Mai hoa dịch số
Lời Tựa
Bản khắc mới định thêm tướng tự Tâm Dịch Mai Hoa Số Tự
Đời nhà Tống có ông Thiệu Khang Tiết, ẩn cư tại chốn sơn lâm, mùa đông lạnh không sưởi ấm, mùa hạ nóng mực không dùng quạt giải nhiệt, chỉ để tâm đến Dịch quên hẳn sức giá rét, sức nóng bức, mà còn dán Dịch lên vách, chú tâm suy xét tìm tòi chỗ cùng cực và mắt đăm đăm nhìn vào Dịch xét sự huyền bí sâu xa của Dịch, lòng mong ước tạo nên dịch số nhưng chưa có bằng chứng đích xác.
Một ngày kia đương Ngọ ngủ trưa, thấy một con chuột chạy ngang qua, bèn lấy cái gối bằng sành kê trên đầu ném con chuột đương chạy, chuột chạy mất gối bị bể ra, thấy trong mảnh gối có đề chữ, bèn lượm lên xem thấy: "Cái gối này ban cho hiền nhân Khang Tiết, năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, giờ ấy thì dùng gối này ném chuột, gối bị bể".
Tiên sinh lấy làm lạ, bèn đi tìm nhà làm đồ gốm để dò xét. Chủ lò gốm bảo với tiên sinh rằng: "Xưa có một người, tay cầm quyển Chu Dịch, ngồi nghỉ cầm cái gối này biên chép, vậy chắc dạng chữ là của ông già đó vậy. Đến nay cũng chưa được bao lâu, vả chăng tôi có quen biết ông già đó, vậy tiên sinh vui lòng cùng tôi đi tìm xem". Nhưng ông già đó không còn nữa, chỉ để lại một quyển sách và dặn với gia nhân rằng: "Năm ấy, tháng ấy, giờ ấy, có một tú sinh đến nhà ta, nên giao quển sách này cho người thì sẽ biết được hậu sự của ta ra thế nào?" Người nhà lấy sách trao cho tiên sinh. Tiên sinh xem thấy lời văn của Dịch, gồm toàn pháp thuật kiện toàn tiên quyết, đáng được chọn làm lệ để tạo nên Dịch số. Tiên sinh bảo cùng gia nhân rằng: "Xưa thân sinh nhà ngươi có chôn dấu một số bạch kim, trong một cái lỗ, đào về phía Tây Bắc chỗ giường nằm của người, để lo toàn việc tang sự". Thế rồi, người nhà tin lời nói, quả tìm được số bạc đó.
Tiên sinh đem sách ấy về, sau tiên sinh đi ngắm bông mai, thấy hai con chim sẻ tranh nhau đậu cành mai bị sa xuống đất. Tiên sinh đoán biết chiều hôm sau, có cô gái hàng xóm bẻ trộm bông, sẽ bị thương ở bắp vế; thế rồi cũng vì lần đoán đầu tiên đó, mà ngày sau đời lấy thế mà đặt tên cho quyển Dịch số là "Quan Mai Dịch Số". Sau tiên sinh toán biết vườn Mẫu đơn bị ngựa dày xéo tan nát vào giờ Ngọ, lại toán biết bức hoành phi chùa Tây Lâm có điềm họa về âm nhân. Phàm những cách toán biết như trên, gọi là Tiên Thiên dịch số, vì rằng trước biết được số mà chưa biết được quái, dùng số mà toán ra quái gọi là Tiên Thiên.
Lại như thấy ông già có sắc mặt buồn, toán biết ông già sẽ chết vì họa ăn mắc phải xương cá. Lại thấy một thiếu niên có sắc mặt vui tươi, tiên sinh toán biết thiếu niên ấy, sẽ có việc vui làm lễ lệ sinh (hỏi vợ). Lại nghe con gà gáy, toán biết con gà sẽ bị làm thịt. Lại nghe con bò rống, toán biết con bò sẽ bị hại; phàm những cách toấn như thế đều gọi là Hậu Thiên chi số, vì chưa có số mà đã được quái trước, dùng quái mà diễn thành số, cho nên mới gọi là Hậu Thiên.
Một ngày nọ, tiên sinh đem một cái ghế dựa ra, rồi dùng số toán quái xong, lật ghế lên biên vào đáy ghế: "Năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, giờ ấy, có một tiên khách tới, ngồi cái ghế này rồi ghế bị gãy nát". Quả đến kỳ định, có một đạo giả tới thăm, ngồi lên ghế ấy, ghế bị gãy bể. Tiên khách lấy làm mắc cở xin lỗi tiên sinh. Tiên sinh thưa rằng: "Vật cũng có số hủy hoại, há làm bận lòng thần tiên lắm sao. Nay nhờ sự ngồi đó để truyền dạy cho hậu học". Rồi tiên sinh lật đáy ghế lên, cùng với đạo giả xem để làm chứng nghiệm. Đạo giả ngạc nhiên bèn đứng dậy, cáo từ ra đi rồi biến mất. Cho nên mới biết Dịch số là kỳ diệu. Như vậy mới biết quỷ thần cũng chẳng tránh khỏi, huống chi là người, huống hồ gì là vật vậy(*).
(*) Câu này có ý nói rằng: người và loài vật không sau tránh khỏi.
Chu Dịch Quái số:
Càn = 1; Đoài = 2; Ly = 3; Chấn = 4; Tốn = 5; Khảm = 6; Cấn = 7; Khôn = 8.
Ngũ Hành sinh, khắc:
- Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim
- Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim.
Bát Cung thuộc Ngũ Hành:
- Càn Đoài thuộc Kim,
- Khôn, Cấn thuộc Thổ,
- Chấn, Tốn thuộc Mộc,
- Khảm thuộc Thủy,
- Ly thuộc Hỏa.
Quái Khí Vượng:
- Chấn, Tốn ==> Mộc vượng ở mùa Xuân.
- Ly ==> Hỏa vượng ở mùa Hạ.
- Càn Đoài ==> Kim vượng ở mùa Thu.
- Khảm ==> Thủy vượng ở mùa Đông.
- Khôn, Cấn ==> Thổ vượng ở Thìn (tháng 3), Tuất (tháng 9), Sửu (tháng 12), Mùi (tháng 6).
Quái Khí suy:
- Mùa Xuân ==> Khôn, Cấn;
- Mùa Hạ ==> Càn Đoài,
- Mùa Thu ==> Chấn, Tốn;
- Mùa Đông ==> Ly.
- Thìn, Tuất, Sửu, Mùi ==> Khảm.
Thập Thiên Can:
- Giáp, Ất thuộc Mộc (phương Đông),
- Bính, Đinh thuộc Hỏa (phương Nam),
- Mậu, Kỷ thuộc Thổ (Trung ương),
- Canh, Tân thuộc Kim (phương Tây),
- Nhâm, Quý thuộc Thủy (phương Bắc).
Thập nhị Địa chi:
- Tý (Chuột) thuộc Thủy; Sửu (Trâu) thuộc Thổ.
- Dần (Cọp) thuộc Mộc; Mẹo (Thỏ hay Mèo) thuộc Mộc.
- Thìn (Rồng) thuộc Thổ; Tỵ (Rắn) thuộc Hỏa.
- Ngọ (Ngựa) thuộc Hỏa; Mùi (Dê) thuộc Thổ.
- Thân (Khỉ) thuộc Kim; Dậu (Gà) thuộc Kim.
- Tuất (Chó) thuộc Thổ; Hợi (Heo) thuộc Thủy.
Ngũ Hành tương sinh Địa chi:
- Mộc sinh ở Hợi; Hỏa sinh ở Dần; Kim sinh ở Tỵ; Hỏa, Thổ trường sinh ở Thân.
Thiên Can, Địa Chi thuộc Ngũ Hành:
- Giáp, Ất, Dần, Mẹo thuộc Mộc.
- Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ thuộc Hỏa.
- Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thuộc Thổ.
- Quý, Nhâm, Hợi Tý thuộc Thủy.
Ngũ Hành, Tứ thời Vượng, Tướng, Hưu, Tù:
Mùa--------Vượng----Tướng-----Hưu ---------Tù
Xuân-------Mộc------Hoả-------Thuỷ-------- Thổ
Hạ---------Hỏa------Thổ-------Mộc--- ------Kim
Thu--------Kim------Thủy------Thổ-------Mộ c
Đông-------Thủy-----Mộc-------Kim---------H ỏa
Tứ quý-----Thổ------Kim-------Hỏa---------Thủ y
4 tháng tứ quý (3,6,9,12)
Bát Quái Tượng Đồ:
Càn
Tam liên
---------------
_____
_____
_____
---------------
Ly
Trung hư
(Giữa ruột trống)
---------------
_____
__ __
_____
---------------
Khôn
Lục đoạn
(Sáu đoạn)
---------------
__ __
__ __
__ __
---------------
Khảm
Trung măn
(Giữa ruột đầy)
---------------
__ __
_____
__ __
---------------
Chấn
Ngưỡng bồn
(Chậu để ngửa)
---------------
__ __
__ __
_____
---------------
Đoài
Thượng Khuyết
(Trên thiếu)
---------------
__ __
_____
_____
---------------
Cấn
Phúc uyển
(Chép úp sấp)
---------------
_____
__ __
__ __
---------------
Tốn
Hạ đoạn
(Dưới đứt khúc)
---------------
_____
_____
__ __
---------------
Chiếm Pháp:
Dịch trung bí mật trùm trời đất,
Tạo hóa thiên cơ chửa vén màn.
Họa phước thần minh đều nắm trọn,
Đợi sau nên biết khó truyền ban.
Ngoạn Pháp:
Mỗi vật sinh ra có một thân,
Một thân lại có một Càn Khôn.
Biết hay muôn vật đều do Ngă,
Tam tài ắt hẳn chẳng đồng môn.
Trời nắm quyền chia phân Tạo hóa,
Người quyết tâm gây-dựng kinh-luân.
Thần Tiên còn lắm nỗi phân vân,
Đạo chẳng hư truyền tại thế nhân.
Luật Lệ Bố Quái - Bố quái (Toán quẻ)
Lấy số 8 mà trừ. Phàm bố quái bất kể số nhiều hay ít, chỉ lấy số 8 trừ bớt đi. Nếu trừ 1 lần 8 mà còn lớn, thì trừ nhiêu lần 8 tiếp theo cho tới khi nào số chỉ tồn (số còn lại) từ 8 trở xuống mà toán quẻ. Số 8 tức là quẻ Khôn, số 1 là quẻ Càn.
Hào
Lấy 6 mà trừ. Phàm khởi Động hào thì lấy tổng số của Thượng quái và Hạ quái và gia thêm số giờ mà trừ cho 6, trừ 1 hoặc nhiều lần 6, khi nào số còn lại từ 6 đến 1 mới được, rồi nên xem Động hào ấy là hào dương thì đổi ra âm. Nếu Động hào là âm thì đổi ra dương. (Tổng số của thượng quái và hạ quái đều phải gia số giờ trong ấy).
Hổ quái
Hổ quái thì chỉ dùng trong tám quái đơn, chẳng cần thiết đến 64 trùng quái. Hổ quái chỉ lấy thượng quái và hạ quái, hai đơn quái đó thay đổi lẫn nhau bằng cách bỏ hẳn sơ hào và đệ lục hào (tức là hào thứ nhất và hào thứ sáu), chỉ dùng bốn hào trung gian ở giữa thay đổi lẫn nhau, đoạn chia làm hai quái phụ gọi là Hổ quái.
- Hổ quái phần trên, lấy hai hào (hào 4 và hào 5) của thượng chánh quái và một hào (hào thứ 3) của hạ chánh quái, đem làm Hổ quái phần trên.
- Hổ quái phần dưới, lấy một hào của thượng chánh quái (hào thứ 4) và hai hào (hào thứ 2 và hào thứ 3) của hạ chánh quái, đem làm Hổ quái phần dưới. Thí dụ:
Chánh quái
Tên là Phong Lôi ích
Hào 6 _____ Hào này bỏ.
Hào 5 _____ Thượng quái
Hào 4 __ __ là Tốn.
Hào 3 __ __ Hạ quái
Hào 2 __ __ là Chấn.
Hào 1 _____ Hào này bỏ.
Hổ quái
Tên là Phong lôi quan
Hào 5 _____
Hào 4 __ __ Thượng quái
Hào 3 __ __ là Cấn.
Hào 4 __ __
Hào 3 __ __ Hạ quái
Hào 2 __ __ là Khôn.
Nếu trong trường hợp chánh quái trên Càn, dưới Khôn, thì không làm Hổ quái, trái lại dùng Biến quái mà lập Hổ quái. (Xem ở mục chiêm bệnh: trên Càn dưới Khôn)
Âm hào và Dương hào
Hào lại chia ra dương hào và âm hào. Dương hào có một gạch liền (_____). Âm hào là hào đứt đoạn ở giữa thành hai gạch ngắn ( __ __).
Biến quái
Sau khi dùng toàn tổng số, trừ cho 6 rồi, số còn lại bằng 6 và dưới 6 đó, tức là Động hào. Nếu còn 6 tức là hào 6 động (gọi là lục hào động), nếu còn 5 tức là hào 5 động (gọi là ngũ hào động), nếu còn 2 tức là hào 2 động (gọi là nhị hào động) v.v... Hào nào động thì biến (đổi) hào ấy.
Thí dụ 1:
Chánh quái
_____
_____
__ __
__ __
__ __
_____ * Sơ hào động.
Biến quái
_____
_____
__ __ Thượng quái
giữ nguyên.
__ __
__ __
__ __ Hạ quái,
sơ hào của chánh quái 1 gạch biến ra hai gạch, tức là: dương hào biến âm hào.
Thí dụ 2:
Chánh quái
_____
_____
__ __ * Hào 4 động.
__ __
__ __
_____
Biến quái
_____
_____
_____ Thượng quái, hào 4 động của
chánh quái 1 gạch biến ra 2 gạch,
tức là âm hào biến ra dương hào.
__ __
__ __
_____ Hạ quái giữ nguyên.
Trong toàn quái gồm có Chánh quái, Hổ quái và Biến quái. Theo cách đoán ta chỉ cần chú vào Chánh quái. Trong đó có Thể và Dụng, kế đến Hổ quái. Xét cả Thượng quái và Hạ quái mà suy sinh khắc; thứ đến Biến quái là Dụng quái ở Chánh quái biến ra, với Biến quái này, ta chỉ dùng độc quái đó mà suy thôi; nghĩa là quái nào biến ở Chánh quái ra, thì chỉ dựa vào quái biến đó mà suy. Tùy theo Dụng quái ở Chánh quái, nếu ở trên thì Biến quái cũng ở trên. Nếu Dụng quái của Chánh quái nằm dưới, thì Biến quái cũng ở dưới, còn ít khi xét đến quái nằm trên hay dưới của Biến quái đó. Vì chỉ có Biến quái, biến ở Dụng quái ra là chung kết sự việc của Dụng quái thôi. Tuy vậy nhiều khi cũng cần cả hai, để xưng danh trùng quái, mà suy nghiệm 64 quái từ và 384 hào từ. Cách bố quái có nhiều cách kể như sau:
1. Cách bố quái: Toán theo năm tháng, ngày, giờ suy ra số:
Thí dụ:
- Năm: như năm Tý số 1, năm Sửu số 2, năm Dần số 3,..... và năm Hợi số 12.
- Tháng: tháng Giêng số 1, tháng Hai số 2, tháng 3 số 3,... và tháng Chạp số 12.
- Ngày: ngày mồng một số 1, ngày mồng hai số 2, ngày mồng ba số 3,... ngày Rằm số 15, ngày ba mươi số 30.
- Giờ: giờ Tý số 1, giờ Sửu số 2, giờ Dần số 3,... và giờ Hợi số 12.
a.- Thượng quái: Lấy số năm, tháng và ngày làm Thượng quái.
Thí dụ: Năm Sửu, tháng 8, ngày 16. Thì năm Sửu số 2 cộng với số 8 (tháng 8) cộng với số 16 (số ngày); tổng số: 2+8+16 = 26 trừ cho 24 (3 lần 8 là 24), còn lại 2. Số 2 tức là quẻ Đoài. (Xem Bát Quái Tượng Đồ ở trên).
Đoài thì thượng khuyết,
đặt Đoài làm Thượng quái:
__ __
_____
_____
b.- Hạ quái: Lấy tổng số của Thượng quái trên là 26, cộng với giờ muốn toán.
Thí dụ: Lúc bố quẻ là giở Thân, tức số 9 + 26 = 35, trừ cho 32 (4x8 là 32) còn 3, tức là quẻ Ly (Xem lại Bát Quái Tượng đồ trên).
Ly thì trung hư,
đặt Ly làm Hạ quái:
_____
__ __
_____
Như thế ta được:
_ __
_____ Thượng quái là Đoài.
_____
_____
__ __ Hạ quái là Ly.
_____
Cả hai Thượng và Hạ gọi là Chánh quái có tên riêng là Trạch Hỏa Cách, gọi tắt là Cách quái trong 64 Trùng quái.
c.- Hào động: Tìm động hào thì lấy toàn tổng số trên là 35 trừ cho 30 (5x6 là 30) còn lại 5, tức là đệ ngũ hào động.
Thí dụ:
__ __
_____ * Hào động (đệ ngũ).
_____
_____
__ __
_____
Như vậy ta được quẻ Trạch Hỏa cách, đệ ngũ hào động, gọi tắt là Cách quái.
2. Cách bố quái: Toán theo cách đếm số vật:
Thí dụ: Bốc thăm bằng vật (hột trái cây hay sỏi đá nhỏ), ta đếm số thăm bốc được bao nhiêu, rồi trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, lấy số chỉ tồn làm Thượng quái. Kế cũng lấy số thăm bốc được lần trước cộng thêm số giờ (như đã nói ở đoạn trên), được bao nhiêu rồi cũng trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, rồi lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Sau hết lấy tổng số đem trừ cho một lần hoặc nhiều lần 6, số chỉ tồn làm Động hào.
Thí dụ: Bốc được 12 cái thăm vào giờ Thìn, 12 trừ 8 còn 4. Số 4 tức là Chấn làm Thượng quái.
12 + 5 (giờ Thìn) = 17 trừ (2 lần 8 là 16) còn 1. Số 1 tức là Càn làm Hạ quái.
Toàn tổng số là 17 trừ (2 lần 6 là 12), còn 5, tức là động hào 5.
Như vậy, ta được quái Lôi Thiên Đại Tráng, gọi tắt là Đại tráng, đệ ngũ hào
__ __
__ __ *
_____
_____
_____
_____
3.Cách bố quái: Toán theo tiếng nghe được:
Nghe tiếng nói, tiếng chim kêu, tiếng các loại thú kêu, tiếng động, tiếng đánh, tiếng gõ v.v... đều có thể toán quẻ được. Phàm nghe và đếm được bao nhiêu tiếng cũng làm như cách trên. Dùng tiếng nghe được cộng thêm số giờ lúc nghe là giờ thứ mấy trong 12 chi giờ. Nếu nhiều quá 8 thì cũng trừ cho 8, lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Dùng tiếng nghe được và số giờ, trừ cho một hay nhiều lần 6, rồi lấy số chỉ tồn từ 6 đến 1, làm Động hào.
Thí dụ: Nghe người nói vào lúc 8 giờ sáng: Tôi xin xem một quẻ (5 tiếng)
Lấy số 5 làm Thượng quái, tức là quẻ Tốn.Số 5 trên cộng với 4 là giờ Mẹo, tức giờ thứ tư trong 12 chi giờ (tức 8 giờ sáng), thì được số 9 trừ cho 8 còn 1, lấy số 1 làm Hạ quái, tức là quẻ Càn.
Kế lấy tổng số 9 - 6 = 3 làm Động hào.
Như vậy ta được quẻ Phong Thiên Tiểu Súc, gọi tắt là Tiểu Súc, đệ tam hào động như dưới đây:
_____
_____
__ __
_____ * Hào 3 động.
_____
_____
4.Cách bố quái: Toán theo lối chiết tự thư Hán:
Lối này có nhiều cách, tuy hiện nay ít người viết được chữ Hán, nhưng làmcho tròn bổn phận của Dịch giả, tôi xin dịch theo nguyên văn để chư vị đọc giả đồng giám. Phàm toán theo lối chữ viết, nếu số chữ mà bình quân (đều nhau) thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làn Hạ quái. Nếu số chữ không bình quân (không đều nhau), thì lấy kém một chữ làm Thượng quái gọi là Thiên khinh thanh và lấy số chữ nhiều hơn một chữ là Hạ quái, gọi là Địa trọng trọc.
a.- Toán một chữ: Một chữ gọi là Thái Cực Vị phân nghĩa là thủa trời đất chưa chia. Nếu viết tháu (tức là một thể viết chữ Hán ngoằn ngoèo rất khó đọc) mà không thể đếm được nét, thì không toán được, nếu viết một chữ rõ ràng từng bộ phận, thì lấy bộ phận bên trái là dương, bộ phận bên phải là âm; bộ phận bên trái đếm được bao nhiêu nét đem làm Thượng quái, bộ phận bên trái đếm được bao nhiêu nét, đem làm Hạ quái, kế lấy số nét cả hai bộ phận âm và dương của toàn chữ mà tìm động hào.
Thí dụ: Như chữ 位(chữ vị), chia ra bên trái (bộ nhân 人) có hai nét, bên phải 立 có 5 nét.
b.- Toán hai chữ: Hai chữ gọi là Lưỡng nghi, bình phân (chia đều) lấy số nét của chữ đầu làm Thượng quái và số nét chữ thứ hai làm Hạ quái.
c.- Toán ba chữ: Ba chữ gọi là Tam tài, lấy một chữ làm Thượng quái và hai chữ làm Hạ quái (đếm nét).
d.- Toán bốn chữ:
Bốn chữ gọi là Tứ tượng, bình phân (chia đều) làm 2 quái Thượng và Hạ. Còn trên bốn chữ, không cần đếm số nét mà chỉ dùng tiếng bằng, trắc từng thanh âm mà toán.
- Bình thanh thì kể 1.
- Thượng thanh thì kể 2.
- Khứ thanh thì kể 3.
- Nhập thanh thì kể 4.
(Theo tiếng Trung Hoa, có 4 chính thanh là Bình, Thượng, Khứ, Nhập cũng như nước ta có dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng vậy).
e.- Toán năm chữ: Năm chữ gọi là Ngũ hành, lấy hai chữ làm Thượng quái và ba chữ làm Hạ quái (Gọi là Thiên khinh thanh và Địa trọng trọc).
f.- Toán sáu chữ: Sáu chữ gọilà Lục hào, bình phân (chia đều) àm Thượng quái và Hạ quái.
g.- Toán bảy chữ: Bảy chữ gọi là Thất chánh, lấy ba chữ làm Thượng quái và bốn chữ làm Hạ quái.
h.- Toán tám chữ: Tám chữ gọi là Bát quái, bình phân làm Thượng quái và Hạ quái.
i.- Toán chín chữ: Chín chữ gọi là Cửu trù, lấy bốn chữ làm Thượng quái và năm chữ làm Hạ quái.
j.- Toán mười chữ: Mười chữ gọi là Thành quái, bình phân làm Thượng quái và Hạ quái.
k.- Toán mười một chữ: Từ 11 chữ trở lên đến 100 đều toán được quẻ cả. nhưng trên 11 chữ, lại không dùng những thanh âm bằng trắc nữa, mà lại kể số chữ, nếu số chữ quân bình thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làm Hạ quái, rồi tổng hợp số chữ của Thượng quái và Hạ quái để tìm Động hào.
5.Cách bố quái: Toán trượng xích (Toán vật đo được): Trượng là 10 thước, xích là một thước.Vật gì dài trên 10 thước, thì lấy số trượng làm Thượng quái và lấy số thước làm Hạ quái. Hợp số trượng và số thước lại gia thêm giờ mà tìm động hào (số tấc không kể).
6.Cách bố quái: Toán xích thốn:
Toán vật dưới một trượng, xích là thước, thốn là tấc. Lấy số thước làm thượng quái, số tấc làm Hạ quái. Hợp số thước, tấc, gia thêm số giờ, tìm Động hào (số phân không kể)
7.Cách bố quái: Toán nhân thể: Toán nhân thể thì quy luật không đồng nhất:
- Hoặc nghe tiếng nói mà toán.
- Hoặc xét nhân phẩm.
- Hoặc xem sự cử động của thân thể người ta.
- Hoặc xem người ấy có vật gì.
- Hoặc xem sắc phục.
- Hoặc cảm xúc với ngoại vật.
- Hoặc dùng năm tháng, ngày, giờ.
- Hoặc chữ viết ra với dụng ý gì.
a.- Nghe tiếng nói mà toán:
- Nếu nói một câu, làm như cách toán chữ nói ở trên, phân số mà toán.
- Nếu nói hai câu, thì dùng những tiếng ở câu nói đầu làm Thượng quái, những tiếng nói trong câu thứ hai làm Hạ quái.
- Nếu nói nhiều câu thì chỉ dùng những tiếng của câu đầu, hoặc dùng tiếng nói của câu chót, còn những câu nói ở giữa không dùng đến.
b.- Xét nhân phẩm: Nghĩa là xem người ấy là đàn ông thì lấy Càn, người ấy là thiếu nữ thì lấy Đoài v.v... mà toán quẻ.
c.- Xét sự cử động:
Nếu người ấy lay động cái đầu thì lấy Càn, lay động chân thì lấy Chấn, thấy cử động con mắt (như nhấp nháy chẳng hạn) thì lấy Ly mà toán.
d.- Xem người ấy có vật gì:
Nghĩa là ngẫu nhiên thấy người ấy cầm trong tay vật gì, nếu là đồ vàng ngọc hoặc vật đó hình tròn thì thuộc Càn; nếu cầm đồ bằng đất, sành, gạch, ngói, hoặc vật hình vuông thì thuộc Khôn. Xem từng loại mà toán.
e.- Xem sắc phục: Nghĩa là xem người ấy bận sắc phục màu gì, nếu bận áo màu xanh thì thuộc Chấn, bận áo màu đỏ thuộc Ly mà toán.
f.- Cảm xúc ngoại vật: Đương lúc toán quẻ, nếu thấy nước thuộc về Khảm, thấy lửa thuộc về Ly mà toán.
g.- Dùng năm, tháng, ngày, giờ: Làm như cách toán "Quan Mai" ở Tiên thiên mà toán.
h.- Xem chữ viết: Người tới xem cho chính mình dùng:
(1) Năm, tháng, ngày, giờ.
(2) Hoặc đương thời nghe được âm thanh gì.
(3) Hoặc cảm xúc với ngoại vật gì.Tất cả ba điều kể trên đều có thể toán quẻ. Cũng theo như cách toán nhân thể nói trên.
8.Cách bố quái: Toán động vật: Phàm thấy động vật từng đàn, từng bầy lộn xộn thì không thể toán quẻ được. Nếu thấy một con vật gì, thì tìm xem trong bảng "Bát quái thuộc vạn vật loại" ở trang 17, giả tượng con vật đó, thuộc về quẻ nào, thì lấy quẻ ấy làm thượng quái và con vật đó từ phương nào tới, lấy phương vị đó làm Hạ quái, hợp quái số con vật đó với số phương hướng cộng thêm số giờ để tìm Động hào. Lấy toàn tổng số của số quẻ ấy mà đoán con vật ấy cũng như cách toán con bò rống, con gà gáy ở quẻ Hậu thiên vậy (Xem ở sau). Muốn toán các loại như: bò, ngựa, chó, heo, phảidùng năm, tháng, ngày, giờ sinh của chúng mà toán, nếu những con vật đó ta mua thì dùng năm, tháng, ngày, giờ ta đặt mua mà toán.
9.Cách bố quái: Toán tịnh vật: Toán tịnh vật như: sông, ngòi, núi, đá không thể toán được. Toán về nhà cửa, cây cối các loại:
- Nhà: dùng năm, tháng, ngày, giờ xây xất hoặc năm, tháng, ngày, giờ mua lại.
- Cây: dùng năm, tháng, ngày, giờ trồng cây.
- Khí cụ, đồ dùng cũng vậy, lấy năm, tháng, ngày giờ tạo ra nó hoặc mua lại mà toán cũng như cách làm cái gối, chiếc ghế (nói ở đầu Lời Tựa) các loại. Kỳ dư không có duyên cớ thì không toán, ví như toán "Quan Mai" vì có cớ là hai con chim, dành cành mai mà đậu đến phải xuống đất.
