Bắc đang đọc tin chậm, tiếng cô chao đi chao lại theo nhịp chân.

            ... Theo tin nước ngoài, phẩy, đã có ít nhất năm nghìn người chết, phẩy, hai triệu người không còn nhà ở, chấm. Nhiều làng đã biến mất không còn dấu vết, chấm...

            Một tiếng cộc lốc bật đằng sau tôi:

            -Mở to nữa!

            Riêng tỉnh Quảng Tín, phẩy, tức Nam Quảng Nam, phẩy, đã có tám mươi phần trăm số nhà cửa bị sập và trôi, chấm. Trong khi ấy, phẩy, bè lũ Mỹ-ngụy vẫn đẩy mạnh càn quét bắn phá vùng giải phóng cũng như vùng chúng tạm kiểm soát, chấm. Hãng thông tin Mỹ A.P thú nhận, hai chấm, mở ngoặc kép, quân đội chính phủ, mở ngoặc đơn, tức Mỹ-ngụy, đóng ngoặc đơn, đang ráo riết hành quân để tiêu diệt những toán du kích Việt cộng....

            Một cặp tàu rà bay chéo qua trước mặt chúng tôi, hằn hai bóng cá chuối bơi trong nước gạo. Trung đội đi đầu lên đạn róc róc. Tôi không mở miệng. Anh em lên đạn rồi sẽ xuống đạn. Lúc này ai cũng muốn nghe sắt thép cựa mình. Tôi cắm cúi đi theo cái ba-lô lết bùn của Năm Cẩn, thoáng thấy anh đưa tay lên mặt. Nước mắt tôi đã chảy nóng cằm từ nãy rồi, anh ơi. Có tiếng gì như sịt mũi rất nhẹ trong máy thu thanh, rồi giọng người đọc tin bỗng khản đi, hơi hấp tấp:

            Tôi đọc lại, Nạn lụt lớn chưa từng thấy vẫn tiếp tục tàn phá các tỉnh ven biển từ Thừa-thiên đến Bình Định...

            Sau lưng tôi, anh Ba Tơ bỗng nấc dồn. Những tiếng nấc dội từ đáy ngực, nặng và sâu, những tiếng kêu của một người bị thương ở phổi. Tôi không quay lại, vẫn thấy đôi vai rộng của anh rung giật trong cơn đau. Năm ngoái, khi nghe tin đứa con trai bảy tuổi bị địch chặt đầu, anh chỉ tái mặt và run nhè nhẹ.

            Chúng tôi kéo hàng dọc đi gấp trong mưa, không ai nhìn ai, từng người lặng lẽ vuốt mặt.

             Chú thích

            (1)Anh không làm được! (tiếng dân tộc Co)

            (2)Mỗi ngày ăn ba lon (ống sữa bò)

            (3) Vội, gấp

    

 Chương 2    

                      Năm Ri nhào sấp xuống. Tôi nhào theo.

            Chuỗi đạn mười hai ly bảy xóc vào sườn đồi bên trái, nổ pục pục, bùn toé trên cổ tôi. Chuỗi sau dài và quét thấp hơn, xẹt qua gáy nóng rát. Tôi quát:

            - Lăn xuống! Lăn!

            Anh em ôm súng vào ngực, kẹp chân giữa háng, dựng cùi tay đỡ nóng, lăn lông lốc theo sườn đồi trơn nhẫy. Chú Dé rơi lõm xuống nước, hối hả bò lên, chửi một hồi tiếng Co. Khuất rồi. Đạn vẫn réo réo qua đầu chúng tôi. Nhưng lại có nhiều phát súng trường lốp bốp, nòng quay hướng khác, không nghe tiếng đạn vỗ không khí. Chắc là du kích kìm địch, tỉa vài thằng cho chúng câm họng. Trên gò Mù U có một đại đội biệt động quân với bốn thằng Mỹ, suốt mấy ngày này bắn vào bất cứ cái gì còn cựa quậy trên mặt nước.

            Năm Ri - cậu du kích Tam Sa dẫn chúng tôi về xã -nằm im trên mặt đường. Chắc bị rồi. Địch ngớt bắn, tôi định vọt lên, vừa lúc Ri nhỏm dậy chạy ào ào xuống dốc, tràng trọng liên đuổi theo không kịp. Ri cười rất rộng, hấp háy con mắt vảy cá:

            - Tôi lỡ mắc kẹt trên cao, ón(1) quá mà không biết lăn...

            Lao xao nhiều tiếng phụ nữ gọi, cách chừng năm chục thước:

            - Lại đây núp, mau! Nó kêu pháo chụp bắn bây giờ! Kìa anh Ri! Ngó coi thằng Năm!

            Không đùa với thứ pháo úp nơm ấy được. Chúng tôi chạy léo nhép trên bùn về phía người gọi. Một quả 105 bay xẹt xẹt, nổ gần chỗ chúng tôi gặp họng cây trọng liên, phì khói trắng. Chắc pháo nó chĩa sẵn vào đây mới bắn nhanh vậy. Mấy cô du kích đứng nép vào sườn đồi lở, vẫy rối rít: “Lấy đích rồi, bôn lên chớ!” Chúng tôi đâm bổ vào chỗ núp, vừa lúc tiếng “pình” của trái đạn bùng trên đầu. Mảnh băm xuống rào rào bịch bịch. Đồng chí chạy vào sau cùng bật kêu khẽ, đưa cánh tay bết bùn lên: Một mảnh thép kịp cứa bắp tay, vết sắc như dao chém, may không sâu. Các cô xúm lại rửa và băng, hỏi lấy được. Địch bắn dồn dập mươi quả rồi im.

            Trong đám đông tôi nhận ra em Liềm đã đi với cô Hai Mẫn. Liềm ngó tôi, chớp chớp mắt, lảng. Còn tức mà.

            Đây là một cái hàm ếch rộng, lõm vào sườn đất đỏ. Nước xoáy kéo đất sụt xuống, để lại cái hang cho người trú, chưa biết khi nào sẽ lở tiếp. Đội công tác Tam Sa đặt “ hậu cứ “ tại đây, bón cháo tiêm thuốc cho đồng bào bị nạn, để xuồng bè của các xã giải phóng xuống chở đi.

            Năm Ri còn hổn hển nhưng cái kiêu hãnh bên trong vẫn xì qua giọng nói:

            - Bộ đội chủ lực về đánh giặc cứu lụt đây. Im bớt coi! Chú Luân, chị Mẫn đâu? Chị Tám đâu?

            Một chị bước tới, đập tay Ri:

            - Thì để các ảnh thở chút đã chớ. Mới xuống đã lấm lem như trâu lăn, chẳng ai cực như bộ đội. Uống nước đã các anh, ăn sơ chén cháo thịt bò đỡ đói, thiệt tội...

            Nghe kiểu than thở của chị, tôi đoán ngay chị có chồng đi bộ đội. Thấy mọi người mừng xôn xao, tôi không nỡ nói ngay rằng chỉ có mười bốn anh em về giúp Tam Sa. Ưu tiên số một rồi đấy. Chúng tôi không ăn, chỉ gửi gói áo quần và bao gạo lại đây. Mỗi người mặc quần đùi áo lót, mang súng đạn và tất cả các thứ ni-lông đi mưa, tấm tăng ba thước, pông-sô lấy của địch, dây mây, dây dù đã vét được khi rời đại đội. Ra trận ngay. Chị Tám cứ túm mười bốn nắm cơm vào tấm choàng bắt Năm Ri xách theo cho chúng tôi ăn trưa.

            Vừa đi vừa chạy vòng vèo qua các chân đồi khuất, bơi giữa cau, chè, sắn từng quãng, chúng tôi đến gò Trúc. Bãi sắn rộng, ngập một nửa. Nước, gió và pháo địch đã xô sắn trốc gốc nằm nghiêng ngửa: những củ sắn gãy điểm lác đác những chấm tròn, trắng tinh lạ mắt trên màu bùn tãi khắp nơi. Mấy người đang đóng bè chuối. Một áo đen ngước lên, lật nón lá. Cô Mẫn, chi ủy viên Tam Sa.

            Mẫn nói ngay:

            - Các anh có việc gì...

            Vừa nhận ra tôi, Mẫn ngừng lại mím môi. Tôi nghĩ nhanh: “Tự ái dai khiếp!”. Tôi bước tới để chặn những hờn dỗi mất thì giờ:

            - Chúng tôi về giúp cứu lụt. Chỉ có mười bốn anh em tất cả, mang theo võ khí. Đề nghị đồng chí giao việc.

            Mẫn mở to mắt vài giây nữa, rồi không hiểu sao lại bật cười nhẹ, ấp úng:

            - Chao, may quá...

            Chúng tôi ghé vai khiêng luôn cái bè chuối. Đội công tác Tam Sa và mấy thanh niên nữa đang chèo hai chiếc xuồng nan với sáu cái bè chuối, qua lại trên cánh đồng chưa gặt ngập dưới ba thước nước. Tụi biệt động trên gò Mù U không nhìn thấy quãng này, nhưng vẫn gọi pháo chụp bắn lên cầu may.

            Trước mặt tôi cách chừng trăm thước là thôn Nhơn Ái, tức làng Cá, tức Một Sa “ấp tân sanh điển hình của quận Lý Tín”, có đủ hai sông ba núi vây quanh. Cái lò giết mòn nay biến thành lò giết gấp.

            Đài Giải phóng và đài Hà Nội tới tấp báo lụt trước mấy ngày. Tụi ác ôn bắt tin đài ta, giữ kín, lén chôn thêm mìn chung quanh các cổng ấp khoá cứng, kéo quân cắm lều trên gò Mù U. Nước lũ đổ dồn về ban đêm cuốn đi chừng ba chục nóc nhà, ngót chục bà con chết mất xác. Mười mấy người nữa trúng mìn khi cố phá cổng ấp hay trèo qua kẽm gai. Nước dâng tiếp. Bà con chạy dồn lên chỗ cao giữa làng, trèo lên giường phản, rồi lên bàn thờ, rồi lên giàn gỗ kê dưới mái nhà, rồi phá mái trên nóc, rồi chuyền qua cành cây. Nước lên nữa. Nước khoả các xóm thấp, xoáy sập các nhà vách đất, lừ lừ đuổi mãi theo người. Cái chết từ dưới lên, đến đây thêm cái chết từ trên đổ xuống. Những người ôm ván bơi hoặc leo cây chỗ trống trải đều bị quân “đầu cọp” xối đạn giết. Thứ cọp này không bao giờ no thịt người. Cọp Mỹ nuôi, có chủ dắt dây. Lắm người lặn tránh đạn, không ngoi lên nữa. Một tiếng “ục” nhỏ, ngột hơi, đặc sệt dưới đáy. Một luồng nước đầy bong bóng đùn lên, cuộn tròn. Người trên cây ngó xuống chỉ kịp thấy mớ tóc đen xõa như rong, thấy mảng trắng của gan bàn chân hiện thoáng trong bọt nước, chìm ngay.

            Đội công tác lao vào cứu dân trong ấp, mất liền hai đồng chí trong buổi đầu. Ngày thứ hai khá hơn, chỉ bị thương một. Các xã giải phóng chia bớt du kích đến giúp, một số ém địch trên gò Mù U, số khác chống bè, chèo xuồng, ôm ván bơi, đi vớt từng người. Đến lúc này, bên xóm còn ngót một trăm bà con chưa thoát được.

            Năm Ri đã kể những chuyện ấy dọc đường. Bây giờ tôi đang đứng trước trận địa chống lụt. Nước, mênh mông nước màu canh hến trải ngút tầm mắt, lều bều các thứ giường chõng bàn ghế trôi lẫn với củi rều, đây đó nhô lên một mái nhà ngói sắp ngập, vài ngọn cây lắc lư chực trốc gốc thụp xuống. Từng chùm người đang bám vào những chỗ sống cuối cùng ấy. Nước xuống tới đây không còn chảy xiết như vùng trên, nhưng lại dồn ứ nhiều hơn, dâng cao và rút chậm hơn. Nó cứ thong thả nhích từng đốt ngón tay như đã nắm chắc mồi ngon, không cần vội.

            Mẫn hỏi run run bên tai tôi:

            - Làm sao anh? Người ít, xuồng bè thiếu… Hay là nhờ các anh cản địch phía gò...

            Tôi không đáp, cũng không để ý tới những lời giục rối chung quanh. Đầu tôi hết nóng. Những xúc động quẫy lên nén xuống mấy hôm nay tan biến. Tôi tỉnh, lì, gần như lạnh lùng. Tôi đã tập cho mình biết tỉnh khô tỉnh rụi trong cuộc giao chiến, khi xóc lê cũng như khi bị đạn xóc.

            Làm thêm bè chuối không lợi. Chuối chặt từ xa, cả buổi mới xong bè, mà mỗi cái chỉ chở được một người chèo và một người nằm, rất chậm và dễ lật. Kìm tụi biệt động đã có hơn hai chục du kích các xã bạn, đủ rồi. Từng đồng chí ôm phao bơi đi cứu, cũng quá chậm. Coi chừng pháo bắn, trực thăng chụp…

            Một kế hoạch hiện dần trong óc. Có thể được lắm. Tôi quay lại, gặp mười mấy cặp mắt đang chờ, đăm đăm cùng nghĩ với tôi.

            - Làm kiểu kéo phà sông Tranh. Sao?

            Anh em reo ồn:

            - Biết mà!

            - Vớt lẻ sao cho kịp, kéo phà thôi!

            - Căng dây ra đo, mau! Nối dài luôn đi!

            Mẫn nhìn anh em chạy ùa đi bẻ lá sắn nhồi vào ni lông, lại nhìn tôi, ngẩn ra. Tôi phải nói cặn kẽ hơn. Anh em sẽ nối số dây hiện có cho đủ một trăm ba chục sải, gấp đôi khoảng cách từ đây sang mái đình cao nhất bên kia. Quãng giữa sợi dây ấy buộc vài chục cái phao to bằng ni-lông túm. Một tổ bơi sang xóm, số đông lại ở bên gò, sẽ kéo chùm phao ấy qua lại như kéo phà, mỗi lần vớt được vài chục bà con ôm phao. Nước đủ sâu để chân người không chạm kẽm gai và mìn nằm dưới đáy. Xuồng bè sẽ dành cho những người ôm con nhỏ hay sắp ngất. Mẫn mừng cuống lên:

            - Tôi qua bên xóm, nghe anh?

            - Đừng, đồng chí ở lại đây đón bà con, đưa vô chỗ chị Tám.

            Tôi túm một đầu dây định buộc ngang bụng. Chú Dé giật lại, gắt:

            - Lé ik!

            - Sao nữa?

            - Để tui làm, anh chỉ huy...nhiều nhiều...

            Chú khoát rộng bàn tay, ra ý chỉ huy chung, rồi buộc luôn dây vào mình. Các đồng chí khác cũng quyết không cho tôi sang xóm: “Lỡ pháo chụp bắn, anh núp đâu? Đừng để tụi tui bị kiểm thảo!”. Trong câu nói lẫy ấy, trong mắt anh em, tôi đọc thấy một mệnh lệnh và một tình thương thật lớn, buộc tôi phải nghe lời.

            Hơn nửa giờ qua. Dây không đứt, phao không chìm, ổn cả. Chuyến phà đầu tiên trút lên gò hai mươi ba người xanh nhợt. Mẫn reo nho nhỏ, dìu từng người bước lên bằng đôi chân tê cứng. Một ông cụ tóc trắng râu đen quấn thuốc rê mời tôi hút, cụ ướt sũng mà sao thuốc vẫn khô. Cụ ngồi bóp chân, cà rà kể một hồi. Tôi chỉ vâng dạ, mắt dán vào anh em cứu lụt bên kia, tìm cách nâng năng suất. Tôi gọi hai đồng chí đến, dặn chuyển đầu dây đến những chỗ bà con bám đông cho đỡ mất công góp người. Họ bám phao qua xóm. Tuy đang bận, tôi cũng nghe loáng thoáng rằng cụ này là ông Mười nổi tiếng chữa đau lưng giỏi, rằng làng Cá chết nhiều vì bị địch cướp hết số xuồng nan, rằng cái lụt này còn to gấp mấy lần trận lụt “bất quá” năm Dần. Bất quá nước vô vườn là cùng, bất quá tới thềm, dân làng cứ bất quá mãi đến khi nửa làng bị lút mái mới thất kinh, nhưng năm ấy chỉ trôi đồ đạc chứ không ai chết. Tôi bơi ra vớt một phao bị cái tủ trôi húc sổ dây, cách bờ mươi thước, có một bà mẹ bám. Mẫn gọi bà là bác Sáu.

            Chuyến thứ hai chỉ mất mười tám phút, rất khá. Chuyến thứ ba chậm vì các nhóm đông đã vợi bớt, anh em phải chèo xuồng đi đón từng người, chở tới bến phà. Đó là ngôi đình làng Cá còn nhô hai nửa mái, bên tán lá xõa rộng của cây đa to. Các đồng chí đã thạo hơn, buộc tay cho hai anh em nhỏ ôm chung một phao, sang được tới hai mươi tám người. Mẫn bồng hai tay hai em, cõng một đứa nữa, chạy hì hụi trên gò, vừa thở vừa cười. Mừng quá mà.

            Trong khi chuỗi phao nhẹ rẽ nước róc rách chạy sang xóm. Mẫn buột miệng:

            - Chắc tới lượt mẹ tôi.

            - Đâu, mẹ đồng chí chỗ nào?

            - Trên nóc nhà ngói thằng xã Chinh, chỗ xa nhứt...Mẹ bồng thằng cháu Hoàn đó. Hai em tôi qua được rồi, thằng Tâm đang chèo bè kia.

            Mẫn nói ấp úng, không nhìn tôi, như xấu hổ vì trót tính cái gì đó cho riêng mình. Tôi thoáng hối hận. Mẫn lo chung cho bà con là đúng, cán bộ phải vậy, nhưng tôi lại không nhớ rằng Mẫn cũng có mẹ và con như người khác.

            - Đồng chí mấy cháu rồi?

            Không hiểu sao Mẫn ngoảnh mặt, lúng túng:

            - Một.

            - Ảnh đâu?

            Mẫn chợt ửng má, lắc đầu. Tôi chỉ hỏi để biết Mẫn còn bao nhiêu người nhà phải cứu, không tò mò. Các cô có chồng đi lính ngụy hay thua kém anh em thường lắc đầu thay câu trả lời. Và Mẫn hấp tấp nói lảng:

            - Hồi nãy các anh mới tới, tôi cứ tưởng…Mọi ngày, bộ đội xuống Tam Hải hay lấy đội công tác dẫn đường..

            Đến lượt Mẫn phân bua. Thôi được, cô hết tự ái là đủ, tôi không mong gì hơn.

            Mưa dứt từ ban nãy. Mây bốc dần lên cao, báo hiệu chẳng lành. Bây giờ, thứ tiếng động mà tôi gờm nhất bắt đầu dội từ xa: máy bay. Một cặp L.19 bay rất thấp từ thị xã Tam Kỳ lên phía quận Tiên Phước, chệch hướng chúng tôi. Chúng lên tìm chỗ đánh phá vùng ta. Bên xóm anh em hối hả góp người. Mối nguy mới tăng dần khi nền trời bắt đầu hiện những mảng xanh. Rồi tiếng phành phạch của trực thăng nổi lên. Ba chấm đen đứng yên một chỗ trên chân trời, nở to dần: Chúng bay thẳng hướng Tam Sa. Lôi thôi đây.

            Tôi vành tay làm loa, gọi anh em giấu phao. Những cái bóng vẫy kêu trên mặt nước đều ngừng động đậy, núp vào một chòm lá hay nằm ép trên mái nhà. Trên gò chúng tôi tản ra từng tổ, kéo những bụi sắn để che mình, đơm súng đợi.

            Ba chiếc trực thăng đã chém nắng ầm ầm trên làng Cá. Hai chiếc óc nóc rẽ bên trái, đảo một vòng, sà sà đáp xuống gò Mù U. Các tổ du kích ém gò vẩn nín thinh, anh em đã gọi loa báo cho lính địch biết ta không bắn máy bay tiếp tế hay chở thương.

            Chiếc đờn cò không xuống đất. Nó quần một lần, hai lần. Bóng đen của nó lướt qua loáng loáng. Tôi thoáng nhớ những bóng cá mập lượn qua đáy cát của biển Qui Nhơn, một buổi trưa gió lặng nước trong. Nó bay chậm dần, dừng hẳn. Cánh cửa tò vò bên trong bật ra, cắt ngang chữ MARINNES(2) nét vuông, sơn trắng trên thân màu lá sẫm. Một thằng cao lớn đứng vịn mép cửa, dòm xuống, nhô cái mũ bay tròn bóng. Đến khi nó đẩy cặp kính to lên khỏi mắt, tôi nhận ra một thằng Mỹ. Mặt nó gầy và đỏ, mũi gồ râu xanh cằm. Tôi nhìn dán vào mặt nó, hồi hộp đợi. Chung quanh tôi, trên các cồn đất biến thành đảo, hàng trăm con mắt dưới lá cũng đang nhìn nó.

            Thằng Mỹ xem khá lâu cái “ấp tân sanh” có tên trên các bản đồ quân sự Mỹ-ngụy. Mảnh đất này cùng với hơn ngàn dân bị giam trong rào, từ lâu đã được coi là của “quốc gia”, tức của Mỹ, của thằng lái trực thăng đang ngó xuống. Trời rất sáng. Ánh nắng chiếu xiên làm nổi rõ các đường nét bên dưới. Nó thấy tách bạch từng người đàn bà đang ôm con rũ rượi, sắp lăn xuống nước. Nó cũng thấy gió cánh quạt thốc xuống đang xô lắc lư mấy ngọn cây còn người đang bám. Chùm phao ni-lông đã được thu kín dưới tán lá cây đa, sợi dây chìm sâu dưới nước đục, nó không biết có ai đó đang cứu lụt. Đứng trên cái máy có sức giết người và cứu người ấy, ngắm cảnh đau khổ trải tràn lan, nó sẽ làm gì?

            Thằng Mỹ sẽ làm gì đây?

            Chỉ cần trong thân nó còn một chấm sáng của con người, chỉ cần nó nhớ thoảng một chút lời mẹ nó khuyên nó sống lương thiện. Nếu tên cướp biển đã biến hẳn thành thú dữ, đã nghiện máu, tôi chỉ mong nó ngấy máu no mồi lấy một phút thôi. Nó giở trò gì cũng được. Thả thang dây xuống kéo vài người lên để chụp ảnh, khoe quân đội Hoa Kỳ nhân đạo, được. Bĩu môi, nhổ nước bọt quay đuôi bay về Đà Nẵng mà uống rượu sờ gái, được hết. Miễn là…

            Hai chiếc H.34 đã bay xa. Tên Mỹ bước lùi, sập cửa. Chiếc UH.1A rồ máy gắt hơn, bắt đầu lên chênh chếch. Tôi thở nhẹ được vài hơi. Hỏng rồi, nó vòng lại. Tôi hét trong tiếng máy:

            - Đợi tôi phát hoả!

            Nó lừ lừ chúc mũi về mái đình. Tôi nâng cây trường Mát của chú Dé, rê đường ngắm theo cái mõm tròn của nó.

            Chưa bắn. Thân thể tôi rung lên đòi bắn, nhưng đầu tôi vẫn kìm được ngón tay ngoắc trên cò: cố tránh một trận đấu súng trong khi ngót ba chục đồng bào bị kẹp giữa hai làn đạn. Đợi chút nữa. Cố đợi.

            Chiếc trực thăng phản lực sà thấp qua xóm, không đánh. Hai cây đỡ dưới bụng nó như trượt trên một tấm kính. Tôi quệt vội mồ hôi chảy thành dòng trên mặt, lại ngắm. Nó muốn chơi trò mèo vờn chuột? Nó chùn tay, nhờm tay khi sắp giết dân? Một lần nữa nó vòng lại, cao hơn trước nhiều. À, nó chỉ sợ đạn bắn trả. Tôi đẩy thước ngắm lên ba trăm. Chắc tụi biệt động đã gọi bộ đàm báo tin có du kích quanh đây. Tôi co ngón tay, bóp cò nấc thứ nhất, vẫn đợi...

            Khoảng cách chừng nửa giây. Hai luồng khói của nó vừa phụt, súng của tôi cũng phì khói. Cặp rốc-két rít ra tiếng giũa cọ lưỡi cưa, chìm ngay trong tiếng nổ túi bụi dưới đất. Mẫn bắn cây Các-bin M.2 ngay bên tôi, từng loạt năm viên rất giòn. Cậu Kỷ chưa bình tĩnh mấy, một băng trung liên chỉ sổ một hơi. Ngọn đòn trả thù quá đột ngột và quá dữ. Chiếc “xe tăng bay” lạng đi, gượng ngóc đầu, lạng nữa. Chúng tôi bắn mãi đến khi nó rơi tõm xuống đồng nước lụt. Một cái phễu trắng vọt lên, rã vụn, tưới xuống rào rào. Sóng cồn to. Những con sóng cuốn chiếu chạy xa chỗ máy bay rơi, đập vào gò bóc bách. Cánh quạt lưng quẫy sùng sục mấy giây nữa mới ngừng. Tôi che mắt tìm hai thằng lái, không thấy, chúng mắc luôn trong cái xác trực thăng còn nhô khúc đuôi. Sướng không thể tả. Nhưng tôi không dám ngó lâu hơn. Mạng bà con đang treo sợi tóc.

            Tụi biệt động vừa được tiếp thêm đạn, bắn tơi bời. Khói đạn cối bốc dày ở quãng đồi chúng tôi bị trọng liên quét ban nãy. Xuyên qua lớp mù trắng toả ngang, một luồng khói màu lam từ từ bốc đứng lên. Mẫn chỉ về phía ấy, ngón tay hơi rung:

            - Có cây rơm to trôi lấp ló đó. Chắc chị Tám cho đốt nhử pháo, nhử tàu bay. Cha con thằng Chinh biết rõ làng mình lắm anh à, nó kêu pháo bắn trúng y từng liên gia.

            Bên xóm chú Dé đã khoát tay ra hiệu kéo phà. Chúng tôi ùa cả xuống mé nước, túm sợi mây. Pháo chụp nã vào chỗ chị Tám rất gấp. Địch sẽ mắc mưu trong bao nhiêu phút? Chuỗi phao vào tới bờ, chỉ được mười bảy người cho sang trước, anh em đang vét nốt mười một người đang bám rãi rác.

            Hai cây 105 ngừng bắn. Cối 81 giã gạo thưa dần rồi nghỉ. Cần như im lặng. Cái im lặng nặng trĩu những đe doạ, khi pháo địch đang xoay họng mà ta không đoán được chúng sẽ bắn vào đâu. Cột khói rơm bốc lên to hơn, du kích bắn râm ran, cố chọc tức giặc. Chỉ cần mười lăm phút nữa, mười hai phút cũng đủ. Thôi thì sáu bảy phút để phao và người kịp tách khỏi xóm một quãng..

            Tôi sực nhớ, hỏi Mẫn:

            - Mẹ Mẫn đâu không thấy?

            - Đang ẵm thằng Hoàn. Các ảnh đưa qua mái đình kìa.

            Mẫn nói hổn hển trong khi đỡ một chị bụng chửa lên dốc. Bà mẹ Mẫn buộc cái gì như cái thúng vào mái ngói. Tiếng loa binh vận bắt đầu nổi phía gò Mù U. Phải cứu cho được mẹ và con Mẫn. Không được bỏ quên những người biết hy sinh lặng lẽ.

            Thôi rồi, pháo bắn!

            Hai cục lửa xòe thấp trên xóm ngập, biến thành hai búng muội đen. Tiếng nổ chập đôi dội to trên nước kèm tiếng rung kim loại. Mẫn bóp mạnh bắp tay tôi, kêu rú. Tấm lưới chài rơi xoà xuống nhưng vãi vào chỗ hết người. Nhanh lên bà con ơi, gấp nữa! Cha con thằng Chinh nào đó sắp gọi bộ đàm lái họng pháo… Thêm hai quả, cao hơn. Hai quả hơi nhích sang phải. Một bóng áo trắng rời cành cây rơi ngửa, tiếng hét bị nước bịt nửa chừng. Tôi gào đến rách họng:

            - Kiếm ván che mảnh! Lặn xuống nước, lựa chỗ không mìn, níu cây hụp xuống nước!

            Những bọt khói đen phình to, kết thành đám mây xám, khi tãi rộng ra nó loãng màu hoá trắng đục. Lửa bầm loe loé trong ruột nó. Khói đùn ra, phòi ra, lộn ngửa cuồn cuộn và cứ lấn qua bên phải. Trúng chỗ rồi. Tôi ngã ngồi xuống, gượng đứng dậy để nhìn. Mảnh xối chủm chủm như mưa đá. Ông già khoác tay nải nằm nghiêng trên nóc nhà, mảnh xăm mứt gừng vào hông. Một chị mặc áo quần đen đang ngồi bỗng gục xuống, chống tay nhỏm lên, vòi máu phì ngang cổ. Em nhỏ níu tay mẹ, cố ghì lại. Cả hai lăn xuống nước. Trên chạc cành đa có một cô gái nằm sấp, tay chân thõng, tóc rủ, cả chục chấm máu loang nhanh trên áo hoa cà. Cạnh đấy một bàn tay nhô lên chới với, khoắng mặt nước, chụp vào không khí vài lần, biến mất.

 *

        - Ăn đi mấy anh! Đắng cơm nghẹn nước cũng rán ăn, lấy sức giúp đồng bào chớ, nhịn đói cả ngày rồi. Dé, hết chưa em? Cơm chớ thứ gì mà ngó hoài vậy anh Thiêm? Liềm, múc thêm canh, ớt đâu hết rồi...

            Chị Tám Giàu bắt chúng tôi ăn. Thì ăn vậy. Chén ơm ghế sắn non phả mùi thơm nóng vào mặt. Tôi và một miếng thấy mình đang nhai rơm khô. Tức thật. Ăn thịt bò hơn. Một chậu nhôm đầy thịt bò nấu với lá lốt, tôi biết ngon lắm. Tôi cầm mảnh tre dùng làm thìa, xúc thịt vào chén, chợt nhớ những miếng thịt người vung vãi trên mái đình, đỏ, nhầy nhụa. Dạ dầy tôi thốc ngược một cái. Tôi cắn răng, nuốt cơn buồn nôn trở xuống, thấy đau buốt chỗ mỏ ác. Êm rồi, tôi yếu đuối quá, thật không ngờ. Đánh dư sáu chục trận, không kể hàng ngàn xác giặc nằm đủ các kiểu kỳ quặc tôi đã thấy, riêng số đồng chí mà tôi cõng, băng bó, đỡ xuống huyệt cũng khá nhiều. Chưa lần nào tôi bủn rủn như hôm nay. Có lẽ toàn người già, phụ nữ, trẻ em, nhất là trẻ em. Những xác trẻ em bị vằm nát...Nhưng thôi, hãy nghe lời chị Tám. Má tôi hồi xưa cũng vững như chị. Khổ quá thì khóc kể ồn ào một lát, rồi bầy con vẫn ăn no tắm sạch, mạ vẫn xép đầy gánh để mai cấy sớm, trã cá vẫn đậy kỹ tránh mèo. Tôi cố nuốt nắm trấu ngậm trong miệng. Nhai cả thịt bò nữa

            Trâu chết ít nhờ bơi bầy quen, con này kê mõm trên mông con kia, kết dần thành những bè trâu trôi mãi vẫn sống, sau này đồng bào sẽ đi tìm chuộc lại. Bò chìm rất nhanh. Khắp các bờ bãi đều lù lù những xác bò trương phình tấp vào. Nhiều gia đình sau khi mất trụi của cải, cố cứu lấy con bò cày đất thổ không kém gì trâu. Kéo trước đẩy sau mãi rồi con bò cũng lên được chỗ ráo. Nó đứng run mãi bốn chân, ngạt giọng kêu nhỏ dần, rồi quị. Chủ nó chỉ còn một quần đùi trên mình, tìm loạng choạng trên bãi bùn không gặp một thứ gì để xẻ thịt hay đốt ra lửa được. Vài hôm sau, cả nhà phải hè hụi đẩy chút vốn cuối cùng xuống nước cho đỡ thối khi đò cứu lụt chưa đến kịp ...

            Đội võ trang công tác Tam Sa kéo về hang ăn cơm. Chị Tám và Út liềm trải ni-lông giữa đất, bưng dọn, phát những mảnh lá chuối dùng thay chén. Anh em hỏi nhau, kể chuyện mới. Họ đón xuồng từ thị trấn An Tân lên, từ các xã giải phóng xuống, biết nhiều tin lắm.

            - Chao suốt vùng dưới đồng bào đồn rum: Giải phóng tới đâu dân sống tới đó, cứu bằng xuồng cao-su có máy mà.

            - Đồn Dốc Leo tiêu rồi. Núi sụp, chôn cả đại đội bảo an. Chỗ cầu Bà Bầu mũ sắt trôi dồn đống. Thằng thiếu uý Hinh đứng trên chòi, thì thằng Hinh bót Dương-mít-nài chớ Hinh nào, nó cầm loa điện kêu om: “Giải phóng có xuồng đò gì cứu giùm với, tụi tôi hàng rồi, chết hết!”. Mình mới đón hai tiểu, vừa trực thăng tới, lính không ra được nữa.

            - Mười bảy lính cộng hoà lên với Tam Trân rồi, mang cả trung liên, đói rệu nước miếng trong...

            Tôi nuốt từng câu họ nói, như uống thuốc bổ. Dù sao chúng tôi cũng cứu được ngót trăm bà con, chỉ mất bảy người trong trận mưa mảnh, vậy là khá. Bây giờ pháo cối đã im. Máy bay vắng. Chỉ còn tụi rằn ri trên gò đôi lúc ặc ặc một tràng, lối cười sặc trong họng khi bụng quá no. Cứ cười đi. Tới khi tao bóp cổ sắp chết, chúng mày sẽ kêu những tiếng ặc giống hệt!

            Ban nãy, trong khi chiếc UH.1B đến câu cái xác trực thăng chết đuối – câu mãi không lên nổi, sau nó bỏ, hai chiếc AD.6 quần ném bom các cù lao. Chúng tôi hưởng lần nữa cái sướng được bắn trả địch, cho lửa trong bụng phun ra thành luồng qua miệng súng.

            Tôi kê cây trung liên Brao-ninh, quì trong một hố đất nẻ sâu đến ngực. Mẫn nhảy xuống sau, lập cập tháo băng rỗng trên các-bin, lắp băng mới, tay giật từng hồi. Chúng tôi đều thấy mẹ Mẫn chết nằm sấp trên cái thúng, đứa nhỏ rớt đâu mất. Tôi ghé tai Mẫn nói qua tiếng bom:

            - Bình tĩnh nghe Mẫn, bắn cho trúng.

            Mẫn quay ngoắt lại.

            Đôi mắt!

            Một đôi mắt tôi chưa từng thấy, toàn tròng trắng nổi gân máu đỏ. Đốm đen ở giữa co lại nhỏ xíu. Cặp mày rậm đâm vào nhau, nổi rất gắt trên da xanh nhợt màu đọt chuối, môi không còn nét. Mẫn há miệng định nói lại gì, lại ngửng nhìn chiếc AD.6 bắt đầu lao xuống, lần này thẳng hướng chúng tôi. Tôi ngắm giữa mũi thằng giặc, lúc này giống một quả trứng với đũa và tăm xóc vào.

            Ba loạt cac-bin nổ hấp tấp trên đầu tôi. Không cần nhìn, tôi cũng biết trượt: Mẫn đứng bắn không bệ tì, loạt đầu nổ khi máy bay còn ngoài tầm, các loạt sau chưa kịp ngắm lại. Tôi nín thở đợi ba giây nữa, biết chắc ăn. Cây trung liên rẹt hai hơi hết băng. Tôi buông nó ngay, chụp đôi chân Mẫn giật mạnh. Mẫn nhào nghiêng xuống hố. Trái rốc-két xẹt qua đầu, rít tiếng xoảng dài như đá lăn xuôi mái tôn, quạt luồng hơi nóng hực, nổ choáng óc. Đất vách hố sập xuống lấp nửa người Mẫn. Tôi ló cổ lên nhìn. Chiếc AD.6 lắc lư, lắc lư, nghiêng cánh bay về Tam Kỳ. Nó bị thương nhưng không rớt, tiếc ghê.

            Mẫn ngồi dựa vách hố, đập tay vào các-bin cho đất rơi, thở dốc. Mắt Mẫn đã bớt dữ nhưng còn dài dại. Chiếc máy bay thứ hai ngoi lên rất cao, quần, phóng rốc-két hú hoạ trước khi chuồn. Tôi bắc lại trung liên, nghiêng báng cho cậu Kỷ thay băng, đợi dịp bắn nữa. Bỗng nhiên tôi rất muốn Mẫn là trai, hoặc tôi biến thàn chị Bỉnh to lớn của Tam Trân để quàng tay ôm vai Mẫn mà dỗ một đứa em mất mẹ đang đau khỗ đến quẫn trí.

            - Mẫn nè...

            Tôi chưa biết an ủi sao cho phải. Mẫn không giống những cô du kích tôi quen.

            - À...bây giờ nó bắn lung tung...bà con núp chỗ chị Tám có yên không hè? Rốc-két rung đất mạnh lắm, cái hang coi bộ dễ sụp...

            Mẫn buông một tiếng “dạ” lơ lửng, lượm cái lá rụng lên, lật xem hai mặt. Rồi như chợt hiểu, Mẫn lắp bắp: “dễ sụp thiệt anh à”, Mẫn chống súng trèo lên miệng hố, chạy về phía “hậu cứ” của đội. Đồng bào dồn tránh pháo trong chỗ hàm ếch ấy khá đông, chẳng biết xuồng Tam Trân chở đi hết chưa. Tôi nhìn theo thấy hai bắp chân Mẫn đầy những vết gai rạch, máu loang trên bàn chân không dép. Lóng ngóng vậy mà tôi lại nhắc trúng cái điều cần nhắc nhất. Chỉ có trách nhiệm mới kéo Mẫn ra khỏi cơn tê dại. Con trai Mẫn biến đi đằng nào?

            Thằng tàu bay cút. Không đợi xuồng, tôi bơi ào qua đầu dây bên kia. Các đồng chí cứu lụt sống cả nhờ vớt được hai tấm phản đội đầu, che thêm cho ba em nhỏ, một chị, cùng nép dưới tán cây đa. Mẹ Mẫn nằm sấp, cạn máu. Mẹ lượm được cái thúng trôi, dỡ ngói, xé khăn buộc chắc thúng vào cây mè, đặt thằng bé Hoàn nằm gọn trong ấy. Bây giờ mẹ vẫn ôm ghì cái thúng dưới ngực. Tôi gỡ tay mẹ, bồng lên một đứa bé nhuộm đỏ lòm từ đầu đến chân, ngất mà không bị thương.

            Đến khi cùng với Năm Ri đào huyệt trên gò, tôi mới biết Mẫn chưa có chồng con. Một chiến sĩ Quân giải phóng ở Tiên Phước đi xa, để thai trong bụng vợ. Chị vợ bị giặc bắt, đẻ và chết trong nhà tù thị xã, gửi con mới lọt lòng cho mẹ. Mẹ ra tù, bồng theo đứa cháu không ruột rà, nuôi giùm cho ba nó. Hôm nay, mẹ truyền sự sống cho cháu lần cuối cùng, mẹ nghỉ. Tôi ngậm dầu lửa, phun mãi mới kéo được hai cánh tay mẹ duỗi thẳng ra trước khi chôn. Chúng con lớn lên bao nhiêu cũng vẫn nằm trong vòng tay mẹ, mẹ ơi, mẹ nghỉ được rồi...

            Đội công tác vẫn nói lao xao quanh mâm cơm:

            - Đó, đó, trận lụt này dân chửi nát mặt ba thằng Mỹ. Cả mấy phố ngập lút tầng dưới, tụi Mỹ lái ca-nô chạy thẳng tới ba Thiên Hương, hốt riêng mấy con đĩ đem về sở Mỹ, lại còn nhảy tuýt thình thình trên ca-nô cho ấm. Mấy thằng quan ngụy tháo lon ra giơ, vẫy, nó không thèm ghé.

            - Sao nghe đồn tụi ngụy cho xuồng với trực thăng đi cứu?

            - Trực thăng của Mỹ hết, bay sụp nhà rớt người chớ cứu ai. Còn tụi sư đoàn Hai lo ăn cướp. Biết nó làm sao chưa? Chở người, không chịu chở đồ đạc. Đem đồng bào về trại nhốt kỹ, rồi thả xuồng ghe đi từng nhà hốt của sạch bong, đem giấu nơi khác. Có bà dại quá, hở cho nó thấy cái xách đầy vàng, nó chở ra chỗ vắng đạp nhào xuống nước, bắn chìm luôn, lấy được cả mấy ký vàng. Thằng nào chó vừa vừa cũng đợi giơ lên một xấp giấy năm trăm mới chịu quay lái..

            - Mẹ cố tổ cha thằng nó chớ, người mình với nhau..

            - Thì cha con xã Chinh đó, người mình, dân làng Cá chánh chi cố cựu đó…” A-lô, a-lô, nhích tới chút nữa..dạ, biết chớ, dân chỗ tôi mắc lụt thì dồn cục vô xóm Đình chớ chạy đâu...dạ, trúng y rồi đó, xin cho đủ năm chục trái… dạ, bắn nữa đại úy à, cộng sản đỏ lòm hết mà, nữa, nữa...”

            Một anh đếm từng tiếng lạnh ngắt:

            - Cặp đó bây đừng chửi, cũng đừng bắn, rán bắt sống cho tao. Tao viết giấy ký tên, xin hai tay bóp cổ hai đứa, hễ năm phút không chết thì chịu chặt tay đền... Chín Cang đâu ta?

            - Đi với chị Mẫn lên Tam Trân, lo chạy thuốc men cơm cháo cho bà con bị nặng.

            - Bồng thằng nhỏ theo chớ?

            - Út Hoà ẵm đi trước rồi. Nó chết giấc lâu lắm, giựt mình nổi khóc ré một lát, lại nằm lịm. Chắc sợ quá...

            - Sống được là được. Thôi uống nước rồi lo bố trí chống càn. Bà Bỉnh mập mới chở xuống thêm hai xuồng cơm gạo áo quần nữa, cuốc xẻng cũng có. Tam Sa khởi xong rồi, phải lo dựng bia cho Tam Trân là một, bộ đội là hai đó các cha!

            Người vừa nói là anh Tư Luân, bí thư cho bộ Tam Sa. Một người gầy nhom, mắt sâu, da đen sắt, râu nhổ trơn bóng và tóc hớt trọc, rất khó đoán tuổi. Anh nắm bộ phận bắn tỉa gò Mù U suốt ngày nay. Chẳng hiểu họ hàng dòng dõi ra sao mà Út Liềm gọi anh bằng ông, xưng cháu, nghe rất lạ tai.

            Tôi đón ca nước trên tay em Liềm - hết lẫy rồi - nhắc anh em tháo súng ra lau, nhớ chùi kĩ từng viên đạn. Không biết từ lúc nào, bộ máy trong đầu tôi đã xoay sang hướng mới. Hãy vĩnh biệt bà con đã khuất và đi tới, mang theo mối thù thiêng liêng ngấm vào máu. Hãy lo tiếp cho những người còn sống và sẽ sống những ngàn năm nữa trên đất này. Đợt tấn công mới bắt đầu rồi, nó mở màn đêm bằng chén cơm cố nuốt và bàn tay lau sạch cây súng, bằng những con toán mới đang lũ lượt kéo đến với tôi... Phải đào ngay hầm hố để mai chống càn. Nước rút, phải trục bọn “đầu cọp” kia đi Tam Sa mới nổi dậy được. Chưa đủ sức tiêu diệt thì bao vây bức rút. Một trận cối 60 nện xuống thình lình, sau đó bắn tỉa. Chỉ cần vài chục tay súng giỏi, mỗi ngày gạch tên mươi đứa, quân nó chạy loạn ngay... Ý định mới hiện dần từng nét, từng mảnh, như tấm giấy ảnh ngâm trong thuốc hiện. Cái nghề chụp ảnh năm xưa, ở Đà Nẵng...

            Giá còn cái máy ảnh hồi ấy - ừ nhỉ, máy Ca-nông chụp ảnh bắn pháo là hợp - tôi sẽ ghi được bao nhiêu bộ mặt khác nhau của con quỉ Mỹ trong ngày nắng hôm nay. Phim hạt mịn, ống kính thu lại f.8 tha hồ lấy chiều sâu. Không, ánh sáng trời và nước đều gắt, dùng phim nhậy để giảm độ trắng đen, tráng giê-nôn nữa, thu kỳ hết chi tiết. Tôi mỉm cười. Chụp ảnh chưa cần bằng chụp đạn xuống đầu giặc. Tiếng Anh, bắn và chụp đều là sút, cũng phải...

            Những ý nhỏ ấy níu tay nhau đến với tôi như trẻ em đến chơi với anh bộ đội. Bỗng dưng tôi bắt gặp một bông hoa vui đang nở ngập ngừng trong tôi, toả hương quen xông đầu tôi dịu dần. Tôi nhận ra rồi. Nó là niềm vui được đánh giặc. Nó hay đến bất chợt khi tôi sửa soạn ra trận, vào lúc chân tay bận rối cả lên nhưng nó cuốn người say người hơn mọi thứ vui khác trên đời. Nó chỉ kém cái vui thắng trận một chút thôi, có lẽ.

  

            Chú thích:

            (1)   Bí

            (2)   Lính thủy đánh bộ

  

 Chương 3  

             Nước rút.

            Những con sông không tên màu nâu, đỏ bầm, vàng đất sét lần lượt thu hình, chảy chậm dần, tan trong biển nước gạo đang cạn, đứt thành nhiều vũng bùn sền sệt, để lại từng bãi đá duỗi về phía Đông. Làng Cá từ đáy nước nhô lên từng tí một, thưa đi như hàm răng rụng dở, chết lặng. Ngôi đình còn đứng, mang trên hai mái toác lỗ chỗ vì pháo một ngấn bọt vàng xỉn, và nhuộm bùn từ đấy trở xuống. Cây đa to đổi màu lạ, trên xanh dưới nâu. Trên lớp cành rậm của nó đeo vô số bàn ghế, bè, chõng, nia, rế, cả xác người xác thú nằm chìm trong tán lá, bị nước tấp lại che kín. Mãi về sau khá lâu vẫn thỉnh thoảng có một thứ nào đó đột ngột rơi xuống, trở về với đất. Hiện ra cuối cùng là những khoảnh đồng cao ruộng thấp, bờ biến hết, bồi một lớp sỏi cát từ núi lở xuống đáy hàng thước mộc(1). Bên dưới lần vỏ ấy có một mùa lúa gieo bị vùi không sót một hạt, có những trái mìn địch gài sẽ nổ dưới lưỡi cuốc, có nhiều xác đàn bà trẻ em tìm mãi không thấy, một lúc nào đó sẽ hiện ra, lặng lẽ nhắc lại cho loài người hiểu thế nào là tội ác diệt chủng.

            Dân làng Cá lần lượt trở về làng. Không thể bỏ quê bỏ đất. Họ cào bùn bằng hai tay, tìm gấp lưỡi cuốc hay con gao, moi lại cái hầm chống pháo trước hết rồi mới kiếm các thứ khác.

            Bộ đội và bà con vùng giải phóng vẫn bớt ăn mặc đem xuống giúp mọi thứ. Theo mực nước vợi dần, các nhóm xuồng chèo, xuồng chống, rồi xuồng đẩy lướt bùn, tiếp tới người cõng hàng lội qua vũng qua cồn, cuối cùng tới những đoàn dân công gánh trĩu vai, cứ không ngớt tuôn tuôn về vùng bị nạn. Quân địch cũng mon men kéo đến, bị du kích đẩy lùi. Sự sống mọc mầm trở lại từng bước chập chững trên bãi bùn trải từ tỉnh này qua tỉnh khác, bị phi pháo giặc cắn xé từng hồi, trong khi cơn bão số 16 đang quay thông thốc ngoài khơi, đi dần vào bờ biển miền Trung chưa ráo lụt. Nó không dữ dội bằng cơn bão trong lòng người dân làng Cá, người dân bị nhốt trong những ấp chiến lược như làng Cá. Thù giặc hết chỗ nói. Thù đến tắc họng, cháy mắt, chỉ hả được khi nhào vào chúng nó mà chém, cào, đâm, nện, cắn, bóp cổ. Cả những ai trước đây run vì sợ giặc, nay chỉ run vì phải cố nén căm giận, đợi ngày N.

            Tam Sa sắp nổi dậy.

            Tôi về C.215 bàn đánh phối hợp.

            Chẳng hiểu vì sao tôi còn đứng nổi. Lắm lúc tôi xây xẩm sắp ngã, dạ dày lộn trái lên họng, các đốt xương mỏi rã như mọt đục thủng chi chít. Tôi cố gượng, gượng được, lại nhấc súng lên “bia” một phát vào cái mũ bê-rê đỏ bầm màu máu đông trên gò Mù U, hay bổ tiếp những nhát cuốc moi hầm cho bà con. Dầm nước suốt từ đầu mùa lụt, đại đội có nửa số quân đang lên cơn sốt rét, vừa run vừa cười: “Kệ cha nó, sốt rét coi như khỏe, thương hàn trở lên mới là bệnh”. Nghỉ lúc này là nằm trên đống gai. Nghe lệnh ra trận, anh em tung chăn chồm dậy hết, nói mình đã qua cơn, đánh một lát tháo mồ hôi sẽ lành. Và họ lành thật.

            Cô Hai Mẫn cùng lên Tam Trân với tôi.

            Mẫn đi sau lưng tôi như cái bóng. Không nói một tiếng. Khi dừng trên gò tránh chiếc tàu rà, Mẫn ngồi bó gối nhìn mãi vào khoảng trống, đôi mắt đàn ông cứ lặng đờ dưới khăn trắng. Cha Mẫn bị tù Côn Đảo đã tám năm không một tin nhắn về. Đến nay, nỗi đau mất mẹ và cái khổ chung của làng xóm ập đến, có lẽ quá sức chịu đựng của cô gái mới chẵn hai mươi. Trong công tác Mẫn cứ tỉnh và sắc, nhưng tôi gờm cái dáng cứng lạnh kéo dài ấy. Chị Tám Giàu dỗ mãi, Mẫn nói ráo hoảnh: “Khóc làm gì? Tụi nó sợ đạn, có sợ nước mắt đâu!”

            Hết quãng đồi hoang, tôi xắn quần lội suối. Hôm bơi qua chỗ này, Năm Ri gọi nó là sông Rù Rì, ranh giới giữa Tam Sa và Tam Trân. Lúc ấy nó rộng hơn trăm thước, gầm gào tuôn dòng thác màu gạch non qua cánh đồng lớn phủ nước mưa trắng đục. Bây giờ nó trở lại là con suối hiền, rất trong, chẳng họ hàng gì với lớp bùn khô đóng dày trên cây lá viền rậm hai bên bờ.

            Không có tiếng chân lội theo. Tôi ngoái lại. Mẫn đứng dựa thân cây, ép bàn tay trên ngực, thở nặng nhọc. Mấy hôm nay Mẫn hay tức ngực như thế. Tôi vội đến đỡ súng và bao lưng cho Mẫn, bảo ngồi nghỉ. Mẫn hít một hơi dài, nói khẽ:

            - Chỗ này… pháo giập luôn.

            Mẫn đi ven suối ngược lên một quãng, đến bên con mương lấy nước bị lấp một nửa. Cái đập đầu mương trôi mất, chỉ còn mấy khối đá chồng nhau nằm giữa dòng. Chúng tôi bẻ lá lót ngồi bên mương cho dễ nhảy xuống tránh pháo. Tôi vét cái túi ni-lông, bứt lá cánh bướm quấn một điếu thuốc rê, lim dim thả khói. Mẫn ngồi dựa gốc cây, nhắm mắt.

            Khi gặp các cô Tam Kỳ, anh Ba Tơ ưa đóng vai ông chú, trêu rất ác: “Lính tao thà cắt tóc đi tu còn hơn lấy con gái Tam Kỳ. Tiền đâu mua thuốc cho tụi bây hút? Mười đứa, đếm đi đếm lại thấy đeo bọc thuốc bên hông đủ một tá. Tam Kỳ nằm giữa Hà Nội với Sài Gòn, là chỗ rốn đường sắt, đẻ ra con gái đứa nào cũng giống y cái đầu máy xe lửa: đen thui, đi ục ịch ục ịch, miệng phun khói phèo phèo, ai động đến thì ré nhức tai như còi!”. Bị các cô xúm lại đấm bịch bịch, anh còn kêu: “Xe lửa qua cầu đó, nghe chưa?”

            Tôi cười một mình. Cô gái Tam Kỳ trước mặt tôi không có chút gì là “xe lửa”.

            Mẫn có khuôn mặt trái xoan trắng xanh, thân hình dẻo và thon, hơi mảnh khảnh. Ai chỉ quen nhìn các cô nông dân mình tròn má phính, ắt dễ lầm Mẫn là “nông dân cày đường nhựa”, tuy từ nhỏ tới nay Mẫn mới ra thị xã có vài lần, chưa tới Đà Nẵng bao giờ. Nói theo kiểu má tôi bàn với các bà chọn dâu, cô này “ốm như cây sậy, gió thổi bay, nước da như đờn bà đẻ dậy, thứ đó rước về mà thờ chớ làm ăn gì!”. Trước khi tôi về Tam Sa, chị Bỉnh đã cho biết Mẫn là chi ủy viên chính thức phụ trách quân sự, kiêm bí thư xã đoàn thanh niên. “Coi bộ yểu điệu như tiểu thơ mà đánh giặc lì lợm nhứt đó”. Dọc đường Năm Ri gọi Mẫn là chị Hai và khen Mẫn “ăn no vác nặng”. Về cây các-bin liên thanh của hiếm, chị Tám Giàu kể rằng Mẫn đã mượn áo dài quần trắng đi dò mãi trên đường Một, ném lựu đạn hạ được hai tên công an quận, tước một súng ngắn một các-bin. Thì ra cái mẽ ngoài lắm lúc thật trái ngược.

            Tôi ngồi im, đợi Mẫn đỡ mệt. Mấy ngày nay tôi chỉ chợp mắt mỗi đêm được ba bốn tiếng, còn Mẫn hình như không hề ngủ, trăm việc đều đến tay, chôn mẹ xong lại tất tưởi chạy chân không bén đất. Về họp với C.215, tôi sẽ thu xếp cho Mẫn nghỉ một chút, khuây khoả một chút.

            Những quầng sáng lạ chợt hiện trên mặt cô gái, chạy rập rờn. Hàng mi và một mảng tóc của Mẫn nổi màu vàng kim nhũ từng lúc, tuy Mẫn ngồi dưới bóng cây rậm. Tôi đưa mắt tìm quanh, nhận ra con suối đang đón ánh nắng vừa vén mây, mặt nước đầy những tia rắc ngang như kim, ở giữa chan một mảng thủy ngân loá mắt. Tôi ngắm Mẫn ngồi im giữa những sóng nắng toả từ suối rung rinh rờn trên lá trên người, mỉm cười một mình: đẹp đấy, nếu Mẫn là người yêu của tôi thì đây là cảnh rất nên thơ. Tiếc rằng tôi không yêu Mẫn, chỉ thương và trọng thôi.

            Tôi đi xuống suối rửa mặt, chợt thấy những chấm trắng nhấp nhô gần bờ,chỗ nước chảy mé bên dưới. À, bông bạc. Gặp lại bạn cũ rồi.

            Cây bông bạc nằm chìm dưới nước, rễ xoà bám đá, duỗi những lá mỏng và dài quẫy mãi theo dòng như một chùm dải lụa xanh. Chỉ có bông hoa nhô khỏi mặt nước. Trên đầu cái cuống xanh mềm, hai ngón tay tháp bút xòe ra trắng muốt, nhè nhẹ vẫy mãi, nhắc mãi một lời hứa nào đó, rất xưa trong tiếng suối thầm thì.

            Tôi luồn tay nâng mấy bông hoa gần bờ. Con sông ở quê má tôi cũng nhiều hoa này. Lâu lâu, dọc đường dài từ trận này đến trận khác, thứ hoa kỷ niệm của tuổi nhỏ lại đón tôi ở một nơi có nước trong và bóng mát, vẫy tôi, kín đáo và dễ thương như đôi ngón tay của ai đó đặt gánh gạo bên đường, vừa gặp “anh ấy” trong hàng bộ đội kéo qua… Có tiếng chân nhẹ của Mẫn xuống theo. Tôi ngắt một bông, quay lại đưa cho Mẫn. Mẫn chớp mắt, khẽ nói:

            - Đừng hái, anh.

            - Mẫn không thích à?

            - Thích chớ. Mà để vậy coi xinh hơn.

            Ừ nhỉ. Bông bạc đứt cuống nằm trên lòng bàn tay tôi cứ thẳng đờ như hai con tằm chết cứng. Nó là thứ hoa không ngắt cắm bình được. Nó chỉ đẹp khi đang sống, đang uốn quẫy giữa dòng suối biết đi biết nói. Tôi mến nó đã lâu, sao không nhớ cái nét riêng ấy nhỉ… Tôi thả bông hoa vừa ngắt xuống suối, nhìn nó trôi nhún nhảy như đùa với nước lần cuối trước khi héo rã, tan vào nước, chợt thấy ân hận. Cái chết mới tràn qua đất này xong, sao tôi lại đi cắt ngang sự sống, dù chỉ là cuộc sống của ngọn cỏ?

            Một loạt pháo từ An Tân bắn lên, nổ gần chỗ lội ban nãy. Đợi mươi phút nữa, chúng tôi đi tiếp về Tam Trân sau khi pháo địch chuyển làn.

             *

             Cái kế hoạch bao vây bức rút của tôi bị loại ngay vòng đầu.

            Đại đội trưởng Ba Tơ gặp Mẫn, hỏi chuyện làng chuyện nhà, nhăn trán nghĩ mãi rồi lắc đầu: hồi anh ở Tam Kỳ, Mẫn mới theo đội công tác và chỉ được giao nấu cơm vá áo. Anh lại đi cánh Bắc nhiều hơn, ít quen Tam Sa. Nghe kể việc cứu lụt, anh ừ ừ trong mũi, cầm nhíp nhổ mãi một cái cằm đã trụi râu. Rồi anh “hự” một tiếng, gắt tôi trước mặt Mẫn, rất ngang:

            - Cái tụi ăn gan uống máu đó mà để cho thoát? Bức rút... hừ, bức rút... Mày hay trách tao nóng mũi, lần này tao nóng hết đầu mình chân tay rồi đó. Đừng nói anh em mình đòi đánh, dân đòi đánh, ngay mấy chục thằng quân địch mới chạy về ta cũng năn nỉ làm sao diệt tụi đầu cọp kia nè! Xưa nay tụi nó hiếp người cướp của chẳng có chừa vợ lính nhà lính đâu! Lại còn bốn thằng Mỹ, cha con thằng gì mà ác ôn đó nữa, cho rút hết à?

            Hai gò má sần sùi của anh đỏ rựng.

            Chính trị viên Cẩn vừa ghi vừa xoa bụng bằng tay trái- vẫn cái dạ dày. Trung đoàn đang giục đưa tin thêm về tội ác Mỹ - nguỵ. Anh gập sổ, buông gọn:

            - Hễ trên không cho thêm quân, xê mình dám lãnh một diệt một không?

            Tôi tưởng Ba Tơ sắp nói ngay: “Dám!”. Nhưng ngay giữa những cơn nóng ồn ào, anh vẫn tính rất kỹ sức ta sức địch, vẫn “khôn róc mấu” khi xương máu anh em cần được cân nhắc. Anh dịu giọng:

            - Tao nói phải diệt, còn ai diệt, diệt cách sao thì đợi bàn cho thấu lý đã chớ.

            Chúng tôi đi gặp luôn ban chỉ huy tiểu đoàn đóng cách vài cây số. Tôi nhường Mẫn báo cáo, để dành tiếng nói của mình cho phần cuối: xin đánh. Tiểu đoàn trưởng hỏi rất kỹ, chống cằm ngồi nghĩ, điếu thuốc rơi xuống quần cháy một lỗ tròn không hay. Chính trị viên ra vườn xì mũi, trở vào với cặp mắt đỏ, nói khẽ:

            - Đồng chí Mẫn ăn cơm rồi ngủ một giấc, chiều nay họp tiếp. Cậu Thiêm nhớ uống thuốc phòng nghen.

            Thì ra ở đời vẫn còn những việc mất thì giờ như vậy: ăn, ngủ, uống thuốc. Chúng tôi đang chăm chăm đợi một tiếng “đánh” thôi mà. Mẫn đưa mắt hỏi tôi:, vẻ tuyệt vọng rõ đến nỗi anh tiểu đoàn trưởng phải lèo thêm:

            - Tư Thiêm vẽ giùm cho cái sơ đồ làng Cá với gò Mù U, được chớ?

            Xế chiều, Đảng ủy tiểu đoàn họp mở rộng, và tiểu đoàn trưởng mới nói hết ý mình:

            - Chẳng những vây diệt đại biệt động của thằng Quỳnh, còn phải khoá họng pháo An Tân, đánh sứt mẻ các cứ điểm đã gây nhiều tội ác trong khu vực Nam Tam Kỳ. Huyện hứa cho bộ đội phối hợp. Đặc công của tỉnh đang sửa soạn làm ăn. Huyện ủy vừa cho biết kế hoạch đồng khởi của vùng dưới, tám đến mười xã, anh Bảy còn muốn làm mạnh hơn...

            Mẫn quay nhìn tôi, mỉm cười, mắt vui lóng lánh. Tôi nở mày nở mặt. Chúng tôi nằn nèo xin một cắc, đang sợ bị từ chối, bỗng được tới một đồng, nhiều đồng, hoá ra giàu sụ.

            - Riêng cái gò Mù U, đề nghị giao cho xê Ba Tơ chủ công. Cho thêm một xê nữa mở hai mũi phụ vá đường, chặn hết các ngả. Phải băm nát, hốt gọn, diệt cho sạch, xoá phiên hiệu cái đơn vị ác ôn đó, nhất là số Mỹ và cha con thằng Chinh càng không được để sẩy. Các đồng chí thấy sao?

            Ngón đòn trả thù lớn hơn mơ ước của chúng tôi nhiều quá. Nó còn lớn lên nữa sau khi Đảng ủy tiểu đoàn đi họp với tỉnh ủy, huyện ủy, có anh phó chính ủy trung đoàn vừa đi vừa chạy từ Quảng Ngãi ra kịp dự. Mẫn cùng đắp bàn cát với tôi ở nhà chị Bỉnh, cười luôn miệng, đôi lúc lại thừ người ra hỏi khẽ: “Cắn cưa rồi chớ, anh Thiêm?”. Mẫn cứ sợ mừng hụt. Đối với Mẫn, trận này không chỉ là trừng phạt giặc và giải phóng xã mình, nó còn lấy lại cho Mẫn tiếng cười và tâm hồn thanh thản. Thiếu nó, máu trong người Mẫn cứ mãi là dầu sôi. Hạnh phúc đến trước một ít rồi, toả ngời ngời trên khuôn mặt gầy đang hồng lại như ngấm trầu thuốc.

            Nhưng kế hoạch không cắn cưa bấy nhiêu. Liên tiếp có tin mới: trung đoàn điện cho hai xê trợ chiến mới xây dựng được đi thực tập luôn trong dịp này, nện cối 81 và ĐK vào các đồn gần Tam Sa; tỉnh đội Quảng Nam báo tin sẽ đánh vào thị xã Tam Kỳ; một cậu đại đội trưởng đặc công của khu mà tôi quen chợt đến, kéo Mẫn ra góc vườn hỏi về con đường xuống cửa biển An Hoà.... Vẫn chưa hết. Cái máy thu thanh đặt bên chỗ chúng tôi làm việc từng giờ nhắc rằng trả thù cho làng Cá còn có đồng bào Sài Gòn, Đà Nẵng đang đánh lại cảnh sát dã chiến trên đường phố để đòi cứu vùng bị nạn, còn miền Bắc đang dồn gạo, vải, thuốc men gửi vào, còn những người ngay thật trên cả trái đất đang quyên góp và xuống đường. Giặc vừa úp những cái nơm thép xuống làng, thì đây, một tấm lưới trời đang dang rộng ra mãi, dày thêm mãi, sắp chụp xuống rồi.

            Bàn cát đã xong. Gọi là bàn đất sét đúng hơn. Tôi cắm lá cờ giấy trên gò Mù U - cờ vẽ một cái đầu cọp nhe răng, miệng tô đỏ lòm bằng thuốc đỏ - vừa nghe chị Bỉnh hỏi mấy giờ. Tôi liếc xuống cổ tay, phải nghĩ một chút mới biết là bốn giờ sáng chứ không phải bốn giờ chiều. Một tiếng rưỡi nữa cán bộ các xê đánh gò Mù U sẽ lên bàn cát. Chưa bào giờ tôi thấy Mẫn tươi khoẻ như lúc này, sau một đêm thức trắng.

             

            *

             Chiều hôm ấy, khi Mẫn và tôi sắp trở về Tam Sa để sửa soạn đón quân, một cậu du kích đến tìm tôi, đưa một lá thư có phong bì giấy trắng hẳn hoi. Anh Liệp, đội trưởng đội võ trang công tác Tam Sa, trân trọng mời tôi đến “dự bữa cơm thân mật với đội, nhằm cảm tạ sự đoàn kết giữa Quân đội giải phóng và địa phương”. Tôi đưa thư cho Mẫn, cười:

            - Cô này ghê thiệt, ngồi một bên mà nhứt định gởi giấy cho oai. Tụi tôi đi hết chớ?

            Mẫn không giấu được bối rối khi đọc thư. Tôi bắt đầu thấy lạ. Đội Tam Sa mời liên hoan, Mẫn không biết. Mà lại mời riêng tôi, tại Tam Trân. Người cầm giấy đúng là du kích Tam Sa thật, nói ăn cơm ở quán thím Liệp. Mẫn bảo tôi nên đi, cách nửa cây số thôi. Mẫn còn mấy việc linh tinh, không dự, sẽ đợi tôi đúng tám giờ tối tại nhà chị Bỉnh để cùng về xã. Cuối cùng là mấy tiếng hấp tấp và cặp mắt nhìn lảng: “Chỗ quán xá có hơi phức tạp, anh giữ ý một chút...”. Thế nghĩa là gì?

            Tôi theo cậu du kích ra đường ô tô lúc lên đèn.

            Rải rác trong vùng giải phóng có những phố chợ nho nhỏ với mươi quán bán tạp hoá, mắm muối, bia cam, bánh xèo và mì Quảng, cùng với các tiệm may, cắt tóc, sửa xe đạp chia chỗ nhau dọc một khúc đường. Nơi họp chợ là một khu vườn mít hay cau gần đấy, có hầm hào tránh tàu bay đại bác càng hay, phiên chợ chỉ kéo dài vài tiếng. Phố chợ Ngọc Lợi này khá nhộn nhịp, lắm hàng. Hàng thành phố có xe khách chở lên hằng ngày, hàng vùng giải phóng được xe thồ và thuyền đưa xuống. Chợ nhỏ buôn lớn, cần mua máy thu thanh Nhật hay đồng hồ Thụy Sĩ đều có sẵn, phải cái giá khá đắt sau nhiều lớp ăn lời. Mậu dịch công doanh cũng vừa đặt một cửa hàng ở đây. Ta chưa chặt cầu phá đường, chỉ soát xe, thu thuế, chỉ đạo giá cả, bắt gián điệp. Địch chưa ném bom đốt dãy quán vì sợ thị xã bị giam đói. Bọn lính địch mỗi khi càn lên đây thường hỏi mua giây dù, vải dù hoa, bi-đông Mỹ, giá rẻ hơn chợ buôn lậu Tam Kỳ.

            Quán thím Liệp là một nhà tranh khá rộng nằm bên đường cái, ghép thêm một nhà nữa theo thế chữ đinh ở phía sau. Thím Liệp đón tôi niềm nở, nhắc các con “chào chú” - ba đứa bé rất xinh, lễ phép, mặc vải hoa cùng màu. Thím còn trẻ lắm. Cũng may câu chào đầu tiên của tôi rất là chung chung nên tôi kịp gọi tiếp bằng chị, tưởng đắc sách rồi, ai dè lát sau lại biết con gái đầu của chị đã lấy chồng, chị sắp có cháu ngoại. Chao ôi, cách xưng hô tiếng Việt sao mà rắc rối!

            Cơm đã dọn sẵn ở nhà trong. Ba người ngồi uống trà đợi khách, đứng dậy bắt tay tôi hồ hởi. Cả ba đều lạ mặt, sao vậy? Những đồng chí cứu lụt tôi quen đi đâu hết? Tôi không thể nghĩ đây là một pha xi-nê trinh thám, bởi du kích Tam Trân đeo súng ra vào nườm nượp ngoài kia, cười ầm, chị Liệp chia cho mỗi người một nắm thuốc rê và gắt: “Nhỏ nhỏ cái miệng chớ, chú Tám đang có khách!”

            Một anh tóc lốm đốm bạc, người cao lớn, mặc bộ ka-ki Mỹ may kiểu bộ đội còn mới, trịnh trọng giới thiệu hai đồng chí Ba Thấn và Sáu Quỳ trong đội Tam Sa, rồi chỉ vào mình: “Tôi là Tám Liệp, đội trưởng”. Anh rót rượu a-nít và bia 33, mời tôi nâng cốc với dáng điệu của một sư trưởng đón khách nước ngoài. Tôi đã ăn no và không biết uống rượu, chỉ cầm đũa cho phải phép, nhấp bia và ngắm họ, nghe họ.

            Anh Liệp luôn luôn đường hoàng đĩnh đạc, men lên đỏ mặt vẫn không ngớt gọi tôi là “đồng chí đại đội phó”. Tôi nhớ ngay anh Tư Luân bí thư Tam Sa, đội phó, gầy chỉ còn toàn xương, lảo đảo ngồi xuống bên tôi, vừa nắn chỗ đầu gối sưng đỏ vừa hỏi: “Còn điếu nào không, Thiêm?”. Anh Quỳ trạc tuổi tôi, chỉ ăn không nói. Anh Thấn có vẻ cởi mở nhất, hết lời khen bộ đội “thương đám dân lành”, tôi nghe rất chối tai tuy biết một số đồng chí ta còn nhiễm lối ăn nói vùng địch. Có một cái gì lắt léo đằng sau bữa tiệc gà quay cá hấp rất sang này. Phải chăng các vị cần tôi có mặt để tiện chi mấy trăm bạc quỹ công vào bữa chén? Nếu vậy lý do đã đủ, tôi sẽ rút lui sớm để các vị ăn nhậu với nhau, tôi phải lo đánh giặc để giải phóng quê các vị đây. Bà con dưới kia đang xẻ tư mỗi nắm cơm cứu đói dưới hầm, pháo giặc tưới đất bột trên miếng sắn ghế...

            Tôi cố giữ bình tĩnh một lát nữa rồi xin kiếu trước. Tôi bị níu lại. Thì ra họ còn muốn căn dặn mấy lời. Anh Liệp nhắc rằng tư tưởng trong đội đang phức tạp, tôi nghe điều gì trái tai thì chớ tin ngay, nên hỏi lại đội trưởng. Ba Thấn đỡ lời, nói cô Mẫn đánh giặc thiệt tới gan nhưng “sanh hoạt có phần bừa bãi”. Anh cười tủm, nháy nháy để tôi hiểu “sanh hoạt” nghĩa là gì. Chị Liệp đi qua cũng ghé vào, tố con Hai Mực là đứa ăn cháo đá bát, theo đuôi ông Luân mà coi trời bằng vung, lau mũi chưa sạch mà đòi hỉnh mũi. Anh Liệp ra vẻ khoan dung: “Thôi, chấp chi con nít mới lớn”. Mất một lát tôi mới hiểu “Mực” là tên “móc nối” của Mẫn. Sáu Quỳ bận gặm cái đùi gà, chỉ lắc đầu thở dài, chẳng biết rầu về ông Luân, cô Mẫn hay cái đùi gà dai.

            Nửa giờ sau tôi mới đi thoát, mồ hôi vã ướt lưng.

            Bộ đội tới đâu phải tìm gặp cán bộ địa phương trước hết, tôi đã làm việc với mấy chục uỷ ban xã và đội công tác, chưa bao giờ thấy khó chịu như hôm nay. Tôi có nghe loáng thoáng về anh Tám Liệp, còn làm đội trưởng nhưng vừa rớt chức bí thư trong đại hội chi bộ hồi đầu năm vì quá nhát gan. Dù chẳng biết mô tê nào, tôi vẫn không muốn tin lời họ. Đây đó tôi cũng gặp trong hàng ngũ ta một số người lưỡi dài hơn tay, nhờ khéo trốn việc nên rảnh thân rỗi mồm, hễ tụ lại đủ cặp là bắt đầu nói xấu sau lưng một người thứ ba, và cái tật ngồi lê đôi mách ấy có khi được đặt tên chữ là “hội ý hội báo”, là “nhận định tình hình nội bộ”. Cuộc bôi nhọ vừa rồi còn nặng hơn thế. Cái bộ ba kia - bộ tứ thì đúng hơn, vì chị Liệp chủ quán hiểu hết người và việc trong đội, chi bộ - vừa cơm gà cá gỏi vừa đánh vào lưng những đồng chí đang vào sống ra chết. Nhưng họ ranh quá hoá dại. Họ tưởng tôi cũng tham vặt như họ và ngốc hơn họ. Những người tồi thường hay lấy mình làm thước đo để đánh giá kẻ khác. Trong khi nịnh anh A, đả chị B, trung lập bác C, doạ ngầm chú D, họ không biết rằng họ đang hứng lấy sự khinh ghét của những đồng chí đáng gọi là đồng chí... Tôi không muốn nhúng vào việc nội bộ của đội Tam Sa, nhưng trách nhiệm buộc tôi phải nói hết với huyện ủy khi có dịp. Ý định ấy giúp tôi nhẹ người dần trên đường về.

            Chưa đến bảy giờ rưỡi tôi đã bước vào nhà chị Bỉnh. Mẫn không đi đâu cả, ngồi ru con chị Bỉnh đợi tôi. Thoáng một ánh gì như lo sợ trong đôi mắt đen ngửng lên, có thể là xót xa. Tôi chỉ nói sơ rằng chỉ đến cho biết người biết nhà anh Liệp thôi, giục Mẫn đi xuống Tam Sa.

            Địch chừng đã đánh hơi có chủ lực về, cho tàu rà và C.47 quần mãi trên cánh đồng lớn của Sáu Trân, ném đèn dù dày như nấm mọc sau mưa. Ruộng sau lụt không còn bờ bụi gì nữa, chúng tôi phải quàng dù hoa kín người, ngồi thụp khi máy bay vòng lại, có khi phải đóng vai hòn đá suốt hai mươi phút. Tới một lúc đèn tắt hết, chỉ còn chùm đốm xanh đỏ của chiếc C.47 vẽ mãi số 8 trên cao, Mẫn phóng lên rất nhanh. Tôi không ngờ cô gái mới ôm ngực thở dốc hôm kia có thể đi vèo vèo như vậy, như xem đường bằng bốn mắt cá chân. Nhanh quá mất. Đi đêm đã nhiều mà tôi theo Mẫn không kịp. Pin không bấm được, trời đen, một cơn mưa nhỏ lại nhuộm sẫm các lối mòn vừa khô xong, khi mới tối còn trắng mờ. Cái khăn tang trên tóc Mẫn bị tấm dù trùm kín. Tôi chỉ còn biết căng mắt nhìn hai bắp chân trắng thấp thoáng đằng trước, một thứ lộ tiêu trời cho, và sấp ngửa đuổi theo. Được một lát thì cặp lộ tiêu ấy biến mất, sau khi Mẫn lội qua một vũng bùn đặc. Tôi bước xuống ruộng một lần, hai lần, buộc lòng phải bảo Mẫn chậm lại. Mẫn nói như xin lỗi:

            - Ở đội công tác phải mò đêm quanh năm, tôi quen mắt quen chân...

            Chân tôi không kém ai, nhưng mắt thì chịu thua cô này hẳn rồi. Đến sông Rù Rì chúng tôi dừng lại nghỉ. Tôi rất mừng khi Mẫn rửa chân thật sạch và vo quần cao đến vế, rồi bỗng bật cười thành tiếng, thầm giễu mình con nít. Mẫn cười theo:

            - Thích quá anh hè. Tôi cứ sợ chiêm bao, thức dậy không còn chi hết, chao!

            Lần đầu tôi nghe Mẫn cười. Một tiếng cười dè dặt như chưa dám vui quá sớm.

                 Chú thích

            (1)   Thước cũ, độ 4 dm

 Chương 4    

              Tôi nhè nhẹ co hai bàn tay lên xoa mặt và cổ, phủi mấy con kiến đen chân ngắn mình đẫy. Giống này cũng lạ, đốt không đau nhưng nếu tôi giết một con thì cả bầy từ đâu ùa tới bò kín người, sẽ trị tôi bằng cái ngứa ngáy.