Toán hoa "Mẫu đơn" vì có người hỏi mới toán như cây cổ thụ đương tươi tốt vì có cành khô gãy xuống đất, bởi các duyên cớ trên mà toán quẻ. Kỳ dư không có duyên cớ thì không hiệu nghiệm.
QUY LỆ TOÁN QUẺ CÙA HẬU THIÊN
Toán vật quái: Phép của Hậu Thiên dùng vật làm Thượng quái, phương vị
(phương hướng) là Hạ quái cộng thêm số giờ để tìm Động hào.
BÁT QUÁI THUỘC BẢNG VẠN VẬT LOẠI (Sau đây để đặt làm Thượng quái) 1.- Càn quái: Trời - Cha - Ông già - Quý quan - Đầu - Xương - Ngựa - Vàng - Châu báu - Ngọc - Cây quả - Vật tròn - Mũ - Kiếng soi - Vật cứng - Sắc đỏ hung - Nước - Rét lạnh. 2.- Khôn quái:
3.- Chấn quái: Sấm - Trưởng nam - Chân - Tóc - Rồng - Loài sâu bọ - Móng chân thú - Tre - Cỏ lau - Ngựa hí - Ngón chân cái - Cái trán -Trồng, cấy lúa - Đồ nhạc khí - Cỏ cây - Sắc xanh, biếc, lục - Cây lớn - Hạt cây lớn - Củi - Rắn.
4.- Tốn quái: Gió - Trưởng nữ - Tang ni - Bắp vế - Bách cầm - Bách thảo - Cái cối đá - Mùi thơm - Mùi hôi thúi - Con mắt - Cánh buồm (ghe) - Lông chim, lông thú - Cái quạt - Cành lá các loại - Tiên đạo - Thợ - Vật thẳng - Đồ công xảo - Gà.
5.- Khảm quái: Nước - Mưa tuyết - Heo - Trung nam - Ngòi rãnh nước - Cái cung, vành xe - Tai - Huyết - Mặt trăng - Kẻ trộm - Vung luật (đồ dùng về âm thanh) - Bụi gai - Cá - Nóc nhà - Vỏ Tật lê (hoa vàng, quả có gai dùng làm thuốc) - Con cáo chồn - Đồ cùm tay chân - Loại ở nước - Muối - Rượu - Thịt ướp - Đồ vật có hột - Sắc đen.
6.- Ly quái: Lửa - Chim trĩ - Mặt trời - Con mắt - Chớp điện - Cái ráng trời - Trung nữ - Ao giáp, mũ sắt - Binh khí - Văn thơ - Lò - Cây khô - Con đà - Con rùa - Con trai - Võ các loài vật - Sắc đỏ, hồng, tía - Hoa - Văn nhân - Vật khô dòn - Con cua.
7.- Cấn quái: Núi - Đất - Thiếu nam - Đồng tử (trẻ con từ 10 tuổi sắp lên) - Chó - Tay - Ngón chân - Đường đi tắt - Cửa cổng có hai tầng - Trái loài cỏ - Trái loài cây - Cổng chùa - Chuột - Cọp - Con chồn - Con cáo - Loài mỏ đen - Vật do gỗ làm ra - Dây cây dưa (dây quấn quít của cây dưa bò ra) - Sống mũi.
8.- Đoài quái: Cái hồ - Cái đầm - Thiếu nữ - Thầy đồng bóng (phù thủy) - Lưỡi - Vợ lẽ - Chổi - Con dê - Đồ vật sứt mẻ - Đồ vật có miệng - Loài thuộc kim - Vật phế khuyết - Nô bộc, Tỳ (người ở, đầy tớ).
Bát Quái Thuộc Phương Vị
(Phương hướng)
(Theo phuong hướng nếu trong Bát quái, của các vật từ đâu đến, đặt làm Hạ Quái)
1.- Ly là hướng Nam.
2.- Khảm là hướng Bắc.
3.- Chấn là hướng Đông.
4.- Đoài là hướng Tây.
5.- Tốn là hướng Đông Nam.
6.- Cấn là hướng Đông Bắc.
7.- Càn là hướng Tây Bắc.
8.- Khôn là hướng Tây Nam.
Toán Quan Mai
(Dùng năm, tháng, ngày, giờ mà toán)
Năm Thìn, tháng Chạp, ngày 17, giờ Thân. Khang Tiết tiên sinh, thình lình, dạo xem cảnh bông mai, chợt thấy hai con chim sẻ, giành nhau một cành mai mà đậu, bỗng nhiên sa (rơi) xuống đất. Tiên sinh bảo: không động không chiêm, không có cớ thì không toán, nay thấy hai con chim sẻ gianh nhau cành mà đậu, lại bị rớt xuống đất. Tiên sinh lấy làm quái dị, nhân đó tiên sinh lấy năm, tháng, ngày, giờ nói trên để toán quẻ.
Năm Thìn thuộc hàng thứ 5 trong 12 chi: . . . . 5
Tháng Chạp là tháng thứ 12: . . . . . . . . . . . 12
Ngày 17: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
Cộng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 34
Lấy số: 34 - 32 (4 lần 8 là 32) = 2
2 tức là Đoài dặt làm thượng quái;
Thêm giờ Thân (giờ thứ 9 trong 12 chi): . . . . 9
Cộng: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43
Lấy số 43 - 40 (5 lần 8 là 40) = 3
3 tức là Ly đặt làm hạ quái.
Lấy tổng số 43 - 42 (7 lần 6 là 42) = 1 tức là hào sơ động.
Bố quái như sau:
Chánh quái
Tên là Trạch Hỏa Cách
(gọi tắt là Cách-quái)
Thượng -quái 2 là:
Đoài Kim
Hào 6 __ __ Thể:
Hào 5 _____ Thiếu nữ
Hào 4 _____
Hạ quái 3 là:
Ly Hỏa
Hào 3 _____ * Dụng
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Hổ quái
Càn Kim
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Tốn Mộc
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Biến quái
Tên là Trạch Sơn-Hàm
(gọi tắt là Hàm-quái)
Đoài Kim
Hào 6 __ __
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Cấn Thổ
Hào 3 _____
Hào 2 __ __
Hào 1 __ __
Tiên sinh đoán: Xét rõ quẻ này chiều mai sẽ có một thiếu nữ tới bẻ trộm bông, người giữ vườn đuổi thiếu nữ đi, thiếu nữ thất kinh bỏ chạy bị té và bị thương ở bắp vế.
Giải nghĩa: Theo quẻ trên là Đoài là Thiếu nữ là Thể quái thuộc kim. Ly là Dung quái thuộc hoả khắc Thể (Dụng khắc Thể). Hổ quái lại thấy Tốn thuộc mộc. Ly hoả khắc thể kim, kim khí thịnh, Đoài là thiếu nữ, cho nên biết thiếu nữ bị thương. Xét Hổ quái thì thất Tốn mộc lại gặp Càn kim cũng khắc, Đoài cùng Càn kim đều khắc. Vậy thời Tốn mộc bị thương, mà Tốn thuộc bắp vế, cho nên thiêu nữ bị thương ở bắp vế. May thay! Xét đến Biến quái là Cấn thuộc thổ sinh Đoài kim là Thể cho nên biết thiếu nữ bị thương, không đến nổi nguy đến tính mạng.
TOÁN MẪU ĐƠN
Năm Tỵ, tháng 3, ngày 16, giờ Mẹo, Tiên sinh cùng bạn qua nhà Quan Tư Mã viếng vườn Mẫu Đơn, đương thời hoa nở rất thịnh.
- Khách hỏi: "Hoa nở nhiều như vậy có biết được bao nhiêu bông không?"
- Tiên sinh thưa rằng: "Chẳng biết được số hoa nở".
Rồi nhân sự hỏi Tiên sinh liền lấy năm, tháng, ngày, giờ nói trên để toán quẻ:
Năm Tỵ là chi thứ 6 trong hàng chi, tháng 3, ngày 16 tổng cộng được: 6 + 3 + 16 = 25 trừ 24 (3 lần 8 là 24) còn lại 1 tức quẻ Càn đặt làm thượng quái.
Kế lấy tổng số 25 gia thêm giờ Mẹo là giờ thứ 4 trong 12 chi nên được: 25 + 4 = 29 trừ 24 (3 lần 8 là 24) còn lại 5 tức quẻ Tốn đặt làm hạ quái. Nên được quẻ THIÊN PHONG CẤU.
Đoạn Tiên sinh lại lấy tổng số 29 - 24 (4 lần 6 là 24) = 5 tức là động hào 5 biến ra Đỉnh Quái.
Vì Hổ quái thấy có trùng Càn (2 quẻ Càn) Tiên sinh quay lại bảo với khách:
"Quái thay! Vườn hoa này đến ngày mai giờ Ngọ sẽ bị ngựa giày xéo nát hết cả".
Khách lấy làm ngạc nhiên nhưng không tin.
Đúng ngày, giờ nói trên quả nhiên có 2 quý khách cỡi ngựa đến xem vườn Mẫu đơn. Bỗng nhiên 2 con ngựa cắn nhau quần nhau, giẫm nát cả vườn hoa.
Cách Bố Quẻ
Năm Tỵ năm thư 6 trong hàng chi: . . . . . 6
tháng 3: . . . . . . . . . . . . . . . .3
ngày 16: . . . . . . . . . . . . . . . .16
Tổng số: . . . . . . . . . . . . . . . .25
Lấy tổng số 25 - (3 x 8 = 24) = 1 tức Càn làm thượng quái
Lấy tổng số: . . . . . . . . . . . . 25
Cộng thêm giờ Mẹo: . . . . . . . . . 4
. . . . . . . . . . . . . . . . . 29
Lấy tổng số 29 - (3 x 8=24) = 5 tức là Tốn làm hạ quái
Lấy tổng số 29 - (4 x 6=24) = 5 tức là động hào 5
CÁCH BỐ QUÁI
Chánh quái
Tên là Thiên Phong Cấu
(gọi tắt là Cấu-quái)
Thượng -quái:
Càn Kim
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Hạ quái:
Tốn Mộc
Hào 3 _____ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Hổ quái
Tên: Trùng Càn
Càn Kim
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Tên là Hỏa phong Đỉnh
(gọi tắt là Đỉnh-quái)
Ly Hỏa
Hào 6 _____
Hào 5 __ __
Hào 4 _____
Tốn Mộc
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Tiên sinh đoán rằng: Tốn là Thể quái thuộc Mộc, Càn là Dụng quái thuộc kim là khắc (Dụng khắc Thể).
Hổ quái lại thấy 2 quẻ Càn đều thuộc kim hết, cho nên khắc Thể quái.
Trong quẻ lại không có sinh khí, nên vườn hoa phải tận diệt hết, vì Càn là ngựa, giờ Ngọ là Ly, tức là quẻ Ly biến ở Dụng ra (như đã nói trước Biến quái chỉ dùng có độc quái của Dụng quái biến ra mà thôi, là kết cục của sự việc, tức là Dụng vậy).
Đoạn trong móc đơn có lẽ của dịch giả Nguyễn Văn Thuỳ chú thích, chớ không phải lời bàn của Thiệu Khang Tiết, sách có sao tôi chỉ gõ lại như vậy.
(Theo sự nhận xét của Dịch giả trong tất cả các quái làm thí dụ trong quyển Mai Hoa này, những quẻ nằm trên, hay nằm dưới Biến quái, như quẻ Tốn nằm dưới quẻ Ly, trong bài này ít khi đề cập tới). Lời của Dịch giả
VẬT TOÁN
(ĐOÁN VẬT)
(Ban đêm, người cùng xóm tới mượn đồ)
Đêm mùa Đông, lúc giờ Dậu, Tiên sinh còn đương sưởi lồng ấp (1) bỗng nghe tiếng gõ cửa.
Thoạt đầu nghe gõ 1 tiếng, lát sau lại nghe gõ tiếp 5 tiếng nữa và nói xin vào mượn đồ.
Tiên sinh nghe tiếng nói, bèn bảo con toán quẻ xem người kia muốn mượn vật gì?
Người con liền lấy 1 tiếng gõ đầu tiên làm Thượng quái là Càn và 5 tiếng gõ liên tiếp lần sau làm Hạ quái là Tốn, rồi cộng cả 2 quẻ lại được 6, gia thêm giờ Dậu là số 10 (giờ Dậu là giờ thứ 10 trong hàng chi), tất cả được 16 trừ cho (2 lần 6 là 12) còn lại 4, tức là hào 4 động, được tên quái là Thiên Phong Cấu.
Hào 4 động biến ra quẻ Tốn, hổ quái lại thấy trùng Càn.
Trong toàn quái có 3 quẻ: 3 quẻ Càn thuộc Kim và 2 quẻ Tốn thuộc Mộc; cho là mượn đồ có cả Kim lẫn Mộc, vì xét thấy Càn là Kim (thuộc về loại ngắn), mà Tốn là Mộc (thuộc về loại dài), nên ông con (người con) đoán là mượn cày, vì cho rằng Kim đoản, Mộc trường (loại Kim ngắn, loại Mộc dài tức là cái cày).
Tiên sinh bèn đổi lại: Chẳng mượn cày, tất nhiên mượn búa. Khi hỏi lại người mượn, quả nhiên anh ta mượn búa.
Người con hỏi lại Tiên sinh: Vì cớ gì cha bảo chắc là mượn búa? Tiên sinh bèn giảng cho con nghe rằng: "Phàm đoán quẻ, tất phải xét đến lý, theo quẻ đoán cái búa cũng phải, đoán cái cày cũng phải. Còn lấy cái lý mà suy đoán cái búa thì đúng hơn. Vì đêm hôm là giờ nghĩ, ai lại mượn cái cày làm gì? Tất phải mượn búa để chẻ củi thì có lý hơn. Cho nên suy số, tất phải xét đến lý, đó là thiết yếu nhất trong khoa chiêm bốc vậy. Cứ theo số mà suy lại không xét đến lý tất không có hiệu nghiệm nên chi học Số, phải ghi nhớ lấy đó làm đầu".
Cách Bố Quẻ
Chánh quái
Tên là Thiên Phong Cấu
(gọi tắt là Cấu-quái)
Thượng -quái:1 tiếng
Càn Kim
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Hạ quái:
Tốn Mộc
Hào 3 _____ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Hổ quái
Tên: Trùng Càn
Càn Kim
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Tên là Trùng Tốn
Tốn Mộc
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
Tốn Mộc
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Thượng quái cộng Hạ quái (1 + 5 = 6) cộng thêm giờ Dậu là 10 (giờ thứ 10 trong hàng chi) được số 16.
Rồi lấy số 16 trừ (2 x 6 = 12) còn 4 tức hào 4 động.
Xin nhắc lại: Ớ biến quai Tốn nằm trên, do Dụng quái có hào động biến ra; còn Tốn ở dưới không nói tới, nên trong bài luận trên đây, chỉ bảo có 3 Càn và 2 Tốn, tức là Tốn trên. (Lời Dịch giả)
(1) Là cái lồng đan bằng tre, trong để một cái bồn bằng đồ gốm dùng để chứa than nóng ấp cho ấm về mùa rét.
TOÁN ÂM THANH Dùng âm thanh mà toán "Kim nhật động tịnh như hà?" nghĩa là: Hôm nay động tịnh ra sao? Một ngày nọ, có khách đến viếng Tiên sinh, ông khách hỏi Tiên sinh: "Kim nhật động tịnh như hà?" Tiên sinh bèn đem sáu tiếng đó mà toán, 6 tiếng ấy bình phân chia làm hai: - Kim nhật động, lấy 3 tiếng trên làm Thượng quái; - Tịnh như hà tức là ba tiếng dưới làm Hạ quái. Ba tiếng trước: Kim nhật động: Kim tức bình thanh là 1, nhật tức là nhập thanh là 4, động tức là khứ thanh là 3, cộng cả lại được 8, đặt làm Thượng quái là quẻ Khôn. Ba tiếng sau: tịnh như hà: Tịnh tức là khứ thanh là 3, như tức là bình thanh là 4, hà tức là bình thanh là 1, cộng cả lại được 5, đặt làm Hạ quái là quẻ Tốn. Kế lấy 8 + 5 = 13 trừ (2 lần 6 là 12) còn lại 1, tức là Quái Địa Phong Thăng, động hào 1, biến ra quẻ Địa Thiên Thái. Hổ quái thấy Chấn, Đoài, bèn quay lại bảo với khách rằng: "Hôm nay có người đến mời, khách chẳng có nhiều, rượu uống không được say, vị thì chỉ có gà, xôi mà thôi". Quả nhiên tới chiều có người tới mời. Giải toán: Quẻ thăng có nghĩa là thăng giai lên cấp, chức. Hổ quái thấy Chấn Đoài có nghĩa là Đông Tây (chia chỗ ngồi Đông và Tây). Trong toàn quái có Đoài là miệng, Khôn là bụng, miệng và bụng, tức là biết có người tới mời ăn. Khách chẳng có nhiều, vì Khôn thuộc Thổ độc lập, không đồng loại với Khí quái. Rượu uống không được say vì trong quẻ không có Khảm (Thuỷ). Vị ăn chỉ có gà, xôi mà thôi, vì Khôn là Thử, Tắc (1) là nếp tức xôi, vả lại trong quái không có khí tương sinh, vì cớ ấy nên biết rượu chẳng nhiều, đồ ăn chẳng được phong phú cho lắm. Cách Bố Quẻ Chánh quái Tên là Địa Phong Thăng (gọi tắt là Thăng-quái) Thượng -quái: 8 Khôn
Hào 6 __ __ Thể
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Hạ quái:
5 Tốn Mộc
Hào 3 _____ * Dụng
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Hổ quái
Chấn Mộc
Hào 6 __ __ Đông
Hào 5 __ __
Hào 4 _____
Đoài Kim
Hào 3 __ __ Tây
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Tên là Địa Thiên Thái
(gọi tắt là Thái-quái)
Khôn Thổ
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Thượng quái cộng hạ quái: 8 + 5 = 13 trừ (2 x 6 = 12) = 1.
1 là hào 1 động.
(1)Chữ tàu (Hán): Thử là lúa nếp,; Tắc là loài kê.
Kế tiếp: Toán Bức Hoành Phi Ở Chùa Tây Lâm.
(Đếm nét chữ viết mà toán)
TOÁN BỨC HOÀNH PHI Ở CHÙA TÂY LÂM
(Đếm nét chữ viết mà toán)
Tiên sinh thoảng thấy bức hoành phi ở chùa Tây Lâm, có đề hai chữ Tây Lâm 西 林 vì chữ Lâm không có 2 nét đá, nhân đó Tiên sinh bèn toán quẻ.
Tiên sinh lấy chữ Tây 西, có 7 nét là quẻ Cấn, làm Thượng quái, và chữ Lâm 林, có 8 nét là Khôn, làm Hạ quái, cả hai số nét cộng lại được 15 nét, trừ (2 lần 6 là 12) còn lại 3, được quẻ Sơn Địa Bác, động hào 3 biến thành quẻ Cấn, Hổ thấy Trùng Khôn.
CÁCH BỐ QUẺ
Chánh quái
Tên là Sơn Địa Bác
(gọi tắt là Bác-quái)
chữ Tây 7 nét thuộc
Cấn Thổ
Hào 6 _____
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Chữ Lâm 8 nét thuộc
Khôn Thổ
Hào 3 __ __
Hào 2 __ __
Hào 1 __ __
Hổ quái
Khôn Thổ
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Khôn Thổ
Hào 3 __ __
Hào 2 __ __
Hào 1 __ __
Biến quái
Cấn Mộc
Hào 3 _____
Hào 2 __ __
Hào 1 __ __
7 nét + 8 nét = 15; 15 - (2 x 6 = 12) = 3 tức là hào 3 động.
Tiên sinh đoán rằng: Chùa tất phải toàn thể trụ trì là đàn ông; mà nay quẻ lại cho biết toàn âm, tức có đàn bà (Trùng Khôn thuộc âm), ắt là có triệu chia rẽ, lấn áp của đàn bà. Tiên sinh dò hỏi ra, quả nhiên có hoạ đó. Tiên sinh bèn bảo với Sư ông trụ trì trong chùa: "Sao chữ Lâm không thêm 2 nét đá, (đúng chữ Lâm thì cuối đường kéo thẳng xuống rồi đá qua bên trái - máy không thể viết chữ có nét đá này) nếu thêm hai nét đá nữa, thì ắt trong chùa không có đàn bà, tất nhiên trong chùa không xãy ra sự lộn xộn nào hết". Sư ông tin lời, bèn cho thêm vào chữ Lâm 2 nét đá nữa, quả nhiên trong chùa được vô sự.
Đoán rằng: Chùa ở phải toàn dương, mà quẻ lại cho biết biết toàn âm cho nên quẻ không tốt, vì có nghĩa là quần âm bác dương (đàn bà lấn áp, chia rẽ đàn ông). Nếu thêm vào chữ Lâm hai nét đá nữa, thành ra 10 nét:
10 - (1 x 8) = 2
2 tức là Đoài, hợp với qua ẻ Cấn ở Thượng quái, thì được Sơn Trạch Tổn đệ ngũ hào động, (7 + 8 - 12 (2 lần 6 là 12) = 5) Biến quái thì được Phong Trạch Trung Phu, Hổ thì thấy Khôn, Chấn. Tổn giả ích chi (Tổn là có lợi). Dụng quái, và quẻ Hổ của Dụng đều sinh Thể cả (Cấn và Khôn thuộc Thổ sinh Thể Kim), là quẻ tốt, ắt được yên ổn.
CÁCH BỐ QUẺ
Chánh quái
Tên là Sơn Trạch Tổn
(gọi tắt là Tổn-quái)
chữ Tây 7 nét thuộc
Cấn Thổ
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Chữ Lâm 10 nét thuộc
Đoài Kim
Hào 3 __ __ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Hổ quái
Khôn Thổ
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Chấn Mộc
Hào 3 __ __
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Biến quái
Tên là Phong Trạch Trung
(gọi tắt là Trung-phu)
Tốn Mộc
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
Đoài Kim
Hào 3 __ __
Hào 2 _____
Hào 1 _____
7 + 10 = 17; 17 - (2 x 6 = 12) = 5; 5 là hào 5 động.
Lưu ý: Từ toán Quan Mai cho tới toán Tây Lâm Tự đều thuộc về số Tiên Thiên, nghĩa là trước tiên dùng số, lấy số đó mà lập ra quái, cho nên gọi là Tiên Thiên Số.
CHÂN-PHƯƠNG CỦA PHÉP CHIÊM BỐC
ÔNG GIÀ CÓ SẮC MẶT LO ÂU
Ngày Kỷ Dậu, lúc giờ Mẹo, Tiên sinh đang đi, ngẩu nhiên gặp một ông già từ Tốn phương (Đông Nam) đi tới có vẽ mặt buồn bã. Tiên sinh liền hỏi ông già: "Cớ sao mà cụ buồn?" Ông già trả lời: "Tôi không buồn gì hết". Tiên sinh lấy làm lạ, liền bố quẻ xem.
Tiên sinh lấy Càn là ông già, đặt làm Thượng quái, Tốn phương làm Hạ quái thì được quẻ Thiên Phong Cấu. Lấy Càn là 1, Tốn là 5, gia thêm giờ Mẹo số 4 tổng cộng: 10 - 6 = 4 tức là hào 4 động, gọi là Thiên Phong Cấu chi cửu tứ.
Dịch
(Hào từ)
bảo rằng: "Bao vô ngư, hung"; cái bao không có cá, xấu ấy là Dịch từ chẳng tốt. Lấy quẻ mà bàn Tốn thuộc Mộc là Thể, Càn thuộc Kim là khắc, Hổ quái lại thấy Trùng Càn lại cũng khắc Thể, đều vô sinh khí. Vả lại đương thời là đương đi giữa đường, ắt sự việc sẽ tới rất mau, bèn lấy số thành của quẻ là 10, chia làm 2 phần, làm định kỳ. Rồi Tiên sinh bảo với ông già rằng: "Chỉ trong 5 ngày nữa, Cụ nên cẩn thận, ắt có hoạ lớn". Quả nhiên, trong 5 ngày sau đó, ông già đi dự tiệc, nhân đó, lúc ăn, bị hóc xương cá mà bỏ mạng.
Cách Bố Quẻ
Chánh quái
Tên là Thiên phong Cấu
(gọi tắt là Cấu-quái)
Ông già là Càn số 1
Càn Kim
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Tốn phương số 5
Tốn Mộc
Hào 3 _____ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Hổ quái
Trùng-Càn
Càn Kim
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 _____
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Tốn Mộc
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Giờ Mẹo là 4 (giờ thứ 4 trong hàng chi)
1 + 5 + 4 = 10; 10 - (1x 6) = 4 tức là hào 4 động
Định kỳ 10 : 2 = 5 ngày
Lời bàn: Phàm xem kỳ khắc ứng, tự xem cách động tịnh của mình để quyết đoansự mau chậm của sự việc. Vì lẽ ấy cho nên đương đi là sự việc ứng tất phải mau, vậy cho nên lấy số toàn quái, chia 2 để định lấy ứng kỳ. Nếu ngồi thì ứng chậm, nên gấp đôi thành số của quẻ mà định ứng kỳ là được rồi. Song le, không phải luôn luôn như vậy đâu. Ta cần phải biết cách biến thông sự việc cho tinh tường, ví như quẻ Toán Quan Mai và Toán Mẫu Đơn, nên biết rằng các thứ hoa là những vật sáng nở chiều tàn, thì làm sao có thể đoán theo thành số quẻ khá lâu như vậy được, đó là dùng Dịch lý.
CHÀNG THIẾU NIÊN CÓ SẮC MẶT VUI
Ngày Nhâm Thân, đương lúc giờ Ngọ, có chàng thiếu niên từ Ly phương đi tới, với sắc mặt vui vẻ.
Tiên sinh liền hỏi chàng thiếu niên: "Con có việc gì vui vậy?"
Chàng thiếu niên bèn trả lời: "Thưa! Tiên sinh con chẳng có sự gì vui cả!"
Tiên sinh liền bố quái xem:
Lấy Cấn là chàng thiếu niên làm Thượng quái, và Ly làm Hạ quái, thì được quẻ Sơn Hoả Bí.
Cấn là số 7, Ly là số 3, giờ Ngọ là số 7. Cộng tất cả là 17; 17 - 12 (2 lần 6) = 5; tức là hào 5 động. Quái gọi là Bí Chi Lục Ngũ.
Hào từ bảo rằng: "Bí ư khâu viên, thúc bạch tiển tiển cái" nghĩa là: Bó lụa, bông hoa văn sức ở chốn khâu viên, như vậy là Dịch từ đã tốt, mà lại được quẻ Bí biến thành quẻ Gia Nhân (Phong Hoả Gia Nhân), Hổ quái thấy Chấn Khảm: Ly là Thể, Hổ Biến đều sinh Thể hết.
Tiên sinh liền bảo chàng thiếu niên rằng: Trong vòng 17 ngày nữa con sẽ có việc vui Sính Tệ (đem lễ vật đi hỏi vợ). Tới kỳ, quả có thật làm lễ đính hôn cho chàng.
Cách Bố Quẻ
Chánh quái
Tên là Sơn Hỏa Bí
(gọi tắt là Bí-quái)
Thiếu niên là Cấn số 7
Cấn Thổ
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
phương Nam là Ly số 3
Ly Hỏa
Hào 3 _____ Thể
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Hổ quái
Chấn Mộc
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 _____
Càn Kim
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Tên: Phong Hỏa Gia Nhân
(gọi tắt là Gia-nhân)
Tốn Mộc
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
Ly Hỏa
Hào 3 _____
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Giờ Ngọ là số 7:
7 + 3 + 7 - (2 x 6) = 5 tức là Hào 5 động.
CON BÒ CÓ TIẾNG RỐNG BI THẢM
Ngày Quý Mẹo, giờ Ngọ, có một con bò rống (kêu) một cách bi ai, ở Khảm phương (chính phương Bắc) nhân đó Tiên sinh bố quẻ xem:
Con bò là Khôn làm Thượng quái.
Khảm phương làm Hạ quái.
Khôn là 8; Khảm là 6; cộng thêm giờ Ngọ số 7, tổng cộng được 21. Lấy 21 - (3 x 6 = 18) = 3, tức là hào 3 động, nên được quẻ Địa Thuỷ Sư. Tam Hào Động, lục tam.