            Bọn lính gác đứng nép im xo dưới bóng cây. Tôi rình khá lâu không thấy chúng hút thuốc, đập muỗi, bấm pin xem giờ. Chỉ một trung đội mà chúng gác tới bốn vọng ở bốn góc vườn, thêm nửa giờ một cặp đi tuần không rọi đèn. Lính rằn ri con cưng của Mỹ có khác. Tôi thu thú khi nghĩ đến cái phút thằng chỉ huy hứng đạn vào ngực, giãy lên tức tối: “Gác vậy mà Việt cộng cứ đánh được!”. Tiếc rằng trận này chỉ là tí hon.

            Trước mặt tôi, khối đen của ngôi đình làng Cá hằn trên nền trời rậm sao. Thằng Chinh con với ba chục tên biệt động ngủ trong ấy. Hồi chiều chúng tôi đụng cái trắc trở mới này: “Thêm một đại lính đầu cọp nữa kéo tới gò Mù U, sau đó hai trung tách ra đóng trong hai ấp chiến lược Nhơn Ái và Nhơn Phước, giữ sườn cho cụm quân trên gò. Cái nhóm mười bốn anh em cứu lụt chúng tôi lại được giao đánh vào làng Cá, tất nhiên. Còn những hai mươi phút nữa mới đến giờ G, tôi cứ cho tất cả bò vào nằm dọc hàng rào, theo dõi địch luôn thể. Lính cũ đã qua nhiều trận, anh em đủ sức bám lâu bên hông giặc mà không mất bình tĩnh.

            Hồi mới thử lửa, cái khoảng thời gian nằm đợi nổ súng là một cực hình đối với tôi. Mệt và căng lắm. Tôi dán mắt vào lớp kẽm gai hình cũi heo ở ngoài cùng, cố nhớ lại cái đồn đã xem trên bàn cát với các lô-cốt mẹ, con, hầm chìm hào lộ, rào và mương đầy những chông mìn. Tôi nhẩm mãi những lời dặn từ các anh từ tiểu đoàn đến tiểu đội, những mánh lới nhỏ của các đồng chí cũ mách cho, thấp thỏm lo không thuộc. Người tôi hết nóng lại lạnh, một sợi gân nào đó giật từng hồi dọc xương sống, bụng thót lại rất mót đái, kiến bò mãi trong các bắp thịt chân tay, tệ nhất là cái họng cứ trở chứng đòi ho rất dữ. Y hệt một cậu học trò sắp vào buồng thi, cuống quýt lo trượt, cố học “gạo” thêm đến mụ cả óc. Nếu ai nghi tôi sợ chết thì oan lắm. Tôi rất ham giết giặc nhưng còn thiếu bình tĩnh, vậy thôi.

            Qua vài trận, tôi mới tập được cái ung dung đầy tự chủ của người lính cũ. Những ý nghĩ rối tinh biến dần. Cái lối ngọ nguậy lăng xăng và cứng như gỗ của người mới tập đi xe đạp nhường chỗ cho những động tác gọn, dẻo, nhanh, mạnh nhưng không phí sức. Nhích lên một ít nữa, tôi được anh em khen: “Thằng Thiêm đánh nghề đấy”. Một tiếng tôi chưa gặp trên báo trên đài, có lẽ vì ngại lẫn với lính nhà nghề của địch, nhưng hay nghe trên cửa miệng bộ đội. Thành ra người thợ hay người dân cày cần phải thạo nghề, còn anh chiến sĩ thì phải “tinh thông chiến thuật kỹ thuật”, nghe khá dài... Kể từ lúc tôi tàm tạm thạo nghề trở đi, thời gian nằm im sát địch không còn hành hạ tôi nữa mà biến thành những phút nghỉ dễ chịu, để cho sợi gân thớ thịt giãn ra, mọi thứ lo toan khi chuẩn bị và đi đường lùi về phía sau, những cảm xúc dồn dập kịp lắng xuống và kết tinh. Dứt quãng nghỉ bắt buộc ấy, tôi nhào lên đánh rất khỏe.

            Năm ngoái ở xê mình xảy ra chuyện buồn cười. Một anh nhà báo đến gặp Mười Cảnh, chiến sĩ thi đua trung đoàn, hỏi và ghi suốt hai ngày. Chúng tôi khoái lắm, lo cháo sớm chè khuya để anh lấy sức làm việc. Hơn tháng sau chúng tôi nhận được số báo có một bài dài về cậu Cảnh. Đại đội họp lại nghe đọc chung, trịnh trọng như làm lễ mừng công. Bài báo viết đủ các mặt nổi nhất của Cảnh. Khen hơi quá một chút, nhưng không sao, sức cậu Cảnh có thể bù vào chỗ chưa kịp làm mà đã được nêu. Ác một nỗi anh em càng nghe càng xì xào, cười, đến cuối cứ ngớ ra quên vỗ tay. Lặng đi một lát rồi quân ta mới góp ý, ban đầu còn ngập ngừng lựa lời, sau mới túi bụi. Mười Cảnh được tả đang đánh giặc say sưa với đôi mắt nảy lửa, máu sôi trong đầu, miệng thét những câu khích lệ đồng đội. Anh em bàn rằng chớ nên toé lửa con mắt, khó bắn trúng địch mà lại dễ đạp mìn ba râu của nó. Rằng bốc máu lên đầu không có lợi, phải tỉnh để đoán mẹo thằng địch và nghĩ cách giết nó. Rằng khi đâm lê cần thét dữ, lúc khác phải để dành tai nghe lệnh chỉ huy và nghe cả giặc nữa. Đến cái đoạn gay cấn nhất, tả cậu bạn bị thương: Cảnh chạy đến, thổn thức lay gọi người đồng chí thân yêu, rồi ghé vai cõng bạn quay về phía sau băng bó. Anh em kêu ầm: ra trận mà khóc lóc, bỏ chiến đấu, mượn cớ bạn bị thương để rút dù! Chính cậu bạn được cứu phải phân trần giùm. Thì ra Cảnh chạy lại rút băng quấn cầm máu rất nhanh, miệng gọi cáng thương, rồi xốc tiểu liên chồm tới đánh tiếp, diệt xong hai chiếc M.113 mới quay lại. Cậu kia nhường cáng cho đồng chí khác, chống súng đi tập tễnh, Cảnh cõng bạn và đeo hai súng hai bao suốt đường rút quân.

            Mười Cảnh vốn là tay làm nhiều nói ít, cứ nhìn cắm xuống đất như tìm hầm ngầm mà trốn. May phước không ai hiểu lầm cậu ta, một con người chánh hiệu vàng ròng. Năm Cẩn gãi đầu khi nghe đọc chỗ Mười Cảnh gặp trọng liên địch bắn rát quá, đã nhớ lại một câu động viên của bí thư chi bộ, nhờ đó thêm quyết tâm giết giặc. Anh rỉ tai tôi: “Công tác chính trị vậy là chưa ngấm”. Cuối buổi, Ba Tơ nghĩ ra một lời giải thích rất hay:

            - Thì phải viết vậy mới ra văn chương chớ, cứ tả cái kiểu tụi mình đánh tỉnh khô như phát rẫy, hấp dẫn sao được.

            Anh em đều thấy đại đội trưởng nói có lý, thôi cho qua.

            Quả thật những ngày đêm trước khi ra trận là căng hết mức. Mỗi chúng tôi đều phải làm nhiều, nghĩ nhiều, cảm nhiều. Thằng giặc chẳng phải hùm beo, ma quỉ gì, nhưng không thể coi nó là cục thịt thừa nằm ỳ chịu đấm. Phải lường cho hết các ngón tam khoanh tứ đốm, tìm cách phá hết các bửu bối của nó. Chúng tôi còn thành kính lật lại cuốn sổ căm thù của đời mình. Các khoản nợ máu còn dễ đếm, nợ bóc lột tính mãi cũng ra, còn những mối nhục khía vào tim như cật nứa thì chúng tôi nói ít mà cảm nhiều - một cái tát có khi để giấu trong tim sâu hơn trái bom tấn. Chúng tôi sửa soạn một cuộc thanh toán, và biết rằng nỗi đau ngàn đời của con người không được sống ra người còn đòi rất nhiều cuộc thanh toán nữa. Chen vào mọi chỗ hở của hăm bốn giờ là trăm thứ việc không tên, từ viên đạn long đầu phải thay đến cái bao gạo chuột khoét chưa vá.

            Đến cái phút sắp giao chiến.

            Lúc ấy tất cả đã ngấm, đã tiêu hoá hết, biến thành sức mạnh mới trong mỗi tế bào của người lính rồi. Anh chiến sĩ hẹn với mình: “Phải xoá sổ cái đơn vị ác ôn này”, và ngạc nhiên nếu có ai nhắc đấy là câu nói của chính trị viên. Giết giặc đã là đòi hỏi riêng tư của anh, cái đòi hỏi gấp rút nhất, cứng và nhọn như mũi lê phóng về phía trước. Anh biết rõ những gì sắp làm để giết được giặc. Anh nhẹ nhõm đến mức kỳ lạ. Phải có kỷ luật chiến trường mới kìm anh được, không cho tếu. Kẻ thù không hiểu nổi anh đã đành, cả một số bạn bè đứng bên lề nhìn vào cũng khó đoán vì sao anh thanh thản đến vậy trước cái chết. Họ tưởng anh phải say máu như gà chọi mới đánh được, trong khi anh cứ bông lơn pha trò dưới bom rải thảm, xung phong hét dữ nhưng vẫn nhớ băng đạn còn bao nhiêu lượt bóp cò, và kìm được đà tay đâm khi thằng địch thả súng...

            Trung đội rằn ri trong đình cho lính ra thay gác, vẫn không đèn lửa. Ranh lắm. Tôi xem đồng hồ: còn tám phút. Tôi bóp tay chú Dé, rỉ nhỏ:

            - Mệt không?

            - Không. Bằng nhau mới ngủ dậy.

            Dé cười. Hàm răng loé trắng và biến.

            Bên phải tôi, cô Hai Mẫn nằm sấp, chống một tay lên cằm, từng lúc nhìn tôi bằng cặp mắt lóng lánh đọng sao. Mẫn nắm một tiểu đội du kích đánh chung với bộ đội, nhưng chia nhiều nhóm chặn các ngả, phòng thằng Chinh sẩy chạy lẫn trong dân.

            Sau khởi nghĩa Mẫn sẽ làm xã đội trưởng. Anh Bảy quai nón nói vậy và cười: “Đàn ông xưng anh với vợ miết rồi cứ bắt đàn bà làm phó!”. Tôi không kể với Mẫn câu chuyện trong quán chị Liệp, chỉ hỏi về bộ ba đã gặp, về anh đội trưởng mới thấy đảo về xã có một buổi lại trở lên Tam Trân. Mẫn nói lảng, giữ miệng như có thư ký ghi biên bản bên cạnh. Rõ ràng Mẫn xem tôi là người ngõ ngoài đến giúp, chỉ cho biết những sụ bụp xẹt đùng choàng, không thích tôi xen vào việc riêng của Tam Sa. Cũng được thôi. Tuy trong khi phối hợp tôi vẫn có quyền chất vấn về anh đội trưởng, và Mẫn phải trả lời, nhưng tôi không muốn vặn lý Mẫn làm gì.

            Cây kim phút nhích dần đên cái đốm xanh của số 6. Tôi bấm vào tay Mẫn ba lần, báo hiệu tiến tới sát địch, nhân đấy nắm cổ tay Mẫn thêm mươi giây, ấn đầu ngón tay chỗ mạch máu. Mẫn không run, tim đập vừa phải: vững đấy. Mẫn và chú Dé bấm nối dây chuyền ra mé sau. Chúng tôi trườn rất chậm đến cách chân tường năm bước, lại dừng đợi. Một bắp thịt trên gò má tôi rút mạnh, đau. Tôi đặt bàn tay trái lên, day day mấy cái, nó nằm im. Đằng sau đã lên đủ, báo cáo bằng hai lần bấm vào chân tôi. Êm cả. Chắc ăn rồi.

            Phía gò Mù U bỗng loé chớp trắng. Không đợi tiếng nổ đến tai, tôi vọt lên, giật nụ xoè, tống trái thủ pháo một cân qua cửa đình, lùi lại nép bên tường, đơm cây súng ngắn P38. Nổ này, nổ đi, phải nổ chứ... Chú Dé thả hai lựu đạn Mỹ qua cửa sổ. Mẫn kịp xả một loạt, hất nhào một cái bóng vừa nhảy ra hiên, chắc là thằng đốc gác. Sân đình bật sáng chói mắt, đất xóc dưới chân tôi. Ngon rồi. Chung quanh vườn, nhiều bụi cây phun lửa đỏ. Một bóng lính gác chạy mấy bước, ngã. Tôi hét xung phong. Trong đình có tiếng gào, rên, ằng ặc, chen tiếng ngói rơi vỡ. Hai tổ đánh lê lao qua cửa. Tôi vòng đón mé sau đình. Các cậu đánh rất cừ, không mở miệng, chỉ hự trong mũi khi xóc lê. Một thân thể to nặng húc vào tôi, hai đốm mắt trắng dã, miệng ú ớ. Tôi gạt chân hắn ngã sấp, vuốt nhanh cánh tay trái hắn một lượt cho chắc. Không có khăn trắng, tôi gí súng vào cái đầu cố ngóc, bóp cò hai lượt. Thằng thứ hai trèo qua cửa sổ, gục luôn, chắc đã bị đâm. Một thằng nữa nhảy ra, quạt một tràng tom-xơn hú hoạ, chạy. Tôi kịp vẩy theo ba phát vào lưng, nó lăn ra giãy. Chú Dé giữ cửa sổ đầu kia quật ngang súng vào một cặp chân vừa chạm đất, chắc lưỡi lê gãy, lê trường Mát tồi lắm. Tôi vòng ra sân. Mấy đống thịt nằm lù lù trên mặt bùn khô trắng mờ. Anh em trong đình đã thét gọi hàng.

            Mẫn kêu lanh lảnh ngoài ngõ:

            - Bà con thắp đuốc bắt lính sẩy! Trói tù binh, cô bác ơi! Mẫn đây, Hai Mẫn đây, nổi lửa mau lên.

            Nhiều giọng phụ nữ kêu tiếp, lan ra khắp xóm. Phía gò Mù U đã hết tiếng nổ lớn, chỉ còn súng nhỏ từng lúc rộ lên, lặng đi, lại rộ. Mẫn khôn lắm, xưng tên ngay cho bà con khỏi ngợ, giữa đêm nghe súng rầm rầm thì khó biết cái gì xảy ra. Một bùng lửa bốc lên ngoài rào, nở lem lém: mấy bó rạ đang cháy to dần. Một ông già giơ cao tấm tranh cháy phừng phừng, cầm dao phay chạy tới. Mấy đốm sáng nữa. Nhiều ngọn đuốc bốc khắp xóm. Bà con giật tung những mái tranh rạ mới che tạm sau lụt, xóc lên đầu một cây nạng hay khúc ngọn tre, đốt sáng rực đi soi các bụi bờ.

            Anh em đã ập vào đình, rọi pin, thắp cái đèn bão vỡ bóng, bắt đầu trói mấy tên sống sót, máu phòi qua lỗ mũi nổi bong bóng. Tôi cho một tổ sục quanh vườn, tóm thêm được hai thằng gác chui trong hàng rào nằm im, không dám chạy qua vòng vây lửa của đồng bào ngoài kia. Tất cả chỉ có hai mươi lăm đứa cả chết lẫn sống. Mẫn vào nhận mặt, kêu thiếu thằng Chinh mặt ngựa, con thịt đáng tiền nhất của cuộc săn. Hồi chiều du kích bí mật đếm được ba mươi bảy tên tất cả.

            Tôi rọi loáng qua xem cấp hiệu, chĩa đèn pin vào mặt một tên hạ sĩ lùn tè, gằn giọng:

            - Ai chỉ huy trung đội, nói!

            - Dạ, dạ... thượng sĩ Uẩn... dạ, em mới thấy nằm kia.

            - Còn một tiểu nữa đi đâu?

            - Dạ, ông cảnh sát dẫn đi ngủ nhà ổng, nghe nói vậy...

            Tôi để một tổ trói tù, kéo anh em chạy ào qua nhà ngói xã Chinh, chia ba hướng ập vào. Chúng nó trốn sạch... Không phải, chúng chưa hề ngủ tại đây. Chỉ có những dấu chân lẻ tẻ đạp trên lớp bùn non đã bong từng mảng cong cong như nồi đất vỡ. Ngoài sân cũng vắng dấu. Mẫn đoán chúng ngủ trong vườn mít để chạy về phía đường Một cho nhanh. Chúng tôi xé rào luồn qua vườn: địch ngủ đấy và đã chuồn. Chúng đào mỗi đứa một hố bắn, trải pông-sô nằm sát bên, còn khuân gỗ làm công sự trung liên hẳn hoi. Dấu giày răng chó in dày trên lối mòn ra đồng. Tôi níu tay Mẫn đang kẹp các-bin đuổi theo hấp tấp, rọi đèn pin bọc vải xanh sát đất, dò theo một quãng, tìm ra trái mìn nhảy chỉ nhô ba cái mấu đen nhỏ xíu. Một trái nữa lấp vội hơn. Một trái nữa vùi trong lá khô qua loa... Địch đã chạy xa, để lại những vết giày sải dài, mũi bấm sâu, những dấu ướt sau chỗ lội đều sắp khô.

            Quay lại vườn mít, tôi dặn anh em trở về đình thu dọn chỗ đánh, và giữ Mẫn ở lại đây một lát. Có lẽ Mẫn chờ tôi trách, vì Mẫn nắm du kích bí mật theo dõi địch mà không biết có một cụm ra nằm tận đây.

            - Thiệt đó anh, chị em núp ngó chừng miết, thấy gì đâu... mười một rưỡi báo tin chót... còn đủ hết... vậy mà hụt thằng Chinh....

            Tôi không muốn trách Mẫn chút nào. Chẳng mấy khi trận đánh diễn ra thật đúng như ta muốn. Thắng lợi có khi tăng gấp đôi, có khi sụt còn một nửa, nhưng vẫn thắng là được. Tôi nghe Mẫn nói ấp úng, ngượng và buồn, bỗng thấy một niềm thương lớn lắm cứ dâng mãi, dâng mãi, khiến tôi nghẹn lời. Tôi thương Mẫn, thương các đồng chí và bà con làng Cá, thương mảnh đất đẫm bùn và máu đang đỡ chân tôi. Tôi đằng hắng hai lần mới nói được:

            - Không... tôi tính để đồng chí coi kỹ lại cách bố trí của địch. Đây là kiểu con nhím, độc lắm.

            Bộ đội đánh vài ngày nữa sẽ đi. Cô xã đội măng tơ với đội du kích còn vụng dại của mình sẽ phải vật lộn dài ngày với bọn thù ác và quỉ quyệt thế này đây. Ngủ trong ấp chiến lược, chưa hề đoán được quân ta sắp đánh, vậy mà chúng gác rất kỹ, đang đêm nín hơi đổi chỗ, trước khi ngả lưng còn đào công sự, rút chạy vẫn nhớ đặt mìn... thằng Chinh con mặt ngựa này không dễ diệt đâu. Tôi soi đèn cho Mẫn xem từng chỗ một, nói thật cặn kẽ, rất muốn đưa tay vuốt tóc đứa em gái vừa môi côi mẹ và dặn thầm thì: “Em nhớ kỹ nghe em, anh sắp đi rồi...”. Út Hiền em gái tôi lớn hơn Mẫn đến ba tuổi.

            - Đồng chí chú ý hướng đặt trung liên, đây, ta chạy thẳng vô bị bắn xâu táo ngay, thấy chưa?

            Đến một lúc nào đó, chúng tôi đứng lặng nhìn nhau trong tối. Hình như Mẫn thở dài. Mẫn nói trước:

            - Ta ra chỗ mit-tinh, anh hè.

            Đi được mươi bước, Mẫn chợt nói nghèn nghẹn:

            - Các anh tốt quá. Phải chi các anh ở được ít lâu nữa... em... em có mấy chuyện... thôi để sau...

            Bấy nhiêu thôi. Mẫn rẽ vội qua một ngõ khác khi chúng tôi sắp ra đường làng, nơi bà con làng Cá đang cầm đèn gió kéo tới sân đình từng nhóm đông. Tôi chép miệng, bước thẳng. Tôi chỉ muốn là bạn thân của Mẫn, cũng thân như anh Ba Tơ, chú Dé và nhiều người khác, bởi tình bạn chiếm một chỗ lớn lắm trong tôi. Rất tiếc, Mẫn từ chối. Tôi thoáng thấy một mối dây nào đó nối liền những lời cay nghiệt trong quán chị Liệp với cái dáng cố làm ra gò bó lạnh lùng của Mẫn... Thôi, phớt, đánh nhau với giặc đủ mệt, hơi đâu để ý tới những chuyện rắc rối tơ tằm cho nó vướng!

            Lát sau, tôi đã quên hết.

            Sân đình đông nghịt. Mấy đồng chí trong đội công tác đang bơm đèn măng-sông, sửa lại cái biểu ngữ. Bà con vẫn đến kìn kìn. Mấy chị cầm dao chuối, mài chưa hết gỉ nhưng rất bén, giải tới một thằng lính rằn ri chạy lạc, quấn bó giò trên thân nó không biết bao nhiêu thứ dây to nhỏ, cả lạt tre và dây bẹ chuối. Số “thanh niên chiến đấu” mang nộp hơn chục súng săn, một đống lựu đạn. Thằng ấp trưởng rúc vào đống rạ đã bị moi ra trói ké, ngồi co ro ở góc sân, rác phủ đầy tóc. Đàn ông chen chúc trong đình xem chỗ đánh, cười rộ từng hồi. Các mẹ gớm máu chỉ đứng ngoài, túm áo bộ đội mà kể thút thít. Đây không phải là đêm đồng khởi của ba bốn năm trước - hăng, ồn ào, bỡ ngỡ, thừa nhiều mà thiếu cũng lắm - nhưng cái không khí ngây ngất vẫn là một. Tôi cười to, nói vội giữa đám đông. Tôi cố trả lời không bỏ sót hàng chục câu hỏi bay vào tới tấp. Tôi lật mũ đưa cho em nhỏ cứ đòi đội thử, an ủi một chị rằng bộ đội ta đông quá nên tôi không quen anh Hồng Sơn hồi ở nhà tên là Vện, rút trả xếp giấy bạc mà một bà mẹ nhét bừa vào túi, quay mặt ra ánh đèn để ông cụ xem mặt vì giọng nói giống y thằng Ba của cụ.

            Bộ đội lẳng lặng rút khi mít-tinh bắt đầu. Hai giờ sáng rồi, phải dồn quân lại sửa soạn chống càn ngay. Mẫn và đội du kích đang rối rít chia súng đạn trong nhà xã Chinh, ghép số anh chị em mới vào các tiểu đội, các tổ, vài tiếng nữa là đánh.

            Ra khỏi xóm, tôi quay lại và thấy một cảnh lạ: giữa những bóng cây xơ xác in trên trời sao, đột ngột nổi lên một cái gì rất to, sáng rực, cành quẫy nhẹ làm rung lao xao cái tán lá tuyền một màu xanh non mát rượi. Tôi sửng sốt một loáng, rồi nhận ra cây đa già bên mái đình, thân chằng chịt những vết rạch, còn nhiều mảnh pháo cắm sâu vào gỗ, lay không ra. Thật nó đấy không? Hình như loạt nổ vừa rồi đã đánh thức nó dậy, và nó lập tức chuyển mình, trút vỏ, thay lá, đi ngay vào cuộc sống mới. Mùa xuân vọt lên giữa đêm. Đi khá xa, tôi còn thấy cây đa kỳ diệu ấy hiện trẻ măng trong quầng lửa của cuộc nổi dậy. Tôi chưa gặp một cây nào đẹp như thế.

  *

             Tiểu đoàn đi tiếp về phía Nam.

            Con đường giao liên quen đã đổi khác nhiều. Chúng tôi tự dọn cây đổ, phát rừng vòng tránh chỗ khó, bắc cầu, và đặt một loạt tên mới: dốc Cát chài, đèo Đá nẻ, cầu Mương xói. Còn phải tránh những cái tên trùng lặp nhiều, như Núi lở chẳng hạn: mỗi ngày chúng tôi đi qua cả chục hòn núi sụt, phơi ruột đỏ như trái dưa hấu bị con heo cạp ăn mất một góc hay một nửa. Có lắm tên lạ tai. Một cây chò rất cao bên đường tự dưng thụt hẳn vào lòng đất như đũa cắm nồi cháo, chỉ ló lên vài thước ngọn: quả đồi được gọi là gò Cây-lút. Hòn núi Trôn Quít rất dễ nhận từ xa, đỉnh nó vốn nhọn nay lõm sâu xuống như miệng núi lửa. Giao liên dẫn khách đi vài chuyến, các tên mới sẽ được truyền miệng, được nhớ, dần dà bước vào bản đồ và sử sách, nếu mình không có những lần đảo lộn lớn hơn trên đất mình.

            Chúng tôi dừng ăn trưa trên dãy núi ngang chạy xuống gần biển, giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi. Đã quen nếp, hễ nghỉ trên núi là anh em tìm chỗ quang nhất ngồi ngắm đồng bằng hiện trước mặt như bàn cát, với đất mở rộng và biển nhích lại gần. Chúng tôi xem cảnh, háo hức khi sắp tiến vào vùng chưa quen, nhưng thường là se se thương một mảnh quê mới đã ngấm ít nhiều mồ hôi và máu của mình. Dù chỉ có mồ hôi đi đường hay mấy giọt máu vãi của đỉa hút thừa, đó vẫn là những thứ của thân người gửi vào lòng đất, nối liền người với đất.

            Trông từ xa, những vết tàn phá của trận lụt mờ nét đi, bớt dữ, dồn ở phía vùng địch tạm chiếm. Sáu thôn của Tam Sa nổi khá rõ, tên cũng dễ thương và dễ nhớ. Bốn thôn mé trên đường Một là vùng đất thịt hay Tứ Nhơn: Nhơn Ái, Nhơn Phước, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ. Hai thôn dưới là vùng cát tức Nhị Lộc, gồm Lộc Chánh và Lộc Thứ. To nhất là Nhơn Ái tức Một Sa, mang cái tên làng Cá rất xưa mà khéo vẽ: một hòn đảo xanh hình con cá thon dài quẫy trên biển lúa. Các cụ nói nó là con cá kình, tôi muốn nó là con cá ngạnh. Con suối ở quê mẹ tôi nhiều cá ngạnh, nó nhỏ và hiền, chẳng hại ai, nhưng dám chém những giống to chực nuốt. Ừ nhỉ, trông làng Cá y hệt nước bạn Cu-ba thu nhỏ lại. Đã có anh cán bộ nào đặt tên mật cho nó là Cu-ba chưa?

            Làng Cá sống.

            Đi mãi tận đây nhìn lại, tôi vẫn thấy làng Cá đang sống tràn trề. Nhiều sợi khói bốc lên song song dưới nắng trưa đứng gió, khói mảnh và đặc hơn xưa vì không còn ngấm qua những mái tranh dày. Ruộng quanh làng bắt đầu nhám mặt dưới lưỡi cuốc dọn sỏi cát, còn quãng gò lở phơi đất sù sì kia đã có chân người giẫm thành một đường mòn nhẵn mặt, vết nhám trên ruộng và vết phẳng trên đồi đều báo tin người đang giành lại đất.

            Anh Ba Tơ cầm nắm cơm sắn - một cơm ba sắn, chúng tôi đã trút gạo ra cứu đói - đến bên tôi, nhấc cái ba-lô Mỹ của tôi đặt sang bên cạnh, chép miệng một cái, ngồi xuống. Tôi biết anh sắp cự nự một lần nữa vì cái tội đem nửa cái võng ka-ki, hai cặp bà-ba và tấm choàng đi mưa cho bà con bị nạn. Nuốt vội miếng cơm, tôi phủ đầu ngay:

            - Giống đất Lào không, anh Ba?

            - À...

            Cặp lông mày cau cau giãn ra, mắt anh dịu lại. Anh lắc đầu.

            - Khó tính dữ hè. Coi bộ ông đi hết đất nước mình, chẳng nơi nào ông thấy vừa mắt cho bằng quê vợ.

            - Tầm bậy cái thằng...

            - Cảnh Chăm-pa-sắc đẹp vậy mà, chắc cô Nguyệt Nga phải xinh lắm, như trăng rằm. Hèn gì...

            Chú Dé nhô đầu tới, tròn mắt:

            - Chị Nga ở núi nào, anh? Dân tộc nào?

            Thấy câu chuyện bắt đầu lan ra xung quanh, anh đại đội trưởng hừ hừ trong mũi, nhỏm dậy, chuồn mất. Coi bộ gồ ghề và hay cộc vậy đó, mà anh có một mối tình rất chi là lãng mạn: hồi còn ở bộ đội tình nguyện đánh Tây tít bên kia sông Mê-công, anh yêu lắm lắm một cô gái Lào, cô ấy cũng yêu lại. Cứ vậy trong bốn năm cho đến khi anh tập kết về nước, cô Chăn-tha đi bộ ra Sầm-nứa... Mãi tới năm ngoái, một anh bạn cũ ghé vào đơn vị tìm thăm Ba Tơ mới kể toang toang câu chuyện giấu kỹ ấy ra, trầm trồ khen Chăn-tha xinh, ngoan, giỏi và tiếc mãi cho Ba Tơ. Chăn-tha có nghĩa là mặt trăng, như ta gọi cô Nguyệt ấy, tôi cao hứng đặt tên là Nguyệt Nga, và Ba Tơ tất nhiên hoá ra Lục Vân Tơ. Từ đó anh em xê mình thương anh hơn một chút nữa, cũng nắm được chỗ yếu của anh: hễ nhắc đến cô Chăn-tha thì Ba Tơ đang cáu đâm hiền, thật tội. Bên trong con người những lửa là lửa ấy có một góc kín của hồn dành cho ánh trăng mát rượi của người yêu đi xa, dù anh đã có vợ con, và nghe đâu Chăn-tha cũng tay bồng tay dắt. Đám con trai còn “mồ côi vợ” như tôi chỉ ưa quấy, đem chuyện tình cảm ra bông phèng rất dai, nên Ba Tơ cứ phải ấp úng một câu nói lảng và chuồn cho gọn.

            Bây giờ, máy bay đã vo ve lọt vào tầm nhìn. Con mắt tôi quen gạt tàu bay ra khỏi cảnh trời đất, nhưng lúc này tôi xem rất kỹ một tốp bốn chiếc máy bay phản lực đang vừa quần vừa nhích lại gần, bắt chước kiểu đi của các cơn bão. Thứ phản lực này toàn Mỹ lái, lâu nay chỉ bay cao và thẳng qua vùng ta, biến mất. Chúng ùa ra cắn trộm miền Bắc một keo cách đây ba tháng, rớt cả mớ, và tôi đã đưa hai khẩu cối 60 của xê mình đi nện một cú trị tội vào sân bay Hiệp Đức, lúc ấy đang ở gần. Chúng định làm gì mà hôm nay kéo nhau đi rà dai dẳng trên đất Tam Kỳ?

            Chúng đã vòng đến gần núi. Bốn con cá đuối bơi kiểu lạ, đuôi trước đầu sau. Chú Dé kêu nhỏ: “Ô, tàu bay ngược!”. Đúng, chúng có cái gì đó lố bịch, ngớ ngẩn, ngược đời. Chúng giống một chùm máy bay nặn bằng đất sét rất vụng, nung sém đen; một em bé khờ buộc dây vào đuôi chúng mà kéo lê sồn sột trên nền xi-măng nhám, làm ồn đến phát ngấy. Chúng xấu và thâm hiểm. Chúng đang tính giở trò ma quỉ nào đó trong cái điệu bay lừ đừ, xì khói đen dài, không chồm chúi, như chỉ biết làm một việc là dùng đuôi khói vẽ bừa trên trời, những chữ O chữ S hay số 8 ghép theo kiểu phù thủy. Dải đất phủ bùn chưa kịp khô trước mặt tôi còn phải chống với những gì mới nữa?

            Cái ý chống chọi cứ dẫn tôi nghĩ đến cô Hai Mẫn. Có lẽ vì lần đầu tôi gặp một cô gái xanh và gầy phải đánh vật với nhiều khó khăn đến thế đổ xô tới cùng một lúc. Tôi chấm nắm cơm vào muối mè, cắn một miếng nữa, ngửng lên, chợt thấy đồng bằng Quảng Nam đã đổi hình. Biển sáng xanh như con mắt lung linh, vùng đất phẳng hình trăng mồng mười là mí mắt... à, rất giống, những rặng phi lao ven bãi cát kia là hàng mi nhé, vành núi cong cong phủ cây rậm chạy vòng từ Hoà vang đến Tam Kỳ là nét gồ của một chân mày rất đen. rất dày. Mắt của Mẫn, hệt rồi... Tôi cười, tự giễu mình bông lông.

            Mẫn không thuộc kiểu người tôi thích. Dọc đường đánh giặc qua năm sáu tỉnh, tôi quen hàng trăm cô du kích trẻ tươi - nhiều cô thật xinh, xinh càng hay chứ sao - vui phơi phới; đánh giặc gan liền tướng quân chẳng kém ai, chỉ khóc khi băng cho các anh thương binh, vá áo cho bộ đội trắng đêm mà đòi trả công một bài hát mới. Mẫn khác họ nhiều quá. Hôm chia tay, Mẫn đến chào xê mình, vẫn trịnh trọng “cảm ơn các đồng chí hết lòng giúp đỡ chúng tôi”. Tôi đoán Mẫn đóng vai bà chị Hai với các em mãi thành tật, lúc nào cũng quen giọng đàn chị tuy mới chẵn hai mươi. Cũng có một lúc cặp mắt đậm như tô mực nhìn tôi khá lâu, muốn kể một chuyện gì đấy khó nói bằng lời, nhưng đành quay đi.

            Tôi hỏi Năm Cẩn:

            - Hồi ở Quảng Nam, anh quen nhà Hai Mẫn không?

            - Mình đi phía Tiên Phước, Thăng Bình, nhiều hơn. Chà, cái tỉnh gần hai triệu dân chớ ít đâu. Ông biết Tam Kỳ bao nhiêu không? Một trăm năm chục ngàn, bằng một tỉnh nhỏ nhỏ rồi, mình quen sao cho khắp.

            Tôi biết. Đi tỉnh nào tôi cũng gặp những người nói mô tê răng rứa chừ giống quãng Trung-bộ từ Huế trở ra, bằng những thanh đã ngả sang giọng miền Nam mộc mạc. Cũng lạ, chỉ bước qua dãy núi này, đến đất Bình Sơn đã nghe bà con nói đâu kia sao vậy giờ, tiếng Việt bước thêm một bậc thang nữa trên đường vào Nam...

            Mỗi lần rời một vùng vừa ở, tôi lại tự hứa rất thành thật rằng thế nào cũng tìm cách quay lại thăm; tôi ghi một lô tên bạn mới, hòm thư, và tin chắc mình sẽ viết về ít nhất mấy câu thăm hỏi; tôi mang theo một tấm khăn hay vật gì đó làm kỷ niệm để buộc mình không được quên. Bây giờ cũng vậy. Trong sổ tay của tôi có một bông bạc ép khô và địa chỉ của anh Luân, cô Mẫn, nhiều đồng chí nữa, có những con số tội ác và mấy câu nhắc mình trả thù. Nhưng tôi đoán trước rằng cuốn sổ tay cùng với bông bạc và các dòng chữ sẽ trôi theo suối lũ hay bị na-pan đốt; nếu có dịp qua Tam Kỳ tôi sẽ hối hả đi nhanh cho kịp ngày hẹn gọi đằng trước - bao giờ cũng có một công tác gì đó cần gấp hơn những thương nhớ riêng - và tôi sẽ gác cả thư lẫn thăm lại, đợi một dịp rảnh còn lâu mới tới.

            - Chuẩn bị!

            Tôi xốc ba-lô. Biết làm sao được, chưa phải lúc trà dư tửu hậu để ôn chuyện đã qua, khi mỗi giờ đánh Mỹ còn chứa đầy những điều không ngờ buộc tôi phải động óc động tay không ngớt. Rừng sắp buông rèm che đất Quảng Nam. Những ngày cứu lụt lùi ra sau lưng, về nơi tôi chỉ còn quay nhìn bằng trí nhớ, bởi cặp mắt lắp đằng trước luôn luôn bận đón vô vàn cái mới đang chờ trên đường chiến dịch.

 

 Chương 5    

             

            Con chim vàng anh bay trước mặt tôi từng quãng ngắn. Đường bay của nó mắc quai nón đều đặn vào các cành cây dọc lối mòn, như một dãy lụa vàng dệt sọc đen dẫn tôi trở về Quảng Nam. Con chim đẹp không gợi cho tôi một kỷ niệm nào rõ nét. Tôi gắn bó hơn với con “khó khăn khắc phục” của vùng núi, mượn tiếng rìu chặt cây làm tiếng gõ phách để hát suốt mùa rẫy, từ lúa trỉa đến lúa suốt(1).

            Chưa vào hè mà tôi nhớ con tu hú ở quê mẹ. Một lằn đen đáp vào chòm lá, một trái bông gòn khô vỏ ngọ nguậy sau cành, một tràng từ tu hú ngả sang tu hấu cho đến những tiếng hấu cuối cùng kêu lấy được. Một mớ câu hỏi của thằng Thiêm mới từ thành phố về, lớ ngớ như mèo con tới nhà lạ:

            - Chị Ba ơi chị Ba, sao nó hấu hấu?

            - Tại nó ăn dưa hấu nhiều. Đó, đó, nó xin nữa.

            - Sao họ nói con này kêu có cá chuồn, chị Ba?

            - Nó ăn dưa, nhả ra cá chuồn. Cá trong họng nó rớt xuống như tao phun hột chà là vậy nè. Đó, đó, thấy không, kiếm cái rổ đi hứng...

            Ngang đoạn này, tiếng má tôi từ dưới bếp dội lên:

            - Ba, mày khôn bao lăm mà xui em ăn cứt gà sáp, hả?

            Chị tôi le lưỡi, chạy biến ra vườn coi trâu. Tôi lại tập đánh vần, mải căng mắt tìm cá chuồn rớt từ miệng chim nên cứ gào cờ i ki, là ki, may má tôi mù chữ không bẻ được. Chị Ba bây giờ có còn nhắc câu đùa cũ với bầy con trứng gà trứng vịt của chị?

            Tôi đang đi ngược lại con đường rừng cũ, hướng Bắc. Một mình, một ba-lô, một súng ngắn, sau lưng một cậu giao liên rất chịu khó nhưng hiểu câu kín miệng giúp nước theo nghĩa đen. Chân tôi bước gấp mà hơi nặng, tuy không có chút bùn dẻo nào bết vào dép. Đường mùa xuân còn một ít vắt. Cái cảm giác lạnh và lầy nhầy từ bàn chân vẳng lên đã quen chạy thẳng sang tay, tôi cúi gỡ vắt mà dòng nhớ cứ quay đều trong đầu như xe nước trên sông. Tôi nhớ xê mình vừa thôi, vai xê phó vốn hay đi chuẩn bị chiến trường và chạy ngoài, riết rồi cũng không lạ nữa với cái chống chếnh của người lính tách khỏi khối đông anh em. Nhưng cái đất Bình Định của tôi, bao giờ mới được gặp lại?

            Tôi nhớ quê lắm!

            Đại đội 215 đuổi theo trung đoàn qua hết Quảng Ngãi, thẳng một hơi vào xứ dừa Tam Quan, đánh luôn hai trận, một bảnh và một rất bảnh, kiếm được bảy huân chương cả chung lẫn riêng. Chọi sức với giặc là chuyện vất vả lắm chứ, nhưng tôi cứ thấy chiến dịch trong rừng dừa này diễn ra như hội mùa xuân, vui sao vui lạ. Nếu tôi bốc vì được về tỉnh nhà, thì sao anh em khác tỉnh trong xê mình đều hớn hở như tôi?

            Tóc dừa kết thành biển xanh mênh mông. Quân ta là đoàn tàu ngầm dưới đáy sâu, cứ thả xăng đi giữa ban ngày, chơi ú tim với máy bay. Thỉnh thoảng mấy trăm cái vòi lửa đỏ cùng phụt lên, chụp đầu vài thằng có cánh dìm biến dưới sóng lá, và địch lụi hụi đổ quân lặn mò, hốt về một bộ xương sắt đã lóc hết thịt. Xe bọc thép kéo vào húc dừa không trốc, xê mình xơi ngon sáu chiếc, sau đó bà con bắt uống dừa rụng đến bỏ cơm. Bom pháo nhiều, nhưng các thân dừa chặn mảnh tốt hơn cả bê-tông, cái anh đất pha cát trong vườn dừa lại ngọt lừ dưới bàn tay ấn xẻng đào hầm, không làm bẩn áo quần sau mỗi lần chúng tôi xuống núp. Sau trận, các má hay kéo chúng tôi vào ngủ nhà - những căn nhà đắp mái đất sét trước khi lợp, khó cháy, hè mát và đông ấm - nhưng anh em khoái nghỉ ngoài vườn hơn, buộc võng giữa các gốc dừa, ngồi đung đưa mà uống nhấm nháp những trái dừa nạo. Rất nhiều cậu quả quyết mình lên cân vì dừa, có thể lắm. Dừa lửa bốc mùi men êm của rượu tà-vạc ngam(2). Dừa xiêm ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Dừa ta thơm dịu, béo, vừa uống vừa nghĩ mới nhận ra cái hương riêng kín đáo. Nằm trong vườn dừa không yên đâu nhé. Anh em phớt tàu bay đại bác, không phớt được các cô dân công Bình Định gánh gạo trẩy qua, gọi nhau bằng cái giọng như trẻ em chả chớt: “Đầu gấu đụng cái đầu cấu sưng bằng trái ấu”. Anh em nằn nì các cô trổ cho xem tài múa roi đi quyền mà cả nước đều biết. Chưa hết. Còn các “binh đoàn khởi nghĩa” rất độc đáo của Bình Định 65; từng vạn từng vạn đồng bào kéo qua các xã như sóng thần, kéo bật lên những cuộc nổi dậy, mỗi ngày đêm biến cả chục ấp chiến lược thành làng chiến đấu của ta. Còn những cây số người xanh đỏ kính coong từ phố phường tuôn về vùng giải phóng trong dịp Tết... Tôi chẳng dám khoe quê hương, nhưng ai cấm tôi tươi mặt khi nghe xê mình ca ngợi đất và người Bình Định, khen nức khen nở khen thở chẳng được?

            Tới ngày 7-2-1965, lịch sử lật trang. Bom Mỹ trút xuống miền Bắc một lần nữa. Các căn cứ giặc nối nhau nổ dây chuyền như chuỗi mìn điện dưới tay ta bấm, cái tin dữ kia truyền miệng dọc đường ra trận cũng nổ dây chuyền trong mỗi chúng tôi. Chiều hôm ấy chúng tôi thắng lớn trên Đèo Nhông. Hai xúc động lớn trong cùng một ngày: những phút máu uất kéo lên cổ gợi nhớ làng Cá chết lụt, những phút say người nhất trong đời đánh Mỹ. Chỉ qua sáu tiếng đồng hồ, ân oán đã tạm rạch ròi bước đầu.

            Trong xê mình từ nay có câu nói mới: chạy đua kiểu Đèo Nhông.

            Cánh quân địch giữ sườn vừa qua khỏi, tiểu đoàn ào lên chiếm đồi, đánh thúc ngang hông binh đoàn lớn đang hành quân theo trục đường nhựa, đội hình chữ Y. Tôi vọt lên đầu. Tiểu đoàn phó đón ở chân dốc, hét: “Mau nữa, mau, tụi biệt động tới lưng đồi bên kia rồi!”. Tiếng anh đuổi theo, tôi nghe lõm bõm: “ Đừng ngó tàu bay, chạy, có phòng không...”. Chúng tôi chạy ngược dốc, tranh quất rào rào ngang bụng. Quãng đường của ta dài gấp đôi của địch. Ta phải tới trước, chiếm đỉnh, đánh vỗ mặt, hất nó xuống. Đến chậm mươi tích tắc, địch sẽ xổ đạn đón ta... Chúng tôi chạy đến đứt hơi, đến đứng tim. Mắt thấy toàn đỏ với đen quay chong chóng. Đầu gối long ra, mũi dép chân này đá vào đầu mắt cá chân kia toạc da. Đại đội tách dần thành nhiều cụm. Tôi nắm được nhóm dẫn đầu, hơn chục người thuộc hai trung đội. Hai phần ba dốc. Tai không nghe miệng hô nữa, có lẽ miệng chỉ quát ra hơi, không thành tiếng. Cứ chạy. Ngã sấp, lại lẩy bẩy chồm tới. Không hiểu sao tôi còn sức để cúi nhặt bao lựu đạn của cậu Nam lăn ra sùi bọt mép, xách theo. Cuối cùng, tôi nằm vật trên vạt đế xơ xác của đỉnh đồi, lên hết gân tay mới đưa được trái lựu đạn tới miệng, lập cập cắn chốt. Tạ ơn cặp chân trung thành, sáu anh em chúng tôi đã vượt địch sát nút, chúng đang lội ào ào dưới mắt kia, dăng hàng ngang, mũ dưa hấu lấp ló chỉ cách ba chục thước!

            Cặp L.19 sợ súng phòng không, quần trên cao, nghiêng cánh dòm mãi vào lưng chúng tôi, phóng hai trái rốc-két phía sau, trật ra ngoài những tốp mũ tai bèo đang bươn dốc. Tôi để anh em thở hai phút. Địch ngoi lên thêm mươi bước. Ta thêm gần một trung đội, mệt bò lê bò càng nhưng thấy địch sẽ nẩy lên như mó vào điện. Tôi nghĩ rất nhanh đến một đòn tâm lý đánh phủ đầu. Thèm vội cái kèn đồng. Không có pháo hiệu. Cái mặt đỏ bầm của tên đi đầu đã nhô kia, miệng há thở hồng hộc. Tôi quì lên, tung trái lựu vào nó, hét: “Trả thù cho miền Bắc, trả thù cho bà con chết lụt!”. Súng nổ, át mất khúc sau. Trái đồi biến ra núi lửa.

            Địch bị cú đấm đột ngột, bật ngửa. Đạn quét quân rằn ri như chổi quét kiến. Khi lớp xác trên cùng che khuất tụi lính nằm bẹp, chúng tôi bắc trung liên lên vai nhau quỳ bắn, đứng bắn. Tôi chơi toàn lựu đạn. Chú Dé cắn chốt, đưa từng cặp, chỉ chỗ:

            - Nhiều người địch, gốc cây!

            - Máy a-lô kia!

            - Chỉ huy hai người, đeo chấm chấm... để tui!

            Tôi dạng chân, uốn người theo trái lựu, ngó đường bay vạch khói ngang trời mà sướng mê. Những búng khói trắng bật giữa tranh cói, xé toạc từng chùm giặc, lúc hoảng chúng hay xúm lại dồn cục. Ai túm vành mũ mềm giật nhẹ. Dé kêu: “Cúi xuống!”. Tôi cũng vừa thấy cây đại liên địch mới bắc. Ưu tiên cho mày, một nè, hai nè. Trái sau ngon như đào tiên, lọt giữa thằng bắn và thằng lắp băng. Dải đạn vàng choé tung lên cao, đứt, rớt trùm cái xác chân trên đầu dưới. Xé mũ tao nữa thôi? Cối 81 đã bắn lên đâu đó, rền dài.

            Giọng Ba Tơ ồm ồm:

            - Lùa vịt đi, Thiêm!

            Tôi quay ngoắt lại. Sau lưng và hai bên tôi, sườn đồi là biển động, những sóng lá ngụy trang rẽ tranh xô tới. Ba Tơ quì sau cây đại liên Mỹ, một mảng máu loang dán áo vào vai, cậu y tá dòm dòm không dám mó vào anh. Tôi rút súng ngắn, hỏi vội:

            - Đủ khói lửa chớ?

            - Như thường. Cối mình nổ kia, mở máy!

            Bốn tiếng bịch bịch đập nong đằng kia. Đại liên cựa mình, vạch một luồng khói căng dài. Bảnh rồi. Tôi lấy hơi cẩn thận, hô thật vang:

            - Trả thù cho làng Cá, xung phooong!

            Cuộc đua thứ hai bắt đầu: địch chạy, ta đuổi, cả hai cùng nhào xuống dốc, cùng thở, cùng trượt lăn tròn. Anh em reo, địch ré. Luồng đạn của Ba Tơ có hình, có mắt. Tia khói vạch đường xóc vào những tốp mũ sắt còn chưa kịp rã, chỉ chỗ này, phạt chỗ kia, xẹt ngang hông tôi rất bạo. Ba Tơ chỉ huy bằng những ngón tay chỉ luôn luôn trúng đích. Tôi quét hai loạt tom-xơn vào mấy cái lưng áo ướt, nghe tiếng cốc của khối cơ bẩm gõ suông, túm nòng quật luôn vào một bê-rê đỏ bầm. Năm Cẩn hổn hển bên phải: “Đừng giết, trói...”. Một cậu khoác súng, xổ dậy. Tội nghiệp anh Năm, chạy kiểu này lại nôn tới mật xanh! Tiểu đội trưởng Sáu quấy nhất xê mình, mệt đứt hơi vẫn còn ném vội câu đùa: “Chia phần tôi với, anh!”. Cậu Giàu ngã ngồi, gắt bạn: “Kệ tao, gãy chân còn tay, rượt đi!”

            Chú Dé xách túm lựu đạn còn lại, giật áo tôi: “Truốc né, truốc né(3),                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                anh Thiêm!”. Tôi nhảy qua tảng đá. Chùm đạn toé lửa cạnh tay. Hai chân rớt trên lưng một cái xác cởi trần, tôi chổng kềnh, nhỏm dậy, lại nhào ngửa; cái mũ sắt quật vào đầu tôi trượt một ít, trúng chéo sau gáy. Thằng địch cuống cuồng quật nữa, trúng ngực, ăn nhằm gì. Vẫn nằm, tôi gí họng P.38 sát bụng nó, bóp hai phát, chợt thấy ba bông mai vàng cài trên ngực áo. Hất tên đại úy quằn quại sang bên, tôi ngồi lên cái máy PRC.10 thò đuôi dài trên lưng một thằng nằm co con tôm, sở chỉ huy tiểu đoàn đây rồi! Dé xồ tới, lật một xác nữa, hai bông mai vàng. Tôi còn choáng váng sau cú nhảy dù bị đánh úp, bỗng nhớ ra, chồm tới xốc ngược thằng bộ đàm dậy, ghé miệng vào cái ống nói đeo trước ngực nó, bấm nút phát, nói to:

            - Tôi ra lệnh tất cả tiểu đoàn ngừng chống cự. Tôi hạ lệnh tất cả đầu hàng. Bỏ súng, ngừng bắn lập tức!

            Chẳng biết cái lệnh của tôi có nước non gì không, giữa lúc địch đang vắt chân lên cổ. Cậu Sáu thay tôi đỡ cái xác, réo: “Thua rồi, đừng bướng nữa, hàng sống chống chết....”. Tôi đuổi theo xê mình, tới đường nhựa mới kịp. Bọn lính sống sót ùa lên xe, dồn cục để hứng các thứ trái nổ, càng gọn. Đến lúc này anh em vừa đánh vừa pha trò, mách nước cho nhau, gọi hàng từng xe lính một.

            Phải mất nhiều năm làm rẫy, tập trận, leo núi, mới vươn tới những phút đỉnh cao chói lọi như vậy, chúng in một vệt sao băng trong đời người lính cách mạng, soi sáng ngày qua, soi sáng ngày mai. Kể chuyện mình, anh sẽ vô tình mà sôi giọng khi chạm đến cái mốc Đèo Nhông, người mới nghe sẽ buồn cười với cái tên cục mịch ấy trước khi hiểu và yêu nó như anh. Giữa những trận bom chôn xuống đào lên, anh sẽ nhắc Đèo Nhông và cặm cụi lau cây súng lấm, nghĩ về cuộc lùa vịt sắp tới. Và có thể đến nửa thế kỷ sau, khi Đèo Nhông chỉ còn được nêu tên trong những pho sử dày cộp, anh sẽ vuốt tóc đứa cháu nội khóc nhè vì sợ ngỗng, ôn lại cho nó bài học lớn của một trận nhỏ xíu, hồi ta chưa có tàu bay đại bác....

            Độp một cái, tôi bị tách khỏi xê mình, khỏi xứ dừa và chiến dịch đang ngon trớn.

            Chính ủy trung đoàn cho gọi tôi giữa cuộc họp bình công, đưa xem bức điện của quân khu. Bốn cán bộ được rút đi công tác đặc biệt từ sáu tháng đến một năm. Tôi lạnh người khi gặp dòng cuối cùng: Đặng Đức Thiêm, 28 tuổi, C. phó C.215. Bỏ mẹ không! Mà cũng đúng là bỏ mẹ tôi thật.

            Hôm kia tôi ghé thăm quê ngoại, bà con la trời tôi rủi quá: má tôi với Út Hiền về tìm tôi suốt mấy ngày Tết, hụt, tốn khá nhiều nước mắt và tiền xe. Chị chủ tịch lắc đầu chép miệng hoài, hẹn cho cô cháu đáp xe hàng vào Qui Nhơn đón má và em tôi ngay, khó mấy cũng một tuần nữa tôi sẽ được gặp. Năm năm lẻ một tháng, tôi mới về gần gia đình...

            Tôi giúp Năm Cẩn xoa dịu cơn nóng mũi của anh Ba Tơ chực xắn tay áo tốc lên trung đoàn (mày cứ ở đây, tội tao chịu! Đặc biệt, rồi biệt phái, rồi biệt tăm biệt tích luôn, lạ gì! Tao hỏi: ai thay mày? Hả? Cử được một đứa ngang cỡ mày về thế chỗ, tao mới cho đi!). Tôi viết thư xin lỗi ủy ban và gửi má, lên trung đoàn lấy giấy giới thiệu thượng khẩn, đi gấp ra Quảng Nam. Tôi sẽ chuẩn bị đánh Mỹ ở đấy. Bên kia biển lớn, bọn cướp Mỹ đang nai nịt, sắp nối đuôi nhau trèo lên lũ máy bay: “Chủ địa cầu” bụng chửa, sang đánh ta!

            Cuộc chạy đua chiếm đỉnh đã mở rộng ngang tầm trái đất. Tôi không thể chậm.

   *

           Qua sống núi rồi. Vòm lá trước mắt quang hẳn, chân trời xuống thấp hơn chân người. Sắp đến chỗ mỏm núi mà chúng tôi ngồi ngắm đồng bằng Quảng Nam sau lụt, cậu giao liên bỗng rẽ ngoặt sang trái, lội ngược suối. Tôi hỏi:

            - Đi đường núi hả đồng chí?

            - Đang càn.

            Đằng trước, tiếng cối 60 nổ xa và thưa thớt. Càn vặt thôi.

            - Gần tới trạm chưa đồng chí?

            - Có đi có tới, hỏi chi!

            Tôi im. Những cái trái ý cứ như hẹn nhau cùng đến, bắt tôi nhớ con đường mịn cát dưới bóng dừa với cô giao liên dẫn tôi đi sát đồn địch, vồ vập hỏi thăm anh bộ đội nói giọng cùng tỉnh. Hết quãng suối là đường rẽ mới phát vắt nhung nhúc dựng vòi, buộc tôi phải so sánh thêm nữa và thêm nữa, đến khi bật cười một mình: tôi đang hờn lẫy cái xứ Quảng, kỳ không!

            Hai giờ chiều hôm sau, tôi đến một trạm “ngã tư” của Quảng Nam, nơi con đường xương sống dọc Trường Sơn tách thành một cặp xương sườn lên núi xuống biển. Cái đích của tôi, cơ quan H.68, đóng gần đây. Trạm trưởng Hùng là người dân tộc Gia Rai, rất vui tính và ham học đại số, bỗng biến thành tủ sắt khi tôi hỏi về H.68. Tôi thử các loại chìa khoá - Cau pi-ai Ya-rai xết xết(4), giải giùm bài toán khó, ca ngợi các làng chiến đấu hai chân rất vững của của tỉnh Gia Lai mãi cậu mới hé cho chút xíu bí mật: H.68 ở đồng bằng.

            Đồng chí trực ngang(5) dẫn về một ông khách đeo kính trắng. À, Duy Hảo, cậu bạn thầy thuốc. Cậu ta vừa leo dốc, hẳn mồ hôi mặt bốc lên mớ cặp kính cận số bốn nên ngó tôi như ngó cột nhà. Hảo đặt bao xuống sạp, lau kính và mặt rất kỹ. Phải hiểu giùm những cái khó riêng của giới cận thị “yêu nhau đeo kính lên xem, ghét nhau gỡ kính chẳng thèm nhìn nhau”. Chớ nên phiền lòng khi họ nheo mắt nhìn ta một cách bề trên và soi mói, bật một tiếng “à” tuy chẳng có sẹo mới trên mặt ta, buông câu chào rất chậm trễ, gọi mẹ ta là em và em gái ta là bác, vân vân.

            - Ủa, mày hả Thiêm?

            Đúng cái câu tôi chờ Hảo nói bằng giọng Đà Nẵng pha Sài Gòn.

            Chúng tôi khám sức khỏe nhau bằng mấy trái đấm hạng nặng. Chị nấu ăn của trạm đứng xem, che miệng cười.

            - Tao về bệnh xá tỉnh nửa năm rồi. Chúc mày không bao giờ léo hánh vô đó. Coi chừng, mày ốm nhom mà mắt hơi vàng, gan có vấn đề...

            - Vi trùng đậu đầy kính, mày dòm đâu cũng thấy bệnh, ngán kinh. Ngắm lại anh Giải phóng quân oai hùng đây nè, ca ngợi đi!

            - Dạ, em xin phục vụ hết mình. Anh cần cưa tay chân ngay bây giờ, em cũng sẵn...

            Chị nấu ăn háy một cái, bỏ đi: “Nói vậy nó hệ chớ!”. Tôi nhìn theo, đoán chị sắp đốt cái chổi dựng bên bếp. Cái chổi chưa tới số, sống sót.

            Chúng tôi kéo xuống suối tắm để tự do quấy. Rất may, Hảo cũng về H.68 và huyện Tam Kỳ để nhờ xếp chỗ cho bệnh xá dời xuống đồng bằng. H.68 là một trong các bộ phận nghiên cứu tại mặt trận của quân khu, hiện đóng gần chợ Minh Huy. Anh Bảy quai nón cũng ở gần đấy. Hảo chỉ biết bấy nhiêu, nhưng lại nắm rất chắc các thứ chất tươi đồng bằng mà chúng tôi sắp được hưởng. Cậu ta mới nhận được mười lăm ngàn nhà gửi cho, đã sắm một máy thu thanh Xô-ny và các thứ đồ dùng khá sang, đang gửi mua thêm ni-lông may võng, áo quần, mũ da. Cậu mở bao cho tôi xem hết, rút đưa tôi năm trăm. Tôi cười, lắc đầu, tuy rất túng. Áo quần rách cả, có vài bộ coi được thì đã đem cứu lụt hoặc “cho heo mặc” nghĩa là đổi lấy heo cho xê mình ăn. Khi tôi rời đơn vị, Năm Cẩn đã nhét vào bao tôi cặp bà ba đen của vợ mới gửi lên. Cũng khó nói vì sao tôi không nhận tiền của Hảo, tuy vẫn chơi thân với cậu. Có lẽ vì nhà Hảo giàu hơn nhà tôi nhiều quá. Có lẽ vì tôi đã từ chối cái bánh bẻ đôi năm xưa, một lần, hai lần, mãi thành nếp chăng.

            Hảo giễu, nhưng giọng đã pha chút khó chịu:

            - Mày vẫn gàn. Đạo Đức Thiêm tu ép xác...

            - Mô phật!

            - Thôi được, đi ăn với tao vài keo. Mất lập trường không?

            - Cái đó thì hoan hô cú một!

            Lát sau, đang tắm, Hảo bỗng trầm ngâm nhìn tôi:

            - Mày ngại... giữa con Nga với mày có cái gì đó không cao thượng... lởn vởn cái gì đó như đồng tiền... sợ mang tiếng nhờ vả anh con Nga... đúng chưa?

            Tôi cười xoà, vục đầu vào chỗ nước xối, thở phì phì thay câu trả lời. Cứ để cho Hảo tưởng vậy cũng hay.

            Tôi với Hảo cùng tuổi. Cuộc đời hai chúng tôi gợi hình con đường nhựa và con đường sắt chạy dọc miền Trung, song song với nhau một quãng rồi tách rời nhau, lại về bên nhau, cứ vậy nhiều lần.

            Khi tiếng súng lớn của Pháp từ mặt trận An Khê dội rền tới Quy Nhơn, cả nhà tôi gánh gồng bồng bế nhau rời phố cảng, về quê má tôi gần Tam Quan. Ba tôi làm thợ sửa máy ở Sở hoả xa của ta, sống trên cái toa đen dùng làm xưởng, đi hết ga này đến ga khác, giữ cho những chuyến xe lửa xe ray kháng chiến chạy suốt ba ngàn đêm không dứt đoạn. Tôi ở nhà với má, một buổi đi học một buổi ra đồng, mãi đến sau Giơ-ne mới trông thấy thằng giặc Tây còn cầm súng.

            Lên lớp nhì tôi gặp Hảo.

            Đó là một chú nhỏ lòng khòng, da trắng cớm nắng, luôn luôn diện áo quần sang và chải tóc bóng, xưng tên kép Duy Hảo nghe điệu rơi điệu rụng. Mẹ Hảo ở lại giữ tiệm buôn to trong Đà Nẵng bị chiếm với hai em, Hảo theo cha tản cư từng khúc vào đến Tam Quan. Về sau chúng tôi biết thêm: cha Hảo là thầy thuốc giỏi, sáng làm bệnh viện công, chiều chữa bệnh tư lấy tiền, còn nhận đều đặn những chuyến quà của bà vợ giàu sụ gửi cho - vải, thuốc, vàng, từng xâu nhẫn vàng dài bằng gang tay - nên sống khá sang.

            Một số bạn học lập tức ghét Hảo, tìm cách ăn hiếp. Bỏ sỏi vào cổ áo, lấn ngã xuống ruộng, bôi mực cắm kim vào ghế, thịnh nhất là xúm lại vốc bùn trét vào áo quần trắng của Hảo mỗi khi tàu bay bay qua, dù chỉ là tàu bay chở mắm ruốc: “Nó thấy kia! Nó bắn!”. Một phe khác không thích Hảo nhưng chống thói ăn hiếp, cử tôi làm “thủ lãnh”. Thằng Xứng đầu nậu chửi tôi: “Đồ dân xứ chợ, nịnh bợ nhà giàu”. Nó thách tôi vật. Thấy nó to xác quá, tôi hẹn vật dưới nước. Cả lớp giấu thầy kéo ra bờ sông làm chứng, coi tôi nhận nước thằng Xứng một mẻ ngất ngư, con nít Qui Nhơn quanh năm bơi biển mà. Tôi được tôn làm “ông thầy võ”, một cái tên trọng vọng ở đất Bình Định thượng võ này. Hảo bớt kênh kiệu, biết ơn tôi chí chết, nhưng tôi chỉ thỉnh thoảng mượn sách học mà không chơi thân. Qua vài tháng, chuyện cũ quên sạch, Hảo nhập bọn với tất cả anh em.

            Bom đạn trong vùng tự do tăng dần. Tây nhảy dù nữa. Luồng quà gửi từ Đà Nẵng bị tắc. Đầu năm 1952, trúng na-pan cháy nhà, ông thầy thuốc đem Hảo trốn về vùng tề. Lớp bảy chúng tôi chửi cha con Hảo một trận vuốt đuôi.

            Bốn năm sau, tôi gặp lại Hảo ở Đà Nẵng. Tôi rách, đói, lánh mặt cảnh sát, gò lưng đạp xích-lô chở cậu sinh viên Duy Hảo về biệt thự.

     *

           Cũng dễ đoán đời tôi sẽ ra sao nếu tôi tập kết ra miền Bắc với ba và anh Hai, với các bạn cùng lớp chín(6), với đôi bàn tay sớm chai đi vì cầm cày và sửa máy, với xấp học bạ trong đó các thầy cô thường ghi: “học sinh giỏi toàn diện” mỗi dịp cuối khoá. Nhiều người thân đã tiếc giùm tôi. Mặc dù vậy, ngoài vài lần thoáng nghĩ bông lông đến sự hơn thiệt giữa các số phận, mãi đến nay tôi vẫn không ân hận vì đã ở lại miền Nam, thay cha anh đánh bọn thù mới.

            Ngừng bắn. Ba tôi trắng ngày trắng đêm sửa những chiếc cam-nhông-ray đưa bộ đội về cảng Qui Nhơn. Anh Hai tôi từ Tây Nguyên về muộn, qua ga Sa Huỳnh thấy ba tôi nằm ngửa dưới một xe hỏng, thò đầu ra quát cậu thợ phụ lớ ngớ. Anh vọt cửa sổ chạy tới, nói hối hả vài câu, nắm tay ba một cái, chạy đón đầu chuyến xe rời ga, kịp đu người lên, quệt mồ hôi và bôi đầy mặt những vệt dầu nhem nhuốc. Má tôi bán và cho hết đồ đạc, đưa tôi với Út Hiền mỗi người một gánh trở về Qui Nhơn, đợi xuống chuyến tàu biển cuối cùng với ba tôi. Nhưng một trận thương hàn rất ác và kéo dài – chín năm vất vả chợt nổi dậy đòi nợ - bắt má nằm liệt. Chị Ba lấy chồng xa, Út Hiền còn dại, chỉ một mình tôi có thể ở lại nuôi má.

            Tôi không băn khoăn mấy khi đến gặp anh Trung xin lãnh công tác. Tôi thương má tôi hơn ai hết trên đời, là đi một lẽ. Tôi lại háo hức muốn tự mình làm cách mạng. Đã ăn học thẳng một lèo đến mười bảy tuổi, bây giờ đến lượt tôi góp chút công cứu nước cho phải lẽ công bằng chứ. Hai năm, xong tổng tuyển cử là ba với anh Hai về, từ đó trở đi muốn xông pha hiểm nghèo cũng không còn dịp… Tôi vững bụng lắm. Chỉ có một lúc mềm yếu. Ấy là cái buổi chiều ba tôi xuống thuyền, tôi với Út Hiền ngồi trên bãi cát ngó theo. Chiếc Kilinxki đậu ngoài kia, một thành phố màu sữa nổi ngời ngời trên biển xanh, đẹp hơn những chiêm bao đẹp nhất của một đứa trẻ từ lọt lòng đã thở gió mặn và nghe tiếng còi tàu. Đáng lẽ nó đưa tôi đến với Bác Hồ, đến những miền thần thoại… Út Hiền đã giọt ngắn giọt dài từ hôm qua. Nó khóc nên tôi dễ nín hơn. Chiếc tàu Ba Lan kéo còi, nhả khói dày, tôi vẫn im, nhưng đến khi nó quay hẳn đuôi về phía tôi, tôi bật khóc thút thít mất một hồi. Giá nó cứ chạy ngang chắc tôi đỡ tủi. Được cái tụi bạn trai không cùng đi, tôi khỏi bị giễu.

            Má tôi nằm gần hai tháng mới dậy, hom hem, xanh rớt, tóc ngả bạc chừng một phần ba, và thương tôi gấp mười trước kia. Má chải tóc cho Út Hiền, rủ rỉ: “Gái út theo má đã đành, nghĩ tội thằng Tư nửa đường đứt gánh tại má”. Tôi gạt ngay, nói Đoàn giao tôi ở lại, nghĩa là nói một nửa sự thật.

            Trong năm đầu, việc công việc tư đều trôi chảy. Tổ Thanh niên Cứu quốc chúng tôi treo cờ, rải truyền đơn, căng biểu ngữ, địch đang rối chưa lùng kỹ được. Riêng cậu Dư bị bắn trên cây me, mất chút thịt mông nhưng chạy thoát. Các tổ khác cũng ăn nên làm ra cả. Đồng bào Qui Nhơn hầu hết từ kháng chiến về, thấy chúng tôi bị rượt là lao ngay đòn gánh vào chân tụi cảnh sát, vừa giơ tay xin truyền đơn vừa hỏi: “Sắp chưa?”.

            Cái nghề sửa máy của ba tôi truyền cho ngày một ngày hai, bây giờ giúp tôi nuôi nhà và hoạt động trong dân thợ khá dễ. Ba tôi yêu máy hơn vợ con, buộc tôi phải nghiện máy. Có dạo tôi nghỉ hè, theo ba đẩy cái xưởng lắp bánh từ ga này đến ga khác - đường ngắn, tàu đêm không chịu móc kéo - tôi mệt quá định lủi bị hai cái tát thấy sao hôm sao mai: “Mày học làm ông tham hay học để giúp nước, nói!”. Tôi cọ mặt hết một phần tư bánh xà-bông nội mới sạch mười dấu ngón tay đen nhẫy.

            Dân công chiến dịch hay khiêng động cơ xe địch về, ngày càng lắm kiểu lạ. Bác xưởng trưởng sờ nắn một lát, chép miệng: “Phải tới tay Tám Rảnh mới xong”. Bác mở hòm lấy một chai rượu lậu – hồi ấy ta thiếu gạo, cấm rượu rất ngặt - giục đi kiếm ít lát cá ngừ và một đĩa ớt đầy. Ba tôi được vời đến. Ông trách người đãi rượu đôi câu cho phải đạo, nhấp một chén, nhai ớt rau ráu, nhấp chén nữa, mắt gườm gườm thôi miên cỗ máy đang ỳ ra đấy như thách chơi vào. Ông quờ quờ tìm cái nút lá chuối khô, nhét miệng chai rượu. Rồi kéo ghế nhích dần tới. Rồi tay gãi râu cằm, mũi hừ hừ, chân đi rà rà quanh máy như lựa thế võ song phi hay đoản đả. Rồi quát bất cứ ai đứng gần: “Mọc rễ đó hả? Lấy cái mỏ-lết!”. Ba tôi bập vào máy rồi, sẽ đánh vật với nó suốt hăm bốn tiếng, bốn mươi tám tiếng, nếu cần thì gấp đôi gấp ba số giờ ấy không nghỉ. Cả xưởng xúm bàn góp, được, nhưng chớ dại mà giục ông cụ làm gấp, và phải sẵn sàng chịu lấm. Đến khi khối động cơ đã chịu nổ đều, ông mới lảo đảo tới bàn rượu, nhai ớt và uống tì tì đến cạn chai, vẫn trừng mắt cấm cái máy trở chứng, đến khi ông lăn ra ngủ thì bom hất xuống đất chưa chắc đã dậy. Đi tập kết, ông cõng trên ba-lô một bó giấy khen bằng đòn bánh tét, nhưng vẫn không lãnh nổi một chân chấp hành công đoàn.

            Quân Pháp sắp cuốn gói, bán đổ bán tháo những chiếc xe mới ăn đạn ta sứt mẻ ít nhiều. Nhà giàu ở các cảng trút hết tiền mua xe, lập hãng xe khách, xe hàng. Xưởng sửa xe mọc dày. Tôi vào làm thợ phụ trong một xưởng mới. Chủ là một ông đã tự lái chiếc xe than cọc cạch của mình trong vùng tự do, mới phát tài nhờ mấy chuyến buôn nước bọt, một vốn bốn lời. Ông này chưa kịp to bụng, bóp nặn vừa phải, ưa tỏ vẻ hào hiệp trước đám đông và khoe mình kháng chiến khi kín cửa, cũng tin dùng những người thợ từ vùng xa về mà ông biết là tốt nết, giỏi chắp vá. Nghề của tôi tuy học mót nhưng được thầy giỏi, lại thêm chút chữ nghĩa bù vào. Gặp máy mới, tôi đọc kỹ những cuốn sách hướng dẫn tiếng Anh tiếng Pháp của hãng chế tạo, mày mò dò dẫm riết cũng ra, dám tháo sửa cả những cỗ máy phức tạp của GMC, Đốtgiơ, Xtútbâycơ. Dần dà lương tôi lên ngang thợ chính, rồi nhích thêm một ít sau khi ông chủ trịnh trọng treo biển báo rằng ở đây có người nói tiếng Pháp tiếng Anh: tôi kiêm chân phiên dịch, tiếp khách nước ngoài, cả khám xe chẩn bệnh. Cảng Qui Nhơn lúc ấy đầy nghẹt lính Pháp, nhân viên Ủy ban quốc tế, cố vấn Mỹ. Xưởng đông khách hẳn lên. Tổ thanh niên Cứu quốc trách tôi “phục vụ đế quốc”, nhưng anh Trung bảo tôi cứ làm quen với Mỹ Pháp nhiều đi, cần lắm.

            Tới đợt hiệp thương, tôi đã nắm được một tổ công nhân khá vững. Qui Nhơn rầm rầm như sắp nổi dậy. Riêng tổ tôi lái hai xe Gip rải truyền đơn in máy suốt từ mũi Tấn lên tới Hưng Thạnh, gửi bưu điện hơn năm chục thư cảnh cáo tụi xấu từ phường đến tỉnh. Địch hoảng, co lại ít lâu, lại làm tới. Má con tôi bị buộc đi tố cộng lớp A vì có người nhà tập kết. Một sáng, ông chủ xanh mặt nhét vào tay tôi một tháng lương, lắp bắp mời tôi về nghỉ: một cú điện thoại của công an đã khuyên ông đừng dính vào kẻ “tình nghi can cứu”. Tôi tìm chỗ khác, làm mươi hôm lại bị thải. Chỗ thứ ba, điện thoại đã tới trước. Tôi nghĩ: “Mình ở lại làm cách mạng, đâu phải làm giàu”. Tôi xách cái thùng gỗ ra ngồi đầu phố, sửa xe đạp, bị cảnh sát lôi về bót. Tôi xoay nghề ngang, xách một chùm chìa khoá đi lắc rủng rẻng qua các phố, chữa khoá rong.

            Địch bắt non trăm người, tổ tôi một cậu bị giam nửa tháng rồi mất việc. Anh Trung lộ, kịp vọt khỏi ca-bin xe tải, thoát. Tôi được gọi vào Gành Ráng gặp anh. Anh ở hang đá, tóc lợp tai, vẫn cười hết cái miệng rộng, đặt hộp thư cho tôi gần Cầu Đôi. Nhưng cái hộp nhôm trong hốc cây bàng ấy mãi mãi không đựng mảnh giấy nào, anh bị bắn chết trong một đêm về móc cơ sở xóm Ga. Tôi đi xem đầu anh cắm cọc: mắt không nhắm, miệng vẫn sắp cười.

            Những người thám hiểm hang sâu thường mang theo một cuộn dây rất dài, thả dây đánh dấu đường ra. Sợi dây của tôi vừa đứt. Một tháng, hai tháng... chúng tôi vẫn mắc kẹt trong hang tối.

            Tổ công nhân, bốn đứa xấp xỉ mười tám đến hai mươi, kéo ra họp trên bãi biển vắng, bộ bài các-tê bài sẵn trước mặt. Chúng tôi cắt tay rỏ máu vào bia, ăn thề, bàn những sự lay trời chuyển đất. Đánh úp tụi bảo an, tước súng, kéo lên núi lập chiến khu, núi nằm ngay sau lưng nhà ga chứ đâu xa. Chiếm một ca-nô máy của địch, lái ra miền Bắc xin súng chở vào, nổ một băng là Qui Nhơn vùng lên hết. Cậu Bẩm tức Xuyên Sơn ném ra một sáng kiến to bằng đình. Mỹ-Diệm gọi ta là cộng sản, ừ, đã vậy ta đỏ lòm hẳn đi cho nó biết mặt: lập Thanh niên Cộng sản đảng, viết điều lệ, rải hiệu triệu, thu đảng phí, gì nữa thì sau sẽ bàn. Cái nạn đứt liên lạc coi như không còn! Chúng tôi bốc một lát lại xìu, lỡ cấp trên đuổi ra khỏi Thanh niên Cứu quốc thì khốn! Hẵng cứ in lại truyền đơn cũ, viết bích chương cũ, hoạt động đều cho bà con khỏi nản cái đã.

            Cậu Ngộ bị bắt với truyền đơn trong túi, không khai, bị đánh đau chỉ biết: “Khí tiết! Khí tiết tới cùng!”. Rồi tôi cũng được xe cây tới rước, chắc tại tụi chỉ điểm thấy tôi hay tạt vào nhà Ngộ. Chẳng qua chúng nó gạt sào đếm vịt, đố biết con mập con ốm. Điện, nước vôi, roi bốn trận, tất cả chỉ đau ít lâu lại hết, còn vết giày trên cằm tôi nóng cháy mãi đến giờ. Tôi bị trói ngồi dựa tường. Thằng ty phó công an đưa mũi giày mõm nhái hất cằm tôi lên, nhếch mép: “Việt cộng biểu mày ăn cứt, mày cũng ăn hả?”. Mười năm sau, tôi còn muốn đè riêng thằng ấy, cắn cổ.