Dịch từ (hào từ) bảo rằng: "Sư, hoặc dư thi, hung" (Hung) nghĩa là: "Xuất quân bại trận,, phải lấy xe chở thây ma về là xấu".
Quẻ Sư biến Thăng (Quẻ Sư biến ra quẻ Thăng).
Hổ thấy Khôn, Chấn, mà Khôn là Thể, Hổ Biến đều khắc hết, chẳng có sinh khí nào hết.
Đoán rằng: Con bò ấy trong vòng 21 ngày nữa sẽ bị giết, sau 20 ngày có người mua con bò ấy, về ăn khao, thật quái lạ thay.
Cách Bố Quẻ
Chánh quái
Tên là Địa Thủy Sư
(gọi tắt là Sư-quái)
Con bò thuộc Khôn số 8
Khôn Thổ
Hào 6 __ __ Thể
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Khảm phương số 3
Khảm Thủy
Hào 3 __ __ * Dụng
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
Hổ quái
Khôn Thổ
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Chấn Mộc
Hào 3 __ __
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Biến quái
Tên: Địa Phong Thăng
(gọi tắt là Thăng-quái)
Khôn Thổ
Hào 6 __ __
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Tốn Mộc
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 __ __
giờ Ngọ số 7
8 + 6 + 7 = 21; 21 - 18 = 3 tức là hào 3 động
CON GÀ GÁY BUỒN THẢM Ngày Giáp Thân, giờ Mẹo, ở Càn phương (phương Tây Bắc), có một con gà gáy cực kỳ bi ai, nhân đó Tiên sinh liền bố quẻ. Con gà thuộc Tốn làm Thượng quái, Càn phương làm Hạ quái, Được quẻ Phong Thiên Tiểu Súc. Lấy Tốn là 5, Càn là 1, gia thêm giờ Mẹo là số 4, cộng tất cả được 10. 10 - (1 x 6)= 4 tức là hào 4 động, biến thành quẻ Càn gọi là Tiểu Súc lục tứ. Dịch từ bảo rằng: "Hữu phu huyết khử, dịch xuất dĩ huyết". Nghĩa là: "Nứt huyết ra, kinh ra sợ láy máu". Suy đó có nghĩa con gà bị giết, quái lại là "Tiểu súc chi can" (con vật nhỏ khô kiệt). Hổ thấy Ly Đoài; Càn thuộc Kim làm Thể; Ly hoả khắc kỵ. Trong quái lại có cả Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hoả, có nghĩa là củi và lửa ấy là triệu chứng nấu nướng vậy. Đoán rằng: Con gà này nội trong 10 ngày nữa, sẽ bị làm thịt. Quả nhiên trong 10 ngày sau, nhà có khách, nên đem giết gà đãi khách. Rất nghiệm thay: CÁCH BỐ QUẺ Chánh quái Tên là Phong Thiên Tiểu Súc (gọi tắt là Tiểu Súc quái) Con gà là Tốn số 5 Tốn
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
phương Càn số 1
Càn Kim
Hào 3 _____ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Hổ quái
Ly Hỏa
Hào 6 _____
Hào 5 __ __
Hào 4 _____
Đoài Kim
Hào 3 __ __
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Biến quái
Càn Kim
Hào 6 _____
Hào 5 _____
Hào 4 _____
không dùng quái này
Hào 3 _____
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Giờ Mẹo số 4.
5 + 1 + 4 = 10
10 - (1 x 6) = 4 tức là hào 4 động.
KHÔ CHI TRUỴ ĐỊA
CÀNH CÂY KHÔ NGÃ XUỐNG ĐẤT
Ngày Mậu Tý, giờ Thìn, Tiên sinh đương đi giữa đường, găp. một cây lớn tươi tốt ở cạnh đường tự nhiên không có gió mà lại có cành cây khô gãy xuống đất, về phía hướng Đoài
(hướng Tây)
. Nhân đó Tiên sinh bố quẻ.
Bèn lấy cành cây khô là Ly làm Thượng quái.
Lấy Đoài phương (chính Tây) làm Hạ quái.
Nên được quẻ Hoả Trạch Khuê.
Đoài số 2, Ly số 3, gia thêm giờ Thìn số 5, cộng tất cả là 10. 10 - 6 (1 lần 6) = 4, tức là hào 4 động, biến Sơn Trạch Tổn, gọi là Khuê chi cửu tứ.
Dịch từ bảo rằng: "Khuê, cô, ngộ nguyên phu".
Nghĩa là: "Cha lìa và cô đơn lại gặp phải người to lớn".
Quái lại Trạch Khuê biến Tổn
(có lẽ là lỗi in ấn, chắc phải viết là: Quái là hoả Trạch Khuê biến Tổn)
Hổ thấy Khảm Ly. Đoài thuộc Kim là Thể, Ly Hoả thời khắc kỵ
(Kim)
, vả lại tên quẻ là Khuê Tổn có nghĩa là Thương tàn.
Đoán rằng: trong 10 ngày nữa cây này bị đốn. Quả nhiên trong 10 ngày sau, cây bị thợ mộc đốn để làm nhà cho các quan ở. Thật đúng như chữ nguyên phu 元 夫 vậy.
CÁCH BỐ QUẺ
Chánh quái
Tên là Hỏa Trạch Khuê
(gọi tắt là Khuê quái)
Cây khô là Ly số 3
Ly Hỏa
Hào 6 _____ * Dụng
Hào 5 __ __
Hào 4 _____
phương Đoài số 2
Đoài Kim
Hào 3 __ __ Thể
Hào 2 _____
Hào 1 _____
Hổ quái
Khảm Thuỷ
Hào 6 __ __
Hào 5 _____
Hào 4 __ __
Ly Hỏa
Hào 3 _____
Hào 2 __ __
Hào 1 _____
Biến quái
Cấn Mộc
Hào 6 _____
Hào 5 __ __
Hào 4 __ __
Giờ Thìn số 5.
3 + 2 + 5 = 10 - (1 x 6) = 4 tức là Hào 4 động.
Từ quẻ Ông già có sắc mặt lo âu, đến quẻ toán Cành cây khô trên đây, trước đều được quái, sau mới có số, cho nên gọi các cách toán ấy là số Hậu Thiên.
PHONG GIÁC ĐIỂU CHIÊM
(Thấy gió thì ta đã tự giác, thấy chim thì chiếm quẻ)
Danh ngôn nói Phong giác Điểu chiêm, thấy gió thì tâm tự giác, còn thấy chim thì bố quẻ xem. Chớ không phải cả hai đều toán quẻ hết, cho nên gọi là Phong giác điểu chiêm.
Phàm ngụ ý các vật mà ra quẻ, đều nghĩ sai lầm Phong giác Điểu chiêm, cũng như Dịch số, tất cả toàn thư đều gọi chung là Quan Mai Dịch Số, chứ không phải tất cả là Quan-Mai.
Phong giác là thấy gió thì tâm tự giác, phàm thấy gió nổi lên mà muốn xem hay dở thế nào, cần phải biết gió xuất phát từ phương nào(1), rồi xét đến thời tiết, xem đến sắc gió, suy thanh thế gió để biện cát hung. Thí dụ:
Như ta thấy, gió từ phương Nam thổi lại, đó là biết hướng gió, thế là ta có quẻ Gia Nhân rồi, vì phương Nam là Ly thuộc Hỏa, hợp với Tốn là gió, tức đã có sẵn quẻ Phong Hỏa Gia Nhân rồi:
_____
_____
__ __
_____
__ __
_____
Nếu gió từ phương Đông thổi tới, tức là đã có sẵn quẻ Phong Lôi Ích, vì Tốn thuộc Phong là gió, mà Lôi tức Chấn mà Chấn ở phương Đông.
_____
_____
__ __
__ __
__ __
_____
Bây giờ xem đến thời tiết:
- Nếu ta đang ở trong mùa Xuân, tức là trận gió êm dịu mát mẻ, gọi là Hòa sướng chi phong.
- Nếu ta ở về mùa Hạ, thể gió có khí nuôi dưỡng mình được, gọi là Trường Dưỡng chi phong.
- Nếu ta ở về mùa Thu, tức là thể gió tàn sát một cách rất nghiêm khắc, gọi là Túc Sát chi phong.
- Nếu ta ở về mùa Đông, tức là thể gió lạnh ngắt, nghiêm ngặt lắm, gọi là Lẫm Liệt chi phong.
Xem đến sắc gió: Nếu như trong trận gió có bụi, hơi, như khí của mây mù:
- Tự như sắc vàng: gió báo điềm tốt.
- Tự như sắc xanh: gió báo nửa tốt nửa xấu.
- Tự như sắc trắng: gió độc hại.
- Tự như sắc đen tối: ấy là điềm xấu.
- Tự như sắc đỏ: sẽ có tai ương.
- Tự như sắc hồng tía: lại là điềm tốt.
Xem về thanh thế của gió:
- Gió thổi như ngựa lâm trận: chỉ sự tranh đấu.
- Gió thổi như sóng vỗ: sẽ có hiềm kinh.
- Gió thổi như nghẹn ngào, khó thở: chỉ sự lo ưu.
- Gió thổi như tấu nhạc: có sự vui.
- Gió thổi như ngọn lửa nóng bức: tất có hỏa kinh.
- Còn như tiếng gió dịu dàng mà tới, từ từ mà đi, ấy là triệu cát khánh vậy.
Ghi chú:
(1) Phương gió thổi đang lúc đó, ta đã nhận thấy rồi, không cần toán tính gì cho nên gọi là giác (Lời của Dịch giả)
ĐIỂU CHIÊM
(Toán loài chim)
Điểu chiêm là thấy chim, ta có thể toán quẻ được.
Phàm một bầy chim phải đếm được bao nhiêu con, xem từ hướng nào bay tới, nghe tiếng kêu của chim, xét từ lông lá đều có thể bố quẻ được; lại xét thêm danh nghĩa, xét tiếng kêu để biết tốt hay xấu xin dẫn giải như sau:
- Đếm số chim như:
1 con thuộc Càn.
2 con thuộc Đoài.
3 con thuộc Ly...
- Xem từ hướng nào bay tới:
Từ hướng Nam tới là Ly.
Từ hướng Bắc tới là Khảm v.v...
- Nghe tiếng kêu:
1 tiếng thuộc Càn.
2 thuộc thuộc Đoài.
3 thuộc thuộc Ly.v.v... đều bố quẻ được hết.
- Xét đến âm thanh (tiếng kêu) như:
a.- Tiếng kêu ồn ào, réo rắt chỉ sự khẩu thiệt.
b.- Tiếng kêu như nghẹn ngào chỉ sự lo sầu.
c.- Tiếng kêu trong trẻo, ví von chỉ sự cát khánh... Đó là xét âm thanh mà tóan vậy.
- Xét danh nghĩa như:
Con quạ kêu báo tai ương.
Con chim khách kêu báo sự vui mừng.
Con chim loan, chịm hạc kêu báo sự điềm lành.
Còn như chim bằng, chim thư cưu(1) kêu, ấy là loài yêu nghiệt.
Ghi chú:
(1) Chim thư cưu (có lẽ là chim chài chài) cũng gọi là Ngác: mõ ngắn, chân có màng sống ở nước, ăn tôm cá, hay ở từng cặp, đực cái không rời nhau.
NGHE ÂM THANH MÀ TOÁN Nghe âm thanh mà toán: như ở trong nhà thanh tịnh, tịch mịch, mắt ta không thấy được ngoại cảnh, ắt tai ta nghe được các âm thanh, hoặc đếm được số tiếng; hoặc phân định được các thứ tiếng của các thú vật, thuộc về loài nào, đều bố quẻ được. Xét rõ được sự buồn vui, để giúp cho sự đoán cát hung, đếm rõ từng số mục, như nghe: 1 tiếng thuộc Càn. 2 tiếng thuộc Đoài. Nghiệm xem phương sở nào, Ly Nam, Khảm Bắc, các loại như: - Nghe tíếng người nói chuyện, tiếng các động vật kêu, tiếng từ miệng mà ra là thuộc Đoài. - Nghe tiếng trống, tiếng phách, tiếng đánh, tiếng đập, tiếng gõ, tiếng sanh, của các loại tịnh vật đều là tiếng Mộc thuộc Chấn. - Nghe tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng chiêng, tiếng thanh la, tiếng đạc, đều là tiếng Kim thuộc Càn. - Nghe tiếng lửa reo, tiếng nổ đều là Hỏa thanh thuộc Ly. - Nghe tiếng đất lở, núi băng, tường đổ, đất sụt đều là tiếng Thổ thuộc Khôn. Ấy là biện rõ tiếng các vật. Hiểu rõ sở thuộc, xét sự vui buồn để giúp cho sự đoán xét, như nghe người nói vui tươi, hay nói chuyện tốt, vui cười là có sự tốt. Trái lại, như nghe tiếng bi ai, than khóc, oán giận, la mắng, than thở, rền rỉ, hoặc nói chuyện buồn là điềm chẳng tốt. HÌNH VẬT CHIÊM Hình vật chiêm là thấy vật cũng bố quẻ được. Như thấy: - Vật tròn thuộc Càn. - Vật cứng thuộc Đoài. - Vật vuông thuộc Khôn. - Vật mềm thuộc Tốn. - Vật nằm ngữa thuộc Chấn. - Vật nằm sấp thuộc Cấn. - Vật dài thuộc Tốn. - Vật trong cứng ngoài mềm thuộc Khảm. - Vật ngoài cứng trong mềm thuộc Ly. - Vật héo, khô khan thuộc Ly. - Vật màu vẻ đẹp đẽ cũng thuộc Ly. - Thế trở ngại, vật hư hỏng thuộc Đoài. CHIÊM SẮC MẶT, VẺ MẶT Phàm xem: - Sắc xanh thuộc Chấn. - Sắc hồng, tía, đỏ thuộc Ly - Sắc vàng thuộc Khôn. - sắc trắng thuộc Đoài. - Sắc đen thuộc Khảm. BÁT QUÁI NỘI NGOẠI ĐỘNG TỊNH ĐỒ 1- Càn: Huyền, vàng - Sắc đỏ thắm - Kim ngọc - Châu báu - Kính soi - Sư tử - Vật tròn - Cây - Trái Quý vật - Mũ - Voi - Ngựa - Ngỗng trời - Vật cứng. 2- Khảm: Trái có nước - Vật có hột - Heo - Cá - Cái cung - Vòng bánh xe - Đồ đựng nước - Vật ở trong nước - Muối - Rượu - Sắc đen. 3- Cấn: Đá, đất - Sắc vàng - Cọp - Chó - Vật ở trong đất - Quả dưa - Bách cầm - Chuột - Vật mỏ đen. 4- Chấn: Tre (cây) - Sắc xanh, lục, biếc - Rồng - Rắn - Cỏ lau - Đồ nhạc khí bằng cây - Cỏ - Cỏ tươi tốt. 5- Tốn: Cây - Rắn - Vật dài - Sắc xanh, biếc, lục - Loại cầm điểu ở núi, cây - Mùi thơm - Gà - Vật thẳng - Đồ dùng làm bằng cây, tre, nứa - Đồ xảo công. 6- Ly: Lửa - Văn thơ - Cái mộc, cái mác (đồ binh khí) - Chim trĩ - Rùa - Cua - Cây khô héo - Áo giáp, mũ sắt - Ốc - Trai - Ba ba (con) - Vật sắc đỏ. 7- Khôn: Đất - Vạn vật - Ngũ cốc - Vật mềm - Tơ , bông - Bách cầm - Con trâu - Vải lụa - Xe - Vàng - Đồ sành, đồ gốm - Sắc vàng. 8- Đoài: Kim vàng - Đồ bằng vàng - Nhạc khí - Vật ở trong hồ, đầm - Sắc trắng - Con dê - Vật có miệng - Hư, hỏng, bể mẻ. BÁT QUÁI VẠN VẬT LOẠI CHIÊM CÀN QUÁI: 1 thuộc Kim, gồm có 8 quái là: Thuần Càn - Thiên Phong Cấu - Thiên Sơn Độn - Thiên Địa Bỉ - Phong Địa Quan - Sơn Địa Bác - Hỏa Địa Tấn - Hỏa Thiên Đại Hửu. Thiên Thời: Trời - Băng - Mưa đá - Tuyết. Địa lý: Phương Tây Bắc - Kinh đô - Đại quân - Hình thắng chi địa (chỗ đất có phong cảnh đẹp - Chỗ đất cao ráo. Nhân vật: Vua - Cha - Đại nhân - Lão nhân - Trưởng giả - Hoạn quan - Danh nhân - Người công môn (chức việc). Nhân sự: Cương kiện vũ dũng - Người quả quyết - Người động nhiều tịnh ít - Người chẳng chịu khuất phục ai (cứng đầu). Thân thể: Đầu - Xương - Phổi. Thời tự: Mùa thu - Cuối tháng 9 đầu tháng 10 - Năm, tháng, ngày, giờ Tuất và Hợi - Năm, tháng, ngày, giờ thuộc ngũ kim. Động vật: Con ngựa - Con ngỗng trời - Con sư tử - Con voi. Tịnh vật: Kim, ngọc - Châu báu - Vật tròn - Cây quả - Mũ - Kiếng soi - Vật cứng. Ốc xá: Đình, công sở - Lâu đài - Nhà cao - Cái nhà lớn - Quán trọ - Ở về hướng Tây Bắc. Gia trạch: - Mùa Thu chiêm thì gia trạch vượng. - Mùa Hạ chiêm thì sẽ có họa. - Mùa Đông chiêm thì suy bại. - Mùa Xuân chiêm có lợi tốt. Hôn nhân: Thân thuộc - Quý quan - Nhà có danh tiếng - Mùa Thu chiêm thì thành - Mùa Hạ, mùa Đông chiêm thì bất lợi. Ẩm thực: Thịt ngựa - Trân vị - Đồ ăn nhiều xương - Gan phổi - Thịt khô - Trái cây - Cái đầu của các vật - Vật hình tròn - Vật cay. Sinh sản: Dễ sinh - Mùa Thu sinh quý tử - Mùa Hạ chiêm thì hao tổn - Lâm sản nên hướng Tây Bắc. Cầu danh: Được danh - Nên tùy cấp trên bổ nhiệm - Hình quan - Võ chức - Chưởng quyền - Nhiệm thì nên hướng Tây Bắc - Thiên sứ - Dịch quan (người giữ chức dịch điếm hoặc công văn). Mưu vọng: Việc thành - Lợi công môn - Có tài trong sự hoạt động - Mùa Hạ chiêm không thành - Mùa Đông chiêm tuy nhiều mưu nhưng ít được vừa lòng. Giao dịch: Nêu hàng quý giá - Lợi về kim ngọc - Thành tựu - Mùa Hạ chiêm không lợi. Cầu lợi: Có tài - Lợi về kim ngọc - Có tài trong việc công môn - Mùa Thu chiêm có lợi nhiều - Mùa Hạ chiêm tổn tài - Mùa Đông chiêm không có tài. Xuất hành: Xuất hành có lợi - Nên vào chốn kinh đô - Lợi đi về hướng Tây Bắc - Mùa Hạ chiêm không lợi. Yết kiến: Lợi gặp đại nhân - Người có đức hạnh - Nên gặp quý quan - Khá gặp được. Tật bệnh: Đầu, mặt - Tật phổi - Tật gân cốt - Bịnh - Thượng tiêu - Mùa Hạ chiêm chẳng được yên. Quan tụng: Việc kiện cáo đứng về phía mình - Có quý nhân trợ giúp - Mùa Thu chiêm đắc thắng - Mùa Hạ chiêm thất lý. Phần mộ: Nên hướng Tây Bắc - Nên chỗ khí mạch chốn Càn sơn - Nên thiên huyệt - Nên chỗ cao - Mùa Thu chiêm xuất quý - Mùa Hạ chiêm xấu lấm. Phương đạo: Chốn Tây Bắc. Ngũ sắc: Sắc đỏ thắm - Sắc huyền. Tính tự (Họ, Tên): Có chữ Kim đứng một bên - Tiếng thương (ngũ âm) - Hàng vị: 1, 4, 9. Số mục: 1, 4, 9. Ngũ vị: Cay - Cay nhiều lắm KHÔN QUÁI: 8 thuộc Thổ, gồm có 8 quái là: Thuần Khôn - Địa Lôi Phục - Địa Trạch Lâm - Địa Thiên Thái - Lôi Thiên Đại Tráng - Trạch Thiên Quái - Thủy Thiên Nhu - Thủy Địa Tỷ. Thiên Thời: Mây âm u - Khí mù. Địa lý: Đồng nội - Làng mạc - Bình địa - Phương Tây Nam. Nhân vật: Bà lão - Mẫu hậu (mẹ vua) - Nông phu - Người đồng làng - Nhân chứng - Người bụng lớn (cái bụng to). Nhân sự: Hẹp hòi keo cú - Nhu thuận - Nhu nhược - Nhiều người. Thân thể: Bụng - Lá lách - Dạ dày - Thịt. Thời tự: Tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi - Năm, tháng, ngày giờ Mùi, Thân - Tháng, ngày 5, 8 10. Động vật: Con trâu - Bách thú - Con ngựa cái. Tịnh vật: Vật hình vuông - Vật mềm - Vải lụa - Tơ lụa - Ngũ cốc - Xe - Búa - Đồ sành, đồ gốm. Ốc xá: Hướng Tây Nam - Thôn dã - Ruộng cày - Nhà thấp bé - Nền đất - Kho tàng. Gia trạch: Yên ổn - Nhiều âm khí - Mùa Xuân chiêm không yên. Hôn nhân: Hôn nhân có lợi - Nên nhà người có thuế sản - Người cùng hương thôn - Hoặc người quả phụ - Mùa xuân chiêm bất lợi. Ẩm thực: Thịt bò, trâu - Vật ở trong đất - Vị ngọt - Món ăn ở nhà quê - Món ăn ngũ cốc - Khoai lang hoặc măng tre các loại - Vật thuộc bụng, ngũ tạng. Sinh sản: Dễ sanh - Mùa Xuân chiêm khó đẻ - Có tổn thất - Hoặc không lợi cho mẹ - Lâm sản nên hướng Tây Nam. Cầu danh: Đắc danh - Nên phương Tây Nam - Hoặc giáo quan, chức quan giữ điền thổ - Mùa xuân chiêm hư danh. Mưu vọng: Cầu mưu có lợi - Cầu mưu ở chỗ làng mạc - Im lặng mà cầu mưu - Mùa xuân chiêm ít được vừa lòng - Mưu nhờ đàn bà. Giao dịch: Giao dịch lợi - Nên giao dịch về điền thổ - Nên giao dịch về ngũ cốc - Hàng hóa tầm thường có lợi - Đồ nặng - Vải lụa - Im lặng hóa ra có tài - Mùa Xuân chiêm bất lợi. Cầu lợi: Có lợi - Lợi về đất đai - Hàng tầm thường, vật nặng có lợi - Im lặng hóa ra có lợi - Nùa xuân chiêm không tài - Số nhiều thì có lợi. Xuất hành: Nên đi - Nên đi phương Tây Nam - Nên đi chỗ làng mạc - Nên đi đường bộ - Mùa xuân chiêm không nên đi. Yết kiến: Gặp Thầy - Lợi gặp người làng - Nên gặp bạn thân - Hoặc đàn bà - Mùa xuân không nên gặp. Tật bệnh: Bệnh bụng - Bệnh tỳ vị - Ăn uống bế tắc - Ăn ngũ cốc không tiêu. Quan tụng: Lý thuận - Được cảm tình dân chúng - Tụng đảng giải tán. Phần mộ: Nên huyệt ở Tây Nam - Nên chỗ đất bằng phẳng - Gần đồng ruộng - Chôn chỗ thấp - Mùa xuân chôn không tốt. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng cung (ngũ âm) - Họ Tên có chữ Thổ đứng bên - Hàng 5, 8 10. Số mục: 5, 8, 10 Phương đạo: Tây Nam. Ngũ vị: Ngọt. Ngũ sắc: Vàng - Đen. CHẤN QUÁI: 4 thuộc Mộc, gồm có 8 quái là: Thuần Chấn - Lôi Địa Dự - Lôi Thủy Giải - Lôi Phong Hằng - Địa Phong Thăng - Thủy Phong Tĩnh - Trạch Phong Đại Quá - Trạch Lôi Tùy. Thiên Thời: Sấm. Địa lý: Phương Đông - Cây cối - Chỗ náo thị (chợ búa ồn ào) - Đường lớn - Chỗ cây tre, thảo mộc phồn thịnh. Nhân vật: Trưởng nam. Nhân sự: Dấy động - Giận - Kinh sợ hoang mang - Nóng nảy, xáo động - Động nhiều - Ít im lặng. Thân thể: Chân - Gan - Tóc - Thanh âm. Thời tự: Mùa Xuân, tháng 3 - Năm, tháng, ngày giờ Mẹo - Tháng, ngày 4, 3, 8. Động vật: Rồng - Rắn. Tịnh vật: Cây tre - Cỏ lau - Nhạc khí làm bằng cây hay tre - Vật hoa thảo tươi tốt. Ốc xá: Ở về hướng Đông - Xứ sơn lâm - Lầu gác Gia trạch: Trong nhà có sự kinh sợ hoang mang bất thần - Mùa Xuân chiêm thì tốt - Mùa Thu chiêm bất lợi. Hôn nhân: Khá thành - Nhà có thanh danh - Lợi kết hôn với trưởng nam - Mùa Thu chiêm không nên kết hôn. Ẩm thực: Móng chân thú - Thịt - Đố ăn thuộc chốn sơn lâm quê mùa - Thịt tươi - Trái vị chua - Rau. Sinh sản: Hư kinh (sợ khống) Thai động bất yên - Sanh con so ắt sinh nam - Mùa thu chiêm ắt có tổn - Lâm sản nên hướng Đông. Cầu danh: Đắc danh - Nhiệm sở nên hướng Đông - Chức truyền hiệu, phát lệnh - Quan chưởng hình ngục - Nhiệm sở về vụ trà, trúc, mộc, thuế khóa - Hoặc là làm chức Tư hòa náo thị. Mưu vọng: Khá được - Khá cầu - Trong mưu kế phải hoạt động mạnh - Mùa thu chiêm không vừa lòng. Giao dịch: Giao thành thì có lợi - Mùa Thu chiêm khó thành - Lợi về hàng hóa sơn lâm, cây, tre, trà. Cầu lợi: Có lợi về sơn lâm, tre, mộc - Nên cầu tài hướng Đông - Nên cầu tài chỗ đông đảo xao động - Có lợi về hàng hóa sơn lâm, cây, tre, trà. Xuất hành: Có lợi về hướng Đông - Có lợi người thuộc sơn lâm - Mùa Thu chiêm không nên đi - Chỉ sợ kinh hại khống. Yết kiến: Gặp thấy - Nên gặp người thuộc sơn lâm - Nên gặp người có thanh danh. Tật bệnh: Tật chân - Tật đau gan thường - Sợ hãi cuống quít chẳng yên. Quan tụng: Việc kiện cáo đứng về phía mạnh - Hư kinh (kinh sợ khống) - Sửa đổi để xét lại phản phúc. Phần mộ: Lợi về hướng Đông - Huyệt trong chốn sơn lâm - Mùa Thu chiêm không lời. Phương đạo: Đông. Ngũ sắc: Thanh - Lục - Biếc. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng giác (ngũ âm) - Họ hay tên có đeo chữ Mộc - Hàng vị 4, 8, 3. Số mục: 4, 8, 3. Ngũ vị: Chua. TỐN QUÁI: 5 thuộc Mộc, gồm có 8 quái là: Thuần Tốn - Phong Thiên Tiểu Súc - Phong Hỏa Gia Nhân - Phong Lôi Ích - Thiên Lôi Vô Vọng - Hỏa Lôi Thệ Hạp - Sơn Lôi Di - Sơn Phong Cổ. Thiên Thời: Gió. Địa lý: Phương Đông Nam - Chỗ thảo mộc tươi tốt - Vườn hoa quả, rau... Nhân vật: Trưởng nữ - Tu sĩ - Quả phụ - Sơn lâm tiên đạo. Nhân sự: Nhu hòa - Bất định - Vui vẻ khuyên người ta làm - Tiến, thối không quả quyết - Lợi ở chốn thị trường. Thân thể: Bắp vế - Cánh tay - Hơi - Phong tật. Thời tự: Cuối mùa Xuân đầu mùa Hạ - Năm, tháng, ngày, giờ 3, 5, 8 - Tháng 3 - Năm, tháng, ngày giờ Thìn, Tỵ - Tháng 4. Động vật: Gà - Bách cầm - Loài cầm, loài trùng ở rừng núi. Tịnh vật: Mộc hương - Giày - Vật thẳng - Vật dài - Đồ làm bằng cây tre - Đồ công xảo. Ốc xá: Ở về hướng Đông Nam - Chỗ thầy tu ở, chỗ đạo sĩ ở, nhà lầu, vườn hoa - Ở chốn sơn lâm. Gia trạch: Yên ổn, mua bán có lợi - Mùa Xuân chiêm cát - Mùa Thu chiêm bất yên. Hôn nhân: Thành tựu - Nên kết hôn trưởng nữ - Mùa Thu chiêm bất lợi. Ẩm thực: Thịt gà - Thức ăn ở chốn sơn lâm - Rau, quả - Vị chua. Sinh sản: Dễ sinh - Sinh con so ắt con gái - Mùa Thu chiêm tổn thai - Lâm sản nên hướng Đông Nam. Cầu danh: Đắc danh - Nên nhậm chức, có phong hiến (phong hóa và pháp độ) - Nên nhập phong hiến - Nên giữ chức thuộc về thuế khóa, trà, trúc, hoa quả - Nên nhiệm chức về hướng Đông Nam. Mưu vọng: Mưu vọng khá được - Có tài - Khá thành - Mùa Thu chiêm tuy nhiều mưu nhưng ít được tùy ý. Xuất hành: Nên đi - Có lợi về chi thu - Nên đi hướng Đông Nam - Mùa Thu chiêm không có lợi. Yết kiến: Gặp được - Gặp được người sơn lâm, có lợi - Gặp được người văn nhân, tu sĩ có lợi. Tật bệnh: Có tật bắp vế, cánh tay - Tật phong - Tật ruột - Trúng phong - Hàn tà - Khí tật. Quan tụng: Nên hòa - Sợ phạm phải phong hiến. Phần mộ: Nên hướng Đông Nam - Huyệt ở chốn sơn lâm - Mùa Thu chiêm bất lợi. Phương đạo: Đông Nam. Ngũ sắc: Xanh, lục, biếc, trong trắng. Tính tự (Họ, Tên): Giác âm (ngũ âm) - Họ hay tên có đeo bộ Thảo hay bộ Mộc một bên - Hàng vị 3, 5, 8. Số mục: 3, 5, 8. Ngũ vị: Vị chua. KHẢM QUÁI: 6 thuộc Thủy, gồm có 8 quái là: Thuần Khảm - Thủy Trạch Tiết - Thủy Lôi Truân - Thủy Hỏa Ký Tế - Trạch Hỏa Cách - Lôi Hỏa Phong - Địa Hỏa Minh Di - Địa Thủy Sư. Thiên Thời: Mưa - Mặt trăng - Tuyết - Sương mù. Địa lý: Phương Bắc - Sông hồ - Khe rạch - Suối, giếng - Chỗ đất ẩm thấp (chỗ mương, rãnh, chỗ có nước lầy lội). Nhân vật: Trưởng nam - Người giang hồ - Người ở ghe thuyền - Trộm cướp. Nhân sự: Hiểm ác, thấp kém - Bề ngoài tỏ ra mềm mỏng - Bề trong dục lợi - Trôi dạt chẳng thành - Theo gió bẻ măng (hùa theo). Thân thể: Tai - Huyết - Thận. Thời tự: Mùa Đông, tháng 11 - Năm, tháng, ngày, giờ Tý - Tháng, ngày 1, 6. Động vật: Heo - Cá - Vật ở trong nước. Tịnh vật: Trái có nước - Vật có hơi - Vật uốn nắn như cái cung, niềng xe - Đồ đựng rượu, đựng nước. Ốc xá: Ở về hướng Bắc - Ở gần nước - Nhà có gác gần nước - Nhà lầu ở gần sông - Hãng rượu, trà - Nhà ở chỗ ẩm thấp. Gia trạch: Chẳng yên, ám muội - Phòng kẻ trộm. Hôn nhân: Lợi gá hôn nhân với trung nam - Nên nhà rể ở phương Bắc - Chẳng lợi thành hôn - Chẳng nên gá hôn tháng Thìn, Tuất, Sửu Mùi. Ẩm thực: Thịt heo - Rượu - Vị lạnh - Hải vị - Canh vị chua - Thức ăn cách đêm - Cá - Đồ ăn có huyết - Đồ ăn ngâm ướp - Vật ăn có hột - Vật ăn ở trong nước - Đồ ăn có nhiều xương. Sinh sản: Nạn sản có hiểm - Thai con thứ thì tốt - Con trai thứ - Tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi - Có tổn hại - Lâm sản nên hướng Bắc. Cầu danh: Gian nan - Sợ có tai hãm - Nên nhận chức về Bắc phương - Chức coi việc cá, muối, sông, hồ - Rượu gồm có giấm. Mưu vọng: Chẳng nên mưu vọng - Chẳng được thành tựu - Mùa Thu, Đông chiêm khá được, nên mưu. Giao dịch: Thành giao chẳng có lợi - Đề phòng thất hãm - Nên giao dịch tại bến nước, ven nước - Nên buôn bán hàng cá, muối, rượi - Hoặc giao dịch với người ở ven nước. Cầu lợi: Thất lợi - Tài nên thuộc về bến nước - Sợ có thất hãm - Nên cá muối có lợi - Lợi về hàng rượu - Phòng âm thất (phòng mất mát một cách mờ ám, hay đàn bà trộm của) - Phòng kẻ trộm. Xuất hành: Không nên đi xa - Nên đi bằng thuyền - Nên đi về hướng Bắc - Phòng trộm - Phòng sự hiểm trở hãm hại. Yết kiến: Khó gặp - Nên gặp người ở chốn giang hồ - Hoặc gặp được người có tên hay họ có bộ Thủy đứng bên. Tật bệnh: Đau tai - Tâm tật - Cảm hàn - Thận bệnh - Dạ dày lạnh, thủy tả - Bệnh lạnh đau lâu khó chữa - Huyết bịnh. Quan tụng: Bất lợi - Có âm hiểm - Có sự thất kiện khốn đốn - Thất hãm. Phần mộ: Huyệt hướng Bắc tốt - Mộ ở gần ven nước - Chỗ chôn bất lợi. Phương đạo: Phương Bắc. Ngũ sắc: Đen. Tính tự (Họ, Tên): Vũ âm (ngũ âm) - Người có tên họ có bọ Thủy đứng bên - Hàng vị 1, 6. Số mục: 1, 6. Ngũ vị: Mặn - Chua. LY QUÁI: 3 thuộc Hỏa, gồm có 8 quái là: Thuần Ly - Hỏa Sơn Lữ - Hỏa Phong Đỉnh - Hỏa Thủy Vị Tế - Sơn Thủy Mông - Phong Thủy Hoán - Thiên Thủy Tụng - Thiên Hỏa Đồng Nhân. Thiên Thời: Mặt trời - Chớp - Cầu vồng - Cái mống - Cái ráng. Địa lý: Phương Nam - Chỗ đất cao ráo - Lò bếp - Lò xưởng đúc - Chỗ đất khô khan cằn cỗi - Chỗ đất hướng mặt về Nam. Nhân vật: Trung nữ - Văn nhân - Người có cái bụng to - Người có tật mắt - Kẻ sĩ trong hàng áo mũ. Nhân sự: Chỗ hoạch định văn thơ văn hóa - Thông minh tài giỏi - Gặp nhau mà không đạt được gì hết - Về việc thư từ giấy má. Thân thể: Con mắt - Tâm - Thượng tiêu. Thời tự: Mùa Hạ, tháng 5 - Năm, tháng, ngày, giờ Ngọ hay thuộc Hỏa - Ngày 2, 3, 7. Động vật: Chim trĩ - Rùa - Con ba ba - Cua - Ốc - Trai. Tịnh vật: Lửa - Thơ - Văn - Áo giáp mũ sắt - Binh khí - Áo khô - Vật khô khan - Vật sắc đỏ. Ốc xá: Nhà ở về hướng Nam - Nhà ở chỗ sáng sủa khoảng khoát - Cửa sổ sáng sủa - Nhà trống hoặc hư hao. Gia trạch: Yên ổn - Vui vẻ - Mùa Đông chiêm không được yên - quẻ khắc Thể, chủ hóa tài. Hôn nhân: Bất thành - Lợi gá hôn với trung nữ - Mùa Hạ chiêm khá thành - Mùa Đông chiêm bất lợi. Ẩm thực: Thịt chim trĩ - Đố ăn nấu - xắc hay rang - Đồ ăn thiêu, nướng - Vật ăn đồ khô, thịt khô các loại - Thịt nóng. Sinh sản: Dễ sinh - Sinh con gái thứ - Mùa Đông chiêm có tổn - Lâm sản nên hướng Nam. Cầu danh: Đắc danh - Nên giữ chức về hướng Nam - Nhậm chức văn quan - Nên giữ chức về việc xưởng trường, lò đúc. Mưu vọng: Mưu vọng khá thành - Nên có văn thơ trong sự mưu vọng. Giao dịch: Khá được - Nên giao dịch có văn thơ. Cầu lợi: Có tài - Nên cầu về hướng Nam - Có tài về văn thơ - Mùa Đông chiêm thì thất bại. Xuất hành: Nên đi - Nên hoạt động hướng Nam - Đi về việc văn thơ thì thành tựu - Mùa Đông chiêm không nên đi - Chẳng nên đi bằng thuyền đò. Yết kiến: Gặp được người ở hướng Nam - Mùa Đông chiêm không được thuận lợi - Mùa Thu thấy văn thơ khảo sát tài sĩ. Tật bệnh: Tật mắt - Tật tâm - Thượng tiêu - Binh nóng sốt - Mùa Hạ chiêm bị trúng nắng - Bịnh truyền nhiễm lưu hành một thời. Quan tụng: Để tán - Động văn thơ - Minh biện án từ. Phần mộ: Mộ ở hướng Nam - Chỗ trống trải không có cây cối gì - Mùa Hạ chiêm xuất văn nhân - Mùa Đông chiêm không lợi. Phương đạo: Hướng Nam. Ngũ sắc: Đỏ - Tía - Hồng. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng chủy (ngũ âm) - Người có tên hay họ có bộ Nhân đứng một bên - Hàng vị 3, 2, 7. Số mục: 3, 2, 7. Ngũ vị: Đắng. CẤN QUÁI: 7 thuộc Thổ, gồm có 8 quái là: Thuần Cấn - Sơn Hỏa Bí - Sơn Thiên Đại Súc - Sơn Trạch Tổn - Hỏa Trạch Khuê - Thiên Trạch Lý - Phong Trạch Trung Phu - Phong Sơn Tiệm. Thiên Thời: Mây - Mù - Khí núi bốc lên nghi ngút. Địa lý: Đường tắt trong núi - Gần sơn thành - Gò động - Phần mộ - Hướng Đông Bắc. Nhân vật: Thiếu nam - Kẻ nhàn rỗi - Người ở trong núi. Nhân sự: Trở ngại - Yên lặng - Tiến thối chẳng quyết - Phản bội - Còn ở đó - Chẳng thấy. Thân thể: Tay, ngón tay - Xương - Sống mũi - Lưng. Thời tự: Tháng thuộc Đông Xuân - Tháng Chạp - Năm, tháng, ngày giờ thuộc Thổ - Tháng ngày 7, 5, 10. Động vật: Con gấu - Con chuột - Bách cầm - Vật có mỏ đen. Tịnh vật: Đất đá - Dưa, quả - Vật sắc vàng - Vật ở trong đất. Ốc xá: Nhà ở hướng Đông Bắc - Ở gần núi dá - Nhà ở gần đường. Gia trạch: Yên ổn - Mọi việc trở ngại - Người nhà chẳng hòa thuận - Mùa Xuân chiêm bất yên. Hôn nhân: Cách trở khó thành - Hoặc chậm trễ - Lợi gá hôn với thiếu nam - Mùa Xuân chiêm bất lợi - Nên gá hôn với người đối hương thôn (khác xã). Ẩm thực: Vị vật ở trong đất - Thịt loài thú - Măng tre ở gần bờ ruộng hoặc mồ mả - Vị ăn ở đồng ruộng. Sinh sản: Khó sanh - Có ách nạn hiễm trở - Lâm sản nên hướng Đông Bắc - Mùa Xuân chiêm bị tổn hại. Cầu danh: Cách trở không thành danh - Nên nhậm chức về hướng Đông Bắc - Nên giữ chức ở chốn sơn thành. Mưu vọng: Trở ngại khó thành - Tiến thối chẳng quyết. Giao dịch: Khó thành - Giao dịch về sơn lâm điền thổ - Mùa Xuân chiêm bị tổn thất. Cầu lợi: Cầu tài trắc trở - Nên hướng tài về chốn sơn lâm - Mùa Xuân chiêm bất lợi - Có tổn thất. Xuất hành: Không nên đi xa - Có trở ngại - Nên đi gần bằng đường bộ. Yết kiến: Chẳng gặp - Có trở ngại - Nên gặp người ở chốn sơn lâm. Tật bệnh: Tật tay - Ngón tay - Tỳ vị. Quan tụng: Quý nhân trở trệ (trắc trở) - Thưa kiện chưa giải quyết - Dính líu chẳng quyết. Phần mộ: Huyệt hướng Dông Bắc - Mùa Xuân chiêm bất lợi - Gần ven lộ có đá. Phương đạo: Phương Đông Bắc. Ngũ sắc: Sắc vàng. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng cung (ngũ âm) - Người có tên họ đeo chữ Thổ ở một bên - Hàng vị 5, 7, 10. Số mục: 5, 7, 10. Ngũ vị: Vị ngọt ĐOÀI QUÁI: 2 thuộc Kim, gồm có 8 quái là: Thuần Đoài - Trạch Thủy Khổn - Trạch Địa Tụy - Trạch Sơn Hàm - Thủy Sơn Kiển - Địa Sơn Khiêm - Lôi Sơn Tiểu Quá - Lôi Trạch Quy Muội. Thiên Thời: Mưa dầm - Trăng mới - Sao. Địa lý: Đầm ao - Chỗ ngập nước - Ao khuyết (dở hư) - Giếng bỏ hoang - Chỗ núi lỡ, gò sụt - Chỗ đất nước mặn không có cây cối. Nhân vật: Thiếu nữ - Vợ hầu - Con hát - Người tay sai - Dịch nhân (người diễn dịch) - Thầy đồng bóng (phù thủy). Nhân sự: Vui mừng - Khẩu thiệt - Dèm pha - Phỉ báng - Ăn uống. Thân thể: Lưỡi - Miệng - Phổi - Đờm - Nước dãi. Thời tự: Mùa Thu, tháng 8 - Năm, tháng, ngày, giờ Dậu - Năm, tháng, ngày, giờ thuộc Kim - Tháng, ngày số 2, 4, 9. Động vật: Dê - Vật ở trong ao, hồ, đầm. Tịnh vật: Kim, gai bằng vàng - Loài thuộc Kim - Nhạc khí - Đồ sứt mẻ - Vật vất bỏ, phế thải. Ốc xá: Ở về hướng Tây - Ở gần ao hồ - Nhà vách tường đổ nát. Cửa hư hỏng. Gia trạch: Chẳng yên - Phòng khẩu thiệt - Mùa Thu chiêm đẹp đẽ - Mùa hạ chiêm gia trạch hữu họa. Hôn nhân: Chẳng thành - Mùa Thu chiêm khá thành - Có việc mừng - Thành hôn cát - Lợi gá hôn với thiếu nữ - Mùa Hạ chiêm bất lợi. Ẩm thực: Thịt dê - Vật ở trong ao hồ - Thức ăn cách đêm - Vị cay nồng. Sinh sản: Bất lợi - Phòng có tổn hại - Hoặc sinh nữ - Mùa Hạ chiêm bất lợi - Lâm sản nên hướng Tây. Cầu danh: Nan thành - Vì có danh mà có hại - Lợi nhậm chức về hướng Tây - Nên quan về việc Hình - Võ chức - Chức quan coi về việc hát xướng - Quan phiên dịch. Mưu vọng: Nan thành - Mưu sự có tổn - Mùa Thu chiêm có sự vui - Mùa Hạ chiêm chẳng vừa lòng. Giao dịch: Bất lợi - Phòng khẩu thiệt - Có sự cạnh tranh - Mùa Hạ chiêm bất lợi - Mùa Thu chiêm có tài có lợi trong giao dịch. Cầu lợi: Đã không có lợi mà có tổn - Khẩu thiệt - Mùa Thu chiêm có tài lời - Mùa Hạ chiêm phá tài. Xuất hành: Chẳng nên đi xa - Phòng khẩu thiệt - Bị tổn thất - Nên đi về hướng Tây - Mùa Thu chiêm nên đi vì có lợi. Yết kiến: Đi hướng Tây thì gặp - Bị nguyền rủa rầm rĩ. Tật bệnh: Tật yết hầu, khẩu thiệt - Tật suyễn nghịch khí - Ăn uống chẳng đều. Quan tụng: Tranh tụng không ngớt - Khúc trực chưa quyết - Vì việc tụng mà tổn hại - Phòng hình sự - Mùa Thu chiêm mà được Đoài là thể thì ắt đắc thắng. Phần mộ: Nên hướng Tây - Phòng trong huyệt có nước - Mộ gần ao hồ - Mùa Hạ chiêm chẳng nên - Chôn vào chỗ huyệt cũ bỏ hoang. Phương đạo: Hướng Tây. Ngũ sắc: Trắng. Tính tự (Họ, Tên): Tiếng thương (ngũ âm) - Người có họ hay tên đeo chữ Kim hay chữ Khẩu ở một bên - Hàng vị 2, 4, 9. Số mục: 2, 4, 9. Ngũ vị:Cay nồng. Chương Bát Quái Vạn Vật kể trên, sự việc còn rất nhiều chẳng chỉ có như vậy mà thôi. Vậy phép chiêm, nên theo mọi sự việc mà suy từng loại vậy. PHẦN THỨ HAI Tân dịch Thiệu Khang Tiết Tiên sinh Mai Hoa Quan Chiết Tự Số. SỰ TRỌNG YẾU SÂU KÍNH CỦA TÂM DỊCH VỀ PHÉP CHIÊM BỐC Trong thiên hạ có sự dữ sự lành, nhờ chiêm bốc mà biết được sự trọng yếu. Sự lý trong thiên hạ không có hình tích, dùng giả tượng để hiểu rõ cái nghĩa. Cho nên quẻ Càn, có lý chắc chắn để tượng trưng cho loài ngựa (mã), vậy cho nên phép chiêm bốc ngụ cái lý của cát hung, chỉ nhờ vào quái tượng để biện minh. Vậy quái tượng nhất định chẳng khác gì cái lý mà nếu không biết đạo biến thông thì chẳng bao giờ hiểu được sự nhiệm mầu.Dịch số là chỉ có biến dịch mà thôi: chí như hôm nay toán quẻ Quan Mai (ngắm bông mai), mà được quẻ Cách (Trạch Hỏa Cách) biết rằng sẽ có thiếu nữ bẻ hoa. Ngày sau quả thật có thiêu nữ đến bẻ hoa, có thể như vậy sao? Hôm nay toán quẻ Mẫu Đơn, mà được quẻ Cấu (Thiên Phong Cấu) biết được vườn Mẫu đơn sẽ bị ngựa dẫm nát, ngày hôm sau quả thật có ngựa phá hủy vườn Mẫu đơn, thế sao? Vả chưng quẻ Đoài không phải chỉ sở thuộc thiếu nữ mà thôi, cũng như quẻ Càn, cũng không phải chỉ sở thuộc ngựa mà thôi, có thể kẻ khác bẻ bông, và cũng có thể là một loài nào đó phá hủy vườn Mẫu đơn. Cho nên sự suy xét phải thật tinh vi, mới có thể định được cái sở thuộc về vật gì. Than ôi! Đạo chiêm bốc rất cần yếu nhất là biến thông, hiểu được biến thông tất đạt được Tâm Dịch cao siêu vậy. CHIÊM BỐC TỔNG QUYẾT Đại để phép chiêm bốc, sau khi đã bố thành quẻ rồi, trước hết xem xét Hào từ của Chu Dịch để đoán cát hung. Thí dụ: Càn sơ cửu là rồng ở ẩn, nên mọi việc đều còn nấp kín (âm thầm, chưa hiện rõ) Cửu nhị là rồng xuất hiện tại điền(1) thì lợi gặp đại nhân, nên yết kiến quý nhân. Thứ đến, xem Thể Dụng của quẻ, để luận Ngũ Hành sinh khắc. Thể Dụng tức là cái thuyết Động và Tịnh: - Thể là chủ, Dụng là sự việc, ứng dụng sự thể. - Thể Dụng tỵ hòa (như nhau, hòa nhau) là tốt. - Thể sinh Dụng hay Dụng khắc Thể là xấu. Lại xem đến khắc ứng, như đương thời chiêm bốc: - Nghe nói vui tươi, hay thấy triệu chứng tốt lành là tốt. - Nghe nói hung dữ hoặc thấy triệu chứng xấu là xấu. - Thấy vật tròn nguyên vẹn biểu hiệu sự thành công. - Thấy vật sứt mẻ hư hao biểu lộ sự thất bại. Lại xét cái động tịnh của bản thân ta như: - Ngồi: ứng sự chậm trễ, - Đi: ứng sự mau, - Chạy: ứng sự mau hơn nữa, - Nằm: ứng sự chậm hơn. Muốn thông suốt sự chiêm bốc, cần nhất lấy Dịch quái làm chủ, thứ đến khắc ứng: - Cả hai nếu tốt thì thật là tốt, - Cả hai đều xấu lại càng xấu hơn. Nếu một xấu, một tốt nên xét rõ quái từ với Thể Dụng, khắc ứng các loại mà đoán. Vậy nên phải xét suy cho đầy đủ, chứ không nên vịn vào một chi tiết nhỏ nhặt mà đoán được. LUẬN LÝ VỀ CHIÊM BỐC Phép chiêm bốc cần phải luận lý mới được đầy đủ, nếu cứ luận về số mà không luận đến lý, và nếu căn cứ một chi tiết nhỏ thì không thể linh nghiệm được. - Tỷ như toán về sự ăn uống mà được quẻ Chấn, vì Chấn tượng trưng cho Long (con rồng), nếu lấy lý mà luận thì không thể nói rồng được, ta phải lấy lý ngư (cá gáy) mà thay vào. - Còn như toán về thiên thời mà được quẻ Chấn tượng trưng cho sấm, nếu đương thời ta ở về mùa Đông, theo lý thì không thể có sấm được, nên ta phải kể là gió bão làm chấn động vậy. Cho nên theo mấy thí dụ kể trên, cần phải xét lý cho tường, ấy mới phải đạo chiêm bốc thật sâu xa vậy. TIÊN THIÊN VÀ HẬU THIÊN LUẬN Đoán quẻ về Hậu Thiên, tốt hay xấu chỉ luận về quái (quẻ) mà thôi, không cần dùng đến Hào từ của Dịch; còn Hậu Thiên lại dùng Hào từ gồm luôn cả Quái từ mà đoán, tại sao thế? Vì Tiên Thiên trước được số chưa được quái (quẻ), như vậy là chưa có Dịch Thư(2) mà đã có dịch lý trước rồi, cho nên không cần dùng đến Dịch thư nữa, mà chỉ chuyên lấy quái (quẻ) mà đoán thôi. Còn Hậu Thiên trước tiên được quái (quẻ) rồi dùng quái mà vạch ra Từ sau Dịch vậy, cho nên dùng Hào từ gồm luôn cả Quái từ mà đoán. Và cách bố quái (khí quái hay dàn quái) Tiên thiên không giống Hậu Thiên, như cách bố quái của Hậu Thiên mà số cũng bất đồng nhất (khác nhau), Nay nhiều người tính: Khảm 1, Khôn 2, Chấn 3, Tốn 4, Trung cung 5, Càn 6, Đoài 7, Cấn 8, Ly 9; lấy những số ấy dùng để tính quẻ. Vì Thánh nhân làm Dịch vạch ra quái (quẻ) đầu tiên lấy Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái thêm vào một bội số thì tự thành ra Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8; vậy chiêm bốc, bố quái hợp với những số ấy mà dùng. Vả nay nhiều người bố quái Hậu Thiên phần nhiều không gia thời, lập được một quẻ chỉ lấy một Hào động, mà lại không dùng đến đạo biến thông. Vậy lập quẻ Hậu Thiên tất phải gia thời mới được. Lại như quái Tiên Thiên định thời ứng kỳ, thì lấy Quái khí: - Như Càn Đoài ứng vào Canh Tân và năm, ngày thuộc Kim, hoặc Càn tức ngày, giờ Tuất Hợi; Đoài tức ngày, giờ Dậu. - Như Chấn, Tốn phải ứng vào Giáp Ất và năm, ngày thuộc Mộc, hoặc Chấn tức Mẹo, Tốn tức Thìn. Hậu Thiên: Lấy số quẻ gia thêm số giờ (thời) tổng cộng để phân định ứng kỳ của sự việc, và phân ra bằng đi, ngồi, đứng, làm mau, chậm. Số quẻ gia thời đó, ứng được việc gần, mà chẳng có thể xét định việc xa hơn, nên phải hợp số cả Tiên Thiên và Hậu Thiên lại quyết đoán ứng kỳ vậy. Vả lại phàm toán quẻ để đoán cát hung, mà thấy rõ sự lý, thì chỉ thấy được toàn quái, Thể dụng sinh khắc, với tham khảo luôn cả Dịch từ, vậy mới linh thông. Ngày này theo quái Hậu Thiên không dùng tới Lục Thập Hoa Giáp, mà chỉ dùng giờ, phương, tốt xấu, bại, vong để trợ đoán mà thôi, và Lịch tượng tuyển thời (coi chọn ngày giờ) thì Chu Dịch lại càng không thích ứng, nên không dùng đến nữa. TRUYỀN LẠI LỜI ĐOÁN CÁC QUẺ Phàm toán quẻ phải lấy Thể làm chủ, song lẽ đôi khi không luận đến Thể. Thí dụ: - Toán bức hoành phi của chùa Tây Lâm Tự, được quẻ Sơn Địa Bác, Thể Dụng, Hổ Biến đều thầy tỵ hòa thời biết là tốt rồi, nhưng lại cho là quẻ không tốt, là sao vậy? Xét theo lý: chỗ chùa chiền là chỗ riêng biệt của phái dương (nam phái) ở, nay quẻ Hổ Biến ra lại thấy thuần âm (toàn âm hay toàn nữ); như vậy thấy rõ quần âm bác dương (phái âm chia rẽ phái dương, lộn xộn), đó là lý tự nhiên. Vậy nên không cần xét đến Tể Dụng thì ta đã biết rồi. - Lại toán quẻ có người hỏi: "Kim nhật động tịnh như hà?" (Hôm nay động tịnh ra sau?) Toán được quẻ Địa Phong Thăng, sơ hào động, Dụng khắc Thể quái, nên không có sự ăn uống thịnh soạn mà cũng sẽ có người đến mời, dầu sự ăn uống sơ sài, mà cũng có mời, vì sao vậy? Vì người ấy (người hỏi) đang lúc ấy, nó ứng với triệu ngày, vả chăng xét đến hai chữ: "như hà" 如 何, có hai chữ Khẩu (口) là miệng nó trùng với chữ Đoài (兌) cũng có chữ Khẩu (口). - Lại có quẻ Dụng không sinh quẻ Thể, nhưng Hổ và Biến quái lại sinh Thể nên tốt. Ví như quẻ "Chàng thiếu niên có vẻ mặt vui được quẻ Bí vậy. - Lại nữa quẻ Dụng không sinh quẻ Thể, mà Hổ và Biến quái lại khắc quẻ Thể ấy là xấu. Ví như quẻ "Con bò rống tiếng bi thảm" toán được quẻ Địa Thủy Sư. Người thiếu niên kia đã sẳn có vẻ mặt vui vẻ mà quẻ Dịch lại bảo: "Thúc bạch tiển tiển chi triệu" (Cái triệu bó lụa hoa). Như vậy đã thấy hai triệu chứng tốt rồi, quẻ Hổ biến ra lại thấy tướng sinh lại càng tốt thêm lên nữa. Tuy là Dụng không sinh Thể nhưng cũng vô hại. Còn như toán "Con bò rống kêu thê thảm" kia đã biết trước triệu xấu rồi, mà quẻ Dịch lại bảo rằng: "Dư thi chi hung" (tức là xe chở thây) là xấu. Hổ Biến quẻ ra lại thấy tương khắc lại càng thêm xấu hơn lên. Tuy hào Dụng không khắc Thể cũng chẳng yểm được sự xấu. Như thế mới biết đoán quẻ Dịch, tức phải dùng đến lý mới xét được linh nghiệm, không nên chấp một vài sự nhỏ nhặt mà đoán. Ghi chú: (1) Điền: ruộng, đất đai. (2) Dịch Thư: Chu Dịch. BÁT QUÁI TÂM DỊCH THỂ DỤNG LỆ LUẬT Pháp thuật của Tâm dịch là do nơi Thể và Dụng rất thiết yếu. Ta lúc trẻ đọc sách Chu Dịch thường tham khảo Số học để hiểu được Tâm dịch là quái số, trước tiên học khởi quái để biết được cát hung, cũng như dùng gáo để đong lường mước biển, không biết đến chỗ cùng. Sau được Trí nhân truyền trao cho lệ luật Thể Dụng Tâm dịch mới đoán được linh thông. Nhờ sự công