            Cái lưới đen ngày càng thít cứng. Ngộ bị án sáu năm tù. Bẩm thất nghiệp lâu, phải đi Sài Gòn làm ăn. Thọ bị cha mẹ giam lỏng vì quá sợ. Tôi về quê mẹ sục tìm mối, chỉ gặp cô bác tôi quì “sám hối” trước gươm súng dựng chéo đỡ một cái mặt heo. Đảo lộn hết. Tối mịt. Tôi trở lại Qui Nhơn, bị luôn một tuần xà-lim vì phạm lệnh quản thúc. Má tôi thấy những vằn máu nằm mãi trong mắt tôi, dỗ tôi lánh nơi khác. Má biết, và tôi cũng tự biết, tôi sắp thí mạng với chúng nó. Hết chỗ chịu rồi.

            Tôi bỏ đi Đà Nẵng.

            Ông cậu đạp xích lô tròn mắt khi tôi bước vào nhà, không một thứ giấy tờ dính túi. Ông giấu tôi trong buồng, chạy tiền hối lộ, kiếm cho tôi được cái biên lai thuế cử tri, đỡ lo một cú soát nhà.

            Đà Nẵng đông người, dân thợ hàng vạn và có tổ chức vững. Tôi ở không khó, chỉ khó xoay việc làm. Ngay cậu tôi là dân cố cựu mà không sắm nổi cái xích lô - giá xe bảy ngàn, nhưng thêm cái biển số của cảnh sát tới mười bảy ngàn - phải cùng hai người nữa thuê chung một xe của chủ, chia phiên nhau đạp, bỏ buổi là nguội bếp. Tôi lánh né trong xóm nhà lá dọc đường lên Phước Tường, vá sửa xích-lô cho mấy nhà quen, nấu cơm và giữ con cho bà mợ buôn đắp đổi gánh rau thúng quít. Má tôi viết thư cho cậu, kể rằng “các ổng” bắt lên bắt xuống hoài, nhờ cậu giữ giùm “gói đồ” má gửi, đừng để mất trộm.

            Mất bốn tháng tôi mới tìm được một chân học việc phóng ảnh trong một tiệm chụp hình ngoại ô. Cả ngày chui trong buồng tối, đỡ lộ mặt. Thôi đành tạm biệt những chàng máy nổ ồn ào vạm vỡ, chuyển sang cái nghề phóng đại tô màu xem chừng phù phiếm này, làm gì cũng chỉ để chờ ngày làm cách mạng. Nghĩ vậy nhưng vào việc lại ham. Tôi mua sách dạy chụp ảnh và kỹ thuật buồng tối, tự học ngấu nghiến, có đồng nào trút ra mua phim, giấy, thuốc để thực tập. Tôi để dành tiền mua cái thẻ căn cước cho đỡ rầy rà, gửi về nhà một ít, giúp cậu mợ tí chút, chỉ ăn vừa đủ khỏi chết đói, sống bằng hy vọng nhiều hơn cơm. Thỉnh thoảng tôi lại đạp xích-lô một phiên thay ông cậu ốm, chỉ đi đêm và tránh phố đông.

            Đêm ấy tôi lảng vảng phía bến Hà Thân, đón loại khách ít phiền nhất là các bà có con thuê xe giờ hóng mát. Một cặp trai gái diện sang vẫy xe về phố. Tôi nhận ra Duy Hảo, một cậu Hảo rất công tử bột, nói những câu chen lổn nhổn tiếng Pháp và Anh. Tôi ấn cái mũ phật tử rách xuống che nửa mặt, lặng lẽ đạp. Ghép những mẫu nghe lỏm, tôi biết Hảo đang học đại học y khoa Sài Gòn, về nhà nghỉ hè. Cô kia là em ruột Hảo, vừa thi xong tú tài bán phần, đang lo rớt. Anh em đang bàn xin măng(7) một chiếc xe hơi Đôphin, tự lái cho dễ, xăng rẻ hơn tiền xích lô.

            Ông thầy thuốc nửa công nửa tư năm xưa là chủ một biệt thự khá to ở phố vắng. Cô Nga mở xắc lấy tiền trả, Hảo bấm chuông rồi đợi. Một chiếc ô-tô rẽ ngã tư chợt thốc đèn giữa mặt, tôi không tránh kịp, Hảo bật kêu:

            - Ai như Thiêm hả? Đúng Thiêm rồi!

            Ban nãy tôi tưởng Hảo sẽ bối rối nếu nhận ra người bạn học ở nhà trường “Việt minh”, sẽ làm mặt lạ hay chào gượng rồi đi. Sai cả. Hảo cố kéo tôi vào chơi. Tôi phân vân một loáng, rồi đẩy xe xích-lô qua cổng. Không tội gì thậm thụt, Tôi đường hoàng ngồi xuống ghế bành, úp cái mũ nát trên cái xô-pha phủ nhung boóc-đô. Trong gian phòng khách lộng lẫy này chỉ có tôi là nghèo trái khoáy: sơ-mi cộc tay đẫm mồ hôi, quần bà ba đen vá, dép cao su quai xỏ kiểu kháng chiến.

            Mẹ Hảo to béo cỡ bà Phó Đoan(8), chỉ hỏi tôi một câu lạt lẽo rồi lên gác. Cha Hảo gầy hơn xưa, xoắn xuýt hỏi thăm bà con quen ở thị trấn Tam Quan. Bắt đầu rút ruột chăng? Tôi nói toàn sự thật, nghĩa là hầu hết những người đã nhường nhà cho ông ở, nhường hầm cho ông núp, nay đã bị đánh, bị tù, bị bỏ bao thả sông. Ông thầy thuốc xì mũi nhiều lần. Hảo gỡ kính ra lau. Mộng Nga tròn mắt nghe, bỗng đi rửa mặt. Tôi chào về. Cha Hảo giữ bàn tay tôi, nói run run:

            - Hồi đó... bác có lỗi với Cụ Hồ quá... lỡ dại, biết làm sao! Thôi trăm sự bác nhờ cháu, hễ gặp cán bộ đằng mình... cháu nói giúp, à... các ảnh cần gì bác xin giúp nấy, miễn góp được chút công chuộc tội...

            Tôi giữ miệng, không đáp.

            Nửa tháng sau tôi mới trở lại nhà Hảo. Mấy cậu bạn xích-lô biết nhà này từ lâu, còn dò hỏi thêm chị bếp và anh lái xe, cam đoan với tôi rằng ông này tốt, chỉ có bà vợ ham lợi hay làm áp-phe với tụi chính quyền, lại mèo mỡ với một thằng trung tá ở Quân tiếp vụ. Qua hai giới thạo tin đường và tin nhà nhất - xích-lô và ở mướn - qua những lần lui tới nhà Hảo, tôi mới dần dà hiểu cái bi kịch thầm lặng giấu sau các cửa sổ lắp kính màu, một kiểu bi kịch xa lạ đối với lớp người lam lũ chúng tôi.

            Cha Hảo lấy vợ để đào mỏ, mẹ Hảo lấy chồng để lên quan tắt - hồi xưa ông y sĩ Đông Dương là quan đốc, oai lắm. Hai người sống với nhau như sừng với đuôi, có nhân tình riêng, tiêu tiền riêng, đẻ con ra giao cho vú nuôi. Sau năm năm rưỡi ở vùng tự do, khi lẻn bước xuống thuyền biển trở về thành, ông thầy thuốc không ngờ cái lồng son cũ đã trở nên kinh khủng đến vậy. Những cơn thèm khát biến nhanh sau vài tuần ăn sang ngủ êm, nhường chỗ cho chất a-xít của hối tiếc gặm mãi vào tim ông. Cái xấu tãi mực đen khắp vùng tạm chiếm càng làm những mảng sáng của cách mạng nổi rực rỡ hơn. Ông đã đánh mất cuộc sống đáng gọi là sống, mất lý tưởng yêu nước, mất sự cao quý của nghề cứu người, mất những trăm anh em bà con viết thư cảm ơn ông, mất lòng tin của đứa con bị ông dắt vào ngõ cụt. Ông cố tìm những thứ thay thế, chỉ gặp hàng giả.

            Tới đình chiến, ông cậy cục bắt mối, tính cho Hảo và Nga vượt tuyến ra Bắc, còn ông chẳng mặt mũi nào gặp lại bạn cũ. Bà vợ phá ngang, doạ báo mật thám chặn. Ông tát vợ mấy cái và chịu thua. Từ đó ông coi mình như khách trọ trong ngôi nhà đứng tên vợ, đi xích-lô để tránh ngồi ô-tô của vợ, ăn cơm trong buồng riêng, cần nói với vợ thì nhắn qua miệng con. Ông định qua Pháp ở, rồi muốn cạo đầu đi tu, nhưng không xa bầy con được, vắng ông chúng sẽ hư theo mẹ. Nhiều đêm ông gọi Hảo vào buồng, khoá cửa, mở đài miền Bắc nghe đến hết giờ phát, rồi trải chiếu dưới sàn nằm ôn mãi chuyện vùng tự do. Gần đây Mộng Nga được vào “họp câu lạc bộ” với ông, vừa thích vừa sợ. Ba cha con họp thành một cụm riêng – cô Út bị mẹ giữ riệt và hay mách lẻo – chia nhau những hớp gió mát lọt qua đài vào cái xà-lim vàng son nhốt họ.

            Thời gian sàng lọc tình người như nước suối cọ đá, cuốn đi những rong rêu bám hờ, xói sâu thêm những nét đã khắc sâu. Hảo thường nhắc tên tôi và mấy người thân nữa, đoán tôi đang học về nguyên tử hay vũ trụ gì đó bên Nga bên Đức, sẽ thành chuyên gia cỡ thế giới cho coi – nhà Hảo giàu nhưng không đủ thế thần để cho con du học, Bởi vậy Hảo mới sửng sốt khi thấy tôi đạp xích-lô. Cả nhà lập tức nghĩ rằng tôi được Đảng giao việc gì lớn lắm ở miền Nam, tôi đang cầm cái chìa khoá mở cửa ngục cho họ, trong bộ cánh tã ấy tôi là Dự Nhượng rình giết bạo chúa. Riêng cô Mộng Nga mười bảy tuổi càng mộng khỏe hơn, biến tôi thành một nhân vật nửa xi-nê trinh thám nửa lãng mạn Tự lực văn đoàn. Tôi buồn cười, đôi lúc thu thú, rồi lo địch theo dõi và biết tôi trốn quản thúc tại Qui Nhơn. Tôi nói qua loa rằng tôi không dính đến cách mạng, chỉ làm nhiều nghề kiếm ăn và học thêm. Sự thật cũng đúng vậy, tạm đúng trong lúc này. Hảo nháy một mắt, nói ngay sang chuyện khác để tỏ ra mình hiểu chính trị lắm chứ. Mỗi lần đưa sách học cho tôi mượn, một pho từ điển Anh-Pháp chẳng hạn, Nga lại thấp giọng thì thào như sợ phá vỡ cái không khí huyền diệu của một cuộc trao súng giữa rừng khuya. Cha Hảo thích gọi tôi và buồng khoá hai lần cửa, khoát tay vào những ngăn tủ đầy thuốc và đồ mổ: “Hồi nào… e hèm… tới khi chuyển đi, bác mới bao gói thiệt kỹ, giờ để vậy coi tự nhiên hơn…”

            Có gì đấy rất đáng thương ở cái bộ ba chân thành và mềm yếu này, đang cố giữ một tia hy vọng vừa chợt loé, cố tìm nguồn vui qua những kỷ niệm được gói trong giấy bóng màu của mơ ước pha lẫn ảo tưởng. Nghĩ cho cùng, họ cũng có lý khi tin tôi. Dù sao tôi vẫn gần cách mạng hơn họ. Một ngày nào đó, giữa lúc ít chờ đợi nhất, một bàn tay từ bóng tối sẽ nhô ra kéo tay tôi, một giọng thương yêu sẽ gọi: “ Đồng chí Thiêm!”. Ôi hai tiếng đồng chí thơm như sữa mẹ trên môi, bao giờ tôi mới được nhắc lại?

            Tôi tự học chừng năm rưỡi thì chụp và tráng được phim màu, phóng được ảnh màu. Ông chủ tiệm giao tôi làm thử vài tuần, thấy khách ưng ý mới dám tin. Ông bỏ tiền mua máy điều hoà không khí, dọn buồng cho tôi ở ngay trong tiệm, năn nỉ tôi làm phiên dịch, tất nhiên là tăng lương. Bọn tề Qui Nhơn quên tôi, giấy tờ Đà Nẵng đã đủ, tôi không cần giấu mặt nữa. Tiệm chụp hình Con thỏ biến thành Thiên thai ảnh viện tức Eden Studio, đắt hàng hơn trước nhiều. Tôi vẫn tu ép xác như cũ, để tiền gửi về giúp má tôi và phụ thêm cho Út Hiền được đi học. Chung quanh tôi đã có nhiều bạn thân, toàn thợ trẻ cả, hay gây sóng gió trong những cuộc họp lớn nhỏ của Liên hiệp nghiệp đoàn Đà Nẵng. Tôi chọn sáu cậu thật vững, đưa cho đọc tập điều lệ Đoàn in đá trên giấy nứa, của quí nhất tôi còn giữ được. Mừng quá đỗi, có cậu khóc oà. Chúng tôi tự ghép thành một tổ, thề sống và đấu tranh theo lý tưởng Đoàn, dù chưa biết bao giờ mới được nhận là đoàn viên.

            Rồi tôi cũng tìm ra đầu mối. Không, cách mạng tìm đến tôi mới đúng. Út Hiền từ Qui Nhơn ra thăm tôi, rút đưa một cuộn phim: “Anh gì đó xưng tên Dư, bạn anh, nhờ anh tự tay tráng giùm. Ảnh dặn em cất kín, ánh sáng lọt vô là hư hết, người như anh mới làm nổi việc này. Ảnh hẹn mươi ngày nữa trở lại”. Tôi mở hộp, thấy ngay con dấu “trái tim lửa” trên giấy bao ngoài, suýt kêu to. Cậu Dư rách mông, cùng tổ Thanh niên cứu quốc đầu tiên với tôi, dùng cái mặt nhẫn đu-ra in dấu này làm tín hiệu, lâu nay bị địch lùng riết lắm kia mà. Tôi vọt ra buồng tối tuy đã khuya, run rẩy tráng, hãm. Đoạn phim chỉ có sáu kiểu, sáu trang chữ chụp lại. Rửa sơ, không đợi khô tôi lắp máy phóng liền liền sáu ảnh 13x18, gí mắt vào chậu thuốc đọc ngay những chữ đen đang hiện dưới đèn màu cam. Một lá thư viết tay của Dư, năm trang tài liệu đánh máy về tình hình và nhiệm vụ, dưới đề “Bình Định, 2-1958”. Tài liệu ra tháng trước, mới tinh.

            Lá thư giao cho tôi những hai chỗ móc nối ở Đà Nẵng.

            Hai đốm sao.

            Đêm đen đã bị chọc thủng.

  *

         Duy Hảo với tôi ngồi tránh vắt trên tảng đá giữa suối. Tôi lấy đá nhám mài mấy cục chai cứng như sừng ở bàn chân, nghe Hảo kể rất say những ngày làm chủ Đà Nẵng của học sinh và công nhân. Nếu trên cho tôi về thành hoạt động, chắc bỡ ngỡ lâu đấy, phố và người đều khác xưa. Chuyện của Hảo giống như dây câu thả xuống đáy ao, kéo lên những kỷ niệm đã chìm từ lâu, rêu bám đổi màu nhưng vẫn rất gợi nhớ.

            Tôi hỏi tắt ngang:

            - Quên, em mày đẻ trai hay gái?

            - Trai, ba ký rưỡi. Biết nó đặt tên gì không?

            - Chắc lại thêm một Mộng nữa giáng trần...

            Hảo nhìn tôi, mắt rất sâu qua kính trắng. Một cái nhìn dài, nhiều nghĩa, rõ nhất là ý trách móc:

            - Huỳnh Ái Trung. Nó nói với chồng về Sài Gòn nó nhớ miền Trung lắm.

            Tôi cọ rất kỹ một vết chai, đợi mặt mình bớt nóng. Tôi đã xin lại cái tên Trung của anh lái xe tải bị chặt đầu, chỉ dùng nó khi gửi những mảnh thư nhỏ đến cho Hảo, nói bóng về công tác bằng giọng bông phèng ma mãnh của học trò chuyền giấy cho nhau dưới mũi thầy giáo. Ai ngờ cái tên ấy nhảy sang một đứa trẻ... Nga liều đến vậy ư?

            - Nè Thiêm...

            - Gì?

            - Lặng im nghe tao xử cái tội yêng hùng rơm. Con Nga ưa mày, ừ nói trắng ra là nó yêu mày, mày biết mà cứ làm lơ. Chắc mày đứng trước gương, vỗ ngực nói vầy phải không: tôi không ham sắc ham của, tôi không quyến rũ em gái bạn tôi, tôi đáng bực hiệp sĩ Tây hay quân tử Tàu...

            - Tàu lao. Nga với tao...gì đâu...

            - Trong lúc non sông mờ cát bụi, phải đâu là hội kết uyên ương(9), mày vĩ đại mà, tao còn lạ!

            Tôi cười muốn sặc.

            Vậy đó, có những tâm sự chỉ ngỏ được với người sơ, phải giấu bạn thân. Không thể nói toạc rằng tôi mến Nga, thương hại một ít, nhưng không hề yêu cô giai nhân em Hảo. Nói, Hảo sẽ giận chí chết, mà chắc gì đã chịu tin cho.

            Trước khi “nhảy núi”, Hảo đã yêu liên tiếp chừng nửa tá cô gái, chọn toàn cô xinh. Yêu thật chứ không lăng nhăng đâu, lần nào cũng say sưa từ vài tuần đến vài tháng. Sau đó thì cả thèm chóng chán, cậu lảng dần, cũng có khi bị cho ra rìa, nhưng vẫn giữ nguyên cách nghĩ: “Xấu nết còn sửa được, xấu người thì chịu”. Hảo tin ở sức mạnh vạn năng của sắc đẹp đến nỗi không thể tưởng tượng rằng tôi chê Nga. Cậu hay khuyên tôi khi ở Đà Nẵng: “Mày hơi yếu về mặt bằng cấp, gia tài, được cái điển trai cũng khớ, lại là cách mạng nòi. Cứ tấn công đi, ba tao thích mày, thêm tao nội ứng coi như ăn chắc!”. Thấy tôi lờ, Hảo chỉ đoán tôi bị mặc cảm tự ti hoặc giữ cái khí thái của người chưa gặp vận. Có lẽ về sau Hảo sẽ hiểu dần: tôi không nghĩ tôi yêu Nga là với lên. Trái lại.

            Mộng Nga càng lớn càng đẹp, biết mình đẹp, rất chịu khó làm đẹp. Đã vậy, Nga lại là con cưng của nhà trí thức giàu, lại có bằng tú tài toàn phần mua bốn chục ngàn đồng, lại biết pi-a-nô, vẽ, thêu, đan, do các thầy cô đến dạy tận nhà sau khi thôi học. Nga thích nghe chuyện cách mạng, đôi lúc dám nhận vài việc thật dễ như mua giúp ít thuốc, chuyển một lá thư không mật. “Em yếu tim, em dễ xúc động, thần kinh em đâu có vững như các anh”. Kèm nụ cười rất duyên đã được nắn sửa kỹ bằng gương và ảnh. Người thợ chụp hình ở tôi rất chuộng nhan sắc: bốn kiểu ảnh màu đạt nhất của Nga được phóng to, lồng kính, treo chỗ trang trọng trong phòng khách Thiên thai ảnh viện, khối kẻ trầm trồ. Bấm máy xong, tôi không để ý đến Nga nữa, tuy biết Nga tìm tôi không chỉ vì muốn chụp.

            Bà mẹ sợ thứ sô-cô-la Nhật pha thuốc kích thích - sợ là phải, lắm cô đã bị cấm - cấm Nga đến chơi nhà con trai. Cấm sao nổi. Nhiều hôm Nga ở lại giúp tôi chấm ảnh, xén ảnh, nói những câu chuyện dài dài có nhiều chấm lửng, tôi vẫn giữ khoảng cách đều đặn như hai chúng tôi đi song song trên hai bờ của một con suối ngoắt ngoéo. Khi Nga đối đáp với một ai khác, tôi lặng lẽ ngắm gò má đánh kem rất khéo, hàng mi nhuộm hồ ri-men cứng và bóng, mi mắt tô xanh đen, những móng tay nhọn bôi hồng có ánh xà cừ, và tự hỏi: “Nếu mất đi lớp vỏ của người-đẹp-trên-bìa-sách, mất số của hồi môn, cái bằng, lượt véc-ni tài hoa rất mỏng, sẽ còn lại cái gì vững bền ở cô gái này? Lý tưởng, lòng ham hiểu biết, sức vươn lên lập thân, sao Nga có quá ít? Cuộc sống mai sau sẽ không để Nga nhởn nhơ giữa vòng những người quỳ gối dâng tim như hiện nay, Nga sẽ chuyển, nhưng chuyển theo hướng nào?”. Tôi thương Nga tốt bụng, đang khổ vì mẹ cha âm thầm lìa nhau, anh Hảo ở xa không giúp em được mấy. Có lẽ Nga muốn nhờ tôi lái đời mình, nhưng lại sợ tay lái của tôi thô bạo. Mà có thể Nga còn ngại những chênh lệch mà chính Hảo cũng nói trắng với tôi.

            May phước, tôi không là anh Trương Chi, cũng chẳng phải thằng Sở Khanh. Tôi chỉ là tay thợ ảnh được giao nắm hơn chục cơ sở Đà Nẵng, trong đó có Duy Hảo. Tôi chẳng phái nén mình lên gân gì cả khi nói chính trị với Nga, khuyên Nga như người anh, và bắt gặp trên mặt Nga những nét hờn dỗi hay âu yếm không dính tới đường lối chính sách của cách mạng miền Nam. Cứ như vậy đến ngày tôi trao đầu mối lại cho đồng chí khác, rời thành phố đi cầm súng...

            Nga lấy chồng năm kia, một cậu học ở Pháp về. Cách kén rể của bà mẹ đã đổi chút ít theo thời thế, bà dỗ con: “Lấy nó thì cả đời khỏi lên voi xuống chó gì hết, bên nào thắng cũng cần cái anh kỹ sư xây lại cầu đường chớ”. Ông cha im lặng, chưa ưng mấy nhưng chẳng lẽ cầm duyên con gái. Hảo tiếc giùm cho tôi, biết Nga không quên tôi.

            Hảo lại lau kính, buồn buồn:

            - Cái dạo chống hiến chương Vũng Tàu, con Nga theo bạn bè xuống đường bị mấy trái hơi cay sưng mắt, nó đeo kính đen đi khoe con mắt với tụi bạn tao hoài, thiệt tội... Mẹ tao giữ riết quá. Phải chi tao đem được nó theo, lên đây có mày nữa... Thôi đừng làm bộ! Nó vô văn công, tới diễn cho bộ đội coi, mày năn nỉ xin làm em tao liền một khi!

            - Với tất cả những cái nếu... Mà thôi hụt làm em thì tao chỉ huy mày. Tao hái rau, mày kiếm củi, lát nữa húp canh toàn quốc(10) cũng mát ruột. Vị tinh Hồng Công của mày đâu?

            Chúng tôi có lu bù chuyện để kể và cãi. Còn đêm nay với ngày mai đi chung nữa, lo gì.

             

             

            Chú thích

            (1)   Dùng tay để tuốt lấy hạt lúa khi thu hoạch

            (2)   Một loại rượu ngon của dân tộc Catu, lấy từ cây đót hoặc đoác

            (3)   Tiếng Co: đường này, đường này

            (4)   Tôi nói tiếng Gia  Rai được một ít

            (5)   Giao liên trên đường dây rẽ ngang

            (6)   Hệ giáo dục phổ thông chín năm hồi kháng chiến. Lớp 9 cũ tương đương lớp 12 bây giờ

            (7)   Bà mẹ (Tiếng Pháp)

            (8)   Nhân vật trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng

            (9)   Thơ Thế Lữ

            (10)                       Tiếng đùa: canh cả nước  là nước

            Chương 6    

               - Bom, nằm xuống!

            Tiếng hét nhọn như kim xóc vào màng nhĩ. Tiếng bom huýt dài, kêu rắc như cây đổ. Chưa kịp mở mắt tôi đã làm ngay những cử động thuộc nhuyễn: tay phải chân phải cùng bật ngang ra ngoài võng, ngoặt xuống tìm đất, mình lật nghiêng, cả người rơi sấp. Hai tay đỡ không cho ngực bị tức, thường đúng tích tắc ấy bom nổ, mặt đất nảy ngược rất mạnh hất bổng tôi lên tôi vẫn kịp “hạ cánh” lần thứ hai trước khi mảnh réo qua lưng.

            Một loạt tiếng cười rộ. Mắc lừa rồi. Tôi đứng dậy, nhìn những hàm răng lạ chung quanh, nhớ ra trạm giao liên. Ở xã mình, các tay tếu cũng hay tập báo động cho nhau kiểu này, có khi chỉ phá quấy chơi.

            - Anh Thiêm! Địch ở xa cứ ngủ yên nghen!

            - Anh Thiêm! Dậy trở mình chút chớ mỏi!

            Duy Hảo nín cười trước, tuyên bố tôi được xếp hạng A về phản xạ có điều kiện. Tay Hảo còn cầm nhánh cây tươi bẻ gập giả tiếng bom xuống gần lưng người.

            - Tao thử trên năm chục lần, mới có 7 người đáng loại A. Đô đốc Thiêm có khác, con nhà võ...

            - Thử lần nữa thì vợ mày ở goá!

            Tôi gí nắm tay sát mũi Hảo, rồi phủi đầu gối.

            - Nhờ trời, vậy còn lâu....Cho qua chuyện khoa học. Tới giờ lên đường, mời đô đốc cho lệnh hành quân!

            Trên sạp xếp một dãy bao bột no tròn, ngấm đen mồ hôi ở mặt áp lưng: Một nhóm cõng gạo từ đồng bằng đi lên đã đi suốt đêm, vừa tới trạm. Hảo bị mắt kém, mò đêm chỉ làm khổ anh em hết đợi lại hú lại tìm, nên bám đường dây tiện hơn. Hảo gật gù hỏi kỹ các chặng đường về chợ Minh Huy. Tôi cao hứng vạch luôn sơ đồ trên sân: đường núi hai ngày nhé, qua sông Tranh tới Tiên Lãnh, lại vượt núi về Phước Cẩm, qua một chặng đèo nữa, mất chừng bốn ngày với vài tiếng đêm. Chung quanh lại cười, cười gì chẳng hiểu.

            Hảo nói rất kính cẩn:

            - Dạ, kính xin đô đốc xếp cái bản đồ lớp đồng ấu lại, để em thưa. Đây là con đường hồi thằng Diệm còn vọc nước đái trong nôi, mà nay đã tới năm sáu mươi lăm đại thắng, nhờ ơn các anh giải phóng...Tao sẽ dắt mày đi bộ mười lăm phút tới làng, mượn xe đạp của ông bạn thợ may, đèo nhau phóng về ngã ba An Lau ăn bún bò quán bà Sô, thẳng đường ôtô xuống chợ Ngọc Nha, mỏi chân thì lên xe hàng đi vài chục cây số cho nhớ mùi xăng. Bữa trưa, ta đánh một trận mì Quảng kèm bia ở chợ Cây Xanh, ngủ một giấc, chiều mát đạp về Minh Huy là vừa.

            Tôi sửng sốt tưởng Hảo còn đùa. Trạm trưởng Hùng gật đầu:

            - Đi tốt. Anh em mới về nói địch không có chi, sáng trăng đi cho mát thôi.

            Tôi vẫn chưa tin hẳn. Cái trạm này...vẫn mái lá mây thưa, sạp tre, nền nhà đầy gốc dựng, cái máng đưa nước suối về róc rách ngày đêm cạnh bếp, con heo ụt ịt cọ lưng vào mông tôi nằm võng. Vẫn là trạm núi. Và con đường Hảo nói, khi tôi rời đất Quảng nó vẫn đeo bên hông cả chùm đồn bót và ấp chiến lược như cành sung đeo trái, tìm một chỗ băng qua ban đêm còn khó, tính chi đến chuyện đạp xe giữa ban ngày. Vùng đồng bằng đỏ gạch những bùn mà tôi ngắm trên triền núi lở, khắc khoải tìm dấu hiệu của sự sống, mới đây thôi đã thay da đổi thịt đến vậy ư?

            Tôi nôn nao muốn xốc ngay ba-lô. Hảo bắt tôi cạo râu, thay mặc bà ba đen, đeo súng ngắn và túi dết dưới áo. Lát nữa chúng tôi sẽ đi kiểu “hợp pháp”: đội nón lá, nhét ba lô vào giỏ buộc hai bên chỗ đèo hàng. Thằng địch bị ém, lo giữ các thành phố và căn cứ, càn ít hẳn so với năm ngoái, nhưng hay “du kích” lại ta bằng tàu rà thổi rốc-két và trực thăng chụp xuống bắt cóc người đi lẻ, còn cái sự bom pháo thì chẳng hơi đâu mà để ý.

  *

Chúng tôi không vội vã mà vẫn đạp vèo vèo cho say gió. Trên khúc đường đất chi chít những vết xe thồ, chúng tôi in thêm hai sợi dây răng cưa: bánh trước nghịch ngợm lách qua luồn lại, bánh sau nghiêm chỉnh hằn sâu, gợi những dấu chân của trâu mẹ và nghé con trên đồng ruộng. Rồi xe lăn rào rạo trên đường rải đá, về hướng thị xã Tam Kỳ.

            Một làng chiến đấu. Nhiều làng chiến đấu. Dây kẽm gai giăng lưới trên đỉnh các trụ cao ba bốn chục thước, chống trực thăng chụp xuống giữa làng, à, một cái mới, tôi chưa gặp kiểu rào trời này ở Bình Định. Hầm tròn nối chuỗi hạt đều đặn bên đường. Các bác đào mương lắc đầu cười khi chúng tôi lái xe đạp chậm qua cá hố chống tăng xếp hình nanh sấu, qua một khúc rào lắt léo chữ chi, qua những súc gỗ to chôn đứng, qua bãi chông chừa một lối đi rắn lượn. Cờ khắp nơi, cổng chào và biểu ngữ khắp nơi, một đám hội của những màu những lời đánh Mỹ. Vùng mới giải phóng có khác, các cô du kích gác đầu làng cũng mới tinh như vừa rời hãng búp bê, quai súng thắt nơ hồng, mũ tai bèo chưa kịp bạc màu và được rút dây bằng ống nhựa đỏ cắt từ nắp bút bi, hầu hết ửng mặt quay đầu khi Hảo đưa giấy và trêu: “Có bắt tôi không?”, áng chừng họ đã quen với hai tiếng “bắt chồng” từ miền núi lan xuống.

            Núi lớn lùi xa, ngả từ màu lá sang màu trời. Trời cứ mở rộng mãi ra. Lúa trải thênh thang hai bên đường, những mảng chín sớm nổi sáng vàng tươi giữa cánh đồng đang vô gạo hay cứng gạo. Có cơm mới rồi. Những vồng khoai đan lóng mốt vào nhau thành tấm phên nứa xanh xoay tròn chậm chậm. Cây dầu lai đằng kia cũng xoay, khoe cho hết những cụm lá non trắng xoá như bọt sóng, tãi trên nền sẫm của tán cây. Bọt đọng trắng đầu cành, một nét của lụt lớn...

            Tôi tìm dấu nạn lụt. Còn nhiều. Đất chưa lành hẳn, nhưng đang kéo da non hối hả. Sườn núi lở đã đậm màu dưới nắng sấy và cỏ mọc vội. Cát lấp ruộng được cào dồn vào một gốc thửa vun thành đống cao như cái muống đường cát Quảng Ngãi đang rút mật, để dần dà được gánh đổ trên nóc các hầm tránh bom. Một tổ đổi công cuốc vỡ lại khoảng ruộng lấp đầy, con trâu gò lưng kéo cái cộ(1) chở đá và cát đi trút xuống rãnh nước xói. Chung quanh tôi tất cả đều lột da trẻ lại. Mương mới vét, bờ mới đắp, căn nhà tranh bên đường từ nền tới mái đều mới, chiếc cầu sạp tre bắc đè trên cầu xi măng sập cũng chưa kịp sạm da. Đất mình khoẻ lạ. Mấy ngàn tuổi mà đất với người vẫn sung sức lứa đương trai.

            Hơn chục em nhỏ cắp sách đi ngược chúng tôi, cự ly năm thước rất đều để nhảy hầm cho gọn, chào nối nhau như điểm số: “Chào các anh ơ!” Cái tiếng ơ hẳn là dành cho lứa bạn chơi được thay cho tiếng ạ quá lễ phép. Tôi xuống xe, bắt cho hết những bàn tay nhỏ xíu giơ thẳng thành một chuỗi bông hoa năm cánh nở dọc hàng rào dễ thương không chịu được. Tiếng trẻ em là thước đo vui buồn của mỗi làng. Leo qua rào ấp chiến lược ban đêm, tôi chỉ nghe tiếng các em giật mình ré đứt hơi, cắt ngang điệu nhạc du côn hay giọng hát đĩ thõa của đài địch. Làng nổi dậy, tiếng hát của các em cũng nổi dậy, còn vụng nhưng hăng say hết cỡ, cuộc đổi đời nào chẳng vậy. Và đến khi trong xóm ngân tiếng bi bô của các em tập đọc, lúc ấy ngày mai mới thật nảy mầm trong cái hôm nay nhiều đau đớn. Ban nãy tôi ngó qua một căn nhà có tiếng trẻ khóc nhè: người mẹ lật qua lật lại cái áo bà ba đen nhỏ xíu trước mặt đứa con, đứa bé cứ giãy chân lắc đầu, chắc đòi sơ-mi kiểu bộ đội kia. Miễn sao các em không phải khóc đói hay khóc bên xác mẹ, vậy đủ mừng rồi. …

            Có tiếng máy bay. Cặp tàu rà quay lại chăng? Tôi nhìn quanh, chợt thấy một cái đầu ôtô ló trên đỉnh dốc với cặp mắt cá vàng. Hèn gì cây cầu xi măng chúng tôi vừa đạp qua còn nguyên! Hai chiếc xe đò nối nhau xuống chậm. Các cửa sổ đầy chật những bộ mặt tươi nở, xoay nhìn theo chúng tôi rất lâu: ai lên đây mà chẳng tìm một nhà người quen “đi giải phóng”? Tôi vẫy tay chào chiếc xe gặp đầu tiên, anh lái hãm lập tức, chắc tưởng chúng tôi muốn soát xe hay lên đi một quãng. Tôi vội xua tay bảo đi, bà con cười ồ. Vui ghê. Chiếc sau - một Xi-trô-en về già - khiến tôi ngứa miệng ngứa tay, muốn chặn xe, lật capô, gắt anh lái xe một mẻ sượng mặt. Máy gõ lóc cóc, phun khói đen kịt như M.113, cứ để như vậy chạy thì bằng đốt xăng nướng xe! Vài cái xéc- măng giá bao lăm mà không chịu thay, hả?

            Rồi tôi bật cười một mình, gò lưng đạp. Cũng cái máu “kiến nguy bất cứu mạc anh hùng” của ba tôi, thấy máy bị xài ẩu là nhào vô bênh như bênh trẻ con bị đánh, của ai mặc kệ. Tên là Rảnh mà cả đời ba tôi bận hơn ai hết, thật tội, bởi cứ mua dây buộc mình. Chắc hẳn chủ xe đã tính kỹ: thay méc-xăng mới không lợi bằng chạy liều hao xăng, tụi ngụy thua bạc vẫn nửa đêm đánh “quân xa” tới nhà, ném bừa xuống sân hàng chục can xăng, đưa trả vài trăm cũng cầm vội, đi gỡ. Trong trận càn hôm sau, tụi Mỹ mặc sức mà há miệng giơ tay khi nghe gào trực thăng chở xăng tới gấp, khi đọc báo cáo thấy số xe bốc cháy hình như nhiều hơn số mìn của Vi-xi đã nổ... Cứ sưởi ấm tuổi già bằng xăng Mỹ đi hỡi bác Xi-trô-en sắp về hưu!

            Gần đến Ngọc Nha, chúng tôi gặp máy bay ném bom. Hai chiếc AD.6 đang phá nốt cái đồn mà trung đội dân vệ nổi dậy theo ta đã đốt rụi, rõ là chúng tức đến xúc đất đổ đi? Tụi phản lực Mỹ cho đến nay vẫn đánh vùng núi nhiều hơn, mé đồng bằng này còn giao chọn bọn ngụy chó cậy gần nhà.

            Chúng tôi rẽ vào vườn mít, tránh thằng L.19 và nghỉ một lát. Tiếp hai người đàn bà quảy gánh cũng ghé vào. Họ đặt gánh, lật nón ra quạt. Tôi còn ngờ ngợ, vẫn kêu thử:

            - Kìa, cô Mẫn!

            - Trời đất, anh... anh Thiêm đây nè chị Tám!

            Tôi gặp lại một cô Mẫn khác hẳn, khác đến nỗi tôi cứ muốn nghĩ đây là cô em, còn dạo trước tôi cùng cứu lụt với cô chị. Hai chị em có vóc người thon dẻo và đôi mày rậm đen giống nhau, nhưng cô em trẻ tươi hơn nhiều, má bầu bĩnh đỏ au, cổ tay tròn lẳn. Cô chị hay dè giữ, khô, còn cô em đang cười nói rối rít:

            -Bọn em nhắc các anh miết. Chị Tám rầy, nhắc vậy các ảnh nhảy mũi, đi đâu vấp đó. Bà con cũng rầy em sao không ghi số hòm thơ để gửi giấy cho các ảnh. Em có gởi một lá đề C.215, huyện trả lại còn chỉnh cho nữa, ức thiệt chớ. Kỳ này nhứt định phải ghé Tam Sa nghe anh? Ở chơi lâu lâu, ăn đều mỗi nhà một bữa, giáp vòng mới được đi nghe anh? Mấy anh kia đâu? Chú Dé đâu? Chú Ba Tơ đâu... chú Cẩn hết đau bụng chưa?

            Tôi trả lời mấy câu hỏi vội vàng, nghe kể chuyện Tam Sa, mãi không hết thấy lạ. Có phải cái không khí say người của chuyến đi trong vùng giải phóng rộng thênh đã khiến Mẫn cũng ngây ngất như tôi, hay là cô gái Tam Kỳ đã đổi thịt thay da cùng với đất Tam Kỳ? Mẫn vừa ghé xưởng quân giới xin các thứ về đúc thủ pháo, mở nắp đôi bầu cho tôi xem một mớ kíp nổ, nụ xòe, dây cháy chậm, cứ cười dài: “Xin được nhiều, nhờ em mới học lớp binh vận ba ngày đó anh!” Tôi nhìn Mẫn chăm chú, có lẽ Mẫn chợt nhận thấy mình vồ vập quá, vụt đỏ thêm hai tai, ngoảnh sang chị Tám ấp úng:

            - Ủa, chị Tám... không hỏi tin ảnh à?

            Chị Tám Giàu mải xem máy bay chồm chúi, hay giả bộ xem chẳng biết, quay lại tủm tỉm:

            - Nhắm chừng hỏi cũng chẳng được nước non gì...Thì hỏi: bớ hai anh đi đường cái quan, có gặp chồng tôi tập kết về không?

            Chị Tám là cán bộ huyện. Tên là Giàu nhưng lại nghèo nhất trong số các chị em cán bộ hay lui tới Tam Sa, tôi nghe nói vậy. Chị có đủ những nét của các chị lấy chồng ba ngày, đợi chồng mười năm: vẫn còn nguyên những cử chỉ e ấp, điệu cười mắc cỡ che miệng, dáng đi óng ả của cô dâu mới năm xưa, trong khi tóc rụng theo lược đã hơi thưa đi trên trán, má bắt đầu nhám và hóp, chỗ lúm đồng tiền tròn xoay dấu chấm đang ngả dần thành dấu phẩy- về sau sẽ hoá ra ngoặc đơn rồi ngoặc kép – mắt bớt trong và đuôi mắt đã hiện nhiều vết khía li ti. Mỗi ngày một ít, chị lặng lẽ hi sinh cái hạnh phúc làm vợ, dâng hiến nốt cái quãng đời có thể làm mẹ cho nghĩa lớn. Chị thương chung anh em bộ đội với cái bao dung của người chị thương lũ em chồng vừa ngoan vừa quấy. Lứa trai trẻ chúng tôi hay đùa ác, thích trêu những sự “mai sau thống nhứt nước nhà, áo đen làm chị áo đà làm em”, nhưng rất hiểu và phục các chị. Chúng tôi hay bàn đến một loại huân chương Chung thủy dành cho những người chị đang phá tất cả các kỷ lục về tình yêu son sắt.

            Duy Hảo ngồi lật xem một xấp thư, mặt tỉnh khô, ra vẻ “tao né một bên rồi đó”. Khi nghe tôi nói với chị Tám kha khá, cậu mới chen vào:

            - Cô là Phan Thị Mẫn ở Tam Sa, đúng chớ?

            - Dạ.

            - Có thơ của Út Hoà gởi.

            - Thiệt hả anh? Đâu?

            Mẫn vừa kể đã cho hai em đi xa vùng ác liệt ít lâu, lớn thêm chút nào hay chút ấy trước khi về cái xã từng giờ xô xát của mình. Ba Tâm làm giao liên cho huyện, được việc lắm, bị cái nhác học. Còn Út Hoà mới mười ba tuổi, khai lập lờ theo tuổi ta là mười bốn, đã được vào lớp cứu thương của tỉnh, nhờ học khá nên các ảnh cho theo tiếp lớp y tá bốn tháng. Đọc lá thư em gái – bì, giấy chữ đều và nhỏ xíu - Mẫn cau mày, rồi chớp chớp mắt, rồi chớm cười bên mép, khi đưa thư cho chị Tám mới cười hẳn:

            - Chao, miếng giấy bằng bàn tay mà hết ba phần tư xã luận! Nó hằm hằm về xã, không chịu ở lại bệnh xá, mà nói y cái giọng bà già dạy nàng dâu, kinh chưa chị!

            Chị Tám ỡm ờ:

            - Thì bắt chước chị nó chớ ai bày!

            - Em mà bà gia?

            - Không bà gia cũng quá cha dì ghẻ. Anh Thiêm nhớ không, dạo xưa hễ nó gặp anh là mặt cứng như gỗ, nói lạnh như đá, phải chưa?

            Chúng tôi cười rân. Mặt Mẫn đỏ tía mà chị Tám chưa thôi:

            - Cứ như mặt trời mọc như vậy mới dễ coi chứ. Anh thấy bây giờ nó xinh ra, nó trẻ người trẻ nết....

            - Lạy bà, cho con sống với!

            Mẫn giúi chị một cái nên thân.

            Đã hết máy bay. Hảo nháy tôi, bàn đi bộ một quãng cho dẻo chân. Hình như chị Tám với Hảo cố ý dắt xe đi trụt đằng sau. Mặc kệ. Tôi nói nửa đùa nửa thật:

            - Cô.. bí mật số một đó nghe.

            - Bí mật?

            - Cô lạ lắm. Muốn trẻ thì trẻ, muốn bà cụ non cũng hoá bà cụ liền, chị Tám nói đúng. Khi thân thì thân, hễ làm mặt lạ với nhau...

            Tôi chợt bắt gặp nét buồn đến rất nhanh khiến mặt cô gái tối sầm. Buồn, không phải giận. Đôi mắt rất đen ngước nhìn tôi, lại nhìn xuống đất. Vẫn đôi mắt muốn kể gì đấy mà tôi không hiểu. Mẫn xoay đòn gánh đổi vai, ngập ngừng:

            - Hồi nào anh về làng em lâu lâu...Chuyện hơi dài…thôi để sau đã.

            Tôi hối đã làm Mẫn mất vui, mà vẫn không hiểu gì hơn về cô bạn. Bạn chiến đấu thôi, tất nhiên.

            Đến ngã tư chợ Ngọc Nha, chúng tôi rẽ hai hướng. Tôi bắt tay Mẫn, đọc trong mắt Mẫn một lời gì như cầu cứu hay đòi hỏi. Có thể tôi lầm. Con trai chúng tôi dễ lầm bởi hay đoán đằng sau những đôi mắt đẹp chỉ có những ý tình đẹp. Mẫn cười lần nữa, hơi gượng. Tôi ngắm hàm răng trắng bóng và nhỏ đều, nghĩ đến cái tên Ngọc Nha ai khéo đặt, và chỉ nghĩ bấy nhiêu.

            Đến phiên tôi đạp. Duy Hảo ngồi sau, lên tiếng cà rà:

            - E hèm, bây giờ mới gặp ma ăn giỗ. Nàng là người có đôi mắt huyền của công chúa Ả- rập, ừ rất Ả-rập. Thân thể đẹp như vũ nữ ba-lê. Vui ra vui, cũng mau hờn tủi khi chàng đóng vai Đạo Đức Thiêm hơi kỹ. Cây mới ươm phải bón phải rào. Tao rào cho nàng một bí danh rất bí là Sêhêrađát(2), xin tặng mày ít chục giấy hồng thơm, bì thơ có hình bồ câu và tim các cỡ to nhỏ...

            - Tầm bậy! Quen sơ sơ thôi.

            - Chàng là kẻ đa nghi, nhớ câu tin bạn mất vợ...

            - Vợ thiên hạ, vợ của tao đâu mà mất!

            - Hỏi thiệt nghen, mày giấu mày chết: tao giới thiệu cho mấy thằng còn mồ côi vợ ở bệnh xá, mày ưng không?

            - Rất ưng. Cần thì tao thuyết giùm cho. Cô này tốt lắm mà tánh nết không hợp với tao, xin kính nhi viễn chi thôi.

            Hảo cụt hứng không vặn thêm nữa.

            Cậu ta mới lên vùng giải phóng chưa đầy một năm mà đã quen đất quen người ghê. Đến chợ Cây Sanh, Hảo kéo tôi vào quán mì Quảng “ngon nhất trong vòng mười cây số bán kính”, hỏi các món, gắt anh chủ quán bằng cái giọng người nhà:

            - Thứ cao lầu Hội An mà đặt tên phở xào thập cẩm là bắt chước dại! Cho trước hai tô coi thử. Ừ, bia “băm ba”, hai ly pẹc-nô. Mày uống pẹc-nô hay quăng –trô?

            - Thôi đừng quăng tao xuống ruộng!

            Tôi bông lơn để tránh nói rằng tôi mù tịt.

            Đời sống thành phố cũng lạ: một người đói lả ngồi bên một kẻ khổ vì thừa mỡ, đùi sát đùi trên tàu xe mà vẫn nguyên vẹn hai thế giới riêng. Hồi ở Đà Nẵng tôi hay mắc vào một bi kịch nhỏ. Bị cơn đói hành hạ sau buổi đạp xích lô, không dám ăn vặt vì bầy con ông cậu chưa đủ no, khi phải ghé nhà Hảo tôi rất sợ cái mùi xào nấu thơm lựng làm nước bọt ứa đầy miệng. Tôi chỉ bấm chuông hai lần bốn tiếng như đã hẹn, đứng bên cổng dặn Nga việc gì đó cần làm, xong chuồn gấp về nhà kiếm ít cơm cháy. Mộng Nga không bằng lòng, nhưng chỉ thấy tôi hơi tỏ vẻ “ly kỳ rùng rợn”, làm sao hiểu được bụng dạ của người thiếu bữa.

            Hảo thổi bọt bia, cười cười:

            - Uống bia mới, nói chuyện cũ...Mày nghĩ kỹ chưa?

            Tôi nhớ. Năm ngoái, Hảo tìm gặp tôi ngay sau khi ra vùng giải phóng Quảng Đà. Chúng tôi mừng lắm, buộc võng nằm ngoài vườn, uống bia và rủ rỉ suốt đêm. Hảo ngạc nhiên khi biết tôi là trung đội trưởng. Cậu hỏi rất thật:

            - Hay mày bị phốt(3) gì, lên chậm?

            Tôi chẳng có gì nổi bật, nhưng phốt cũng không. Hảo đắn đo lâu lắm, khi sắp ngủ mới thấp giọng:

            - Tao chân ướt chân ráo, mới vỡ lòng làm cách mạng. Hễ mày không giận thì tao góp bậy một câu... Ai quen mày cũng phục mày thông minh, nhiều tài. Mới lớp bảy mà đã dịch được tiếng Pháp tiếng Anh, biết cả chữ Hán, thêm nghề thợ gia truyền nữa. Con Nga tới tiệm hình, thấy mày cãi róc róc với tụi Mỹ, tụi Gia-nã-đại, nhờ mày dịch mấy bài nhà trường đều ăn điểm cao hết, nó tôn mày làm thầy không bằng cấp... Yên, yên, tao nói hết. Chắc sai chánh trị hả? Mày lại theo cách mạng suốt bấy nhiêu năm, từ hồi hiệu đoàn đến giờ, cực thôi là cực, sao tới nay... vậy đó... Dốt mà hư một cây như thằng Lãng ghẻ ruồi, đi võ bị Đà Lạt, tháng trước ghé qua tao thấy đóng lon thiếu tá rồi. Không, tao không cho các ông trên đánh giá mày sai. Tao tiếc mày chọn nghề không hợp, dùng tài không đúng chỗ, mày xếp hết mọi thứ giỏi để đi cầm súng, thiệt uổng.

            Tôi muốn kể thật cặn kẽ vì sao tôi cố xin nhập ngũ, được vào bộ đội thì cố xin ra trận, nhưng rồi chỉ cười dài. Quả thật cái triết lý sống là điều nói ra dễ chạm nhất, dễ có vẻ thầy đời nhất, bởi những chữ lớn như Tổ Quốc, giai cấp, căm thù, anh hùng, đọc chỉ mất vài giây mà học trọn một đời chưa hiểu hết nghĩa. Hảo và tôi đã nối nhau bước vào trường đại học của cách mạng, mỗi đứa một khoa, cầm súng hay cầm xơranh đều tốt nghiệp thành con người mới... Tôi gói gọn tất cả vào một ham thích riêng cho xuôi tai Hảo, và tôi không nói dối. Tôi mê bộ đội lâu lắm rồi, từ khi lũ trẻ chăn trâu chúng tôi ùa theo níu tay các anh mặc xi-ta xám kéo qua làng... Không, lâu nữa kia, từ khi chú bộ đội đeo ba-lô trước ngực để dành lưng cõng tôi dọc đường Gò Găng ra Bồng Sơn, luôn miệng dỗ: “Nín cháu, nín, tàu bay nó nghe nó bắn”. Cái mẫu người ấy in sâu đến nỗi khi nhớ lại những anh tốt bụng mà tôi gặp hồi nhỏ, tôi đều mường tượng thấy họ mặc quân phục...

            - Kìa Thiêm, uống đi mày! Buồn ngủ cứng mắt rồi à?

            Tôi trở về với phút đang sống. Cái phút rất thú vị: tô cao lầu đứng trụ bộ ở giữa, chai bia và ly rượu thơm yểm hộ hai sườn, và tôi đang đói ngấu. Tôi ăn, khen ngon. Hảo gọi làm tiếp, tới đợt ba, sẽ chuyển qua phở gà. Tôi chợt hết thấy ngon. Hôm tôi đi, xê mình đã cắt người tìm chỗ dọn rẫy cũ, trồng sắn. Đơn vị đông, hễ kéo lên núi là lo chạy ăn chật vật, địch rải chất độc nhiều hơn trước, anh em kiếm củ sắn ghế không? - Vớ vẩn, ai khiến mày lo đời vậy - Mót sắn ở các rẫy cũ, phát cả gai rách tay rách mặt, đào thật là sâu, lôi lên được ít củ to nhưng lại toàn xơ là xơ, sắn ăn nhả bã

            – Thì mày chung đói no với anh em đã lâu, ăn vài bữa ngon đã sao, đồ gàn!

            Một cậu Hảo trong tôi đang bực với thằng Thiêm lẩm cẩm. Thằng Thiêm không cãi chỉ nhớ thôi, nhớ cồn cào. …

            Tôi không nhớ riêng cô gái nào. Tôi biết tính mình đã yêu thì say, na ná như những ai chưa hề bị sốt rét thường bị cơn đầu tiên rất nặng, nên cố hoãn cái thứ tình cảm đáng ngại ấy đến quá tuổi ba mươi cho đỡ vướng bận. Mãi cho đến nay tất cả thương nhớ của tôi vẫn chỉ gồm hai mảng lớn. Một là gia đình họ hàng, với má tôi ở giữa. Những người bạn đường dài hợp thành mảng thứ hai, ở đó anh Ba Tơ nổi lên như tảng đá xù xì, thêm chú Dé, thêm mấy cậu nữa, còn ở trung cảnh có Hảo, Dư, Mẫn, Mộng Nga, có ba cô du kích Quảng Ngãi được xê mình gọi lóng theo màu da là Út Bông, Út Than, Út Nghệ… Sau chuyến đi dài từ Tam Quan ra đến Tam Kỳ, sao tôi bỗng nhớ xê mình buốt ruột đến thế?

            - Hảo hả? Phải Hảo không?

            Một anh mặc bà ba xám chợt xấn xổ đi vào, túi dết đầy căng nẩy trên mông. Anh thở phì phò, quạt cái nón mới đến đứt chỉ rắc rắc, hỏi dồn:

            - Có xăng không? Mượn gấp vài ba can, làm giấy đàng hoàng, mươi bữa nửa tháng mình trả...Thì xăng chạy máy chớ, đâu phải xăng đổ bật lửa

            Hảo rót bia mời anh cán bộ kinh tế, cười:

            - Nhè thầy thuốc mà hỏi xăng sao ông?

            - Thì lâm bệnh phải bái tứ phương, thần nào nghe thần nấy giáng! Mới giải phóng năm bảy cái thị trấn mà đã lắm vấn đề, tới khi làm chủ Đà Nẵng, Tam Kỳ mới búi to. Cối xây cối giã của đồng bào quanh chợ để mọt ăn hết, mình phải giữ cho máy xát gạo chạy đều chớ. Máy bơm nữa nè, đội chiếu phim sắp về nữa nè…

            - Ờ, ờ, nghề nào khó nấy. Ngang lưng thì cõng gói hàng, đầu đội phiếu xuất vai mang chứng từ...

            Tôi ghẹo một chút chơi. Anh kinh tế được dịp khoe thêm rõ nhiều rằng cái thời gói hàng trên lưng qua rồi, bây giờ phải tính bằng xe bằng thuyền kia. Anh than thở, nhưng cặp mắt cứ lóng lánh như một bà mẹ đang kêu nuôi bầy con cực ớn, đậu sởi đủ thứ mà sao tụi nó cứ lớn phổng lên chẳng biết.

            Máy bay địch vẫn cứ ồn từng hồi. Không cần xem cũng nhận ra trên đầu có ba tầng địch. Trên cao là tụi thần này ma kia đi đánh vùng xa, luồn hối hả qua các cụm mấy trắng và tảng mây đen, một bầy cá niên trốn lưới chạy ngược lòng sông đá. Máy bay tải và trực thăng chiếm từng giữa cùng với số chiếu đấu cánh quạt của ngụy. Thấp nhất là những cặp tàu rà quanh năm dòm ngó. Máy bay tăng vọt so với năm ngoái. Thế nhưng cuộc sống trong vùng ta cứ ngồn ngộn, sôi sục trào mãi về hướng Đông. Bước ngoặc lớn của cách mạng miền Nam đã hiện ra trước mắt, ngụy đang rã, Mỹ sắp vào, có thể kéo theo một lần rẽ ngoặt nữa trong đời tôi nếu như anh Ba Tơ đoán đúng, biệt phái rồi từ biệt xê mình đi luôn. Đã rẽ thì không thấy gì nữa đằng sau. Đành vậy. Con chim ra ràng ắt phải rời tổ thôi, phải tự làm quen với gió lớn và chân trời mở rộng.

            Chúng tôi dắt xe ra đường, đạp thong thả về chợ Minh Huy.

            Cái ngày rộn rực này còn dành cho tôi một lần gặp nữa. Gặp người không quen. Đang đi bộ qua mộ quãng đường viền chông, tôi chợt để ý hai cái bóng áo trắng quần đen, môt lớn một nhỏ, từ trong xóm chạy tuôn ra theo bờ ruộng. Người đến trước là một chị khoảng ba mươi, dừng lại ngó tôi trân trân, thở, rồi quay đi nấc dồn. Em gái tới sau gắt hổn hển:

            - Mẹ… cái rổ đâu? Con biết... không phải là cha mà...

            Người mẹ cãi ấp úng, rất khẽ:

            - Mày thấy mặt cha mày hồi nào đâu...

            Hảo cười. Tôi không cười được. Cháu nhỏ tinh hơn mẹ, thấy tôi trẻ quá, còn mẹ cháu vẫn nhớ mặt chồng hồi mới cưới nhau. Những người thân không bao giờ già đi trong lòng ta, họ chỉ già đi khi ta gặp lại. Cũng khó hiểu vì sao sau phút nao nao đã lặp lại nhiều lần ấy, tôi không nhớ về xê mình mấy nữa, mà sốt ruột muốn mó ngay vào việc mới đang chờ.

             Chú thích:

            (1)Xe quẹt

            (2)Tên một hoàng hậu trong chuyện cổ Arập

            (3)Lỗi

   Chương 7    

    Tưởng ai xa lạ, té ra đứng đầu H.68 là anh Điển béo lùn, trung đoàn trưởng, thầy cũ của tôi ở trường cán bộ trung đội. “Quảng Nam hay cãi” lời xưa chẳng biết đúng sai, chỉ biết anh cán bộ Quảng Nam này thích xốc xới chung quanh mình những cuộc tranh luận thật hăng máu, rồi lim dim cặp mắt ngồi nghe, từng lúc chêm câu khích đột ngột như ong châm hay vặn ngược một lẽ xem chừng rất vững.

            Mới đến cơ quan được một đêm, sáng sau tôi xa vào một chầu “đại lý sự” như vậy.

            Mỹ đổ bộ Đà Nẵng.

            Hơn chục ông bạn phái viên, cũng là dân tứ xứ mới về như tôi, lập tức đổ bộ vào chỗ làm việc của thủ trưởng, một cái miếu ở góc xóm. Nghe đọc xong hai bức điện của quân khu, một loạt tin từ các đài và các hãng thông tấn, chúng tôi mới phát nhé, phát vô số cái biểu ngược nhau. Anh Điển vẫn cười đóng vai ông thợ đốt lò.

            Tôi xúc động ít thôi. Bên cạnh số quân ngụy còn hơn nửa triệu, tôi cho vài chục ngàn tên Mỹ kéo vào chỉ đủ dấm ớt, chẳng khác đám lính mang cờ hiệu chạy quanh sân khấu khi vở tuồng sắp dứt, có máy bay tàu chiến đánh thêm mấy hồi chiêng trống trước phút hạ màn. Rất có thể chúng sẽ chiếm vài mảnh đất ven biển lấy chỗ cho tụi ngụy chạy xuống tàu. Có thể sau khi mất hết miền Nam chúng vẫn níu lấy dăm bảy cái căn cứ ỳ thần xác mà cò kè với ta. Đánh Mỹ chỉ mệt khoản bom đạn, chứ tụi bị thịt ấy ra cái thớ gì...

            Nhiều ý kiến bác tôi. Mỹ sẽ trút sang nửa triệu quân, một triệu, nhiều nữa. Chiến tranh lan ra hai miền, sẽ tràn khắp Đông Nam Á, thế chiến thứ ba sắp nổ... Đủ các quẻ bói động trời!

            Anh Điển nhét cái ống nghe máy thu thanh vào một tai, vừa lượm tin mới vừa theo dõi chúng tôi, tay lại sửa cái đèn ve rượu bạc hà, làm ba việc một lần. Khi bị anh em buộc phải “tỏ thái độ”, anh mới đủng đỉnh xé làm tư tờ giấy đánh máy, quấn điếu thuốc rê to bằng đuốc, thở đủ ba khói mới chịu mở miệng:

            - Mình mù tịt. Thiệt chớ.

            Chúng tôi bật cười.

            - Nãy giờ các cha xúm vô bẻ gãy cái chiến lược toàn cầu của Mỹ, nghe thiệt sướng lỗ tai, chỉ có đôi chỗ mình chưa hiểu. Cậu Dõng nè, cậu nắm kế hoạch Nhà Trắng cách sao mà biết nó đưa vô một triệu? Tay Trà cho nó xài mười vạn là hết mức, chắc không? Mình chỉ biết cắn cưa một điều là Mỹ không chịu nhả miền Nam, bấy nhiêu thôi.

            Cái anh vậy đó, giả bộ ngờ nghệch mà sâu gớm!

            - Mình lo lắm. Sắp đánh thằng Mỹ bằng xương bằng thịt rồi mà mình chưa hiểu gì về nó cả. Người nói nó ba đầu sáu tay, người tả nó như cục thịt thừa, nghe loạn ù. Cha nào biết bày giùm cho chút. Tư Thiêm, lính Mỹ nó công tử bột ra sao hả cậu? Biên chế, huấn luyện, trang bị, điều lệnh, tư tưởng, tác phong... Kể mình nghe với đi!

            Chúng tôi mới đọc vài tài liệu chung chung, nghe lỏm một số nhận xét rất chiến lược về quân Mỹ mà đã tán phét tràn cung mây. Bị vặn tréo bản họng, chỉ việc ngó nhau cười trừ.

            - Bây giờ ta ừ với nhau vế thứ nhất: Mỹ vô bao nhiêu cũng đánh, đánh phải thắng, thắng cho ta và cho cả thế giới nữa. Còn cái vế sau thì treo đó đã: quân Mỹ ra sao, đánh Mỹ cách nào cho ngon? Cả nước cùng tìm câu trả lời, có điều tụi mình lãnh việc nghiên cứu thì phải chia nhau đi tìm trước. Ưng chưa nè?

            Còn phải nói!

            Sau hai ngày bàn cách làm việc, tôi rời H.68, không đi Đà Nẵng mà ngược chiều về phía Nam. Số phái viên ra Đà Nẵng đã khá đông, vùng An Tân còn thiếu người theo dõi. Quân ngụy đang xây sân bay và bến cảng trên bãi cát dài nối liền hai tỉnh Nam Ngãi, lót ổ sẵn cho Mỹ vào đóng chốt. Tôi mang theo sáu trang đánh máy đầy những câu hỏi hóc búa, mới đọc đã tháo mồ hôi hột. Đã vậy, các cậu khác còn trầm trồ:

            - Mày sướng đã đời, biết tiếng Mỹ, hốt được tài liệu hay bắt tù binh là ăn xổi được liền. Tụi tao vốn liếng chỉ có một tiếng ô-kê, chưa biết cạy gỡ sao đây!

    *

   Đã thành lệ, trong giờ đầu của chuyến đi các chú giao liên rất nghiệt ngã đối với khách lạ. Càng nhỏ càng làm nghiêm, cái nghiêm phải đủ để bù vào chỗ thiếu cân thiếu thước, tạo được sự bình đẳng giữa mười lăm và ba mươi tuổi. Dần dà các chú sẽ cho phép mình dễ tính hơn một chút nếu khách không ỷ lớn cãi liều, không mắc cái bệnh đáng ghét nhất là bệnh chủ quan, không quá ngờ nghệch khi gặp tàu bay đại bác hay giặc nằm kích. Các chú xuống thang từng bước, đề bạt khách lên từng nấc, tới cuối quãng đường mới biến thành chú cháu hay anh em.

            Chú em tự xưng là Hùng Cường này cũng y vậy. Tôi nhìn hai cặp chân tay lòng khòng chưa có bắp thịt, đôi lông mày rất rậm, nhận ngay ra Ba Tâm em cô Mẫn, cứ im xem chú ăn ở ra sao. Tâm không nhớ tôi, dạo lụt chú chỉ thoáng gặp tôi vài lần, bộ đội lại đông và hao hao giống nhau.

            Chúng tôi đi trong vùng giải phóng đang sùng sục hừng hực với cái tin Mỹ đổ bộ, như lửa đốt rẫy gặp mưa bóng mây. Bà con cứ níu tôi hỏi về lữ đoàn thủy quân lục chiến vừa vào Đà Nẵng. Tâm không bằng lòng, nhưng thấy tôi đối đáp trôi chảy lại có vẻ nể hơn. Chú bắt đầu cho biết rằng cánh Bắc Tam Kỳ “mở ra” mạnh hơn cánh Nam, rằng chị bánh bèo nhân tôm ở chợ Cây Cốc tăng giá đến ba đồng một chén là phạm chính sách nặng, rằng thôn Một Sa tức làng Cá sống sót đến nay là nhờ bộ đội cứu hết. Đến đây tôi phải cãi: bộ đội chỉ cứu hơn tám chục người, chính Ba Tâm cũng chèo bè chuối đi vớt bà con đấy thôi.

            Tâm há miệng một lát rồi reo:

            - Chết, hèn gì..anh Thiêm mà em ngợ miết. Sao hồi nãy anh không nói?

            Tâm trách mãi chỗ này, làm như nếu biết tôi từ đầu chú đã cho tàu bay giấy chở tôi vèo đến nơi ngay.

            Tôi nghe Tâm kể lu bù chuyện mới chuyện cũ về quê mình, đoán chừng phải trừ hao tới năm chục phần trăm bốc đồng thì còn đúng sự thật. Phong trào Tam Sa lên mạnh lắm, khí thế lắm, có điều “bị kẹt cái khâu cán bộ”. Kẹt ra sao chẳng biết, Tâm chỉ nghe lỏm bác Bảy nói vậy; thím Chín bàn rút chị Hai Mẫn về làm thường vụ phụ nữ huyện mà bác không chịu, nhắm trước sau chị cũng phải gánh cái bí thư Tam Sa. Tôi giật mình khi Tâm ném cho Út Hoà một lời phê chí tử: “nó học khá mà đạo đức tồi”, sau mới vỡ lẽ là cô em quá mau nước mắt và sợ máu. “Cứu thương gì nó. Ra trận chắc các anh bị thương phải dỗ nó nín, cõng nó về!”. Riêng Ba Tâm cũng có một tâm sự rất sâu kín mà ai cũng rõ: chú ngán làm giao liên, muốn đi bộ đội chủ lực, không cũng về làm du kích làng Cá. Nhưng chú lại đang được chi đoàn cơ quan thử thách, chú sợ năn nỉ xin đổi việc thì sẽ khó vào Đoàn. Éo le cái chỗ đó. Chú thở dài não nuột: “Chị Hai giấu mà em biết, chỉ sợ em chết thì họ Phan mất nòi, phong kiến thấy bà! Nghe Mỹ sắp vô An Tân, em ngứa đánh quá. Tam Sa ở sát bên hông Mỹ, ưu tiên đánh Mỹ sướng nhứt, còn bắn tụi ngụy thì ra cái gì...”. Chú nhổ nước bọt toách một bãi vào nửa triệu quân ngụy đầy mình súng đạn.

            Tôi càng đi càng náo nức

            Như con tàu xuyên vũ trụ, tôi đã rời khỏi sức hút của Bình Định và xê mình, đang lao mỗi lúc một nhanh về Tam Sa, về mảnh đất mang cái tên làng Cá lạ tai- cá mà lại chết đuối! Tôi không nhớ làng Cá như nhớ những xóm đã nuôi tôi suốt một mùa cày cấy hay luyện quân, ở đó tôi thuộc đến tên các cháu trong nôi và nhắm mắt đi cũng trúng ngõ. Làng Cá ở lại trong tôi chỉ bằng mấy nét chấm phá, nhưng mấy nét ấy được khắc bằng con dao lửa của cơn đau dữ dội. Trên khúc đường rẽ vào làng, tôi bước hẳn trên kỷ niệm, như đôi chân xốc lên những lỗ cát trắng nằm dưới lớp cát ướt sẫm màu sau cơn mưa nhỏ. Tôi đi thẳng vào đình làng, muốn ôm hôn chung một lần bấy nhiêu người thân gặp lại, đợi qua cái phút lồng ngực đầy ứ khó thở.

            Ngôi đình có người mà như bỏ hoang. Không một tiếng động.

            Người ngồi bàn giữa, ngay dưới cờ Mặt Trận và tấm băng lớn, là anh Tám Liệp chủ tịch xã. Vẫn khuôn mặt dài dưới tóc hoa râm, dáng người cao lớn rất “có thớ”. Anh đeo kính trắng, đang viết. Quanh bàn bên phải có ba người cặm cụi tính sổ. Một người ngửng lên, nhận ra tôi gật đầu cười cười, cúi xuống. Đó là anh ba Thấn với cái trán dô và ngắn, bộ tóc úp nồi đất. Dọc cái bàn dài bên trái có anh Quì và một ai đó nữa, đều bận đọc và ghi.

            Tôi lúng túng lùi lại, ngó quanh không thấy cái ghế nào, ngồi luôn xuống bậc cửa ra vào, rút khăn lau mặt. Ba Tâm đến chỗ anh Quì, giao mấy cuộn báo, xấp bì thư, đưa riêng hai tờ giấy đánh máy của H.68 và huyện đội giới thiệu tôi là phái viên. Anh này vào sổ từng bì một, xếp riêng ba công văn có lẽ là khẩn và mật, đặt giấy của tôi lên trên đem đến bàn ông chủ tịch. Qui củ đấy. Anh Liệp nghe rỉ tai, liếc ngược lên nhìn tôi bên trên cặp kiếng lão, gõ gõ cây bút máy, lại viết. Bộ máy chính quyền ở nơi gần địch này vẫn làm viêc nghiêm chỉnh, rất hay. Tôi luôn luôn trọng những người đang bận việc, say việc. Tôi xoay đầu ngắm chung quanh đợi gọi.

            Cái lỗ thủ pháo đánh toác nền còn kia, trũng hình lòng chảo. Mái đình vẫn lỗ chỗ những dấu pháo chụp. À, đúng rồi cái mảng trống có cây mè bắt nắng kia nơi bà mẹ Mẫn dỡ ngói, buộc cái thúng dựng cháu Hoàn. Chao, tôi muốn bồng thằng nhỏ quá, coi nó lên cân nhiều không. Mẫn khoe nó bụ và khôn lắm. Tôi muốn rảo một vòng quanh xóm quá.

            Nửa giờ, một giờ, một giờ rưỡi. Ông chủ tịch chỉ ngẩng lên để rút một điếu Bát-tô trong túi tài liệu châm lửa, lật một xấp giấy dầy, bắt đầu đọc. Có cái gì không thường trong lối đón tiếp lạnh ngắt này. Tôi ngờ ngợ khá lâu, chợt nhớ ra lá thư ngắn mà tôi gởi anh Bảy quai nón trước khi rời Tam Kỳ. Bận quá, tôi chỉ viết sơ sài rằng ở Tam Sa có vài đồng chí ít bám dân, hình như nội bộ lủng củng sao đó. Bấy nhiêu thôi mà bị đối phó ư? Đừng nóng, đừng nghi bậy, hãy cố giữ niềm thương hồ hởi đã cuốn tôi đi gấp về đây...

            Ông chủ tịch cầm giấy của tôi lên, sửa kính, xem nhanh. Ông vẫy anh Quì lại nói nhỏ, rồi nói to với tôi:

            - Đồng chí Thiêm à...mời đồng chí về nghỉ tạm nhà bác Mười, lát nữa chúng tôi tới trao đổi.

            Tôi xốc ba lô theo anh Quì, chưa hết ngạc nhiên. Ngôi đình chết lặng này, cây đa mất màu tươi non, những bộ mặt bị quấy rầy, hình như tất cả đều phủ một màu sương khói, được dựng lại bằng sương khói, không thật.

            Anh Quì đi thẳng đến cuối xóm, hất hàm về phía một cái cổng, dặn chúng tôi vào nhà ông thầy Mười mà đợi, bỏ đi luôn. Ông Mười tóc trắng như cước và râu đen lánh, đang nhậu một mình trên phản giữa. Ông túm vai tôi lè nhè:

            - À, anh giải phóng. Ngồi, ngồi đây, làm một chén cho tửu năng hành huyết. Ngó mặt thấy quen quen, mà thôi, trước lạ sau quen... Ông về lo chuyện đánh Mỹ chớ? Mỹ tới xứ mình nói ô-kê, ô-kê, vị chi nó đòi cống nạp cái thứ gà đen cho nó ăn. Thuốc gì cũng không qua được ô-kê nhứt chích đem hầm nhừ. Ô tu hắc phát, xỉ lạc tái sanh. Mỹ nó biết vậy mới nhào vô... Thiếu gà đen mà đem anh lươn nấu cháo cũng là buộc lòng, vô ô-kê mới dụng thiện ngư...

            Tôi nhờ Ba Tâm đi tìm anh Tư Luân và cô Mẫn. Văn phòng huyện nói anh Bảy quai nón cũng đang kiểm tra các xã chung quanh đây, tôi nên gặp. Gượng ngồi góc phản một lát, tôi đi tuột ra sân, để ông già say nói chuyện với cái ba-lô. Tới đầu ngõ tôi đứng thừ một lát lại quay vào: ông chủ tịch có thể đến khi tôi đi vắng. Ông Mười đang cố giảng cho cái ba-lô hiểu rằng Mỹ chiếm Cao Ly bởi thứ sâm Cao Ly hạp với tì vị của nó. Chán ngấy. Tôi xách luôn ba-lô và bao gạo xuống bếp, soạn các thứ ra nấu cơm ăn, cơm nắm.

            Ba Tâm về, buồn thiu:

            - Em không gặp ai hết. Chú Tư đưa bác Bảy xuống vùng cát hôm qua, chị Hai dời kho bí mật, anh Ri thôn đội mắc gài mìn...

            Tôi vần cái ăng-gô cơm, kéo Tâm đi thốc ra đình. Người biến hết, chỉ còn tay Quì đang gỡ băng cờ. Cậu ta quay mông ra tôi, ngậm kim băng trong miệng, hỏi mãi chỉ buông vài tiếng lùng bùng. Tôi nổi khùng:

            - Đồng chí lại đây!

            - Làm gì mà…

            - Lại đây!

            Tôi rút hai tờ giấy giới thiệu đập xuống bàn, gằn giọng:

            - Tôi cần kiểm tra công tác quân sự của ủy ban Tam Sa, ngay lập tức. Đồng chí nào sẽ báo cáo?

            - Đâu còn có đó, bác Tám dặn anh đợi...

            - Tôi không biết chú bác nào hết. Ai báo cáo?

            - Dạ, để em sửa soạn cơm tối, chỗ nghỉ...

            Tôi suýt cười phì khi thấy cậu ta đổi giọng rất nhanh, hai tay xoắn vào nhau như sắp vái. Lạ thật cán bộ Tam Sa... Cậu nằn nèo mấy câu nữa về chuyện ăn ngủ, làm như tôi chỉ hạch để đòi chất tươi, rồi thú thật là bác Tám đã “tạm lánh” lên Tam Trân, ở đây địch hay đánh úp lúc mờ sáng, lại có tin mai địch càn lớn. Tôi hết cáu, nhưng biết phải sẵng giọng mới ăn thua:

            - Địch càn thì ủy ban chạy mất xứ, đúng vậy không?

            - Dạ còn xã đội lo đánh chớ. Để em đi tìm...

            Quì ôm cuộn băng cờ, tất tưởi ra cổng đình. Tâm lắc đầu:

            - Ba trợn ba tráo chứ tìm cái gì. Tuốt một hơi lên quán bà Liệp ăn mì uống bia, rồi rút thiệt sâu vô xóm vắng mới dám ngủ. Đeo con thỏ to tướng trên lưng..

            Chúng tôi ăn cơm xong vẫn không thấy ai đến hỏi, đành tự đi lùng xã đội.

            Trời tối hẳn. Ngoài đồng ruộng luôn luôn có một thứ ánh sáng nào đó, không trăng thì sao, còn trong xóm tán cây che rậm trên đầu làm cho đất đen kịt, nơi có nhà thì mắt tôi bị loá đèn, qua khỏi mỗi khung cửa lại sa vào bóng đêm dày đặc hơn. Tôi thoáng so sánh thời mò mẫm băng đồng đi móc cơ sở, đêm xưa nổi dậy cả làng bừng lửa với cái cảnh tranh tối tranh sáng lúc này, khi một số xấu đã len vào hàng ngũ như giun sán vào ruột người, chễm chệ ngồi giữa đình làng mà làm oai làm phước. Ngây thơ, không được đâu Thiêm ơi! Hãy tự hào vì cái làng Cá đẫm bùn và máu năm ngoái đã lớn vọt lên thành làng chiến đấu loại khá, hãy chia nỗi mừng ngây ngất của bà con làng Cá được sống tự do sau cơn nước dâng pháo chụp, nhưng phải nhớ kỹ rằng tuổi lên mười, tuổi hai mươi, tuổi bốn mươi đều có những mối lo riêng bên cạnh những nguồn vui lớn.

            Từng lúc, Ba Tâm để tôi đứng đợi, chạy vào một cửa sáng đèn hỏi tin chị hai và các anh chị, cô chú. Bà con không biết. Tôi vội tìm cán bộ nên tránh lộ mặt, sợ bà con giữ lại thăm hỏi lâu. Tôi biết cái nguy hiểm đang chờ, nếu thiếu người dẫn đường và hầm bí mật trong trận càn sáng mai. Pháo đêm nay im hẳn. Bọn lính ngủ sớm để dậy lúc ba giờ, giội vào làng trận pháo mở đầu...

            - Hay ta lên Tam Trân, anh Thiêm?

            - Không!

            Tôi sẽ sục hết đêm qua bốn thôn giải phóng trên mé đường Một. Dù chỉ sót vài cậu du kích nhấp nhổm, tôi cũng nắm lấy, kéo họ đi chống càn, hạ được vài khiêng địch rồi rút đi đâu mới rút. Mảnh đất này đắt giá lắm, để giặc đạp chân lên dễ dàng là có tội với những người hiến máu giành lấy nó.

            Đến cuối làng. Ba Tâm rẽ sang con đường ruộng qua thôn bên. Luồng đèn pha từ đường nhựa quét lên, chợt dừng lại rung rung trên đầu chúng tôi như một ống thủy tinh chứa bụi sáng. Hai bóng người đang đi tới. Tâm kéo tôi lùi lại, rút lựu đạn đợi. Rồi chợt reo nhỏ:

            - Chú Tư ơi chú Tư!

            - Ai như thằng Tâm...

            - Tìm chú muốn chảy máu mắt! Có cán bộ trên về. Anh Thiêm, bộ đội.

            Tư Luân bước sấn tới:

            - Thiêm nào? Thiêm ở đại đội Ba Tơ hả?

            Tôi nói luôn: “Đúng”. Anh ôm choàng hai vai tôi kêu khàn khàn:

            - Hú ba hồn chín vía, tưởng lão bỏ luôn xứ này rồi! Khi nãy Hai Mẫn mắc dời kho, cho liên lạc xuống kêu mình, con nhỏ nói cà trật cà vuột, chẳng biết ai tên là Xiêm mà lại quen lắm, tốt lắm... Được lão về giúp thì ưu tiên hết sức rồi!

            Từ con người anh bí thư chi bộ Tam Sa toát ra mùi mồ hôi nồng rất xốc vác và cái vui ồn ào, cả hai cùng một lần chụp lấy tôi. Tôi đang ngỡ ngàng, bị anh kéo tuột vào một căn nhà gần nhất, vặn to ngọn đèn chong trên bàn, gọi ầm:

            - Cứ nhè thằng này bắt đền hoài: các ảnh đâu rồi, sao không thơ từ gì hết. Dẫn được một anh về làm thuốc đây nè. Nhận ra chưa, chị Biền? Tên gì nói nghe thử?

            Mươi phút sau, nhà chị Biền đầy chật bà con trong xóm kéo tới, đứng đầy cả ngoài sân, thay nhau nắm tay vỗ vai tôi, cười to, lau mắt sụt sịt, hỏi một trăm câu tới tấp. Tôi say nhanh. Tôi lại hít thở cái không khí không lẫn được của những đêm vào địch hậu, có chất men nồng của trận thắng ban chiều và mùi na-pan trong tro nhà cháy, có cái hương nhớ đời của tình dân mừng tủi và bựa đồ hộp Mỹ bốc hôi. Đây mới thật là làng Cá của tôi, của Ba Tâm, của anh Luân, chị Biền.. Anh bí thư nheo mắt ngắm tôi, cười hề hề, chen từng câu trêu các bà mau nước mắt hay các ông mau quên. Rồi anh dang hai tay:

            - Thôi bế mạc, giải tán, bà con về sửa hầm đặng mai chống càn. Anh Thiêm còn ở lại đây lâu, ai muốn mời chuối mít vịt gà cứ tự do!

            Tôi hứa đâu ba chục lần sẽ đến chơi nhà bác, thím, anh, cháu, em, chị, cứ ngó mặt mà hú hoạ trong khi bà con lối xóm dặn dò trước khi về.

            Chúng tôi quay lại đình làng.

            Ngôi đình một lần nữa đổi dạng. Một ngọn đèn leo lét trong góc, che cái quạt mo tránh hắt ánh sáng ra ngoài. Năm sáu người ngồi quanh bàn đang nói khẽ với nhau. Tôi nhận ngay ra Mẫn. Lại một cô Mẫn khác nữa, còn những nét tươi khỏe của Mẫn em gặp dọc đường, nhưng cái vẻ dè dữ kia là của Mẫn chị. Mẫn chào tôi, mời ngồi, rẽ rọt nói rằng hồi chiều bận dời kho vũ khí nên chỉ có đồng chí Liệp tiếp tôi, sau đó nhường lời cho anh Luân với dáng bà chủ nhà lịch thiệp. Về mặt đối xử thì Mẫn là anh Luân với anh Liệp cộng lại chia đôi. Nhưng thôi cho qua, tôi nóng bắt tay vào việc lắm rồi.

            Chi ủy Tam Sa họp mở rộng. Mẫn nghe tiếp các tổ báo cáo về sửa soạn chống càn, anh Luân ngoáy vội một thư hoả tốc để Ba Tâm mang lên huyện đêm nay - chú nhỏ xịu mặt, chắc nghĩ rằng chị Hai “âm mưu” đẩy thằng em ra khỏi trận càn- còn tôi đọc mấy dòng của anh Bảy quai nón gửi. Anh ở hầm và lội vùng cát mấy đêm liền. Út Liềm xuống ấp chiến lược nói qua lỗ thông hơi tiếng được tiếng mất, nên anh Bảy chỉ viết chung chung là đồng chí phái viên nên bám chắc đội du kích Tam Sa, xây dựng bàn đạp ở thôn Một Sa cho tiện theo dõi căn cứ mới.

            Ba Tâm ra đi một mình sau khi được chị giúi cho ít tiền và chú Luân đền công cái đèn pin mới nguyên. Anh Luân bóc gói thuốc Quân tiếp vụ, mời mỗi người một điếu còn lại nhét bừa vào túi tôi, nói chậm rãi:

            - Lão đi tìm tụi mình chắc muốn chửi mấy cha cán bộ ở đây bỏ dân trốn giặc phải không? Cũng có đứa nhát đứa dạn lão à. Còn hai thôn chưa khởi được là bọn mình còn ngậm đầy miệng ớt, lo chạy mặt trước miết, để sau lưng lộn xộn không hay. Dân thiệt tốt mà cán bộ sanh chuyện hoài. Trị được Ba Thấn rồi, cũng đỡ đôi chút...

            - Ủa hồi chiều ảnh làm việc ngay chỗ bàn này!

            - Có hai cậu kèm hai bên phải chưa? Nó ăn cắp quỹ công mấy trăm ngàn, bây giờ đang tính sổ trả bớt lại, thành khẩn thì khỏi tù... Nghề đời nó vậy, đói cơm lạt mắm thì khem, no cơm mặn mắm thì thèm nọ kia. Hồi đánh giặc mửa mật thì biến đâu mất, bây giờ mới làm chủ vài miếng đất lại thấy nhảy vô kiếm chác. Hai Mẫn chưa kể với lão à?

            Tôi thấy Mẫn đưa mắt cho anh Luân rất nhanh, nói hơi xẵng:

            - Đang họp mà chú Tư!

            - Liếc nháy gì! Làm bà chi ủy, nắm cả xã đoàn xã đội, mà cứ thút thít với bí thơ... Đừng hấm hứ nữa. Đồng chí Thiêm cũng là chi ủy viên chớ đâu phải trẻ nít, bây giờ về sanh hoạt với tụi mình, giấy tờ đủ hết..

            - Thì.. để khoan đã. Đang lo chống càn, chú cứ ba đồng bảy đỗi tới sáng!

            Mẫn nhìn cắm xuống bàn, tay xoắn mãi sợi quai các-bin, rõ ra không phải vì muộn giờ mà ngắt anh Luân. Chung quanh cười khà, ghẹo đôi câu bóng gió nữa trước khi họp tiếp. Chắc cái bí mật mà Mẫn giấu cũng chẳng ghê gớm lắm.

 Trong càn, Mẫn sẽ nắm du kích xã đánh vùng Tứ Nhơn, anh Luân nằm hầm trong hai ấp chiến lược Nhị Lộc, nắm quân chìm. Mẫn hỏi vặn các tổ trưởng rất kỹ, có vẻ xét nét, còn anh Luân xoa cái cằm nhổ trụi râu, gật gù cái đầu hớt trọc, dễ bằng lòng. Cả cách chia việc và làm việc đều hơi lạ. Ở các nơi khác cán bộ trai thường lãnh việc bên ngoài và hay bắt bẻ hơn các cô đôi mươi, đây ngược lại.

            Tôi ngồi nghe khoan khoái của người đi xe chật đã lọt được tới ghế sau nhiều giờ lắc xóc, kèm theo một băn khoăn kéo dài: hàng cán bộ Tam Sa đang rối, tôi có thể bị cuốn theo những va chạm nhức đầu, khó làm việc chính. Ai đã đi điều tra căn cứ đều biết một bàn đạp lung lay gây lắm cái phiền. Bước ra khỏi xóm, bị phục kích. Mờ sáng về ngả lưng, bị tập kích. Đang viết báo cáo, bị lôi đi họp kiểm điểm một tay tham ô. Xin một người dẫn đường, cán bộ ngửa hai bàn tay trắng. Phê bình xã, xã lặng im nhưng gửi giấy kể tội về đơn vị. Vân vân, còn khối… Nhưng tôi không thể lựa chọn. Trong khu vực An Tân, tôi quen chỉ đúng có một xã, đúng hơn chỉ một làng Cá thôi, và cái quen biết ở nơi hằng ngày súng nổ này sẽ giúp tôi nhiều hơn mọi thứ giấy giới thiệu. Tôi ngắm những khuôn mặt gân guốc chung quanh, dừng lại lâu hơn trên gò má đen sắt mà hồ hởi của anh bí thư, trên cặp mắt trẻ và nghiêm của cô xã đội, dần dần thấy vững bụng hơn. Lớp cột này coi bộ chắc lắm đủ sức chống bão.

  Chương 8    

   Một giọng trai nói sau lưng tôi, rất khẽ mà vẫn nghe hổn hển:

            - Nằm yên, im, nó ngó mình trực chỉ...

            Nhóm du kích nép trong mấy bụi chà là mọc trên sườn đồi, co mình giấu bớt chân tay. Những mũi lá nhọn chích vào cổ tôi rất ngứa ngáy, chịu vậy. Chiếc L.19 rà sát ruộng, bánh xe nó cách lúa chừng mươi thước, đang vòng qua trước mặt tôi, dưới thấp và rất gần, ước chừng lựu đạn ném có thể lọt buồng lái. Thằng ngồi sau ngước mắt nhìn chằm chằm vào chỗ chúng tôi núp, nó chừa râu mép kiểu đang thịnh hành trong quân ngụy. Tưởng như nó sắp hất hàm hỏi tôi: “Sao, hai trăm, chịu thì lên!”, hệt một tay lái xe chở khách lậu. Không bắn nó được. Chúng tôi thất thế phải núp kín, thằng tàu rà kia càng nhởn nhơ, coi cái bộ tiểu nhân đắc chí của nó mà lộn ruột.

            Nó rè rè bay lên, khuất sau đồi. Tôi quay sang Mẫn, vừa lúc Mẫn nói vội: “Đây như hòn đảo, phải vượt ruộng qua bên gò anh à. Đi men bờ bụi...”. Anh em bẻ lá cắm thêm quanh người. Nguy rồi. Chiếc L.19 tắt máy từ trên cao đang đâm chếch xuống, thẳng vào mặt chúng tôi, không một tiếng động. Lửa chớp dưới cánh. Một nắm tay to và mềm từ ruột đất đấm ngược lên giữa ngực tôi. Tất cả tối sầm đi một loáng, lại sáng.

            Tôi thấy mình nằm nghiêng thấy hai hòn đen từ máy bay rớt xuống trong khi cánh quạt của nó lại quay thành đĩa trắng. Hai trái lựu đạn phì khói mé dưới, nó ném hơi sớm. Mẫn há miệng to mà kêu tiếng nhỏ tí:

            - Chạy qua bên kia! Ào đi!

            Tôi nhào theo một lưng áo ướt đen mồ hôi, xuống dốc. Mặt dốc phủ những hòn sỏi rời làm chân trượt rào rạo, liên tiếp mấy người lăn tròn, đầu và chân xoáy lộn xộn. Tôi chỉ ngã ngồi một lần. Chiếc tàu rà quay lại. Chúng tôi đã thụp hết vào những bụi lau và mua ven ruộng. Nó xổ rốc-két và ném lựu đạn lần nữa vào mấy bụi chà là hồi nãy, còn may rốc-két của nó là loại xuyên công sự nổ sâu, ít mảnh, nhờ vậy tôi thoát được trái đầu. Bị đồi cản, vòng quần của nó cũng rộng, chúng tôi kịp chạy. Nó vừa xoay đuôi, chúng tôi chạy “xăng mét” qua rẻo ruộng giữa hai chân đồi. Nhanh, gấp nữa, lỡ quân bộ tới kịp, quét súng máy... bờ ruộng, mương trổ, vũng lầy hiện và biến loang loáng dưới chân. Gần tới rồi. Nước ruộng chợt toé thành những vòi phun nhỏ bên phải tôi. Tiếng kêu lao xao dội từ mé trái. Bỏ mẹ, phóng ào tới quân nó chưa kịp dàn ra đâu. Luồng đạn đã xối dày và rộng hơn. Chíu chíu, chốc chốc, chủm chủm, nó quấn vào chân như dây rừng. Một cái gì rơi tõm. Tôi cúi chụp lấy, nghĩ nhanh đến một cây súng, kéo lê sợi dây to bản mà chạy thục mạng. Bụi cây đằng trước còn rung. Tôi thốc vào đấy, rúc vào mươi bước theo tiếng sột soạt đằng trước, húc vào một cái lưng rộng. Năm Tuất quay phắt lại, tay phải đỡ tay trái, há miệng định nói nhưng chỉ thở hồng hộc. Cậu Ri nhô ra ngó tôi, ngó xuống tay tôi, lắp bắp:

            - Có... đủ hết... Chị Hai ơi...

            - Anh Thiêm đâu?

            - Tới rồi. Lượm súng rồi...

            Luồng đạn thẳng bây giờ tuôn ào ào vào các chòm cây sau lưng tôi. Cây rung giật, cành văng tung toé, là bay thành luồng bão lá xói riêng một góc đồi. Chúng tôi đã lọt vào chỗ khuất. Tôi cúi nhìn vào cái vật đang kéo theo: Đúng là cây báng đỏ của Năm Tuất. Tôi định gắt anh ta rớt súng không lượm, mệt quá không gắt được, sau nhận ra tay anh đang túa máu, thôi luôn, cầm hộ anh vậy. Chúng tôi lại khom lưng chạy lúp xúp sau khi chiếc tàu rà thổi trái rốc-két thứ ba, lần này nó lảng xa luôn bàn giao chúng tôi cho cối gần pháo xa. Vài phút sau, tôi nhận ra một chuỗi pình pình đầu nòng của cối 81 chen trong tiếng súng máy. Vẫn chạy, tôi đếm thầm số giây chỉ theo thói quen chứ chẳng để làm gì. Lũ bắp chuối treo trên không khá lâu, bắt đầu rít. Tất cả cùng dừng lại dỏng tai, một người nhào sấp khi chưa cần. Tiếng rít nối dài. Vắng tiếng rắc rắc, tôi hô chạy tiếp. Loạt sét đánh xuống chung quanh vạt cây bị đạn thẳng chém nát. Khi chùm đạn cối khác chúi xuống, chúng tôi đã thoát khá xa. Nhoài người rồi.

            Tôi vượt lên sát Mẫn, phì phò:

            - Nghỉ chút... m- mệt...

            Mẫn lắc đầu khoát tay ra hiệu gì đó, có trời hiểu.

            Luồn từ gò sim qua vạt mua, từ vạt mua tới bãi bù-xít(1), tiếp tới những mảng tranh rậm quét đuôi vào tay ngứa rát, Mẫn không nói được nữa, vẫn không dừng. Tính chạy tới núi du di(2) hay sao. Nhưng tôi cũng ba hơi nhập một, không cãi được.

            Vượt xong một quãng gai bớm rậm, Mẫn vừa nhô đầu ra chỗ nắng bỗng lùi lại, khoát tay – lại khoát! – chỉ vào vườn xoài bên phải. Tôi rướn cổ dòm, thấy một tấm gì trơn bóng lẫn trong màu lá, thấy một cái gáy người đỏ như tôm luộc, cuối cùng nhận ra hai chiếc M.113 tắt máy đứng rình sau các bụi cây, như cặp voi dữ vừa bắt mùi lạ, đang nín hơi căng tai. Không thấy tụi lính trong thùng xe. Riêng thằng Mỹ bắn trọng liên ngồi cao hơn để lộ gáy, nó đang ngó chừng hướng khác. Tôi thèm bắn nó đến run tay. Nhưng cả nhóm du kích đều muốn đứt hơi cả, đạn sắp hết, bắn xong mắc giữa gai rậm, xe đuổi theo chỉ cần nghiến xích đủ chết, khỏi quét đạn. Chúng tôi rẽ sang trái, bò thật êm dưới những sợi gai mây đan lưới.

            Lánh được chừng năm chục thước nữa, lại nghẽn.

            Trên dốc trước mặt chúng tôi phủ đầy rau tàu bay thả những chấm hoa trắng xốp lượn rập rờn dưới nắng như bầy ong lười. Tám chục thước trống, rồi đến những bụi ngũ sắc, sàm, dứa dại trải rộng đến sông Rù Rì, nơi có nước uống thoả thuê và nhiều chỗ núp tốt. Gay nhất là chúng tôi không biết gì về địch. Mới thấy của nó hai xe, còn đâu nữa? Đâm sầm qua khoảnh tàu bay này để húc vào họng đại liên của chúng đơm sẵn ư? Hay chúng sẽ xả đạn từ một góc kín nào đó vào hông vào lưng anh em?

            Mẫn ngồi bệt xuống thở. Cô Chín Cang béo múp chen tới, thì thào: “Em khát muốn chết...”. Mặt Cang trắng như hòn bột bây giờ thành trái cà chua chín. Chúng tôi đều cháy cổ, dù hồi sáng đã uống no nước ruộng. Tôi nhìn Mẫn tái xanh, biết Mẫn sắp lả như dạo cứu lụt. Tôi hít mấy hơi để cản bộ ba mũi, miệng và tai đang tranh nhau thở, đi bẻ lá gài vào cái vòng ngụy trang mà một mình tôi có. Tôi dặn Mẫn cho anh em sẵn sàng bắn che. Mẫn vừa gương cặp mày rậm, máy môi, tôi đã bắt đầu bò qua bãi rau tàu bay. Nóng đít, nóng tay, hoa tàu bay lẫn với hoa nắng nhảy nhót trước mắt, nhưng tôi vẫn nhìn quanh rất kỹ. Gần tới dãy bụi ngũ sắc đầu tiên, tôi rút cả hai băng đạn súng ngắn dự trữ ra cầm tay trái, trườn rất chậm, chĩa họng P.38 ra trước. Địch muốn xơi tôi cũng phải trả giá năm bảy đứa. Tôi luồn sâu vào bóng lá, sục kỹ một lát, quay ra vẫy nhóm du kích bò theo. Bốn cái bóng lổm ngổm nhích qua bãi trống, đít cao hơn hầu rồi đầu cao hơn đít, xốc những đốm bông xơ bay mù mịt thành mây. Chỉ còn bốn mống. Thảm hại không!

            Đội du kích Tam Sa đã vỡ chạy.

            Vỡ nát, chạy dài, phải nói thẳng như vậy, không thể màu mè là “vận động”, là “rút khỏi xóm”. Trong báo cáo gửi về H.68, tôi sẽ gạch đít thêm vào chỗ ngày tháng: 12-3-1965, để cái vô lý càng nổi rõ hơn. Trên khắp miền Nam ta đánh quân ngụy xác xơ tơi tả. Ở đất Tam Kỳ này làng chiến đấu đã mọc tua tủa chung quanh “tỉnh đường tỉnh Quảng Tín” và lấn sát thị xã. Khi tụi Sài Gòn réo cha cứu con với, khi cờ lâm nước bí thằng Giôn-xơn phải cắn răng chịu chửi mà đổ quân Mỹ vào miền Nam, ném bom miền Bắc, thì ở đây có một đội du kích bị rã, mạnh ai nấy chạy! Đó lại là đội du kích Tam Sa, mọc trên mảnh đất cháy bỏng căm giận, được bộ đội kèm nghề giúp súng, và được xếp loại đánh khá trong huyện!

            Cái nhục ấy xát muối vào mặt tôi suốt ba ngày qua. Đã nhiều năm tôi mới một lần đánh giặc với khối bực tức đè trên lưng như cối đá, nó chỉ làm mệt người liệt chân, nó ngược hẳn với cái hận thù chắp cánh cho anh chiến sĩ khi lao theo mũi lê xé gió. Tam Sa... Một con suối mạnh bị nhiều bọt bèo phủ trên mặt. Tôi vừa khoả được một mảng bẩn, gặp nước trong, chưa kịp mừng đã bị cuốn ngay theo một dòng nước ngược ven bờ, quẫy hoài vẫn chưa ra khỏi chỗ xoáy.

            Lỗi tại ai?

            Không phải tại Mẫn hay anh chị em cầm súng.

            Buổi sáng đầu tiên ấy, hai tiểu đội của Mẫn đánh rất khá. Mẫn chỉ huy chưa nhìn được khắp nhưng lại lắm mưu khôn, cho đốt khói chỗ này, kéo lá đằng kia, thằng địch cứ loạn ù. Tiểu đoàn địch mấy keo húc vào làng Cá lại bật ra, tôi đếm trong tầm nhìn được mười bảy cái xác xanh vặn vẹo trên ruộng. Bỗng chị Biền luồn theo hào chạy tới, mắt đỏ kè, hét vào tai Mẫn qua tiếng đạn cối 60 nổ xâu chuỗi:

            - Ba Thấn phản rồi!

            Mẫn quay phắt lại, mắt trừng trừng trên mặt tái dần.

            Đêm qua, hai cậu du kích giải thằng Thấn về trại giam đã cởi trói cho nó đi đồng: không ít tên gian ác chạy thoát bằng cái mẹo nhỏ này, quay lại trả thù những người dân đã vạch tội chúng! Còn may, thằng Thấn đang lo dắt địch đi càn, chưa kịp chỉ bắt người. Một cánh quân đã lọt vào xóm Đuồi, đang khui hầm bí mật, lại may nữa, cán bộ và du kích chưa ai xuống hầm.

            Ngớt loạt cối, tôi nhô đầu xem. Mặt đường nhựa vẫn vắng. Có lẽ chúng đang sửa soạn xung phong đợt mới. Quân nó đánh rời rạc, thập thò, ngụy 65 mà. Cây đại liên núp sau bao cát quét vô hồi kỳ trận về phía Năm Tuất, luồng đạn chém lá tre tít trên ngọn, Một bàn tay đặt trên tay tôi vịn hào. Mẫn nói, hơi run:

            - Anh ngó chừng giùm, em thu xếp...

            Tôi gật. Một đứa làm phản, bao nhiêu đảo lộn xô tới. Chiếc L.19 đang vẽ số 8 trên xóm Đuồi. Mẫn nói với chị Biền đằng sau, giọng đanh hẳn lại, tôi nghe lọt tai từng mẩu:

            - Út Liềm ở luôn với chú Luân... Được, số đã lộ cho lánh tạm ra ngoài, mà đừng chạy hoảng... Không, cán bộ đầu ngành thôi... Diệt cho được thằng chó.. Vậy nghen. Chi ủy giao chị nắm lực lượng chìm...

            - Được, mày đánh đâu mặc kệ, trong này để tao chèo chống, khỏi lo đi.

            Du kích rút về xóm Giữa. Bà con ở đấy chạy nhào tìm Mẫn. Mày biết chưa, bây giờ làm sao chị, tổ cha cái thằng ăn cơm ỉa cối, ông Liệp cứ bênh nó hoài, chuyến này nó oánh mềm xương hết, tao đi Tam Trân, em chửi nó một trận hôm qua mới nguy, bác phải né xuống Tam Hải cái đã... Tối tinh rối mù.

            Giữa lúc ấy, tai hoạ chụp xuống.

            Bốn năm cây trung liên ào ào xả đạn vào lưng đội du kích. Một cậu ngã vật, Năm Ri chỉ kịp lượm súng. Mẫn hét một tiếng thừa: “Chạy!”. Anh em đã tán loạn hết. Tôi bám lưng áo nâu của Mẫn. Địch ó ré, nổ súng khắp nơi. Cái gì quất bộp bộp trên lưng tôi. Tôi vẩy hai hát súng ngắn vào một nửa ngực vằn vện nhô khỏi góc tường. Lại bắn hú hoạ vào chỗ hàng rào phì khói. Nhảy qua một thằng nằm ngửa, rảy hòn chì giữa bụng nó, chạy xa tôi mới nhớ nó là xác chết. Nửa giờ sau, dừng lại thở trong một bụi rậm ngoài gò, tôi vuốt khắp người tìm vết thương. Quái lạ, tôi không bị thương. Chỉ cái ống lương khô đeo thắt lưng bị hai viên đạn dùi bốn lỗ. Bao bi-đông bị xé một đường vải. Coi như còn sống. Chạy chung với nhau có ba chúng tôi, bốn cây súng, hơn chục đạn.

            Đêm ấy, chúng tôi bò vào làng tính đánh trả đũa, húc phải một ổ phục kích. Nếu tụi địch không hoảng bắn sớm, chắc chúng tôi có người phải cõng. Thằng Thấn dẫn lính biệt động bọc lưng đội du kích, cũng biết hết các đường ngang lối tắt cần phục hay gài mìn. Quân chúng kéo tới làng Cá rất đông, sáng hôm sau kéo đi sục các gò hoang, có thêm trực thăng và M.113. Chúng tôi vừa bắn tỉa một cánh quân đi bên kia rẻo ruộng, lập tức bị đại liên và cối từ ba đỉnh gò châu vào giội mưa đá, suýt chết, chạy mãi mới đánh lạc được thằng trực thăng đuổi dai, bắn như trâu đái. Cây trường Mát của Năm Ri gãy báng, cậu chỉ bị rạch thịt một vết ở đùi. Cô Cang ôm bụng rên từng lúc, hỏi chỉ đáp ấm ớ, chắc đau bụng kinh. Tôi khỏe và lành lặn hơn cả, nhưng lạ đất lạ người không thể dẫn đầu, đành chịu làm một toa đen hậm hực móc vào cái đầu máy sắp liệt là cô xã đội trưởng.

            Ban nãy Mẫn ngã một keo nặng khi chạy xuôi dốc, tôi đi sau không kịp đỡ. Cái thế từ trên cao đổ xuống vốn là thế xung phong ở Đèo Nhông, nó rất thoải mái khi tôi sải chân đuổi địch. Còn khi bị địch rượt bắn, phải chạy lom khom với cây súng rỗng rất vướng, thì xuống khổ hơn lên nhiều lắm.

     *

  Chúng tôi đến sông Rù Rì khoảng bốn giờ chiều. Bên kia sông là cánh đồng lớn của Tam Trân, không vượt được, một cặp trực thăng đang rà thấp, dùng gió cánh quạt rẽ lúa tìm người. Chiếc sau đeo cái loa bên hông như bìu nước, thỉnh thoảng gọi cầu may: “Nè, anh kia ra đi, thấy rồi!”. Đành phải nằm lại đây đợi tối, địch ùa tới thì đánh bằng báng súng và đá cục.

            Đang rẽ lá đi ngược sông, Mấn chợt dừng lại, chỉ vào con đường mòn chạy trước mặt, băng qua lòng sông cạn bằng một vạch sẫm do chân người cọ sạch rêu trên đá đen.

            - Nhảy qua, đừng để dấu!

            Tôi hiểu. Một cánh quân khá đông đã qua đây, để lại lối đi hoàn toàn mới. Địch ở đâu, làm gì? Nhóm du kích tách khỏi dân cứ chơi vơi, chống chếnh. Chúng tôi bịt mắt bắt dê, không, bịt mắt chạy tránh một bầy chó dại đang sủa gâu gâu khắp bốn chung quanh. Vết giày răng chó chĩa mũi về phía Tam Trân cả, nhưng trên ấy không có tiếng súng, hẳn địch nằm phục dọc rặng cây bên kia sông.

            Chúng tôi đi luồn và bò thật êm giữa các bụi lau cứa mặt, gặp một nhánh suối con. Uống vội một bụng nước no, múc đầy bi-đông của tôi, lại đi. Pháo 105 từng lúc nện rung đất mé sau, có lẽ chúng bắn vào chỗ lội có nhiều bông bạc mà tôi với Mẫn đã dừng nghỉ dạo xưa, gần con mương cũ tránh pháo rất tiện. Thằng Thấn khai với địch không sót một sợi tóc.

            Cuối cùng, Năm Ri tìm được một rãnh nước xói khá sâu, lau mọc phủ kín miệng, núp tốt. Chúng tôi lách vào đấy, ngồi rải xa nhau. Tôi giành ngồi ngoài cùng. Trong nhóm, chỉ riêng cây P.38 của tôi còn đạn, mà cũng một mình tôi bắn thạo súng ngắn, đóng vai “đồng chí hoả lực” là phải. Bọn xe M.113 chia nhau sục các gò, lẩy trọng liên từng chuỗi năm phát rời để báo chỗ cho nhau. Cặp trực thăng vẫn phành phạch kiếm mồi trên đồng. Đáng ngại nhất là đạn pháo cứ tránh chỗ chúng tôi: quân bộ rình gần đây?

            Khi tai bớt ù, tôi chợt nghe một tiếng lạ. Như ai đang thở mạnh. Như ai sổ mũi... Tôi quờ ngón tay cái hất mẩu hãm cò súng, nhô đầu ngó quanh một vòng. Lá không động. Quay lại sau, tôi thấy Mẫn thổn thức.

            Mẫn ngồi xây lưng phía tôi, dựa nghiêng vào thành đất, úp mặt trên hai bàn tay vịn một rễ cây đâm ngang, nấc nhè nhẹ. Mảnh áo bà ba rách trên vai Mẫn rung, ngừng, lại rung. Cây các-bin rỗng dựng bên cạnh, vấy bẩn, ngơ ngác như đứa trẻ mồ côi. Trong nạn lụt, mẹ chết, nhà trôi, Mẫn lại không chịu khóc.

            Tôi biết phụ nữ mau nước mắt, cũng biết nên để họ khóc cho nhẹ người chứ không cần dỗ. Vào dịp khác, có lẽ tôi đã trêu cho Mẫn cười: “Bà Trưng Nhị dẫn quân chạy tới bờ sông Hát rồi, tính làm gì nữa? Nước cạn, nhảy xuống chưa đủ ướt áo...”. Đại khái vậy. Lúc này thấy Mẫn khổ quá, tôi không dám bạo miệng. Tay áo Mẫn gần đứt rời, phơi một mảng toạc da đỏ hỏn ở cùi. Hai bắp chân xếp một bên, đầy những vết gai xé chi chít, màu đỏ loang trên máu đen. Tôi chợt nhói trong ngực: Mẫn sắp nằm liệt rồi! Hai bàn chân không dép đã rách nát, mấy mảnh da lật ngửa, máu ngấm qua bùn khô đọng thành giọt trên gót. Chết chưa, Mẫn cứ để vậy mà chạy qua đá sỏi! Bộ đội chúng tôi chăm chút đôi chân rất kỹ, bởi quanh năm phải hành quân với ba bốn chục cân trên vai, động đau chân là lập tức làm khổ anh em mang giúp, có khi phải khiêng cả người, như xe nổ lốp biến thành đống sắt nằm ỳ. Có thể một cô du kích không đi xa vác nặng đến vậy, nhưng liều như Mẫn kể cũng quá liều!

            Tôi cởi bao lưng, lấy gói bông băng, ve thuốc đỏ, đôi tất dài. Tất là của quí trong đêm lạnh, lúc nẻ chân phải bôi mỡ, nhất là khi bị thương ở chân mà phải qua vùng nhiều vắt, đỉa. Tôi nhích lại bên Mẫn đằng hắng, ghé bên tai:

            - Nè... băng chân đi Mẫn.

            Mẫn giật mình. Không quay lại, Mẫn nhấc trán khỏi bàn tay, im một lát mới thì thào:

            - Gì, anh?

            - Cô què đến nơi.

            - Em... có bị thương đâu...

            - Ngó xuống chân thử coi!

            Mẫn quệt mắt rất vội, ngoẹo cổ nhìn, bật kêu “ồ”. Thì ra Mẫn không biết chân mình nát. Vẻ bối rối hiện rõ trong đôi mắt còn ướt.

            - Dạ... để tối nay bôi thuốc...

            - Băng ngay bây giờ, đừng bướng. Ai cũng mệt đừ, không cõng cô được đâu. Để yên tôi rửa!

            Tôi cố ý lên giọng đàn anh cho được việc, càu cạu như ông thầy thuốc khó tính.

 Mẫn vừa rụt rè duỗi chân ra, lại co ngay, chúm môi, trỏ ngón tay về phía sông. Tiếng chân lội nước nổi to dần. Mấy tiếng gắt. Dao phạt lá soàn soạt. Cánh quân phục kích đang rút vào làng, vẫn xuyên bờ bụi tránh mìn. Còn phải coi chừng chúng gài lại một số phục đêm. Cặp trực thăng mở rộng vòng quần, xổ hơn chục trái rốc-két cho nhẹ bụng rồi cũng phới. Dễ thở rồi. Một cụm quân địch nổi lửa nấu cơm trên đỉnh gò, cách chúng tôi chừng năm trăm thước. Các cụm khác đóng rải rác xa hơn.

            Chúng tôi xuống sông rửa. Cái việc rút sang Tam Trân đã thành tất nhiên, không phải bàn nữa. Nấn ná quãng này, mai địch lùng kỹ thì hết chỗ trốn. Tôi lội qua sông, nghe ngóng, rồi lách tới ven cánh đồng. Những ngọn cau của xóm bên kia đã in bóng lá trên nền mây đỏ gắt. Tôi xem thế đất, chọn được một lối vòng tốt. Nửa giờ nữa sẽ đi: lúc ấy ánh sáng vừa tắt nhưng trên đồng chưa đủ tối để đèn dù soi rõ người. Vẫn cần ngụy trang kỹ.

            Tôi quay về, vừa nghe Mẫn nói với ba đồng chí kia:

            - Bây giờ anh Năm với chú Ri đưa anh Thiêm lên Sáu Trân, nói chị Bỉnh xã đội xếp chỗ cho ảnh nghỉ, nhắm chừng nó muốn càn thì cho người đưa ảnh về huyện. Tôi với Cang ở lại đây. Mai chắc nó phục hướng khác, khỏi lo...

            Tôi sửng sốt. Mẫn tiếp rành rọt:

            - Anh Năm tìm chú Liệp, yêu cầu góp hết số du kích chạy lên Tam Trân, cho về chống càn. Hễ chú Liệp không chịu làm... thì đồng chí tự làm việc đó. Chi ủy đã biểu quyết... đa số... từ nay không có cán bộ lưu vong, du kích lưu vong nữa đâu.

            Mẫn ngập ngừng trước khi gằn giọng nhấn câu cuối. Năm Tuất chỉ gật đầu, Năm Ri thở sượt một cái. Cô Cang cứ híp mắt cười một mình, khuôn mặt tròn từ màu cà chua đã ngả về bánh trôi như cũ. Không ai để ý đến tôi.

            Mặt tôi rân rân như áp vào búi cỏ may. Tôi xấu hổ.

            Con suối trước mặt, dù được gọi tôn là sông và có những bông bạc dễ thương, đối với tôi chỉ là một dải nước cạn như trăm ngàn dải nước khác. Trên đường hành quân, nếu bộ đội không dừng ăn cơm thì tôi chỉ cần truyền vài tiếng ra sau: “Qua suối, xăn quần”. Đối với Mẫn, nó là ranh giới giữa vinh và nhục. Mẫn đã thề sống chết với đất Tam Sa. Bước qua suối là phản lời thề. Mẫn ở lại để không ai có thể trách du kích Tam Sa đã bật khỏi xã đến người cuối cùng. Trong những năm xưa đen tối, những ngày ác liệt bây giờ, cần có những đồng chí sẵn sàng thắp mình để giữ và truyền ngọn lửa thiêng. Cô em thút thít ban nãy biến mất. Đồng chí Mẫn ngồi đấy, đôi mày rậm hơi cau nghiêm khắc xốc lại trên vai cái trách nhiệm chi ủy viên phụ trách quân sự của Tam Sa, phải bám sát dân, quần sát giặc.

            Còn tôi?

            Tuy mấy hôm nay rất bực vì phải chạy đua vượt rào, nhưng lúc này tôi vẫn nghĩ theo hướng tiếp tục chạy dài, như cái xe xuống dốc đứt phanh. Là phái viên của cấp trên về xã, sao tôi lại định “đánh con bài xì chuồn”? Hay là, như vài cậu giỏi kiếm chất tươi hơn kiếm việc, tôi chỉ xưng chức tước và khoe súng ngắn khi cần các cô ngắm và các mẹ đãi gà, nay lâm trận thì bỗng trở nên hết sức khiêm tốn, tự mình bóc cái nhãn dán trên ngực, lặng lẽ vắng mặt? Về ăn nhậu ở quán bà Liệp, tán phét với những cán bộ cũng “lánh càn” như mình, cố bào chữa cho nhau rằng tránh voi chẳng xấu mặt nào – từ đấy suy ra ai không tránh voi là dại - bày ra một việc gì đó để chạy lăng xăng, tỏ vẻ bận rộn, đợi địch rút khỏi Tam Sa mới quay về làm le(3) như cũ? Hừ...

            Tôi báo vắn tắt rằng tôi ở lại. Mẫn luống cuống can, nhưng tôi đã bắt chước cái vẻ “đừng cãi mất công” của Mẫn.

            Năm Ri cởi dép, bứt cái lá chà là to, tách đôi làm que xỏ lại quai dép cho vừa chân Mẫn. Chín Cang băng cánh tay bị thương của Năm Tuất, Mẫn soát các súng, giữ lại một cây còn hai viên đạn. Tuất và Ri băng ruộng ra đi lúc nhá nhem.

 Ba chúng tôi ở lại. Đêm nay ăn no ngủ kỹ lấy sức, không vào làng vội. Cang đi mò nhổ sắn ngoài gò, Mẫn đào bếp trong lòng con hào trời cho, cả hai đều cấm tôi động tay. Phụ nữ mà. Tôi treo bi-đông đun nước ấm, pha thuốc tím, một lần nữa ra lệnh cho Mẫn đưa cặp chân rách. Mẫn rất hoảng và ngượng, nghe lời tôi mà luôn miệng xuýt xoa vì “vô phép quá, làm rầy anh quá”. Tôi băng kỹ, đi tất cho Mẫn và dặn rất kẻ cả:

            - Tôi làm một lần thôi, sau cô phải tự rửa tự băng đúng y vậy. Hồi nào muốn bỏ băng, cô phải hỏi tôi trước, nhớ chưa?

            - Dạ nhớ.

            Chúng tôi cùng bật cười, hết ngượng. Thật ra tôi cũng mất tự nhiên khi cô Cang về với cái miệng không bao giờ ngớt tủm tỉm. Mẫn có nụ cười xinh hơn Cang nhiều, răng nhỏ đều hiện trắng muốt giữa môi tươi, kèm một tia mắt tinh nghịch ánh lên qua hàng mi dày. Mẫn không biết Mẫn đã cho tôi một bài học đích đáng.

Chú thích:

            (1)Cây cứt lợn

            (2)Núi thăm thẳm

            (3)Làm điệu, phô trương

   Chương 9    

      Đạn 105 bay soàn soạt như vò lá chuối khô trên đầu chúng tôi từ gà gáy nhì, bây giờ thêm lũ 155 rống ò ò như bò đòi mở chuồng. Địch bắn dồn vào Tam Trân.

            Bên kia cánh đồng, trong ánh sáng lờn lợt của buổi tinh mơ, những cột khói phì giữa tre nổi màu trắng rất đặc, hoà vào sương sớm, họp thành một lớp bông xốp đè xuống làng. Nhìn từ xa, một trận pháo có vẻ thật dễ sợ: xóm làng co lại nhỏ xíu bẹp gí, mỏng như giấy cắt, còn những cây nấm khói có lõi lửa thì mọc lên phùn phụt, trên ruộng và ngoi cao, phủ lấp tất cả, nuốt trời nuốt đất. Không biết bao nhiêu thằng chỉ huy của địch lỡ dại tin vào cái cảnh lừa mắt ấy, đã nướng cả đơn vị trong lưới lửa của ta, không mất mạng cũng mất lon. Trò đời, chẳng có cái dại nào giống cái dại nào, mà không tin ở chất nổ thì chúng còn biết tin ở thứ gì?

            Càn lối cũ thôi. Pháo bầy, rồi máy bay ném bom, rồi hát-u bắn xịt đùng mở đường cho H.34 đổ quân nhét nút, trong khi M.113 và quân bộ kéo lên như đàn mối kiếm ăn, mối chúa đi lẫn với mối con. Sau ba ngày cào bới đất Tam Sa, địch đã càn rộng ra sau lưng chúng tôi. Du kích Tam Trân mới nhận hai trung liên Mỹ, đang hằm hằm lập công, và lối cầm quân của chị Bỉnh cũng bề thế vững vàng như cái vóc người đồ sộ của chị. Lũ trực thăng vừa phành phành bay qua được vài phút, tôi đã nghe súng nhỏ dưới đất nổ từng loạt rất mạnh và đều, sướng cả tai, chỉ huy cừ lắm. Một lần nữa tôi muốn trêu cô “tư lệnh không quân” ở đây, lại nín được. Cậu Duy Hảo tuyên bố sẽ xây nhà máy thủy điện mạnh nhất thế giới chạy bằng nước mắt đàn bà.

            Ba chúng tôi ăn hết một vác sắn luộc, ngủ gần mười tiếng – chỉ hai lần bị cối 81 đánh thức – đã khỏe lại. Khoái nhất là chầu tắm giặt. Tôi còn cạo râu nữa, người cứ mới tinh, mấy ngày bị giặc đuổi lùi tít ra xa. Bây giờ Mẫn vành tay lên tai, cố gạt những tạp âm của tàu bay đại bác sang bên, lọc lấy những tiếng động phía làng Cá. Chín Cang leo lên cây, nhún chân thử từng cành xem có chịu nổi hai phần ba tạ không, báo rằng các cụm quân đóng rải trên vùng gò đã rút. Tôi cũng trèo lên cây xem địch càn Tam Trân, cao hơn Cang, bắt được tiếng xe gì rít rống lộn xộn trong làng Cá, dội nhiều tiếng sắt hơn M.113. Xuống đến đất tôi mới nghĩ ra: xe ủi đất.

            Mẫn cắn môi:

            - Lôi thôi to. Nó làm đường ô-tô, chở thép gai tới, rào ấp... Hèn gì sáng giờ súng nhỏ nổ lốp đốp hoài!

            Tôi không hiểu. Mẫn cho biết đó là dân đấu tranh và địch bắn doạ. Bà con xóm Giữa kéo ra vây lính, chúng mới bắn mấy loạt tiểu liên ban nãy, còn súng trường nổ tiếng kép nhiều lần là địch dồn đông bào ra nhổ chông ở bìa làng chiến đấu.

            - Để anh coi, lát nữa nó lại bắn ra gò cả thúng đạn. Chắc có cối nữa.

            Mẫn vừa nói dứt, mấy cây trung liên đã xổ đạn rào rào về hướng chúng tôi, thêm mười trái cối 60. Tôi ngẩn người, chịu Mẫn đoán tài. Thì ra bà con xóm Giữa đã hù địch cả chục lần rồi. Bị ép đi nhổ chông, các bà cách chị thập thò bước ra ven đồng, dòm dòm, rồi đâm đầu chạy và hét: “Việt cộng bên gò kia!”. Dù tin hay ngờ, địch cũng phải bắn một mớ ra đồi.

            Chúng tôi phải về bám làng bắn bia, không cho địch lùa dân ra phá chông mìn.

            Mẫn nhất định đi đánh với cặp chân quấn băng và đi tất to sù. Cang ở lại đây phòng có người đến tìm. Cây báng đỏ còn nổ được hai phát. Mẫn tìm ra ba viên đạn còn sót trong một băng thay vội giữa trận, mừng hơn được ba thỏi vàng, cây các-bin liên thanh sống dậy. Chúng tôi len lỏi gần hai tiếng mới đến gò Trúc, chỗ bến phà cứu lụt năm ngoái.

            Bên kia cánh đồng, cụm tre cau nhô giữa lúa như vắng ngắt, nhìn lâu mới thấy những bóng mũ dưa hấu thập thò sau rào như sâu xanh nhấm lúa. Mẫn nhảy xuống một hố đất nẻ. Chúng tôi nhìn nhau cười: một kỷ niệm chung, hai đứa cùng bắn chiếc AD.6 ở đây, tôi giật chân cho Mẫn ngã nhào tránh rốc-két. Miệng hố phủ cỏ xanh rì, ngụy trang sẵn cả.

            Chúng tôi đợi không lâu. Bia thịt dẫn xác ra kia, một nhóm lính ốp bà con đi phá chông. Nhiều bóng bà ba đen, nón trắng. Tôi chĩa súng vào thằng địch đang chỉ trỏ, chắc hạ sĩ trung sĩ gì đó. Mẫn đập vai tôi:

            - Đợi đã anh. Rán hạ được cha con xã Chinh hay thằng Ba Thấn, đáng tiền hơn.

            Tôi lại vấp ở chỗ bộ đội chủ lực hay vấp: chỉ chăm chăm diệt lính địch, quên tụi ác ôn địa phương, đôi khi đánh thắng to mà đồng bào khó nổi dậy. Nhắc nhau mãi “đừng cà nhắc một chân” mà vẫn ít nhớ.

            Địch bắt được hơn hai chục bà con đi nhổ chông, sau thêm mười người nữa. Họ giằng co với lính chán mới bước xuống bãi, nhổ một cây lại vặn lưng năm bảy phút, nhưng dần dà cũng phải nhích tới. Ba con mồi cần bắn nhất không chịu ló mặt. Giữa bãi chông có mìn gài rất kín, dây mìn nối vào gốc chông. Phải nổ súng cho đồng bào lấy cớ mà rã đám ngay thôi.

            Năm viên đạn tất cả, chi cho trận mở màn phản công này hai viên, chia hai đợt. Tôi nhường Mẫn bắn phát đầu. Mẫn lắc. Cứ như các cụ ngồi vào mâm, mời nhau cầm đũa trước. Chúng tôi đều biết rằng viên thứ nhất rất dễ trúng đích, sau đó người bắn vẫn ung dung, bởi địch chưa nhận ra hướng ta núp nên chỉ nằm bẹp quét bừa. Người thứ hai bắn khó trúng hơn, lại hút hết đạn về phía mình. Những thằng địch rất sợ phát sau, vì nó báo rằng du kích cố bám riết.

            Mẫn chặc lưỡi, cười:

            - Thì thôi, em nhận. Bộ đội nhường du kích mà.

            Phải để dành cái hố lát nữa tránh đạn. Mẫn bò đến một bụi ngũ sắc, lùi vài bước, giương súng. Động tác khá nhuyễn, chọn chỗ nằm cũng tốt, luồng khói phụt ra sẽ được lá rậm che khuất. Cô xã đội này không có chút gì là “cán bộ làm đẹp phong trào” như con nhà lính chúng tôi hay ghẹo.

            Thằng lính ngồi xổm trên bực đất bỗng chúi sấp xuống bãi chông, giãy vài cái như bươm bướm, duổi cẳng. Tôi vỗ tay nhẹ vào báng súng, rồi vẫy cho Mẫn rút trước. Mẫn lại lắc đầu, bò đến hố trong khi đồng bào bên kia chạy túa vào xóm và địch bắt đầu vãi đạn tơi bời.

            Đến lượt tôi.

            Trước mắt Mẫn, lỡ tôi “bắn cảnh cáo” thì ê mặt lắm, chỉ còn nước mang ba-lô đi tìm đầu ban, nghĩa là cuốn xéo... Tôi cười thầm trong khi căng mắt tìm địch. Học trò cưng của xạ thủ Ba Tơ không thèm bắn tụi lính tôm tép đâu nhé. Mãi rồi tôi cũng chọn được con thịt cao giá: Một thằng cao to đềnh đàng, đứng trong quãng hào xa, đang khom lưng chiếu ống dòm qua gò. Ba trăm rưởi thước nằm bắn, chơi được, coi bộ cây báng đỏ này không mắc tật nguyền gì. Tôi bò đến chỗ Mẫn vừa nằm, tháo bao lưng kê súng cho chắc. Bỗng dưng, đố biết vì đâu, tôi thấy ngực mình rất ấm như có hơi người truyền sang, gây một cái gì lẫn lộn cả ngượng, vui, sờ sợ nữa, tựa hồ phát súng lẻ sắp bắn sẽ định đoạt cho tôi một biến đổi lớn trong đời; nó là trái bộc phá mở màn một chiến dịch dài ngày của riêng tôi... Tôi mỉm cười giễu mình lẩn thẩn. Hôm nay tôi thích cười lạ, sao vậy?

            Thằng Mỹ cúi dòm mãi đã mỏi mắt mỏi lưng. Con hào của Vi-xi đào chỉ vừa Vi-xi núp, không vừa xác nó. Nó đứng thẳng lên, lộ ngực... nảy ngược một cái, úp mặt vào bờ hào, từ từ trụt xuống với hai bàn tay cào đất. Tôi xách súng xách bao, phi nước đại lập tức, không chơi trò sĩ diện với địch. Mẫn chạy sau lưng tôi, cười to.

 Chúng bắn thôi là bắn. Súng cha súng con đánh trống gõ mõ suốt nửa giờ tế hai thằng chết, tôi nghe nổ mà phát thèm. Rút một hơi đến chỗ khuất đạn thẳng, tôi dừng lại đợi Mẫn, cùng chạy việt dã ra khỏi tầm cối 60 lúc này còn bắn trật bậy. Chúng tôi nắm tay nhau vừa chạy vừa cười: hai đứa trẻ vừa trị được con chó dữ xồ ra cản đường đi học. Sau mấy ngày tức ói vì giặc đuổi, hôm nay cười cho thoải mái nhé, cười bù những lúc không sao cười được, tuy chiến công chỉ là con số lẻ mà các bản tin của ta thường hớt cho gọn.

            Khi pháo 105 bắt đầu ném những tấm tôn trên sườn đồi, chúng tôi nhảy xuống một chỗ đường trũng, ngồi thở. Mẫn bóp bàn tay tôi, nói không kịp lấy hơi:

            - Em tưởng anh bắn hụt... ngó trật lại, thấy thằng Mỹ gục... chao, mừng húm...

            Mẫn hít mạnh, mặt đỏ rựng, cười một hồi nữa, mắt lóng lánh cười nhiều hơn miệng. Sao Mẫn xinh vậy ta? Không, phải nói là đẹp. Đúng cô Mẫn em mà tôi gặp dọc đường Tam Kỳ, ríu rít như chim, vui đến sáng cả mặt mũi chân tay... Tôi bắt quả tang tôi đang nghĩ lộn xộn.

            - Vậy là bà con trong xóm biết rồi đó. Biết tụi mình bám. Để anh coi, chiều nay nó chặn mấy cũng có người ra gò tìm du kích. Hôm qua... hồi đó em xấu hổ quá mà. Nói đánh giặc giữ làng miết, giặc tới lại chạy có khói có ngời, tới khi trở vô nhà bà con chắc phải đưa cái lưng vô trước, lãnh ít cây cán chổi... Bây giờ khỏi lo rồi.

            Tôi cười theo, nao nao.

            C.215 của tôi vây đồn bắn bia, khi đổi phiên anh em thường xòe ngón tay báo số địch vừa hạ, cậu nào không xòe được hết bàn tay thì phải trề môi và lắc đầu một cái để tỏ ra mình đen đủi. Đây hai chúng tôi chỉ xòe được hai ngón tay, nhưng đó là hai mũi kim chích vào cái bong bóng Mỹ vẽ hình ông kẹ đang căng phình, là hai tiếng tín hiệu của du kích gọi dân. Mẫn đùa, làm như chỉ đánh vì sợ cán chổi. Ngay trong câu đùa Mẫn cũng chỉ nhắc tới phần việc mình phải làm, không gợi lại buổi chống càn đầu tiên rất ngon, chưa vội tìm lỗi người khác trong vụ Ba Thấn nhảy theo giặc.

            - Ngớt pháo rồi, về kiếm ba củ sắn đi anh, đói khiếp. Chiều mới có người ra.

            Mẫn đi trước, kiểu đi xổng xểnh không cần làm dáng của một cô gái ít nhớ mình là gái. Tôi ngắm dáng bàn tay Mẫn đánh xa lui tới, rất là thú khi thấy hai ngón trỏ và giữa hơi xòe ra. Hai ngón tay búp măng. Hai cánh bông bạc sống qua cơn lũ bùn vẫn trắng muốt nhô lên vẫy giữa dòng nước, mềm mại dễ thương mà không biết cúi đầu. Thế đấy, có những cái đẹp phô mãi trước mắt mà tôi chẳng thấy, đến một phút nào đó chợt hiện lồ lộ như được luồng nắng rọi vào.

*

  Mẫn lại đoán đúng.

            Trong buổi chiều, mấy bà con làng Cá ra sục gò tìm chúng tôi. Một bà lão còng lưng chống gậy đi lụm cụm, vừa thấy Mẫn bỗng trẻ lại vài chục tuổi, vất gậy thẳng lưng chạy tới. Đó là mẹ Sáu ở bên nhà Mẫn, đang nuôi giúp Mẫn thằng cháu Hoàn hai tuổi. Mẹ khóc sùi sụt, nắn khắp người Mẫn tìm chỗ băng: “Mày bị thương đâu nói thiệt đi!”. Mẫn đỏ mặt cố gỡ tay mẹ, tôi tạm lánh một phút.

            Tiếp chị Biền có chửa đầy một bụng gạo muối. Rồi ông thầy Mười say rượu gật gà hôm nọ cũng đến, cầm một túm lá thuốc nam. Từng người lấy cớ tìm con nít chăn trâu sợ pháo chạy lạc, tìm con bò sẩy mũi, giằng co riết tụi lính mới cho ra khỏi xóm. Thằng Chinh con vừa khịt mũi vừa khoe bắn du kích chết ráo, “con Hai Mực trương như bò trôi lụt, nằm úp mặt xuống mương nước chỗ Hóc Môn, thối quá không chôn được, thôi để quạ tha mối đùn lâu lâu rồi ai lấy xương cứ lấy, tôi cho làm phước”. Bà con bắt Mẫn kếu hết “sắp nhỏ” ra coi thử ai còn ai mất. Mẫn đáp gọn trơn: “Du kích lo bám địch chớ ở đâu đây!”. Tình cờ, một lát sau phía Nhơn Thọ bật lên hai tiếng mìn muỗi, rồi súng địch đổ bão, chắc du kích bí mật đánh trong làng. Tới đó bà con mới hết băn khoăn. Tôi cầm súng ngắn đi gác, cô Cang chặn: “Anh ở lại cho cô bác nhớ mặt nhớ giọng, sau mới dễ vô làng”.

            Một trăm thứ chuyện xoắn xuýt kể lấy được qua tiếng nổ rền đằng trước đằng sau, tiếng máy bay và đạn pháo bay qua đầu, chen những tràng cười dài và đôi giọt nước mắt.

            - Nó đặt máy a-lô trong nhà tao đó Hai. Cũng hay, thằng Chinh con quẹt lửa đốt nhà mày, tao nổi la làng, tụi lính sợ cháy lây đổ ra dập lửa, doạ cho thằng Chinh nếm kẹo đồng. Nó kêu trong máy “đại bàng gọi diều hâu” miết, rồi xì xầm với nhau tụi càn Tam Trân chết quá đi, tàu bay y tá chở không kịp. Sợ mất máu hết!

            - Cái thằng Chinh thiệt quá chó dại. Dạo trước Tết nó còn sợ mình, đi năn nỉ cùng xóm, coi xuống nước hung. Giờ lính về đông nó lại hỉnh mũi lên râu. Tao nói: nhơn chi tương tử kỳ ngôn giả thiện, ông nghe tôi phân một câu thử coi phải trái, sách có chữ chủng qua đắc qua chủng đậu đắc đậu…

            - Thôi ông, nói chữ với nó uổng miệng, nó vỗ ngực rồi đó: tửu là một, sắc là hai, tiền xài là số dách!

            - Bà Tám Lư nhào vô ôm xác con, bị nó đạp bữa nay còn tím rịm bên hông. Cố tổ nó chớ, thà nó là con bọ hung ở đống cứt rúc ra, đây nó cũng là người mà chẳng biết mẹ thương con là sao. Bà con kéo tới đủ số ngàn, nó mới chịu để chôn.

            - Kể đi bác Sáu, bác hăm thằng Thấn cách sao mà nó sợ dữ vậy?

            - À, à, chút xíu nữa quên thằng liếm đít. Con Hai nghe thử chỗ nào trật chánh trị thì sửa… Tao đợi trưa tròn bóng tụi nó nghỉ xăm hầm, nắm tay thằng Thấn mời gắt vô nhà, quấn thuốc, pha chè nhỏ, hét con đi cắt cổ vịt nữa. Nó nhịp nhịp cái cẳng  vậy nè, như ông huyện về làng, chắc nó tưởng tao nịnh cho khỏi ở tù. Tao khen nó thiệt là gan to hơn cóc. Nó rung cẳng hỏi: “Gan sao hử?”. Tao nói: “cái xã mình coi vậy chớ khó, xưa nay ai làm việc quốc gia, cố gây thù kết oán thì trước sau cũng đạn một viên, cáo trạng một tờ hết. Giữa hồi chộn rộn này mà ông dám đứng ra gánh vác, tôi chịu ông giỏi đó. Nó đổi nước da, còn cãi gượng: “Ấp rào kỹ, quân đóng dày, tụi thằng Luân với con Mẫn gãi ngứa chớ làm gì, xớ rớ nữa thì nghoẻo củ từ”. Nó mới nuốt củ sắn bẻ đôi của du kích đó, bây giờ nói vậy chẳng có mắc nghẹn mới lạ. Tao không ngọt được nữa: con Mẫn ở ngoài ấp mà dân ở trong. Dân đây ông biết rồi, nói tới rào ấp thì mười người ghét đủ chục. Hồi ông đi phá ấp thì dân cho trứng với chuối, giờ ông đi xăm hầm rào ấp chắc họ mời ông ăn bí ăn lựu quá. Tôi đãi ông con vịt cho trọn cái ngãi lâu nay… Nó đổ mồ hôi hột đó Hai. Cẳng nó cứ rung, mà rung kiểu khác!

            Chúng tôi cười một trận líp ba-ga(1)

            Thằng Ba Thấn bị vây chắc cứng. Bà con gặp nó là con mắt lườm dài, cái nón úp sấp, nước miếng nhổ phẹt. Nó vào nhà ai cũng nghe chửi chó nhảy bàn độc, mèo ăn mâm ỉa bếp. Nó sợ lưng tim lưng mật. Sau nó mò tới nhà ông thầy Mười, nơi trước đây nó quen ăn ngủ - ông già sẵn rượu và đồ nhậu – tuôn một hồi kể lể. Rằng nó bị ủy ban nghi ăn cắp, tức mình bỏ đi, bây giờ như con gái lỡ dại chửa hoang rồi, ông Chinh biểu gì nó phải nghe. Rằng nó không khai bà con trong làng, chỉ khai vài cái hầm của đội du kích đã chạy ra ngoài. Rằng lãnh thưởng vài ngàn nữa mà bị ghim cáo trạng trên ngực thì lỗ vốn to, bây giờ nó về thị xã lo buôn bán thôi. Ông Mười bồi thêm một mớ chữ thánh hiền, thì thào mách cho nó biết “bộ đội ông Thiêm” tới tiếp sức du kích rồi đó, trái nổ thứ một ký đeo dày chung quanh bụng. Rốt cuộc, nó cuốn gói về “trại hồi chánh” của tỉnh sáng hôm qua. Con buôn mà, nó đã tính ra mạng quí hơn tiền.

            Ông thầy Mười trao nắm thuốc dấu, hẹn sẽ để gạo trong miếu Thổ thần sau vườn, ra về trước. Mẹ Sáu cầm nón lại đặt nón, quấn quít không rời được.

            - Thằng Hoàn đòi mày miết Hai à. “Mẹ Mẫn âu? Hoòng chỉ chơi mẹ Mẫn”. Bữa nay quen hơi bà rồi, vậy chớ nghe con nít ở đâu kêu mẹ là nó giựt mình, ngó dớn dác.

            Tôi thoáng thấy Mẫn đưa ngón tay gẩy khoé mắt. Mẹ Sáu dặn tôi lần nữa:

            - Trăm sự nhờ anh bày biểu cho con Hai, đường đi nước bước nó chưa am tường, con nít mới lớn lên, xa cha mất mẹ thiệt tội đó anh.

            Các bà mẹ bao giờ cũng vậy. Dù Mẫn vừa giao công tác cho mẹ xong, bắt lặp lại cho nhớ, mẹ vẫn thấy Mẫn là con nhỏ láng giềng thiếu nơi nương tựa mà mẹ phải lá lành đùm lá rách. Đợi mẹ ra về, chị Biền mới kéo Mẫn đi riêng, báo cáo về ban cán sự và du kích bí mật làng Cá. Tôi đã làm việc với cán bộ xã đủ nhiều để không thấy khó chịu khi bị gạt sang bên.

            Mặt trời lặn. Chúng tôi trở lại chỗ núp. Cang nấu cơm dưới mương, Mẫn quạt khói. Tôi xách ăng-gô đầy rau má từ sông Rù Rì lên, bỗng nghe nhiều tiếng hú ngắn, hối hả. Cang rón rén bước ra. Vài phút sau, một bóng nhỏ đâm sầm qua bụi cây, nhào tới ôm Mẫn khóc hu hu. Út Liềm! Cô bé gầy đen, liên lạc riêng của chi ủy, rất ít khi hé môi, lúc này vừa nói vừa nấc vừa thở. Chúng tôi đều hoảng, tưởng anh Luân gặp nạn. Không sao cả. Lo nhiều nhớ lắm, vậy thôi. Anh Luân bắt Liềm ở lại ấp Lộc Chánh, khi biết chắc thằng Thấn đã cút mới cho lên tìm Mẫn. Liềm đạp xe về nhà, gặp mâm giỗ cha bày trên bàn thờ. Chẳng đợi mẹ khấn, em trải tấm ni-lông, trút tất cả các món khô vào, thêm hai chai bia, buộc túm, luồn đường hẻm ra gò, vác bao giỗ đi lùng Mẫn từ trưa đến tối, vừa khóc vừa lau nước mắt thật nhanh để thấy đường mà sục, vừa lo tìm lại vừa lo đụng xác các anh chị nằm trong bụi.

            Liềm nói dồn, giọng khản đặc:

            - Em ở đây với chị. Hay chị nhắn gì ông Tư, em đạp xuống Lộc Chánh lần nữa, mua tăng võng, rồi em bất hợp pháp luôn. (Liềm giẫm chân kiểu con cưng). Ở làng tụi nó bắt. Lỡ mai kia thằng Thấn chỉ mặt em thì sao? Lỡ em chịu đòn không nổi thì sao? Thiếu gì người chạy giấy mà chị cứ cấm em vô du kích?

            Ồn ào khá lâu. Cơm khét, lửa tắt, rồi Liềm chịu ấm ức về làng. Coi trẻ con vậy đó mà Liềm đi liên lạc khắp nơi, xuống biển, lên căn cứ, ra Tam Kỳ, Đà Nẵng, đâu cũng lọt.

            Mẫn cười với tôi:

            - Anh cứ khen nó ít lời ít tiếng, từ chuối trồng tới chuối trổ không mở miệng. Bữa nay nó nói khiếp chưa!

            Liềm véo chị Hai một cái, chạy biến. Tôi vẫn phải nghĩ mới nhớ ra ông Tư là anh Luân bí thư. Chao, lần cho ra những mối họ hàng dây mơ rễ má trong làng cũng khó gớm! Chúng tôi hỏng nồi cơm, được bù một bữa giỗ chưa khấn, ông bà thương con cháu chắc cũng xí xoá cho.

 *

 Chị Biền đã gọi móc xích các tổ trưởng du kích bí mật ở lại trong làng. Đêm nay chúng tôi họp liên tiếp ba nơi trền vùng gò để họ đỡ lộ vì đi xa và biết nhau quá rộng. Mới có một tổ xóm Đình lựa lúc địch đang bắn ầm ào, giật một trái mìn đạn 81 kiếm được bốn khiêng. Một chị xóm Đuồi ném lựu đạn, bị xịt. Quân chính trị làm ăn khá hơn nhiều.

            Anh chị em lâu ngày quên mặt ôi, bây giờ che tay quẹt lửa xem lại, thấy tôi giống một thằng trung úy về đóng trong ấp năm ngoái, trước lụt. Chuyện thường thôi. Đến mỗi nơi tôi lại giống một ai đó: thầy giáo, cán bộ ở hầm dạo bí mật, sĩ quan ngụy, nhà báo Sài Gòn, anh bộ đội hồi chín năm, gay nhất là khi các chị nhầm tôi với ảnh.

 Giữa lúc bàn cãi, thỉnh thoảng Mẫn ngoái cổ lại hỏi rất nghiêm:

            - Tụi tôi tính vậy đó, anh Thiêm coi được chưa?

            Mẫn hỏi đến lần thứ ba tôi mới hiểu ý. Giữ lúc địch túa tràn lan, lòng người dễ rối, anh chủ lực có mặt là rất quý. Dù mình trần thân trụi, tôi vẫn là chút móng chút lông của trái đấm thép, từ đâu đó sẽ nện xuống đĩa làm cán cân nảy ngược, thằng địch văng ra ngoài. Bà con làng Cá còn nhắc mãi trận gò Mù U lính rằn ri chết như xếp củi, cả cái trận cò con diệt hai tiểu đội trong đình, trầm trồ rằng lần này tôi về làng Cá “chắc có chuyện”, kèm con mắt nháy cho thêm phần bí mật. Tôi thấy mình phải đóng kỹ cái vai ly kỳ mà đồng bào gán cho. Lâu lâu tôi cố ý chen vào một câu hỏi về chỗ địch dồn xe, đặt pháo. Nói cho đáo lý, cũng chẳng phải Mẫn và tôi muốn lòe anh chị em: góp lại được trung đội du kích, chúng tôi đủ sức đánh những đòn mạnh hơn cú đình làng Cá nữa kia.

            Mẫn gằn giọng nhắc mấy lượt, bàn tay phải chém xuống nòng các-bin:

            - Líp lại à? Ai cho nó líp? Đấu lý gắt, không đi rào ấp, không cử ấp trưởng, liên gia trưởng. Tụi xấu ngóc đầu thì cảnh cáo, bắt cải tạo, lì nữa thì cho ăn chì. Trong đánh ra, ngoài đánh vô, ngày đêm đánh tuốt. Kiểm thảo miết cái chuyện bỏ lỡ thời cơ hồi đảo chánh Diệm rồi, bây giờ không được nằm im chờ thời, rút lui chiến thuật, xin lực lượng trên về giải phóng! Dứt khoát!

            Có cái gì vụng đến chối tai trong các nói của Mẫn. Vừa gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, Mẫn cũng xúc động như mọi người, sao vội ném đánh đốp những hòn đá tư tưởng ấy ra giữa mâm? Mà lại sao không nói cho dễ nghe: “Ủy ban kêu gọi các đồng chí…”. Mẫn cứ một mình ra lệnh tới tới. Tôi đoán trong những người đến họp, phần đông lớn tuổi hơn Mẫn, sẽ có đồng chí cãi bằng cái giọng giễu cợt của kẻ lớn trước một đứa trẻ ưa lý sự. Hoặc tất cả sẽ im lặng nghe và ra về, nếu thương hại không muốn Mẫn bị bẽ mặt… Tôi lầm. Anh chị em hỏi kỹ, bàn ngược xuôi thật nát nước, hứa sẽ làm kỳ được. Tôi sửng sốt khi một bác có râu ba chòm trịnh trọng lên tiếng:

            - Đồng chí xã đội nói phải. Tới năm sáu lăm rồi, đi đâu cũng thấy giành dân giành đất rầm rầm, mình ở đây chịu cho nó nhốt thì thiệt là cha làm thầy con bán sách. Thôi thì vầy, đồng chí Mẫn cứ thưa lại với thượng cấp một lời cho chắc: chết lụt trong ấp một lần cũng đủ ngán rồi, cái làng Cá này không chịu vô lờ vô nơm nữa đâu, trầy vi tróc vẩy tới mấy cũng phá ra cho được!

            Chung quanh gật đầu cả. Một chị bỗng chen vào, rất chua:

            - Dân quyết, ủy ban cũng phải quyết. Ông chủ tịch đeo con thỏ sau lưng vướng quá, sao cấp trên không để ổng nghỉ luôn trên quán bà Liệp cho khỏe, cứ giữ ổng làm chủ tịch hoài vậy hè?

            - Nặng lời chi thím Bảy? Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài…

            - Ngón dài thiếu gì mà để ngón ngắn cầm đầu?

            - Ờ, ờ, ngang như cua vậy mà cứng vỏ đó bà con!

            Giữa những lời xôn xao, chị kia càng nói gắt:

            - Ngang à? Hễ ông Luân tê thấp miết không lãnh cái chủ tịch, tôi cứ bầu con Hai đây nè. Nó con nít mới sạch mũi mà đánh giặc được, cầm quân chánh trị được, nói đâu dân tin đó, còn gấp mấy ông Tám Liệp. “Khen ông cán bộ đại tài, hễ nghe giặc tới chạy dài lên non”, khiêng trả huyện cho xong trớt!

            - Thôi thím Bảy, để ta lo việc chính.

            Mẫn cố can, lảng chuyện, nhưng bà con vẫn xói vào trách ông chủ tịch bỏ dân, tin dùng đứa xấu như Ba Thấn để nó đục khoét phong trào. Sau Mẫn phải cắt rất phũ, cuộc họp mới trở lại bàn việc sắp tới.

            Tôi đã hiểu cách nói của Mẫn ban nãy. Dân Tam Sa chán cái lối thậm thụt tránh né của Tám Liệp. Mẫn bị đẩy vào cái thế phải tỏ thái độ trước dân, không thể nước đôi ba phải theo kiểu “các đồng chí đúng, chú Liệp cũng chẳng sai”. Rõ ràng Mẫn cực lòng lắm mỗi khi nghe chú Liệp bị đả. Mẫn cố tránh nêu tên chú, nhưng phải đập thẳng tay vào những điều tầm bậy mà chú đã truyền cho một số người khác, phải đứng hẳn về phía những ai làm ngược lại chú. Mẫn cũng không thể mượn lời ủy ban tự quản, khi người đứng đầu ủy ban lại là “cây bàn ra”. Rắc rồi quá mất!

            Chúng tôi về sông Rù Rì khi gà bắt đầu gáy sáng, mỗi đứa cõng một bao của ngon trên lưng, nhiều nhất là xôi, dưa bở, đường, cá nục. Những con cá nục to bằng cổ tay, kho ngọt, cuốn với bánh tráng và rau sống, ái chà chà, ngậm mà nghe chứ không muốn nuốt! Bộ ba chúng tôi ngả ra ăn sáng, đùa nở phổi. Tôi buồn cười khi Mẫn xưng em như cũ, thay tiếng tôi rất nghiêm ban nãy. Mẫn trở lại là cô du kích ranh mãnh, vui ồn ào, dám thách tôi khi ăn xôi và chỉ thua tôi một nắm con.

   Chú thích:

            (1)Tha hồ

Chương 10    

  Em nhỏ chăn trâu trên gò xoay cái nón lá, ngó phía biển, quay lại kêu lanh lảnh:

            - Mô-ranh(1) lên đó mấy chú!

            Tôi vừa xong phần lý thuyết về mìn lõm. Cả đội du kích nhấp nhổm, Năm Ri mau miệng hỏi:

            - Cho bắn chớ, anh Thiêm?

            - Tuỳ ông thôi!

            Cậu ta cười toét miệng, kéo các tổ săn máy bay luồn cây chạy xuống bờ sông Rù Rì. Ri vẫn chưa quen với vai xã đội phó mới được giao. Thêm cái nếp tôn sư trọng đạo của dân mình mạnh đến nỗi từ khi tôi mở lớp đến nay, cả Mẫn và đội du kích đều coi tôi như ông thầy, như cấp trên.

            Anh chị em tản vào các bụi rậm, tập chôn mìn. Anh Luân đã khập khiễng cặp chân thấp khớp đi tìm số trai trẻ Tam Sa lánh nạn quân dịch ở các xã trên, mộ được bốn chục du kích mới. Các cô gái làng đòi thoát ly nhiều, nhất là các cô xinh đẹp dễ bị ghẹo bị hiếp, anh chỉ chọn hai chục “Tụi bây ra hết thì lấy ai vừa đánh vừa đấu! Hồi nào địch bắt lính đờn bà, tao cho Hai Mẫn góp một đại đội con gái, mặc sức bây gõ đầu thằng Mỹ”. Cộng với số du kích cũ, Tam Sa đã đủ mỗi thôn một tiểu, nhưng mới được ba người một súng, đang cố kiếm thêm võ khí.

            Chiếc tàu rà lên tiếng từ xa. Một hồi trẻ em khóc eo éo, mấy tiếng ru hời rầu rĩ. Tôi nhìn nó sao cứ nhoè nét mãi. Tôi dụi mắt, chợt thấy bả vai nhức mỏi. Chắc tại thức đêm lội cát nhiều, hay lại trở trời. Để coi tổ Năm Ri bắn ra sao, tập bắn máy bay bốn ngày liền rồi.

            . …Cấp thiết hiệu triệu ông Nguyễn Luân và bà Phan Thị Mẫn và toàn thể anh chị em cán bộ và du kích đương nhiên hoạt động Việt cộng hãy cấp thời hồi chánh...

            Máy bay kêu rè, giọng thằng xã Chinh cũng rè rè đọc cái bài ghi âm dốt hay nói chữ. Mắt tôi vẫn hoa. Tôi rùng mình liền mấy cái. Bậy rồi. Những con phát-xmô-đi-om trong máu đang phá quấy. Tôi đã đưa liều thuốc sốt rét cuối cùng cho hai cậu du kích chia nhau hôm kia. Biết làm vậy là sai, dễ hỏng việc, nhưng tôi không cưỡng nổi... Chiếc tàu rà xuống thấp, bay dọc sông. Một loạt súng trường lốp đốp. Nó rướn lên. Loạt khác đuổi theo. Nó bay gấp qua đầu tôi, bên cánh trái hiện một mảng sáng. Cô Cang giẫm chân:

            - Mẹ cha nó, rách miếng cánh lòng thòng mà cứ bay!

            Tôi quay lại, định ném một câu đùa, nhưng hàm dưới bắt đầu lập cập không nói được. Rét. Trong mỗi đốt xương tôi, chất tuỷ đã đông thành những giọt thủy ngân nặng và rất lạnh, chạy qua tràn lại. Tôi không chịu nằm, cố động đậy chân tay, làm cái gì đó để đè bẹp cơn sốt. “Lướt sốt” nhạy nhất là khi địch đánh úp. Tôi lê ra ngồi chỗ sáng, cái nắng nung người trước đây mươi phút còn đáng sợ, bây giờ chỉ sưởi được một chút những chỗ da để hở. Pháo bắn lên sông Rù Rì, trả thù cho cái cánh rách tụi nó nã hàng giờ là ít. Tiếng nổ lọt khó khăn vào tai tôi đầy hồ đặc.

            Năm Tuất đập vai tôi nói gì không rõ, chỉ tay vào bụi rậm. Anh nhắc lại to hơn, tôi bắt được từng đoạn cụt ngủn như văn điện tín:

            -..Phơi nắng …nhập vô xương khó lành...nằm võng...chỗ thấp, lỡ văng mảnh...

            Anh đã lấy võng tôi buộc vào chỗ trũng có bóng cây. Cô Cang xoắn xuýt hỏi tôi ăn cháo hay cơm, tôi chỉ để ý rằng giọng nữ thanh xói vào lỗ tai ù dễ hơn giọng nam trầm; hèn gì các cậu bị bom ép thích nói chuyện với cô hộ lý hơn với thủ trưởng... Không nên để anh em dỗ mãi vì một keo nhớ rừng. Tôi vào nằm võng lặng lẽ run, thu hình thật nhỏ cho người khỏe khỏi vướng. Năm Tuất vét bốn cái võng nữa đem trùm lên người tôi. Tôi thò đầu ra thở, thấy anh lại chúi vào đống sổ sách và hành hạ cây bút chì: cắn đầu bằng để nghĩ, mút đầu nhọn để ghi. Anh vừa được chỉ định vào ủy ban nhân dân xã, nắm kinh tế, đang lo gỡ đống bòng bong của thằng Ba Thấn để lại. Cô Cang áo trắng nón trắng, xách nồi gạo xuống chân đồi nhen lửa nấu cơm, lẫn trong những bếp đun nước và lò đốt than của đồng bào trong ấp chiến luợc ra kiếm củi cắt lá, róc vỏ sim, giấu gạo đem cho chúng tôi, đưa tin địch và gác cho chúng tôi từ bảy giờ sáng đến năm giờ chiều. Phải mất bốn ngày đấu tranh và hai người bị thương nhẹ, cha con thằng Chinh mới chịu mở cổng ấp, còn hẹn năm giờ trở đi chúng sẽ kêu pháo bắn vào bất cứ một bóng người, một búng khói nào trông thấy trên vùng gò đã “bàn giao cho Việt Cộng”.