hiệu có thể chứng được. Như người Do Cơ bắn tên trăm phát trăm trúng. Được vậy, nên căn cứ vào Thể Dụng xét lý về Ngũ hành sinh khắc, tỵ hòa để giải bày sự cát hung, cùng biến, nguy nan, ấy là pháp thuật kỳ diệu của Dịch số. Đời mà có người có chí kiên thành nắm được cái thâm bí đó ít có lắm vậy. THỂ DỤNG TỔNG QUYẾT Như Dịch quái là phơi bày đạo chiêm bốc, thì lấy Dịch quái làm thể, lấy sự chiêm bốc làm Dụng để ngụ ý cho Động và Tịnh quái để phân chia chủ và khách ấy là cái chuẩn tắc của sự chiêm bốc. Đại để cái thuyết Thể và Dụng là: Thể quái làm chủ, Dụng quái làm sự việc, Hổ quái là trung gian của Sự và Thể, khắc ứng và Biến quái là kết quả của sự việc. Quái khí của Ứng thể thì phải khí thịnh, chớ không được khí suy. Khí thịnh như: - Xuân thì Chấn, Tốn. - Hạ thì Ly. - Thu thì Càn, Đoài. - Đông thì Khảm. - Bốn tháng tứ quý (tháng 5, 6, 9 và 12) thì Khôn, Cấn. Khí suy như: - Xuân thì Khôn, Cấn. - Hạ thì Càn, Đoài. - Thu thì Chấn, Tốn. - Đông thì Ly. - Bốn tháng tứ quý thì Khảm đều gọi là khí suy. THA QUÁI Thể quái chịu nhận Tha quái sinh, không nên Tha quái khắc Thể. Tha quái là Dụng quái, Hổ Quái và Biến quái. - Sinh như: Càn, Đoài thuộc Kim là Thể, gặp Khôn, Cấn thuộc Thổ là sinh. Khôn, Cấn thuộc Thổ là Thể gặp Ly thuộc Hỏa là sinh. Ly thuộc Hỏa là Thể mà gặp Chấn, Tốn thuộc Mộc là sinh. - Khắc như: Thể Kim gặp Hỏa là khắc, Thể Hỏa gặp Thủy là khắc v.v... Cái thuyết Thể và Dụng tức là Động với Tịnh làm chủ và khách trong Bát Quái Ngũ Hành sinh khắc. Thể tức là chính mình. Dụng là ứng vào nguyên nhân sự việc. Vậy nên, Dụng phải sinh ra Thể và Thể phải khắc Dụng mới tốt. Thể mà thịnh thì tốt, Thể suy thì xấu. Dụng khắc Thể không nên, Thể sinh Dụng cũng bất lợi. Thể có nhiều đảng là Thể thịnh, còn dụng có nhiều đảng tất Thể phải suy. Tỷ như Thể là Kim, mà Hổ Biến ra đều là quẻ thuộc Kim tức là Thể có nhiều đảng hơn. Còn như Dụng là Kim, mà Hổ Biến ra đều là quẻ thuộc Kim, tức là Dụng có nhiều đảng hơn. Thể mà sinh Dụng gọi là Tiết khí (khí lộ ra ngoài như mùa Hạ là Hỏa mà gặp quẻ Thổ nghĩa là Thể là Hỏa mà sinh Dụng là Thổ). Giữa Thể và Dụng mà tỵ hòa là tốt. Hổ quái là trung gian của biến ứng và thuộc về thời kỳ sau cuối cho nên Dụng trước tốt mà biến ra thấy xấu ấy là triệu trước tốt sau xấu. Còn Dụng trước xấu khi biến ra thấy tốt, ấy là triệu trước xấu sau tốt. Thể khắc Dụng trăm việc đều hay; Dụng khắc Thể mọi việc đều hỏng; Thể sinh Dụng tất phải hao tài; Dụng sinh Thể tăng phần tươi sáng, Thể và Dụng tỵ hòa trăm việc đều thuận lợi. XEM TRONG TOÀN QUÁI MÀ CÓ QUẺ SINH THỂ (thì tốt xấu thế nào?) Quẻ Càn: Sinh Thể thì các việc công môn có sự vui mừng; hoặc công danh hiển đạt, hoặc làm quan có tài, hoặc việc thưa kiện thắng lý. Hoặc có lợi về kim báu, hoặc có người già tuổi tiến tiền của, hoặc có quý nhân tôn trưởng gia ân, hoặc có việc mừng về quan sự. Quẻ Khôn: Sinh Thể chủ sự vui mừng về ruộng đất, hoặc do điền thổ mà có tài, hoặc có người ở cùng làng đem đến sự lợi ích, hoặc có đàn bà làm lợi cho mình, hoặc có lợi về hoa quả mùa màng, hoặc có lợi về vải lụa. Quẻ Chấn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà phát tài, hoặc có sự vui mừng trong sư hoạt động, hoặc có tài về hướng Đông, hoặc buôn bán về loại mộc có lợi, hoặc có người họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình. Quẻ Tốn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà có tài, hoặc có tài lợi về hướng Đông Nam, hoặc nhân có người có họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình, hoặc lợi về quả, trà, hoặc có người biếu tặng trà, quả, rau ráng. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài Thảo Mộc. Quẻ Khảm: Sinh Thể có sự vui mừng về phương Bắc đem tới, hợac có tài về hướng Bắc, hoặc có người ở gần sông nước đem tới, hoặc buôn bán về nghề cá, muối, rượu, văn thơ giao dịch mà có lợi, hoặc có người cho rượu, cá, muối. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài bộ Thủy. Quẻ Ly: Sinh thể chủ có tài về hướng Nam, hoặc có người ở hướng Nam làm tài lợi cho mình, hoặc có sự vui mừng về văn thơ, hoặc có lợi về các xưởng đúc, các lò đúc đồ sắt, hoặc có người mang tên bộ Hỏa làm lợi cho mình. Nói tóm lại tất cả có lợi về loại thuộc Hỏa. Quẻ Cấn: Sinh Thể chủ có tài về hướng Đông Bắc, hoặc có người ở hướng Đông Bắc đem tài lợi, hoặc có tài về sơn lâm điền thổ, hoặc có người có họ tên mang bộ Thổ hay người mang tiếng cung(1) (tức là tiếng cung trong ngũ âm) đem tài lời cho mình, mọi sự đều yên ổn, mọi sự đều có thủy có chung. Quẻ Đoài: Sinh Thể chủ có tài lợi về hướng Tây, hoặc do người ở hướng Tây đem tài lợi đến, hoặc có sự vui tươi, hoặc được ăn uống, hoặc được lợi về buôn bán vàng ngọc, hoặc có người tên họ mang bộ Khẩu làm lợi cho mình, hoặc chủ khách có việc vui mừng, bè bạn kết tập mua vui, hoặc có người có tiếng thương(2) (tức là tiếng thương trong ngũ âm) làm lợi cho mình. Ghi chú: (1) Tiếng Cung, như ta nói người nói giọng Thổ. (2) Tiếng Thương, như ta nói người nói giọng Kim. NHỮNG QUẺ KHẮC THỂ (thì tốt xấu thế nào?) Quẻ Càn: Khắc Thể, là triệu có sự lo lắng về công môn, hoặc có sự lo buồn trong gia trạch, hoặc mất của, hoặc hao tổn về ngũ cốc, hoặc oán giận cùng tôn trưởng hoặc bị tội với cấp trên. Quẻ Khôn: Khắc Thể, chủ có sự lo lắng về điền thổ, hoặc vì điền thổ mà tổn hại, hoặc bị tiểu nhân làm hại, hoặc bị đàn bà lấn hiếp, hoặc bị mất của về vải sợi, hoặc thất chí lổ lả về ngũ cốc. Quẻ Chấn: Khắc Thể, chủ bị sợ hãi rối loạn thường thường nơm nớp hoặc trong lòng chẳng được yên, hoặc trong gia trạch có tai biến, hoặc có người họ tên mang bộ Thảo mộc xâm lăng, hoặc bị thất thoát về sơn lâm. Quẻ Tốn: Khắc Thể, chủ sự lo lắng, hoặc mưu sự gì về sơn lâm, mưu sự thất bại, hoặc có người tên họ mang bộ Thảo mộc làm hại, hoặc người ở Đông Nam mưu sự, kỵ giao tranh, sinh sự với đàn bà. Quẻ Khảm: Khắc Thể, chủ có sự hiểm họa, hoặc bị cướp bóc hoặc có oán thù với người ở ven nước, hoặc bị tai nạn sau khi rượu chè, hoặc bị hãm hại trong lúc ăn uống, hoặc cùng với người phương Bắc gây họa. Quẻ Ly: Khắc Thể, chủ bị văn thư quấy rối, hoặc kinh sợ về hỏa hoạn, hoặc có nhiều âu lo từ phương Nam tới, hoặc có người mang tên họ bộ Hỏa gây rối loạn. Quẻ Cấn: Khắc Thể, mọi việc liên lụy, trăm việc trở ngại, hoặc bị hao tổn về sơn lâm, hoặc có người tên họ mang bộ Thổ gây loạn, đề phòng họa do phương Đông Bắc tới, hoặc ưu lo về mộ phần bất yên. Quẻ Đoài: Khắc Thể, chẳng lợi về hướng Tây, chủ khẩu thiệt nhiều sự rối ren, hoặc có người mang tên họ bộ Khẩu gây rối loạn, hoặc bị thương què gãy, hoặc do ăn uống mà sinh ưu sầu. * Nếu không có quẻ sinh Thể hay khắc Thể thì tùy theo bản quẻ mà đoán. I.- CHIÊM VỀ THỜI TIẾT Phàm chiêm về thời tiết chẳng cần phân Thể Dụng, chỉ xem toàn quái lấy ngũ hành hợp lại mà suy như: nhiều Ly thì trời tạnh; nhiều Khảm thì trời mưa; nhiều Khôn thì trời âm u. Càn chủ tạnh ráo; nhiều Chấn ở vào mùa Xuân, Hạ thì có tiếng vang; nhiều Tốn thì gió dữ; nhiều Cấn thì mưa lâu rồi sẽ tạnh; nhiều Đoài trời chẳng âm u cũng thì có mưa. Mùa Hạ mà chiêm được nhiều quẻ Ly mà không có Khảm thì trời nắng hạn chang chang; mùa Đông mà thấy nhiều Khảm mà không có Ly thì trời vần vũ tuyết ủ ê. Xem toàn quái nên gồm cả Hổ quái, Biến quái, còn ngũ hành là: Ly thuộc Hỏa chủ trời tạnh; Khảm thuộc Thủy chủ trời mưa; Khôn thuộc Thổ là khí đất chủ u ám; Càn là trời chủ tạnh ráo; Chấn là sấm; Tốn là gió. Mùa thu và mùa Đông có nhiều Chấn tuy không phải thời tiết, nhưng cũng có sấm lạ thường; nếu có Tốn giúp thêm thì gió lớn làm chấn động kinh hồn. Cấn là khí của sơn vân, nên mưa lâu mà gặp Cấn thì trời tạnh. Cấn là thôi (dứt) lại có nghĩa là Thổ khắc Thủy vậy. Đoài tượng trưng cho cái hồ, cái đầm, nên nếu không mưa thì trời cũng u ám. Ôi! Biệt luật của Tạo hóa rất khó giải; Lý số cũng phải dựa vào cái lý cho thật kỳ diệu; Càn tượng trưng cho Trời, bốn mùa tạnh ráo; Khôn tượng trưng cho đất, là một khí tiết bi đát. Càn Khôn lưỡng đồng, tạnh mưa biến đổi; Khôn Cấn gồm đôi, nhâm tối bất thường. Quái số có âm có dương, Tượng số(1) có chẳn có lẽ. Âm thời mưa, Dương thời tạnh, chẳn lẽ chồng chất bí ẩn (kín ngầm) huyền vi. Khôn là ngôi lão mẫu, tạnh lâu ắt phải mưa, âm khí nặng nề, mưa lâu ắt phải tạnh. Nếu gặp Trùng Khảm (hai quẻ Khảm), Trung Ly (hai quẻ Ly) khi mưa khi tạnh. Khảm là Thủy thì phải mưa; Ly là Hỏa thì phải tạnh. Càn Đoài là Kim, về mùa Thu thì tạnh ráo; mùa Đông tuyết sa lạnh buốt; Khôn cấn thuộc Thổ, về mùa Xuân thì mưa thấm nhuần, mùa Hạ lại nắng gắt. Dịch viết: Vân tòng long, Phong tòng Hổ và, Cấn vi vân, Tốn vi Phong. Cấn Tốn trùng phùng thì gió mây giao hiệp, cát bay đá dậy khuất che mặt trời, tối tăm rừng núi, bất chấp thời tiết cả hai chẳng nài. Khảm trên Cấn dưới (quẻ Khảm nằm trên quẻ Cấn) bủa giăng mây mù; nếu Khảm nằm trên Đoài, sương động thành tuyết; Càn Đoài là tuyết sa, mưa đá; Ly là Hỏa biểu hiệu chớp, cầu vồng; Ly là điện, Tốn là Lôi cả hai giao hợp thì sấm chớp vang rền. Khảm là vũ, Tốn là phong bỗng nhiên tương ngộ, thì gió mưa nổi trận lôi đình; Quẻ Chần mà trùng phùng thì sấm vang ngàn dậm; hai Khảm chồng nhau thì mưa nhuận thấm muôn trùng. Ấy là cái nguyên nhân của quái thể trùng phùng, nay lại suy tường Hậu tượng mà quyết đoán. Thiên Địa Thái, Thủy Thiên Nhu là tượng mưa dây dưa, hôn ám. Thiên Địa Bỉ, Thủy Địa Tỷ là hình dáng tối tăm mịt mù. Nếu Thuần Ly (hai quẻ Ly), về mùa Hạ thì hạn hán; tứ quý đến tạnh ráo Thuần Khảm (hai quẻ Khảm), về mùa Đông thì rét lạnh, mưa dầm dề, khó bề tạnh ráo; gặp Cấn thì mưa dứt ngay, nắng luôn luôn trương nhựt, cơ ấy là như vậy. Lại như Thủy Hỏa Ký Tế, Thủy Hỏa Vị tế, thì phong vân biến cố bất thần; Phong Trạch Trung Phu, Trạch Phong Đại quá, ba tháng mùa Đông mưa sa tuyết rụng; Thủy Sơn Kiển, Sơn Thủy Mông, đi đâu phải lo sấm lấy dù; Địa phong Thăng, Phong Địa Quan, không nên đi thuyền đề phòng tai biến. Ly nằm trên Cấn: sáng mưa chiều tạnh; Ly Hổ thành Cấn: sáng tạnh chiều mưa. Tốn Khảm Hổ Ly tất thấy ráng, cầu vồng; Tốn Ly Hổ Khảm cũng chung một cuộc. Cần nên dò xét kỹ càng, không chấp nê một lý. Chấn Ly có chớp, sấm, ứng vào mùa Hạ. Càn Đoài có sương tuyết, thiết nghiệm với mùa Đông. Tạo Hóa chi lý, rộng vậy thay, Số Lý chi diệu, rất sâu, rất kín, hiểu thấu đạo thánh hiền xưa truyền để lại, ta đáng cung, đáng kính mà thọ báu truyền. Ghi chú: (1) Tượng số là hình vẽ Bát quái, có hào 2 vạch là chẳn, có hào 1 vạch là lẽ. II.- CHIÊM NHÂN SỰ Chiêm nhân sự cần xét Thể, Dụng. Thể quái là chủ, Dụng quái là khách. Dụng khắc Thể chẳng nên, Thể khắc Dụng lại tốt. Dụng sinh Thể có sự vui mừng. Thể sinh Dụng thường xảy ra tổn thất. Thể Dụng hòa đồng (tỵ hòa) mưu sự có lợi. Cần xét thêm Hổ quái và Biến quái để đoán cát hung, nghiên cứu thịnh suy để tường tai hại. Chiêm về nhân sự thì dùng toàn chương Thể Dụng Tổng Quyết, để định cát hung. Nếu có quái sinh Thể quái, nên xem chương Bát Quái ở trước Quái sinh Thể có những gì tốt, khắc Thể có những gì xấu. Nếu không thấy có sinh Thể, khắc Thể thì lấy bổn quái mà suy. III.- CHIÊM GIA TRẠCH Phàm chiêm gia trạch lấy Thể làm chủ Dụng làm gia trạch. Thể khắc Dụng thì gia trạch vững vàng. Dụng khắc Thể thì gia trạch bất an. Thể sinh Dụng: nhiều việc tổn hao, ly tán phòng đạo tặc. Dụng sinh Thể được nhiều lợi ích, hoặc được của người dâng biếu. Thể Dụng tỵ hòa: gia trạch yên ninh. Nếu có Quái sinh Thể thì xem lại chương chiêm Nhân sự mà đoán. IV.- CHIÊM ỐC XÁ Chiêm vụ này phải dùng thời gian sáng tạo. Phàm chiêm ốc xá, lấy thể làm chủ, Dụng làm ốc xá. Thể khắc Dụng: chỗ ở vừa ý. Dụng khắc Thể: thì gia trạch bất ân. Thể sinh Dụng: chủ tư tài suy thối. Dụng sinh Thể: gia môn hưng thịnh. Thể Dụng tỵ hòa: tự nhiên yên ổn. V.- CHIÊM HÔN NHÂN Xem hôn nhân lấy Thể làm chủ, Dụng làm sự hôn nhân. Dụng sinh Thể: việc hôn nhân thành, hoặc nhân sự hôn nhân có lợi. Thế sinh Dụng: việc hôn nhân không thành, hoặc vì hôn nhân mà có hại. Thể khắc Dụng: hôn nhân thành nhưng phải chậm trễ. Dụng khắc Thể: bất thành, nếu thành cũng có hại. Thể Dụng tỵ hòa rất tốt. Phàm xem hôn nhân lấy Thể làm mình, làm chủ, mà Dụng tượng trưng cho nhà thông gia. Thể quái mà vượng thì nhà mình được gia môn ưu thắng. Dụng quái mà vượng nhà thông gia có địa vị thuận lợi. Dụng sinh Thể có tài lợi về sự hôn nhân, hoặc nhà thông gia chiều chuộng theo ý ta. Thể sinh Dụng thì không hộp bỏ quả hoặc mình phải thối sự cầu hôn. Nếu Thể Dụng tỵ hòa: hai bên tương tụ, lương phối nhàn du. Càn thì đoan chính mà giỏi, mạnh bạo. Khảm là dâm, háo sắc, hay ghen quá độ. Cấn sắc hoàng, đa xảo (khéo giỏi). Chấn dáng mặt đẹp mà rắn rỏi. Tốn tóc ít mà thưa hình xấu, tâm tham. Ly đoản, xích sắc, tính khí bất thường, thấp lùn. Khôn thì xấu bụng to mà vàng. Đoài cao và giỏi, nói năng vui vẻ, sắc trắng. VI.- CHIÊM SINH SẢN Chiêm sinh sản lấy Thể là mẹ, Dụng là sự sinh. Thể Dụng cả hai nên thừa vượng, chẳng nên thừa suy, nên tương sinh, không nên tương khắc. Thể khắc Dụng không lợi cho con. Dụng khắc Thể chẳng lợi cho mẹ. Thể khắc Dụng mà Dụng quái lại suy, chắc con chẳng toàn. Dụng khắc Thể mà Thể quái lại suy, ắt nguy cho mẹ. Dụng sinh Thể thì lợi cho mẹ. Thể sinh Dụng thì mẹ dễ sinh. Thể Dụng tỵ hòa thì mẹ tròn con vuông. Nếu muốn biết sinh nam hay nữ, nên dùng Bát quái trước đây mà suy. Dương quái mà dương hào nhiều hơn: sinh nam; Âm quái mà âm hào nhiều hơn: sinh nữ. Âm Dương quái hào tương đồng thì xem số người có mặt lúc chiêm, số chẳn lẽ, đó là lý ngẫu nhiên chứng nghiệm. Như muốn biết ứng kỳ ngày giờ, thì lấy Khí quái số của quẻ Dụng là quẻ gì, rồi tra nơi mục Thời tự của Bát Quái Vạn Vật trước đây mà đoán. VII.- CHIÊM ẨM THỰC Phàm chiêm ăn uống lấy Thể làm chủ, Dụng làm sự ăn uống. Dụng sinh Thể, ăn uống no say. Thể sinh Dụng bụng không, trống rỗng. Thể khắc Dụng tuy có ăn mà gặp sự đình trệ. Dụng khắc Thể thì thật toàn vô. Thể Dụng tỳ hòa, ăn uống phong túc. Trong quái có Khảm thì nhiều rượu, có Đoài thì nhiều mỹ vị; không Khảm không Đoài cả hai đều không. Đoài Khảm sinh Thể, rượu thịt ê hề, say sưa lướt thướt. Muốn biết ăn uống thức gì, dùng mục ẩm thực mà suy. Muốn biết ai là thực khách, dùng Hổ quái mục nhân sự mà luận. Cả hai đều có mục riêng ở Bát quái Vạn vật thuộc loại ở phần I. VIII.- CHIÊM CẦU MƯU Cầu mưu lấy Thể làm chủ. Dụng làm mưu sự. Thể khắc Dụng, mưu tất thành nhưng chậm. Dụng khắc Thể, mưu bất thành nếu thành cũng có hại. Dụng sinh Thể, mưu sự thành đạt mà có lợi. Thể sinh Dụng, mưu sự khó thành chẳng được vừa ý. Thể Dụng tỵ hòa, mưu sự xứng tâm. IX.- CHIÊM CẦU DANH Cầu danh lấy Thể làm chủ, Dụng làm danh. Thể khắc Dụng, danh khả thành nhưng phải chậm. Dụng khắc Thể danh bất khả thành. Thể sinh Dụng, danh bất khả tựu, hoặc nhân danh mà thất chí. Dụng sinh Thể, công danh thành toại hoặc nhân danh mà có lợi. Thể Dụng tỵ hòa, công danh xứng ý. Muốn biết ngày nào thành danh dùng Khí quái của quẻ sinh Thể mà suy. Muốn biết chức nhiệm phương sở dùng Biến-quái mà quyết đoán. Nếu không có quẻ khắc Thể, thì danh dễ thành, muốn biết nhạt kỳ, thì xem nơi mục Thời tự mà định ngày giờ. Bằng như kẻ chiêm quẻ còn tại chức,tối kỵ nhất thấy quẻ khắc Thể, thấy nó tức là thấy họa, nhẹ thì bị khiển trách, nặng thì phải cách chức thôi quan, mà nhật kỳ cũng ứng vào Khí quái khắc Thể, ở mục Bát quái Vạn Vật ở phần I, mục Thời tự mà suy. X.- CHIÊM CẦU TÀI Xem cầu tài lấy Thể làm chủ, Dụng làm tài. Thể khắc Dụng có tài, Dụng khắc Thể vô tài. Thể sinh Dụng ắt tài hao tổn, Dụng sinh Thể, tài càng phát đạt. Thể Dụng tỵ hòa, tài lợi khoái tâm. Muốn biết ngày có tài, dùng khí quái của quẻ sinh Thể mà suy. Muốn biết ngày phá tài, lấy khí quái của quẻ khắc Thể mà đoán. Nếu trong chánh quái, thấy có quẻ Thể khắc Dụng, hoặc có quẻ Dụng sinh Thể, tất là có tài, xem khí quái của chánh quái, thì biết ngay nhật kỳ. Trái lại, nếu thấy Dụng khắc Thể, hay Thể sinh Dụng, ấy là quẻ phá tài, xem khí quái, biết ngay thời kỳ phá sản. XI.- CHIÊM GIAO DỊCH Xem giao dịch lấy Thể làm chủ, Dụng làm sự giao dịch Thể khắc Dụng, giao dịch thành mà chậm. Dụng khắc Thể bất thành. Thể sinh Dụng nan thành, hoặc nhân sự giao dịch mà hóa ra có hại. Dụng sinh Thể tất thành, thành mà có lợi lớn. Thể Dụng tỵ hòa giao dịch thành toại. XII.- CHIÊM XUẤT HÀNH Xem quẻ xuất hành, lấy Thể làm chủ, Dụng làm sự xuất hành. Thể khắc Dụng, xuất hành tốt được nhiều lợi lớn. Dụng khắc Thể, đi ắt có họa. Thể sinh Dụng ra đi ắt phá tài. Dụng sinh Thể, ngoại tài vô lượng. Thể Dụng tỵ hòa xuất hành tiện lợi. Phàm xuất hành Thể nên thừa vượng và chư quái cần phải sinh Thể mới tốt. Quái Thể mà Chấn Càn thì chủ đa động, Khôn Cấn chủ bất động. Tốn nên đi bằng thuyền, Ly nên đi bộ hành, Khảm phòng thất thoát, Đoài chủ phân tranh (lộn xộn, khẩu thiệt) XIII.- CHIÊM HÀNH NHÂN Chiêm hành nhân lấy Thể làm chủ, Dụng làm hành nhân. Thể khắc Dụng, hành nhân về mà trễ. Dụng khắc Thể, hành nhân không về. Thể sinh Dụng, hành nhân chưa về. Dụng sinh Thể, hành nhân sẽ tới. Thể Dụng tỵ hòa, ngày về sắp tới. Lại xem quẻ Dụng mà vượng lại phùng sinh thì hành nhân ở ngoài rất phong túc. Nếu phùng suy mà lại gặp khắc, ắt tại ngoại thọ tai. Quẻ Chấn phần nhiều chẳng được an ninh, Cấn thì bị trở ngại, Khảm gặp nhiều hiểm họa, Đoài thì càng lộn xộn phân tranh. XVI.- CHIÊM YẾT KIẾN Chiêm yết kiến lấy Thể làm chủ chính mình, Dụng làm người mình muốn gặp. Thể khắc Dụng hì gặp; Dụng khắc Thể không gặp. Thể sinh Dụng, có gặp cũng khó khăn lắm mà có gặp chăng thì cũng chẳng có lợi gì. Dụng sinh Thể đối diện tương phùng, hòa đàm tương đắc. Thể Dụng tỵ hòa, hoan nhiên tương kiến. XV.- CHIÊM THẤT VẬT Xem thất vật lấy Thể làm chủ, Dụng làm thất vật. Thể khắc Dụng, tìm được nhưng phải chậm. Dụng khắc Thể, tìm không được. Thể sinh Dụng, rất khó tìm. Dụng sinh Thể, tìm ngay được thấy. Thể Dụng tỵ hòa, của không mất. Lại xem Biến quái cho biết phương hướng nào: - Biến quái là Càn thì tìm ngay phương Tây Bắc, hoặc trên lầu gác các công sở hoặc dấu ở bên kim thạch, hoặc dấu trong vật hình tròn, hoặc chỗ trên cao khỏi mặt đất. - Biến quái là Khôn tìm hướng Đông Nam, gần ruộng vườn hoặc ở kho vựa hoặc chỗ gặt hái, hoặc chôn trong hang dưới đất hoặc trong đống gạch ngói hoặc trong đồ hình vuông. - Biến quái là Chấn tìm về hướng Đông, gần chỗ sơn lâm, hoặc dấu trong bụi gai góc, hoặc gần chỗ trống chiêng, hoặc ở trong chiêng trống, hoặc ở chỗ ồn ào hoặc gần đường cái. - Biến quái là Tốn tìm phương Đông Nam, hoặc gần chỗ sơn lâm, hoặc gần chùa chiền, hoặc tại vườn rau hoặc trong xe thuyền, hoặc dấu trong đồ bằng mộc. - Biến quái là Khảm tìm phương Bắc, dấu gần ven nước hoặc gần kinh ngòi, mương rảnh, giếng ao hoặc gần chỗ để rượu, dấm hoặc ở chỗ có cá muối. - Biến quái là Ly tìm phương Nam, gần lò bếp, hoặc ở gần cửa sổ, hoặc dấu ở nhà trống, hoặc gần chỗ văn thư hoặc ở chỗ có khói lửa. - Biến quái là Cấn tìm phương Đông Bắc, gần chỗ sơn lâm, hoặc gần mé đường, hoặc chỗ đá sỏi hoặc dấu trong hang đá. - Biến quái là Đoài tìm phương Tây, hoặc gần bờ ao giếng, hoặc trong đống vách tường đổ vở, hoặc trong nền hoang đổ nát, hoặc trong ao giếng bỏ hoang. VIII.