            Ai ra gặp du kích cũng nói:

            - Cha con xã Chinh lên râu lên nước hung rồi đó.

            Theo lời tả thì thằng xã Chinh nó tinh ma đến nỗi ốm teo ốm nhách, mặt bằng hai ngón tay chéo;bộ râu ba chòm thưa cứ ngọ nguậy quanh năm vì hắn nhai trầu không ngớt miệng. Mới lên bảy, hắn đã biết tránh sai vặt bằng cách “dạ” một tiếng thật to và chạy biến, như có ai gọi ngoài ngõ. Tên cúng cơm là Chàm, đặt tên con đầu là Chình, sau đổi tên chữ mới, bỏ dấu huyền. Đời Việt gian của hắn cũng chẳng xuôi chèo mát mái, ông thầy Mười nhớ kỹ lắm. Thời Tây, nắm triện đồng chưa nóng tay đã bị kiện lạm thuế, bán hai mẫu ruộng đút quan mới khỏi tù. Lên lý trưởng thời Nhật chỉ kịp ôm sổ ra nộp ủy ban nhân dân cách mạng. Mắc kẹt trong vùng tự do dạo chín năm, hắn vô Quốc dân đảng làm điệp, bị ta giam hai năm. Sau Giơ-ne coi như mả phát, hắn vọt lên quận phó được đâu sáu tháng, lập công giết luôn tám người kháng chiến cũ. Vẫn bị phe Diệm đá phốc, phải dắt con vô Phan Thiết trốn ít lâu, rồi về nhận một chức bạc nhạc là chủ tịch Phong trào(2) xã. Năm 63 Diệm đổ, hắn bị Quốc dân đảng xếp loại “thiếu lập trường”, chỉ kiếm được cái ghế đại diện xã, ít lâu sau mới giành được chân cảnh sát trưởng cho thằng con lêu lổng.

            Con chó bị đánh mãi còn nhe răng gừ với chủ, hắn không gừ. Chẳng phải vì “mả ông nội chôn trúng đất bài ngà, sanh ra máu ưa lãnh việc làng, bị cái chưa đứng số” như hắn nói khi nhậu lai rai với đám quen. Hắn làm tề chỉ vì ruộng.

            Những đời cao tằng tổ khảo đã truyền lại cho hắn tám chục mẫu ruộng cùng với cái khát ruộng, mê ruộng, say ruộng khó tưởng tượng nổi. Qua hơn năm chục tuổi đời, trải năm trào chánh phủ- hắn tính các thời Tây, Nhật, Việt-minh, Diệm, và chưa biết đặt tên gì cho cái thời láo nháo hiện nay- hắn càng tin có ruộng là có tất cả. Thẻ bài, đồng triện có thể mất, nhà có thể cháy, vàng bạc có thể bị cướp, trâu bò và cả lũ con nữa có thể chết, chỉ có ruộng là ngàn năm không suy suyển, mỗi năm đều dặn đẻ cho hắn nhà gạch trâu cái. Hắn còn đứng trên ngọn đống lúa tô là còn nhiều người đến van vái xin làm rẽ, vay lãi; nắm nhân tâm bằng chén cơm là chắc nhất. Mỗi chuyến lên voi dù rất ngắn, đều giúp hắn cấu chỗ này véo chỗ kia, đắp cho ruộng hắn tròn hơn, liền bờ hơn, ít ra cũng bù một chỗ sứt mẻ khi xuống chó, hay cùng lắm hắn vẫn dựa chức mà giữ được vốn cũ, chờ thời ngoi nữa. Khi một số nhà giàu bán ruộng để làm giàu kiểu mới, hắn cười khẩy vét tiền mua ngay, rất khoái chí khi các công ty lần lượt vỡ nợ, máy hỏng xe trúng mìn. Đã nói nhứt điền nhì thổ mà!

            Cái bệnh nghiện ruộng ấy, cái đạo thờ ruộng ấy chỉ có thể so với nỗi căm ghét dữ dội đối với những ai định lấy ruộng hắn. Từ thượng cổ đến nay chưa hề bao giờ xảy ra một chuyện nào quái gở như vậy, bốn ngựa xé thây không ác bằng trăm tay xé ruộng, hắn kêu vậy. Hắn xuýt lồng lên khi nghe Diệm ra dụ cải cách điền địa, đọc kỹ hắn lại thấy khoái: không động đến gia sản một trăm mẩu tây trở xuống, không động đến những ruộng đất canh tác bằng cơ giới, to mấy cũng được. Ngon quá rồi, thiếu gì mánh lới do gian, chia nhau đứng tên, đặt một máy bơm cũng gọi là cơ giới! Đến thời con cháu hắn vẫn còn rộng đường làm giàu. Cản đường hắn lúc này chỉ có Việt cộng.

            Em ruột hắn, chủ mấy chiếc ca-nô chạy sông, một lần về thăm quê vui miệng nói rằng chánh sách ruộng đất của “bên kia “ bây giờ coi bộ mềm dẻo. Giữa đám giỗ mà hắn ném luôn miếng bã trầu vào mặt em, chửi cha thằng chó đẻ tuy cả hai chung một cha một mẹ:

            - Mềm với dẻo! Đền với bù! Tụi nó rượt tao chạy xịt khói đen khói trắng, mày ăn gì mà đi bốc thơm cộng sản?

            Thằng em chẳng vừa, túm cổ cái chai lít thủ thế, cười mũi:

            - Thằng này có miệng ăn cũng có miệng nói, đứa nào hót chánh phủ cứ việc hót thử coi: sát nhơn thì giả tử, ăn đất, còn chống đò chở gạo thì ăn cơm uống nước thiên hạ!

            Mối thù âm ỉ từ ngày chia gia tài đến nay mới xì ngọn, lại bị giập ngay, chưa ai đủ sức hại ai.

            Hắn không chịu nổi ý nghĩ mất ruộng, dù được bồi thường bằng nhiều cách. Cầm một nắm giấy bạc hay cổ phiếu trong tay, ù ù cạc cạc giữa những cỗ máy và những bài toán, hắn chỉ thấy hắn là cái cây đứt rễ tróc gốc, mớ lá còn dính đấy nhưng sẽ khô dần rụng dần. Hắn chống cộng với cái điên rồ của ông nội hắn bóp cổ vợ lấy tiền mua thuốc phiện, cái đần độn của cha hắn đi ăn cắp từng nắm lúa mót mà để thóc mục từng cót một, cái cuồng tín của hắn đã keo đã quánh lại trong tim óc. Ruột thì vậy, nhưng vỏ hắn lại trơn, hay đổi màu. Tùy lúc, hắn biết cười hề hề, lau nước mắt, mắng một tay sai, dám hỗn với cô bác, khề khà kể tâm sự như cởi ruột ra, và cho giết hết người này đến người kia.

            Thằng Chinh con có khác. Hắn cao hơn cha một đầu, biết chút tiếng Anh đủ làm le với các cô chiêu đãi viên, ưa chơi vất tiền qua cửa sổ, quanh năm mặc áo quần lính dù và đi bốt tuy không phải nhà binh, đánh người giết người như chơi thể thao, hay tấm tắc khen cộng sản gan và giỏi để chọc tức cha. Cha con chửi nhau lắm trận ra trò, chỉ vì cha ham ruộng còn con ham rượu ham gái, cha chưa nã hết của chìm mà con đã rạch bụng “đương sự”, cha xỏ lá mà con du côn. Hình như thằng này hoảng sau khi chết hụt ở làng Cá, mất vùng Tứ Nhơn, lại được ủy ban gửi liền hai lá thư khuyên nhủ và cảnh cáo. Cách đấy vài tháng hắn còn than thở với bà con dưới Nhị Lộc rằng mất của hơn mất mạng, tình thế này trước sau gì hắn cũng nhảy vô Sài Gòn, Phan Thiết kiếm ăn, cái xã này “cảnh đã khó, sát nữa càng mau chết”. Hắn gửi hai tút thuốc Ru-by kèm một thư phân trần đến ủy ban trong dịp Tết. Đến nay, tin Mỹ vào và trận càn lớn đã sửa gân lại cho hắn. Hắn dẫn lính đi phục như cũ, bắn bị thương hai chị đấu tranh trong mấy ngày qua, đang mộ lâu la để ráp lại trung đội dân vệ bị đánh nát.

            Tôi nằm co con tôm, kẹp tay giữa hai đùi cho đỡ lạnh, vẫn nghe những khúc câu hụt đầu đuôi như đánh điện qua võng kaki. Năm Tuất cầm chắc thằng Chinh cha đi trên tàu rà, cứ nhè thằng ngồi sau mà bắn, không rớt máy bay cũng giết được ác ôn. Một cô cãi bằng giọng ồm ồm. Ấy là Rốt chị tức Hồng Lan, tức Lan B, bí thư chi đoàn của đội du kích xã. Mẫn hay kéo Rốt chị đi cặp kèm để làm loa hô lệnh chiến đấu, tha hồ mà quát đại đội bên phải tiểu đoàn bên trái cho giặc rúng xương. Mẹ cô đẻ sáu con, đặt cậu thứ sáu là út hơi sớm vì sau đó còn cả chuỗi nữa: Thêm, Thừa, Sót, Rốt chị, Rốt em, Hết, vị chi chẵn là một tá. Những tên đẹp trong tiếng ta có hạn, số cô muốn đổi tên lại nhiều vô kể, nên tôi mới tính qua loa đã thấy từng gặp đến tám cô Hồng, năm cô Ngọc, bảy cô Lan, còn Mai thì đủ các màu: Hồng, Bạch, Thanh, Hoàng, Tuyết...

            Năm Ri về thở hổn hển, cười, hỏi tôi. Đội du kích gom lại, bàn rất hăng về chầu phá ấp tối nay, tôi cố nghe để nhắc một chỗ bỏ sót nếu cần. Cái giọng the thé kia là của cô Thúy tức Kim Hương, xinh và hiền, rõ thật là tiếng phản người. Còn cậu Chừng nói khàn khàn lại mới mười bảy tuổi, má phính bấm ra sữa. Cả một lớp trẻ rất bốc, táo bạo, dễ thương, phải cái còn vụng, chưa đủ chín chắn. Họ sẽ giật lại Tam Sa từ tay địch.

            Quân địch dồn về đây đông nghịt, đông đến phát ớn.

            Trong sáu thôn của Tam Sa có hai tiểu đoàn đóng giữ. Kiểu lấn chiếm của chúng ở đây kỳ cục lắm, na ná như nằm vạ. Chúng không càn rộng nống mạnh như mấy ngày đầu, cũng không chịu rút, rào ấp thì uể oải, tuần gác hay phục kích chỉ lấy lệ. Bọn này bị đánh cho đui què mẻ sứt ở Việt An, chạy về đây nghỉ tạm lấy hơi, dựa lưng vào cái căn cứ gần An Tân đã được đặt tên là Châu Lai hay Chu Lai. Các xã chung quanh Chu Lai đều đầy nhóc những đơn vị rệu rã như vậy, vùng này biến thành cái túi đựng lính thất trận của tỉnh Quảng Tín. Chúng chửi tụi sĩ quan như hát hay, tát tai bọn tề và dân vệ, gào đòi ăn, đòi mặc, đòi về ở phố.

            Thằng đại úy sẹo má đóng trong nhà mẹ Sáu nhờ mẹ ra gò năn nỉ mấy ông Giải phóng đừng cắc bụp nữa:

            - Theo Mặt trận cực lắm, tụi tôi không dám. Rút đi nơi khác thì còn chỗ nào nữa mà rút! Cái Châu Lai sắp sửa giao trụm cho Mỹ rồi, thành phố chật ních, đồn bị hốt... Bà nói giùm các ổng chia tạm cho tụi tôi mỗi thôn một liên gia thôi, ăn ngủ ít lâu cho tỉnh hồn, còn mấy liên gia khác các ổng mần tuồng hát bội mặc sức. Lâu lâu tụi tôi bắn lên trời một mớ, Mỹ nghe mới chịu trả lương.

            Chúng tôi nhắn bảo hắn ra gò cắm lều mà ở. Hắn lừng khừng, sợ “ở dồn cục, các ổng bứng cả cụm”. Dù bị bắn tỉa không ngớt, quân hắn vẫn chết ít hơn ở những cái lò nướng lính như ngã ba Việt An. Hắn còn đóng trong làng, cha con xã Chinh còn đốc dân xây ấp, chúng tôi còn đánh cả ngoài lẫn trong. Chị em binh vận đã dắt ra gò được mười một lính, có bảy súng, còn đạn, lựu đạn, mìn thì lấy đủ cho du kích dùng. Ta đang ém địch lại, mỗi ngày một ít.

            Còn một chút lấn cấn nữa: nhóm anh Liệp.

            Anh với bốn năm cán bộ ngành nằm lì trên Tam Trân với nhiều thứ bệnh thình lình nổi dậy trong người. Chỗ đồng chí ai lại truy nhau cái khoản sức khoẻ! Anh Bảy quai nón về họp chi bộ Tam Sa bên sông Rù Rì, khuyên chúng tôi cứ đánh tới tới, để nhóm “đau ốm “ kia nghỉ dài hạn. Bây giờ thằng địch đang duỗi đang nống, chưa nên vội xốc xới lại đội ngũ. Cũng được. Cố kéo họ về sẽ lắm cái phiền: đang vật lộn với địch mà vướng mấy anh treo võng nằm dài, động mở miệng là bàn ra bàn rùn, “cản mũi kỳ đà”, chỉ thêm cực. Còn đỡ hơn mấy năm trước, hồi anh Liệp làm bí thư, anh Luân với Mẫn mỗi tí lại phải chạy lên quán bà Liệp để “xin ý kiến”, mà nào có ra hồn cái ý kiến!

            Tuy tạm chịu vậy, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi bị vấp. Hôm kia vấp nặng nhất.

            Ban cán sự Nhơn Phước ra hỏi về việc tạm cấp ruộng công còn mấy chỗ dở dang. Mẫn bí, anh Luân cũng không nắm được, hứa sẽ hỏi lại anh Liệp. Nhân khi Mẫn sắp về huyện họp, tôi bàn thẳng:

            - Không để rụng cái đuôi nòng nọc, con cóc đừng hòng nhảy. Kỳ này đề nghị huyện cử người thay các ổng cho xong.

            Mẫn trách tôi nóng. Phải chịu khó đợi họ chuyển chứ. Giằng co một lát, tôi nổi nóng thật:

            - Ừ thì tôi là người ngoài không hiểu những chỗ lắt léo, tôi thô bạo... Tôi tàn nhẫn với ông Liệp vì tôi thương bốn ngàn bà con Tam Sa bị ông ta bỏ rơi. Các đồng chí chỉ sợ mất lòng ông Liệp, không sợ mất lòng dân phải không?

            Mẫn kêu lên, giọng đã hơi nghẹn:

            - Anh làm như chú..như họ là địch hay sao á...

            - Họ là máu thịt của ta nhưng mà là thịt thối máu hư vẫn phải mổ để thân mình lành bệnh mà đánh giặc! Bộ đội chúng tôi liều chết cứu nhau, vậy chớ ai rụt cổ không tiến thì xin mời giao chức lại cho người khác lập tức, còn chuyện tình cảm để đó nói sau! Hay các đồng chí tưởng không có ai thay nổi mấy ông “rùa hành chánh” đó? Hay là lỡ ăn mì uống bia ở quán bà Liệp, bây giờ há miệng mắc quai?

            - Anh Thiêm!

            - Phải, tôi nóng. Nóng mà có lý. Bây giờ viết thơ không kịp, nhờ đồng chí Mẫn báo cáo miệng cho tôi điều này: chi bộ có một đảng viên sinh hoạt ghép tên là Tư Thiêm, hắn đề nghị cách chức Tám Liệp và một số cán bộ khác vì tội không chấp hành nghị quyết bám dân đánh địch mà lại còn hoạt động bè phái. Hễ huyện không ưng thì cứ ghi biên bản, đến khi phong trào Tam Sa nát bét thì lật lại coi hắn có trung thực với Đảng với dân hay không!

            Tôi bỏ đi luôn đến chỗ đội du kích tập bắn. Không có cái chén ngọc nào để uống bảy chén nước cho nguôi giận-hình như sách Luân lý giáo khoa thư thời Tây bày vậy – tôi bứt nhai tạm những chùm chà là non,dẻo và chát. Nói toạc móng heo một lần lại hoá hay, giữa lúc hằng ngày máu đổ mà cứ cù nhằng cù nhẩy...Nửa giờ sau anh Luân vào ấp, Mẫn mới ra đi. Tôi nhìn theo cái bóng mảnh khảnh băng đồng một mình, chợt hối đã quá nặng lời. Suốt hai hôm Mẫn đi vắng, tôi cồn cào nhớ Mẫn, thương Mẫn. Trong đợt thử thách mới này, Mẫn chịu khổ hơn ai hết, và Mẫn cũng bị chạm đau nhất mỗi khi “khúc đuôi” phá quấy. Dù đúng đến mấy, tôi vẫn không có quyền đốp chát với một đồng chí như thế...

            Cùng với mối lo hỏng việc chính từng lúc giày vò- Năm Ri mới dẫn tôi xuống Chu Lai được một đêm, may sao tụi Mỹ chưa kéo đến- cái nắng đầu mùa cũng nung cho tôi sốt ruột sốt gan.

            Từng bước, mùa hè lấn tới khắp nơi với bông trang đỏ tươi, bông vạy đỏ sẫm, đọt sim đỏ bầm, với tu hú lảnh lót trên cành và cuốc kêu khắc khoải trong bụi. Chúng tôi lao đao vì nắng. Những chỗ trũng nhiều cây rậm thường bị trực thăng và pháo bắn, chúng tôi phải ở rải trên gò cây còi, có hôm phơi lưng như dân Quảng Ngãi phơi đường. Nắng trưa rót xuống thẳng đứng, chạm mặt đồi sỏi thì toé thành lửa hàn, bốc lên những chùm bong bóng vàng bay theo mắt người vào chỗ râm, vào cả giấc ngủ. Ngày trở nên đáng sợ, ngày sau nóng và dài hơn ngày trước. Đêm đã co mình thu ngắn lại, vẫn không thoát hơi nóng của ngày bao vây hầm hập, một thứ nắng đen. Gió nồm là luồng hơi phả từ miệng lò. Năm ba hôm một lần, trời kéo mây khói đen và đổ một trận mưa dông rất to hột, sấm sét đủ cả, nhưng chỉ vài phút đã tạnh, để lại làn hơi đất trắng đặc rất nồng mũi làm chúng tôi chóng mặt và đổ mồ hôi như xông cảm.

            Mệt mấy chúng tôi cũng đêm đêm vào làng, không ai chịu ở “nhà”. Đánh bọn lính gác tuần, phá rào ấp, rút kinh nghiệm đợt đấu lý vừa rồi, nhận đạn của các em góp, xử cả những vụ kiện trâu ăn lúa và hàng xóm mất gà, khối việc. Nằm ngoài gò một mình rất chán. Muốn ngủ cũng phải đợi đến một hai giờ sáng mới chợp mắt được. Lúc ấy, mồ hôi ngấm ướt sũng áo quần và võng đã bắt đầu gây một cảm giác dễ chịu như gió mơn trên da, rõ nhất là dưới lưng, nơi vải ép nhiều lớp lại thấy mát hơn tay chân để trần. Những đám mây muỗi đã tan, vòi muỗi chích qua ba lần vải nhoi nhói dưới mông nghe chừng đã no máu, pháo địch bắn bậc thang lùi về giã chung quanh căn cứ. Thiếp được vài tiếng xong phải dậy cuốn võng nấu cơm vắt và ăn luôn thật no phòng địch càn phải đánh suốt ngày, sau đó có thể ngủ ngồi thêm một lát nữa, súng gác ngang đùi và bao đeo trên lưng.

            Ban ngày, chúng tôi vượt những giờ thử lửa bằng cách động tay động chân liên miên. Ham làm thì quên nóng. Hết phiên bắn tỉa lại về học. Bài học ngó lên trời mà xếp. Nắng gắt. Lên lớp lý thuyết quân sự. Nắng dịu, ra thao trường. Mưa, căng nhựa ngồi xúm chùm ôn chính trị. Hở ra lúc nào anh em lại đào hầm tránh pháo, đan phên để đưa xuống lát các hầm bí mật vùng cát, vót chông, nấu thuốc bom đúc mìn, men vũng lầy tóm những chú ốc bươu ngoi lên bờ cỏ tránh nước nóng, tìm những chùm chà là non về nấu canh với thứ rau má già đắng cố ăn để giải nhiệt.

            Nhờ không ngớt “vừa báng vừa mài sừng”, đội du kích vẫn hăng sau ngót nửa tháng bật ra khỏi làng, tránh được cái nạn mỗi người một võng nằm thở dài sườn sượt như tôi gặp ở vài nơi. Cô Rốt chị có giọng đàn ông và cậu Sung cao kều được vào Đảng, bảy anh chị em nữa vào Đoàn, ai nấy đều thoải mái cả. Phải cái sức khoẻ xuống nhiều. Bụng đói mà suốt ngày không ăn được, “cơm ứ, nước ừ”, chỉ còn bữa khuya bà con mời trong xóm là chén đẫy bụng. Khắp người nổi sẩy, sẩy biến thành những mụn con đỏ lấm tấm, rồi giữa vạt mụn nẩy cái nhọt cứng, nóng và rất đau. Mặt hóp và đen, nổi lên toàn là răng vêu và mắt thô lố. Bà con các ấp ra thăm cứ la trời anh em cực quá, riêng tôi hay bị trỏ ngón tay nhất: “Thì coi thằng Thiêm đó, bộ đội nuôi nó mập trắng mập mềm, về ta mới mấy bữa hoá con cóc đen!”. Tất cả của ngon trong làng theo ngõ tắt kìn kìn đi tìm chúng tôi trong những ngày đầu, rồi cạn dần. Đang lúc giáp hạt, thêm bị bắt đi rào ấp, bị tụi lính cướp ngày trộm đêm, số lớn bà con than thở một lát rồi dặn chúng tôi cứ đến vạt sắn, vườn dưa bở, chỗ đặt nò tôm, kiếm được gì ăn nấy. Đội du kích lại đông lên vòn vọt. Ít thầy đầy đãy, nhiều thầy chia bảy chia ba, nồi cơm của chúng tôi bây giờ mỗi lát khoai khô chỉ cõng được năm ba hột cơm gọi là có. Gặp hôm hụt bữa chúng tôi đem cô Chín Cang ra trêu để “thêm phần lạc quan tin tưởng” bởi cô vẫn trắng và tròn quay như khúc sắn luộc, chỉ ước sao cho xuống bớt ít cân cho dễ chạy và nhỏ bớt mục tiêu.

            Cái thú ngâm mình dưới sông Rù Rì phải tạm dứt. Như chim gõ kiến, tụi trực thăng rỉa đại liên vào từng hốc đá bên bờ hiện ra dưới gió cánh quạt, trúng một cậu núp khá sâu. Chúng tôi dời chỗ vài lần, nay về đóng chung quanh giếng Tiên. Một con suối cạn phơi lòng đá trắng mốc còn giữ lại một giếng nước mạch rất trong, mát lạnh, nắng mấy cũng không cạn, chẳng của tiên thì của ai nữa. Chỉ tiếc rằng nàng tiên nào ấn gót sen thành giếng lại có bàn chân nhỏ xíu, nên cứ nửa giờ giếng mới rỉ đủ nước cho một người tắm hà tiện, giá được một vó ngựa Phù Đổng thì hay hơn. Tôi thử tính, thấy đây là cái giếng tiên thứ tư đã gặp.

            Những làng quê ta rải dọc miền trung, nằm giữa núi cao biển rộng, bao giờ cũng có một giang sơn thu nhỏ bên mình như chơi non bộ. Làng Cá này chẳng chịu kém ai. Con suối nhỏ có những bông bạc vẫy người kia được đề bạt vượt cấp lên sông. Núi Chúa chỉ là một trái đồi nhỉnh hơn đám bạn bè đôi chút, trên đầu chứa một chỏm rừng cấm. Nếu nó lùi về Tây chừng mười cây số thì mất ngay tên Chúa, cũng không ai gọi là núi nữa. Tôi qua lại vùng gò hoang nhiều lượt, gần đây mới biết dọc đường có tới ba cái đèo, riêng một cái được thổi phồng là đèo Trâu Lăn, nghe mà dựng tóc!

            Dù đã quen cảnh mến người, tôi vẫn thấy cần đi nơi khác.

            Tôi biết mình là đứa hay sa đà, dễ bị những xúc động một lúc cuốn xa công việc chính. Ở với xê mình không sao, nhiệm vụ với tình cảm cứ xoắn vào nhau như hai tao(3) đánh thành một sợi dây. Khi đi lẻ mới phiền. Áo, quần, thuốc, gạo, gặp ai quá thiếu tôi trút dần ra cho, sau đó lạnh run không có mặc, ốm không có thuốc, đói chảy nước miếng trong. Về xã gặp việc gì cũng ham, cũng lao vào, từ dạy hát cho các em đến kẻ khẩu hiệu phòng bệnh, được bà con khen đấy nhưng giờ nghỉ mất sạch. Bậy nhất là chuyến chuẩn bị chiến trường năm kia. Tôi đưa một tổ về ở xóm gần đồn 96, sửa soạn cho xê mình một đòn hốt xe tiếp tế. Địch càn, chúng tôi rút, bị một ông già mắng: “người ta tay không đánh giặc, các anh súng ống đầy mình mà chạy cong đuôi vậy à?”. Cả tổ cùng nổi tức khí, đằng sau quay, đánh suốt buổi, hạ mười ba khiêng địch. Tôi với một cậu nữa bị thương, phải về đơn vị để lãnh thêm một keo vò đầu rất đáng kể.

            Cuối lá thư gửi về H.68, tôi viết xin chuyển ra Đà Nẵng, cũng để tránh một chầu sa lầy mới. Lý sự vững chắc lắm nhé. Được giao tìm hiểu Mỹ, lại đụng đầu với Mỹ hoài. Dù muốn biết thêm về ngụy cũng không nên ở đây: cả miền Nam thắng như chẻ tre, riêng Tam Sa lui về cái thời làm ăn rị mọ(4) trước đồng khởi, còn điển hình chỗ nào. Ai dùng đến kinh nghiệm chống líp của xã này, khi quân ta đang vây các thành phố? Và mấy nơi đã mắc những rắc rối trong hàng cán bộ như đây, để hỏi nên gỡ rối cách nào? Tôi cuốn gói là phải. Đà Nẵng là nơi tôi thuộc kỹ từng phố nhờ những đêm đạp xích lô, nơi tôi quen với lớp trẻ nhiều, trẻ thích chụp ảnh hơn già. Đà Nẵng ngập dưới dòng thác lính thủy đánh bộ Mỹ ùn ùn đổ vào. Đà Nẵng ù tai choáng óc vì phản lực Mỹ ngày đêm lên xuống, Đà Nẵng hừng hực khí thế muốn nổi dậy...Tôi tự thuyết phục mình rất hăng, nhằm cố gỡ những ngàn sợi tóc đang buộc tôi vào mảnh đất và nhóm bà con đang một lần nữa mắc cạn. Tôi cũng sờ sợ khi nhận ra mình thương Mẫn nhiều quá. Phải chi Mẫn là con trai thì hay biết mấy, chúng tôi có thể thân nhau hết mực mà không bao giờ vượt qua tình bạn...

            Khó tưởng được cái sức bền dẻo lạ lùng của Mẫn. Mẫn làm và học chung với đội du kích, còn bận thêm trăm thứ việc không tên của người thay mặt chi ủy và ủy ban nắm xã đoàn, xã đội, còn giữ vai người chị Hai thu vén tuy không lớn hơn anh em là bao. Tôi không biết cái võng của Mẫn là cũ hay mới, bởi Mẫn luôn ngủ sau dậy trước. Đi bắn tỉa hay phá ấp về, Mẫn đợi anh em nắm hết mới đi tắm giặt một mình, chớp mắt một lát đã dậy nấu cơm. Cánh con trai ngáy giòn đến khi nước uống rót đầy ống, cơm bày sẵn, tắm xong lại cởi áo rách ném nhờ chị Hai vá, gạ chị Hai bắt ốc hái rau, lén xé sổ tay chị Hai quấn thuốc hút, đủ trò. Mẫn chỉ cười cười trong khi các cô trẻ nổi cáu.

            Mẫn hay nhờ tôi bày thêm một ít lý thuyết bắn máy bay và các công thức tính lượng thuốc nổ phá cầu, phá lô-cốt. Tôi ngả lưng, vừa quạt vừa giảng bài. Mẫn ngồi ghi trên đầu gối, mồ hôi đọng từng giọt bằng hột đậu trên mũi, cây bút bi chịu nóng không nổi cứ trào mực ra giấy và tay. Đôi lần tôi mệt quá thiếp đi nửa chừng lát sau mở mắt thấy Mẫn đang may cho con nuôi cái áo bằng vải cũ, hoặc chỉnh riêng một cậu lén bắn gà rừng giữa lúc thiếu đạn. Mẫn cùng anh em gọi đùa tôi là thầy Thiêm, và không hề giấu vẻ mặt tủi tủi khi tôi nói muốn đi nơi khác. Cái buồn lộ liễu của đồng chí muốn giữ nhau, vậy thôi.

            Nhiều tiếng nổ to đánh thức tôi dậy. Pháo bầy bắn lộn xộn.

            Tôi nghiêng đầu, lờ đờ nhìn qua mép võng. Cái gì cũng khang khác. Tôi nhắm mắt, lại mở, nhận ra chỗ khác ấy. Da trời ngả màu xoài chín, lá cây vàng như giữa thu, ở cuối võng hòn đá trắng tôi đặt ba-lô cũng nhuộm nghệ, tựa hồ một cơn nắng quái chiều hôm đang phủ ánh vàng ủng lên mọi thứ. Tôi chống tay ngồi dậy, thấy trong đầu có một viên bi sắt của xe tải, hai vai nhức như vừa rán cõng gạo thi với một cậu miền núi... Tôi lên cơn li bì hệt một chú lính mới bóc tem, không phải ngây ngấy dun dún một lát rồi hết như lớp kỳ cựu đường rừng đã chai ra với loài muỗi chổng mông trên trời. Con ma sốt vừa làm một chầu truy lĩnh. Bây giờ tôi đang nhìn trời đất bằng cặp mắt đẫm kí ninh vàng, tuy rất thèm được một viên vỗ vào miệng mà nhai rau ráu.

            Lại nổ nữa. Sét, không phải pháo. Trên gò sỏi khô trụi, tiếng sét dội rất sắc và giòn, như bình thủy rơi xuống nền nhà. Mây đen đằng Tây đùn lên nhanh, gần đến mặt trời. Lát nữa mưa cầm chắc. Tôi lập cập mở tấm nhựa ba thước ra căng trên võng, rồi vịn cây lần tới giếng, xương ống chân lún vào bàn chân mềm nhũn, khá đau. Tôi rửa mặt, lấy góc khăn cọ lưỡi cho đỡ đắng miệng, vào lật xem mấy cái soong để bên võng. Ban nãy Năm Tuất cắt người ở lại trông nom, tôi gạt đi, sau Chín Cang nấu bữa tối để sẳn cho tôi, À, rất khá, một soong cháo hành to ăn với cá ngừ kho tiêu. Nhờ trời, tôi sốt nặng mấy cũng ăn được nên ít mất sức, anh em xê mình hay trêu: “Hừ ừ ừ..nấu cho tao...hừ ừ..vài lon gạo cháo thôi..” Cháo còn nóng, mồ hôi túa ra làm tan cơn nhức đầu, người nhẹ hẳn.

            Ai đó từ phía sông Rù Rì đi lên theo lòng suối khô, nhảy bước ngắn bước dài trên tảng đá. Một em gái nhỏ từ ấp ra tìm chúng tôi, vòng xuống sông tắm, lang thang tìm giũ chà là, giờ mới lên. Tóc xõa quá vai, áo lót trắng không tay, quần vo cao, tay phải bưng cái nón ngửa đầy chà là chín đen, tay trái bốc bỏ miệng... Tôi rửa xoong chén xong trở lại ngồi võng, thấy Mẫn đang đi tới. Mẫn chứ không phải em nhỏ nào cả. Huyện đóng tít gần chợ Cây Xanh, sao mới hai ngày Mẫn đã về. Và...làm lành với nhau như thế nào đây?

            Mẫn đặt cái nón ngửa bên tôi cười:

            -Ăn chà là đi anh. Buồn ngủ gặp chiếu manh, em đụng mấy bụi chín sớm...Chết cha, sao anh xanh dữ vậy?

            - Trả nợ ông thần rừng...

            - Mà sao anh Tuất không để ai ở nhà hết? Đêm hôm mưa gió, lỡ trúng pháo… Con Cang tới phiên trực cũng đi mất, tầm bậy quá!

            Tôi xuê xoa nói lảng cho xuôi. Vậy là êm được bước đầu, khỏi ngượng ngập lựa lời bắt chuyện. Một lần nữa dáng người Mẫn khác hẳn đi: Bớt cây các-bin và cái mũ tai bèo, tóc xõa và kẹp đuôi vòng lên gáy cho ngắn bớt, để lộ hai cánh tay trần, trông Mẫn nhỏ lại như mười lăm mười sáu, cỡ Út Liềm.

            Mẫn đi họp nhanh nhờ mượn xe đạp có đèn của chị Bỉnh, khúc ngoài kia đường tối, đạp ban đêm được, khi về còn kịp ghé huyện đội. Mới thấy mặt Mẫn các anh đã réo: “Nụ xoè, dây cháy chậm, kíp nổ, bày mâm tiếp khách đây!” Mẫn túm nhấc cái khăn tay đựng chà là, lật mấy lớp áo quần, giơ lên khoe một túi nhựa trắng đựng đầy những đầu nổ thủ pháo đúc bằng nhôm nhỏ rất xinh, tôi chưa hề thấy. Ưu tiên cho Tam Sa một ít hàng viện trợ đấy.

            Phần tôi được hai lá thư. Tôi nhìn qua nét chữ anh Điển, đoán là giấy gọi tôi đi Đà Nẵng, bỏ luôn vào túi, nghĩ: “Sắp chia tay rồi, Mẫn ơi!”. Thư kia của anh Bảy quai nón, viết ngắn, bảo rằng huyện uỷ đã trao đổi kỹ lời đề nghị của tôi – À, à chuyện ông Liệp đây – và thấy lúc này chưa nên vội. Cách chức một số cán bộ kém thì dễ, xoá bỏ được cái luồng tư tưởng sai mà họ gieo tràn lan mới khó, hãy đợi đến đại hội chi bộ tháng sau...Vậy là tốt rồi. Miễn là cấp lãnh đạo thấy rõ sạn rơi vào máy!

            Thư anh Điển dài hơn, vẫn cái giọng tửng tửng, đôi lúc châm biếm theo kiểu cù không cười.

            Báo cáo của cậu khá dài. Cậu giúp trên hiểu được tình hình mọi mặt trong một vùng Mỹ sắp chiếm đóng. Nhiều nhận xét sâu đúng. Đồng chí Mẫn nói cậu giúp địa phương hết mình, chi ủy Tam Sa đề nghị khen thưởng cậu, cái đó trên sẽ xét. Riêng mình thấy chỗ khác nhau giữa một phái viên chịu lao thẳng vô chỗ ác liệt, chung tay làm nên chiến thắng, với mấy anh chàng ưa xách gói đi khơi khơi, lượm những chuyện đồn đại ngoài rìa. Mình khuyên cậu nên cắm rễ tiếp ở Nhơn Ái, đánh địch, xây du kích, giúp củng cố nội bộ, đợi Mỹ vô.

            Đưa cậu ra Đà Nẵng cũng có lợi, nhưng ít thôi. Về một xã vững ở Điện Bàn, Hoà Vang, cậu sẽ tươi phần xác mát phần hồn hơn nhiều. Khi xã lên báo cáo điển hình trong đại hội thi đua, cậu tha hồ tán thêm cho mọi người trầm trồ. Có điều tụi mình đã có nhiều phái viên nằng nặc đòi về theo dõi các lá cờ đầu, còn những nơi trầy trật sần sượng như Tam Sa thì chẳng mấy ai muốn tới, mà có tới cũng phê người ta hết hồn, báo cáo về đen thui. Anh em mình hay mắc cái tật đó Thiêm à, nhìn phong trào cũng như nhìn người, ai tốt sẵn thì xúm vào khen túi bụi, ai chưa thật tốt thì lảng, ngại tốn công giúp người ta ngoi lên, thích lượm sung chín hơn là bón gốc bắt sâu cho sung.

            Chắc khi viết anh Điển gặp chuyện bực, có thể bực vì tôi muốn đổi chỗ, nên triết lý hơi nhiều ớt. Đoạn cuối lại viết rất thực tế:

            Nhắc cậu đừng đánh bạc với tổng Giôn, nhớ gửi báo cáo đều, giữ gìn sức khỏe, trả đủ sinh hoạt phí cho địa phương.

            Vậy là đề nghị thứ hai cũng bị bác luôn. Gãy vụn. Tôi cười một mình, ngó lần nữa nét chữ lởm chởm của anh Điển, chợt thấy một luồng mát rượi tràn qua người. Tôi ngẩng lên. Mẫn đang nhìn tôi đăm đăm, tay lơ đãng bỏ từng trái chà là vào miệng, màu đen làm nổi rõ môi tươi.

            - Bao giờ anh đi?

            - Sáng mai xin rút dù, chào xã đội!

            Mẫn đang cầm que vẽ nhiều chữ thập trên sỏi. Tôi ước được thấy một nét cụt làm nên chữ T hoa. Không có.

            - Số anh phải chịu cực hoài...hồi xưa đã đành giờ trở lại cũng gặp khó..công anh vun đắp miết, tụi em chưa giúp được anh gì, nghĩ thiệt mắc cỡ...

            Mẫn hứa với anh Bảy sẽ giúp tôi bủa mạng lưới quân báo chung quanh Chu Lai, trao cho tôi một số cơ sở vùng cát, cho du kích dẫn tôi đi bất cứ đâu. Tôi không dám đùa dai, đưa luôn lá thư anh Điển cho Mẫn, chẳng có gì phải giấu, chống một ngón tay vào cằm, từng lúc chớm cười trên khoé miệng- lúc ấy trông Mẫn rất ranh ngầm- bật cười to khi đọc câu cuối, ngửa tay.

            - Mỗi ngày hai chục đồng! Mấy khi gặp ông cán bộ lương to, trả gấp đôi lập tức!

            Tôi bốc nắm sỏi thả vào tay Mẫn. Lâu nay tôi ép mãi Chín Cang mới chịu nhận nửa số tiền ăn tôi được cấp, còn lắc đầu chép miệng hoài vì đội du kích đang lúc đói, tôi sút cân trông thấy.

            Một cơn gió xoáy đổ tới rất mạnh, cuốn lá khô và bụi lên mù trời. Gió nhám sì. Chúng tôi nhắm mắt bịt mũi đợi con trốt đi qua, phủi lá đậu trên người, ra giếng rửa. Đến lúc này Mẫn mới thấy mình vô ý, ngồi trước mặt con trai với áo lót quần xăn. Tay chân Mẫn thon đẹp mà cũng lạ mắt. Cuối cánh tay trắng muốt, không có vết chủng đậu, là bàn tay rám nắng như đeo găng màu hồng nâu. Con nhà nông quanh năm lội ruộng. Mẫn không mắc cỡ khi phơi đùi đỏ au, nhưng hai bàn chân quấn băng và đi tất lâu lại hoá trắng lốp, trông buồn cười thế nào. Cổ Mẫn có ngấn nắng của cổ áo bà ba, lắm ngấn ghê. Mẫn luống cuống rửa vội, mặc áo ngoài, buông ống quần, tháo kẹp cho mái tóc đổ dài xuống lưng, vừa búi vừa nói bẽn lẽn:

            - Qua đồng Tam Trân, cái Mô-ranh quần sát quá, em phải giả làm con nít đi chăn trâu. Thấy rõ thằng Mỹ ngồi sau anh à, râu mép nó màu như râu bắp.

            Trời tối sầm xuống như cái đèn măng-sông treo phía Tây trời vừa xì hơi. Mưa nặng bắt đầu rơi lộp bộp, xốc bụi trắng xám. Mẫn vào hốc đá soát lại đống bao trùm nhựa, rồi chạy đến núp dưới tấm tăng của tôi. Đội du kích bật khỏi làng giữa mùa nắng, chưa lo sắm tăng nhựa. Hai chúng tôi nhường mãi cho nhau cái võng, sau đứng cả.

            Mưa to dần, ít sét, nổi bong bóng trên các vũng, báo hiệu sẽ kéo dài. Tôi chóng mặt đành nằm võng, để Mẫn cúi lom khom nhìn chéo lên mây chép miệng hoài. Mẫn lúng túng rõ. Vào ấp một mình dễ đụng phục kích hay ta bắn lầm, lại lo bỏ “thầy Thiêm” sốt chẳng ai coi ngó. Ở lại đây, chà, biết tôi đứng đắn hay không, đằng nào miệng tiếng thế gian cũng phiền...Tôi thấy cần lấy lại cái giọng ông thầy thuốc gia trưởng dạo trước:

            - Mẫn ơi!

            - Gì, anh?

            - Tụi mình còn đi với nhau lâu, giữ gìn miết cũng vậy. Nay mai gặp hồi bí, bộ cô không cho tôi xuống chung hầm bom à? Cột võng nằm nghỉ đi!

            Mẫn tần ngần chút nữa rồi bật cười dài, cười rũ. Nghĩ gì mà cười ngon lành vậy? Cười chán, Mẫn cũng lấy võng ra. Cây thấp quá không buộc được võng hai tầng, đành buộc ngang nhau. Tôi nằm bên Mẫn ban đầu còn ngường ngượng, sau chỉ thấy ấm bên vai như khi ngủ chung với xê mình. Mẫn im một lát, có lẽ đợi qua mấy phút xấu hổ lại khúc khích

            - Anh nói chuyện chung hầm, em hết hồn, lâu nay chưa tính chuyện đó.

            - Địch vây tôi, cô chịu bỏ à?

            - Bỏ sao được. Có điều..họ nói chết..., anh là con trai ít mang tiếng, con gái cực lắm. Để em ghép anh đi với anh Tuất.

            Tôi vặn ngay, vặn hơi quá một chút vì muốn cả hai tự nhiên hơn:

            - Vậy đó, hồi cần thì người ta dùng tôi mọi việc, khi thấy vướng người ta đùn tôi cho ông kinh tế, đem tôi bỏ kho!

            - Gớm, anh ác miệng dữ …

            - Mà ai nói Mẫn con trai không sợ tiếng đồn? Lỡ có tay nào nổi ghen, gởi đơn vị một lá thơ nói tôi lăng nhăng này nọ, thì giờ đâu mà cho cán bộ về đây hỏi thử đúng sai? Tôi cũng ngại vấy mực trong lý lịch lắm chớ! Nhưng mà tôi không giữ ý tới mức cản trở công việc. Lâu nay đi công tác lẻ với cả trăm chị em, tôi chưa nghe tiếng xì xầm nào hết. Không có ghẻ, chẳng phải né ruồi!

            - Nói như sách!

            - Nói như sách, làm cũng như sách. Con trai con gái chơi thân với nhau như bạn, rất tốt, về sau ưng nhau nên vợ nên chồng, càng tốt chớ chết ai. Cô lãnh đạo anh chị em trẻ vững lắm, mà hễ không thông cảm chỗ đó chắc họ cũng nói như thằng nhỏ Tâm: “Chị Hai phong kiến thấy bà!”

            - Hừ, phong kiến!

            Mẫn quẫy mình, ngồi bật dậy, xoay người đối mặt hẳn với tôi. Giọng Mẫn bỗng có tiếng rung của sắt đập:

            - Anh tưởng em chỉ biết có nụ xoè kíp nổ thôi à? Em làm công tác Đảng, công tác Đoàn hằng ngày phải khuyên người này dỗ người kia, phải giúp anh chị em hiểu những chuyện tình yêu tình bạn chớ! Mà dầu không làm cán bộ, thân gái lớn lên cũng phải tự nghĩ rồi đây ưng ai lấy ai chớ. Nói ra mắc cỡ, còn sợ người ta cười đang đánh Mỹ mà lo sự riêng tư, tụi em con gái cứ giấu kỹ, nói quanh, chắc anh nghĩ đám này khờ lắm, hô đi hét đứng thôi. Lầm rồi. Năm ngoái có anh yêu Chín Cang, lại nhờ chú Luân nói giùm, nó chối qua loa cho xong, sau đó tâm sự với em: “Ảnh tốt, dể thương, mình gạt đi cũng tiếc. Bị cái ảnh coi thường mình, không tỏ thiệt với mình, mượn miệng ông bí thơ để buộc mình phục tòng cho mau, mình không chịu được cái phong kiến kiểu mới đó!”. Em phê nó tự ái, nó nhận chắc không chịu sửa. Tụi em cầm súng đánh Mỹ để giữ nước giữ làng, đúng, mà cũng giữ luôn cái quyền định đoạt đời mình nữa, có phải phong kiến không?

            Tôi sửng sốt nhìn Mẫn, một khối đen khi vắng chớp, một con người sắc nét và nhiều màu khi trời loé trắng qua mái nhựa. Tôi vẫn tưởng cô gái này làm nhiều hơn cảm, cảm nhiều hơn nghĩ, nghĩ nhiều hơn bênh vực ý nghĩ của mình...

            - Em quen các anh bộ đội về xã, anh nào cũng vui vẻ, tử tế, đôi khi chọc tụi em cãi chơi chớ coi phụ nữ bình đẳng lắm. Em quí chỗ đó, mà cũng nghĩ vậy chẳng biết trật hay trúng: các anh quen sống trong tập thể lành mạnh, tiến bộ, luôn luôn được học cái mới, sót ai kém thì chung quanh rèn hoài cũng ra tốt, cứ vậy miết rồi các anh quên cái khó của tụi em ở xã. Phong tục, dư luận, bao nhiêu thứ xưa bày nay làm, coi vậy chớ còn nặng anh à. Cái đó không tránh được. Hai chục năm nay đồng bào mình đánh tây rồi đánh Mỹ, học đường lối chánh sách nhiều lắm, thử hỏi có lần nào học kỹ về thái độ đối với phụ nữ, về tình cảm trai gái hay vợ chồng hay không? Đạo đức số một như chú Luân đó, về nhà nói với vợ cũng quanh năm mày tao, con gái chú yêu anh gì ở trại sản xuất thì chú bắt phải cắt. Thói quen ngàn năm đâu dễ sửa! Tụi em dỗ nhau: thôi, việc nước là lớn, chuyện vặt dẹp một bên, nước độc lập trước sau gì mình cũng được tự do, mà cũng đừng sốt ruột xin đi thoát ly, hồi nào trên cần sẽ rút, cứ ở lại xã lo dồn sức đánh Mỹ đã …Em giữ ý tới vậy, còn bị tiếng đồn là chửa hoang với bộ đội, đi xã khác phá thai, anh biết không?

            - Biết. Thằng Ba Thấn phản rồi, ai tin nó nữa?

            - Một đồn mười, mười đồn trăm, ít ai hiểu đó là thắng Thấn phá rối. Anh nghĩ giùm làm sao cải chính đây? Hay là em lên trước mít tinh: “Thưa đồng bào, thằng Thấn gieo tin bá láp, tôi không chửa hoang phá thai bao giờ”?

            Mẫn cười khẩy một tiếng khô và lạnh, nín thinh. Tôi đã nghe anh Luân kể qua chuyện ấy, tránh không hỏi Mẫn ngờ đâu chính Mẫn lại nói trắng trợn đến thế. Tôi đợi thấy nước mắt trên khuôn mặt lúc này trắng mờ. Trời chớp. Chỉ có đôi mày đen nhíu lại gần chạm nhau, cặp môi mím giận dữ. Một tiếng ực nhẹ, Mẫn nuốt nước bọt hay nuốt cái nấc trào lên cổ. Hồi lâu Mẫn mới tiếp, giọng rất trầm trong tiếng mưa rơi ràn rạt:

            - Anh hay trách em quá bí mật, máy móc, thân đó rồi sơ đó. Làm sao được, em là chi ủy viên, không được đem chuyện nội bộ đi kể với người ngoài. Em mang ơn anh nhiều lắm, mà phải giữ nguyên tắc, anh ghét thì chịu… Bây giờ anh sanh hoạt chung, chú Luân dặn em nói hết, nhờ anh giúp cho, anh đi đây đi đó hiểu rộng hơn...

           Chú thích

            (1)   Tiếng nhân dân quen gọi máy bay trinh sát nhẹ.

            (2)   “Phong trào cách mạng quốc gia” do bọn Diệm tổ chức

            (3)   Sợi con(để bện chão)

            (4)   Mò mẫm, tủn  mủn

   Chương 11    

   Cùng lứa tuổi ấy, nếu sinh làm con gái rốt trong một nhà đủ cha mẹ, anh chị và không quá túng thiếu, Mẫn có thể là một trong những cô Út tôi quen, nhí nhảnh líu lo, ưa làm nũng nhưng cũng thích vâng lời, nhảy chân sáo theo cách mạng như đi chơi hội. Mẫn khác họ. Mẫn là chị Hai trong một gia đình cán bộ rất nghèo, bị giặc phá nát, bước vào trường đời ở một xã bị chà xát nặng. Cho đến nay, Mẫn cứ thèm được chơi đánh ô đánh thẻ, được tập thêu đan bằng hai bàn tay nhiều chai, nhất là thèm học chữ.

            Cây cột nhà Mẫn có một vết rựa chặt rất sâu, đất nhét kín mà mép còn rõ. Cha Mẫn giữ trâu bầy cho xã Chinh hơn mười năm, trầy trật mãi mới quăng roi vất nón được, căm lắm. Khi nghe con đầu khóc lọt lòng, ông chém cái rựa vào cột, chắc định thề câu gì rất độc, sau chỉ nói: “Nín con, sợ cái gì, tao chết đói còn hơn cho mày đi ở”. Hồi đánh Pháp, huyện này nằm trong vùng tự do, nhưng cha Mẫn ham tiếng súng hay đi xa, hết dự chiến Điện Bàn, Hoà Vang lại đưa dân công lên Tây Nguyên. Ông làm thôn đội, mù chữ mà say việc, tánh nết như đá lửa, rình sâu con mắt mới tóm được tài liệu Quần dài đen(1) trong rương xã Chinh. Sau Giơne hắn bắt ông lập tức, đánh chán tay mới lập hồ sơ đưa đi Côn Đảo.

            Năm ấy Mẫn mười tuổi. Mẹ kêu Mẫn lại, nói nhỏ:

            - Cha bị tù rồi, con ráng giúp mẹ chút.

            Việc đồng việc nhà Mẫn đã làm được gần hết. Mẫn giúp mẹ việc mới: đem cơm và đưa tin cho bác cán bộ nằm hầm sau vườn. Bác này đổi vùng hay đi đêm bị phục, bác khác tới. Khi đứt khi nối, hai mẹ con giữ mãi mối dây còn lại của cách mạng. Địch nghi, soát nhà xăm đất, bắt nhiều lần, giam đánh chán nó lại thả về để cho đứa rình tới mòn gốc lựu đầu hè. Kệ nó. Ba Tâm với Út Hoà không được dính vào: Tâm là con trai một, Hoà nhát gan.

            Tới năm 1961, Mẫn bị bắt ở chợ An Tân với hai ngàn viên thuốc sốt rét clô-rô-kin trong người. Đòn gần chết. Mẫn được một chị chung buồng giam cởi trói, lội ruộng băng gò bốn đêm tới Tam Sơn, vùng giải phóng đầu tiên ở ven núi. Mẹ Mẫn ở tù thay con, chế độ địch nó vậy. Mẫn được đưa vào đội võ trang công tác Tam Sa mới lập, chú Tám Liệp làm đội trưởng. Các chú xân xiu(2) với điều lệ, kết nạp Mẫn vào Đảng khi mới mười bảy tuổi, lấy bảy năm công tác bù chỗ thiếu tháng. Các chú còn tống liền liền cho hội đồng xã mấy lá thư cảnh cáo, lá cuối cùng không đúng chính sách nhưng dễ lọt tai hơn cả: “Bây giết gia đình có người theo cách mạng, tụi tao giết gia đình bây, liệu hồn!”. Mẹ Mẫn và mấy người bị bắt nữa được thả rất nhanh.

            Đó là quãng đời vui nhất của Mẫn.

            Mẫn được đánh giặc. Ta đây, địch kia, không còn gượng chào “ông cảnh sát” khi nó sắp treo mình lên xà nhà. Những thằng cấu xé chà đạp nhà Mẫn, hút máu cả làng, nối nhau giãy đành đạch đòi ăn cơm cúng, hoặc “em lạy chị Hai” suốt dọc đường về trại cải tạo. Bấy nhiêu đủ là hạnh phúc lớn rồi, huống chi bà con gặp đâu ôm đó, huống chi Mẫn còn được học đủ thứ, được anh em coi ngang hàng, được sống gần chú Liệp để chú bày vẽ cho từng chút.

            Mẫn thương và phục chú hơn hết.

            Chú Tám được cảnh nhà đủ ăn, chữ nghĩa hồi xưa tới cái rime(3) là cao lắm. Dạo đánh Tây chú làm văn phòng huyện, sau về làm chánh văn phòng xã cho gần nhà, kình nhau với ông chủ tịch sao đó chú bỏ việc, nể lời bạn chú vào ban thông tin xã, dựng được đội văn nghệ cũng khá. Bà con coi chú là người có tài, ăn ở cũng mềm mỏng. Các bạn ưa tính chú rộng rãi, cởi mở, dám chơi hết mình, chỉ tiếc chú hơi “tài tử” trong công tác. Chú buồn vì bị ép lấy bà vợ già, không con, hay đến chơi nhà Mẫn, nửa đùa nửa thật nhận ba chị em Mẫn làm con nuôi. Gần tới đình chiến chú được kết nạp Đảng, nghe đâu chi bộ hồi đó bàn cũng lâu mới ừ.

            Địch tới, bắt giam chú chừng nửa năm rồi thả về. Chú không khai báo, có lẽ cũng không biết gì bí mật mà khai. Nhiều người nói nhà chú bán trâu đút tiền cho hội đồng nên được ra tù sớm, khỏi bị xếp loại tình nghi can cứu và treo bảng cô lập, đi lại làm ăn cũng dễ. Giữa hồi điên đảo, chẳng mấy ai để ý cái vặt ấy, giữ mình được như chú là khá rồi.

            Vợ trước chết bệnh, chú lấy thím Liệp bây giờ, sắc sảo mà biết điều, buôn giỏi có hạng. Chú biết nhà Mẫn nghèo xác, bị cô lập mà cứ nuôi cán bộ, thỉnh thoảng lén giúp gạo tiền. Mẹ Mẫn đưa chú một thư móc mấu của bác Bảy quai nón, chú nhắn trả lời: “Cơm chưa ăn thì gạo còn đó, xin cho tôi lắng xuống ít lâu, tụi nó bớt rình đã...”. Mỗi lần mẹ Mẫn đi tố cộng hay bị giam, chú đón cả ba đứa nhỏ về nhà, tụi dân vệ nể chú cứng lý và sợ thím đòi nợ nên ít dám gây sự. Chú đặt tên chữ, Mực, Tôm, Hến đổi thành Mẫn, Tâm, Hoà. Thím Liệp đẻ mắn, chú mừng có con mà vẫn chăm nom chị em Mẫn.

            Đứa trẻ yêu cha đến mấy cũng có lúc phảng phất thấy cha thương con là sự thường, đẻ ra ắt phải thương. Chú Liệp là người dưng mà ăn ở vậy, Mẫn càng biết nghĩ càng thấm ơn chú. Mẹ Mẫn cũng dặn các con coi chú như cha nuôi, lớn lên trả nghĩa sao cho phải, chỉ tiếc một nỗi chú có bề thủ phận.

            Sau cú đảo chính hụt năm 60, một đám tề mới nhảy lên, chống cộng dữ tợn, trị cả bọn “tề mềm” vừa đổ. Chú Liệp bị bắt lên căn vặn về khoản đảng viên cũ, xem chừng chúng muốn khảo của là phần nhiều, nhưng chú biết muốn yên cũng khó yên được nữa. Ta đánh gắt, địch càng thua càng giận cá chém thớt, mạng chú e khó giữ. Chú dựa mấy tay quen, xin được cái giấy đi Sài Gòn làm ăn, khó biết chú muốn che mắt địch hay tính chạy trong(4) như một số khác. Nấn ná ít lâu nữa, tới khi tụi ác ôn đem hai “đảng viên cũ ngóc đầu” ra cắt cổ giữa chợ, chú mới chào bà con đi buôn xa, và “nhảy núi” theo mối dây của mẹ Mẫn.

            Bác Bảy quai nón cử chú lập đội võ trang công tác Tam Sa, chú xin hoãn vì sức yếu, tạm giúp việc ở văn phòng huyện. Thật ra chú chưa muốn lộ mặt vì sợ địch biết chú không đi Sài Gòn, trả thù vợ con. Khi biết mười mươi là thím Liệp với các cháu đã bị quy khu(5) gần chợ An Tân, chú mới nhận làm đội trưởng, chọn được sáu bảy anh em vào đội, theo đà vùng giải phóng mở rộng mà dời lần lần về gần Tam Sa. Anh em thương chú, nhân một đợt vêtêba(6) vào chợ An Tân đã đưa hết gia đình chú lên vùng ta, cõng cả máy may, gánh bốn gánh hàng buôn của thím Liệp. Cả nhà gặp nhau, mừng khóc ròng.

            Mẫn thoát tù lên, gặp lúc đội chuyển về Tam Trân mới giải phóng, được ở với chú thím và các em, vui hết chỗ vui. Mẫn giúp thím Liệp dựng quán ở phố chợ Ngọc Lợi, ríu rít với mấy đứa nhỏ cả ngày, chú thím thương xuống và Mẫn thương lên, rất tội. Thím Liệp sẵn vốn, sẵn bạn buôn cũ ở An Tân và Tam Kỳ, đặt hàng gì có ngay hàng ấy, chở bằng ô-tô hay xe thồ đến tận cửa. Thím coi cả đội như con em trong nhà, thiếu áo thím may cho, bị thương bị bệnh thím nuôi cả tháng, chưa lành thím chưa cho đi. Bạn chú Liệp ở huyện và các xã khá đông, qua Tam Trân hay ghé thăm, thím bận mấy cũng đón niềm nở. Địch càn lên vài tháng một lần, chú đi lánh, thím ở lại đấu lý với chúng không cho cướp quán, gang thép lắm. Chú Liệp lãnh đạo anh em rất sâu sát, có tình, lại giỏi sắp xếp nên việc gì cũng chạy ro ro. Làm ruộng tự túc vượt mức, học quân sự chính trị đều, học được cả văn hoá nữa là chuyện ít có, giúp dân cừ, văn nghệ nổi... có rất nhiều tiếng khen về đội Tam Sa.

            Chỉ có một mặt đội không được khen mà còn bị chê: bám dân đánh địch kém. Ác cái nó lại là mặt chính. Thiếu nó, đội chỉ còn là một nhóm bà con lánh nạn, đùm bọc nhau mà sống qua ngày.

            Huyện thấy chỗ yếu đó, nhắc, giục. Dần dà Mẫn cũng thấy, anh em trong đội thấy. Các xã khác giành chính quyền rầm rầm, Tam Sa vẫn bị kẹp ức lắm. Đội đã mạnh, gồm năm cán bộ, mười một du kích, chi bộ được sáu đảng viên trong đó Mẫn là em út. Bấy nhiêu người mà vẫn giữ mức mỗi tháng vài chuyến thậm thụt về xã, vào những đêm không trăng. Mẫn với mấy người nữa bàn với chú về bám xã, đào hầm nằm trong ấp mà phát động bà con nổi dậy, không cũng ở loanh quanh vùng gò đánh vào. Bác Bảy về thăm đội vũng nói vậy. Bác đi rồi, chú Liệp mới khuyên nhỏ nhẹ:

            - Bác nắm cái chung, phải nhắc chung vậy thôi. Xã mình khác. Nằm ngay chỗ cuống họng địch, đường cái đen cắt đôi, động đậy một chút là quân nó kéo tới đen đất chật trời, gay lắm. Bây sốt ruột một, tao sốt ruột mười kia chớ. Có điều, làm cách mạng mà không nắm cái anh thời cơ, không tính tương quan lực lượng thì coi như thí mạng. Thời cơ nào à? Giả như chủ lực mình đánh vô Tam Kỳ, An Tân, địch đổ về giữ hậu cứ, nó vãi đất vãi dân ra mình hốt không kịp. Giả dụ nó đảo chánh, nó ly khai nhau, thiếu gì lúc ăn ngon... Nói cho cùng, nồi đồng sôi nồi đất cũng sôi, các nơi giải phóng hết thì Tam Sa cũng giải phóng, lo gì!

            Rồi chú nói bùi ngùi:

            - Tao thương là thương tụi bây tốn xương máu vô lối... Mà tụi bây còn dễ, chớ đồng bào mình như cá trên thớt, mỗi lần đổ bể lại bị bắt bị giết cả mớ, nổi oán cán bộ làm ẩu, đâm chờn đâm nhụt. Thì bây coi Tam Thắng đó, hồi bí mật phong trào cứng biết mấy, khởi non một keo, bây giờ cán bộ tới đâu dân đánh mõ la làng tới đó, đuổi như đuổi tà... Dục tốc bất đạt. Cứ xây dựng đội cho vững đi đã. Nuôi quân ba năm, dùng quân một ngày, tới hồi đánh bây phải đánh long trời lở đất kia!

            Lần khác, chú kể những gương kiên nhẫn chờ thời hồi trước cách mạng tháng Tám, hồi đánh Pháp ở vùng tạm chiếm, gần đây nhất là hồi chưa đồng khởi, kèm theo đó là những vụ nóng mũi làm ẩu, chết mình mà còn hại dân, rã phong trào. Lý luận chú có thừa, mẩu chuyện sống cũng rất giàu. Mẫn và số anh em đòi đánh chỉ còn trách mình cạn nghĩ.

            Rồi cái băn khoăn ấy lại trỗi dậy khi Mẫn được học một lớp đảng viên trẻ mười hai ngày ở huyện. Lần đầu tiên trong đời, từ khi biết đem cơm cho cán bộ nằm hầm, Mẫn tập suy nghĩ bằng bộ óc của mình. Qua rồi cái thời làm công tác chỉ vì thương mẹ, vâng lời chú, bắt chước các bậc đàn anh: thời ấy rất đẹp, nhẹ nhõm nhưng không chút gợn, hết sức dễ thương, nhưng vẫn là tuổi thơ ấu của mỗi cuộc đời cách mạng. Từ nay đồng chí Mẫn phải rèn mình theo điều lệ, làm việc theo nghị quyết, phải tự tìm thấy cái đúng cái sai ở mình và ở mọi người, gay nhất là phải góp sức làm cho cái đúng thắng cái sai. Mẫn rất hoảng khi càng học càng thấy chú Liệp sai. Những cái khôn một xu không đủ bù chỗ dại một đồng được gọi là co thủ. Vì sao chú làm vậy, Mẫn không biết, chỉ đoán là chú ở xa cấp trên, chú bận luôn không được học, chú thương đồng chí đồng bào chưa phải cách, vậy thôi.

            Về tới đội, Mẫn gặp riêng chú Liệp, kể rối rít một lô cái mới vừa được nghe. Chú gật gù uống trà, tủm tỉm, sau cốc trán Mẫn một cái:

            - Chánh trị đầy mình rồi! Ngang lưng thì thắt phương châm, đầu đội chánh sách, tay cầm chủ trương... Hồi trẻ chú cũng bốc máu như cháu, hơn cháu nữa, con trai mà. Chừng vô việc mới thấy khó cay khó đắng, vấp nhiều cú trẹo vai sái hàm, té ra cuộc đời nó hóc hiểm lắm cháu à. Ngay bây giờ chú mở lớp cho anh em cũng phải nói ào ào như bác Bảy chớ, phải thúc đẩy hết mức, tới hồi họ làm được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, tùy sức họ thôi.

            Thùng nước giội êm đấy, vẫn là thùng nước lạnh.

            Mẫn cãi không nổi, vẫn ấm ức. Gặp lúc họp chi bộ, Mẫn đưa chuyện bám dân đánh địch ra, được Năm Tuất vun vào, bị một đồng chí bác và giễu, một nửa “lừng khừng, coi chừng đổ bể”, tới chú Liệp kéo ngay qua việc khác, coi như ý trẻ con chẳng cần bàn mất thời giờ. Sau đó chú gặp Mẫn, lắc đầu “Thiệt là nai tơ chưa nếm mùi bẫy kẹp!” Coi như Mẫn đạp vỏ chuối keo thứ hai.

            Tới hôm chi đoàn và du kích họp chung, Mẫn lại gợi, gần hết rất ưng, cử Mẫn với hai người nữa “vận động chú đội trưởng”. Chú cười, khen anh em hăng, hứa sẽ xét, cho Chín Cang và Năm Ri về trước, giữ Mẫn lại mắng cho một trận tơi bời. Hỗn, con sứa đòi nhảy khỏi đăng, lau mũi chưa sạch mà chực dạy người đã đội hai tấn thép trên đầu. Chưa bao giờ Mẫn thấy chú giận đến vậy. Mẫn khóc hu hu, chú dỗ, chú cháu tạm làm lành.

            Nhưng vết nứt không hàn được nữa.

            Phải nói rằng chú Liệp và những người không muốn bám xã cũng có cái lý của họ. Hồi đó ta đang đụng kế hoạch Xta-lây Tay-lơ, khá mệt. Ngay Tam Trân cũng bị càn dồn dập, trực thăng chụp, xe xích rạch ngang xé dọc, địch líp lại mất hai thôn dưới. Bác Bảy nói địch bỏ hở sau lưng, vùng sâu khởi được, nhiều người cứ nửa tin nửa ngờ. Đội cử mấy đồng chí về đào hầm bí mật, đi vài lần thì trúng phục kích, hy sinh một. Đi đường khác, lại phục, Mẫn bị thương nhẹ. Một đồng chí huyện ủy kéo cả đội xuống Tam Sa phá ấp rầm rộ mấy đêm, mìn nổ chết hai người, ngay đồng chí kia cũng bị gãy cánh tay. Mỗi lần đội gặp nạn, chú Liệp lại lo nuôi anh em bị thương và chép miệng: “Đã nói mà...”. Bà con Tam Sa lên thăm đội, đòi đánh nhiều mà khuyên đừng đánh cũng không ít: “Để vắng lâu lâu đã, bây gặm kiểu đó uổng mạng mà đồng bào chết lây”. Bởi vậy Mẫn ít oán riêng chú Liệp chỉ tức chung luồng gió trái cản con thuyền.

            Vào hè, có những đêm trời hầm, người bứt rứt khó chịu lắm, ấy là khi “cái bấc cái nồm chống nhau”. Mẫn trải qua nhiều đêm bấc nồm như vậy, với những dấu hỏi bò như vắt đói trong đầu. Tại sao mình lại nghĩ khác bao nhiêu đồng chí trải đời hơn? Hay là mình kiêu, chơi trội, yên hùng lẻ? Điếc không sợ súng? Cho dù mình đúng mười phần đi nữa, có nên đưa đầu chịu báng mãi vì nói cái đúng không? Nếu sau này truy ra đội sai, chi bộ sai, thiếu gì người lớn chịu trách nhiệm, ai trách tới con nhỏ này mà lo? Mà muốn trách cũng chẳng trách được, mình đã trình bày khắp nơi rồi, bị gạt đi rồi, lỗi đâu tại mình? Mấy nơi muốn rút mình, nên bỏ đi quách, ở đây làm được cái gì? Về phụ nữ huyện, đi học y tá, chuyển qua mậu dịch, thiếu gì việc vừa sức hơn, chị em đông vui, xa bom đạn, lại tránh được những va chạm mệt mề? Chờ được vạ thì má đã sưng....

            Tới đó, một câu trả lời rất ngắn từ đáy sâu trong hồn cô gái hiện lên bằng chữ lửa: “Mình là đảng viên”. Mình vào Đảng để làm cách mạng và rủ người khác cùng làm cách mạng. Mình vào Đảng không để kiếm chác một chút gì hết, chỉ để hy sinh nhiều hơn. Mình không hề sợ địch, sao lại sợ những lời mắng hay giễu của người thân hiểu lầm? Mình đã dám lãnh thêm cái khổ cái chết khi đòi về bám xã, bây giờ phải bám giữ cái đúng, chống cái sai, tới đâu thì tới! Mình trách những người bỏ chiến đấu chạy dài, nếu mình tìm nơi yên ổn mà trốn thì khác gì họ!

            Qua mỗi giờ dằn vặt như vậy, Mẫn mệt và thấy mình khỏe thêm. Chú Liệp lạnh mặt, thím Liệp nói cạnh khoé, mấy anh em khác châm chọc “muốn làm lãnh tụ mà không ai bầu”. Mẫn đau ít thôi. Chai da lì đòn mà. Số đồng chí thấy Mẫn đúng cứ tăng dần. Các cuộc họp chi bộ và đội ngày một găng. Chú Liệp báo cáo lên trên là Mẫn phá đoàn kết nội bộ. Chị Bỉnh ở Tam Trân quí Mẫn cũng hỏi: “sao họ kêu mày đá lung tung?”. Mẫn chỉ cười trừ. Hột đậu có nứt, cái mầm mới lên thành cây được.

            Hồi ấy cơ quan huyện dời ra cách Bắc đang mở(7) mạnh, ít có cán bộ về Tam Trân, Tam Sa. Nhưng, thật khó ngờ, cái sức ép bắt chú Liệp chuyển lại đến từ vùng bị kèm kẹp.

            Không bị quấy rối, tụi ác ôn Tam Sa thả sức làm mưa làm gió, hạng chót như một thằng liên gia trưởng cũng dám đánh người nã của. Dân vệ xã lên tới một đại, chưa ăn đạn nên rất hăng đi phục kích kiếm tai cán bộ lấy thưởng. Dân la trời nhất là cái ấp chiến lược hai sông ba núi. Nhà giàu mất ruộng, nhà nghèo mất cả ruộng, nhà, vườn, công làm ăn. Bà già sáu mươi còn bị bắt đeo mõ cầm đèn đi gác. Nhiều người phải dỡ nhà lấy tre nộp cho đủ số cây rào. Đi kẻng về kẻng, gánh phân vòng rào mỗi buổi chỉ được hai gánh đổ ruộng, đất phải bỏ hoang một nửa trong khi con nít khóc đói... Bà con Tam Sa lén lên tìm đội, thúc phải đánh...

            Chị Biền chỉ mặt Năm Ri, em họ: “Đưa súng đây, tao đổi cho cái quần lụa, tao về mộ quân đờn bà đánh khá hơn mày!”. Mẹ Sáu tỉ tê với Mẫn và Chín Cang: “Mẹ mày Mẫn à, bả biểu tao hỏi thử bây mắc lo chồng con hay sao mà chẳng thấy ho he...”. Còn ông thầy Mười, trước khuyên “khoan đã”, bây giờ bước vào quán bà Liệp, cười khà: “Cha, ông Tám chạy giặc lên đây, coi bộ phát tài hơn hồi ở dưới ta nữa hé!”. Mấy bà có con bị bắt quân dịch nói sa sả với chú Liệp: “Các anh đêm về nổ một phát súng, đốt ít cây rào, trai làng kéo theo sạch ráo, tụi tôi mới khai Giải phóng về bắt con được chớ! Nhờ các anh bấy nhiêu mà cũng làm lơ cho đành! “

            Chú Liệp và số chờ thời đã lâm nước bí.

            Chú bắt đầu nói “phải tự tạo ra thời cơ”. Chú khen Mẫn và số anh em bênh Mẫn: “Có ăn có chọi mới gọi là trâu chớ”, chỉ trách họ đôi khi “phạm nguyên tắc tổ chức”. Rồi chú chia đội ra hai bộ phận, tiền phương và hậu phương. Mẫn được cử nắm tiểu đội du kích xuống Tam Sa đánh giặc phá ấp, tối đi sáng về hay muốn ở tùy lòng. Ở hậu phương là “nhóm lãnh đạo”, gồm những cán bộ lâu năm, coi như bộ óc của phong trào. Anh em đều thấy đúng. Mất ngón tay ngón chân không sao, mất đầu thì tiêu.

            Những ngày đầu trở về bám xã sao mà quá gay go. Địch như con vi trùng đã ăn vào máu mà lờn thuốc, tiểu đội Mẫn đánh nó được ít mà bị nó đánh nhiều hơn, phục chỗ này, úp đằng kia, rượt chạy cùng gò. Bà con thấy du kích làm ăn cà trật cà vuột, thương lắm nhưng không tin, một số tránh dây dính vì “chẳng nước non gì mà chết lây uổng mạng”. Liên tiếp ba đồng chí trúng đạn, một chết, hai nữa bị thương cũng rút lựu đạn chia đôi với giặc. Có người nản bỏ về Tam Trân, cày ruộng trồng khoai tự túc cho đội. Được cái số đông càng bị địch đuổi càng sôi máu, thề “có chết cũng chết trên đất Tam Sa”. Anh Năm Tuất lầm lì, rất chậm, nhưng đã làm gì thì cưa đứt đục suốt. Đoàn viên như Răm Ri, Chín Cang xông xáo mạnh, chưa được kết nạp vì chú Liệp thấy còn non. Sau chừng một tháng quần lộn ẩu kiểu ấy, đội du kích mới móc được một số cơ sở, tìm ra những kẽ hở trên bộ mặt lởm chởm của địch, đứng vững được trên vùng gò, vài đồng chí vào nằm hầm trong ấp. Dễ thở rồi.

            Hiểu địch, Mẫn cũng hiểu thêm ta. Sức ta lớn lắm nhờ có bốn ngàn dân căm giận. Những ai do dự cũng sẽ dám ra tay, không trước thì sau, cả xã nổi dậy thì trong người họ sẽ có cuộc nổi dậy của lòng yêu nước và những mối thù chưa trả. Bà con biết rõ lắm: một ngày chưa giải phóng là một ngày họ chết mòn, và khổ hơn nữa là họ bị địch dùng để giết cách mạng. Một cây rào cắm xuống, họ mất một cây đòn tay nhà, cũng có thể mất một đứa con khi nó về nhổ rào. Thằng em bị bắt quân dịch, biết đâu khi thả đạn vô nòng cối lại không bắn trúng anh nó bên giải phóng? Cái tủi nhục ấy lắm khi đau hơn roi, cực hơn xâu thuế. Bà con sùng sục đòi khởi.

            Nhưng... khởi cách nào đây?

            “Bộ óc” vẫn nằm trên kia. Đội du kích ở luôn dưới này, bỏ hẳn những chuyến đi đi về về rất nguy hiểm, bởi địch hay rải quân phục dọc sông Rù Rì, rắc pháo trên đồng lớn Tam Trân. Mẫn với Năm Tuất thay nhau lên báo cáo, chết hụt mấy lần, chú Liệp càng đủ cớ “bảo vệ cán bộ” để không về xã.Chú chỉ đạo từ xa bằng những câu “coi chừng đổ bể”, “Chuyện xương máu đừng làm ẩu”, và nhất là “phải giữ nguyên tắc tổ chức”, nguyên tắc ra sao thì tùy chú giảng. Tất cả các báo cáo gửi lên huyện đều do chú viết. Chỉ thị gửi xuống, chú đọc và giữ luôn. Cán bộ về kiểm tra, chú đón, chú kể sự tình theo khẩu vị của khách, muốn mặn có mặn, muốn ngọt có ngọt. Cần lắm chú mới cho người dẫn xuống khỏi sông Rù Rì gặp du kích một lát, lên ngay trong đêm, vì “du kích yếu quá chưa bảo vệ nổi”. Mẫn và anh em phải mò mẫm từng chút, phải chạy lên Tam Trân để hỏi từ cách nắm cơ sở đơn tuyến tới điều lệ Hội phụ nữ giải phóng, làm gì cũng nơm nớp sợ sai.

            Phong trào Tam Sa lớn lên vẫn phải mặc mãi cái áo quá chật, cựa đâu đứt chỉ đó.

            Đến đây Mẫn mới thật hiểu chú Liệp, mới dám bóc lớp sơn son thếp vàng của tượng thần để thấy đất sét bên trong.

            Ngay từ đầu chú đã theo cách mạng với những tính toán “đôi bên cùng có lợi”, và chú muốn phần lợi của mình nhỉnh hơn chút đỉnh mà không hại tới việc chung. Chú vẫn phục vụ đấy, mà cũng khéo lấy lòng người này một tí, dìm người kia một tí, nhẹ nhàng lách qua người thứ ba. Đừng nghĩ oan rằng chú hoàn toàn ích kỷ, “cá nhân cả cục”, không phải. Chú biết cái đúng cái sai, nhưng bắc cân lên thì cái khôn cái dại cho riêng chú hơi nặng đầu đòn hơn. Chú tin cách mạng sẽ thắng, tin lắm. Lý lịch của chú có khoảng trống của mấy năm nằm im, không có vết đen của sự phản bội. Chú muốn tiến thân trong công tác, cái đó cũng thường tình thôi. Trong khung cảnh của vùng tự do dạo xưa, mấy năm mới một lần Tây đổ bộ tít dưới biển, chú có lựa việc phần nào nhưng vẫn là một cán bộ khá. Và chú cứ là một cán bộ khá, chắc vậy nếu miền Nam không bước vào cuộc thử lửa ác liệt hơn trước nhiều.

            Với nếp tính toán đã quen, chú tránh lộ mặt, rồi chú chịu ra mặt lập đội, rồi chú kìm đội không cho đánh, rồi chú cho du kích đi đánh trong khi chú đứng sau xa cầm cương. Mẫn sợ hãi khi tìm thấy sợi chỉ xám - không trắng hẳn, không đen hẳn - xỏ xuyên qua các lời nói việc làm của chú. Chú muốn giữ chức cao nhất mà tốn ít mồ hôi nhất, và dứt khoát không tốn máu. Ngày thắng lợi đang đến gần, chú mong tới ngày đó chú sẽ là người có công lớn, ít nhất là công đầu trong xã mình, lại không phải mất đi một cái gì hết - vợ con, của cải, tất nhiên là không mất tay chân hay mất mạng. Đội Tam Sa về bám xã, đội trưởng không về thì mặt mũi nào: chú giữ anh em lại. Thế chẳng được đừng, chú phải tách bộ phận của Mẫn ra, còn sợ “tụi cứng đầu” thoát quyền kiểm soát của chú. Chú không dám đưa số trẻ vào đảng vì ngại pha loãng ảnh hưởng của chú. Khó tin rằng một người khôn như chú lại không thấy mình đang tự biến thành ông vua con. Muốn làm vua phải xây triều đình, có triều đình ắt có kẻ nịnh ngoi lên và người trung bị đày, tuồng tích thiếu gì. Rủi cho chú, chuyện đời xưa không thể lại xảy ra ở Tam Sa thời đánh Mỹ!

            Năm Tuất cũng thấy như Mẫn, nhưng đơn giản hơn. Anh nghĩ chậm, nói càng chậm, động cãi với ai thì nổi lên cà lăm, đúng mấy cũng bị cười giễu. Mẫn thuộc hạng con nít mới lớn, đoàn viên và du kích rất tin nhưng đảng viên lớn tuổi coi thường, tại mắc cái tật mau nước mắt. Anh chị em khác chỉ khỏe đánh, không biết xây dựng phong trào.

            Chưa khởi được, ta cứ đùng đoàng riết đi, dùng miệng súng nói thay miệng người. Đội du kích cứ ngày bắn tỉa, đêm phá ấp, khoái nhất là diệt ác ôn. Hồi đó ác số một là thằng Hiêm cảnh sát trưởng, Năm Ri dẫn một tổ xuống nằm vùng cát, rình đến trắng vờ con mắt mới hạ được nó giữa trưa. Thằng Tráng cầm đầu dân vệ được xếp số hai. Nó dẫn quân đi úp du kích ngoài gò, anh em bắn bậy mươi phát rồi chạy bay tóc, hôm sau đồng bào cho biết thằng Tráng trúng đạn toác đầu gối. Bọn tề khác rúng xương hết. Bọn quận đưa hai tên công an loại nghiện gan người về hà hơi. Mẫn mặc giả gái buôn, đạp xe trên đường nhựa theo chúng - tụi này không biết mặt du kích và chưa thạo trốn tránh - cho lựu đạn vào lưng, lấy hai súng ngon. Mỗi thằng ác ôn chết là lu bù gà vịt chết theo: bà con thắp hương cho người thân bị chúng giết, ăn mừng, khao du kích, cũng là một kiểu “cúng đất, chất rơm, quải cơm luôn thể”. Chưa được tổ chức hẳn hoi, bà con cứ tự nghĩ ra mà làm.Thấy lửa đốt rào nổi dưới Nhị Lộc, dân Tứ Nhơn cũng ra nhổ rào trước ngõ, kiếm củi chụm, trổ luôn một lối đánh trâu ra đồng cho gần. Ngày làm xâu hay thu thuế, y như rằng có súng bắn vào làng, cả ngàn người đều kêu đạn xẹt nóng hực mang tai, về nhà nằm ráo. Cô bác khen du kích, lại dặn: “Đã về phải ở cho bén rễ xanh cây, đừng huậy huậy rồi đi, nó trị chết dân đó”. Người biết hơn thì hỏi: “Các nơi nổi dậy lập chánh quyền hết, ta bấy nhiêu thôi à?”.

            Mẫn biết không thể bấy nhiêu. Giẫm chân tại chỗ sẽ bị địch hất ra ngoài lần nữa. Phải tấn tới, nổi dậy. Năm Tuất nói: “Chắc cũng như cách mạng tháng Tám vậy đó!”. Mẫn ngớ ra: “Hồi đó tôi một tuổi, thêm tuổi bà mụ cho nữa là hai...”. Về hỏi chú Liệp, chú nói một buổi ròng, Mẫn nghe như lạc vào rừng tre gai, cựa đâu rách da đó, sai lầm với lệch lạc vây kín quanh người. Câu cuối của chú là “chưa chắc thì đừng nôn”. Chú không cản, chỉ khéo đặt Mẫn vào cái thế “làm được ăn chung, bể vung mình chịu”. Cứ làm, Mẫn hỏi các đồng chí Tam Trân, chị Tám Giàu, huyện đội, góp nhóp mỗi nơi một ít, học kinh nghiệm phát động quần chúng mà như học thuốc nam. Cấp trên lại báo liên tiếp rằng trước sau Mỹ cũng lật Diệm, nó bắn nhau mình nổi dậy, nghe càng ham.

            Chú Tư Luân vừa vượt ngục ra, đầu còn trọc, hai gối thấp khớp đi nhúc nhắc, được cử ngay làm phó bí thư và đội phó Tam Sa. Trước chú làm nông hội, bị tù từ đợt hiệp thương, không một lần chịu chào cờ ba que, án ba năm mà chúng giam mãi không thả. Chú cười: “Bỏ mẹ, bây giờ mình quen cái trại giam hơn quen làng”. Chú cười suốt ngày. Làm việc với nhóm chú Liệp hai buổi, rồi chú chống gậy đi xuống vùng gò gặp du kích.

            -  Bây đào cho tao ít cái hầm bem, trong ấp ngoài ấp, tao bám luôn đây với...Con ông nào đó?… Chân tao sưng, mà không sưng tao cũng chẳng muốn chạy, ăn chung ở lộn với địch miết rồi, giờ hễ xa tụi nó tao cứ ngứa ngứa...Cha, Hai Mẫn gái đầu bà Mẫn lớn kinh vậy à? Chồng con gì chưa,cháu?...! Tào lao, bây đừng sợ sai. Tao thua tụi bây chẵn tám năm hoạt động, lạc hậu một cây, vậy chớ có một cái nguyên tắc tao nắm chắc khứ là bám dân đánh địch, giải phóng Tam Sa. Trật cái đó coi như trật hết!

            Đội du kích mừng thôi là mừng. Mừng nhất là Mẫn. Cái thấp thỏm lo làm bậy biến mất, từ nay công việc tha hồ mà chạy hết trớn. Chú Luân rút thanh niên lên, du kích tăng vọt tới hơn ba chục. Thiếu súng,chú tập tễnh dắt một tiểu đội tay không đi tìm anh huyện đội trưởng, bạn tù ở Đà Nẵng một dạo: “Mày hẹn trả ơn tao cứu sống, trả đi!”. Làm ngang vậy mà được hai tuyn cải tiến với tám trường Mỹ. Lần khác, chú cầm xấp lý lịch của năm đoàn viên về gặp chú Liệp: “Mình đưa ông vô Đảng, tới lượt ông lo phát triển Đảng đi! Non hả? Cứ đem lý lịch hai đứa mình hồi kết nạp, so với tụi này, coi thử có được một phần mười không?”. Kỳ họp chi bộ sau đó, Năm Ri, Chín Cang và hai cậu nữa được chọn, cả chi đoàn sướng muốn nhảy tưng tưng.

 Rồi Mẫn lại ngờ ngợ khi thấy mặt yếu của chú Luân. Đạo đức của chú, Mẫn học một đời chưa hết, nhưng chú nghĩ và làm như hồi đánh Pháp. Chuyện lúa khoai với tô tức thì chú giỏi đầu sổ, việc chính quyền chú biết một ít, còn đấu tranh chính trị hay binh vận chú mịt mù. Mẫn trách mình mắc cái tật lo đời, ưa vạch lá tìm sâu. Đến khi nghe chú nói mấy lần sai phương châm với anh em, Mẫn giật mình, vừa nhắc riêng chú vừa thấp thỏm sợ bị nạt. Chú nghĩ rồi cười xoà:

            -  Thấy tụi bây rờ đâu run đó, tao nói cứng, chớ trong bụng cũng một đống tơ vò... Ông Bảy biểu tao đi chữa bệnh, học hành ít tháng, tao nghe bây ở xã nhiều lúng túng, tao nói: Để tôi về gánh một khoá cho biết mùi phong trào, rán vực cày mấy con nghé thử coi, không rồi trâu già phế canh hết phải bỏ ruộng hoang đó! Xáp vô việc mới thấy cái gì cũng lạ, cũng khác, té ra đánh Mỹ mệt hơn đánh Tây nhiều. Chú được cái trung thành, mà chú dốt lắm cháu à, hỏi dốt chỗ nào chú cũng chẳng rõ, phải đợi khi nói bậy làm sai nó mới lòi cái dốt ra, như nhai cơm đụng sạn vậy đó. Chịu khó nhắc chú thiệt nhiều nghe cháu, tụi mình học nhau chớ học đâu cho kịp làm...

            Chú cầm đuôi tóc của Mẫn trong tay, xoắn nhè nhẹ, nghĩ. Giọng chú lắng sâu xuống như dội từ xa về:

            -  Tụi nó tra chú mấy lần ngắc ngoải, ném nhà xác, chú muốn chết cho khỏe, sau lại nổi xung, phải đập đầu năm bảy thằng ác ôn rồi mới chịu nhắm mắt chớ. Chú không còn...à, không xông xáo được bao lâu nữa đâu. Bệnh tê thấp nó nhập tim rồi, cũng lợi là chú chẳng chạy xa được, cứ nằm lì trong ấp với bà con. Chú nói thiệt với cháu cái này, đừng cãi chú buồn. Bữa trước chú gặp bác Bảy, bạn cũ mà, chú bàn huyện nên chỉ định cháu làm bí thơ chi bộ, chủ tịch xã luôn...Đừng có hoảng! Cháu chịu lãnh cái đó, phong trào mới lên được, bà con đỡ cực cháu à. Tánh chú ưa ba lơn cười chơi, mà chú hay để ý coi người. Chú ký tên giới thiệu cả thảy chín anh chị em vô Đảng, điểm lại bây giờ ai cũng trụ bộ được hết, yếu nhứt là Tám Liệp thì cũng không đến nỗi quay lưng. Bác Bảy gật gật, vặn một cái làm chú giựt mình: “Con nhỏ tốt lắm, gan, sắc sảo, có điều... nhóm Tám Liệp chịu để cho nó làm việc không? Đồng bào đã thấy nó nhận ít lâu rồi chạy lên huyện trối vái xin trả cái bí thơ, đòi đi học y tá?”. Bác lo vậy là phải. Bác còn nhắc vầy: “Thôi, giao ông đó, ông làm một hai khoá, đào tạo một lứa trâu tơ biết cày biết báng, mới cạy răng dịch mà dân lấy đất được. Riêng Hai Mẫn, ông làm sao chi bộ bầu nó vô chi ủy với số phiếu cao, đồng bào bầu nó vô ủy ban tự quản cũng vậy, nó mới dám mạnh tay cầm lái chớ!”. Ờ, ờ, thằng bạn... bác Bảy nắm sát đó. Cháu là đảng viên, cán bộ, chẳng phải trẻ nít gì mà lạy dài kêu khó, chú nói để cháu liệu trước. Còn hễ khuyên dỗ được Tám Liệp với anh em kia chuyển tốt, càng nhẹ gánh cho tụi mình chớ sao. Tay Liệp sẵn chữ, thạo việc hành chánh, xã mình cần loại cán bộ đó lắm, nhưng mà vô cấp ủy thì không nên đâu cháu, qua bấy nhiêu năm đủ thấy rồi!

            Mẫn nín thít ngồi nghe, không dám cãi, cũng chẳng dám bàn góp. Ban đầu Mẫn chảy nước mắt, quay đi lau lén, tới khúc sau lại ngẩn mặt nhìn chú, lo chú già hoá lẫn, ai lại đi bàn những chuyện dựng tóc như vậy với con nhỏ mới mười chín tuổi, làm bụp xẹp đôi chút nhưng mọi mặt khác thì như vịt nghe sấm!

            Diệm bị lật. Đội du kích đánh nát một trung đội dân vệ, thu hơn chục súng, phá banh bốn ấp chiến lược Tứ Nhơn, đẩy lùi bọn biệt kích quận từ Nhị Lộc càn lên. Chú Luân trúng đạn vào vai, phải đi bệnh xá. Mẫn, Tuất và anh em khác lo đánh hùng hục, chưa biết tổ chức bà con cách sao. Nhóm chú Liệp xuống thăm, thấy cái thế đứng chông chênh quá, chỉ dặn anh em coi chừng mặt này điểm nọ rồi đi biến. Đồng bào mừng quá đỗi, nhưng chỉ biết đi phá rào ấp,mổ heo gà cho du kích ăn, núp coi đánh và hoan hô rầm trời, bấy nhiêu thôi, muốn làm gì nữa cũng chẳng hiểu làm sao cho phải. Vùng tự do cũ mà, dân lo đóng thuế nuôi quân, du kích quanh năm chỉ soát bắt tụi buôn lậu dọc đường xe lửa An Tân đi Bồng Sơn, giặc không tới cho mà đánh.

 Lóng ngóng vậy, Tứ Nhơn vẫn đứng được hơn tháng. Mới hay thằng địch nó rệu đi nhiều, ta khó một nó khó mười. Sau một trận càn lớn, địch líp lại Tam Sa, du kích lại bật ra ngoài, tức muốn hộc máu miệng, còn phải nghe chú Liệp xuýt xoa: “Đã nói mà...”. Hiền như Năm Tuất mà phải nóng mũi, gắt: “Cần người đánh giặc chớ chẳng cần thầy bói!”.

            Bác Bảy từ cánh Bắc vào, ở hẳn với đội Tam Sa mươi ngày. Bác hỏi kỹ từng người, buộc chú Liêp phải mở đại hội chi bộ, hai năm nay chưa họp lần nào. Chú Luân chưa lành cũng cố về dự. Ý kiến qua lại nảy lửa. Nhóm chú Liệp bị phê mạnh, cũng dập lại chẳng vừa, ghép cho chú Luân, Mẫn, Tuất và mấy đồng chí nữa, những là phiêu lưu, mù quáng, anh hùng cá nhân, giành uy tín gây chia rẽ, đủ thứ. Bác Bảy gợi nhiều hơn nói, nhưng mỗi câu gợi của bác đều dồn chú Liệp vào chỗ bí. Cuối hai ngày cãi găng, đại hội ra một nghị quyết tiến công địch rất ngon, mười ba phiếu thuận, bốn phiếu chống. Chú Luân trúng chi ủy với số phiếu cao nhất, rồi đến Mẫn. Chú Liệp được bầu ở vòng phiếu thứ hai. Nhiều đồng chí đã lên tiếng phê chú vẫn thấy cần có chú trong chi ủy để lo đời sống anh em và nắm việc hành chính.

            Sau đại hội, chi bộ khỏe lên như uống sâm, chi đoàn và du kích cũng bừng bừng sức mới. Chú Luân bạo tay lắm, giữa lúc búi việc mà dám đưa Mẫn đi học lớp chi ủy viên hai tháng, Năm Ri với Chín Cang học lớp cán bộ xã đội. Mẫn ngần ngại, bị chú quát lần đầu:

            -  Bộ thiếu mày thì Tam Sa hết người hả? Hay mày giỏi quá chẳng thèm học? Cứ để thằng cà nhắc này gánh miết, tới khi nó xuôi cẳng sáo thì mày đùn cho ai? Hễ còn cái lối sống chết mặc bây đó, mày đừng ngó mặt tao nữa!

            Mẫn xách gói đi một nước, không dám ho he.

            Cứ như vậy, cuộc giành dân giành đất diễn ra suốt năm 1964. Ta giằng đi, địch co lại. Ta phá ấp, địch sửa ấp.Ta diệt ác ôn, thằng khác ngoi lên. Bà con Tứ Nhơn nổi dậy một lần, quân nó kéo về đông đen, kẹp lại. Suốt tám tháng đầu năm, thế ta như nước dẫy, từng con sóng chạy tới chạy lui nhưng thủy triều cứ dâng đều đặn. Địch húc lại một keo rất dữ, lập luôn bốn ấp chiến lược điển hình, vừa xong thì nạn lụt đổ tới, bộ đội về...

    *

   Tôi ngửng lên, bàng hoàng khi thấy mặt Mẫn sáng trưng.

            Đêm đen ướt sũng tan bao giờ không rõ. Tấm tăng nhựa trong là đèn lồng phủ giấy xanh dưới trăng mồng mười. Lá rụng dính vào mái in những hình thoi sẫm nằm im, còn bóng lá từ trên soi xuống nhạt màu hơn, rung rinh, vẽ những bán đảo đang sống dậy. Thì ra từ nãy tôi vẫn nghe lời kể của một cô gái mới hai mươi tuổi lẻ vài tháng thôi, không phải của chị Bỉnh ba con hay chị Tám Giàu đợi chồng tập kết. Một quãng đời ngắn lại chứa nổi bấy nhiêu chất sống ư? Nếu không ở bên Mẫn hàng ngày, hẳn tôi nghĩ rằng ánh trăng đã xoá giùm Mẫn những vết khía của lo toan trên trán và chung quanh mắt...

            Mẫn đứng đậy tháo võng, cười:

            -  Hoan hô ông trời ngó lại!

            Tôi bần thần bẻ cành lá, quét nhà lối dã chiến, nghĩa là quét mái chứ không quét nền. Sau đó để gió quạt khô tấm nhựa, gần sáng xếp bỏ bao cho nhẹ. Mẫn buộc võng vào hai khúc cây chèn sẵn trong kẽ đá, cách tôi mươi bước, bó gối ngồi nhìn trăng. Từ bao giờ nhỉ loài người đã ghép người con gái với trăng, từ khuôn mặt, tuổi, tình yêu, đến đặt luôn một cô gái trong cung trăng?

            Câu chuyện của Mẫn...khó gọi được là chuyện đời riêng hay viêc chung. Mẫn nhờ tôi giúp, hay Mẫn là đồng chí chi ủy giúp cho tôi thông cái thắc mắc hôm kia? Tất cả đều có trong ấy, cũng như trong con người Mẫn có những cung bậc nghĩ và cảm cách xa nhau lạ lùng nhưng vẫn quyện làm một. Anh Luân và các đồng chí đã kể cho tôi từng mẩu của cuộc đấu tranh chống kẻ thù bằng xương thịt và kẻ thù tư tưởng. Mẫn đưa tôi đi thăm một vùng mà tôi đã xem trước trong bộ ảnh, giờ thấy đúng hệt nhưng thực hơn, sống hơn, đầy những vui buồn đan vào nhau...Tôi không góp được gì với Mẫn. Tôi trải đời trải đạn nhiều hơn Mẫn mà chưa biết tới một lần thử thách nhức đầu giữa ta với ta. Lác đác tôi cũng gặp những đồng chí sa sút hay “ba rọi”-  thịt và mỡ xen kẽ - nhưng cái tập thể bộ đội của tôi là cái máy mài quay tít, những gì nhám nhúa cọ vào nó nếu không trơn bóng ra thì cũng văng đi nơi khác, không kìm nó được. Ở đây, Mẫn phải mài bẳng tay...

            Từ khi biết nghĩ, tôi có ngay trước mắt những bậc đàn anh rất tin yêu. Hẫng đi vài năm đứt liên lạc ở Qui Nhơn, Đà Nẵng, tôi vẫn giữ kỷ niệm của họ làm khuôn mẫu để rèn mình. Đầu anh Trung cắm cọc mở to đôi mắt nhìn theo tôi suốt dạo ấy. Tới nay, tính cả tin ngây thơ của tuổi nhỏ đã từng bước được thay bằng những hiểu biết và tình cảm cách mạng, tôi đã quen xét mình đo người bằng cái thước chung của lý tưởng mà không bắt chước nguyên cả khối một đồng chí lớn hơn. Sự thay da đổi thịt giữa hai lứa tuổi ấy diễn ra trong tôi rất êm thấm. Tôi chỉ nhận ra mình chín hơn khi đón những cậu lính trẻ tới đơn vị, mặt lang ben và giọng chưa vỡ hẳn, còn khóc khi bị cán bộ gắt, có thể được huân chương ngay sau trận đầu nhưng phải cân nhắc kỹ trước khi đề bạt. Một số anh em lớn lên vèo vèo trong chiến đấu, qua vài năm có thể nắm một trung đội hay đại đội, được phong anh hùng, vào cấp ủy Đảng rất thoải mái. Họ lớn nhanh đến nỗi có người tưởng họ không cần gắng gỏi chút nào, đẻ ra đã là anh hùng, là cốt cán, cũng như tưởng cái cánh quạt quay chín trăm vòng phút là cái mâm nhôm đứng im.

            Mẫn cũng thuộc lớp người trưởng thành không kịp thấy, nhưng còn phải trải thêm nhiều nỗi đau riêng, trong đó có một ông cha nuôi kiêm ông thầy đã phụ lòng mến phục của Mẫn, biến thành cái xe bò nhích từng bước nặng trịch, cản một đoàn xe đạp dồn ứ sau lưng. Xe bò vẫn cần dùng lắm, chỉ tiếc nó không chịu đi sau...Nên chăng nói rằng tôi gặp may hơn Mẫn vì chưa đụng một ai như anh Tám Liệp trước mặt? Anh Năm Cẩn hay trách tôi không sợ bể đầu mà ngại nhức đầu, đúng quá còn gì. Tay tôi thích cầm súng hơn cầm kim vá chỗ rách, quen vung rìu đốn cây mà chưa biết gỡ những nùi chỉ rối, đâu phải là điều may!

            Mẫn ngồi đó dưới trăng, hai tay bó một gối, chân trái đẩy võng nhè nhẹ. Tôi bước tới gần, chẳng hiểu sao hơi mất tự nhiên. Mẫn quay lại, cười:

            -  Anh em mình trúng tủ!

            Tôi chưa nghĩ ra Mẫn với tôi “trúng tủ” thế nào, đã nghe tiếp:

            -  Tụi đồn Dốc Dài đặt hai đèn pha chiếu xuống ấp Lộc Chánh, xỏ kim được anh à. Sáng trăng này phá rào tốt lắm, đèn pha đèn dù chịu thua, mình nổi lửa lên nó mới hay.

            Ra anh em mình là vậy, tôi cứ vơ vào...Tôi vội chữa bằng một câu chăm lo:

            -  Trời mới mưa e khó cháy...

            -  Dầu lửa thiếu gì. Dưới đó dầu rái cũng sẵn, mưa dầm tháng mười mà tụi em tưới dầu rái đốt rụi hết. Lộc Chánh gần sạch thứ rào tre rào cây rồi, cắt kẽm gai thôi, chỉ coi chừng số mìn...

            Dưới kia, con chim te te hoách bỗng réo liên hồi. Tôi đoán có đồng chí nào về trước, mới mười giờ làm gì đã phá xong. Mẫn lắc đầu:

            -  Heo rừng đó. Heo chạy sạt qua, chim đánh chút xíu rồi thôi, người đi đâu có mau vậy.

            -  Sao Mẫn biết phá ấp Lộc Chánh?

            -  Dép bỏ đống đằng kia, chỗ võng anh...

            Chết nỗi, sao tôi giẫm vỏ chuối hoài vậy? Vụng chèo khéo chống, chống cũng trượt luôn. Tôi chợt nhớ ra những lần đoán lầm về Mẫn từ ngày mới gặp. Đôi lúc muốn tỏ ra thạo đời rành việc trước mặt Mẫn, lại hớ từng chuỗi một. Xấu hổ ghê. Nhưng việc gì phải xấu hổ? Mới quen Mẫn tôi chưa bắt dược dòng suy nghĩ bên trong qua những nét bề ngoài, vậy thôi. Không, Mẫn không chỉ là một đồng chí quen và sẽ xa... Lộn xộn rồi. Bắt đầu bông lông đó chú em! Tôi ngồi xuống một tảng đá, hỏi cóc nhảy về thằng Thấn, nãy giờ quên phứt nó.

            Mẫn buông hai bàn chân rất trắng xuống đá - trắng như chân Mỹ, bà con hay nói vậy, bởi lâu lâu thấy một “ông cố vấn” bị giải qua làng với đôi giày ống ngoắc trên cổ - hơi cau mày ngó tôi:

            - Anh mới sốt dậy, còn muốn đau đầu thêm à?

            - Lại bí mật nội bộ...

            - Không mà. Bữa trước Chín Cang kể sạch trơn rồi, chắc anh phải rửa tai, chuyện mất vệ sinh thấy bà.

            -  Tôi mới nghe sơ sơ. Chẳng hiểu tiền nong đâu có mà nó ăn cắp tới mấy trăm ngàn? Xã mới giải phóng vài tháng, chưa thu đảm phụ, lúa nuôi quân còn ở ngoài đồng...

            - Đó, mấy ông bộ đội thiệt thà nhứt cái chỗ đó! Anh nào cũng hỏi em y một câu vậy. Tội nghiệp, tổ anh Thìn đặc công còn trút áo len đưa cho đội công tác, nói các đồng chí cực quá mà trên không phát gì hết, tụi tôi giúp. Em trả lại, các ảnh còn trách...

            Tam Sa rất nổi về đóng góp nuôi quân hồi “chín năm”. Cái truyền thống ấy mạnh đến nỗi khi ta chưa nổ súng, đồng bào cứ băn khoăn “địch nó thu hết thuế của chánh phủ mình”. Từ ngày lập đội công tác, tiền, gạo, vải, thuốc men cứ ùn ùn từ các ấp chiến lược tuôn ra vùng giải phóng, có năm vượt cả Tam Trân mới kỳ. Ban đầu anh Lãng làm kinh tế, ghi tên từng người ủng hộ cách mạng. Địch bắn chết anh, lấy trụm sổ sách, bắt một loạt hơn hai trăm người, sau chỉ đánh nặng và bỏ tù mười sáu người. Bà con hoảng, ngừng một dạo, sau lại đóng góp tiếp, chỉ dặn đi dặn lại không được ghi sổ. Năm Tuất thay, hai bàn tay rất sạch nhưng cái đầu hay rối, quên trước quên sau hoài. Trao được công việc cho Ba Thấn, anh thở phào một hơi, ăn được ngủ được ngay.

            Ba Thấn là bạn buôn của thím Liệp đã lâu. Thím mở quán ở Sáu Trân, hắn vẫn chở hàng đều từ Tam Kỳ lên khám cho thím. Kinh tế huyện giao hắn mua mấy thứ hàng khó, chuyến đầu tốt, chuyến nhì hắn ăn lời cắt cổ, chuyến ba hắn kêu bị địch soát lấy sạch, số tiền huyện ứng trước tất nhiên cũng bay. Vậy là tởn luôn. Cách đây hơn năm, hắn bị địch lùng bắt vì mua tới sáu cái máy thu thanh một lần, phải nhảy sang ta, ở nhà thím Liệp. Ngồi đâu hắn cũng xưng là cơ sở cách mạng bị lộ. Hay nhét Bát-tô cả gói vào túi anh em, ai đeo súng lục còn được mời bia cam, mấy ông có người bảo vệ đi theo thì ít nhất phải cháo gà mới tỏ hết tình cảm. Chú Tám Liệp thấy hắn lanh lợi, rất vâng lời chú, muốn xếp hắn làm cán bộ kinh tế. Chú Luân và Mẫn không thích mấy, nhưng chẳng có cớ gì để bác, chỉ giao chú Liệp giáo dục hắn thật kỹ, cấm ngặt cái lối vừa công tác vừa buôn riêng.

            Ba Thấn làm đúng như vậy. Đêm đêm hắn theo đội vào các ấp để thu các thứ đồng bào ủng hộ, ban ngày hắn mở bao ra kiểm kê, nhờ ban chỉ huy đội chứng nhận trước khi chuyển vào kho. Hắn gan và xốc vác, ngủ đâu cũng được, mặc gì cũng xong, chỉ mắc cái tật kén ăn. Hắn thường phân trần rằng hàng tháng vợ hắn phải đem tiền lên cho hắn tẩm bổ, ăn kém là gục liền, không đủ sức phục vụ. Quà của vợ, hắn hay chia cho anh em mỗi người một chút thơm thảo, ve thuốc bổ hay cây bút bi, cái khăn. Nhiều anh em mến hắn, một số ngài ngại, nhưng không ai ghét hắn.

            Tình cờ Mẫn lên huyện họp, nghe Ban kinh tế phàn nàn dạo này Tam Sa đóng góp sút nhiều. Mẫn mượn sổ, ghi con số nộp lên từng tháng, thấy chỉ còn non một nửa so với hồi Năm Tuất làm. Mới đem ra bàn với chi ủy, Mẫn đã bị chú Liệp cự thẳng thừng là qua mặt chú, thấy ai khá thì bới lông tìm vết, có giỏi cứ đi hết sáu ấp, hỏi từng nhà mà kiểm tra. Mẫn biết chú Liệp không xơ múi gì trong vụ này, chú phá ngang chỉ vì Mẫn dám tỏ ra khôn hơn chú. Chú Luân cũng nghi Ba Thấn bớt xén, nhưng giữa lúc vật lộn với địch này phải dồn sức vào việc chính. Chú khuyên Mẫn tạm gác ít lâu, và gọi riêng Ba Thấn răn đe hắn một hồi.

            Vài hôm sau, Ba Thấn đưa Mẫn cái đồng hồ nữ mạ vàng, nói rằng vợ hắn quí chị Hai, muốn biếu chị làm lưu niệm. Mẫn không nhận. Lần khác hắn cười cười nói lửng rằng hại nhơn thì nhơn hại. Mẫn khoe ngay cây các-pin còn nhiều đạn lắm. Trong ấp chiến lược bỗng có người nhắn ra: “Nghe nói hai Mẫn lén viết thơ năn nỉ xã Chinh đừng bắt mẹ với em thiệt không?”. Cả đội cười mũi.

            Tổ trinh sát của anh Diêu về với đội, dọn chỗ diệt xe trên đường Một. Mẫn hay đưa các anh đi suốt đêm. Bộ đội đánh thắng rất ngon. Tổ anh Diêu rút đi, Mẫn cũng kiệt sức, ốm nặng, không nằm lại vùng gò với đội được. Thím Liệp động gặp Mẫn là đá thúng đụng nia, Mẫn không dám ở nhờ, phải nằm nhà bà dì trên Tam Lý, xin tiền dì uống thuốc bắc vì bệnh xá huyện đang thiếu thuốc chữa bệnh đàn bà, lên tỉnh quá xa. Hơn tháng sau Mẫn về đội với bộ mặt xanh hóp, nghe Chín Cang nói luôn rằng ở nhà người ta đồn Mẫn chửa hoang với anh Diêu, phải lánh chỗ thật vắng mà phá thai. Cang đăm đăm nhìn nước da của bạn, thì thào: “Tao nghe đâu chặn đó,mà... thiệt không Mẫn?” Mẫn lặng người một lát mới nói được, đã tái càng tái thêm: “Mày cũng hỏi tao vậy à?”.

            Thằng Thấn đã đánh trúng chỗ yếu nhất của Mẫn và mọi người chung quanh. Như con rắn lục theo người trong cỏ, hắn luồn sau lưng Mẫn, gieo tiếng dữ rất chăm chỉ, khéo lựa lời để thổi nọc độc cho lọt vào từng lỗ tai, luôn luôn mở đầu bằng: “Nghe bà con họ nói...”. Tin đồn lan rộng và lẩn khuất đâu đó như nước đái rắn bay mùi mà không hiện vết, người ta ngại thối không muốn tìm tận nơi nhưng thỉnh thoảng lại hít phải nó.

            Anh em bà con cứ nửa tin nửa ngờ. Hỏi thẳng Mẫn thì không tiện mà một cô gái thường dễ nhận sai lầm về chính trị hơn là một vấp váp như vậy. Cả chú Luân ban đầu còn có lúc nhẹ dạ huống chi gái tơ, không dưng ai dễ đặt đồ cho ai... Người thân đã vậy, kẻ sơ càng dễ gật đầu. Có đứa xấu bày trẻ con hát điệu đèn tây sau lưng Mẫn: Ba-lô sáu tháng ba-lô phình, ba-lô chín tháng ba-lô ra. Mấy tay thậm thụt với địch đã bị Mẫn trấn áp, nay dám nhổ nước bọt, nói bâng quơ trước mặt những là cá đôi ba buổi chợ, bụng lỡ bợ lỡ bưng.

            Đồng chí Mẫn chi ủy viên còn là con gái hai mươi dễ cười dễ khóc, bị trêu chuyện lấy chồng là đỏ mặt lảng xa. Mẫn mở miệng phân bua đã thấy đắng họng, chung quanh chỉ hỏi dò khuyên bóng nên Mẫn càng khó nói, đành giơ lưng chịu đòn âm uất đến gầy rạc đi. Chín Cang tức không kém Mẫn, rủ hai cô nữa đạp xe lên Tam Kỳ hỏi kỹ, về nói với ban chỉ huy đội: “Tụi tôi dò ra Ba Thấn rồi. Một là các chú trị nó, hai là đám con gái kéo hết ra khỏi đội!”. Chú Liệp cười khẩy: “Không nằm dưới đất sao cỏ may dính mình?”. Chú Luân truy Ba Thấn, hắn chối bay. Chú khuyên Mẫn đừng bận tâm chuyện vặt, lo đánh giặc đã. Các cô hậm hực: “Cái gì chú cũng tạm xếp, tạm gác... Tụi tôi đánh Mỹ, thằng Thấn đánh vô lưng tụi tôi: rán mà chịu. Tụi tôi cuốc gò trồng khoai, thằng Thấn hốt bạc làm giàu: ấy, đừng nói địch nó lợi dụng...”. Chính Mẫn lại phải can chị em. Mẫn mất tiếng cười, nói giọng bà cụ non nghe lạ hẳn đi, đó là cô Mẫn “khô như ngói” mà tôi đã gặp khi về cứu lụt năm ngoái.

            Vùng Tứ Nhơn được giải phóng sau lụt. Gạo tiền từ vùng giải phỏng trút về Tam Sa giúp đồng bào bị nạn. Thằng Thấn vừa ăn cắp, vừa ca ngợi ông chủ tịch mới cử, vừa bôi xấu Mẫn. Hắn tính kỹ lắm: hoặc Mẫn sợ không dám vạch mặt hắn, hoặc Mẫn chán bỏ đi xa, hoặc Mẫn nói không ai tin nữa, đằng nào hắn cũng lợi. Nhưng con mắt nhân dân rất tinh, cán bộ và du kích vào ở làng biết rõ chuyện hơn. Chi bộ họp, các đồng chí nối nhau vặn chi ủy đến mướt mồ hôi, cả chú Luân cũng bị nghi chia của ăn cắp, chú điếng người. Năm Tuất được giao soát hết công việc thằng Thấn. Anh loay hoay khá lâu không moi được gì, anh thật quá mà nó ranh quá. Được cái anh quyết làm tận bờ sát góc, hỏi đồng bào, lên trên xin cán bộ giúp, nên một tháng sau huyện đã đủ bằng chứng để bắt thằng Thấn. Ở xã hắn nhận ăn cắp một trăm ngàn, tiêu hết rồi. Về trại cải tạo hắn chịu hai trăm ngàn “xin trả một nửa. Các đồng chỉ bảo vệ dẫn hắn đi thu số hàng, thóc, vàng gửi rải rác, tính ra được hơn hai trăm ngàn, không kể cái số hắn đưa vợ mang về thị xã.

            Riêng chú Liệp bị một đòn phản thùng choáng váng: thằng Thấn khai đã đưa chú năm chục ngàn làm vốn buôn. Huyện gọi chú lên hỏi hai lần, gặp Ba Thấn, hắn nói vanh vách đã đưa ngày nào, ở đâu. Cả đội công tác đều biết chú mắc cái thế phù thủy bị âm binh hại. Chú đổ của nhà ra nuôi anh em nhiều năm, chú ham địa vị chứ không ham làm giàu.Thằng Thấn muốn xích tay chú vào hắn, may ra cấp trên sợ đổ bể ồn ào, sẽ cho qua êm vụ này. Lừa lúc sơ hở, hắn nhảy theo địch để lại cho chú Liệp mỗi nỗi oan chưa gỡ được, cho Mẫn một tiếng xấu chưa phai hết, cho chi bộ Tam Sa một kinh nghiệm dùng người...

            Mẫn buông một câu đột ngột:

            -  Chuyện cũ nói anh biết, bây giờ đỡ hung rồi anh ơi.

            -  Rào đón kỹ ghê ta!

            -  Tại em bị mấy keo, cứ chờn chờn...Hồi xưa em điếc dạn súng, cực mấy cũng giỡn cả ngày, mẹ em cứ rầy vô duyên chưa nói đã cười.

            Mẫn đu đưa hai chân, cười nhẹ, vẫn nụ cười làm sáng bộ mặt có đôi mày quá nghiêm. Tôi muốn đùa: “Cười vậy mà vô duyên à?”. Tôi không dám. Hình như tôi sợ Mẫn mà lại không muốn rời Mẫn, lạ chưa. Trong đêm vắng, tôi ngồi bên một cô gái có ánh trăng xoa phấn trên da nghe cô thủ thỉ gọi anh xưng em, cười rất xinh, kể hết tâm tình, nên thơ nhất rồi còn gì. Nhưng câu chuyện say sưa của đôi trai gái này từ đầu đến cuối vẫn là chuyện học làm cách mạng, học làm người.

            Mẫn nhìn trăng, nói chậm rãi:

            -  Như bác Bảy, chú Luân mới thiệt tài. Mỗi ngày đụng cả trăm việc rắc rối, vậy mà tánh vui hơn thanh niên mình nữa. Để em tập riết phải quen. Cũng như nậu đi cấy thôi, ai sợ đỉa cứ dòm xuống hoài, đỉa bu thì giãy la làng, còn người dạn thì cứ tay cấy miệng hát cả ngày. Phải không thầy Thiêm?

             

             

            Chú thích

            (1) Quốc dân đảng

            (2) Co giãn, linh động

            (3) Bằng tốt nghiệp tiểu học.

            (4): Chạy tránh khủng bố ngay trong vùng địch kiểm soát.

            (5): Bị địch dồn vào một khu riêng, dành cho gia đình các “phần tử nguy hiểm”.

 Chương 12  

            Xỏ xong quai dép bằng lá chà là, Anh Tư Luân rút ống thuốc mỡ trong túi dết, kéo cao ống quần, bóp thuốc trên đầu gối, nắn chỗ sưng. Anh cứ đủng đỉnh như ông câu dầm. Thấy tôi đứng lên dòm lần nữa, anh cười khà

            - Chưa đâu, lão. Săn heo rừng phải lì đợi chờ. Hai Mẫn đánh coi như ăn gỏi, con nhỏ lanh kỳ cục lắm đó.

            Tôi bị bắt quả tang đang sốt ruột, chỉ cười theo xí xoá. Cái bình tĩnh khi nằm đợi nổ súng bay đâu mất, tôi nhấp nhổm hoài, và cãi gượng với mình rằng tôi bị buộc phải đứng ngoài xem đánh nên mới lo giùm anh em. Tôi không dám truy tới cùng thử coi lo cho ai nhiều nhất.

            Một con bìm bịp nhảy trong bụi, thoáng màu cánh nâu chìm vào lá. Một tràng hụp hụp dội ra. Dứt tiếng chim, tôi đoán: “Sắp nổ đây nè, sắp …”. Không nổ. Con rắn mối bò trên đá, đương ngó tôi, óng ánh như một vật chặn giấy bằng sành phủ men xám. Nó há miệng hớp nắng, thè cái lưỡi đỏ liếm mép ngon lành như vừa uống bia vàng, lại chui vào kẽ. Tôi tìm việc làm cho mắt và tai. Cu đất gù ngoài xa. Đám mây hình con gấu khi nãy đã co lại hình mèo ngồi…Đầu tôi cứ tự ý quay về phía làng. Mẫn vào trong ấy đã ba hôm, và chiều nay sẽ đánh trận táo bạo: diệt vọng gác giữa ban ngày, lấy cho được súng, ép địch co lại. Đó là trận mở màn “chiến dịch” mới của Tam Sa.

            Anh Luân thích gọi nó là chiến dịch giành lúa. Tôi đặt tên khác: cuộc chạy đua với Mỹ. Mẫn đùa, tuyên bố với du kích rằng ta sắp đồng khởi từng xóm. Chẳng ai sai cả, vì đợt tấn công này có đủ các nét ấy gộp lại.

            Đồng lúa chạy dài mé trên đường cái đen đang chín rộ, chín gấp, từng mảng nối tiếp nhau ngả vàng tươi, trông mà bắt cồn cào cả người. Mùa gặt đầu tiên sau lụt lớn đến sát sau lưng, bà con Tam Sa thấy giặc sửa soạn cướp lúa mà phát cuồng. Cha con xã Chinh chưa dám tính chuyện lấy lại ruộng hay đòi tô cũ, chỉ hằm hằm ăn xổi vài chục ngàn ang thóc cái đã. Đồng Nhơn Phước chín sớm hơn, bị một đại đội giặc đổ ra vừa gặt vừa xéo, M.113 chở lúa bỏ chạy tuốt về An Tân, bà con đấu và du kích đánh suốt ngày mới giữ hơn được một nửa. Chín Cang chạy vào báo tin với cặp mắt sưng đỏ. Chậm chân là mất lúa. Sau đó, dù được giải phóng, bà con cũng phải bỏ xứ đi kiếm sống, du kích bám làng chỉ có nước ăn củ chuối.

            Riêng tôi cứ nhắc hoài vụ quân Mỹ sắp vào Chu Lai. Sân bay dưới ấy đủ cho máy bay cánh quạt lên xuống, các cứ điểm xung quanh xây gần xong, số Mỹ cai quản lính ngụy lên tới tám chục. Tôi xuống đấy hai đêm với Năm Ri, đoán chậm nhất chỉ vài tuần nữa Mỹ sẽ đổ bộ, tiếc rằng chủ lực ta bận đánh nơi khác, không kịp nện một đòn phủ đầu. Bây giờ Tam Sa nổi dậy khó một, tháng sau sẽ khó gấp đôi gấp ba. Tôi kể lại cuộc chạy đua giữa C.215 với tiểu đoàn biệt động ở Đèo Nhông, ta nhanh hơn vài phút mà dành được cái thế từ trên đạp xuống mặt địch.

            Chi bộ họp trắng đêm, quyết định cái điều Mẫn nói: cài răng lược mạnh nữa, dù phải giành chính quyền từng liên gia cũng cứ nổi dậy, lập “xóm chiến đấu” mà đánh! Mẫn được cử làm “chỉ huy trưởng” chiến dịch, vào ở hầm trong ấp. Năm Tuất về vùng cát nắm Nhị Lộc, Tư Luân đóng sở chỉ huy ngoài gò. Anh Liệp về họp với bộ mặt ủ rũ của người đợi bị kỷ luật, cậu Quì xoắn hai tay phân bua mãi phát ngấy. Còn hai đồng chí nữa trong nhóm Anh Liệp lặng lẽ vắng mặt, chi bộ hiểu ngay rằng họ bỏ cuộc, làm Đảng viên trong thời đánh Mỹ này quá khó đối với họ. Cũng được thôi, họ có thể nhận việc khác vừa sức hơn. Anh Luân bàn riêng với Mẫn và tôi, rồi giao Tám Liệp lo chung đợt thu và giấu lúa nuôi quân sắp tới. Tôi thoáng thấy trong mắt anh Liệp một ánh mừng thầm kín, không muốn vội đoán xem anh mừng vì ai.

            Tôi bốc, giơ tay nhận làm “Tham mưu trưởng chiến dịch”. Nói xong mới biết mình hớ. Chi bộ cười, Mẫn cúi xuống đọc cái gì trong sổ tay, anh Luân lại vỗ đùi: “Đồng ý cái rốp!”. Tôi quên mất nạn ở chung hầm! Nhưng rồi anh Luân cũng can, vì huyện cấm xã dùng tôi kiểu ấy. Thật tình, nếu không có cái Chu Lai từng lúc gọi giật tôi về nhiệm vụ làm quen với Mỹ, tôi đã biến hẳn thành một cán bộ của Tam Sa. Cái cảm giác hoà tan mình trong một tập thể thật là thú vị, như tôi ngâm cả mình dưới suối giữa trưa hè cho nước ngấm vào từng nếp da mát rượi.

            Tiễn Mẫn vào làng dưới sáng trăng, Anh Luân đấm lưng tôi, nói tưng tửng:

            - Từ giờ trở đi, ông cố vấn quân sự của tao có nhảy mũi, máy mắt, té lên té xuống, là tại mày nhắc miết đó nghe!

            - Chú

            - Sáng trăng tôi được chồng ai; tôi cột gốc xoài, ai chuộc tôi cho…May mai mày ra chuộc, nhớ vai mang vò rượu tay bồng con heo, ừ chứ?

            Mẫn bịt tai, chạy mất. Tôi ngượng nín thinh, lại muốn nghe Anh Luân nói nhiều về cô cháu gái cưng cho khuây cái ý nghĩ day dứt; Mẫn đi vào chỗ nguy hiểm mà vắng tôi bên mình. Nhưng Anh Luân bắt sang chuyện hai đảng viên vừa rút lui êm. Tôi nghe nửa giờ chẳng hiểu anh nói gì.

            Tối hôm sau, cùng đi Nhơn Thọ và về tới giếng Tiên lúc hai giờ sáng, Anh hỏi độp trong khi buộc võng:

            - Nè ông lính Binh Định, cắm rễ làng Cá thì tính làm rể luôn chớ?

            - Mô Phật!

            - Đừng làm bộ! Lâu nay mình để ý kiếm chồng cho Hai Mẫn, ngó đi ngó lại chẳng thấy ai xứng nó. Sắp du kích kêu chị Hai riết rồi coi nó như chị thiệt, đố dám lấy. Con trai đi bộ đội sạch trơn, sót đứa nào lớ ngớ ở làng cũng bị địch nắm đầu đi quân dịch. Thời buổi này, gái ngoan tìm chồng ở chốn ba quân chớ ở đâu. Lão hỏi con Mẫn, chắc nó ừ. Con gái ở đây trầm trồ khen lão bảnh trai lắm đó.

            Nếu một ai khác ghép đôi cho tôi bằng cái giọng cha nội ấy, chắc tôi đã cáu. Anh Luân nói, tôi chỉ cười dài, thu thú nữa, còn anh thì lại phát bực:

            - Gì mà cười? Chuyện chung thân đại sự mà cứ hả hả hả…..Đừng tưởng con Mẫn dễ đâu nghen. Sáu bảy anh đâm đơn bị bác hết rồi. Mình tính dùm cho lão vậy. Lão bỏ nhỏ một tiếng, tụi mình xúm lấy cuốc vun vô, nó gật một cái là lãi cưới luôn. Lão đi tứ xứ mặc kệ lão, để vợ đó tụi mình giữ giùm, hồi rảnh rang lão về bồng con….Cười nữa à? Nửa đời người không lo vợ con, ở đó nhăn răng cười!

            Anh tức thật sự, phẩy cái quạt mo phành phạch một hồi, ngủ luôn.

            Chẳng biết các cô “tưởng sự lấy chồng, tỉnh như con sáo” thật không, chứ cơn buồn ngủ cứng mắt của tôi tan đâu mất. Tôi hiểu, anh Luân tự thấy phải lo cho đứa cháu mất mẹ vắng cha, cũng muốn Mẫn gọn bề chồng con để yên bụng làm công tác, khỏi lo già hết duyên, hay là ngại lên cấp cô khó lấy chồng trẻ…Chú Luân ơi, chú tốt bụng lắm, nhưng mà cha mẹ lấy vợ cho chú cách một phần tư thế kỷ rồi, cô cháu gái của chú ngày nay nghĩ về tình yêu và hạnh phúc khác xa chú thím rồi. Thằng Thiêm có thể bảnh trai, được cô ấy anh anh em em ngọt lừ đấy, nhưng nó suồng sã một chút là ăn báng súng các bin M.2 vào sườn cho coi. Lấy cuốc cuốc vào theo lối chú, biết đâu chẳng là lấy cào cào ra!

            Tôi xoay lưng về phía ông mối bất mãn, ngáy một lát, con mắt cứ tráo trưng. Đang đánh Mỹ mệt phờ râu, ông lại đi gợi chuyện ba lăng nhăng…. Nhưng lại hấp dẫn mới chết chứ….

            Người ta bảo “Dân thợ chậm vợ hiếm con”, có lẽ đúng. Cả họ Đặng phía ba tôi, hầu hết làm thợ, đàn ông đều theo cái lệ tam thập nhị lập, muộn nữa càng hay. Chỉ một người phá giới sớm là anh con đầu ông bác tôi. Mới hăm mốt, làm ét xe hơi, Anh mê một cô hàng xén rất xinh ở An Khê, quyết lấy cho được. Ba tôi khuyên:”Đời thằng thợ, để gia tài cho con có hai thứ thôi: tay nghề là một, thất nghiệp là hai. Ba mày với tao chí thú tới vậy, bây giờ đầu hai thứ tóc vẫn là sống nhờ đất nước ông bà, chết cậy mã tà đi đưa. Mày chưa vững nghề đã vợ đuổi con đeo, liệu sắm bị gậy sẵn đi!”. Anh tôi không nghe, nhà gái thách mấy cũng cố vay mà cưới, ở gửi rể luôn, nghe đâu quần quật bốn năm mới sạch nợ. Bẵng đi rất lâu, hết đánh Tây, mà tôi gặp lại anh về Quy Nhơn tìm việc, ngó mãi mới nhận ra: Anh già sọm đi, vai còng, tóc bạc một mảng sau gáy. Tôi nghe anh kể mà kinh. Anh là cái đầu máy hụt hơi kéo một xâu toa dài thêm mãi: tám đứa con nối vào anh, chị vợ rất đoảng níu vào bầy con, ông già lười biếng với bà già vỡ nợ móc xích vào vợ, đeo them vào đấy còn cả chùm những cậu em vợ lêu lỏng về nã tiền nhà, những họ hàng gần xa cứ nhất định tin rằng làm ô tô là hái ra bạc. Đã vậy, bấy nhiêu người cứ thi nhau nhắc ra rả rằng anh lấy được chị là phước bảy mươi đời, mấy đứa con lớn cũng bắt chước nói theo, đau lắm….

            Hồi nhỏ đã khiếp, lớn lên tôi gặp vô số cặp vợ chồng Ngâu rất tội, mười một năm chưa một lần được qua sông. Tôi lại lao hết mình theo dòng thác đánh Mỹ. Có lẽ tim tôi không chứa nổi hai say mê lớn, nên tôi quên nhanh những rung động chợt đến trước một đôi mắt bồ câu nhìn tôi khuyến khích, để nghĩ tới cây tom-xơn của tiểu đội Ba trúng đạn toác vành cò. Người cứ nhẹ thênh, rất khoái. Cho đến nay…ma quỷ  nào xui mà tôi nhớ Mẫn hoài vậy?

            Ừ, nhớ đấy, thì đã sao? Có gì là bậy nếu tôi nhớ cô bạn sắp đánh một trận khó? Nhớ hẳn đi một keo thử coi, đằng nào cũng chưa ngủ được…..

            Giả sử tôi nghe lời Anh Luân, tôi đặt vấn đề….chà, mấy tiếng này cứ khô khốc. Tôi liều gọi Mẫn bằng em chẳng hạn. “Em Mẫn”. Cái báng các bin nằm im, chỉ có đôi mắt rất đen ngước nhìn tôi, luống cuống hỏi thầm: “Có phải …hay em nghe lầm?”. Hãy cứ vơ vào một chút, mất gì. Trong văn chương, tới đó người ta chấm lửng, qua chuyện khác, coi như ai thắng ai đã rõ. Ngoài đời chắc là khác, tôi phải nói thêm nhiều nhiều, chết nỗi nói gì đây? Một chuỗi câu hát rất xưa đến ngỏ dùm tôi. Những câu hát nhẹ như sương mỏng bay qua, phủ mờ khuôn mặt Mẫn, đôi mắt nghiêm dịu lại thành mắt người yêu đắm đuối…Lụt nguồn trôi trái lòn bon: mẹ mất cha còn, em chịu mồ côi. Thương ghê. Khúc dạo đầu đó, rồi tới gặp anh một bữa nhớ anh ngàn ngày. Ngàn ngày là gần ba năm đó nghen. Gặp lại hai chục bữa thì phải nhớ sáu mươi năm….Màn sương đẫm trăng bạc đọng dần trên môi chúng tôi thành những giọt vui rưng rưng: Anh với em…..

            Một chú gà rừng gáy xa thé thé. Bỏ mẹ, gà gáy đầu rồi sáng mai lên lớp tha hồ mà ngáp, con ma sốt rét cứ rình xuống sức mà quật. Vướng. Mang tiếng thấy mồ. Sắp quần lộn ẩu với địch mà định mê gái à? Không khổng khồng không. Tôi cố vẽ trong đầu một số không thật tròn, cảm thấy cái võng tự do đong đưa bay lên, rất dễ chịu. Chân tay tê dần, tới đầu tôi cũng tan trong con số không ấy.   *

      - Ai đốt than cháy tới canh này mà chưa chịu hạ lửa, cà nông bắn chết á.

            Ai như chị Biền dưới chân dốc gọi lên lảnh lói. Tôi quay nhìn đằng sau: Một cột khói mỏng đang bốc đứng bỗng đứt gốc, phá ngang thành nhiều bung tròn lộn xộn. Đội du kích đang ngủ một giấc “ứng trước”, chắc có cậu nhen lửa đun nước uống, vừa dập vội. Mặt trời gần gác núi. Ba phát cối 60 đã bắt bà con quay về hết ấp, không còn đám khói “hợp pháp” nào để cho chúng tôi nấu chen vào.

            Chị Biền vạch bụi leo đến chỗ chúng tôi, bắp chân vạm vỡ bị gai bớm rạch mấy đường, mặt bánh mật đỏ rựng. Chị hổn hển:

            - Tôi… các cha ẩu quá…lộ cả xâu cả xốc rồi đó….

            Chị Biền đem tin mới. Tin xấu.

            Cha con xã Chinh đã cho Ba Thấn về trại hồi chánh, tưởng êm, trưa nay lôi hắn trở lại làng Cá. Thằng Chinh con vừa khịt mũi vừa đánh thằng Thấn hộc cơm rồi hộc máu, bắt khai du kích bí mật: “Nhứt định mày còn giấu ranh lắm, mày chừa chỗ để về sau cộng sản thắng mày khỏi bị tù”! Ba Thấn muốn ngừng trên sườn dốc làm phản, nay phải lăn tiếp. Một lính ngụy mà chị Biền nắm được báo tin tối nạy địch sẽ cho quân đi bắt hơn chục người trong xóm Đinh sáng mai bắt tiếp ở hai xóm kia.

            Tư Luân bạnh quai hàm:

            - Hai Mẫn ở đâu?

            Chị Biền liếc tôi một cái rất nhanh. Tôi hiểu, nhỏm dậy định lảng, Anh Luân níu tay lại:

            - Lão là tham mưu mà… Nói hết đi chị!

            - Con Mẫn ở hầm nhà tôi. Cho Út Liềm báo động dây chuyền, biểu ban cán sự với số bị khai né tạm xuống xóm Đuồi thôi, đêm nay du kích về trụ luôn mà. Nó bỏ cú hốt vọng gác.

            - Hừ, đáng lẽ….

            - Lo diệt cái ác đã. Tính quét cả thằng Chinh, thằng Thấn, đánh ngay chỗ cổng đình, giấc chạng vạng.

            Tôi giật mình. Anh Luân chồm vai tới, mắt trừng trừng. Đình làng Cá nằm giữa xóm, hai đại đội giặc đóng lúc nhúc như vắt đầu mùa mưa, làm sao lọt mà đánh, đánh xong rút đường nào? Mẫn điên tiết tính đổi mạng à?

            Chị Biền kể rành rẽ như một anh lính lâu năm sau buổi lên bàn cát. Thằng Chinh con ưa bắt người vào đúng bữa cơm tối, khi ngoài đường đã vắng, ai ở nhà nấy đông đủ. Mẫn với hai cô nữa bó tiểu liên và lựu đạn trong gánh rơm nếp – nhiều nhà đã gặt lúa nếp- nhân lúc nhá nhem sẽ lọt vào căn nhà nát trước cổng đình. Út Liềm ở nhà khác gần đấy, đợi. Một chị nữa núp trong bụi rình. Khi nghe tiếng chửi mất gà báo lính ra, Út Liềm châm ngay cây đèn gió to như ngọn đuốc, chạy tới cổng đình, kêu có Việt cộng vô xóm. Chắc chắn tụi lính sẽ chặn hỏi Liềm, gọi cảnh sát tới nhận mặt. Liềm cố gắng dằng co sao đó để hai thằng Chinh và Thấn phải tới gần đèn, trước họng súng của tổ du kích….

            Tôi nhăn trán, cố hình dung trận đánh rắc rối ấy. Một loạt câu hỏi nảy ra tới tới. Tôi vặn mãi chị Biền, không tin chị trả lời được, nhưng chị nắm rất chắc:

            - Dân vệ nằm bên Nhơn Thọ, muốn bắt ai thằng Chinh phải tự đi, xóm đông lính nên nó không sợ…Đánh mìn ban đêm, làm sao giựt cho trúng con thịt lớn?…Đường tiến đường lui êm rồi, tôi lo hết, cây rào nhổ sẵn cắm hờ, rút qua xóm Giữa chớ dại gì chạy ra gò…Súng nổ, cả xóm đánh mõ la làng, nó đốt nhà thì ùa tới dập lửa….Lấy mủ mít dán hai con đom đóm trên đầu ruồi, lỗ ngắm, bắn gần xịt thôi mà….Tụi này quân dịch hết, thứ cá sơn cá chốt đó đâu dám rượt ban đêm….

            Rốt cuộc, tôi phải nhận ra rằng Mẫn đã liệu hết các trắc trở có thể xảy ra. Tôi chỉ góp thêm một mũi dương công: nên đặt vài người nữa ở hướng chạy ra gò, khi tổ Mẫn rút thì họ nổ sung kéo địch về phía khác.

            - Hay! Mà các ông đừng vô sớm, khua chó sủa rần, đám lính vụn nó hoảng, không dám ra là hỏng ăn đó nghen.

            Đôi vai lực lưỡng, khúc gáy đỏ lủng lẳng búi tóc của chị Biền đã khuất sau bụi. Tôi vin một cành sim, rứt dần từng trái non trắng mốc, lật ngược xuôi mãi cái kế hoạch của Mẫn trong đầu. Lâu nay tôi truyền nghề cho Mẫn bằng giọng ông thầy lên lớp. Đến khi Mẫn tự xếp đặt một trận, tôi lại không hiểu nổi. Tôi chưa hề nghĩ đến kiểu hợp đồng rất khít giữa du kích nổi, di kích chìm với những chị Biền, em Liềm, lính ngụy đưa tin, với bà con cả xóm. Chị Biền còn phải nhắc chúng tôi đừng vào quẩn chân những người sắp đánh. Xấu hổ thật.

            Anh Luân hỏi lần nữa

            - Ngó bộ chắc ăn chớ, ông cố vấn?

            - Hết chỗ bắt bẻ rồi.

            Tôi nói cho tôi đỡ lo thôi. Tôi không tin còn đủ vô tư để xét việc làm của Mẫn. Đôi mắt sâu của anh Luân lấp láy. Anh lấy giọng như người cha sợ con nghe lời khen:

            - Lão thấy chưa? Đâu xa chẳng biết, mấy xã quanh đây khó kiếm được một đứa như nó. Bình thi đua dạo đầu năm, con nhỏ tráo qua tráo lại sao đó, đẩy thằng Ri lên huyện, lãnh được có một giấy khen diệt tám ngụy, cay không. Mình truy gắt, nó mới thú thiệt: cấp trên hay ưu tiên cho con gái, nó sợ đưa miết lên tỉnh, khu, Trung ương, phải đi họp thi đua cả năm mới về, bỏ việc chẳng ai làm. Nghe tức ói chưa! Chị Tám Giàu về hỏi, phải chi nó khai đầy đủ cho giới phụ nữ họ mừng, đây nó kêu quên hết. Sắp du kích tính giùm nó được có ba ác ôn, mười bảy ngụy, hai Mỹ, còn đánh chung cả đội thì chia phần nó đâu được chục ngụy nữa, là hà tiện tới chữ rồi. Vậy mà nó còn cãi bướng: “Cháu lượm hai thằng công an trên đường cái đen, lấy súng, cũng có chị em rình mỏi mắt, có anh em yểm hộ, cháu giành hết thì họ đi chơi không à? Cháu cộng thành tích ăn chung đổ lộn, trên mới thưởng cho xã cái huân chương đó chớ!”. Nó cãi ngang xương, mình lý cả buổi không xuôi, chút nữa nổi khùng. Vậy mình mới nhắm cho lão, tay non cầm cương nó đâu nổi….

            Tôi lảng vội:

            - Chị Biền giỏi thật, nói như anh tác huấn lành nghề.

            - Chưa biết à? Trung đội trưởng du kích hồi chín năm, dẫn quân đi dự chiến phía Bà Ren, Trà Kiệu miết đó. Tù hai năm, bây giờ một nách năm con, nuôi cả anh chồng bị xã Chinh đá giập phổi, cực ớn. Trên đồng ý cho kết nạp đơn tuyến rồi, chưa kịp làm lễ. Địch xúc dân qua bên Mỹ, chị ta cũng theo tới đất Mỹ làm cách mạng, nói cứng vậy đó. Lão thấy chị ta cà rà mượn súng, nhớ đuổi đi thiệt xa nghen, còn ngứa nghề du kích lắm, lộ mặt thấy bà!

            Anh đặt túi dết kê đầu, nằm trên cỏ, phủ khăn che mặt. Anh tập được cái nết ngủ rất hay: ngủ say mà không ngáy, nghe tiếng động khác thường là mở mắt tỉnh liền, định ngủ một tiếng thì đúng một tiếng anh dậy, hơn kém chỉ vài ba phút. Anh còn làm chủ được tất cả các đòi hỏi của thân thể: Ăn, uống, ho, đái, ỉa, chỉ trừ căn bệnh thấp khớp là không trị nổi. Im một lát, anh bỗng nói trầm ngâm như nói một mình dưới tấm khăn:

            - Lão hỏi đố sắp du kích thử coi: Ai dám đổi mạng, giết cha con xã Chinh rồi chết luôn? Ít nhất một nửa tay xung phong, mình đoán vậy, mà số đông là dân làng Cá, Cái làng thiệt kỳ lão à, một làng hơn hai chục họ khác nhau, hồi Tây Sơn giành ruộng với họ Võ dưới Lộc Chánh hay lắm, lúc rảnh lão hỏi cho biết.

            Anh thiếp đi.

            Ông thầy Mười đã chữa sốt rét cho tôi. Ông lấy mảnh chai lể năm huyệt trên lưng tôi, xoa lá trầu, cắt ba chén thuốc nam chỉ cay và ngọt chứ không đắng. Cái lạ nhất là tôi dứt cơn sốt khá gọn. Hôm lể lưng, ông kể một đoạn sự tích làng Cá, hay thật. Thêm một ít thương nhớ nữa dành cho nghĩa quân Tây Sơn. Những người đồng hương lẫy lừng của tôi đã in dấu chân trên đất này, rất chậm.

            Thời ấy, khúc đường thiên lý từ Quy Nhơn ra Phú Xuân rôn ràng lắm, quan quân đi về không ngớt, tiệm quán mở dày. Bắc Bình Vương trẩy qua làng Cá nhiều lần, nhưng ra thẳng Tam kỳ hay vào luôn Châu ổ. Các cụ thường gặp Đức Ngài ngủ trên Bành Voi, hễ bước xuống là họp tướng, kiểm quân, hiểu dụ dân chúng không biết mệt.

            Một lần, hình như sau chuyến ra Bắc diệt Trịnh, có ông đô đốc Tây Sơn dừng chân nghỉ tại làng Cá. Đó là chuyện lạ, vùng này mới có hai làng: Lộc chánh là dân cố cựu chánh tri, thuần một họ Võ, ông thần hoàng được sắc phong hẳn hoi, còn làng Cá toàn dân tứ chiếng góp lại, cày rẽ ruộng nhà giàu Lộc Chánh, đến cái tên chữ cũng chưa có, đình làng chỉ bằng điếm canh xứ người. Ông đô đốc tên gì chẳng nhớ - cái lệ kiêng húy tai hại - chỉ biết họ Trần, ham vui hội vật làng Cá mà rẽ vào, mặc kệ hào lý Lộc Chánh bày hương đón trên đường quan. Trần Đô đốc đóng khố bước vào bãi, quật ngã hết các đô vật tới thi, sau bị Sáu Thìn làng Cá hất nhào ngửa, vỗ đét vào rốn. Bà con sợ mất máu, tưởng anh trai cày rụng đầu đến nơi. Nhưng ông Đô đốc cười lớn, mặc khố đứng giữa bãi, túm vai Sáu Thìn mà phong làm chưởng đội ngay tại chỗ.

            Dân làng Cá rất khoái ông đô đốc chưa tới ba mươi tuổi, gọi Bắc Bình Vương là “Anh Huệ” làm các cụ già giật thót, đi chơi với Sáu Thìn như bạn vai vế, đặt tên làng Cá là Thiên Ngư thôn, nhân hỏi thăm về đàn bà goá mà chém luôn một tên mọt dân. Cuối cùng, ông làm việc rung chuyển cả phủ Tam Kỳ: Ông tự tay thảo tờ lệnh khoanh cho làng Cá tất cả các phần đất từ đường thiên lý lên tới sông Rù Rì, ai cày rẽ đám nào được giữ luôn đám ấy. Nghe nói tờ lệnh ấy văn dở chữ xấu, nhưng được con Ấn đỏ chói đóng vào, đằng sau con ấn lại có lưỡi gươm rất nhạy, nên quan tri phủ cũng chịu phép. Dân làng Cá mừng mà khóc, gánh rượu thịt tiễn quan quân mấy chục dặm đường vào.

            Làng Thiên Ngư mở mặt từ đấy, xây đình to, tạc bia ghi công đức Trần đô đốc, mộ dân lưu lạc về vỡ ruộng thêm mãi, lan thành nhiều xóm phía Nam. Đám nhà giàu dưới Lộc Chánh kẹp dù đi kiện, rồi kéo tráng đinh đi gặt ào, keo nào cũng thua. Anh Sáu Thìn lâu lâu cưỡi ngựa về thăm làng, bà con lại gửi quà biếu ông Đô đốc: Phần ông có thứ chè nhỏ của Tam Kỳ, thơm mộc mà đậm, còn bà Đô đốc được hồ tiêu, con ông ăn bột chà là với chuối mít khô. Ông đô đốc giữ ý, thỉnh thoảng nhờ Sáu Thìn đưa về một lượng bạc, nói là biếu quả phụ cô nhi.

            Bẵng đi một dạo, làng vắng tin Sáu Thìn. Nghe đâu vua băng, việc trào lộn bậy hết, viên quan Tây Sơn mới đổi về lại ăn tiền như mỏ khoét. Rồi giữa một đêm mưa lớn, Sáu Thìn đánh voi về làng. Ông đô đốc tử trận nằm trên bành, mặt vẫn tươi như Bắc Bình Vương xưa ngủ trên lưng voi, tay còn nắm chuôi thanh kiếm dính máu đen và mẻ mấy chỗ. Bà mẹ Sáu Thìn chẳng gọi ai, một mình cầm đuốc dẫn voi lên núi Chúa. Hôm sau quân Nguyễn Ánh tràn tới, theo dấu voi vào vây núi, xỉa giáo vào từng bụi cây một. Ba người một voi đã biến mất. Từ đấy, trong những đêm mưa gió, dân làng hay nghe tiếng voi rống và tiếng gươm khua loảng xoảng trên núi Chúa….

            Ông thầy Mười hẹn sẽ kể tiếp phần giữ ruộng về sau nữa. Tôi nghe rât mê, ông cũng cần một người chịu khó nghe như vậy, bởi “Sắp nhỏ bây giờ dễ quên ráo ông bà”. Nhiều đêm tôi lắng nghe tìm những tiếng của thời Tây Sơn vọng về, chỉ nghe những ngón tay mưa gõ trên mái nhựa và gió hú rất thường so vói gió Trường Sơn, chưa đủ gợi nên thần thoại khi lọt vào đôi tai quá quen với máy nổ và sung nổ. Tiếc lắm chứ. Thế nhưng tôi bắt đầu ngắm trái đồi trọc chừa chỏm cây bằng cặp mắt kính nể, cũng không tức cười nữa khi lội qua sông Rù Rì hay đèo Trâu lăn: có lẽ người xưa phong chức cho sông núi hơn là đặt tên. Tôi vừa mở hé cuốn sử ghi những chuyện anh hùng qua rồi mà không hề đứt đoạn, đã mừng gặp ngay cái tên Tây Sơn rất yêu của tuổi nhỏ….

            Anh Luân nhỏm dậy gọn như chưa hề ngủ, trải khăn trên tay lau nhanh bộ mặt xương, lau cả cái đầu trọc, kiểu rửa mặt khô của người quen ở hầm.

            - Đi hè, lão!

            Bóng núi đằng Tây đổ dài qua đồng, trùm lên làng Cá. Lúa vàng tươi càng sẫm màu thêm, chín thêm một ít nữa để giục chúng tôi đánh gấp. Nền trời nổi sáng gắt. Bốn chiếc phản lực đón nắng dưới bụng trắng loá – Bụng chúng khi đi gắn lổn nhổn những trái bom đen, bây giờ trơ trụi – Sà qua đầu chúng tôi với cặp cánh phụ cụp xuống cản gió, xì đuôi khói đậm dần. Chúng còn rướn ra đến tàu mẹ đỗ ngoài khơi, mới có tụi cánh quạt đáp xuống sân Chu Lai. Tôi nhớ cái đèo Rập cu ở Quế Sơn: từng bầy cu đất nối nhau lao qua chỗ yên ngựa giữa hai sườn núi, đâm vào tấm lưới dăng cao, rơi xuống túi dưới, đập giãy toé lông trắng trước khi vào lồng. Ước tới cao xạ thì quá cao, nếu có mươi cây 12 ly 7 mà dăng ở đây một tấm lưới lửa dập tàu bay nhỉ!

            Đội du kích cuốn võng cho vào bao, xuống đồi theo chỗ bóng khuất, tránh hằn nét động trên nền mây đỏ bầm. Năm Ri dẫn một tiểu đến chỗ bến phà Gò Trúc, sẽ bắn vào tụi lính gác cổng ấp, chia lửa cho tổ Mẫn. Anh Luân với tôi rẽ qua phải. Một em chăn trâu đợi trong bụi, dẫn chúng tôi vào ấp. Địch ở ngay trong ấp mà vẫn sợ, từ bốn giờ chiều đã khoá các cổng, bỏ khúc giữa và khúc đuôi con cá, kéo về dồn cục ở khúc đầu, vây quanh con mắt lồi là gò Đình. Chúng tôi đi dọc xương sống làng Cá, hỏi lượt nữa các đồng chí sắp kéo dân nổi dậy, rồi đi đón Mẫn. Đèn dù lác đác xòe sáng trên ruộng, thứ đèn nhỏ của cối 60. Địch chưa nghỉ, Mẫn đang chĩa súng vào cổng đình…

            Chỗ đón là một dải ruộng hẹp chia xóm Giữa với Xóm Đình, được gọi rất đúng là ruộng mang cá. Nhóm chị Biền đã nhổ rào, moi mìn, dọn một khúc đường ruộng băng ngang, nối vào lối đi xuyên qua các vườn mít vườn chè rậm chông tới tận rốn địch.

            Tôi hồi hộp quá. Chưa bao giờ tôi đợi tiếng súng mà trống ngực đập dữ như đêm nay. Tôi tự nhủ một cách cả vú lấp miệng em rằng trận này có phần táo bạo, vả lại người ngoài cuộc lo cho người trong vòng chiến vốn là quy lụât của tình đồng chí. Tôi dối mình rất vụng….Các bin! Không lầm được! Các-bin M.2 kéo một tràng cắc cắc, tới nửa băng mới chen tiếng tuyn cải tiến pằng pằng hệt búa máy tán ri-vê. Ăn rồi!

            Tôi sững người khi đại liên nổ tiếp liền. Óc tôi quay tanh tách như máy tính, dừng ở cây đại liên trong lô cốt góc sân, chĩa họng dọc con đường làng. Chúng nó kịp nhấc súng qua lỗ châu mai khác ư? Không có nghe tiếng vỗ tiếng réo băng qua đầu tôi. Nó bóp cò từng loạt ngắn lấy tiếng nổ thôi, khác hướng. Đã nghe tiếng ó ré dội xa. Lựu đạn nổ ba bốn trái, của ai, chắc là của ta, tụi ngụy không nhạy rút lựu đạn đến thế. Bây giờ thì các cỡ súng đều bắn, đạn đi cao không chém lá, chắc chị em quật được mớ lính đổ xuống trước nhà, đủ chặn làn đạn thấp để rút cho êm. Ngón trỏ của tôi vẫn gác trên vành cò cây P.38, nhưng bốn người còn lại cứ bóp chuôi súng ngắn muốn toác vỏ nhựa nâu. Mắt tôi xói mãi vào chỗ rào trổ bên kia ruộng, nơi tổ Mẫn sắp vọt ra. Súng địch quét như bão. Lưới lửa xuống thấp rồi, một chòm lá cau chợt rung giật ràn rạt như có bầy sóc ngủ bị đuốc soi. Trận mưa chì bọc đồng xối vào lưng người. Nếu ai đó bị thương… nếu Mẫn ngã trẹo chân…Cần người cứu…Địch đuổi, chị em đuối sức, ai không chạy nổi thì trao súng, nằm đợi, rút lựu đạn đánh trận cuối đời…Không được!

            Tôi nói vội: “Anh Luân ở đó, tôi đón”. Mới buông miệng, tôi đã vọt lên khúc bờ ruộng ngắn, tới rào tre ven xóm Đình. Có người chạy tới. Chân nhẹ. Một người thôi sao? Từ trong vườn tối om, một bóng nhỏ nhô ra, tay vẫy khăn trắng, suýt húc vào ngực tôi. Út Liềm! Tôi túm vai Liềm làm cô bé hoảng, kêu “ứ” trong cổ, quẫy mạnh.

            - Anh đây, Thiêm đây, Chị Mẫn đâu?

            Liềm lắc đầu không nói, chỉ thở dồn. Nguy rồi. Tôi cuống lắm rồi. Mùi phấn ở đâu thơm gắt nhỉ. Một xuồng đạn xối qua vườn mít, cành gẫy văng tới bên tôi. Liềm hít mãi mới ấp úng ra lời, tôi ghé tai sát miệng mới nghe lõm bõm:

            - Khô-không biết….Em ném cây đèn….chạy trước…

            Tôi chồm qua chỗ rào trổ, nhưng còn đủ tỉnh để dừng lại, bước lùi. Sai nơi hẹn, rất dễ bắn lầm nhau. Nhất là khi tai ù và súng ồn rất khó nghe mật khẩu. Tôi kéo Liềm lui về xóm giữa. Vẫn cái hoa gì nở đêm bay thơm như phấn.

            Mười hai phút, Cối địch gõ tang trống không ngớt, trái bung dù trên trời, trái nổ ngoài gò. Hướng này chưa lộ. Mười lăm phút, mười lăm năm đúng hơn. Mười bảy, mười tám. Thôi thế là xong! Chúng nó đang rọi đèn pin tìm xác, ồ, à, Cộng nữ bay ơi, cây các bin nó đây…Tôi đứng gượng trên đầu gối mất gân, chẳng hiểu sao lại đau buốt ở hai khoeo tay. Súng địch cứ xổ ào ào, băm vằm tôi mãi; Cho đáng kiếp, ai bảo tôi nằm đây như con bò chết trương để Mẫn luồn sâu đánh nhau với hai đại đội! Út Liềm lặng lẽ cởi áo, cởi mãi không hết áo, lớp này tiếp lớp khác, có lẽ mắt tôi nhìn loạn đấy thôi.

            Bên kia ruộng có tiếng cười rúc rích. Nói chuyện rì rầm nữa. Một bóng bà ba đen đi qua lỗ hổng đen giữa rào. Súng lách cách. Bắp chân trắng, khăn trắng buộc tay. Có lẽ thật. Thật rồi. Hai bóng, ba bóng nối nhau bước chậm như dạo xem ruộng. Anh Luân hỏi to:

            - Quốc?

            - Hận!