- CHIÊM TẬT BỆNH Chiêm bệnh thì lấy Thể làm bệnh nhân, Dụng làm bệnh chứng. Thể quái nên vượng chẳng nên suy, Thể nên phùng sinh không nên thấy khắc. Dụng sinh Thể chớ nên khắc Thể, Thể sinh Dụng bệnh dễ lành. Dụng sinh Thể bệnh khó khỏi. Thể khắc Dụng không thuốc cũng lành. Dụng khắc Thể tốn thuốc vô công. Nếu Thể phùng khắc nhưng được vượng khí thì cũng còn hy vọng. Thể ngộ khắc mà lại gặp suy, đoán chẳng được bao nhiêu ngày nữa. Muốn biết có thể cứu được trong cơn hung thì xem có quẻ nào sinh Thể chăng. Thể sinh Dụng, bịnh dây dưa liên sàng, Dụng sinh Thể bịnh càng chóng khỏi. Thể Dụng tỵ hòa ắt bịnh chẳng phải lo. Muốn xem bịnh ngày nào khỏi hẳn, xét ở quẻ sinh Thể mà suy, muốn rõ thời kỳ lâm nguy, xét quẻ khắc Thể mà định. Muốn biết bịnh cho uống thuốc gì, xét quẻ sinh Thể mà xử dụng như: - Ly quái sinh Thể nên uống thuốc sắc chín. - Khảm quái sinh Thể nên uống thuốc lạnh. - Cấn thì ôn bổ, Càn Đoài thì dùng lương dược (thuốc mát). Nếu có thuyết tin quỷ thần tuy không phải là đạo của Dịch, nhưng cũng không nói rằng Dịch đạo chẳng lưu tâm, hãy lấy lý mà suy, như có quái khắc Thể, tức biết được bịnh phạn quỷ thần. - Càn quái khắc Thể, chủ Tây Bắc phương chi thần, hoặc binh đao chi quỷ, hoặc thiên thời hành khí, hoặc xung chính chi tà thần. - Khôn thuộc Tây Nam chi thần, hoặc khóang dạ (ruộng đồng) chi quỷ, hoặc liên thân chi quỷ (quỷ ở cạnh nhà), hoặc phạm Thổ Thủy thần trong làng, hoặc phạm quỷ đạo lộ, hoặc phạm vô chủ chi quỷ. - Chấn thuộc Đông phương hoặc Mộc hạ chi thần, hoặc yêu quái, hoặc bị ảnh hưởng chi thời. - Tốn là quỷ Đông Nam, hoặc quỷ tự ải tự sát hoặc quỷ già tỏa trí mạng (bị xiềng xích mà chết, thắt cổ treo cây v.v...) - Khảm là quỷ phương Bắc, hoặc Thủy thần, hoặc trầm mịch chi vong, hoặc quyết bịnh chi quỷ. - Ly thì quỷ Nam phương, hoặc Dũng mạnh chi thần, hoặc phạm Táo tự, hoặc đắc tội Tổ tiên, hoặc bị Phần thiêu chi quỷ, hoặc bị quỷ đau sót mạng vong. - Cấn là bị thần phương Đông Bắc, hoặc bị sơn lâm chi thần, hoặc bị sơn tiêu (yêu quái hiện người), mộc khách hoặc Thổ quái thạch tinh. - Đoài thì phạm Tây Nam hoặc Trận vong chi quỷ hoặc Phế tật chi quỷ hoặc Vẩn kỉnh tường sinh (thắt cổ tự sát, xiềng xích mà chết) chi quỷ. Trong Bản quái không có quẻ khắc Thể thì chớ nên bàn đến. Lại có người hỏi: Chiêm bịnh mà gặp quẻ Càn Khôn, tức là quẻ Thiên Địa Bí thì đoán như thế nào? Nhiêu Phu dạy rằng: 1.- Càn thượng Khôn hạ, mà sơ hào động, ấy gọi quái sinh Thể, Biến thì thành Chấn thuộc Mộc, Hổ thì thấy Tốn Cấn đều là sinh Thể chi nghĩa, vậy chẳng nên lo gì, gặp ngày tương sinh thì bịnh khỏi hẳn. (Ghi chú: Trong sách phần TƯỢNG ĐỒ CỦA QUẺ CÀN KHÔN VỀ CHIÊM BỆNH (gọi là Thiên Địa Bỉ) tách riêng một trang, nhưng tôi đưa vào chung với lời giải thích cho thuận tiện theo dõi hơn.) Chánh quái (Sơ hào động) _____ _____ Thể _____ Càn:Kim __ __ __ __ Khôn:Thổ __ __ * Dụng Biến quái _____ _____ _____ Càn: Kim __ __ __ __ _____ Chấn:Mộc Hổ quái _____ _____ __ __ Tốn:Mộc _____ __ __ __ __ Cấn:Thổ 2.- Thấy phát động hào 2 thì Biến quái thành Khảm (Thủy). Thể là Kim tức Kim sinh Thủy, nghĩa là Thể sinh cho nên gọi là tiết Thể hại Kim (là Thể thì Kim mà bị tiết ra, chảy ra, thì tất nhiêm Kim phải hao mòn) tức là Thể phải hao, và cũng gọi là Kim nhập Thủy hương (vàng chìm trong nước). Hổ quái lại hấy Tốn Ly có nghĩa là Phong Hỏa phiến lô đều là khắc Thể hết, lại xem đương thời ngoại ứng như thế nào, tức là cái triệu thiêu thây (phần thi chi tượng). Chánh quái (hào 2 động) _____ _____ Thể _____ Càn: Kim __ __ __ __ * Dụng __ __ Khôn:Thổ Biến quái _____ _____ _____ Càn: Kim __ __ _____ __ __ Khảm:Thủy Hổ quái _____ _____ __ __ Tốn:Mộc _____ __ __ _____ Ly:Hỏa Thế đoán là phải chết, chẳng phải nghi ngờ, lấy Xuân, Hạ, Thu, Đông tứ quý mà suy thì thấy lý rõ ràng. 3.- Thấy phát động hào 3: Khôn quái biến Cấn quái thuộc Thổ, tức là quái sinh Thể, khỏi cần suy đến Hổ quái cũng đã đủ biết tốt rồi, vậy đoán tốt không còn nghi ngờ gì nữa. Chánh quái (hào 3 động) _____ _____ Thể _____ Càn:Kim __ __ * Dụng __ __ __ __ Khôn:Thổ Biến quái _____ _____ _____ Càn:Kim _____ __ __ __ __ Cấn:Thổ Hổ quái _____ _____ _____ Càn:Kim _____ _____ __ __ Tốn:Mộc 4.- Thấy phát động hào 4: quẻ Càn biến thành quẻ Tốn thuộc Mộc. Kim Mộc đều có nghĩa là khắc Thể, ví dù Hổ quái có tốt chăng thì cũng phải xấu. Vì Mộc có nghĩa là Giang thi (khiêng thây), Kim vị nguyên huởng chi suy (gạch ngói), đó là suy cái lý mà định, mà cũng gọi là "Thi" đó, mà lôi ra cái lý. Chánh quái (hào 4 động) _____ _____ Càn:Kim _____ * Dụng __ __ __ __ Thể __ __ Khôn:Thổ Biến quái _____ _____ __ __ Tốn:Mộc __ __ __ __ __ __ Khôn:Thổ Hổ quái _____ __ __ __ __ Cấn:Thổ __ __ __ __ __ __ Khôn:Thổ 5.- Thấy phát động hào 5: quẻ Càn biến thành Ly thuộc Hỏa, ấy là sinh Thể quái. Hổ và Biến đều sinh Thể. Ấy là tốt khỏi nghi ngờ gì nữa. Nếu gặp thêm triệu tốt thì càng thêm tốt, triệu hung thì chậm hơn, không đến nỗi chết. Thật là đoán rất rõ ràng. Chánh quái (hào 5 động) _____ _____ * Dung _____ Càn:Kim __ __ __ __ Thể __ __ Khôn:Thổ Biến quái _____ __ __ _____ Ly:Hỏa __ __ __ __ __ __ Khôn:Thổ Hổ quái __ __ _____ __ __ Khảm:Thủy _____ __ __ __ __ Cấn:Thổ 6.- Thấy phát động hào 6: quẻ Càn biến thành quẻ Đoài thuộc Kim, Thể bị tiết khí. Hổ thấy Tốn Cấn, một tốt một xấu. Bịnh chẳng chết thì cũng chí nguy, cung nên xem triệu ngoại ứng, gặp triệu tốt đoán tốt, gặp triệu hung đoán hung. Cách đoán ấy rất rõ ràng. Tất cả các quái đều cũng đoán như thế, thời Tâm dịch bao giờ mà không linh ứng. Chánh quái (hào 6 động) _____ * Dụng _____ _____ Càn:Kim __ __ __ __ Thể __ __ Khôn:Thổ Biến quái __ __ _____ _____ Đoài:Kim __ __ __ __ __ __ Khôn:Thổ Hổ quái _____ _____ __ __ Tốn:Mộc _____ __ __ __ __ Cấn:Thổ XVII.- CHIÊM QUAN TỤNG Phàm chiêm quan tụng lấy Thể làm chủ, Dụng làm đối từ nhân, cũng ứng vào sự kiện cáo. Quái Thể nên vượng, Dụng quái nên suy. Dụng phải sinh Thể, chẳng nên Thể sinh Dụng. Thể nên khắc Dụng, chẳng nên Dụng khắc Thể. Thể mà khắc Dụng thì ta thắng người. Dụng mà khắc Thể thì người thắng ta. Thể sinh Dụng là ta thất lý, hoặc vì sự kiện cáo mà ta phải táng tâm. Dụng sinh Thể, chẳng những là ta đã thắng lý, à lại còn sở đắc. Thể Dụng tỵ hòa, quan tụng rất tốt; nếu không có người phù trợ, thì ít ra cũng chủ hòa. XVIII.- CHIÊM PHẦN MỘ Lấy Thể làm chủ, lấy Dụng làm phần mộ. Thể khắc Dụng, sự an táng rất tốt. Dụng khắc Thể, chỗ chôn thấy xấu. Thể sinh Dụng, chỗ chôn ấy chủ thối bại. Dụng sinh Thể, chủ hưng vượng, có âm phước hậu tự. Thể Dụng tỵ hòa, là chôn đất tốt, chôn chỗ ấy rất cát xương. Trên đây nói về thuyết Thể Dụng, tất cả 18 chương, để làm thí dụ cho Hậu-học, ngoài ra còn biết bao nhiêu là vấn đề, vô số kể. Há chỉ có 18 chương đã đủ hay sao? Vậy nên noi theo lời đoán 18 chương trên đây để suy nghiệm, kẻ học đạo nên xét đoán cho tinh vi. THIÊN TỰA TAM YẾU LINH ỨNG Vả chăng! Dịch là bản chất thuộc Tinh lý hoc, bản chất của Tinh lý ấy hoàn toàn do ở Tâm của ta vậy. Cái Tâm ấy là bản chất của một Tâm linh sáng suốt, trong sạch, chẳng bị một tơ hào nào xúc phạm, chẳng có một bụi trần nào làm hoen ố được. Tinh lý đây đủ là Dịch thể hiện hoàn toàn ở Tâm ta, ấy là Dịch, ấy là Tiên Thiên Dịch vậy. Chí như mối lo tư, tự nhiên bắt đầu bộc phát, ngoại vật gắn liền với tâm, như mây che không trung, như bụi làm lu mờ kiếng, chìm đắm mịt mù không rõ ràng. Mà trong vào Dịch thể hiện nơi Tâm của ta, há để xen lẫn được như thế sao? Cho nên cái nguyên nhân kỳ diệu của Tam yếu, nó xoay vần ở Nhĩ (tai), Mục (mắt), Tâm (cái tâm tư), ba yếu tố hư linh ấy thể hiện vào sự vật. Tai thì thông, Mắt thì sáng, Tâm thì thật trong sạch sáng suốt. Vì sự căn là do nơi Tâm, mà Tâm thì chủ trị lấy sự căn. Song le sự căn chưa phát động, thì quỷ thần chưa rõ được cái nguyên nhân, cát hung, họa phước không nơi thâm nhập. Cho nên Tiên sư dạy rằng: Tư lự chưa phát động, Quỷ Thần chưa hay, chẳng phải do nơi ta, thì do tại ai? Nếu sự căn mà dấy động ở Tâm ta, ắt là quỷ thần thấu hiểu, sự cát hung hối lận tất phải có số, thì tất nhiên ta đã có sẵn một lẽ gì đó rồi, ắt phải cầu đến Tâm Dịch của ta vậy. Như vậy im lặng, không tiếng, không động, yên lặng mà lo nghĩ, mà xét đoán cho chân thành, chú ý xem sự thay đổi, ngẫm ngợi xét tìm, quay vần trong Tam yếu, ắt hẳn ta thấy, mà thấy rõ ràng, nghe không rõ, ta nghe rõ ràng, như thấy rõ hình ảnh, như nghe âm thanh báo hiệu, ta xem xét rõ ràng, thì biết Dịch là đạo chiêm bốc, chính Dịch là ở nơi Tâm ta vậy. Tam yếu chẳng phải là sự hư không, mà sự huyền diệu linh ứng rất cao xa, ấy là đạo vậy. Xét lý cho chí tình, chí thần, trăm họ hàng ngày thường dùng mà chẳng hay. Làm sao được, để biết cho đầy đủ cái ảo diệu chân tình để luận bàn ấy chỉ có tiên sinh Lưu. Tiên sinh người ở Giang Hạ, hiệu Trạm Nhiên Tử, được Vương Óc Sơn nhân, Cao Xử sĩ Vân Thạch trao truyền. Bảo Khánh năm thứ 4, sau rằm tháng Trọng hạ, Thanh Linh Tử Chu Hư, bái thủ tự. Thiên Tam Yếu Linh Ứng Tam Yếu Linh Ứng quây quần trong ba yếu Tố Nhĩ, Mục, Tâm, linh ứng là linh diệu ứng nghiệm vậy. Xét Nhĩ để mà nghe, Mục để mà nhìm xem, Tâm để mà lo nghĩ. Ba yếu tố ấy, người ta không thể hiểu được, mà cái lý thuyết của vạn vật cũng không ra ngoài phương thức ấy được. Để cho thích đáng với sự chiêm quyết, yên lặng mà nghe, mà nhận thức sự lo nghĩ, tịnh mà xem xét vạn vật, mà nhận xét các âm thanh, để biết cát hung, thấy rõ hình ảnh của thiện ác, thấy rõ cái lý của họa phước đều do sự chứng nghiệm của thuật chiêm bốc. Như hợp với cái ứng thanh, như bóng theo hình làm sáng tỏ cho ta thấy vậy. Cái chân lý của Chu Dịch là: gần thì thủ (lấy chư thân (mình), xa thì thủ chư vật. Chu Dịch là do của Tiên hiền, Tiên sư làm ra và đã chọn lựa lấy những thành ngữ của thế tục làm thành lệ, mà nghiệm ra như Quỷ Cốc Tử, Nghiêm Quân Bình, Đông Phương Sóc, Gia Cát Khổng Minh, Quách Phác, Quản Lộ, Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Hoàng Phủ Chân nhân, Ma Y Tiên, Trần Hy Di, kế sau Thiệu Khang Tiết, Thiệu Bá Ôn, Ngưu Tư Hối, Ngưu Tư Kế, Cao Xử Sĩ, Lưu Trạm Nhiên, Phu Thọ Tử, Thái Nhiên Tử, Chu Thanh Linh Tử mà thời đại tương truyền không chuyên nhất, mà chẳng biết tên họ, chẳng tham dự vào đó hay sao? Và xét ra thì trời cao đất dày, vạn vật tan rã, âm trọc dương thanh, ngũ khí phơi bày, họa phước khó tránh khỏi số mạng, cát hung đều có cơ. Người đứng đầu trong muôn vật, cái Tâm là chủ cái thân, Mắt ngụ ra hình sắc, Tai nhận lãnh âm thanh, ba yếu tố ấy bao gồm đầy đủ cả muôn vật. Như trên là cái linh ứng của Thiên Địa vạn vật, mà Nhĩ, Mục Tâm là ba yếu tố nên gọi là Tam Yếu. - Cho nên gặp triệu tốt mà thuận là tốt - Gặp triệu xấu, thì chẳng có thể tránh được sự hung - Vật tròn là thể hiện sự thành, vật khuyết (sứt mẻ, hư hỏng) là thể hiện sự hại. Cái lý do đó, đoan nhiên chẳng phải nghi ngờ gì nữa, như trên là xét vật khắc ứng, thấy tốt tức là tốt, gặp hung ắt là xấu. - Như mây tan thì thấy trời, sự vật đều sáng (tốt), khí sương mù che lấp không trung, vật bị phai mờ (xấu). Thình lình trận cuồng phong làm cho trôi dạt (rối rít) - Gặp Chấn sấm động thì rối loạn, hoảng sợ khống - Mặt trăng thình lình ló dạng, thì trong trẻo sáng suốt - Thốt nhiên mưa thầm nhuần áo, khá nhờ ân trạch (ân huệ). Như trên nhận xét Thiên văn mà suy luận vậy. - Trùng sơn ngăn cách khó gặp, trùng trạch (ao đầm), nhuần thấm càng sâu; nước chảy sự việc thông; đất dồn chứa lại sự việc dình trệ - Đá cứng bền là nhờ ruột rắn chắc (cứng); cát vải ra thì tay phải xòe; sóng nổi cuộn thì chủ kinh hoàng khốn khổ - Núi sụp lở chủ hao tán thổ điền - Gần kề ao khô cạn, tâm lực kiệt mòn - Đứng dưới cây khô, tướng mạo suy vi. Ấy là xét địa lý mà suy nhân sự. - Gặp người phẩm giá, là ứng điềm tốt lành - Gặp hiển quan cao tước ắt thấy sự sang trọng - Gặp phú thương đại gia, chớ lo chi tài - Thấy nhi đồng than khóc ắt phải ưu lo cho con cháu - Lại, Tốt (Lại là viên chức, Tốt là binh lính) kêu xôn xao, kỵ nhất là kiện cáo - Hai nam hai nữ là triệu trùng hôn - Nhất đạo nhất tăng là triệu ở riêng một cõi - Phu nhân cười nói, sự vui mừng ngầm sẽ tới - Nữ tử giằng co nhau là triệu bí ẩn (tà gian) thấy lụy - Gặp thợ, chủ cải hoán gia môn - Gặp đồ tể, ắt cốt nhục phân ly - Gặp người săn thú, ắt được ngoại tài đồng áng- Gặp ngư phủ, ắt có lợi về giang biên - Gặp đàn bà chửa thì sự việc trong tâm bộc phát - Gặp người mù thì trong tâm sẵn mối lo buồn. Ấy là xem nhân phẩm mà xét nhân sự. - Chí như vẫy tay bảo đừng, hoặc lắc đầu chẳng chịu, dụi mắt, sịt mũi, phun nước, phà hơi, hắt hơi, là điềm tang khốc - Gãi đầu búng gàu chắc là có sự lo âu - Chân lay động là dấu hiệu đi - Khoanh hai tay là triệu tổn thất - Co ngón tay lại, là trở tiết danh - Thở ra là sự bi ưu - Le lưỡi ra mà lay động, là chủ sự thị phi - Cùng đâu lưng lại, xem chừng lường gạt giả dối - Vung cánh tay lên, triệu chứng tranh đoạt hơn thua - Hạ chân xuống là triệu khuất phục để cầu xin. Ấy là xem sự cử động chư thân gần nhất để ứng vào sự việc. Nhược gặp kẻ nào trao sách cho, ắt rắc rối về văn thư, từ tụng - Chủ đánh tớ, phòng bề trên khiển trách - Giảng luận kinh sử, ắt hẳn sự thể đổ vỡ, rạn nứt vì hư khuyết - Hát xướng ngâm nga, mưu sự (đồ mưu) trở thành tán thán (tưng bốc, ca ngợi) - Thấy cờ bạc, chủ tranh đấu về tài - Gặp biên chép, viết lách, chủ động văn thơ - Thấy tay nắm dắt vật gì, là được người giúp việc - Nắm tay lôi kéo, gặp nhiều liên lụy. Ấy là ứng vào nhân sự. - Gặp lái đò chèo thuyền, ắt gặp được người dẫn đường chỉ lối - Xa mã lên đường là triệu mang trách nhiệm nặng nề đã hết - Dương cung nách tên, ắt được tiến cử tài danh - Có tên không cung, tài danh chưa khá đạt - Cầm đao nắm kiếm ắt được khoái lạc hân hoan - Vạch giáp múa đao đoán chắc binh quyền chi triệu - Thấy ươm tơ, mọi việc rối như vò - Đánh cờ vây (đánh cờ bàn), chỗ chủ yếu phơi bày trước tứ chúng - Trang hoa (trang sức) chạm quả, sự giao kết cuối cùng không trọn - Họa ảnh vẽ hình, đều thuộc loài trang điểm - Kết hợp đều thành (quây, cuốn, chắp nối mối tơ, chỉ) cầu chức vụ càng tốt - Bút mực hiện thấy là triệu cầu văn - Gặp nghiêng dù (nghiêng dù để chào) là chủ thối quyền - Thình lình soi kiến, ắt được chiếu chỉ - Ôm cầm vật quý, ắt được trọng dụng phi thường - Vác cây khiên gỗ, có tài (của) chẳng ít - Gặp đồ đong lường (như cái lít, cái cân chẳng han) phải nên trù liệu tinh tường - Gặp thước kéo nên đắn đo sự việc - (giảm mức độ) - Thấy chân đá, gạt, bị người gạt bỏ khinh khi - Mở khóa cởi vòng, gặp việc ít thông - Thấy sửa chửa đồ vật, ắt lâu chẳng bền - Cầm đá mài kiếng soi, sự việc hai lần mới được - Chơi đùa búa rìu, mài sắt thép, sự việc chậm trễ mới nên - Vung dao chặt cây, thì có thương tài mới được việc - Cắt áo quần trước tổn sau thành - Làm đồ gốm, trước thành sau bại - Đánh cờ bàn, giữ mưu thủ kế - Bủa lưới (giăng lưới) tìm tòi phương sách kế hoạch cũng tất không - Cầm búa cầm cưa ắt sẽ bị thương - Rửa chén, sút bình phòng họa vì uống - Phất quạt thân yêu chiêu đãi chi nghĩa - Bận áo dơ bẩn, đề phòng mưu hại. Trên đây là ứng về vật khí, tức xa thì dùng chư vật. - Thảo mộc tuy vô hình, nhưng cũng có ứng với khoa chiêm bốc: cỏ Chi, cỏ Lan ứng điềm tốt lành - cây Tùng cây Bá là điềm thọ - Gặp cây Thung, cây Cổi thì sống lâu - Gặp mạ non, nấm thì sớm nở chiều tàn, chiêm sinh sản hoặc bịnh gặp phải triệu này thì chết - Cành lá xác xơ, nhiều nỗi vất vả - Rễ hột rời rạc là liên lụy với người - Thấy bông hoa ấy thực hư hao - Thấy trái quả là có kết quả tốt đẹp. Trên đây là ứng vào loài thảo mộc - Chí như bay chạy cũng là điềm ứng - Con chim quạ báo tai ương - Nhện giăng báo hỉ - Chim Hồng chim Nhạn chủ bằng hữu chí tín - Rắn hổ mang, phòng mưu độc hại - Chuột cắn áo, phòng tiểu khẩu (gây lộn) - Chim sẻ kêu trên mái nhà, báo tin người đi xa về - Chó cắn nhau phòng đạo tặc - Gà đá nhau, chủ sự ồn ào - Dắt Dê được nhiều khánh hỷ - Cởi ngựa thì buôn bán chi thu có lợi - Khỉ vượn leo cây, thân tâm chẳng yên - Cá gáy nhảy lên khô, sự biến chẳng phải tầm thường - Thấy dây dàng ngựa, bịnh tật chẳng an - Thấy chuồng, lồng muông chim, nhờ cậy người chưa dứt. Ấy là ứng về cầm thú. - Chí như rượu là món giải phiền, thuốc dùng để giải bịnh, tuy vậy, chén rượu bị bể, là điềm cực lạc sinh bi - Gặp được Y sư giữa đường, nạn trung hữu cứu - Dây sắn, dây bìm, dây bầu, dây mướp là loại ỷ tựa vào người - Dáng điệu hổ báo là vẻ thị oai - Cày ruộng, bừa đất là sự thể loay quay tráo trở - Chẻ tre, rạch nứa. sự thế ắt thuận lợi yên vui - Xuân hoa, Thu nguyệt tuy không thực nhưng có cảnh thái, Hạ cây bông, Đông cây sắn, tuy hữu dụng nhưng trái thời - Cái quạt mỏng, để quạt cho mát, nhưng lắm lúc vô dụng - Cái dù, cái lọng, lúc tạnh ráo thì bỏ suông (không xài) - Ảnh bong bóng (bọt) nước và ánh đèn là triệu hư ảo khó tin - Mạng nhện, kém tằm, xảo kế thành công. Trên đây là xem tạp vật ứng Xem hình vật tức nhiên biết thể chữ(*). - Đá gặp da thì rách, tức là chữ Phò (chữ Phá một bên chữ Thạch là đá, một bên chữ bì là da). - Người đứng bên cây là chữ Hưu là vui (chữ hưu một bên có chữ nhân là người, còn bên có chữ mộc là cây. - Nón trôi ở ven nước, rõ ràng là chữ Khấp là khóc (chữ khấp một bên có ba chấm thủy tức là ven nước, một bên chữ lập, đọc trại là liệp, tức là cái nón). - Lửa vào núi rừng, đốt hình sẽ thấy là chữ Phần là đốt (chữ phần tên có chữ lâm là rừng, dưới chữ hỏa là lửa). - Ba cô gái là có gian xảo tà dâm tức là chữ Gian (chữ gian có ba chữ nữ, một trên và hai dưới). - Ba trâu là triệu bôn tẩu chi ưu, tức chữ Bôn (chữ bôn có ba chữ ngưu, một trên hai dưới). - Một cây hai lửa là triệu quang vinh, tức là chữ Vinh (chữ vinh trên hai chữ hỏa là lửa, giữa chữ nhất và dưới chữ mộc là cây). - Một nước bốn cá là tượng góa vợ tức là chữ Quan (chữ quan một bên là chữ ngư là cá, một bên thì chữ tứ là bốn, dưới hết chữ thủy là nước). - Người kề trâu lộn ngược đề phòng thất thoát tức là chữ Thất là mất (chữ thất xemg iống chữ ngưu con trâu đảo ngược lên và có chữ nhân là người ở kế). - Người nói chó buồn lo ngục tù, tức chữ Ngục (chữ ngục một bên có bộ như chữ nhân đứng tức người, giữa chữ ngôn là nói, bên phải có chữ khuyển là chó) - Một cái đấu vào cửa trống, chủ đấu tranh, tức là chữ Đấu (chữ đấu ở ngoài chữ môn là cửa, trong lòng chữ đấu là cái đấu đong lường) - Hai sợi tơ đèo cây trắng là triệu sự vui, tức là chũ Lạc (chữ lạc giữa chữ bạch là trắng, hai bên đèo hai bộ mịch là sợi tơ, dưới chữ mộc là cây). - Một người đứng trong cửa, mọi việc nên né mình mà tránh, tức là chữ Thiểm (chữ thiểm ngoài chữ môn là cửa, trong lòng có chữ nhân đứng là người đứng). - Hai người đứng hai bên cây, là triệu hỏi gì được nấy tức là chữ lai là tới (chữ lai giữa chữ mộc là cây, hai bên có hai chữ nhân là người). Trên đây là ứng vào chiết tự chữ Hán. Ghi chú: (*) Chữ Hán, đây nói về chiết tự, bây giờ ít dùng nhưng cũng xin dịch để xem cho biết. - Chí như tên vật, cũng lấy nghĩa đồng âm mà ứng vào các triệu như: thấy con Lộc (con Hươu) ấy là có lộc - Thấy Phong (con ong) là điềm được thụ phong - Thấy cây Lê là chủ phân biệt - Thấy cây Đào là triệu đào tẩu - Thấy cây Lý chiêm tụng sự đắc lý - Phùng quan (quan là cái mão), cầu quan ắt thành - Thấy hài (là giày, dép), trăm sự hòa giải - Thấy khạp (cái cốc đựng rượu) mọi việc đều hợp. Hãy còn nhiều lắm khỏ tả cho hết, mà chỉ cần tại trí biến thông. - Lại như xét ở thân ta mà ứng vào sự việc của người, ắt phải hiểu rõ quan hệ khác nhau của lời nói - Tương phản nhau thì lời nói ngượng ngùng - Nghi kỵ nhau thì lời nói chống đối - Người hiền lành êm dịu thì ít nói - Người xao động tính nóng nảy, thì nói nhiều. Nói vu lỗi cho người hiền thì lời nói vu vơ không bằng cớ - Mất đức liêm khiết, chân thật, là lời nói chìu luồn. Trên đây là nhất động, nhất tịnh, gần thì lấy chư thân mà ứng vào việc. Đã suy luận Ngũ hành, tất phải tinh tường Bát quái quẻ tốt mà ứng cát, thì cát vẹn toàn; quẻ xấu mà ứng hung thì vẹn hung. Quẻ và Ứng một tốt, một xấu, thì sự việc phần cát, phần hung. Suy rõ Sinh Khắc chi lý, xét rõ động tịnh chi cơ, sự tương quan (có quan hệ với nhau), vật vật tương hợp. Như vậy là cái chân lý của Ngũ hành, Bát quái, Khắc Ứng, Động Tịnh của Dịch, ắt phải do cái linh động hoạt bát của tấc lòng (tâm linh). Sự mầu nhiệm của huyền cơ, lại còn do ở thầy truyền, ví phỏng muôn chúng phân vân, duy chỉ có một lý do mà xuyên suốt, sự là do cơ mà nảy sanh, thì tất yếu phải am tường sự việc đang gặp phải. Trên đây là cái lý của phép chiêm bốc, mà hay là ở tại người biết biến thông linh diệu. Chí như, xưa Phương Sóc, bói mà biết được các vật dấu ẩn khuất; Chư Cát đứng trước ngựa, mà định được cát hung trong giây lát; Hoàng Phủ tự dưng khai phá được cái ảo diệu; Thần Phong giác ngộ nhờ điểu giác. Tuy sở dụng thì có khác nhau, nhưng đồng chung một ý, chẳng khác nhau vậy. Tất cả trên đây nói về Tam Yếu linh ứng ky diệu. Khá kết hợp ý chí tình của quỷ thần, mà hiệp với linh thuật Thi Quy (cách bói cỏ Thi và vỏ Rùa). Song le, người trong tam thế quá khứ, hiện tại và vị lai chưa thấu rõ sự huyền vi của tâm mà chẳng có thất khiếu (bảy lỗ: tai, mắt, mũi và miệng) cúng chưa giác ngộ được sự diệu lý; cho nên hiểu được thuật, cần phải kín đáo, người chẳng truyền thì không nên truyền, khinh thì làm tiết lậu thiên cơ, trọng thì vướng phải âm trách, gầy đắp sâu rộng thì khá nhập được đạo, áp dụng lâu dài ắt được thần thông. Trên đây là bàn về sự kỳ diệu linh ứng, chẳng nên truyền xằng trao lẫn, cần thận trọng sâu kín, để bảo trọng lấy đạo vậy. Mục Luận Thập Ứng Thập ứng vốn từ Tam yếu mà ra và cũng kỳ diệu như Tam yếu. Chỉ cần tai mắt mà có; như thấy triệu cát, chung qui là tốt, như gặp hung sấm (lời sấm) chẳng tránh khỏi sự hung, đó là cái lý tự nhiên vậy. Song le, gặp sư cát hung đó, cũng chưa chắc hẳn là như vậy cả đâu; ví như vàng bạc, loài kim là của báu của đời, nhưng đối với Tam yếu thì cần phải có Thập ứng mới phân biệt mà giải thích. Gặp vàng và loài kim mà không cho là tốt, là khi nào dùng nó để rèn kiếm luyện binh, thì đời cho là hung khí, theo Tam yếu cũng cho là hung, còn cái thuyết Thập ứng lại cho là tốt. Lại như chiêm sản (sanh đẻ), thấy nam nhi thì Tam yếu cho là sinh con tốt, trái lại Thập ứng lại cho là xấu. Lại như chiêm bịnh mà thấy áo quan (quan tài) thì Tam yếu lại cho là bịnh nhân phải chết, còn Thập ứng lại cho là tốt (sinh ý). Lệ luật nhiều như thế đó, cho nên phép chiêm bốc chẳng khá, không tất ứng (mất sự linh nghiệm) vậy. Luận Thập Ứng Thập ứng lấy Thể quái làm chủ, các quẻ Dụng làm dụng. Mỗi một lấy Nội quái phân ra ngoại Thể, Dụng quái theo ta mà bàn luận cho tinh vi. Nội quái không tốt mà ngoại quái lại tốt thì có thể giải được sự không tốt. Nội quái tốt mà ngoại quái không tốt thì nó lại phá hỏng sự tốt. Nếu nội ngoại toàn quái tốt tất nhiên tốt, toàn xấu tất xấu. Nếu nội tốt, ngoại xấu. Nội xấu ngoại tốt phải suy rõ cái lý mới đoán cát hung, không nên đè chặt phím đàn (hay câu nệ, không biết biến thông) vậy. Mục Ngoại quái Thập ứng gồm cả Thiên thời, địa lý chia ra làm 10 loại đều lấy Thể quái làm chủ, rồi tùy sở ứng mà áp dụng. I.- Mục Thiên Thời Ứng a.- Như trời không mây mù che, sáng lạng trong trẻo ấy là thuộc Càn thời. Nếu Càn Đoài là Thể quái tức tỵ hòa thì tốt. Nếu Khảm là Thể quái, ấy là phùng sinh rất tốt. Nếu Khôn Cấn là Thể quái, thì gọi là tiết khí (lộ khí ra ngoài). Nếu Chấn Tốn là Thể quái là khắc, tức là xấu. b.- Trời tạnh ráo giữa ngày, ấy gọi Ly thời. Nếu Khôn Cấn là Thể quái thì tốt. c.- Trời đang lúc mưa, hoặc có sương tuyết gọi là Khảm thời. Nếu Chấn Tốn là Thể quái thì tốt. Nếu Thể quái là Ly thì xấu. d.- Trời đang lúc có sấm gió, gọi là Chấn Tốn thời. Nếu Thể quái là Ly thì tốt. Nếu Thể quái là Khôn Cấn thì xấu. III.- Cần Xét Rõ Thời Lệnh Ứng Về thời lệnh chẳng cần luận đến quái tượng, chỉ cần biết ngày tháng gặp phảithôi, xét khí xuy vượng của Ngũ Hành. Khí vượng là ngày tháng Dần Mẹo là Mộc vượng. Ngày tháng là Tỵ Ngọ là Hỏa vượng. Ngày tháng là Thân Dậu là Kim vượng. Ngày tháng là Hợi Tý thì Thủy vượng. Ngày tháng là Thìn, Tuất, Sữu, Mùi thì Thổ vượng. Nếu khí mà suy thì như: Mộc vượng thì Thổ suy; Thổ vượng thì Thủy suy; Thủy vượng thì Hỏa suy; Hỏa vượng thì Kim suy; Kim vượng thì Mộc suy. Cho nên, quái khí của quái sinh Thể, phải gặp thời khí vượng, chẳng nên gặp thời khí suy. Còn như khí quái của quái khắc Thể, thì cần phải khí suy. IV.- Xét Rõ Nhân Sự Ứng Nhân sự thì luận quái tượng theo ngũ hành, mà cũng có lúc không luận theo ngũ hành. Luận theo quái tượng như: - Lão nhân thuộc Càn. - Lão phụ thuộc Khôn. - Cấn là thiếu nam. - Đoài là thiếu nữ. Lý của ngũ hành sinh khắc tỵ hòa thì cứ đoán theo như mục Thiên Thời Luận và mục Địa lý luận nói trên. Còn như không luận theo quái tượng và ngũ hành, là vì nhân sự tạp loạn, rối rít, rộn ràng... thấy nhiều cách tốt có xấu có, hiện ra thì nó phải tùy theo cái triệu ứng vào sự việc tốt hay xấu. Lại nữa, xét đoán việc của người, cũng tùy theo cái sự ứng của người ấy nữa. V.- Xét Hướng Quái Ứng Tức là phần phương hướng quái như: Ly là Nam, Khảm là Bắc, Chấn là Đông, Đoài là Tây. Tốn là Đông Nam, Càn là Tây Bắc. Cấn là Đông Bắc, Khôn là Tây Nam. Luận cát hung, thì xem người tới xem quẻ từ hướng nào tới, thuộc vào quái vị nào, phải dùng Dụng quái mà luận. Thí dụ: Khảm là Dụng quái thì phương vị nên Khảm cùng Chấn Tốn; còn phương vị Ly là xấu. Nếu Ly là Dụng quái thì phương vị nên Ly và Khôn Cấn thì tốt, còn hai phương vị Càn Đoài thì xấu. Vả chăng, tốt hơn là phương vị của bổn quái, phải chịu Dụng quái sinh mới tốt, chớ không nên chịu Dụng quái khắc. Ví bằng xét khí ở quái, còn phương sở tại thì cần phải xét như: - Nếu Thủy từ Khảm tới, thì quái Khảm là khí vượng., nếu thủy từ Khôn Cấn mà tới, thì quái Khảm là khí suy. - Nếu Hỏa từ Nam tới, thì quái Ly là khí vượng, nếu từ Bắc tới thì quái ly là khí suy. Đại khái, phương của bổn quái, chịu sinh là vượng mà chịu khắc là suy, nên lấy Thể quái mà tham cứu. Quái khí của quái sinh Thể nên ở phương vượng. Quái khí của quái khắc Thể, nên ở phương khắc. Lại nữa Cấn Tốn phương, khỏi bàn đến Khôn Cấn. Khôn cấn phương, khỏi bàn đến Khảm. Khảm phương, khỏi bàn đến Ly. Ly phương khỏi bàn đến Càn. Càn Đoài phương, khỏi bàn đến Chấn Tốn. Tất cả các quái đều chịu khắc của phương quái hết thảy. VI.- Xét Động Vật Ứng Động vật thì luận theo quái tượng như: Càn tượng trưng cho ngựa; Khôn cho trâu bò; Chấn cho rồng; Tốn cho gà; Khảm cho heo; Ly cho chim trĩ; Cấn cho chó; Đoài cho Dê. Còn ngao, sò, trai, ốc, rùa, ba ba cho là tượng Ly; loài cá cho là Khảm, ấy là động vật quái thì dùng Thể quái mà luận. Còn động vật không luận theo quái tượng, ngũ hành như: chim quạ đen báo hung tai; chim khách báo hỷ tín; chim hồng, chim nhạn báo tin thơ. Loài rắn, loài trùng phong có độc hại, gà gáy cón tin lành, ngựa hý tất có động ý. VII.- Xét Tịnh Vật Ứng Các loài khí vật phải luận theo quái tượng như: Loài Thủy thuộc Khảm, loài Ly thuộc Hỏa, loài Mộc thuộc ChấnTốn, loài Kim thuộc Càn Đoài, loài Thổ thuộc Khôn Cấn, lấy Thể quái mà luận. Còn loài khí vật mà không luận theo quái tượng, nhưng phải xem cái triệu của khí vật như: Khí vật hình tròn, biểu hiệu cho sự thành; khí vật sứt mẻ, hao mòn, biểu hiệu cho sự bại. Lại nhận xét xem khí vật thuộc về loại nào như: bút nghiên thì chủ về văn thơ; bào hốt (áo bào và cái hốt) chủ về quan tước; chén, mâm, khay, quả là chủ về yến tập; kìm kẹp, xích xiềng phòng quan tai. Trăm mối bất nhất, xét từng vật khí. VIII.- Xét Về Ngôn Ngữ Ứng Nghe người nói chuyện thì không luận theo quái tượng mà chỉ nghe lời người nói về việc gì để xem cách ứng như: nghe lời nói lành tốt thì tốt; nghe lời nói dữ thì xấu; nhược bằng nghe lời nói huyên náo, rộn ràng, ồn ào thì khó đoán. Nếu có thể nghe mà liệu được nói chuyện gì và hiểu rỏ ý lời nói, tâm thì nhận thức, để hội với cái ý cho hợp lý như: bàn về việc triều chính là ứng vào cầu danh; nói về việc giang, hồ, châu, quận là chủ xuất hành; nói về việc tranh tụng là chủ quan tư; nói chuyện vui mừng lợi về sự hôn nhân. Mỗi câu chuyện chẳng giống nhau, nên tùy theo sự nghe mà đoán. IX.- Xét Về Âm Thanh Ứng Tai để nghe âm thanh mà luận quái tượng, như: Lôi thanh là Chân - Phong thanh là (gió) là Tốn - Vũ thanh là Khảm - Thủy thanh cũng là Khảm. Tiếng phách, tiếng sanh, tiếng nứt của gỗ, tiếng thuộc về loại Mộc đều thuộc về Chấn Tốn. Tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng kiểng, tiếng thanh la, tiếng thuộc về loại Kim đều thuộc về Càn Đoài; ấy là thanh âm luận theo quái tượng, dùng Thể quái mà suy luận. Nghe âm thanh hòa với tiếng vui cười, chủ sự vui mừng, nghe tiếng sầu bi thì ắt có hoạn; tiếng ca, tiếng hát chủ sự khoái lạc; nghe tiếng giận, tiếng hờn, tiếng la chủ sự lộn xộn, tranh dành. Chí như tiếng vật kêu, tiếng quạ tất báo tai ương; tiếng chim khách kêu báo hỷ; chim nhạn, chim hồng kêu báo tin xa tới; tiếng gà, tiếng chim le le đều tốt. X.- Cần Xét Xem Màu Sắc Ứng Năm sắc không dùng đến quái tượng luận, chỉ nhận thấy sắc gì thì cứ theo ngũ hành mà luận như: xanh, biếc,lục thuộc Mộc; hồng đỏ thuộc Hỏa; trắng thuộc Kim; đen thuộc Thủy; vàng thuộc Thổ. Ngũ hành, ngoại ứng xét rõ Thể Dụng của Nội quái, sinh khắc tỵ hòa, cát hung sẽ thấy Di Luận (Bài luận để lại cho hậu thế) Vạn vật quái số vốn do Dịch, nay đọc sách này, chỉ có lệ ngũ hành sinh khắc; pháp thuật về Tam yếu, Thập ứng, so với Dịch thì không giống nhau, vì sao vậy? Vì chưa có Dịch thư, đã có Dịch lý rồi. Dịch thư ra đời sau Tứ Thánh, còn Dịch lý soạn thuật trước Tứ Thánh. Nhân tâm đều có dịch lý, tức là Dịch vậy. Phép chiêm bốc, không phải là không dùng quái, Quái tức là Dịch. Ví bằng được Dịch quái hào, xem ở Từ hào quái (Từ hào là lời dạy của hào) mà đoán cát hung, hối lậu rất là linh diệu chưa trải qua dùng Dịch. Lại xem ngũ vật của quái số (ngũ vật là ngụ ý vào các vật) ở thiên Bát quái thuộc vạn vật (trang 17), chỉ dùng Nội quái, mà chẳng dùng ngoại quái. Sao vậy? Vì sự khỉ quái là thuật khỉ quái đại khái bàn chung, còn Thập ứng lại là bí quyết trao truyền. Ví như chiêm Quan Mai hôm nay chiếm được quẻ Cách, biết được có thiếu nữ bẻ trộm bông và bị thương ở bắp vế, rồi ngày hôm sau cũng Quan Mai, cũng được quẻ Cách, rồi cũng bảo thiếu nữ bẻ bông; như thế có thể được sao? Lại như chiêm Mẫu đơn, toán biết được Mẫu đơn bị ngựa dẫm nát, rồi hôm sau cũng toán Mẫu đơn, cũng bảo bị ngựa dẫm nát được sao? Không! Ắt phải suy tường cái lý. Lại nữa, như quẻ Địa Phong Thăng là triệu không được ăn uống gì, mà biết có người tới mời. Như vậy, nếu không nhờ ngoại quái thì không thể toán được Thể Dụng Phàm chiếm thành quẻ rồi, phải vạch ra ba trùng là: Bổn quái, Hổ quái và Biến quái. Rồi ở Bổn quái phân ra Thể Dụng, như vậy là một Thể và một Dụng rồi dùng ngũ hành để biện lý sinh khắc tỵ hòa. Chỉ có Dụng quái cần thiết nhất, lại xem Hổ quái, Biến quái cũng là Dụng, ấy là nội quái Thể Dụng. Sau xem ứng quái cũng là Dụng, tức là hợp cả nội quái và ngoại quái Thể Dụng. Như vậy không phải chỉ có một Thể và một Dụng mà thôi, có thể nói một Thể có đến trăm Dụng vậy. Sinh khắc, tức là chia Thể Dụng mà luận, ấy là luận sinh khắc, sinh Thể thì tốt, khắc Thể thì xấu, tỵ hòa thì tốt, khỏi phải bàn luận đến. Nhiều quẻ sinh Thể thì rất tốt, nhiều quẻ khắc Thể lại rất xấu. Tuy vậy, nếu như có một quẻ sinh Thể, mà quẻ này lại bị các quẻ khác khắc nó thì có thể giảm bớt sự tốt đi. Lại như có quẻ khắc Thể, mà quẻ lại bị các quẻ khác khắc nó thì có thể cứu vớt được sự cùng quẫn. Nếu có quẻ khác sinh nó thì tốt, mà khắc nó thì xấu. Ấy là cách sinh khắc của Thể Dụng vậy. Tuy nhiên, lệ sinh khắc cũng có khi khỏi bàn đến Thể Dụng. Thí dụ: Chiêm Thiên thời như quẻ Chấn tức là sấm; được quẻ Tốn tức là gió; gặp Khảm thì mưa; gặp Ly thì nắng. Đó lý tự nhiên, mà lại cũng chưa hẳn như vậy. Nếu thấy trong quái có nhiều Càn hay Đoài thì dù có Chấn cũng không có sấm; và có Tốn cũng không có gió. Ấy là cũng ẩn ý của ngoại quái ứng, cũng như chiêm Mai, thấy thiếu nữ bẻ trộm bông; chiêm Mẫu đơn thấy ngựa dẫm hủy; thấy Địa Phong Thăng có triệu ăn uống. Như vậy, nếu không có triệu Ngoại ứng thì làm sao quyết đoán được như vậy. Thể Dụng Loại Tâm Dịch dựa vào chư vật mà dùng lấy Thể làm chủ; tuy vậy người chỉ biết có một Thể, một Dụng mà không biết có một Thể mà cả trăm Dụng biến thông ra. Cùng một Thể mà biến thông; toàn quái là nội quái. Nội cũng chẳng phải là một Dụng mà Hổ Biến ra cũng là Dụng. Tam yếu và Thập ứng quái gọi là ngoại quái. Ngoại quái cũng chẳng đồng nhất, chẳng phải là không phải là Dụng vậy; ngụ vật học mà đạt thấu Thể Dụng rất là chí thuật, hiểu được Thập ứng cũng rất hiếm có, sau cùng Tam yếu lão thông, ấy mới là toàn thuật. Chớ bảo Thể Dụng là Thể Dụng, Tam yếu là Tam yếu, chỉ lấy Thể Dụng mà đoán cát hung, lấy Tam yếu mà triệu cát hung. Mấy ai biết được đến chỗ cùng cực của Tam yếu, Thập ứng, Thể Dụng. Than ôi! Thể Dụng không thể không có Tam yếu, Thập ứng không thể không có Thể Dụng. Thể Dụng, Tam yếu, Thập ứng lý dĩ nhiên không cách gian nhau được. Như vậy mới lột được tinh vi của khoa chiêm bốc của dịch vậy. Lại như nhiều quẻ Càn Đoài thì Tốn không có gió; Khôn cấn nhiều thì Khảm khó mưa; Khảm nhiều thì Ly khó tạnh; vì Càn Đoài là Kim, khắc Chấn Tốn Mộc; Khôn cấn thổ khắc Khảm Thủy; Khảm Thủy khắc Ly hỏa. Như vậy phải nên thạo biến thông mới suy nghiệm được. Lại như chiêm ẩm thực, có Khảm tất có rượu, có Đoài chắc có ăn; nếu gặp phải Khôn Cấn, thì dù có Khảm cũng không có rượu; nếu gặp phải Ly, có Đoài cũng chẳng có ăn. Như trên chỉ nêu hai thí dụ để suy nghiệm, để hiểu thêm sinh khắc của Tâm Dịch vậy. Suy Vượng Luận Đã tường sinh khắc, lại phải biết vượng suy. Vượng là mùa Xuân thì Chấn Tốn Mộc; mùa Hạ thì Ly Hỏa; mùa Thu thì Càn Đoài; mùa Đông thì Khảm Thủy, bốn tháng tứ quý là Khôn Cấn Thổ. Suy là mùa Xuân Khôn cấn; mùa Hạ Càn Đoài; mùa Thu thì Chấn Tốn; mùa Đông thì thì Ly, bốn tháng tứ quý là khảm. Phàm chiêm quẻ, Thể quái nên khí thịnh vượng, khí đã vượng mà phùng sinh thì tốt, gặp trùng khắc thì xấu. Nếu thể suy mà phùng khắc, lại càng rất xấu, còn Thể suy mà có quẻ sinh Thể, thì sự suy có thể giảm bớt xấu. Đại để Thể quái cần phải vượng, khí quái của quẻ sinh Thể cũng phải vượng; quẻ khắc Thể phải nên khí suy. Ấy là luận thịnh suy khí của Tâm Dịch Nội Ngoại Quái Luận Phàm phép chiêm bốc, Thể Dụng là nội quái, tất cả Ứng quái gọi là ngoại quái, đó là lệ thuật chiêm bốc, các ứng quái với Tam yếu và Thập ứng, đó là hợp chung cả nội ngoại quái mà đoán. Nếu chẳng biết hợp nội ngoại quái mà đoán cứ bảo Thể dụng là Thể Dụng, Tam yếu, Thập ứng là Tam Yếu, Thập ứng thì chẳng thể nào thấy hiệu nghiệm được. Song le Thập ứng ít kẻ biết cho tường tận, như đã nói ở mục Ảo Luận trước; vàng bạc là của báu, Tam yếu thì cho là tốt. Nhưng ví bằng, thể là Chấn Tốn thuộc Mộc, tất nhiên Kim khắc Mộc, thì trái lại là xấu. Binh đao đời cho là hung, Tam yếu cũng cho là hung, ví bằng Khảm là Thể thuộc thủy mà gặp Kim lại trở thành tốt. Lại như chiêm sản (sinh đẻ) thấy namtử cho là có triệu tốt sinh con, nhưng giả thử Khảm là Thể, thiếu nam là Cấn (Thổ), tức là Thổ khắc Thủy, thì trái lại sự sinh đẻ chẳng được tốt. Lại như chiêm bịnh, thấy áo quan thì cho là chết, nhưng ngược lại nếu Ly là Thể thì Mộc sinh Hỏa, đâu có chết. Biết như vậy tức là nội quái cần phải có ngoại quái và ngoại quái phải có nội quái. Nghề chiêm bốc, cho được linh nghiệm tất thế nào cũng phải hợp nội và ngoại quái mà đoán mới thật là phải đạo vậy. Động Tinh Luận Phàm chiêm bốc, tuy đã thấu cái cơ trọng yếu của Động Tịnh. Tuy vậy còn có cái định lý và sự biến của sự việc. Dương động mà âm tịnh, một động một tịnh, cái lý nó phát xuất từ cái tịnh ấy qua cái động kia. Một tịnh thì trăm động, là do cái biến đổi của sự việc ấy. Các sự việc ở trong thiên hạ, nó rối rắm giao động, mỗi mỗi đều có sự đoán. Ta chỉ lấy một tịnh mà liệu lượng thôi, không động thì không chiêm. Không có cớ tất không bói. Phép chiêm bốc phải xét rõ từng sự việc của quần vật, cái động của sự vật mà xấu, thì cái triệu của quẻ cũng xấu, cái động của sự vật mà tốt, thì cái triệu của quẻ cũng tốt. Như chỗ huyên náo là chợ búa, quán đình, nhân vật lộn xộn, quần vật đầy dẫy trước mắt, sự gì nương theo vật nấy thì cũng ứng ngay vào quẻ, sự tốt hay xấu cũng vạy, phải suy vào một cái lý nào để nó hợp với sự vật ấy. Vị chưng, ở trong cái quần động ấy, hoặc là tự thấy bởi tai mắt của ta, hoặc ta đã thấy từ trước, hoặc quần sự nó thể hiện rõ ràng, hoặc do chính ta tưởng niệm ra, ta lấy đó làm sở dụng để chiêm bốc, Ví như: Cầu danh cũng do ở trong cái quần động, hoặc ta thấy quan phủ, hoặc có văn thư bào hốt (áo mão đồ các quan mặc đi triều), vật lễ nghi thì ứng sự có lợi về quan sự. Cầu tài lợi thì gặp được người cự thương, phú gia (nhà buôn to, nhà giàu có), hoặc thấy vật báu hóa, đoán quyết được ngay ứng tài lợi. Lại như chiêm quan tụng rủi gặp phải đồ vật như roi vọt, xiềng xích ắt có sự kiện không tốt; chiêm bịnh mà không gặp vật ai, ma (áo tang), quan quách thì bịnh xoàng thôi không đáng ngại. Xem như vậy mới biết sự sự tương quan, vật vật tương ứng, đó là cái thiết yếu để chiêm bốc vậy. Đến như ngồi thì ứng chậm; đi thì ứng mau; chạy lại càng ứng mau hơn nữa; nằm thì ứng chậm hơn; như thế tất phải xét nguyên nhân của sự động. Tâm ta vốn tịnh, người tới coi quẻ, do cái ý niệm của họ ứng vào tức là động, ta dùng cái tịnh của ta, mà liệu lường cái động của người, ta dùng cái niệm của ta, mà suy cái nghiệm của người, cái tâm thành thực thì quỷ thần hay thấu, biết như vậy rồi khá biết cái trọng yếu của động và tịnh. Hướng Bối Luận Phàm chiêm quái cho ứng nghiệm, cần phải xét đến Hướng và Bối ứng của các sự vật. Hướng là quay mặt hướng trở lại. Bối là cái ứng của sự vật quay lưng lại mà đi như: Con chim quạ báo tai ương, nếu từ xa bay lại tức họa sắp tới, nếu nó bay trở đi là họa đã hết rồi. Con chim khách báo hỷ, nó từ xa bay tới, ắt có việc vui mừng sắp tới, nếu nó bay trở đi, sự vui mừng đã qua rồi. Cho đến các ngoại ứng khác cũng đồng đều như vậy cả. Cho nên quái khắc Thể quái nếu thấy khí vật hướng trở lại thì họa ắt đến, còn thấy khí vật quay lưng trở đi là họa đã qua rồi. Còn như quái sinh Thể quái, mà thấy khí vật hướng trở lại ắt sự tốt lành sẽ tới, còn thấy khí vật quay lưng lại mà đi, sự tốt lành đã qua rồi. Các triệu chứng khác cũng đều chung một lý như vậy hết. Ấy gọi là chiêm Hướng Bối theo cái lý của Dịch. Tịnh Chiêm Phàm chiêm quái, ở chốn thanh tịnh vắng vẻ, như ở trong tịnh thất, ta không nghe và cũng không thấy sự động của khí vật bên ngoài, những biến của ngoại cảnh tức là không có ngoại quái, ta khỏi phải xét đến ngoại quái, mà chỉ thấy toàn quái, năm, tháng, ngày hợp với ngũ hành suy vượng cùng với thể Dụng mà suy đoán. Quan Vật Động Huyền Ca Nghĩa là xem xét rõ ràng thông suốt sự sâu kín nhiệm mầu của sự vật, bài ca này phần nhiều đoán cái khí tượng của nhà ở. Xưa người Ngưu Tư, vào nhà người có thể biết được cái triệu tốt hay xấu của chủ nhà; nhờ cái thuật đó mà biết cái thế hưng suy, cái điềm tốt lành, yêu quái tà nghiệt ở trong gia môn, nhận biết được để làm gương suy nghiệm, không nhận biết được đành chịu mờ ám. Cho nên bài ca này là một ảo thuật rất linh ứng, cũng đều do cái lý mà ra, chớ nên cho là thiển cận. Sự việc trong thế gian không ngòai cái số, cái lý, gặp việc cát hung lẫn hối đều có thể biết trước được cái họa phước. Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sinh khắc làm chủ; năm sắc: Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng, Đen phân biệt cái màu sắc rõ ràng, sự tốt xấu nhà của người đều thấy được. Chỉ hướng vào lời phán đoán huyền trung. Vào nhà nhận xét được bằng nghe thấy, mà biết hưng suy. Về nhà nhận thấy cái xuân khí, thì trong gia trạch sinh hòa khí, bằng như cái vẻ lạnh lẽo, linh lạc giống cảnh mùa Thu, thì gia đình sẽ suy vi. Tự nhiên nhận thấy mùi hương hơm đầm ấm, nhà sẽ đầy phước đức. Ngửi cái mùi tanh hôi, ô uế, tựa như heo, mèo, chó, lợn là chủ sự bịnh tật khốn cùng. Trai tráng, gái sức chỉnh tề, gia phong thịnh. Người nhà mặt bẩn đầu bù, định thấy ưu sầu. Quỷ khóc, phụ thân đầy vẻ lo âu buồn bả, họa hại thiểu phước. Lão nhân vô cớ, khóc lệ tràn đôi mắt, ắt thấy ngay sầu bi. Trước nhà vách đổ nát, gia đạo tiêu kiệt. Suối lạch hướng trông vào trước cửa, tài bạch nhiều phần sa sút. Hốt nhiên trên mái nhà mọc nhiều cây cỏ, gia nhân an bảo nhờ âm đức. Môn hộ sáng sủa thanh tịnh, dứt sạch trần ai ắt hẳn có cao tài. Ngẫu nhiên, trước cửa xem tựa buồn thảm xui xẻo, chơi vơi, tất nô khí chủ. Thường thường tan vỡ điêu tàn non biển, đoán gia cư bất lợi. Đào hoa tươi tốt, trước nhà thấm nhuộm phong tình. Trước nhà, sau nhà trồng cây vông, chủ nhân ly biệt. Bên giếng trồng cây lê là hiệu ly hương. Tự đường thần vị thình lình bốc cháy, đề phòng hỏa ách. Trước nhà, ngói sụp đổ, chủ sự sầu bi. Ví như nhiều hang lỗ đầy mảnh bát bể, thấy cảnh bần cùng. Ban ngày không nên để đèn giữa nhà, sự chết chóc tiếp nối, công nhiên rõ ràng chuột viếng giữa trưa, chẳng thoát khỏi hao tài. Sáng chiều, gà mái gáy, âm thịnh nhà tan nát. Chó sủa tru giữa nhà, thân quyến ắt tai ách. Sáng sớm chim khách kêu liên tiếp, người đi xa sắp về. Rắn, trăn vào nhà, ngộ bịnh thấy yêu tà. Bầy chim sẻ tranh đuổi nhau cắn nhau, nhà đương thịnh ắt thấy khẩu thiệt lôi thôi. Chim cú, chim chài kêu trước cửa, nhân khảu bị liên tai. Vào nhà thấy bầy dê, gia chủ bịnh ôn hoàng. Ghe thuyền để trên cạn, tuy ổn định mà thành yểm trệ. Bóng cây nhà người vượt qua vách nhà ta, đa đắc hoạnh tài. Trước thềm, gạch đá vỡ tan mọi sự đều suy diệt. Vào nhà thấy trà quả, ứng tươi tốt, được nhiều quà biếu tặng. Ngày ba bữa khói lửa đều đều là nhà no ấm. Liên miên ngủ ngày chẳng phải thời, là triệu nhân tán tài ly. Lý tại tâm ta, đạo thánh hiền truyền để dẫn đạo phát xuất ở Tiên thiên, sâu xa thầm kín, thấu u huyền. Bài ca Động huyền với Thiên linh ứng trước, tuy là phương pháp khác nhau, nhưng cùng một mục đích, Thiên linh ứng kia phần nhiều thuộc về khoa chiêm bốc, vì sự chiêm bốc lại tùy thuộc theo sở xuất, sở kiên cùng với triệu khắc ứng. Còn như bài ca Động huyền này thì không liên hệ gì mấy với sự chiêm bốc, chỉ thuận nhịp mà ghi chép phụ thêm. Người nào có việc gì, tất nhiên có lý nấy, vì có nhiều ngụ ý để quan sát mọi sự vật xảy ra, lại để cảnh tỉnh tránh sự dữ, hoặc để chuyển rủi thành may, vô tình chẳng thấu hiểu nổi căn duyên của định mạng; khiến ta thấy chuyện thiện ác không tránh khỏi, âu cũng để làm gương soi chung vậy. Gia Chủ Họ Vương Năm Dần là số thứ 3, tháng 12, ngày mồng 1, cộng tất cả là 16, gia họ Vương (chữ Vương 王 có 4 nét) số 4, tất cả cộng lại được 20 - (2 lần 8 là 16) = 4, tức quẻ Chấn làm Thượng quái; sau gia thêm giờ Ngọ là giờ thứ 7; tổng cộng là 27 - (3 lần 8 là 24) = 3 tức là quẻ Ly làm Hạ quái. Tổng số 27 trừ (4 x 6) = 3, tức là hào 3 động thì được quẻ Lôi Hỏa Phong biến Chấn. Cách Bố Quái Năm Dần 3 + tháng 12 + ngày 1 = 16 + chữ Vương 4 = 20. 20 - (2 x 8) = 4 = Chấn. Giờ Ngọ 7: 20 + 7 = 27 - (3 x 8) = 3 = Ly. Chánh quái (Lôi Hỏa Phong) __ __ __ __ Thể _____ Chấn: Mộc _____ * Dụng __ __ _____ Ly: Hỏa Hổ quái __ __ _____ _____ Đoài: Kim _____ _____ __ __ Tốn: Mộc Biến quái __ __ __ __ _____ Chấn: Mộc __ __ __ __ _____ Chấn: Mộc Giờ Ngọ 7: 20 + 7 = 27 - (3 x 8) = 3 = Ly. 27 - (4 x 6) = 3 tức hào 3 động. Lời Đoán: Nhà họ Vương này được quẻ Lôi Hỏa Phong biến Chấn, Hổ thấy Đoài, Tốn. Chấn Mộc là Thể quái, Ly là Dụng quái, Đoài là Thể quái hổ ra, lại khắc Thể cũng kỵ, tuy được Ly Hỏa chế Đoài Kim cũng không được tốt lắm. Dụng Hỏa làm Tiết Thể Khí là triệu hao tán tư tài, mỗi khi gặp năm, tháng, ngày Hỏa tất thấy triệu ấy, hoặc nhân phụ nhân gây ra tổn thất, trong gia đạo lại có nhiều nữ tử thị phi. Đến năm Hợi, Tý, Dần, Mẹo hoặc ngày tháng ấy chủ ắt có tiền tài lợi ích, vì Chấn Mộc là Thể, tuy không gặp Khảm Thủy nhưng chung cuộc lợi Thủy niên là sinh Thể khí, lại không gặp Chấn Tốn nhưng gặp năm Dần, Mẹo là năm hợp cuộc với Thể quái. Phàm có Chấn có Tốn ngôi nhà này đến năm Dần, Mẹo cùng Mộc khí, vân niên gặp thì ắt được đắc ý. Biến quái là Trùng Chấn tất có người trưởng tử có thế lực, sau 22 năm, ngôi nhà này bị cháy. Gia Chủ Họ Điền Cũng năm Dần, tháng 12, ngày mồng 1, giờ Ngọ cộng lại như trên được số 16, cộng thêm họ (chữ Điền 田 có 6 nét chữ) là được 22 - (2 lần 8 là 16) còn lại 6 tức là quẻ Khảm làm Thượng quái, gia thêm giờ Ngọ số 7 + 22 được 29 - (3 lần 8 là 24) còn lại 5 tức là quẻ Tốn làm Hạ quái thì được Thủy Phong Tỉnh biến Địa Phong Thăng, hổ quái thấy Ly, Đoài. Tồng số 29 - (4 x 6) = 5, động hào 5. Cách Bố Quái Năm Dần 3 + tháng 12 + ngày 1 + chữ Điền 6 = 22. 22 - (2 x 8) = 6 = Khảm. Giờ Ngọ 7: 22 + 7 = 29 - (3 x 8) = 5 = Tốn. Chánh quái (Thủy Phong Tỉnh) __ __ _____ * Dụng __ __ Khảm: Thủy _____ _____ Thể __ __ Tốn: Mộc Hổ quái _____ __ __ _____ Ly: Hỏa __ __ _____ Đoài: Kim Biến quái (Địa Phong Thăng) __ __ __ __ __ __ Khôn: Thổ _____ _____ __ __ Tốn: Mộc 29 - (4 x 6) = 5 tức hào 5 động. Lời đoán: Nhà họ Điền, chiêm được quẻ Thủy Phong Tỉnh Biến quái Địa Phong Thăng, Hổ quái thấy Ly Đoài. Tốn là Thể quái thuộc Mộc, Dụng quái là Khảm thuộc Thủy là sinh, tuy Hổ quái Đoài là Kim khắc Mộc, Thể quái mà được Ly Hỏa, Hỏa tuy vô khí, kết cuộc cũng có thể chế được Kim Đoài. Tuy nhiên, năm, tháng, ngày Dậu (Đoài thuộc Dậu), ắt là có sự tổn thất. Hợi Tý (là Thủy), năm tháng, ngày Hợi, Tý ắt có tiến tài, hoặc được tài thuộc về giang biên (Thủy biên) vì Dụng Khảm sinh Thể quái Mộc (Tốn). Đến năm Dần, Mẹo thì được khoái ý lắm, vì gặp khí tỵ hoà. Nhưng trong gia đạo thường hay sinh khẩu thiệt, vì chưng quẻ Đoài. Thể là Mộc, mà gần mùa Xuân, mừng được Khảm Thủy chỗ ở này tất nhiên là vượng phát. Sau 29 năm, ngôi nhà huỷ diệt vì 29 là số của toàn quái, nếu trong quái mà không có quẻ Đoài thì sau 29 năm ngôi nhà này cũng không có việc gì xãy đến cả. Gia Chủ Họ Hàn Cũng năm tháng ngày như trên là số 16 gia thêm họ Hàn 21 nét(chữ Hàn 韓 có 21 nét) tức là 16 + 21 = 37 trừ (4 lần 8 là 32) còn lại 5 là quẻ Tốn đặt làm Thượng quái. Số 37 gia thêm giờ Ngọ số 7 + 37 thành ra 44, trừ (5 lần 8 là 40) còn lại 4 là quẻ Chấn đặt làm Hạ quái. Số 44 trừ (7 lần 6 là 42) còn lại 2 là hào 2 động. Cách Bố Quái 16 + 21 = 37 - (4 x 8) = 5 = Tốn 37 + 7 = 44 - (5 x 8) = 4 = Chấn. Chánh quái (Phong Lôi Ích) _____ _____ Thể __ __ Tốn: Mộc __ __ __ __ * Dụng _____ Chấn: Mộc Hổ quái _____ __ __ __ __ Cấn: Thổ __ __ __ __ __ __ Khôn: Thổ Biến quái (Trung Phu) _____ _____ __ __ Tốn: Mộc __ __ _____ _____ Đoài: Kim 44 - (7 x 6) = 2 tức hào 2 động. Lời đoán: Quái biến Trung Phu (Phong Trạch Trung Phu) Thể quái là Tốn, Hổ quái thấy Cấn Khôn, Biến quái thấy Đoài khắc Thể, ngôi nhà này sau sẽ có quan tụng xảy ra năm tháng ngày Dậu sau Thân Dậu niên lai thấy bịnh hoạn. Mừng được Dụng quái là Chấn thuộc Mộc gặp Tốn là Thể cũng là Mộc, thế là tỵ hoà, đáng được năm Dần Mẹo thì tốt. Sau 31 năm gặp Thân Dậu thì ngôi nhà này bị huỷ, ví bằng không có Đoài hoặc cũng không có Khảm thì sau 31 năm, ngôi nhà này cũng không có việc gì xãy ra cả. Như trên lấy họ của các gia chủ mà bố quẻ gọi là khỉ số, tùy theo quẻ của các gia chủ mà đoán. Phàm các sự hôn nhân, tang sự đều cũng gia họ. Tuy vậy về tang sự thì chỉ gia một họ đủ rồi, còn việc hôn nhân là việc của hai nhà, nên phải gia hai họ. Người ở vùng cực Bắc, không có họ thì gia tên, nếu không biết chữ để viết tên, thì lại kể từng tiếng đọc thanh âm, nếu không có tên thì tự mình ngụ ý lấy, mà biện lấy cho đúng lý. Chiêm Khí Vật Phàm chiêm Khí Vật không nên thấy quẻ Đoài, vì Đoài có nghĩa là tiêu diệt. Nhược bằng Khảm là Thể quái, mà có Đoài thì không sao. Nếu Càn là Thể quái, có Đoài cũng vô hại. Kỳ dư các quẻ khác mà có Đoài là không bền, tức là vật khí phá mộc. Hoặc Chấn Tốn là Thể quái, thấy Đoài là Dụng quái ắt chẳng chịu được lâu bền. Ngày phá khí là Thân Dậu cùng với năm, tháng, ngày chiếm quẻ. Lại nữa, nếu nuôi súc vật, cũng không nên thấy Càn, Đoài khắc Thể. Gieo trồng cây cối, nếu Càn Đoài khắc thể là bất thành, nếu có thành rồi cũng bị hủy diệt bởi dao, búa, tai ách khác. Gieo trồng nên tốt hơn là gặp Khảm. Lại nữa, muốn biết tháng, ngày hủy diệt của các khí vật, nếu Thể quái mà không bị khắc, thì lâu bền, nếu Thể quái mà bị khắc, thì chẳng được lâu bền. Xét khí số của khí vật mà được lâu bền, thì lấy số toàn quái mà đoán niên số. Xét khí số của khí vật không được lâu bền thì dùng toàn số mà kể tháng, nếu mau hơn nữa thì dùng toàn quái số mà kể ngày Tượng Đồ Phương Vị Bát Quái Thiệu Khang Tiết Tiên Sinh Mai Hoa Quan Chiết Tự. Phần III __________________________ Bài Tựa Diệu thay! Dịch há chẳng là lời Dịch sao? Vì rằng Dịch thư rất tinh vi, rất huyền diệu, vậy nên số cũng chẳng ở ngoài Dịch lý được. Tiên thiên, Hậu thiên có khác nhau, dùng hiệp âm (hợp cái tiếng) và thủ âm (chọn lựa cái tiếng) mà minh biện sự đắc thất, ưu lự, nắm lấy Hổ Biến chóng chầy làm Ứng. Số là do tiền định, họa phước khó lường, dùng Dịch lý làm sáng tỏ sự việc. Ta cầu được các Thiên như: Tiên thiên, Huyền Hoàng, Linh Ứng, ngoài ra ta còncần chọn lấy Từ dịch. Quan Mai số bày tỏ lý của ngũ hành sinh khắc, suy vượng để phân định mà tránh điều dữ, đón điều lành. Hậu học lấy đó làm gương. Lời Dịch dạy rằng: Thái cực sinh Lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh Tứ tượng; Tứ tượng sinh Bát quái; Bát quáii sinh vạn vật. Thiệu Tử bảo rằng: Một phân làm hai, hai phân làm bốn, bốn phân làm tám. Thuyết quái truyền rằng: Dịch trái với số. Thiệu Tử nói: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Từ Càn đến Khôn, ấy là được quái vị sinh, nếu suy trở lại, thì nó cũng ngang nhau theo Tứ thời vậy. Hậu thiên có 64 quái. Bát Quái Định Âm Dương Thứ Tự Càn là cha. _____ _____ _____ Khảm là trung nam. __ __ _____ __ __ Khôn là mẹ __ __ __ __ __ __ Ly là trung nữ. _____ __ __ _____ Chấn là trưởng nam __ __ __ __ _____ Cấn là thiếu nam. _____ __ __ __ __ Tốn là trưởng nữ. _____ _____ __ __ Đoài là thiếu nữ. __ __ _____ _____ __________________________ Trạch Hỏa Cách biến __ __ _____ _____ _____ __ __ Thể Kim _____ * Hỏa Kim _____ __ __ __ __ Cấn: Thổ Trạch Sơn Hàm __ __ _____ _____ _____ __ __ __ __ Hổ Tốn Mộc Ly quái sơ hào dương động biến âm, biến Cấn quái. Đoài thuộc Kim là thiếu nữ. Ly Hỏa khắc. Tốn là cổ vế. Càm Kim lại cũng khắc cho nên bị thương ở cổ vế. Nhờ được Cấn Thổ sinh Càn Kim, đoán rằng không bị thiệt mạng. Tương sinh rất tốt, thứ đến tỵ hòa. Thể Dụng là do ở vị trí biến hào, rồi mới phân định ra Động và Tịnh. Đọng ấy là quẻ Dụng, Tịnh ấy là quẻ Thể. Lại như Ly là tứ quái, Càn là cửu quái, Khảm là tam quái, Tốn là thất quái, Khảm là bát quái, Đoài là nhị quái, Chấn là ngũ quái, Cấn là nhị quái và Tốn là lục quái. Địa Lôi Phục quái biến __ __ __ __ __ __ __ __ __ __ * _____ Thể Thổ Dụng Mộc Kim Địa Trạch Lâm __ __ __ __ __ __ __ __ _____ _____ Thổ Thổ Mộc là Dụng hào, đoán ra là vật mềm, là thể văn chương, giảng ra là kim chỉ nam (la kính). Thiên Trạch Lý quái biến _____ _____ _____ __ __ * _____ _____ Thể Dụng Kim Kim Càn quái _____ _____ _____ Kim Mộc Hỏa. Quẻ này đoán ra là vật bằng sắt, tức là cái kéo cắt tóc. Trạch Hỏa Cách biến __ __ _____ _____ _____ __ __ * _____ Dụng Kim (Có lẽ sai, quẻ này phải là: Hỏa Trạch Khuê) Phệ Hạp quái _____ __ __ _____ __ __ __ __ _____ Hỏa Kim Hổ Mộc Quẻ này Dụng hào Mộc; Thể Hỏa, mùa Hja Hỏa thì vượng tính sinh Thổ, tất thị là vật bằng đất. Quy Muội quái biến __ __ __ __ * _____ __ __ _____ _____ Dụng Mộc Hỏa Trạch Khuê quái _____ __ __ _____ __ __ _____ _____ Thổ Thủy Hổ Hỏa Dụng hào thuộc Mộc, biến Hỏa, Thể quái thuộc kim, từ hào biến quái thành Cấn Thổ năng sinh Kim, đoán ra là sắt. Trạch Thiên Quải quái biến __ __ _____ _____ _____ _____ _____ * Thủy Thể Kim Thổ Kim Kim Đoài quái __ __ _____ _____ Kim Hổ Kim. Quẻ này nếu chẳng phải loài Kim thì ắt là loài đá, ấy là cái dĩa bằng đồ sứ vậy. Trạch Hỏa cách quái biến __ __ _____ _____ _____ __ __ _____ * Thể Kim Hỏa Cấn quái _____ _____ _____ Kim Hổ Thủy. Quẻ này là Trạch Hỏa Cách là thiếu nữ, vật gần là Khẩu (miệng), vật xa tượng trưng cho Dương (dê); Nội Ly là trung nữ, vật gần là Mục (con mắt), vật xa là Trĩ (chim trĩ). Sơ hào biến Cấn quái là Thổ; Thổ năng sinh Kim, thì giúp cho Đoài là em thứ; trừ bỏ sơ hào, dời lên tứ hào lại thành Tốn Mộc, vì vậy mới bị thương ở vế, nhờ được sơ hào biến cấn Thổ; Thổ sinh Đoài Kim, cho nên chỉ bị thương không đến nỗi thiệt mạng. Gần thì ví vào chư thân ở Bát quái: Càn là đầu, Khôn là bụng, Chấn là chân, Tốn là bắp vế, Khảm là tai, Ly là mắt, Đoài là miệng, Cấn là tay. Ấy thuộc về thân người vậy. Ở xa thì ví vào chư vật: Càn là mã (ngựa), Khôn là ngưu (trâu), Chấn là long 9rồng), Khảm là thỉ (con heo), Tốn là kê (con gà). Ly là trĩ (chim trĩ), cấn là cẩu (chó), Đoài là dương (dê). Ấy thuộc về súc đạo. Thiên Thủy Tụng quái biến _____ _____ _____ __ __ _____ __ __ Thể Kim Dụng Kim Kim Đoài quái __ __ _____ _____ Kim Mộc Hổ Hỏa. Thiên Thủy Tụng quái, biến Đoài vì muốn cầu tài, nhận thấy Thể quái sinh, cho nên khí bị lộ ra ngoài, thế là tài không có, lại nữa gặp quẻ Ly là Hỏa khắc Kim. Như vậy là ngày ấy, giờ Ngọ, có khách tới ăn, yêu sách rượu, rồi trở thành tiêu hao vậy. Phép Bí Truyền Về Chiêm Bốc Phàm chiếm quẻ thường sự (việc không quan trọng lắm) để biết tốt xấu, phải xem trong quẻ, có quẻ nào sinh Thể, thì cái sẽ ứng rất mau, rồi xem quẻ sinh Thể trong mục Bát quái thời tự để đoán thời kỳ, nếu quẻ sinh Thể là quẻ Dụng, thì sự việc thành tựu, nếu sinh Thể là Hổ quái, thì đoán dần dần mới thành, nếu sinh Thể là Biến quái, thì chậm hơn. Ví bằng có quẻ sinh Thể. Lại có quẻ khắc Thể lẫn lộn thì sự việc sẽ gặp trở. Sự xấu tới cũng chưa đầy đủ rõ ràng, cần xem quái khí của các quẻ khắc Thể, trở bao nhiêu ngày, như Càn khắc Thể thì trở một ngày, Đoài khắc Thể thì trở hai ngày, cứ như vậy mà suy. Như chiêm thường sự mà không có quẻ sinh Thể, lại có quẻ khắc Thể, tất sự việc không tốt, còn không có quẻ khắc Thể, thì sự tất thành đạt được. Còn như chiêm quẻ thuộc sự việc quan trọng xem trong quẻ, nếu có quẻ sinh Thể thì sự việc có thể cứu vãn được, vô hại, nếu không có quẻ sinh Thể, thì sự việc không được tốt. Muốn luận về nhật kỳ xem trong quẻ có quẻ sinh Thể, ắt sự việc sẽ ứng vào ngày quái khí của quẻ sinh Thể, nếu có quẻ khắc Thể thì sự việc sẽ thất bại vào ngày quái khí của quẻ khắc Thể. Cần phải lanh trí mà xét đoán mới được. Thể, Dụng, Hổ, Biến Pháp Thuật Đại phàm xem quẻ lấy Thể làm chủ, Hổ, Dụng, Biến đều là Ứng quái. Quẻ dụng rất là khẩn thiết, Hổ quái là thứ khẩn, Biến quái là thứ khẩn hơn. Vì cớ ấy mà gọi Dụng quái là ứng tức thời, Hổ quái là trung gian ứng, còn Biến quái là kết cục của sự chiêm quẻ. Song le: Hổ quái phải phân ra có: Thể quái hổ ra; có Dụng quái hổ ra. Nếu Thể quái ở trên (phía trên), thì Hổ ở trên tức là Thể hổ ra; Dụng quái ở dưới (phía dưới) thì Hổ ở dưới lại là của Dụng hổ ra. Trái lại, nếu Thể quái ở dưới, thì hổ ra cũng nằm dưới, còn quẻ Dụng nằm trên, hổ ra cũng nằm trên. Quẻ Hổ của Thể hổ ra rất là khẩn, rồi mới tới quẻ Hổ của dụng khẩn. Ví như quẻ Quan Mai là Hằng quái (Lôi Phong Hằng), Hổ thấy Đoài và Càn Đoài là thể quái, Hổ thấy nữ tử bẻ bông. Ví như càn là Thể, Hổ sẽ thấy lão nhân bẻ bông. Xét Đoài Càn đều khắc Thể hết, chỉ lấy Đoầi mà không lấy Càn. Như vậy là cách phân chia giữa Thể, Dụng và Hổ. Đại phàm, xem quẻ nếu Biến quái khắc mà Thể, thì sự việc hậu lai không được tốt; nếu Biến quái sinh Thể và tỵ hòa thì sự biệc cuối cùng có cát lợi. Như vậy là pháp thuật của Dụng, Hổ và Biến vậy. Pháp Thuật Về Thể Dụng Sinh Khắc Phàm chiếm quẻ, thì lấy quẻ mà phân ra Thể Dụng, Hổ Biến, tức là dựa vàolý của Ngũ Hành, để đoán cát hung, lẽ tức nhiên lý sinh khắc là do ở Nội, Ngoại, Thể, Dụng, Hổ, Biến mà xét đoán. Ví bằng, Ngoại quái tất phải minh định cái lý cho tinh vi của sự chân sinh và chân khắc, của ngũ hành mới định khinh hay trọng, thì họa phước ứng ngay tức thì. Sao vậy? Thí dụ như Càn Đoài thuộc Kim là Thể quái gặp Hỏa thì khắc. Song le có chân Hỏa thật sự, và có Hình sắc Hỏa. Chân Hỏa mới thực sự là khắc Kim, còn Hình sắc Hỏa thì không tốt, mà Hình sắc Hỏa thì không khắc, mà chỉ không được thuận mà thôi. Thí dụ: Thấy Hỏa ở trong lò nung, đốt, hoặc Hỏa ở bếp nấu, ấy thật là chân Hỏa chân khắc vậy; lại như Hỏa ở đèn, đuốc, lửa cháy có ngọn lửa, tức là chân Hỏa, nếu Càn Đoài là Thể mà gặp các thứ Hỏa đó là không tốt. Còn như Hình sắc Hỏa như ánh lửa, lửa ở cây cỏ mục, tức là Hình sắc Hỏa, không phải thật chân Hỏa thì ví dù Thể là Càn Đoài cũng chẳng ngại. Còn như Hỏa ở một cây đèn nhỏ, một cái đóm nhỏ, tuy là chân Hỏa nhưng nhỏ và ít, thì kể như khinh (nhẹ), chỉ bất lợi chút đỉnh thôi. Bây giờ, như Chấn, Tốn thuộc Mộc là Thể, lẽ tự nhiên gặp Kim thì khắc. Song le, loại kim như vòng, xuyến, khuyên vàng, lại như loại kim ở cái miệng bát, cái lư, cái mâm làm bằng kim khí, như đồng, bạc, chì, kẽm, sắt vụn vặt tuy là loài chân Kim mà làm sao khắc được. Mộc chỉ sợ nhất là loài Kim như gươm sắc, dao bén, búa chặt, cưa đục: Chấn Tốn mà gặp phải thì rất xấu. Lại như Ly là Hỏa là Thể gặp phải Thủy thì rất tối kỵ. Nhưng thí dụ như hình sắc đen, thể ẩm thấp như huyết