            Cái giọng lanh lảnh ấy còn của ai vô đó! Làm người ta gần phát cuồng, lại cứ cười, cười, cười nữa kia…

            - Chú Luân hả chú? Liềm về chưa? Anh em đâu hết? chu choa, đánh ngon quá thể…Đi vô xóm cháu kể, nó động bắp chuối rách áo uổng….

            Tôi lẳng lặng nối vào cuối hàng, chân tay mỏi không muốn nhấc. Phải chi tôi được ôm Mẫn như ôm anh em xê mình sau một cơn cháy ruột chờ nhau! Pháo 105 tới giờ mới lên tiếng, đạn mài gió xèn xẹt qua xóm, cũng đánh trống ngoài gò. Chúng sẽ bắn suốt đêm. Của đi thay người mà.

            Ngồi bên miệng hào cẩn thận, cả ba cô mới kể thôi là kể, cười từng chùm cười như giũ chà là rào rào trên nón ngửa.

            Họ đánh gần đúng như đã bàn, còn vượt mức hai chỗ. Một là bắn nhào thằng Chinh cha chứ không phải là Chinh con, luồng đạn từ ngực Ba Thấn chạy rẹt qua xã Chinh, gục cả hai, chắc mặc áo gỗ hết. Trận đánh kéo dài không phải vì địch chống cự mạnh, mà ngược lại, vì chúng đạp nhau chạy. Khiếp là phải, như đang ngủ ngon bị ong bầu chích giữa bụng hay con rết cắn trong nách. Các cô nổi ham, chạy ra khỏi nhà, ném lựu đạn túi bụi vào tụi lính trong sân đình, chụp vội được hai súng rớt trên đường làng, thêm một điểm “tăng năng” nữa. Mẫn chép miệng tiếc hoài những cây súng không kịp tìm, nghề đời là vậy, cá đầy giỏ vẫn còn thèm cá sẩy…Tôi xem cây Tom-xơn kiểu cải tiến và cây ga-ran M.1, lại ngắm ba cô gái lấm lem, nhận lấy bài học đánh tiêu diệt rất tuyệt. Một tổ đặc công của bộ đội có thể lập công gấp bội, nhưng khó lòng chọn mặt gửi đạn như các cô. À, ra vậy, tiếng đại liên nổ thùng thùng mở đầu cơn hoảng của tôi ban nãy chỉ là cây tuyn của cô Xuân kê trên cái thùng sắt Tây gỉ, lượm ngay trong nhà bỏ hoang. Cái trò này địch biết từ lâu, đem ra chơi vẫn được việc như thường, ngay tôi cũng lầm.

            - Sao đó thầy Thiêm, trật đường lối chỗ nào?

            Tôi cười trừ. Mẫn sẽ không bao giờ biết tôi đã một lúc rụng rời vì Mẫn. Nếu biết chắc Mẫn giễu hơn là thương, bởi tôi được xếp lẫn vào cái số đông “anh em” trong bậc thang tình cảm của cô ấy, giỏi chen cũng đến sau lưng Út Liềm. Công bằng thôi. Một anh bộ đội mới tới, có giúp đôi chút nhưng chưa phải chung đắng ngọt vui buồn nhiều năm với Mẫn….

            Anh Luân giục Liềm:

            - Thôi, biến đi cháu. Đừng ra láng cháng với du kích nghen.

            - Dạ, cháu về đây ông.

            Út Liềm đi khuất mà mùi phấn còn bay nồng. Cô em út của chi đoàn này đổi dạng rất khéo: da mặt và cổ vốn nâu được xoa phấn dày như quét vôi, lông mày quét than đậm; tóc ghép thêm cái chang búi tròn sau gáy, người to ra gấp đôi với bộ ngực độn và sáu lớp áo. Sáng mai, tụi lính sống sót sẽ lùng trong xóm Đình, tìm “cái con mập ú, da trắng, mày rậm, tóc búi”. Gan lì thiệt, vừa kêu có việt cộng vô, vừa giơ đèn gió thiệt cao trước mặt hai con mồi cho các chị quét, cứ tỉnh rụi, một cô Mẫn nữa đang lớn gấp.

            Tôi đi giúp bà con sửa lại bờ đai ấp thành công sự “xóm chiến đấu”. Súng nhỏ đã ngớt, chỉ còn cối và đại liên bắn mãi ra gò. Đồng bào cầm rựa vác cuốc tuôn tới bìa xóm, các khoanh kẽm gai địch để chất đống cũng mang ra giăng hết. Từng tốp kéo qua, rậm rịch, lào xào, hổn hển.

            - Nặng kinh mấy cha!

            - Ai áo trắng lên trước cho theo với, tối thui đây.

            - Để kêu nó bắn thêm đèn, ước lính…

            - Còn mấy khoanh trước nhà bà Vành?

            - Nát bét. Bả tưới nước dưa mấy lần, căng đâu gãy đó.

            - Mỹ thua bà già…Nè, tránh chớ!

            Một cuộc khởi nghĩa rất lạ, không đèn lửa, không tiếng súng tiếng loa, khác xa những năm xưa đồng khởi, nhưng vẫn là nhân dân nổi dậy phá kẹp. Và làng Cá bị hai đại đội giặc đóng chốt vẫn cứ được giải phóng hai phần ba, có đủ chính quyền, du kích, xóm chiến đấu.

            Cuộc đánh vật bắt đầu đêm nay. Ai sẽ làm chủ mảnh đất bàn đạp gần căn cứ Chu Lai?

   Chương 13    

       Một luồng nắng pha hơi nước trắng mù đang soi chéo ở cuối vườn mít, bỗng chạm cái gì đó loé sáng. Một vật tròn bóng lấp ló. Cái mũ sắt luồn thấp dưới bụi chè, kéo theo một bóng áo anh Tây đi lom khom: thằng ăn trộm đút quả dưa qua rào trước khi chui. Giày rừng đạp cành gãy rắc. Địch lần theo dấu nhổ chông đã tới ven xóm Đình. Nhiều mũ dưa hấu nữa. Bây giờ chúng dẫm lá mít khô rào rào như tằm ăn rỗi, dò tới. Chúng bị mù mắt sau khi Ba Thấn chết, xã Chinh vỡ vai nặng, thằng Chinh con đem cha về thị xã ngay đêm qua. Bọn dân vệ kiếm cớ nằm lì bên Nhơn Thọ, không chịu về dẫn quân chính quy đi càn, lương thấp hơn dại gì hứng đạn trước!

            - Báo cáo hạ sĩ..

            - Hạ sĩ nào?

            - Báo cáo trung sĩ, rào...chắc có mìn...

            Mất khúc sau. Tên lính có giọng eo éo, hơi run chắc mới mười sáu mười bảy tuổi. Thằng trung sĩ đằng sau quát tới, rất gượng:

            - Dỡ rào coi! Tụi nó chạy tới xứ Lào, bây còn sảng hồn hả? Đi trong ấp mà quá thằn lằn đứt đuôi!

            Tôi xoay nhẹ đường ngắm qua tiếng quát ồm ồm. Đám mũ sắt hết thò lại thụt trên khối đen vuông góc của đầu ruồi, như ú tim sau một mảng tường cháy. Rào gai bên kia rẻo ruộng Mang Cá hơi cựa. Một tiếng ré lạc giọng

            - Chông! Xóc chông rồi, úi!

            - Câm họng!

            Thằng bị chông khóc sụt sịt. Tiếng chân khua chậm hơn, im hẳn. Nhiều giọng khác nhau thì thào, thì thào mãi. Có lẽ chúng sẽ tản ra nằm đơm súng, phục kích ở một chỗ chúng biết chắc Việt Cộng không đi ban ngày, ngủ ngon giấc, bắn một hồi túi bụi trước khi về kiếm cơm, miễn sao thằng dưới có thể báo cáo lên thằng trên là đã đem quân đi tìm cộng sản, đụng độ nhau, “giết mười chín tên tại trận, xác được đồng bọn mang đi”. Thằng trên nhận đôi con số trước khi bịp thằng trên nữa, tới khi đài Sài Gòn đưa tin tổng bịa cuối cùng thì một trung đoàn chủ lực Việt cộng đã tan tành. Cười giặc, khoái thật đấy, nhưng...chúng tôi phải nằm đợi đến bao giờ?

            Tôi nhìn tụi lính qua mép hào cắm lá rậm. Hơn chục cặp mắt long lanh của du kích đều nhìn. Sốt ruột lắm chứ. Địch khoanh tròn trước mắt kia như rắn ấp trứng trong vườn hoang, quân ta phục bên này ruộng, nhịn thèm...

            Út Hoà ép má vào vai tôi, nhón chân rướn cổ mãi. Cô bé học xong lớp y tá bốn tháng, về tối hôm qua ấm ức đưa lá thư của các thầy cô khen học khá, nhưng chưa chứng nhận cho Hoà làm y tá vì nhỏ quá và hay mất bình tĩnh. “Cho nó ngửi thuốc súng mới mau lớn, cứng gân “, Mẫn nói vậy khi giao em gái nhờ tôi giữ dùm. Một cô Mẫn thu nhỏ lại còn chừng một nửa, lắp thêm nhiều lò xo ở tay, chân, miệng, tim. Hoà đeo túi cứu thương mới sắm kèm hai lựu đạn, bám tôi không rời một bước, khiến tôi đâm nghi là Mẫn cho em gái theo giữ tôi đúng hơn

            A, tốt rồi. Mảng rào gai bên kia lại động.

            Ba đứa bò lên. Thằng đầu nằm rướn người, đưa cây cần dò mìn tới trước rà rà. Dưới cái mũ quá to úp tận tinh mũi, nhô ra nửa bộ mặt lấm tấm mụn cá, hai má bị quai mũ ép vào như hõm sâu hơn. Tôi không thấy mắt nhưng biết thằng nhãi con đang lấm lét nhìn quanh. Thảm hại cái thân mày!

            Tụi quân địch vốn nhát như thỏ, số bị bắt lính năm nay càng nhát hơn. Đóng trong xóm Đình, chúng vào nhà dân chỉ xin ăn, kể lể, trộm cắp vặt, có bốn tên ác nhất thì một chết một què.

            Trước một tên ác ôn như xã Chinh, cái căm giận của tôi cứng, nhọn, đơn giản như mũi lê tôi xóc với tất cả sức nặng của toàn thân lao tới. Đây không phải vậy. Mỗi lần sắp bắn vào tụi ngụy rạc rài này, tôi cứ cảm thấy cáu kỉnh, muốn nổi khùng, muốn chửi thật to, mà lại nóng lòng đợi một cử chỉ đầu hàng. Tôi thèm được quát vào mặt chúng: “né ra, đồ ngu!”. Sao chúng cứ láng cháng phơi những cục thịt thừa ra hứng đạn, không để tôi xả trúng tụi đáng giết nhất? Sao chúng cứ chịu làm chòm gai vây quanh bụi tre, buộc tôi phải phát dọn chúng trước khi vào đốn gốc? Có đứa còn chống cự nữa chứ, cắn vào bàn tay đang kéo chúng ra khỏi hố bùn. Để được lên trời như cưỡi pháo thăng thiên. Để lãnh mỗi tháng trên dưới sáu trăm bạc, một phần năm giá chơi đĩ một đêm hạng xoàng của Mỹ ở Đà Nẵng. Để được yên thân ngày nào hay ngày nấy...

            Ba tên lính trước mặt tôi đang dỡ rào. Chúng nằm nghiêng, với tay, vặn tháo những mối dây thép buộc gai. Có thể mất nửa giờ. Chúng làm cái việc bán nước ấy chỉ để sống thêm nửa giờ. Nếu tôi gọi loa báo chúng biết vậy, chưa chắc chúng đã tin, khi chịu tin thì đạn đã xuyên ngực. Tôi liếc xem cây tom-xơn kiểu mới cầm tay: nhẹ hơn, gọn, dễ tháo, móc ngón tay kéo khối cơ bẩm cũng tiện. Tổ Mẫn lấy được nó tối qua. Cái họng to gần bằng mười hai ly này sẽ thuyết phục bọn còn sống quay về với ta, ít nhất cũng buông cây súng Mỹ.

            Đã một thời nhiều kẻ trong quân đội ngụy than thở với anh cán bộ sắp bị giết: “Buộc lòng tôi phải bắn anh...”. Thời ấy qua rồi. Cái đốm sáng lương tâm ấy, dù rất thành thật, rất đáng quý, đến nay không đủ cứu một mạng người nữa rồi. Tụi lính đóng làng Cá đã nhiều lần nhắn bà con nói dùm các ông Giải phóng đừng bắn tỉa: “Tụi tôi không đi lính thì họ bỏ tù, vô lính không hành quân họ phạt, hành quân không bắn họ cũng trị...”. Còn khá hơn tụi ác ôn, đúng vậy, nhưng mẹ Sáu một hôm đã tiếp lời chúng, nửa giỡn nửa thật: “Chưa hết, để nói thêm. Xin với ông Giải phóng đừng đánh, để tôi bắn ông bể đầu, tôi đốt nhà ông, tôi bắt vợ ông cho cấp trên xài, không làm vậy thì tôi bị rày rà, mất lương, mất chức... Nói vậy chắc mấy ổng rớt nước mắt!”. Đám lính im xo ngó nhau. Một thằng cũng kỳ lý hăm: “Tưởng sao chớ họ làm dữ thì tụi này cũng chẳng hiền!” Mẹ Sáu đủng đỉnh: “Hễ sợ các anh, họ đã sợ mười năm trước rồi, có đâu đến bây giờ đánh thấu Đà Nẵng, Tam Kỳ họ mới sợ! Nói sự phải cùng không mà chơi thôi, chứ họ giựt mìn kêu loa sát bên hông các anh, xa lạ gì...”

            Thôi nhé, đủ rồi!

            Mảnh rào gai cựa quậy, lắc lư, đổ rạp xuống. Ba tên lính đợi nửa phút mới bò tới lỗ hổng, dòm lấc láo. Tôi bóp cò, quật nghiến cả ba. Một tên nữa nấp phía sau, chồm dậy chạy. Tôi ngắm lại, lảy nhanh, cái lưng xanh vẹo nghiêng, vật xuống cỏ. Bên phải tôi con hào nổ lốp đốp, phụt khói. Út Hoà tay bịt kín tai, reo nhỏ: “Kìa anh, chỗ gốc mít, gốc mít... “ Tôi cũng vừa thấy hai tên bò lổm ngổm nhô ra, bắc trung liên. Một loạt, hai loạt. Một thằng đứ đừ. Thằng nữa nằm ngửa, đạp chân xoay như vần thớt cối xay, hồi lâu sau vẫn đạp.

            Hàng rào bên kia rung bần bật, rú, mũ sắt đập vào hang đá. Khóc ré: “Gỡ giùm cái chân, trời ơi!”. Một cây trung liên sổ hết băng Ga-ran M.1 lảy hết kẹp tám phát. Địch dồn đông lắm trong vườn mít. “Tản ra, tản ra!”. Hay lắm. Đang đợi chúng mày tản đây. Một bựng khói vượt lên, đất nảy. Mìn rồi! Tiếp hai tiếng nhỏ liền liền của mìn muỗi. Ặc, è è, ối. Tiếng gào từ xa vẫn dồn tới: “Tiến! Bắn đi!”

            Địch không chạy như tối qua, cố nằm lì giữ trận địa. Khó lấy súng đây.

            Tôi nhảy khỏi hào nép sau gốc dừa to, tì bắp tay trái lên thân cây, rỉa ba viên một vào những luồng khói phụt rải rác. Năm Ri chồm người ra trước như muốn bay theo trái lựu đạn. Ba trái, bốn trái, nữa đi, nữa.. Xé đội hình chúng ra, buộc chúng nhào xấp trên chông, nhảy vào mìn! Không kịp nói tôi kéo ào túi lựu đạn bên hông Út Hoà, moi lấy hai trái M.26, tìm địch ném hết đà qua rào, qua một quãng vườn mít nữa, lọt vào bụi chè lao xao gần cuối vườn. Khá, trái sau ném mạnh hơn, tôi ngã sấp vào gốc dừa, ngóc lên kịp thấy khói bùng giữa chè sẫm. Địch vẫn không vỡ, tức ghê. Phải cho anh em rút thôi, giằng co mãi hết đạn, con hào mới đào vội chưa đủ che những trái cối rớt như vãi sạn...

            Cái gì vậy?

            Một bàn tay khổng lồ từ trên trời thò xuống nắm gáy địch, bóp mạnh. Đó chính là tiếng trống mõ bật lên lao xao trong xóm Đình, nổi to, tràn khắp làng Cá, ngập hết trời đất, chen tiếng hét xung phong, tiếng gọi hàng, tiếng kêu trả thù đứt giọng. Tôi sướng rùng mình. Hãy hình dung một con thú dữ bị kiến bu kín từ chót mũi đến chót đuôi, dù là thứ kiến riện không đốt, để thấy thằng địch lúc này. Chúng phải chạy thôi. Cuộc thanh viện này do ta sắp xếp mà tôi nghe còn muốn rởn gáy, huống chi...

            Súng máy địch nối nhau câm họng. Loáng những bóng lưng xanh xám chạy thuốn vào cuối vườn. Thằng chỉ huy vẫn gào: “ Đ.mẹ, tiến! “. Nhưng tôi nghe rõ tiếng nó xa dần. Vừa quát vừa lùi. Năm Ri xăm luôn mấy loạt nhịp ba rất đanh vào chỗ núp, ước chừng thôi. Nhào lên lấy súng được rồi. Tôi bấm nút thay băng đạn đầy. Ai đó túm vai tôi. Mặt Mẫn nhô ra, đỏ gắt, mồ hôi vằn vèo trên trán dính đất. Mẫn đưa cái còi sừng trâu lên miệng, giương mắt hất hàm. Tôi gật. Mẫn phồng má thổi, chỉ huy bằng còi cho khỏi lộ giọng con gái:

            Tù ù ù... Tú ú..út...Tu u u...

            Tiếng tù và nhỏ quá. Tôi thét xung phong đứt hơi, cũng nhỏ quá giữa cơn lốc dữ dội cuộn tròn trên làng Cá, giờ thêm tiếng thanh la, thùng thiếc, soong, mâm, nồi đồng, cùng rất nhiều tiếng tù và dội trả lại. Tiểu đội du kích vọt lên khỏi hào. Mười ba người. Mười ba mũi thép của một ngàn người đánh từ bốn phía. Tôi khoát tay, lao tới, chân không chạm đất mà nảy trên tấm thảm âm thanh. Những tiếng voi rống gươm khua của xưa và nay... Tôi quét mươi viên qua chỗ rào trổ, nhảy qua mấy cái xác, đâm thẳng tới gốc mít hồi nãy có trung liên, quì nép vào cây, ngó quanh. Mấy vũng máu. Một tên bị thương nằm nghiêng, lắp bắp cái gì, chắc xin hàng. Chỗ gốc vườn hai cái xác chồm dậy chạy. Mẫn đang kẹp súng đi gần, quay ngoắt lại, rẹt các-bin. Một ngã, một chạy thoát. Ai đó trong xóm nổi la lớn: “Đầu hàng bớ đầu hàng!”. Tôi bỗng thấy khu vườn mít đông nghịt người. Đồng bào đang túa qua lỗ hổng. Tiếng la đầu hàng mé trước tới gần. Tên lính vừa chạy biến trong vạt chè khập khiễng quay lại, hai ông già lăm lăm đòn xóc đi sau, cứ gọi hàng như say. Hai ông đã quật đòn vào chân thằng sẩy khi nó lọt khỏi vườn.

            Mẫn kêu hối hả:

            - Tổ Xuân gác ngõ chị Diên, còn bao nhiêu đi kiếm súng hết! Bà con đừng vô, chông mìn lu bù, đứng đó vác dùm súng...Đạn, nhớ lấy hết đạn! Mau lên! Ri, Ri, lục chỗ giáp vườn thím Bảy kia, biểu thím né ra..

            Út Hoà băng cho một cậu bị trung liên rạch đùi nhẹ, lại chạy vội tới một chị bị xóc chông. Tôi nhận ra chị du kích bí mật hôm nọ họp ngoài gò đã đập anh tám Liệp khá nặng. Mẫn gọi chị là thím Bảy. Chị sục bừa tìm súng, bị chông đâm vào bắp chân. Chị giật chông ra, ngoắc quai súng vào vai, còn vần ngửa cái xác lính tháo lấy nịt đạn, cười ngỏn ngoẻn: “Ham quá mà...”. Đồng bào đón mỗi người một thứ gì đó mang dùm, kéo qua dãy ruộng về xóm Giữa, cười rân từng hồi. Cối địch giã ngoài đồng lớn đang nhích dần vào xóm, có lẽ chúng chưa tin rằng du kích dám trụ lại ban ngày trong ấp.

            Tôi đi xem thế đất trong vườn mít trước khi rút. Một dấu hỏi hiện trong đầu tôi, đậm thêm mãi, như cái dấu mà tôi lơ đãng tô bằng bút chì trên bìa sổ tay trong một buổi họp gay cấn.

            Anh Luân cười không dứt tiếng, kéo chúng tôi xuống căn hầm rộng, sạch, có bày sẵn bình trà bên nải chuối. Đạn 81 bắt đầu rít réo đâm xuống xóm Giữa. Bà con núp kín cả nhưng tiếng cười cứ bay ra từ cửa hầm này sang cửa hầm khác, dệt lưới vui dưới pháo. Trận này thắng nhờ cả làng đánh chung, quá rõ rồi, nhưng...có thể thắng to hơn không? Địch một đại mà chịu bỏ lại đến chín thằng chết và bị thương - bà con xóm Đình sẽ đếm những tên được khiêng về trước, cộng thêm vào, chia ra loại thẳng cẳng và loại còn rên- ta đem về bảy súng, một tù binh, vậy là đánh khá. Tại sao tôi chưa muốn hỉ hả ngay như mọi người? Ai bắt tôi cứ phải so đo giữa cái khá với cái giỏi, cái rất giỏi, cái tột đỉnh tuyệt vời?

            Đang ăn trái chuối, Mẫn ngừng nhai tủm tỉm:

            - Coi bộ thầy Thiêm muốn phê cái gì...

            Cô này tinh lắm. Tôi nói tuột cho nhẹ bụng:

            - Các đồng chí coi thử…tôi nổ súng có quá sớm không? Để tụi nó tràn qua ruộng hãy bắn, chắc diệt được nhiều hơn...

            Anh Luân gạt phắt: “Lão cứ được voi đòi tiên!”. Năm Ri mở to cặp mắt có một con bị vảy cá, cười hết nửa cái mặt:

            - Xưa nay đánh miết, có lấy được súng đâu anh! Người một nhúm mà xung phong bắt cả tù binh thiệt đã đời rồi còn!

            -  Cô Mẫn lấy súng hai keo đó!

            - Á, à...là đánh úp, chụp bậy ít cây rồi chạy, đây mình dàn trận, rượt nó hộc cơm mới sướng chớ, in thể chủ lực!

            Năm Ri nhắc mãi “in thể chủ lực”, rất khoái, trong khi Hai Mẫn vạch que xuống đất, cau mày nghĩ lâu, tay kia vẫn đưa hờ trái chuối gần miệng. Có lẽ Mẫn hiểu cái bâng khuâng của tôi, một người lính đánh giặc nhiều năm, vốn xem đánh gần là vinh dự, nổ súng từ xa là điều đáng xấu hổ. Thế nhưng Mẫn khó biết rằng tôi đợi một câu của Mẫn như lời phán xét cuối cùng.

            Súng nhỏ chợt rộ lên như tiếng đậu trút vào thùng. Đạn cối thưa đi một lát, giờ lại vãi hối hả xuống rẻo ruộng Mang Cá. Hai tổ gác ban nãy đang hăng, không chịu lui, cứ bám khúc hào trước ngõ chị Diên bắn cù cưa, chặn cánh quân địch tính vào vườn mít lấy xác. Ham thì đánh chơi vậy thôi, Mẫn ngửng lên, nói với Ri:

            - Cậu đi rút tụi con Xuân con Rốt về, xài đạn vậy lấy gì đánh nữa.

            Ri bước lên. Anh Luân cũng quờ cây gậy: “Ngớt bắn tao cho quân áo trắng khiêng xác đi trả liền. Nhớ dặn sắp trẻ đừng cắc bụp lung tung nghen!” Mẫn gật, vẫn nghĩ, vẽ, môi lẩm nhẩm như nhằn hột trong chuối, riết rồi mới chịu đẻ cái trứng vàng:

            - Không sớm đâu anh. Chậm nữa, nó kịp dàn đại liên với một dãy trung liên dọc rào, quét lụi mình nát đất. Hồi nãy cối nó mắc kẹt trong vườn rậm, chịu nín, để nó ra tới chỗ quang chắc nó vằm phải biết. Dễ gì chịu bỏ xác bỏ súng cho mình!

            Tôi buột miệng: “Đúng!”. Tôi chỉ nói với tôi, nhưng Mẫn nhoẻn cười nheo mắt:

            - Thầy cho mấy điểm chiến thuật?

            - Mười trên mười, rốp liền!

            Tôi trút cái mũ một vốc đạn tom-xơn mới lấy, lắp đầy mấy băng rỗng. Mẫn cũng lắp thêm đạn vào các-bin. Kể cũng tội, Mẫn chỉ dám đeo mấy băng ngắn chứa mười lăm viên ở thắt lưng, để buộc mình bắn hà tiện. Được ba cái băng dài, chỉ được lắp một vào súng, còn hai bỏ bao lưng cho khó lấy hơn, kiểu trẻ con bỏ ống tiền. Giữ súng kỹ như Mẫn hoạ chăng chỉ có anh Ba Tơ, chứ tôi chưa cưng khẩu P.38 cỡ ấy.

            Đang thông nòng, tôi chợt nhớ tôi đã lập công bằng cây súng Mẫn cướp được. gặp lúc Mẫn ngước lên, tôi vuốt nhẹ cây tom-xơn, nhủ bằng mắt: “Nhờ có em đấy, nhờ em...”. Mẫn hơi ửng má, lắc đầu. Thông minh lắm. Băng các-bin gần đầy, lắp đạn nặng tay hơn. Mẫn gặp ngay cái nhìn sẵn sàng giúp đỡ của tôi. Đang chống băng trên ván, Mẫn nhấc nó lên, cầm nó bằng tay trái, giữ ba viên trong lòng bàn tay phải, ấn lách tách vào băng rất gọn, trao nó cho tôi mỉm cười với cái vẻ vâng chịu dễ thương lạ, trong khi đôi mắt đen bảo tôi: “Tay em mạnh và quen vậy đó, mà em cứ nhờ…vì anh thích”. Tôi suýt kêu lên, phá vỡ câu chuyện thầm. Tại sao hai chúng tôi, ừ, sao hai con người gần nhau chưa nhiều lại có thể thấu hiểu nhau đến thế?

            Tiếng nổ đầu xóm đã ngớt. Cây báng đỏ của cô Xuân bồi thêm vài phát pình pình như đê-pa cối 60 nữa. Địch nín luôn. Nghe súng cũng biết chúng chưa lọt được vào vườn mít, càng hay, các tổ binh vận sẽ khiêng xác đi trả tận đình và nhắc lại những lời khuyên răn

        *

    Căng thật.

            Trụ bám gần đồn là một chuyện. Rạch đôi sơn hà với địch, lấy nghiến đi hai phần ba cái ấp chiến lược, giành đi giật lại từng mảnh vườn, từng vạt khoai, đường đường mặt đối mặt chọi nhau, lại là chuyện khó hơn nhiều. Căng không thể tả.

            Địch rút bỏ hai ấp Nhơn Phước và Nhơn Lộc nhỏ hơn, giao ấp Nhơn Thọ cho đám dân vệ thập thò, kéo hết tiểu đoàn về đóng dồn cục trên xóm Đình, cố cướp lại hòn đảo hình con cá. Súng lớn giã gạo không ngớt tiếng, riêng thứ 105 bắn hơn bốn trăm trái vào hai xóm ta. Xóm Giữa cháy quá nửa, xóm Đuồi cháy một phần ba. Nhìn mặt đất chỉ còn thấy hố pháo, nền xém, cây đổ, không thấy người, nhưng đây đó những xẻng đất rổ đất hắt lên như nước toé báo chỗ căn hầm đang được moi thêm. Vài người sợ quá bỏ đi Nhị Lộc, mươi gia đình nữa lên Tam Trân, còn bao nhiêu, “cứ đất mà xuống” thuốn vào lòng đất chứ chẳng chạy đâu. Giữa trận mưa cối 81, vọt từ hầm này sang hầm khác, tôi chỉ nghe tới tấp những câu khỏe người.

            - Làm tới đi nghen, đừng có đem con bỏ chợ.

            - Tụi nó đứ rồi, ngắc ngư rồi, muốn nhả rồi Thiêm à

            - Thằng Chinh con bắt sáu trăm dân vùng cát sửa soạn lên cắt lúa đồng ta, xe em-mờ chở hẳn hoi.

            - Nói anh đừng giận mấy ông cán bộ miệng kêu dân nổi dậy mà cái cẳng cứ bỏ lái đằng sau chực chạy lên núi, là tụi tui xin miễn...

            - Dặn sắp nhỏ đánh đấm mãn cuộc rồi ghé tao. Con nghé gãy chân đó, lương khô lương tươi mặc sức

            Và láy mãi như điệp khúc là cái tin “Mỹ sắp vô Chu Lai” Lính Ngụy nói, dân biển dân chợ đều nói. Làng Cá hiện lên ngày càng rõ là lô-cốt đầu cầu, hèn gì địch không buông.

            Có lúc đội du kích bị bầy M.113 dồn đến chót đuôi con cá, đang truyền miệng cho nhau “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” thì quân áo trắng ùa ra cản được xe, trên đường lui một chiếc còn ăn mìn đứt xích. Các mẹ các chị đi chống pháo, nón lá ngập trắng xóm Đình như cò về vườn quen. Thằng Hai Chinh khịt mũi, gầm gừ mãi cũng chỉ biết lặp: “Cộng xui”. Các bà đâm cáu: “Cộng xui phải dân mới nghe. Ông có cái gì ích nước lợi dân, xui một câu nghe thử!”. Cái hôm hắn bắn chết chị Ích, cả quan lẫn lính đều sợ mất máu: đồng bào vây quanh đình suốt buổi, gào thét đòi chồng nhơn mạng(1), số ở nhà nổi trống mõ một hồi, du kích hốt luôn một vọng gác lẻ cuối xóm. Cũng hôm ấy, nước mắt tôi chảy tràn trên mặt. Có cái gì thiết tha đến đau buốt, kiên quyết đến hung dữ trong mỗi bà con ở đây khi lao lên trả thù cho người chết và giật lấy tự do cho người sống, không cần tính giá của mỗi tấc đất giải phóng, không cần biết sau ngày độc lập mình sẽ còn gì mất gì, từng phút sẵn sàng ném thân làm đá lát đường cho con em đi tới.

            Vắng đi cái sức mạnh cuốn người ấy, hẳn đội du kích đã liệt chân tay, quỵ xuống bật ra ngoài. Cuộc chạy đua giành bàn đạp này quá găng. Chúng tôi đánh ngụy mà biết đang chạy đua nước rút với Mỹ.

            Đánh ngày đánh đêm, đánh mặt trước mặt sau, đánh chông bẫy kèm vài phát súng, đánh bằng khúc cây chuối giả súng cối và hai đèn pin bó lại làm ống nhòm. Mỗi hố mắt đựng được nửa chén gạo. Áo quần dày mo với mồ hôi quện đất, rách lòi thịt như thêu hoa da. Chiếu vừa dính lưng đã bật dậy, chụp súng chồm tới chỗ địch thọc cuối xóm đang bắn vào lưng tổ gác. Vừa cắn nắm cơm vừa thò tay gãi đùi, bỗng đau muốn nhảy dựng: Mấy mảnh cối vụn găm vào da thịt bao giờ không hay, máu ngấm vải đã khô và đắp kín bụi. Anh Tư Luân chỉ còn da bọc xương, tất cả sức trong thân tụ vào cặp mắt. Mẫn đi dọc hào không ngớt, cười tươi, một lần sập hầm lịm mãi không dậy. Út Hoà run quá phải nhờ tôi tiêm hộ dầu long não. Còn tôi đã cùng mọi người quên béng đi cái vai trò phái viên, tôi cứ đánh và chỉ huy ào ào, điều cả quân chính trị, ra lệnh luôn cho du kích bí mật, và chưa có ai thử hỏi tôi làm cái chức gì trong xã. Ông thần rừng chịu thua ông thầy vườn, tôi dứt sốt, chỉ vài ngày lên một cơn ngây ngấy mươi phút đến nửa giờ, cứ đánh ngon.

            Các xã giải phóng lại túa về giúp Tam Sa. Chị Bỉnh chưa được lệnh, cứ đem mười du kích xuống lãnh một mũi, còn nói vờ rằng xin cho số trẻ thực tập. Bị Mẫn ôm trước mặt đàn ông, chị mắc cỡ giãy ra: “con nhỏ này bị pháo hoá điên!”. Bà con Tam Trân suốt mấy năm nay cứ chép miệng khi nghe nổ mé đường Một: “Độc lập phải cho Tam Sa hưởng trước nghen. Cũng thì Cách mạng miền Nam cả, mà cái Tam Sa cực sao cực tới chữ vậy chớ!”. Tiếp huyện về. Anh huyện đội phó, cậu thư ký, cô y tá theo chú Tâm xuống làng Cá với bốn cõng nặng những thứ nổ được, súng du kích đang đói lại no.

            Anh Bảy quai nón gửi thư khen Tam Sa tiến công rất mạnh, chê riêng hai thôn vùng cát nằm im quá. Đúng y. Năm Tuất đợi lệnh một cách máy móc, đến nay kéo dân đi phá ấp cũng kỹ và lì như máy, sạch bong từng mảng một. Rồi Tam Lộc gửi tới một tiểu, Tam Lý mười sáu người mang gạo và đạn đủ xài bảnh nửa tháng. Ta khỏe hẳn lên.

            Địch núng dần.

            Tên đại úy mắt lồi kêu trời: “Một nước hai miền, tỉnh quận hai miền, tới một làng cũng hai miền, hai chế độ sống sao nổi!” Hắn chết hụt vì một trái mìn 105 bấm điện gần giếng tắm, về chửi trong máy bộ đàm: “Chốt đâu không cho, bắt người ta chốt ngay trên miệng núi lửa!”. Lính khiêng về một thằng trung úy bị rựa chặt, lưỡi rựa sượt trên xương trán đã hớt sạch lớp thịt trên mặt. Mũi, môi, gò má, mớ răng dưới, tất cả bay gọn, để lại một đĩa tiết canh bầy nhầy. Ông già chém bụt bị bắn chết, nhà bị đốt, nhưng cả tiểu đoàn đều rúng xướng hết. Quân hắn rệu sẵn, nay rã nhanh. Lính chạy xuống đường Một nhảy liều lên xe hàng, về thị xã ở tù. Lính trốn ra gò, mang súng lên Tam Trân qua Tam Lộc. Lính bám các dì đi kiện pháo, sang xóm Giữa. Chị Biền cà rà chỗ vọng gác một hồi dắt ba lính với một hạ sĩ băng dải ruộng Mang Cá. “Phong trào vượt tuyến” từ đó bốc lên như diều. Du kích gác bìa xóm thường thấy bên kia ruộng thò ra một nòng súng buộc khăn trắng, vẫy vẫy. Bên này cũng vẫy khăn, chỉ chỗ bến để hở. Ào một cái, vài bóng xanh đeo súng chạy ào qua lúa chín chưa gặt, nhảy xuống hào ta, có khi trung liên địch quét theo không kịp.

            Đến ngày thứ chín, giặc cuốn gói. Buổi sáng ấy súng lớn nổ điếc tai long óc, xe đủ kiểu kéo lên xóm Đình, trực thăng xúm chùm cái bắn cái đỗ. Chúng tôi sửa soạn chống một trận càn cỡ trung đoàn là ít. Tới mười một giờ, các thứ tiếng lần lượt tắt, rồi bà con xóm Đình chạy ào qua giới tuyến báo sạch địch. Chúng tôi ngẩn ra ngó nhau, chỉ dám tin rằng địch kéo đi càn đâu đó, vài hôm sẽ quay lại.

            Tôi vào khu “điểm tựa” của ấp chiến lược. Đường chi chít những mìn ba râu chôn dối, dễ tìm. Một thùng mìn kíp mở nắp, mới có mươi trái được nhét ẩu dưới lá khô. Đến gò Đình, tôi sửng sốt: Địch đã xây hẳn một cái đồn to có đủ cả lô-cốt mẹ và con, bốn lớp rào kẽm gai đầy mìn, hai lớp chông, hào nổi hầm chìm dăng như mạng nhện. Đồ đạc vứt lại khá nhiều. Trong đống vỏ bìa đen dựng đạn cối còn cả mớ đạn chưa bắn!. Nhiều thùng đạn nguyên trong các lô-cốt. Càng sục càng ra lắm thứ. Anh em reo ầm khi khui được một hầm chất nổ còn nguyên: hơn trăm lựu đạn, sáu chục trái mìn loại năm cân vỏ khía, thêm tám cây M.1, có lẽ của những đứa chết. Thêm một hầm xăng dầu nữa... Tiểu đoàn giặc đã sứt mẻ trên Việt An, về đây mất thêm chín chục khiêng với ngót năm chục lính trốn, nát hẳn. Tôi gặp nhiều trận vậy đó: thằng địch căng gân đánh vật với ta, căng nữa, căng mãi, tưởng như không bao giờ cạn sức, làm ta ghì bám nó muốn dứt hơi: rồi sựt một cái, nó đứt gân sụp xuống, hoá ra đống thịt nhão, rữa nhanh.

            Bà con xóm Đình dập được các đám cháy, chỉ mất hai nhà không cứu kịp vì chủ chạy xa. Chính mắt Út Liềm thấy thằng Chinh con đốt. Trên chiếc M.113 cuối cùng có một Mỹ lái, một Mỹ quét trọng liên, tụi ngụy kê súng chơm chởm chung quanh thành xe, thằng Hai Chinh đứng mé sau với cái mặt ngựa đỏ tía, vừa khịt mũi vừa ném lựu đạn lửa vào những căn nhà dân hai bên đường. Hằn thù cái làng quê cha đất tổ của hắn đến hoá dại

             

             

            Chú thích

            (1) Đền mạng

        

 Chương 14    

     Tôi tháo xong đầu nổ trái mìn nhảy M.16, nghe một tiếng “hự” đằng sau, quay lại. Anh Luân đứng chống gậy, cau mày nhìn Năm Ri đang lúng túng ngó tôi. Kẹt sự gì rồi. Tôi phủi tay vào quần, bước tới. Anh Luân gãi cái đầu trọc, đằng hắng vài lần rồi mới nói:

            - Lão đừng ra bãi mìn nữa. Bày anh em moi thôi. Mình dặn Năm Ri, nó cứ nể…

            - Yên chí lớn, tôi gỡ có nghề mà.

            - Nghề, nghề cái gì… Lỡ có đứa khác nó hụt tay, cho nhảy một trái, lão chết oan thì sao? Lỡ pháo rớt gần, mìn động kíp nổ bậy trong tay lão thì sao? Việc của lão dưới kia kìa. Tụi này để lão oánh thí xác bấy lâu, cũng là cái thế ón chẳng được đừng, chớ áy náy trong bụng lắm đó.

            Tôi lảng vội:

            - Út Liềm về chưa anh?

            - Chắc vài tiếng nữa. Con nhỏ bụng đã có cái hom, thả thứ gì vô là nằm lòng chắc cứng, khỏi lo đi.

            Từ sáng tới giờ vùng biển nhốn nháo hẳn lên. Tàu rà với trực thăng quần như chuồn chuồn trước bão, pháo các đồn rải đạn bậc thang dưới mé đường nhựa, ồn gấp mấy hôm qua địch rút khỏi làng Cá. Tôi nghĩ ngay đến quân Mỹ đổ bộ. Anh em đoán đủ chuyện: đặc công đánh sân bay, tụi Sài gòn đảo chính, cũng có thể là binh biến, phản chiến, các sắc quân ngụy bắn nhau… biết đâu được, chúng nó đang lúc quân hồi vô lệnh. Út Liềm và hai cô nữa phóng xe đạp xuống biển lấy tin, chưa về.

            Các em chăn trâu xúm chùm dưới gốc đa cũng “tham mưu con” rất hăng trong khi lựa đạn xếp riêng từng loại:

            - Cái thứ bộc phá đằng mình, tụi nó ăn ít trái là sôi bụng dữ ác vậy.

            - Xã Chinh chết, con nó xin pháo đánh trống tế cha…

            - Chị Cang nói nó bán thân bán xác sao đó, chưa biết, mà tay chân không cục cựa được, nằm ngay đơ vầy nè, ra lệnh cho thằng con củng bố mình.

            - Xì, ác ôn tôm tép. Chinh con xuống đó gánh giỏ gắp phân cho Mỹ chớ quyền gì. Bí mật nghen… anh Thiêm nói Mỹ đổ bộ. Ít bữa nữa rảnh rảnh, tụi mình học tiếng Mỹ.

            - Biết rồi, Hê-lô, bông-sua, gút, gút?

            - Trật bậy hết. Đài mình nói thằng tướng nào lật thằng tướng nào, quên mất, lát tao nhớ…

            Anh Luân rủ tôi đi coi máy, có lẽ chỉ để kéo tôi ra xa bãi mìn. Lạ chưa, địch bỏ lại trong góc đình một cái máy thật, máy bơm Nhật gắn động cơ nổ 12 ngựa. Có mấy khúc ống cao su như vòi voi…Chúng định đào giếng bơm nước lên, tránh những cái giếng hay nổ trong xóm chăng? Sáng qua tôi chỉ sục kỹ các lô-cốt và hầm hào…

            Ông thầy Mười đứng sẵn bên máy như người dẫn xem bảo tàng, kể ngay sự tích của nó. Hồi mới lên cầm quyền, cha con xã Chinh hối hả làm giàu, mua đâu được cái máy bơm cũ chở về, đốc dân khai mương, tất nhiên là đưa nước vào ruộng nhà chúng là phần nhiều. Còn mấy nhà nữa bị mương nước chảy qua ruộng, phải trả giá cắt cổ đến nỗi cả xã đồn rum: “Xã Chinh bán nước đắt quá, dân sạch túi”. Tay thợ coi máy là bợm rượu, để máy trục trặc luôn, và mỗi lần máy hỏng cha con xã Chinh lại chửi nhau một trận; cha ham thu tô, con ưa làm giàu bằng công nghệ, cái máy bơm nằm giữa hai kiểu hốt bạc ấy, hai khối tham tùy lúc bị nó hút vào hoặc đẩy ra như chơi quấy. Nó được chở đi sửa trước nạn lụt, thoát chết đuối và cũng thoát tịch thu. Hẳn xã Chinh tin lắm lắm ở đợt lấn chiếm này nên mới dám chở máy về, gặt xong là bơm nước cho vụ chính. Rốt cuộc nó cũng về ta, trong khi xã Chinh bị liệt nửa người nằm dưới thị xã, thằng Chinh con chạy tháo thân với lính.

            - Bữa hôm xã Chinh cho nổ thử, tụi lái xe chê gắt, nói đồ bỏ uống xăng như nước…

            - Uổng hè. Hễ chạy ngon, mình cho vỡ lại mấy chục mẫu bỏ hoá gần sông. Lo là tụi nó càn lên, cướp nghiến mất.

            - Khử thằng Hai Chinh mới giữ được ruộng được máy. Tụi lính còn biết sợ dân vây, tới thằng đó làm quá tay níu kéo không thấu…

            Da tôi rân rân khi chạm vào khối động cơ lạnh. Nó sống. Như nó chứa một dòng điện rò chừng mười vôn vừa truyền sang tôi. Như tay tôi lâu nay để tê đang dồn dòng máu thợ tuôn vào các mao quản, bắt ngón tay phải cựa quậy mới thấy dễ chịu. Đâu đó trong tôi, từ sâu lắm, một thèm khát bị nén nhiều năm từ từ bốc lên đầu lên ngực khiến tôi choáng váng. Tôi nhớ nghề máy nổ. Tôi thèm làm cho sắt thép quay tít, phát ra sức mạnh giúp người.

            Anh Luân cứ nói văng vẳng đâu mé sau:

            - Cứ cho bơm. Cả ngàn dân làng Cá, bộ giữ không nổi mà xài sao? Cùng lắm mới chôn giấu…

            Tôi không nghe được thêm.

            Tay tôi lập cập lật nắp thùng đồ phụ tùng, kéo ra sợi dây khởi động, quấn vào trục bánh trớn, giật mạnh. À, quên mở khoá xăng. Ba tôi đứng bên chắc đã nạt: “Không nhả xăng cũng phải đái vô một bãi chớ!”. Ông cụ gắt lắm câu khó chịu thật, nhưng nhớ dai thiên niên vạn đại. Tôi quấn dây, giật nữa. Nổ rồi. Tiếng máy của ta nghe vui lạ, giòn tan, săn cứng, như một chuỗi bi sắt rót đều vào thùng rỗng. Tôi nhác thấy vẻ mặt sửng sốt của anh Luân. Khó gì đâu anh, tôi khơi bật sức sống trong cục sắt này cũng như anh bắt đất nhả ra củ trái thôi. Năm Ri xua các em ra ngoài, tôi mới biết có ba vòng trẻ em vây quanh, coi chừng, đây thiếu hầm. Một chị vẫy tôi bảo về ăn cơm, tôi gật. Sau đó tôi không nhớ gì nữa.

            Nhìn bề ngoài, có lẽ tôi vẫn là thằng Thiêm của mọi lúc. Bên trong khác. Như người lên đồng, tôi đang nhập thân vào máy, sâu dần, trọn vẹn dần, cho đến khi trông rõ cái bu-gi đánh lửa châm vào khí xăng nén, cảm được sức miết của các xéc-măng, lần lượt sờ nắn từng cái trục đang quay trong ổ. Những tiếng nổ lia lịa dính cục đã theo lệnh tôi tách rời nhau ra. Mỗi chi tiết ngoan ngoãn diễn thật chậm cho tôi xem vai trò được giao, kể vui buồn với tôi bằng lời riêng của kim loại, háo hức đợi tôi khen hay chê, dùng tiếp hay cho đi chữa bệnh. Cái thế giới đóng kín trong lòng ống xi-lanh, vốn là một bí ẩn đối với người không quen, đã mở cửa đón ông lang máy vào thăm... Đúng rồi, máy có bệnh. Nó chưa già mấy đâu, đừng chê tội nghiệp, nó chỉ mắc bệnh vì cha con xã Chinh bắt quay bơm đến kiệt sức, cho ăn đồ thừa đáng vất đi, cấm nó nghỉ ngơi tắm rửa. Tay thợ coi nó chạy chỉ mê rượu, tay nào vừa sửa nó chỉ nghĩ đến tiền, cũng phải thôi, nó khỏe lên làm gì cho chủ nó thêm gian thêm ác?

            Đất rung một lần, hai lần. Một mảng vôi trên tường lở xuống bên máy. Anh Luân kéo vai tôi:

            - Ra hầm, lão.

            Tôi tắt máy, theo anh bước xuống con hào hẹp do địch đào ngay trong đình, thông ra hầm ngoài vườn. Pháo An Tân bắn lên hú họa. Tôi ngồi xổm, bần thần nhìn bàn tay lấm. Hình như anh Luân khen tôi lắm nghề, gì cũng rành, về sau vợ con được nhờ. Tôi chỉ ngó xuống tay. Những ngón này đây, ba tôi luyện cho từ nhỏ, biết nắm lắc-lê chắc như kìm, cũng biết xuống gân mềm ra để sờ tìm một vết xây xát bằng sợi tóc trên sườn trơn của xi-lanh, đã mất đi cái hạnh phúc được cứu máy. Đến bao giờ nhỉ, tôi mới được vuốt ve một động cơ khỏe đẹp với niềm vui không chút gợn, khỏi phải tìm chỗ nhét mìn, chỉ lo sao nó trẻ và sung sức mãi cho bà con tôi đỡ khổ? Còn lâu đấy. Còn lâu...

            - Gì, lão?

            Tôi cười, lắc đầu. Tôi buột miệng nói lúc nào chẳng hay. Khá nhiều xe và trực thăng đã nát dưới tay tôi, cả hai máy bay khu trục nữa. Ém đy-na-mít dẻo vào, thả trái nổ, vác búa tạ mà quai, bao giờ cũng nhớ đắp thêm bao tải trước khi tưới xăng châm lửa, bắt cháy lâu nung mềm cho hết bòn mót một bộ phận còn lành đem chắp nơi khác. Và không chỉ có bấy nhiêu. Tôi còn hủy đi gần một trăm cái máy biết nói tiếng Việt hay tiếng Anh. Trước những thân thể khỏe mạnh, tôi đã lái đường ngắm vào đúng sọ. Giặc Mỹ bắt tôi bắn phá, trong khi tôi muốn chi chút đỡ từng mầm cỏ gãy.

            Tôi thấy nó rồi, thằng đế quốc, con quỷ ghê tởm quá sức tưởng tượng của chiêm bao, tôi chỉ thấy nó khi thật tỉnh. Con mực ma(1), đôi khi nằm lẫn trong thúng mực ống trên bãi biển Qui Nhơn, đã được nhân lên cỡ trái đất. Nó ôm ghì một mảng nhiều lục địa, hút óc người, máu người, thịt người, để tuôn ra một dòng lạo xạo đen sì những thứ gây chết nhanh chết chậm, từ bom H đến tấm ảnh khiêu dâm, từ tên giặc lái B.52 đến điếu thuốc tẩm cô-ca-in, đủ hết. Tôi đã gỡ được cái lưỡi câu giật đau khi lần đầu tôi đi soát những cái xác rằn ri vặn vẹo, những đống sắt bốc khói. Người thợ sửa máy nổ đã cười to nói hăng khi kể chuyện diệt đoàn xe hay bắn tàu bay, cùng vui say sưa với bà con đồng đội, những người suốt hai mươi năm nay chỉ biết máy rền dưới đất là lính đi càn, khác với tiếng máy rống cao báo bom sắp rơi. Mỗi ngày đánh Mỹ lại mở rộng hơn nữa trong tôi những cung bậc tình cảm tưởng đã lên dây hết mức, mở rộng cả hai chiều cho đau lớn và vui lớn, cho thù sâu ngấm đến tủy và cho yêu thương ngây ngất, yêu thương không nói được bằng lời.

            - Ngớt pháo rồi, lão. Cái máy nổ giòn vậy sao tụi nó chê đồ bỏ hè?

            Ờ, phải hưởng cái thú chẩn bệnh kê đơn cho máy của ta chứ! Tôi kéo anh Luân lên, mở máy lần nữa, chỉ cho xem luồng khói đen trong khí thải, bắt anh căng tai nghe hai thứ tạp âm: tiếng gõ kim loại khá rõ của xéc-măng mòn, tiếng lách cách yếu hơn của pít-tông bị chạm. Gì đâu, hễ ham rẻ mua xăng xấu dầu tồi thì buồng cháy hay kết muội đen và các chi tiết mau mòn, càng mòn càng đẻ ra muội. Hôm nào rảnh tôi sẽ tháo ra cạo sạch muội và khám lại tim phổi của máy, soát kỹ xăng dầu, nếu ủy ban cho đặt bơm. Bây giờ lo ba chân bốn cẳng chạy về nhà mẹ Sáu ăn cơm đã, mẹ cho con ra gọi tới lần thứ ba rồi, chậm nữa chắc mẹ làm om lên mất.

            Cả nhà mẹ ăn xong cả. Mẹ gắt đôi câu, báo tin chị Tám Giàu tìm tôi có việc, rồi dỗ ngọt như dỗ trẻ:

            - Ăn hết tao mới chỉ chỗ… Ừ, chắc là cần chứ, ăn no rồi mẹ đi kiếm chị Tám cho.

            Cơm để phần tôi ghế khoai ít hơn, lại có một đĩa lòng heo nữa, chắc mẹ mua hồi sáng khi xuống Lộc Chánh chống cối 81. Tôi không dám từ chối, chỉ lén gạt làm đôi ăn một nửa.

            Tổ du kích cô Xuân gác đường nhựa mới về. Mẹ Sáu nấu thêm cơm và nói ca kệ trong khi các cô ngả súng ra lau bên bếp, đợi bữa:

            - Biết tụi bây binh đao cực khổ, vậy chớ thời nào con gái cũng là con gái, đổi làm trai đâu được. Út Thêm, mày chải dùm cái tóc thử coi, để quạ nó tưởng đống rác nó đẻ trên đầu… Ngáp hả? Lát nữa tao dọn chỗ cho mà ngủ, bây nằm khéo khéo một chút, đàn ông ra vô họ ngó cho được con mắt. Đừng làm như tổ con Thoá... ừ thì con Thoa, bây đổi tên lia lịa ba ai nhớ cho kịp, chiều qua gác về là lăn chình ình ra phản giữa, ngủ sùi bọt mép, áo trật nút phơi bụng, quần xăn tới háng, tao bước vô thấy như bầy cá nhám bày bán chợ trưa, phát ớn... Nè tao nói trước, hễ đứa nào ăn no béo mỡ tha đôi guốc cao gót vô đây là tao chẻ chụm liền. Mình là dân cày cuốc, đừng học đòi cái số đờn bà ở nhà lầu đầu bi-dê, vừa đi vừa xăm nát nhà như thằng Chinh con tìm hầm... Ngó coi, ngồi đó mà gà nhảy ỉa trên bàn không biết! Phải như tao là bà già bây, tao nói ngay một câu liền: dâu mẹ thảo gớm, ăn gà để phần mẹ cả miếng gan...

            Các cô cười rúc rích, ngắt lời mẹ từng lúc bằng câu chọc chơi. Đến đây cô Xuân cao lớn mới dài giọng làm nũng:

            - Mẹ ẹ e …… Mẹ gả anh Nhái cho chị Hai Mẫn hoài, mẹ không chịu gả cooon……

            Chung quanh nổi cười rật rật:

            - Nói nữa đi bác. Tụi cháu nghe riết rồi về làm dâu nhà ai cũng dễ.

            - Bà già mặc áo bông chanh, ngồi trong đám hẹ nói hành nàng dâu…

            - Mẹ chấm con Chín Cang rồi nghen!

            Mẹ Sáu bị ghẹo không kịp thở, làu bàu gì đó, vớ ống thổi lửa thổi pho pho, lát mới ngoái cổ lại gắt: “Thôi, hư nên kệ bây!”. Tôi ngồi quay lưng xuống bếp, cố nín cười. Tưởng các cô chỉ hay ỷ đông, xúm trêu con trai đi lẻ thôi chứ, té ra bà già cũng bị!

            Một lần mẹ Sáu đem gạo ra gò, Năm Ri đã nói sơ về mẹ. Mẹ bị ông trời bắt xấu người, hồi trẻ rất khổ vì cái mũi tẹt và hàm răng vẩu “vừa một tiểu đội núp mưa”, bù lại mẹ tốt bụng hết sức và được giọng hát ngọt như chè hai. Nghe kể rằng trai cày bạn gặt tứ xứ tới đây, gặp đêm trăng giã gạo cứ nhào vô hát thi với cô Sáu, mê lắm, hết gạo bỏ trấu vào giã, sáng ra họ lảng hết.

            Nội chòm xóm, hễ ai gánh việc nước là mẹ thương, gánh nhiều mẹ thương nhiều. Hai kiểu thương khác xa nhau. Con trai thì ăn ở sao cũng được, mẹ cứ so với ông chồng ngày xưa chỉ biết có rượu, gái và đánh vợ, thấy bây giờ đàn ông tốt ra nhiều. Con gái khó hơn, mẹ so với mẹ và cho rằng chúng nó hơn được cái khoản đánh giặc mà thua nhiều thứ quá. Mẹ ưa kêu chị em du kích tới ăn ngủ nhà mẹ để vừa chăm nom vừa rèn giũa cho. Lấy mình làm mẫu hoài cũng rầy, mẹ hay nêu gương cô Hai Mẫn láng giềng: “Coi chị Hai cầm đầu tụi bây đó, hai tay việc nước việc nhà gọn trơn...”. Cậu con thứ của mẹ, tên móc nôi là Nhái đổi ra Kiên Cường, thua Mẫn hai tuổi và thấp hơn Mẫn nửa cái đầu, đi bộ đội huyện, hễ về phép là phải nghe mẹ giảng cái lệ gái hơn hai trai hơn một, và tính chuyện bỏ miếng trầu vô nhà Mẫn. Cậu cười lăn ra, mẹ nổi khùng, tới lần sau cũng y như vậy. Các cô biết mẹ kén dâu, xúm ghẹo: “Lựa dâu sâu con mắt, lựa rể xể cái môi, hèn gì coi bác Sáu ốm nhom! Hai Mẫn chịu chưa bác?”. Lủng củng bấy nhiêu thôi, mọi mặt khác đều êm xuôi cả, mẹ làm gì cũng được bầu xuất sắc, như mẹ nói là “tao xuất sắc miết rồi quen, thua thiên hạ cái gì tao chịu không thấu”. Mẹ nhận nuôi thằng cháu Hoàn giúp Mẫn, “coi như sẵn bầy gà thả thêm một con thôi mà”, nhưng mẹ khó giấu cảnh nhà đàn bà goá trời dòm qua mái, ai cũng biết mẹ vất vả thêm nhiều.

            Tổ cô Xuân ngả cái nia ăn cơm bên bếp. Tôi biết chỗ tôi là mâm đàn ông, nếu tôi bưng xuống ngồi ăn chung thì cả nhà đều không bằng lòng, nên cứ lẳng lặng chén no.

            Mẹ Sáu giã cành cạch thứ lá gì trong cái cối đất nung, bốc mùi hăng hăng quen mũi mà tôi không nhớ ra. Chợt mẹ ngừng giã, nói với các cô, vốn hơi nặng tai nên mẹ xuống giọng mà tiếng vẫn to:

            - Bây dỗ con Mẫn chút nghen. Nó uống nước rau răm cầm kinh miết, tao nể phải làm giùm, mà lo về sau nó hết đường chửa đẻ, tuổi già không con ở với ai, chồng bị mất nòi cũng bỏ đi lấy đứa khác. Nuôi thằng Hoàn rồi phải trả lại cho cha nó chớ. Khí huyết đờn bà đâu có dễ…

            Chị em suỵt liền liền, mẹ nói thầm hẳn. Tôi ngẩn người. Ra đấy là mùi răm. Mà phải, Mẫn chưa bao giờ kêu đau bụng, cũng không dấm giúi giặt băng và phơi chỗ khuất như mấy chị tôi quen. Lâu nay tôi quên bẵng cái khó riêng ấy của Mẫn, chắc anh em khác đều quên. Các cô chưa chồng, nhất là các cô nông dân, lại cố giấu kinh nguyệt đến cái độ không hiểu nổi vì sao, thật tội.

 *

      Xong bữa, mẹ Sáu mới chịu chỉ tôi ra gò Trúc. Chị Tám đến đấy tìm Mẫn đang dọn mả bà mẹ.

            Trời trưa phủ mây trắng tãi đều, sáng dịu. Nồm thổi mát. Ruộng gần ruộng xa đầy những áo trắng. Súng chưa ngớt nổ, bà con làng Cá đã ùa ra đồng giành lúa với giặc, mặc kệ đạn rít trên lưng khom. Gặt rộ rồi.

            Ở nơi đầu gió này, quanh năm súng rền thay biển động, công việc từng núi từng núi cứ đổ xô tới như sóng thần. Làng Cá quẫy sùng sục từ hai giờ sáng tới nửa đêm. Đường xóm đầy nghịt người ra đồng từ gà gáy đầu, áo trắng nón trắng cả cho tụi trực thăng đỡ bắn bậy, cái vằng(2) treo ngoặc trên cổ, xách ấm nước đùm cơm, vai vác đòn xóc và cuốc để moi thêm hầm tránh pháo dọc bờ ruộng. Các ông lão lội ngoài gò, tìm chỗ làm kho giấu thóc tạm, sau mới đào hầm.

            Đội du kích chặn phía đường nhựa, sáng nay đánh lùi bọn dân vệ thọc vào Nhơn Thọ và đẩy một đại đội chính quy đi tuần mặt đường xuống lội cát mé dưới. Từ nửa buổi trở đi, anh chị em mới thay phiên nhau về giúp người nhà đang bươn trải trên ruộng chín rục. Từng đồng chí mím môi ghì sợi dây bó lúa, gánh oặt đòn xóc chạy vội về nhà, lại tất tưởi phóng ra đồng, súng nhảy hoài trên lưng áo ướt sũng. Sau bữa cơm tối chập chuội miếng mặn miếng lạt, làng Cá lại chia đôi. Người yếu xếp lúa thành nhả, đánh trâu đạp. Người khỏe đi đào hào cắm chông, nửa đêm về còn gánh thóc đi giấu, được thúng nào cho biến luôn thúng ấy.

            Thằng Chinh con xuống nằm dưới Lộc Chánh, ở đấy còn một đại đội chính quy với trung đội dân vệ của hắn, nai lưng ra sửa cái ấp chiến lược bị phá. Mới rút đi sáng hôm qua, hắn đã đưa quân tràn lên hai lần, hằm hè cướp thóc vùng mới mất. Gọi là càn cũng được đi, nhưng đó là một kiểu càn nửa cướp nửa trộm, vừa bệ rạc vừa làm ta mất thì giờ không ít. Lính địch thập thò bên dưới đường cái dòm lên, thấy vắng du kích thì ào vào xóm cướp nhanh cút vội, bị bắn bụp xẹt vài phát chúng nằm bắn trả, nổ nhiều thì co cẳng chạy, kêu cối 81 ở Lộc Chánh và pháo 105 từ An Tân bắn lên một hồi, tụi chỉ huy cho tăng gác ngay để chặn đồng bào đi kiện pháo. Chắc hẳn cái thế kéo cưa lừa xẻ này sẽ kéo dài ít lâu, khi ta chưa đủ sức đưa Nhị Lộc nổi dậy, địch thiếu quân không líp nổi vùng Tứ Nhơn, chỉ hàng ngày thò tay nắn gân nhau qua đường nhựa.

            - Ê hèm, chào anh chủ lực! Ra sửa máy đó hả?

            Chà, đang vội mà gặp ông thầy Mười, gay đây.

            Ông cụ coi vậy mà đã ngót bảy mươi, cháu nội cháu ngoại đủ cả, chỉ cắt thuốc nam và lể ban lể sốt vừa hai bữa rượu, còn bao nhiêu ngày tháng ông chống gậy dạo chơi, tìm người chịu nghe để kể tích xưa hằng buổi một.

            Tôi được ông thích vì còn một ít chữ Hán dính ruột đủ đọc câu đối, có thể đưa đẩy đôi lời thánh hiền chép sẵn trong sách Minh tâm bửu giám, lại rất chăm chú nghe ông hôm sốt nằm ngoài gò. Nhưng bây giờ chị Tám ở huyện về đang tìm tôi, chắc là gấp…

            - Lại đây tôi chỉ anh coi. Đình làng ta đặt đây là đúng chỗ thiên ngư nhỡn. Các cụ hồi đó xin xăm(3) ba lần được cả ba, mới dám cất đình trên chỗ mắt cá, sau mới suy ra thần cho là chí lý, miễn đừng đào giếng thì thôi, chớ xây đình trồng cây coi như khai quang điểm nhỡn cả làng….

            Tôi vâng dạ, đợi thời cơ để rút êm. Thế nhưng câu chuyện của ông lão càng về sau càng hay, tôi bắt ham. Ngồi dưới gốc đa, ngắm chùm tóc trắng sổ lắt lay dưới cái khăn quấn dối, chợt nghĩ đến ngày pho sử sống này biến đi, tôi bỗng lo lo thế nào.

            Nói dại, lỡ lớp người mai sau quên ráo ông bà như cụ thầy thuốc này thường trách, chắc sẽ xảy ra lắm sự đau lòng… Ngôi đình cổ này, nếu thoát bom Mỹ, sẽ bị phá lấy gạch xây chuồng heo. Cây đa nhiều thế kỷ sẽ bị xẻ đóng ghế. Thằng cháu Hoàn lớn lên sẽ sổ toẹt ngay những “chuyện đời xưa lẩm cẩm”, sẽ gạt mấy mươi năm đánh Pháp đánh Mỹ ra khỏi trí nhớ cho nhẹ, cũng chẳng thèm biết rằng mẹ nó đã chết vì đã đẻ ra nó, bà nuôi nó đã đưa lưng che mảnh cho nó, cô gái trẻ mà nó gọi là mẹ Mẫn phải ăn đói đánh giặc để giữ nó sống. Lịch sử bắt đầu từ đó thôi mà… Tôi thoáng rùng mình. Không thể được. Không thể xảy ra tai hoạ như thế trong lòng một dân tộc đã phải tưới đi tưới lại cho máu đẫm từng tấc đất mới sống còn tới ngày nay. Ông thầy Mười trách hơi nặng đấy. Lứa tuổi chúng tôi ham bắn máy bay hơn viếng đình chùa, đúng, nhưng chúng tôi biết cái giá rất đắt phải trả để giành lại một viên ngói tráng men xanh. Và nếu đàn con cháu chúng tôi chăm nghe tin sao Hoả hơn đọc tích cũ, ông cũng đừng lên án chúng vội, phải để chúng làm nên lịch sử mới cho nước ta chứ. Vị đô đốc họ Trần hẳn cũng gật đầu ưng ý: những người anh hùng rất dễ hiểu nhau.

            - …Tấm bia ghi ơn ông đô đốc chôn thiệt sâu anh à, dưới nền đình, là bởi trào Nguyễn bắt đập. Các cụ tiếc của, lén giấu. Tốn kinh lắm. Phải cho ghe đi mua cẩm thạch nguyên phiến trên núi Ngũ Hành, khúc từ An Tân lên đây chở bằng xe bốn trâu kéo, bị đường lún phải vòng quanh gò, trâu chết lăn ra hai con, mới có tên đèo Trâu Lăn đó. Được cả xứ ruộng thành thử dám làm to vậy chớ. Tạc bia cũng rước thợ Huế vô, công trả bằng bạc lượng chớ tiền kẽm họ chê nặng… Anh biết bốn câu thơ tứ bất của làng Cá không?

            Ông mừng ra mặt khi tôi thú thực là chưa biết. Vậy là ông còn “tủ”. Tay vê chòm râu đen nhánh – ông đùa với lũ cháu rằng râu sinh ra sau ắt phải trẻ hơn tóc – ông kể thong thả. Tôi vẫn vừa thích vừa sốt ruột.

            Các quan phủ Tam Kỳ thay nhau trị làng Cá. Quan đầu nhạo rằng nửa người nửa cá thì đổi tên là Á Nhơn. Hắn chia làng Cá thanh bốn thôn thượng, hạ, nội, ngoại, đặt hương chức riêng cả. Rồi hắn xử cho đất làng Cá trả về chủ cũ hết. Tới đó, dân làng nổi loạn. Cả ngàn người vác chĩa ba đòn xóc ra dàn trên đường quan, rượt viên đề lại với sáu chủ đất Lộc Chánh lên đòi ruộng, cả lính huyện cũng chạy mửa mật. Vụ kiện kéo dài gần chục năm, khi đẫm máu, khi dịu lại. Quan phủ sau tính nước vỗ êm, cưỡi ngựa về thăm làng, nhân cuộc rượu mà đổi tên bốn thôn cho ngọt tai: Nhơn Phước, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ, Nhơn Ái. Vẫn không lấy được đất. Tới quan khác nổi khùng, bắt mấy chục cụ lão làng Tứ Nhơn lên chôn chân phơi nắng giữa sân phủ. Học đòi vua Gia Long đặt lệ tứ bất trong triều, hắn cũng làm bốn câu tứ bất, cho viết bảng to cắm trên đường quan, chỗ rẽ vào làng Cá:

            Bất đáo Nhơn Ái đê

            Bất ẩm Nhơn Phước khê

            Bất giao Nhơn Lộc hữu

            Bất giá Nhơn Thọ thê(4).

            Rốt cuộc, Tứ Nhơn chịu trả cho Lộc Chánh số ruộng công, ruộng thờ, ruộng nhà nghèo tự vỡ lấy. Bấy nhiêu thôi. Quan không dám trị tới cùng, chốn địa đầu này lắm núi, dân hoá ra cướp thì chẳng quân nào dẹp nổi. Sáu nhà giàu Lộc Chánh đã mất đất còn mất đèo của đút quan, lần lượt bỏ xứ đi hết. Cuộc chia ruộng lạ lùng này cứ thắng, dù quân Tây Sơn không còn. Dân Lộc Chánh cũng dựa hơi làng Cá mà đòi bớt tô, giảm xâu thuế, đến lượt làng họ bị tách làm đôi, từ đó thêm Lộc Thứ…

            - Còn con voi ông đô đốc với mẹ con Sáu Thìn chạy vô núi Chúa nữa, nói anh khó tin…

            May cho tôi, một chị tới mời ông đi lể ban với chai lùn rượu cầm tay, rất mừng khi tôi giục ông cứu bệnh như cứu hoả. Tôi cũng được dịp chuồn thẳng, tự hẹn sẽ xếp hẳn mấy đêm đến nhà ông nghe bù.

            Con đường băng ruộng ra gò Trúc bị thu hẹp còn nhỏ xíu. Hai bên lề cỏ bày ngổn ngang những tấm đệm rơm dày để đắp trên người chống mảnh pháo chụp, những ấm nhôm và mo đài nước chè, gói cơm nắm, rất nhiều nón lá bỏ ra cho mát. Những câu ghẹo phóng theo theo tôi tới tấp, gặt vội dưới pháo mà miệng các cô không kịp kéo da non:

            - Mang lệnh tổng khởi nghĩa mới gấp quá vậy chớ!

            - Con mình khóc đói rồi hả anh?

            - Chị Hai ơi chị Hai, đi đâu bỏ ảnh vật vờ tội chưa…

            - Một, hai, một, hai,vấp nè, vấp!

            Ai nói con gái miền Trung hiền nhỉ? Tôi liệu bề chọi không nổi, cắm đầu đi biến. Bà con cười rần rần. Sau những ngày vật lộn đứt hơi, tiếng cười trên ruộng mới quý làm sao, tắt rồi mà vẫn sôi sôi mãi trong ngực tôi. Đến khi mấy em dắt trâu ăn rong quanh các miệng hầm bật lên hát “hê hò hê”, tôi không đi được nữa. Tôi ngồi xuống ngay bên bụi mua, rút que xỏ lại quai dép, để cho những giọng trong như nước giếng Tiên chảy vào tai, tan mát rượi trong thân tôi mỏi và bức sốt.

            Nghe mẹ rống đâu

            Đâm đầu mà nhảy

            Huơ con nghé nhỏ

            Ham cỏ bỏ bầy…

            Có lẽ các em hát hay nhất khi nghêu ngao một mình. Tôi muốn đứng lâu trong buổi trưa nồm lộng dưới trời bông xốp này, nghe mãi thứ tiếng tuyệt vời của sự sống là tiếng hát trẻ thơ ngân dài rung rung như sơn ca mới tập hót, bay vút trên cái nền đen lổn nhổn của súng giặc nổ. Quân thù chỉ có nổ và nổ, một đại mang trên lưng hàng vạn tiếng nổ to nhỏ, những vật từ xa bay tới còn nổ ồn hơn. Các em hát nữa đi cho anh nghe tiếp, bởi anh cứ phải tìm đến nơi nào còn nổ nhiều hơn cả. Hãy gửi tiếng hát theo anh nhé, hãy truyền cho anh sức lớn lên của các em, dù chỉ qua một chút vang vọng mong manh như sợi tơ trời.

 *

     Mẫn với chị Tám vừa giẫy sạch cỏ chung quanh mả. Coi bộ chị Tám ung dung, chẳng ồ à gì khi tôi đến, chắc việc thường thôi. Ba Tâm đang cắm thêm những cành gai tre ngăn trâu bò. Út Hoà bó một chùm bông trang đỏ và trắng. Tung hoành nhất chỉ có thằng cháu Hoàn. Nó được đi chơi xa với mẹ Mẫn, sướng mê, nhảy tưng tưng trên mả bà chán lại trèo xuống ôm chân mẹ, bi bô không ngớt. Tôi mới cho đi tàu bay một lát tối qua mà nó đã nhớ tên, chạy a tới đón: “Chú… chú Xiêm!”. Cháu mặt xinh, rất bụ, bồng sướng tay, bị cái lắm rôm và ghẻ chân vì ngủ hầm nhiều. Nó nghe gì thuộc nấy. Mẹ Sáu cũng hoảng, ai lại mẹ mắng nó: “Mày khôn thành tinh Hoàn à”, hôm sau thấy nó vừa đá con mèo vừa kêu: “Mày côn xành chinh mèo à”.

            Trong câu giỡn của Mẫn, tôi nhận ra ý phân bua:

            - Lâu lắm em mới họp tổ một lần, đi viếng mộ liệt sĩ, bà khách cũng tới tham quan. Giữa ngày mùa, việc búi xờm xờm…

            - Có cả khách không mời mà đến!

            Chị Tám cười, dừng cuốc:

            - Xưa bày nay làm, giáp Tết bà con mới giẫy mả ăn heo. Nhà mày giẫy mả nhè khi người ta gặt, ông xã ra bắt kia, gà đâu tạ làng?

            - Lúa đổ bồ rồi gà mọc đuôi tôm, muốn mấy có nấy!

            Nhà Mẫn cũng sắp gặt.

            Sau lụt, ba chị em hở tay lúc nào chạy ra đồng lúc ấy, hì hụt cào cát bồi, đắp bờ, dọn cấy được bốn ang giống(5) ruộng nhà, tạm bỏ đi một ang giống bị sỏi đá phủ dày quá. Số ba ang giống cấy rẽ phải trả lại chủ, thiếu công làm. Sau đó chỉ còn Mẫn, đi công tác đâu về lại tạt xuống ruộng hối hả làm cỏ một lát, nước nôi nhờ bà con coi giùm. Bây giờ Út Hoà đang cự nự rằng anh Tâm được vô Đoàn mà chẳng gương mẫu chút xíu nào, rảnh vài ngày ở làng chỉ xách ná cao su chơi rông. Còn Ba Tâm chê em nhác đừ nhác đượng, người khác đậu y một tá còn Hoà chỉ đậu nửa tá.

            Mẫn can hai em:

            - Cho qua, cho qua. Chiều nay vầy nè: hai đứa đang rảnh, coi như chủ lực gặt. Chị mắc việc ngập đầu, chiều ra gánh lúa, ừ chưa?

            - Mà anh Ba phải làm kho giấu lúa, mất ảnh đền!

            - Đền, đền mấy chục tháng học uổng cơm!

            Út Hoà đỏ tía tai, ném cuốc cái bịch. Mẫn dỗ:

            - Các anh chị cười kìa. Thầy thuốc kiêm mẹ hiền, mẹ gì mà tự ái nhè… Thôi nghen, tao chỉ huy hai đứa không nổi, tao rút lui, bây bầu ai kệ bây! Rồi, ai biểu cãi lộn… Anh Thiêm coi ớn không?

            Khi tôi gặp Mẫn đang tắm cho cháu Hoàn hay giọi lại cái lều dựng tạm sau lụt, Mẫn thường buông một câu đùa phân trần, nghe tội tội. Hình như Mẫn nghĩ một đồng chí không chôn nhau cắt rốn ở đây mà lao vào đánh giặc chẳng kể ngày đêm, thì Mẫn là người làng còn phải lăn lộn gấp mấy mới phải, ai lại đi lo việc nhà. Tôi biết, chén cơm manh áo là mối lo canh cánh của những cán bộ như Mẫn.

            Cả trăm công tác từ trên rót xuống xã như qua cái phễu đều được nhấn là quan trọng bậc nhất, chủ yếu, trọng tâm, khẩn cấp, trung tâm đột xuất, hàng đầu; tất cả đều đòi hỏi cấp xã phải nghiên cứu kỹ, biến thành ý thức thường xuyên, phát huy sáng tạo, nhất là phải luôn gương mẫu đi đầu; tất cả các đồng chí thuộc các ngành to nhỏ về “quây phong trào” đều trách lãnh đạo xã chưa quan tâm đúng mức đến ngành mình, đều đòi ưu tiên không nhất thì nhì… Mẫn lại không nằm trong loại cán bộ “phiên phiến xong thôi”, ghét thói đùn việc lẩn khéo, nên càng bận rối mù. Bận mấy cũng cứ phải ăn. Mẫn phải nuôi mình, nuôi cháu Hoàn - mẹ Sáu tốt thật mà rất nghèo - gửi gạo cho Út Hoà đi học, sắm quần áo cho hai em để chúng khỏi tủi thân với bạn bè. Riêng Mẫn chỉ có một bộ bà ba lụa đen còn lành, để dành mặc khi có mít-tinh hay họp đông, còn hằng ngày đánh hoài cặp quần áo vải chéo rẻ tiền, vai đã vá đụp mà nước nhuộm gặp mưa vẫn thôi ra xám da. Sáng nay tôi đến nhà Mẫn tìm chú Tâm, dòm qua cái nong rách dựng thay cửa, thấy trong căn lều rỗng có ba hòn đá kê bếp, một cái soong méo, vài cái chén úp trong rổ. Đáng giá nhất chỉ có cái bàn thờ treo dưới mái, bên bát hương đặt một khung ảnh mạ vàng giả mới tinh khôi nhưng chưa có ảnh lồng vào, những nét óng ánh chỉ làm rõ thêm cảnh rách rưới xung quanh.

            Khó đếm được bao nhiêu vạn đồng đã qua tay Mẫn trong cả ngàn đêm phá ấp chiến lược.

            Mấy năm trước, hồi vùng biển và ven thị trấn chưa nổi dậy, đồng bào ở đấy cứ gióng theo ánh lửa đốt rào ấp mà đến tìm cách mạng; hàng trăm cây tre gỗ chất thành núi, lửa vùng vẫy bốc cao gấp đôi ngọn tre, là ngọn đèn pha chỉ đường vào bến chắc chắn nhất khi mặt trời chưa mọc. Kéo tới cái cửa khẩu Tam Sa hầu hết là các bà các chị, đi dễ và cũng cần đi hơn đàn ông. Thăm về, mỗi người rỉ tai cho năm bảy bà con bạn bè đáng tin nhất: “Lên đó, nhớ tìm chị Hai Mẫn nghen. Con gái mới lớn mặt bấm ra sữa mà chỉ huy con trai rắp rắp. Chu cha, chị ta kẹp cây súng máy bên hông vầy nè, rượt lính chạy té cứt. Nghe đồn một mình chị xách giỏ lựu đạn vô đánh sở Mỹ giữa Tam Kỳ, kinh chưa, tụi ác ôn sợ le lưỡi cóc… Nó lớn bằng con Út nhà bà chớ bao lăm, ừ thì hơn chút xíu, cao tay lắm cũng mười bảy mười tám, nói với tôi nó xưng cháu chớ chưa dám xưng em mà! Với lại đàn bà con gái, hiểu bụng nhau hơn…” Xuýt xoa. Tấm tắc. Một đồn mười, mười đồn trăm, có người chưa bạo mấy cũng liều lên Tam Sa “coi thử xem sao”, về nhà thì thào hàng tháng những Hai Mẫn là Hai Mẫn. Nhiều bà từ Đà Nẵng, Hội An vào thăm con đi Giải phóng, không gặp, giúi cả gói tiền và nhẫn vàng vào tay Mẫn, khóc thút thít ra về. Mấy chị được Mẫn nhắn lên lấy thư và ảnh của chồng tập kết, mừng rú, cởi luôn đồng hồ đeo tay hoặc dây chuyền vàng nhét bừa vào túi Mẫn. Đông nhất là những người quảy lên một gánh mắm hay gánh cá, bán được bao nhiêu tìm Mẫn đưa hết, gửi cho cách mạng.

            Đồng bào ở xa đã vậy, ngay bà con Tam Sa ủng hộ cái gì cũng chỉ muốn giao cho Năm Tuất và Mẫn. Anh Luân nằm hầm ngay trong ấp, cần tránh lộ mặt, chân sưng đi lại cũng khó. Ba Thấn sục khắp nơi, nói dẻo như kẹo kéo mà bà con ít tin, buộc lòng mới đưa.

            Nhận được bao nhiêu, Mẫn ghi sổ, nộp vào quỹ không sót một xu, nhất định nhờ Năm Tuất chuyển thẳng lên huyện chứ không giao cho Ba Thấn. Hắn về ton hót sao đó, Tám Liệp cự Mẫn một trận vì lấn quyền cán bộ kinh tế, còn bóng gió những sự cầm dầu dính tay, muốn ngoi đầu lên tới cấp trên. Hồi đó cái vụ Tam Sa đóng góp sút đang bị tạm gác, Mẫn trả lời lạnh ngắt: “Chú ở xa không biết, người ta đồn rum là dồn của cho ông kinh tế xây nhà gạch kia nè. Cháu lo đánh giặc không kịp thở, ham gì lấn việc của ai, đã mệt lại dễ mang tiếng. Có điều anh Thấn bôi xấu cháu, cháu chịu được, ảnh ăn cắp đồng tiền của bà con gửi cho cách mạng… mẹ cháu nuôi cán bộ mà bị đòn hộc máu hoài…” Mẫn nghẹn lời bỏ đi, và Tám Liệp phàn nàn: “Cứ lấy nước mắt làm đầu, chẳng chịu nghe phải trái”.

            Nhiều bà mẹ Tam Sa thương Mẫn, muốn nhận làm con nuôi, sắm cho cái võng hay cặp quần áo, Mẫn cũng nộp hết. Đến đây, anh chị em du kích và cả anh Luân đều kêu Mẫn giữ kẽ quá, gàn nữa. Mẫn cãi:

            - Chú nghĩ thử, hễ cháu thôi làm cán bộ, bà con có cưng cháu nữa không?

            Khi kể với tôi những chuyện trên đây, anh Luân lại thấp giọng như sợ Mẫn nghe đâm kiêu:

            - Lão coi, nó cả nghĩ khiếp không? Mình cứng họng đó lão. Nhiều khi bà con níu kéo mời mọc, một anh Tư hai anh Tư, mình không nói mà trong bụng thấy sướng sướng, chà, họ trọng mình quá hè. Té ra họ thương chung cách mạng, thương nước thương nòi chớ thương riêng gì thằng Tư Luân này. Mình làm Bí thư, coi như thay mặt Đảng nhận cái thương đó để chuyển cho anh em, hễ mình giữ lấy xài thì coi như mình tham ô, ý con nhỏ là vậy đó… Mà phải, đồng chí mình lặn lội trên núi cao, sống nay chết mai trong tù, nằm dưới cống ngầm Sài Gòn, số đó đáng ăn gà uống rượu nhứt thì lại không được gần dân, còn mình ở đây… không khéo lại giống như tay giao liên lén lấy hàng chuyển trên đường dây!

            Tôi ngắm vóc người khô khẳng của anh, nhớ tới những lúc Mẫn ngã ngất vì kiệt sức, chẳng biết bàn góp sao cho phải. Các đồng chí ở xã không được xu phụ cấp nào, nếu ăn một bữa cơm bà con mời cũng ngại là bớt xén… Anh Luân gãi cái đầu trọc:

            - Con Mẫn gớm lắm. Nó nói cắn cựa là tay làm hàm nhai thôi. Hồi ở Tam Trân, nắng này mà trưa tròn bóng nó ra gò cuốc đất một mình. Bà con ra giựt cuốc, rầy om: “Chấm cho mày đủ cái điểm gương mẫu rồi đó, chịu mày dẫn đầu sản xuất cho tụi tao theo rồi đó, thôi vô, đừng nướng xác nữa!”. Nó cười, nói chiều sửa soạn đi phá ấp dưới kia. Cô bác thương, lấy cuốc ra làm dùm cho nó mau được nghỉ. Ngó đi ngó lại, mỗi năm nó làm ra bảy tám chục ang lúa với ba bốn ngàn bụi sắn như chơi, thừa tự túc còn gởi nuôi em nữa, ai thiếu nó cho. Về dưới này căng hết chỗ căng, vậy chớ nó làm đá gà từng giờ một cũng cào cát được gần hết số ruộng. Sức mình theo nó không nổi đâu lão… Mà cái lứa con nít mới lớn trong thời kỳ đánh Mỹ bây giờ sao nó mau khôn kỳ cục lắm. Lão coi, mỗi đứa một bao một súng, ném đâu làm được việc đó, gặp giặc là đánh ngon, vô lớp chánh trị là giảng bài, hẹn nửa tháng ấp chiến lược phải nổi dậy thì mới mươi ngày đã nghe lửa đốt trống đánh, chuyện ruộng đất rắc rối vậy cũng làm chạy ro… Nói thiệt với lão, Tám Liệp chưa thấy cái mới đó, mình khuyên miết mà hắn không tin cứ nghĩ số trẻ thừa gan mà thiếu óc, tay to hơn đầu, làm thiên lôi được chứ đừng để làm ông trời. Dân mình khác xưa nhiều, cán bộ đảng viên được rèn giũa hung rồi, hắn không rán theo cho kịp cứ trụt lần lần ra sau, trước cầm đầu bây giờ ra anh cầm đuôi, mình giận mà cũng thương hắn. Sắp tới đại hội chi bộ, chắc hắn truột luốt hết, nhiều đồng chí đang đòi kỷ luật hắn nữa, lão mới về còn nổi khùng huống chi mấy anh em.

            Tôi muốn cãi rằng anh Liệp sa sút không chỉ vì “chưa thấy cái mới”. Thiếu gì đồng chí phải xa phong trào lâu mà vẫn gắng gỏi, được quí trọng lãnh đạo tốt! Ngay như anh Luân đấy, quanh năm phàn nàn rằng dốt, lạc hậu, theo không kịp anh em, mà đố có gỡ được chức bí thư Tam Sa, trừ phi cấp trên điều đi chữa bệnh hay giao việc nặng hơn! Có lẽ anh biết tôi nghĩ khác, nên buông tiếp mấy câu lơ lửng và hơi buồn:

            - Nghề đời, tư túi của công cũng có năm bảy đường tư túi. Kiếm lợi còn dễ truy, tới người kiếm quyền, kiếm danh, chà, kiểu tham ô đó mới khó thấy. Thiệt tới rầy…

            Mặt anh sắt lại và già hẳn đi trong một loáng. Anh chống gậy nhúc nhắc theo mấy bác nông hội mời họp. Câu chuyện đằm thắm rồi cay đắng này ghim vào trí nhớ của tôi, giúp tôi hiểu thêm chiều sâu suy nghĩ của anh cán bộ ngót năm mươi tuổi, cả ngày chỉ cười hề hề và bông lơn cho bà con cười theo, lặng lẽ trút dúm sức khỏe cuối cùng còn lại sau tám năm tù để “vực cày một lứa trâu tơ” rồi mới chịu nghỉ. Có lúc tôi tưởng anh dễ tính và nông cạn, thích ở giữa để chữa đôi bên, thân ai cứ khen phứa cho người ta vui bụng…

            Mẫn can xong hai em, chợt kêu:

            - Ngó coi thằng Hoàn, rứt hết bông của bà rồi. Bỏ xuống con!

            - Bông chủa bà… Hoòng cho mẹ…

            - Ừ, cho mẹ. Thôi sắm sửa ta về, lỡ pháo bắn không chỗ núp. Bật lửa đâu Tâm?

            Mẫn quay lưng về phía tôi. Áo Mẫn vá một miếng to trên vai phải, dây súng nhai áo chẳng kém chó con ngứa răng. Cô cán bộ gương mẫu đến độ bà con la trời này đánh giá tôi ra sao nhỉ? Đánh giặc khá, vô tư, hay cáu gắt, lười biếng, ừ, lười biếng là cái chắc, dạo ở ngoài gò cứ ngủ lăn quay, cơm dọn xong mới dậy đánh thẳng một lèo năm chén… Mặt tôi nóng hực. Tôi luống cuống rút khăn lau mặt, làm như nóng chỉ tại trời. Khốn khổ, hồi ấy tôi không để ý gì cả. Dù Mẫn có trách tôi lười, chắc tôi cũng nhăn răng cười khà, coi đó là cái tật xấu dễ thương của cánh con trai chỉ ưa ăn no vác nặng mà ngại những việc tỉ mẩn.

            May sao không ai nhìn tôi cả. Mẫn thắp hương cắm đầu mả xong, kéo cháu Hoàn đến bên, cầm hai tay nó chắp lại:

            - Chào bà, cháu về với mẹ. Nói đi con.

            Thằng bé bật cười to, đạp chân nhảy cẫng lên. Có lẽ nó tưởng mẹ đùa, chỉ đống đất bảo gọi bằng bà, Mẫn quỳ một gối, ghé tai nó van vỉ:

            - Con nói, mẹ thương… Chào bà, cháu về với mẹ…

            - Bà nhấu chơm Hoòng ăn!

            - Không. Chào bà…

            - Mẹ xương Hoòng hắm hắm, mẹ chơi bới Hoòng!

            Mẫn cau mày làm nghiêm: “Hoàn, hư lắm nghen…”. Cặp môi Mẫn chợt run bắn, mím lại vẫn run. Mẫn úp mặt vào lưng đứa con nuôi nấc dồn, giữ cho không ra tiếng. Thằng nhỏ cứ quẫy trong tay Mẫn, cười hết hai hàm răng sữa, mấy khi mẹ chơi nhiều trò như hôm nay. “Bắt mẹ… bắt mẹ…”, nó reo lanh lảnh, cố nhoài tay ra sau túm tóc Mẫn, nắm tai Mẫn. Những ngón tay hồng tí xíu đang ấn vào mũi gai gãy nằm trong ngực tôi. Cháu ngoẹo cổ, thấy tôi, kêu: “chú Xiêm… bắt mẹ cho Hoòng!”. Mắt cháu tròn, sáng rực, sáng không chịu nổi. Tôi cúi đầu, nhắm mắt như bị chói, thấy chập chờn những mảnh thịt lật đỏ tươi trên vải đen. Nhiều tiếng nấc sụt sùi, cố nín, và chuỗi cười vẫn giòn như thủy tinh gieo.

            Mươi phút sau chúng tôi ra về. Môi dưới Mẫn còn dấu răng cắn lún sâu, gần chảy máu. Mẫn đi trước, ôm Hoàn lên ngực như ôm bao gạo cho khỏi cấn những băng đạn và túi lựu đạn đeo bên hông. Nó bíu hai tay trên vai Mẫn, rụt cổ tròn vai hệt một chú chó con vịn vành thúng dòm quanh bếp, cười chảy dãi với tôi. Rồi nó giãy, đòi bồng. Mẫn phải tháo nốt nịt đạn đưa cho Tâm để bồng nó bên sườn. Anh cu có âm mưu riêng: nó lùa tay vào áo Mẫn tìm vú. Mẫn hoảng, lôi tay nó ra, nó hét tướng:

            - Vú âu? Tả vú mẹ ây! Tả vú Hoòng!

            Mặt Mẫn đỏ tận cổ áo. Tôi đón, nó không chịu, cứ rống như còi sừng trâu. Mẫn đành bồng nó chạy vội vào trong một nhà cạnh đường, đóng sập cửa ngay sau lưng. Chúng tôi cười một mẻ tức bụng. Ghê thật sức mạnh của một đứa bé, nó bắt người ta sống và chết vì nó, khóc, đấy rồi cười đấy cũng vì nó…

            Lúc này tôi mới nhìn kỹ chị Tám, thấy chị có cái gì là lạ. Giữa mùa nắng mà da chị trắng ra nhiều. Chị hay đưa mắt liếc xéo, nói thầm và giơ tay che miệng, đi đường phẳng vẫn nhấc chân hơi cao như dò đêm trên đất lạ. Tôi hỏi chặn ngọn:

            - Chị mà phải nằm hầm như tụi tôi à?

            - Quen rộng quá cũng rầy…

            - Việc gì gấp vậy chị?

            - Gấp mấy cũng phải đợi ông trời lặn. Tính rủ anh đi ăn cá biển một lứa chơi. Hồi sáng Mỹ đổ bộ Châu Lai rồi. Thằng nào lên bờ cũng hỏi sao không thấy ông Tư Thiêm ra đón. Tin giờ chót mới bấy nhiêu.

            - À…

            Tôi cười to. Tôi khoái vì đã đoán gần trúng ngày quân Mỹ vào Chu Lai. Cuộc đua nước rút giành lại vùng bàn đạp đã thắng sát nút, ta vừa kịp chiếm đỉnh, dàn trận đón Mỹ. Ngon rồi. Cái thế từ trên lao xuống đã bày ra rồi. Thế nhưng, tiếp theo nỗi mừng bồng bột ấy là một xúc động không rõ nét dâng lên chầm chậm và nặng, pha lẫn nhiều thứ, hình như có cái mệt của những ngày vật lộn với quân ngụy, cái nôn nao muốn biết ngay đánh ngay kẻ thù mới, và… đúng, tôi không lầm, có nỗi đau thầm kín của người lính khi biết một mảnh đất đẹp sắp bị giặc băm vằm.

            - Hai Mẫn có cả mớ cơ sở riêng của nó dưới Tam Giang, Tam Hải. Con nhỏ dài tay thiệt. Anh Bảy viết thơ biểu nó cắt một số ở gần Châu Lai, đưa qua cho anh với tôi nắm để theo dõi căn cứ. Nó chịu rồi, tối nó dẫn đi bàn giao. Chiều nay ta gặt giùm nó một buổi nghen anh?

            - Phải quá đi chớ!

            Tôi thường được cử đi dọn chỗ đánh, nhiều lần thấm đau như thế mà không nói ra. Dù nói, bà con cũng gạt ngay: “Cái mạng các anh không tiếc, tụi tôi tiếc gì nhà cửa ruộng vườn!”. Rồi thì con người còn của, còn da lông mọc còn chồi nên cây, cả kho triết lý đầy ắp của một dân tộc đời này tiếp đời kia phải gánh tro nhà cháy ra bón ruộng, đã quen nén những xót xa riêng để nói lên nghĩa cả. Mỹ vào. Làng Cá nằm trong vành đai trắng. Hơn một ngàn người sống trên hòn đảo xanh này đã ít nhiều đoán được những gì sẽ xảy ra. Họ gặt vội lấy lúa nuôi quân, đào thêm hầm hào, lượm sẵn hàng đống mảnh pháo để xách đi đấu lý.

            - Mỹ vô… thì đánh Mỹ chớ sao!

         Chú thích:

            (1)   Bạch tuộc nhỏ.

            (2)   Cái hái

            (3)   Gieo quẻ

            (4)   Không đến đường ruộng Nhơn Ái, không uống suối Nhơn Phúc, không chơi với bạn Nhơn Lộc, không cưới vợ Nhơn Thọ

            (5)   Một ang giống ruộng xấp xỉ một sào Trung bộ cũ

   Chương 15    

      Mặt trời còn một con sào Mẫn đã gọi chúng tôi ngừng gặt, trêu luôn:

            - Để coi cậu tú bó lúa, bảo đảm lắm, gánh tới nhà còn y nguyên cây đòn với cặp dây!

            Tôi gạt mồ hôi cằm, vặn lưng trả miếng ngay:

            - Hèn gì có kẻ mét với chị Bỉnh, hồi cứu lụt.....

            - Sao?

            - Cái anh gì cao, trắng trắng, bộ tướng như học trò thành phố đó, coi người như rác! Tạch- tạch- sè chánh hiệu mà!

            Mẫn ngớ ra rồi cười phá, cười đến không đứng được nữa, ngồi thụp xuống bờ ruộng mà cười rũ. Đến khi tôi nâng hai cánh tay đặt trên vai Mẫn gánh lúa nặng ước sáu chục cân, Mẫn mới kêu “Thôi, biết ông giỏi rồi!”.

            Tới đâu tôi cũng bị hiểu lầm vì vóc người lêu nghêu và nước da không chịu ăn nắng, trông rất chi là lính cậu, là “phóng văn lình” tức lính văn phòng. Cộp một trận, phát rẫy hay cày ruộng vài ngày tôi mới được nhận là lính chiến, gốc gác làm ăn. Có lẽ chính cái mẽ ngoài phản chủ ấy nó thúc tôi học nghề thật kỹ để xoá nhanh cái ấn tượng “dân thầy”, hoá ra nó cũng có lợi.

            Đến nay, về nơi nào chưa quen, tôi thường nhét súng ngắn vào bao - cái câu “súng lục là súng bao vây đầu phồng” sống dai gớm! - lội xuống ruộng trước, để cho sự tin cậy của bà con bắt đầu từ chỗ mỗi cuộc đời cách mạng bắt đầu, từ giọt mồ hôi rớt xuống chén cơm. Câu chuyện sau đó mới thật là tâm sự giữa những người đồng cảnh đồng tình. Dần dà, nếu có dịp sửa giúp cái máy nổ, bày những câu gọi hàng lính Mỹ, nói tình hình thế giới trước một lớp học, tôi mới được xếp vào loại “con nhà nghèo được cách mạng dạy nên khôn” Như thế đúng thực sự hơn là lối coi tướng của cô Mẫn. Tuy những anh học trò mới đi bộ đội thường được bà con cưng hơn một chút - nhà khá giả mới đủ tiền cho con ăn học, đời học trò ở phố phường xa mưa nắng bom đạn, bây giờ đánh Mỹ mới nếm mùi cực khổ, coi thiệt tội...- nhưng tôi biết mức tin cậy có khác với những anh được gọi là “lính cùi đày(1)”, cả người lẫn nết đều vững như hòn đá kê chân cột. Các bà mẹ vốn thương con út mà tin con đầu lòng.

            Vừa chơi ác, đặt cho Mẫn một gánh nặng xong, tôi hối ngay. Mẫn không khỏe mấy, chỉ được cái dẻo dai. Tôi nắm đòn xóc giữ lại: “Giỡn thôi, để anh...”,. Mẫn lắc đầu gạt tay tôi: “nhà gần mà!”.

            Tôi trông theo Mẫn chạy thoăn thoắt mới hết lo, quay sang bó tiếp cho Út Hoà, Ba Tâm, giả vờ không nghe câu đùa lơ lửng của chị Tám đang xếp các lượm lúa: “Họ thương nhau ghê ta!”.

            Thưa bà chị hay giễu,chị muốn cười hở mười cái răng, nháy nháy với người thứ tư nào đó, ví von bóng gió về cây si hay bệnh cảm, xin cứ việc! Tôi buột miệng, xưng anh với Mẫn, đã lỡ cho nó lỡ luôn, hơn Mẫn bẩy tuổi không làm anh được à? Tôi cãi thầm với chị Tám như thế, đến lúc chị giằng tay tôi, kêu:

            - Cậu tú ơi cậu tú, trả thù dữ vậy sao sống nổi!

            - Ờ......

            Thì ra tôi đang đạp chân riết một bó lúa to bằng bồ, phần chị. Tôi vội chống chế:

            - Không... tôi tính về trước một gánh...

            - Rồi bỏ lúa ai xóc? Đây về nhà có phục biệt kích đâu mà phải kèm?

            Tôi đóng kỹ cái vai anh khờ, chỉ cặm cụi bó một đôi lúa nhẹ hơn cho chị Tám, một đôi khác cho Mẫn đi chuyến thứ hai, còn bao nhiêu làm một gánh vét sòng. Mẫn trở ra ruộng, sửng sốt kêu tôi phá sức, sụn xương sống còn gì. Thật tình tôi cũng hơi lo lo, lâu nay chẳng gánh gồng gì, sợ mất thói quen. Tôi bắt đầu tính xem trên chặng đường vào xóm có mảng tường hay tảng đá nào có thể kê đòn mà nghỉ chăng, nếu run đấu gối không bước được nữa như keo gánh thi năm ngoái. Mẫn ghé vai cho tôi đặt gánh, lại đứng đợi tôi mới chết chứ. Trót yêng hùng rồi, đâm lao phải theo lao... Không ngờ tôi mạnh đến thế. Xóc bó lúa “sạt” một tiếng là lút như đâm lê vào bù nhìn rơm, nhắc bổng nó lên xóc bó thứ hai mà không hề tì vai hay chống đầu đòn xuống đất, chạy thẳng một mạch về sân nhà Mẫn, dọc đường chỉ đổi vai một lần, tất cả đều gọn trơn. Khoảng chín chục cân, tự phá kỷ lục rồi, bà con trông thấy cứ tấm tắc. Chém chết tui cũng không dám nhận rằng đó là kết quả của một câu nói khích, và nhất định không trông thấy vẻ mặt bối rối của Mẫn cùng nụ cười gán ghép của chị Tám. Khờ mà!

            Đêm nay chúng tôi xuống vùng biển phía bắc Chu Lai. Lội cát phải mặc màu nhạt. Tôi giội gấp mươi gàu nước giếng, thay bộ ka-ki bạc màu nhất. Chị Tám mặc bà ba màu lục trông hệt bà đồng. Mẫn mượn được cái áo xanh da trời, nhưng cứ bị quần đen không có gì thay đổi, tôi cho mượn tấm dù hoa hai chéo phủ đến gối, coi như ổn. Ba Tâm đòi mãi mới được theo chị, chỉ mặc quần đùi vải rằn và cởi trần. 

 Tam Sa ở cuối tỉnh cuối huyện, cấp trên gửi giấy hoả tốc báo địch càn thì nó đã càn xong xuôi cả. Anh Luân và Mẫn lặn lội đi móc được một số cơ sở riêng ở thị trấn An Tân và vùng bắc Chu Lai, hễ địch tăng quân dồn xe thì họ báo cho Tam Sa biết, hụt xe lam đã có xe gắn máy, xe đạp. Lâu lắm các đội công tác An Tân, Tam Hải, Tam Giang mới hay mình bị phỗng tay trên, kiện với huyện. Anh Bảy quai nón cười xoà: “Các cha thừa đất bỏ hoang, Hai Mẫn tới vỡ, phải để nó hưởng lộc ba năm không đánh thuế!”. Hôm nay chị Tám và tôi được “sang tên” sáu cơ sở gần Chu Lai, coi như cái vốn đầu tiên để bủa thêm một mạng lưới nữa quanh căn cứ Mỹ. Chị Tám tìm hiểu mặt đấu tranh chính trị, tôi mặt quân sự. Có thể Ba Tâm được ghép với chúng tôi để chạy thư thẳng về huyện và H.68, chú năn nỉ riết nhưng anh Bảy còn ngại nhỏ quá.

            Ăn xong chúng tôi đi ngay. Quân phục kích dăng liên miên dọc đường Một, đổi chỗ luôn, phải trông chừng chúng từ khi còn sáng. Chúng tôi băng ruộng lên phía bắc, gặp tổ du kích gác trên đồi lấy tin: địch rải dày mé dưới mặt đường chặn giữa làng Cá với Lộc Chánh. Phải vòng lên xa nữa. Tới một xóm lẻ còn trơ các nền nhà cháy, Mẫn dừng lại, tủm tỉm:

            - Em là dân bổn địa, chỉ huy dân tứ chiếng, ừ nghen? Bây giờ em ra đường, chị Tám giũ chà là, anh Thiêm với Tâm ai liệng xoài giỏi hơn thì ở lại đây, ai kém đi liên lạc. Ám tín hiệu, đường tiến đường lui nhớ kỹ chưa?

            Đây là xóm Gò Xoài, bị địch đốt trụi để dồn vào ấp chiến lược. Vườn xoài bỏ hoang lu bù, tôi ném lựu đạn không tồi, nhưng mới thử sức vài lần đã chịu thua Ba Tâm. Chú ta chưa rút ná cao-su mà trái lớn trái nhỏ đã rớt lịch bịch. Khúc cây vọt khỏi tay Tâm, xoay tít như bánh xe, quất trúng những nhánh xoài đầy trái vàng đung đưa. Lớn chút nữa tay này ném lựu đạn hẳn là lọt lỗ châu mai thun thút!

            Tôi theo Mẫn băng gò ra chỗ quan sát cách chừng nửa cây số, càng tới gần đường càng dò kỹ, có khi địch lên phục tận đây. Chúng tôi nằm bên một gốc mua, thò đầu dòm xuống sườn dốc, súng đơm sẵn.

            Con đường bị băm nát từ lâu, quãng này còn sót đường ray kẻ hai dòng đen song song trên đá lót xám, chạy qua cát trắng. Cỏ gấu loang từng mảng nâu đỏ. Dương liễu mọc thấp, cành lá thưa đâm ngang thành bụi. Xa hơn một ít là vệt đen rộng và bóng của đường nhựa, hai mép quét vôi trắng phòng ta chôn mìn, bị những cồn cát nhấp nhô tre khuất từng đoạn. Phía bắc cách ba trăm thước có cặp lô-cốt giữ cầu. Phía Nam hình như vắng.

            - Tụi nó kia, anh.Chỗ cống xi-măng ngó xuống.

            Mẫn chỉ mé tay phải. Tôi nhìn kỹ cái cống trắng, nơi cậu Ri đánh mìn lật một chiếc GMC đầy lính tháng trước. Địch nằm cách đường nhựa chừng hai chục thước, nép sau những bụi ngũ sắc rậm. Áo quần chúng chìm vào mầu lá, nòng Ga Ran sơn lá mạ cũng vậy, tôi nhận ra chúng nhờ vào cái báng súng nâu đen cựa quậy bên những đường cong tròn bóng của mũ sắc, cây lá không có nét cong đều như thế. Người đi dọc đường nhựa không thấy được địch, nhờ dòm xuyên hông chúng tôi mới moi ra. Mỹ vào có khác, ngụy đem xác đi rào dày kinh, dạo trước Năm Ri dẫn tôi đi dễ hơn nhiều. Cũng trên đường Một này, anh em xê mình đóng trong kia đang đạp xe “kính ông” vào thị trấn Tam Quan ăn phở, tôi ở đây núp rình mãi mới tìm được chỗ vọt ngang. Ức thật...

            Mỗi lần xuống vùng địch, tôi lại thấy mình thành con trâu trắng làm khổ mọi người, “trâu trắng đi đâu mất mùa tới đó”. Các đồng chí phải lo dẫn tôi đi đêm, xếp hầm bí mật, gác đầu ngõ cuối xóm, quá đỗi cồng kềnh. Trong khi đó Út Liềm cứ đạp xe vo vo đi khắp nơi; chị Tám và Mẫn lựa lúc vắng bọn ác ôn quen mặt là thay áo trắng ra dạo đường nhựa, tán gẫu với lính tha hồ.

            Tôi quay về gọi chị Tám và Ba Tâm. Chà là được một túm bằng trái dừa. Bao lưng của Tâm đầy cộm những xoài. Dạo này địch chặn soát và bắn súng vung vãi nên bà con dưới biển ít lên vùng đất vườn Tứ Nhơn, chứ trước kia, “mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên” cứ kìn kìn. Lần nào xuống biễn Mẫn cũng nhớ mang quà, mùa nào thức ấy.

            Bốn chúng tôi ngả ra liên hoan nhỏ trong lúc đợi tối, Mẫn nhắc:

            - Tiểu liên thôi nghen. Xuống dưới kia còn trung liên, đại liên, mấy bữa nay

 biển trúng cá lu bù.

            Pháo An Tân bắt đầu rền dài bắn lên dọc sông Rù Rì: đợt pháo quen lệ của địch lúc cánh đồng lớn đã sẫm đen dưới bụng tàu rà. Chúng tôi xâu dép vào thắt lưng, lên đạn, ung dung bước qua hai thanh ray gỉ, dẫm lên những mớ gỗ toác và sắt quằn của những đoàn tàu quân sự bị lật, xác mới đè xác cũ, nay đã đều không còn tuổi. Đến gần đường nhựa chúng tôi nghe ngóng lâu hơn. Rồi Mẫn vẫy tay. Mỗi người phóng mấy bước trên nhựa ấm, thoáng thấy vài mảng sỏi Xám vá đụp, hít một bụng hơi xăng, rồi chạy thẳng một lèo trên bãi trống

            Vượt non cây số chúng tôi mới dừng nghỉ chỗ cát trũng, vừa nghe tiếng máy rù rù. Xe địch đi đổi lính. Đèn pha đặt trên các xe boc sắt quét loang loáng qua đầu. Xe tải chạy cách nhau khá xa, không bật đèn, không dừng, cứ việc bò chậm trong khi quân mới nhẩy xuống và quân cũ leo lên. Tụi sư Hai ngụy làm cái trò đấy để số du kích bám đường không biết chúng thu quân hay rải quân, dọc tuyến chỗ nào kín chỗ nào hở, khá ranh đấy.

            Chúng tôi đi dọc xuống biển. Sau lưng chúng tôi, các ổ phục kích của địch đang đổi chỗ, đơm súng chặn đường về ở đâu không rõ.

*

    Biết không thể sốt ruột được mà tôi vẫn sốt ruột. Sự đời nó vẫn vậy.

            Đi chừng nửa giờ trên trảng cát phẳng và trần trụi,chúng tôi đến một xóm lẻ. Chị S.12 mở toang cửa, vặn to ngọn đèn Hoa Kỳ, đánh thức chồng dậy mà coi “Chị Hai Mẫn với cán bộ mình cả mờ”, cho con đi gọi hàng xóm nữa, y như giữa vùng giải phóng. Chị Tám đưa con mắt hỏi Mẫn, Mẫn giật khẽ, ra ý “ không ẩu đâu”. Chị S.12 kéo tôi đến bên đèn coi mặt, giảng một hơi:

            - Xóm đây năm nhà mà một bụng anh à. Dân cách mạng nòi hết. Tụi tôi ăn giỗ với nhau, thề rồi, ai lén đi báo cáo báo chồn với tụi hội đồng thì mấy nhà khác muốn tự tay chặt hay rước Giải phóng về ngứt cái đầu tùy lòng, chị Hai cầm quân đánh giặc trên làng Cá chớ đâu xa... Chẳng có thằng lính nào đang đêm dám léo hánh tới đây, mà tới thì tụi tôi biết trước cả buổi. Tụi nó nói ở xóm lẻ dễ chứa Việt cộng, mà cũng đúng vậy, nó đem xe em-mờ tới hốt vô ấp, cả xóm dàn ra đòi đổi mạng nó mới buông... Mỹ đổ bộ hả? có nghe gì đâu!

            Bà con trong xóm kéo đến chật nhà ăn xoài với chà là, uống trè nhỏ, tán lu bu chuyện. Tất nhiên, tôi phải xuýt xoa vì trót sinh sau đẻ muộn, không được quen ông Lê Tự Cường mà cả huyện đều biết, làm tới chức trung đoàn hay trung đội gì đó hồi đánh Tây, cùng sáu con em của xóm này vừa tập kết vừa đi Giải Phóng. Xóm nhỏ mà niềm tự hào thật lớn. Ai cũng nhắc cho tôi nhớ kỹ đây là đất mình, dân mình, tới đây muốn hát bội làm tuồng bao nhiêu thì cứ thả cửa, gửi lại vài ba chục anh em cả tháng bà con cũng giấu và nuôi được hết.

            Tôi ngó quanh, sững sờ.Tưởng chỉ miền núi mới có những “làng độc lập” chứ, những làng mấy trăm năm nay ẩn kín trên núi cao, dân đi đâu thì đi chứ chưa hề có người nào lọt được vào làng, đến thời chống Mỹ này mới mở cửa đón anh Giải phóng là một. Ra giữa biển cát này cũng có những hòn đảo tự do, trắng địch.

            Bà con xúm trách Mẫn lâu không xuống,và phân bua liền cho Mẫn, “nói vậy chứ tụi tao nghe nổ như rang bắp trên Tứ Nhơn, đi chợ thấy vợ lính ra vô mua hương đèn với hàng mã, biết bay làm ăn to lắm! Được mấy trăm khiêng cả thẩy?”.

            Chị Tám bắt gặp tôi liếc đồng hồ lần nữa, bật cười.Tôi chỉ muốn đuổi theo cái tin giật gân đợi mãi bấy nay....

            Bộ đội gặp nhau,vừa mở miệng đã hỏi độp:”đánh chác sao đó?”. Chị cơ sở gặp chị cán bộ thì trăm thứ chuyện tri kỷ vụn dây mơ rễ má cứ nối nhau tuôn ra bằng hết, từ trời cho con cá bè một gánh nhảy sang thằng cảnh sát mặt sẹo chực đốt nhà, vụ chồng con nhào kẹo với vụ hỏi thuyền bắt ghe, có trái mìn nổ thiệt tới ngon và có cái điều trước sau em cũng phải ừ một tiếng cho ảnh yên bụng lên núi mà sao em mắc cỡ quá chị à. Thêm một lần “xuống cơ sở” này nữa, tôi càng hiểu rõ dân mình đã ngấm đẫm chất cách mạng đến cái độ lựu đạn vùi lẫn trong thúng khoai, bà mẹ dặn con đuổi trâu ăn mạ và dỡ gai rào miệng hố chông cùng một giọng, việc đánh Mỹ nằm lộn lạo trong việc gái trai thương nhau.

            Những đêm hội ồn ã hay thầm lặng của bà con đón cán bộ thế này diễn đi diễn lại, đọng dần trong tôi hình ảnh rất khác biệt của bà con vùng tạm chiến. Hai mươi năm đánh giặc, chưa hết, chúng ta đang bước vào cuộc chiến tranh mới, dữ dội gấp bao nhiêu lần chưa rõ nhưng chắc chắn là sẽ kéo dài. Người dân vùng tạm chiến vẫn sống kiểu riêng, đánh kiểu riêng trong nhiều năm nữa. Nỗi khổ và sự nghiệp anh hùng của họ, vốn đã sâu đã cao như biển và núi kẹp hai bên sườn dải đất này sẽ còn cao sâu thêm mãi. Có không nhỉ, có dân tộc nào trên trái đất này giàu chiến sĩ địch hậu như ta, có dân tộc nào mà cả một mảng lớn đã vật lộn trong lòng giặc suốt một phần năm thế kỷ, không một ngày xả hơi, còn đủ sức đấu võ đấu lý đến một nửa thế kỷ nếu cần, để thắp lại cái tia chớp đỏ thoáng thấy năm xưa và giữ nó sáng mãi?

            Chi Tám phải gỡ Mẫn ra khỏi nhóm các bà các chị hết khóc lại cười. Ra đến trảng chị búng tai Mẫn:

            - Anh Thiêm đang nôn nao tìm Mỹ, mày cứ sa đà, anh dòm muốn đứt cái mặt đồng hồ kìa.

            -  Thiệt hả? Còn sớm chưa vô ấp được đâu anh. Với lại em thương quá...Nhà chị Mùi có tới hai hầm bem ở tốt lắm, hồi nào bám căn cứ mệt anh chị cứ về đó nghỉ, khỏi qua tuyến đường nhựa.

            - Địch dày bấy nhiêu chớ dày gấp mười, cậu Tư cũng bươn lên tới làng Cá cho coi!

            Câu ghẹo ỡm ờ của chị Tám khiến Mẫn nín thít và tôi chột dạ: có lúc nào tôi quá lộ liễu không nhỉ?

            Trăng muộn mới hửng một vầng sáng dưới những dải mây viền vàng mé biển chưa soi đến đây. Sân bay Chu Lai phải bắn đèn dù không ngớt. Một cặp cối to 106ly7 giã đều nhịp đôi. Chúng tôi đi ngoằn ngoèo trên cát dẽ và trắng nhờ nhờ, giữa những bụi con nổi bóng đen kịt như người ngồi xổm, rồi bước ra một quãng gò cát nhấp nhô, chân lún sâu hơn. Lâu lắm mới qua vùng gò cát, sao mà nhớ quá đỗi chặng bãi biển từ Qui Nhơn vào Gành Ráng. Mỗi bước leo lên trụt lùi mất một nửa, bù cho khi xuống bước chân duỗi dài thêm gấp rưỡi. Tôi đưa mắt tìm những búi cỏ chông chông để thả đua ngựa theo gió, bị xóc luôn một chùm gai xương rồng vào đầu ngón chân cái, nhổ vội lại gãy nằm lì, đành để vậy. Mắt tôi tốt nhưng Mẫn đi đêm tài hơn nhiều. Một lần nữa đôi bắp chân trắng của Mẫn lại làm lộ tiêu cho tôi tránh những tấm gai xương nằm lẫn trong cát như bàn chông.

            Người thứ hai được Út Liềm báo trước, ra ngoài ấp đón chúng tôi. Cô Tươi mới trạc mười chín, dẫn cả chồng theo, chẳng biết sợ ma hay ngại chồng ghen, có thể vì cả hai. Chúng tôi ngồi lọt giữa bốn tường thành đá ong của một ngôi mả to trên đỉnh gò. Cô bắt chồng đi gác với Ba Tâm, không cho nghe chuyện, nói ngường ngượng:

            - Ảnh mới trốn quân địch về, chánh trị chưa vững. Em hối(1) ảnh đi giải phóng vinh dự lắm, ảnh lảng lảng miết, sau thú thiệt “hễ mình đi tôi mới đi”. Bây giờ ảnh tránh trớ trong ấp. Thằng ấp trưởng ăn tiền lớp này tới lớp khác, đục đẽo miết mà còn doạ nghe tức ói, chưa biết hồi nào nó trói giải lên Quân vụ thị trấn... Chị cho tụi em lên cả hai nghen chị?

            Cô S.16 này nhạy hơn chị Mùi, nghe tin Mỹ vào, cô rủ bạn xuống cửa Xuân Quang hỏi dò. Tụi ngụy ghẹo chán mới mới kể rằng Mỹ vô sân bay đâu hai trăm, lót ổ nằm nín hơi, Việt cộng nói Mỹ công tử bột vậy mà đúng y, lính tráng gì mà mới bước ra nắng đã đỏ như cắc kè, khui bia hộp uống ọc ọc miết. Cô nghe chỉ được bấy nhiêu, không thấy thằng Mỹ nào cả. Tôi hơi thất vọng. Nhưng khi tôi dặn những điều cần nắm thêm về quân Mỹ, cô hỏi lại rất kỹ, lặp đến thuộc lòng. Cơ sở của Mẫn chưa thạo việc, được cái chịu khó. Tôi bấm đèn pin bọc nhựa xanh cho cô nhận mặt chị Tám và tôi, rồi soi xét cô Tươi: người còn xinh hơn tên, hèn gì cậu Xáng không chịu rời. Cho thoát cả hai thì mất người theo dõi Mỹ, thôi để cô khuyên chồng ít lâu nữa xem sao. Tươi ra gọi chồng vào, ngọt giọng như dỗ đứa em trai bướng;

            - Em thưa với các anh các chị rồi đó, hồi nào anh ưng thì em dẫn lên Nhơn Ái giao cho chị Hai. Em mắc việc nước, chớ vợ không theo chồng thì theo ai.

            Cậu Xáng rất to cao, xem chừng cõng một đế cối 81 trên lưng không ăn nhằm gì. Cậu lúng búng mấy câu phân trần, rồi theo vợ đi vào ấp, trông tức cười mà cũng tội tội.

            Chúng tôi nhắm hướng biển đi xuống. Mấy chiếc C47 liên tiếp xà qua đầu, mỗi chiếc đeo một chùm đèn màu hình chữ thập, thêm một đốm giữa bụng nháy đều. Điện kết chuỗi quanh đường băng bật sáng, tôi sửng sốt khi thấy những ngọn đỏ cuối sân chỉ cách chúng tôi chừng bốn trăm thước. Chà chà, cặp mắt bồ câu của cô Tươi đặt ở chỗ lợi thế quá mất, tha hồ coi Mỹ. Đèn pha trên máy bay thốc xuống một luồng sáng xanh, hạ thấp dần, nhảy nhảy trên dải bê tông, chạy tới mảng sáng của đài chỉ huy đàng xa. Rồi phựt một cái, tất cả tắt ngấm, những chiếc tầu ngầm lớn lặn tõm xuống biển, chỉ còn đạn cối chớp léo ình ình chung quanh chỗ nó vừa chìm. Quân ngụy vây vòng trong vòng ngoài mà chúng vẫn giấu hình ghê thật.

            Trăng trên biển mọc nhanh vòn vọt. Một quả bóng đỏ từ dưới nước ngoi lên, lừng lững nhấc mình khỏi đường chân trời mang vết khía răng cưa của những rặng dương cuối đất. Dạo ở núi, tôi rất thèm xem lại con trăng to và đỏ như thể bốc vội, đổ suối bạc to dần qua mặt sóng đến bên tôi. Trăng hiện trên rừng bao giờ cũng nhỏ, xanh đứng yên trên lá. Tôi thèm vòm trời mở ra mênh mông với cái nét cắt thẳng băng nơi gặp biển, thèm nằm ngửa cho các chùm sao xuống sát tầm tay với như một dàn nho chua, thèm dầm mình trong sóng tãi bọt và sứa trên bãi, thèm thở gió mặn chưa pha mùi đất. Cảnh trời nước của quê nội tôi đấy.

            Qui Nhơn thời Tây. Căn nhà ổ chuột thấp hơn mặt đường Khải Định, gần biển mà gió không chui vào nổi. Suốt mùa hè anh hai và tôi đêm đêm vác chiếu ra ngoài bãi cát, bên những gốc dừa gốc tra, chịu mùi phân người để nằm xa chỗ tắm của Tây đầm, tránh tụi bu-lít(2) đá vào mông đánh thức. Mỗi đêm vài lần anh em tôi ngồi dậy đội chiếu đợi qua cơn mưa dông, hay đâm đầu chạy thục mạng khi lính lê dương say đuổi hiếp cả đàn bà đàn ông.

            Qui Nhơn đẹp, mát, lắm cá. Người ta đến Qui Nhơn tắm biển, dưỡng bệnh ăn chơi, trai gái. Thành phố quê hương bấy giờ đè nặng lắm trên đôi vai còng còng của ba tôi, sửa máy cho hãng xe S.T.A.C.A., mỗi ngày làm mười hai tiếng mà mòn đời không sắm nổi chiếc xe đạp tã. Anh em tôi, hai đứa trẻ rơi vãi trên đất cảng, dắt nhau đi lánh các các phố sang lắm xe chẹt và dùi cui gõ-óc, chỉ dám hưởng phần mấy trái me rụng quãng gần nhà thờ, những bông phượng héo để chọi đá gà hoặc thổi phình vỗ bép vào trán, lúc đói thì đập những trái bàng khô lấy cái nhân beo béo mà nhấm. Vui mắt chỉ có ngồi trên bến xem cặp tàu bay Nhật chạy rì rì trên phao rõ lâu mới cất cánh nổi khỏi mặt sông Thi Nại, về sau bị mấy chục tầu bay Mỹ ném bom tan hết. Tôi chưa hiểu gì về Qui Nhơn sau cách mạng, đã theo cả nhà tản cư về quê mẹ. Hết những năm đánh Tây, tôi lại chịu đòn tù ngay tại nơi sinh: hai chặng đời tại Qui Nhơn, hai lần tôi bị hất ra. Đứa trẻ lên chín bỏ đi với cái đói và cái sợ thắt gút trong ruột. Còn chàng trai mười tám vằn máu hằn thù trong mắt.

            Lạ thay, tôi vẫn yêu Qui Nhơn. Tôi hay nhắc tới những phố xinh xắn, những máy nước đầu đường có tay quay trên đỉnh, những hè phố lát thứ gạch gì lắm rãnh sâu kẻ ô chống trượt, những con tàu lớn kéo còi ghé vào cái kè đá đưa xe lửa chạy ra biển, những bầy cá đối kết thành bè bơi đi thuyền, mặc dù tất cả những cái đó đều không phải là của tôi. Tôi cứ nhớ Qui Nhơn. Phải chăng vì cái xấu và sự lãng quên đều chung một mầu đen, nên khi quay nhìn lại bức tranh của quá khứ tôi chỉ còn thấy những mảng màu sáng nhất? Hay vì một thói quen thôi, như đứa trẻ ở mướn cực muốn chết mà vẫn thương con trâu ngang sừng của chủ và nhớ rặng dừa trước ngõ nhà chủ? Đúng hơn, có lẽ vì hình ảnh thật của phố cảng đã được tôi nhào nặn lại theo mẫu mới của mơ ước....

            Mẫn quay lại:

            - Gần tới ấp rồi, Tâm lên sát chị nghen, có gì tiếp tay chị ít trái lựu. Chị Tám với anh Thiêm đi sau chừng năm chục thước cho chắc.

            Tôi hơi khó chịu. Mẫn thuộc đường phải dẫn đầu, chứ tôi đâu phải non đến nỗi núp sau lưng Mẫn! Tôi chia Ba Tâm trụt lại sau kèm chị Tám, còn Mẫn với tôi đi trước cản địch. Mẫn ngần ngừ rồi gật:

            - Dạ, cũng được. Hễ chạy lạc Tâm dẫn chị Tám vòng xuống bến bà Huyến nghe em. Mà súng đằng trước nổ ít thì khoan chạy, đội Tam Hải có mấy cậu mới, chưa hỏi đã bắn, để ý coi chị rẹt cac-bin hãy rút.

            Chúng tôi vào một ấp chiến lược sát cửa sông để nhận chị S.22 và một số du kích bí mật do chị tự chọn, không chịu cho Mẫn biết hết tên. Ấp này có lính đóng, gác kỹ. Mẫn đi một quãng ngắn lại thụp xuống, cúi sát đất nhìn ngược lên, xem đường nét lởm chởm của các bụi cây đen đằng trước, tìm vệt thẳng của nòng súng hay hình tròn của đầu người, thêm chỗ eo của cái cổ nữa không thể lẫn. Tôi chỉ có việc bắt chước.

            Men rặng duối dại một quãng, Mẫn dừng lại ghé tai tôi:

            - Nó kìa!

            - Đâu?

            - Dọc đường đất...

            Một con đường đắp nổi bằng đất thịt màu sẫm với hai hàng dương, cách chúng tôi chừng sáu chục thước, chạy qua cát trắng vào ấp. Tôi nhìn lâu mới thấy một đốm lửa nhỏ xíu hửng đỏ, chìm, lại hửng. Sáng trăng này địch không cần soi pin xem giờ, nhưng khó nhịn được thuốc lá. Mẫn dừng đợi chị Tám và Tâm, thì thào:

            - Hồi nãy nó rình ở đây, mới kéo ra phục đường. Có mùi Bát-tô, xà-bông thơm, mồ hôi khét nghẹt.

            Tôi hít mấy hơi, không nhận ra gì cả. Xin thua cô xã đội, tai kém còn đổ lỗi cho sốt rét được, chứ cái mũi không tinh thì chỉ tại hút thuốc thôi.

            Vòng hướng khác, chúng tôi đi vòng qua những vạt mè, lá và trái quệt vào tay dính rin rít, đến gần cái vệt đen dài cắt ngang trảng cát. Nhiều chấm đèn dầu nhấp nháy. Dòm ngược lên đã thấy hàng rào lông nhím dựng như bàn chải trên nền mây sáng. Tiếng đóng đinh vào thuyền gỗ nghe trầm và dội xa. Chó sủa, có người nạt chó. Một đóm lửa to đi lừ lừ bên trong rào, những nét bóng của tre nguyên cây hiện thấp thoáng, chắc là dân canh đang gác chuyển đèn: các vọng gác đưa chuyền cho nhau một cây đèn gió, địch trên chòi cao ngó chừng. Nhiều tiếng cười ré giật gân. Tiếng loa vẳng từ xóm xa, gió tạt không nghe rõ, chắc lại gọi “đình công xây ấp tân sanh, ai bất tuân nằm nhà coi như phần tử Việt Cộng”, địch đã biến Việt Cộng thành những người an nhàn nhất trên đời.

            Tôi nhắm chừng phải đợi lâu đấy, mới chín giờ rưỡi, dân và lính địch còn thức cả. Mẫn moi cát sau lưng một tấm bia mả bằng xi-măng, lấy cái hộp nhỏ đựng mẩu giấy có mấy chữ nguệch ngoạc: Đêm 16, từ 10 tới 12giờ -  S.22.Tôi đón xem xong, buột miệng:

            - Hụt rồi. Nay mới mồng hai tháng năm thôi.

            - Tính lịch ta chớ anh!

            - À...Vậy đợi một tiếng nữa...

            - Đồng hồ anh lấy giờ Đông Dương hả? Vô được rồi. Thằng Ba gác ngoài, chị đưa anh chị...Nhăn gì? Em còn nhỏ ai chịu cho gặp đâu mà theo!

            Sao tôi ngớ ngẩn vậy ta? Đã biết xuống vùng sâu phải theo giờ Sài Gòn và theo tuần trăng để biết đêm sáng đêm tối, mà trước mặt Mẫn tôi lại quên, hệt một cậu chưa từng ra khỏi vùng giải phóng. Trót rồi, tôi sẽ gỡ bằng những động tác vượt hai sông ba núi rất thạo, để Mẫn và chị Tám biết tôi dày dạn chẳng kém ai. Trong loại công tác này, một đồng chí bị đánh giá là non gan hay vụng dại sẽ được mời ở lại làng Cá ngủ cho khỏe, đi theo chỉ gây vạ cho anh em và cơ sở...

            Lại hẫng nữa. Mẫn đưa chúng tôi đến chỗ hẹn, một cô du kích mặt bôi đen đón sẵn, dẫn chúng tôi đàng hoàng đi qua cổng ấp mở toang, mấy bác dân canh còn dặn Mẫn nhớ nhớ ghé lấy cá ngừ kho khô chớ để lâu nó thiu. Tôi mừng khấp khởi. Được một “lõm căn cứ” ngay bên cửa sông thế này, tha hồ ăn dầm nằm dề giữa rốn thằng Mỹ! Chị Tám chép miệng: “Mày giàu ngầm quá Mẫn ơi”.

            Chúng tôi dẫm vỏ chuối cả. Chị S.22 khăng khăng không chịu chuyển sang cho người khác nắm.

            Bộ mặt chữ điền sẫm màu bánh mật mỗi lúc một đanh trước ánh đèn cứ để to ngọn. Đôi mắt xếch nhìn tôi, nhìn chị Tám như muốn xách đặt trên bàn cân coi thử nặng bao lăm. Mẫn đã nói chị là du kích hồi đánh Tây, vào tù rất gan, nay thuộc loại “cơ sở đẻ mau” tức là tự mình xâu chuỗi thêm hàng loạt cơ sở mới. Chị nắm gần hết một xóm trong cái ấp chiến lược khá to này, chỉ cho Mẫn biết chị có một tiểu đội du kích bí mật, cho gặp bà S.26 là giao liên của chị, vậy thôi.Tuy Mẫn lấy giọng kính cẩn nhất để rỉ tai chị về “hai đồng chí cấp trên lãnh đạo vùng ta” chị S.22 vẫn chan chát:

            - Con Hai đây tôi biết, công an quận đánh hộc máu mà nó không khai một tiếng làm thuốc. Gặp người vậy thì tôi sống gởi nạc thác gởi xương, chẳng đợi ai thúc, cũng chẳng cần biết đúng hay sai nguyên tắc. Đội Tam Hải đòi quản, tôi sạc rồi đó, các anh nắm xã tôi mà thập thò tận đâu đâu, tôi không tin! Tù ba năm tám tháng, tra gãy xương sườn, vậy chớ còn ăn được hột cơm là tôi còn theo Cụ Hồ đánh Mỹ, còn nuôi hai đứa nhỏ đợi ảnh tập kết về. Bà con đây biết địch có chẻ óc tôi ra cũng không lấy được một cái tên, họ mới theo. Nói anh chị bỏ qua, chưa biết anh chị có chịu nổi các thứ tàu bay tàu lặn không, hay lại dắt ác ôn đi chỉ từng mặt, khai từng chén cơm họ mời?

            Đâu bảy tám năm trước, chị đào hầm nuôi một anh cán bộ tỉnh, “cá tươi sữa hộp cho ăn mập trắng mập mềm”. Sau này anh bị bắt, chịu đòn không nổi, dẫn lính về khui hầm nhà chị. Vào tù, chị để ý xem rất kỹ những ai gan lì, hỏi họ tên quê quán, dò xem về sau họ sống hay chết, bị giam hay được thả. Chị gặp Mẫn và nghe tiếng anh Tư Luân. Vừa ra khỏi nhà giam chị đã đi tìm đầu mối, gần trước xa sau, cuối cùng được Mẫn giao công tác.

            Mẫn dỗ dành mãi nói rằng chị Tám và tôi đều qua tù đày cả rồi, đáng bậc thầy của Mẫn, chị mới chịu buông lửng một câu:

            - Thôi được anh chị cứ lui tới nhà tôi ít lâu coi thử, có sao cũng một mình tôi lãnh đủ...

            Tôi nghĩ ngay đến một nét của bà con làng Cá hơi giống chị S.22. Trưa nay anh Tám Liệp thấy vắng càn mới về thăm làng một buổi, mặc ka-ki đeo túi dết, dắt theo cậu Quỳ lăng xăng. Anh dạo các xóm, ra đồng xem gặt, chào hỏi nhắc gặt mau giấu kỹ, chớ nên quên đào hào vót chông, vân vân. Bà con ngừng tay mời anh bát nước rồi ai lo việc nấy. Bốn năm ông lão tìm chỗ làm kho mật không ra, chạy đến hỏi tôi, tôi khuyên gặp anh Liệp, các ông lắc đầu: “Hỏi rồi làm trái chắc ảnh giận, làm theo thì...ảnh biết cái khỉ khô gì đâu, thôi hắt!”. Họ băng đồng đi tìm anh Luân, Mẫn, Năm Ri, ai cũng được, trừ anh chủ tịch xã đang ngồi nói tình hình thế giới ở nhà bên. Cay thật!.

            Ra khỏi ấp, Mẫn xấu hổ cứ phân trần mãi cho chị S.22:

            - Chỉ bị phản một lần bây giờ chờn miết. Để em nói chú Luân viết thơ, chỉ phục chú Luân nhứt. Số du kích của chỉ moi túi lấy lưu đạn, khi gài khi ném, hạ được cả chục đứa mà không lộ. Ở xóm này ngó thấy đường ô-tô, thấy sân bay, lợi lắm, anh chị đừng bỏ uổng.

            - Đời nào! “Trâu đô, rô mề, trê ổ”,ai chịu bỏ. Mà tụi tôi vận động mấy cũng nhẹ công hơn cô hồi đầu...

            Mẫn tròn mắt:

            - Không đâu anh. Chỉ gánh một gánh cá lên Tam Sa bán, nửa đêm ra chỗ đốt rào ấp tìm em nói gọn trơn: “Tao coi mày cách mạng thứ thiệt, cho mày bốn trăm đây, có công tác gì chia tao phụ với”. Ba năm rồi, em mới xuống đây có hai lần, chỉ với bà chị S.26 lên ta hoài, Năm Ri tưởng điệp đòi bắt miết!.

            Chúng tôi lại đâm ra giữa trảng rộng, nơi địch ít phục nhất vì chẳng biết phục chỗ nào. Đỡ cái nạn nhất bộ nhất bái, mắt tai bớt căng. Gió thổi thông thốc, tấm dù Mẫn quàng bay xòe dưới trăng, đùa với những nét thân thể Mẫn mà từ lâu tôi đã nhận là rất đẹp. Đi một lát Mẫn cởi tấm dù, xếp nhỏ lại giắt vào thắt lưng cười: “Để vậy thầy Thiêm rầy chết, mục tiêu bằng cái bồ mà lại vẫy cho địch nó thấy!”. Chà, nếu tôi dám bảo Mẫn đừng rời đôi cánh nhỉ. Thầy Thiêm nghỉ phép rồi, chỉ còn cậu thợ ảnh đi bên Mẫn thôi, con mắt to bằng ống kính f.2 là ít, rất ham tìm những trò chơi ánh sáng đột ngột của trăng soi nhiều góc độ...

            Cảnh trăng trên cát gợi nhớ những tấm ảnh tôi tập chụp bằng loại phim bắt tia cực đỏ, cây đen và đất trắng xoá trông hệt mùa đông miền cực Bắc. Hồi nào nhỉ, tôi đã biến cảnh nắng trưa thành trăng khuya bằng kính xám trung tính ND8... A, nhớ rồi. Đó là lần tôi chụp những cảnh ngoài trời đạt nhất, và sau đó suýt đập máy.

            Mộng Nga có hàng chục cô bạn cùng tuổi đều ham cười duyên trước ống kính và trên nóc tủ, đều tin rằng ảnh đẹp là do mình xinh, ảnh xấu tại thằng thợ tồi. Bao giờ tôi cũng chụp họ trong xưởng, bật từ năm đèn trở lên, sau đó còn sửa phim cho họ thành minh tinh màn bạc cả, giống hay không chẳng cần. Chỉ một lần nể lời Duy Hảo nằn nèo mãi, tôi mới cùng đi chơi bãi tắm Mỹ Khê và chụp cho hai anh em hai cuộn phim 6x9, một màu và một đen trắng, máy Rô-lay thay kính màu liên tiếp. Khi đi thì cực chẳng đã, khi cầm máy tôi bị quỷ ám ngay, có khi mất nửa giờ vè vè chung quanh Mộng Nga mới bấm được một kiểu ưng ý. Nga mặc áo dài hay áo tắm đều ăn ảnh, lại chịu khó vâng lời đạo diễn. Tôi tráng, sửa và phóng rất kỹ, chiếu hôm sau đem dến cho anh em Nga một xấp ảnh 13x18, riêng Nga có 6 ảnh màu có thể lên bìa tạp chí cả. Nga mừng rú, cả nhà xúm lại túm tắc, mẹ Nga không ưa tôi mà vẫn trầm trồ tiếc hồi trẻ chưa có tấm nào đẹp như thế, cô em Nga ghen với chị muốn khóc. Tôi chuồn lặng lẽ, chợt thấy chán ngấy chán lợm, ghét tôi và tởm cái nghề phó nháy. Là bởi khi tôi phóng xong bác thợ già chấm ảnh vô tình kể rằng bãi Mỹ Khê bây giờ chôn hàng trăm “ông bà bên kia”, thỉnh thoảng người ta đào được những xác còn dây trói ké, mang vết dao cắt cổ hay rạch bụng. Thì ra suốt một buổi tôi đã dẫm trên thây đồng chí đồng bào, mê mẩn tìm đường nét và màu sắc trên vai, ngực, đùi của một cô gái ăn không ngồi rồi, chao ôi nhục! Từ đó tôi cạch, không chịu đi chụp ngoài trời cho bất cứ ai, mặc kệ chủ giục và các cô quen chê gàn chê lười.

            Bây giờ khác rồi. Tôi muốn ngắm Mẫn đi ngược gió, tóc mai bay lất phất dưới mũ tai bèo, vai hơi nghiêng phía tay phải kẹp các-bin, thân thon dẻo rướn về phía trước, chợt thèm được ghi một hình ảnh đẹp hiếm có, chưa chắc sau này còn thấy lại. Tấm ảnh chụp Mẫn đêm nay, tôi có thể kẹp trong sổ tay, giữ mãi trong túi ngực, xem đi xem lại đến già mà không gợn chút ân hận nào. Và nếu ai đó bấm hộ cho hai chúng tôi đi bên nhau...

            - Gần tới xóm rồi. Đây có mấy gò cát cao, tụi hải thuyền hay lên ngủ nín, coi chừng nghen. Ta đi rải như hồi nãy. Hễ chạy lạc thì coi dấu trên cát, trở lại chỗ hộp thơ chị S.22, nhớ chưa Tâm?

       *

      Thế là rõ.

            Tụi lính cổ da Mỹ đã vào Chu Lai, sáng nay, rất kín tiếng. Mới có một đại đội thuộc sư Ba đến trước dò đường dọn chỗ, khoảng một tuần nữa chúng mới đổ bộ đông, đẩy sư Hai ngụy ra khỏi căn cứ, rào vòng ngoài cho chúng. Tên trung úy công binh ngụy đã hậm hực xì những cái đó cho bác S.24 nghe sau nửa chai rượu a-nít: “Cà cưỡng lót ổ cho tu hú đẻ, rồi còn lo bắt sâu về nuôi nữa. Tôi lột được lon là xé con heo lứa liền tay!”.

            Đài ta nói Mỹ lén lút vào Đà Nẵng, tôi nghe lạ tai, thằng đi hà hơi thường làm ồn ghê lắm để lay thằng hấp hối mới phải chứ. Chúng sợ dân Đà Nẵng nổi dậy chăng? Chu Lai là đất hoang, tha hồ chúng đánh trống cho tụi nguỵ khờ người xếp hàng gào cái câu mà báo nước ngoài đã ghi: “Chúng tôi đến đây nhằm bảo vệ tự do!” Hay muốn oai hơn nữa chúng càn phủ đầu vào vùng ta. Hạm đội Bảy dàn ngoài khơi bắn rùng rùng, máy bay từng đợt thả bom, tàu đít bằng đổ xe tăng vào bãi, trong khi máy bay bụng chửa đùn ra từng chùm lính dù và trực thăng trút quân xuống nhét xuống nhét nút sau lưng Vi-xi. Đại binh của chúng sẽ tiến theo kiểu bò của con vắt no máu: cái đầu ngoe nguẩy rướn lên xa, bấu xuống đất, cái bụng đầy mọng ì ạch lết theo sau, giữa một bầy ruồi nhặng vo ve.

            Tất cả những cái đó chưa xảy ra. Càng hay. Tôi biết một cô giao liên ưa dặn khách sẵn sàng đón những khó khăn trên đường: dốc cao, thác lũ, vô số bom, đi tối mịt mới tới nơi, nghe dựng tóc. Tiếp đó là một buổi đi êm ru, đúng trưa đã được treo võng, giặt phơi còn kịp khô, khách chỉ cười khà chứ chẳng ai kêu.

            Bác S.24 phơi bộ ngực dân chài nổi múi thịt đen như mun, vuốt chòm râu đen cố nuôi dài tránh bắt lính, tả khá sắc các kiểu súng, áo quần, xe pháo của tụi Mỹ, rồi cười mũi:

            - Cá thối nó vậy, giòi sanh trong ruột trước, đợi nở nhiều mới bò ra ngoài, hoá ruồi đi kiếm ăn. Mà thứ này chánh hiệu ruồi xanh, to con, bay ồn, đập trúng lại mau chết ông à.

            Chúng tôi hụt ông cụ S.18 bị bắt giam vì chửi thẳng đại diện ác ôn. Chỗ chị S.22 coi như mới bước vào được một chân. Còn phải đào và sửa hầm kỹ mới nằm lại dài ngày được, chúng tôi quay về làng Cá. Chị Mùi tức S.12 bày sẵn một “đại liên” chờ chúng tôi: những bát cá mè bằng bàn tay kho ngọt, món gỏi mít non luộc bóp đậu phụng mà tôi rất mê, tất cả xúc bằng bánh tráng nướng, chan thêm mấy chai bia Xan Mi-ghen in chữ trắng trên vỏ mập lùn. “Làm khách thì sạch ruột”, chị nói vậy. Tôi ăn đẫy, chị khoái đến nỗi cuối bữa đã chịu gọi tôi là thằng Tư, dặn tới nhà cứ lục cơm nguội là chị ưng nhất.

            Lên tới Lộc Chánh lúc một giờ sáng, chúng tôi ghé vào hộp thư của Năm Tuất lấy tin. Anh Năm dặn đợi tại đây hay vào ấp chơi tùy ý, địch dàn trên đường Một cả rồi, tìm ra kẽ hở anh sẽ tới đón.

            Chị Tám muốn gặp một cơ sở binh vận, rủ Ba Tâm theo gác ngõ cho chị, nhưng nói bâng quơ rằng vào ấp đông quá chó sủa ồn. Hai người đi rồi tôi mới thấy còn lại Mẫn với tôi. Hay nhỉ, bốn trừ hai còn hai chứ sao.

            Chỗ “hộp thơ” của anh Năm rất ư là nên thơ. Mẫn ngồi bên tôi giữa biển cát cồn lên lượn xuống như sóng lừng trải rộng hết tầm mắt, trăng loa loá trên những dóng cát hình lưỡi búa. Chỉ còn hai đứa thôi trên chiếc bè kết bằng cỏ gấu sẫm màu, giữa có cây dương cao vi vút như buồm.

            Gió mát, trăng trong, đêm thanh vắng...tôi biết tôi sắp nói với Mẫn cái câu “anh yêu em” mất rồi. Một cơn sợ bỗng chặn cứng ngang cổ. Ngốc, sao lại hoảng? Mọi ngày làm bộ ngổ ngáo, bán trời chẳng ngán thiên lôi đả, bây giờ lưỡi dính vào miệng. Mẫn đấy, cô gái đáng yêu nhất đấy, hùm beo gì mà khiếp? Tôi nuốt nước bọt, liếm môi, ho liền liền. Chưa...chưa được, nói lúc này chắc tôi cà lăm. Tỏ tình mà cà lăm là vất đi. Coi chừng hiện nguyên hình là con thỏ đế. Chỉ cần vài phút bình tĩnh.

            Tôi cố nghĩ xem lúc này anh con trai phải khai khẩu ra sao. Chẳng nghĩ được gì. Mụ người. Tôi thoáng nổi cáu với mình, cả với Mẫn. Đi lẻ nhiều, tôi đã ngồi thế này với mấy chục cô du kích khác nhau, lắm cô xinh ra xinh, tôi có ấp úng chút nào đâu, bây giờ đổ đốn ra vậy. Mất nửa giờ rồi. Tỉnh táo một chút, hẳn chúng tôi đã đến cái đoạn trăng thề quạt ước rất lâm ly -  tôi lén rút cái quạt mo tôi đang lót ngồi một cách phàm tục hạng nặng. Hoặc tôi đã ăn vài cái tát, đang xoa má nghe giảng đạo đức. Có thể chăng? Khó tin. Biết đâu đấy. Cứ nói thôi, được ăn cả ngã về không. Tôi vỗ bép vào trán một cái thay súng lệnh. Hai, ba nè!

            - Anh buồn ngủ, ngủ đi một chặp, em gác.

            Từ nãy Mẫn cứ quay mặt phía đường Một và ấp Lộc Chánh. Tưởng mắc cỡ té ra Mẫn ngó chừng địch, còn tôi ở đằng sau cứ nghĩ ba lăng nhăng. Mẫn xoay người lại, cười. Khuôn mặt trái xoan mà tôi đã thuộc nét một lần nữa đổi khác, nổi đẹp rạng rỡ dưới ánh trăng, nhoà đi từng lúc, lại rõ. Chói chang khó ngó, trao lời khó trao. Anh liều đây Mẫn ơi, anh sắp ngỏ với em cái câu mãi đến nay chưa hề ra khỏi miệng. Hễ không yêu, em cũng đừng ghét anh nhé.

            - Dốt thiệt chớ!

            Mẫn chép miệng, tôi bỗng hết sợ. Đúng là tôi dốt một cây. Cô bạn rất dễ thương chứ ai xa lạ, tự dưng tôi lại coi như cái lô-cốt chơm chởm họng súng, còn tôi hoá ra chú lính mới, vừa mò tới vừa lo chạm mìn hay bật ho. Nếu Duy Hảo biết, hẳn cậu đã dán cho tôi cái nhãn mới đờ-mi phu,đờ-mi tốc(3). Cậu ta bằng tuổi tôi mà thư tình viết chẳng phải quẹt chữ nào, chắc hẳn tán dẻo chẳng kém mạch nha, có đâu tệ hại như tôi.

            - Bọn em dốt ghê. Nãy giờ nghe anh bày cho cơ sở theo dõi Mỹ cái này cái nọ, em xấu hổ muốn chết. Mỹ đến bên hông mà em chưa hiểu tụi nó gì hết, mới biết nó hơn võ khí kém tinh thần, cấp xã mà cứ nói chiến lược như trung ương, đây rồi bà con lại kêu: “Mày nghỉ ngơi cho khỏe để tao mở đài nghe hay hơn!” Thầy Thiêm rán giúp nghe thầy?

            - Nhứt thầy nhì thợ công xá tính sao cho phải...

            - Khỏi lo, công anh cứu lụt là một, giành lại bàn đạp là hai, bây giờ kèm tụi em đánh Mỹ nữa thì coi bằng...bằng ông đô đốc Tây Sơn!

            - Ờ, thì hồi nào chết thì được về làng Cá, vô núi chúa?

            - Sống tết chết giỗ chớ. Mới đại liên cá với bia còn đòi gì nữa....

            Tôi bông phèng bằng cái giọng “con trai với nhau”, bụng hết rối lại tiếc cái không khí say người vừa tan. Mẫn đối với tôi chỉ bấy nhiêu thôi ư, lâu nay tôi ngỡ Mẫn đã có chút gì vương vấn rồi chứ. Con gà rừng đến ăn chung với bầy gà nhà trông hay hay nhưng nó sẽ bay vào rừng, biến mất, không kết đôi được đâu.

            - Mỗi người kêu một phách, em nghe thiệt búi. Ma-rin, mê-rin, thủy quân lục chiến, lính thủy đánh bộ, lính cổ da...

            - Là một thôi Mẫn à, cũng tụi nó cả.

            Rất nhanh tôi bị cuốn vào chuỗi câu hỏi dồn dập của Mẫn. Không nghĩ vớ vẩn nữa, chỉ căng óc mà nhớ những gì đã thấy đã đọc về quân Mỹ. Cô học trò càng nghe càng ham. Có lúc tôi bốc, nói to, Mẫn lại nhắc: “Nhỏ nhỏ chút anh, anh ngó qua vai em đi”. Ngồi nghỉ trên bãi, chúng tôi quen lệ chia nhau trông các hướng, hễ chụm lại bàn việc thì người này phải ngó chừng sau lưng người kia. Từ hộp thư này đến chỗ địch dăng hàng phục kích dọc đường nhựa, ước chừng một cây số thôi.

            -...Không lính thủy đánh bộ là quân chủng riêng không nằm trong lục quân. Tụi này chuyên đi đổ bộ ăn cướp các nước ngoài. Tin của Pháp nói số tới miền Nam mình đầu tiên đây toàn là lính nhà nghề hết, không có quân dịch, giết tụi này sướng tay lắm nghen...Anh em Đà Nẵng báo về là tụi nó mang Ga-ran M.2, thứ này bắn liên thanh được. Hình như sắp thay AR.15, là tiểu liên cực nhanh đó, có hai chân để riêng kẹp vô cổ bắn như trung liên, đạn nhỏ bằng mút đũa. Trung đoàn anh lấy được mấy cây AR.15 rồi, nó đưa cho tụi dù ngụy một số, đánh thử. Cối cá nhân là phóng lựu M.79 đó, như cây súng săn nòng to bằng ống tre. Em thấy rồi hả? Hào của mình phải khoét nhiều hàm ếch, trên che nắp đất, đỡ bị M.79 phá rầy...Mình đánh tụi này bà con Triều Tiên ưng bụng lắm. Hồi xưa sư một lính thủy đánh bộ húc vô Triều Tiên trước hết mà...

            Tôi không ngó qua vai Mẫn được nữa. Đôi mắt hơi ướt long lanh, nụ cười ngập ngừng, bàn tay nhỏ nằm gọn giữa hai tay tôi kê trên gối, tôi chỉ còn thấy bấy nhiêu. Từng lúc Mẫn quay đầu nhìn quanh một vòng, chẳng biết xem chừng địch hay ngại chị Tám đến đột ngột. Cái giọng chỉ giành riêng cho Mẫn, cho những lời đắm đuối nhất, tôi lại đem đi nói chuyện giặc Mỹ, than ôi!.

            -...Cái mật danh Cu-ba, anh đặt đó. Em biết không, làng Cá mình giống y nước Cu-ba, bây giờ nằm bên căn cứ Mỹ, cách một bãi cát rộng như eo biển, càng giống. An Tân, viết tắt là A.T..., như súng chống tăng, anh đề la Badôca cho khó đoán. Sắp tới tụi minh ít đi chung với nhau..., anh lên làng Cá luôn mà..., em cứ ghi sổ từng bài, vài ngày anh gặp em một lần, anh bày. Tiếng Mỹ nói hơi khó một chút mà mẹo luật dễ, em học được quá đi chớ...

            Mấy ngón tay búp măng bóp nhẹ tay tôi, lần đầu Mẫn nói rất khẽ như sợ phải nghe tiếng mình:

            - Anh đừng qua đường nhựa nhiều, dễ bị lắm. Để em xuống thôi.

            - Không sao...

            - Em lãnh hai ấp vùng cát, đổi anh Tuất làm kinh tế. Anh về Lộc Chánh gặp em, khỏi qua đường nhựa, hồi nào cần...em đi với anh..., như tối nay...em đỡ lo cho anh.

            Trong cơn chóng mặt tôi chỉ ấp úng được một tiếng “em”. Mẫn cúi đầu. Qua bàn tay mềm tôi thấy Mẫn rùng mình. Hình như Mẫn “dạ” trong hơi thở gấp. Và bỗng dưng không có gì báo trước. Mẫn ngấc đầu, chống cây các-bin đứng dậy rất vội. Trăng soi loá trên khuôn mặt bơ phờ. Mẫn lắp bắp:

            - Em...mắc chút việc...

            - Mẫn!.

            Tôi cũng đứng vọt lên, Mẫn bước né sang bên, nhìn tôi bằng cặp mắt van xin của con hươu bị dồn sát lưới, một tiếng gì như thổn thức bật qua mũi. Tôi nắm tay Mẫn, nhận ra Mẫn run như sắp ngã. Lặng đi mấy giây, rồi Mẫn giật tay cầm súng đi thẳng vào ấp.

            - Mẫn!

            Cái bóng thon nhỏ chìm nhanh trong sương. Tôi dựa gốc dương ngó theo, một lát sau không thấy sương nữa mà cũng không thấy Mẫn, chỉ còn trăng toả trên cát trắng, im lặng và rất lạnh. Tôi muốn giật mình mở mắt, thấy tôi đang ngủ trên võng mắc giữa hai cây cột tre trong nhà mẹ Sáu như thế dễ hiểu hơn nhiều.

            Nửa giờ qua, một tổ du kích dẫn bốn chúng tôi băng đường Một. Bà con làng Cá đã ra đồng, lưỡi vằng ăn lúa xoèn xoẹt và loé những tia thép dưới trăng. Chỗ đầu xóm, Năm Ri đang chia từng khúc hào cho các nhóm làm làng chiến đấu. Mẫn chào lúng búng, rẽ về nhà với chú em trai đang ngủ gật vấp lên vấp xuống. Chị Tám lại cười nụ cười lấp lửng:

            - Hai cô cậu nói chuyện vui lắm hè?

            - Toàn chuyện đế quốc sài lang, vui gì.

            Câu này đúng sự thật trăm phần trăm, còn hơn thế nữa.

      

            Chú thích:

            (1)   Giục

            (2)   Cảnh sát thời Pháp thuộc

            (3)   Nửa điên, nửa hấp

           

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: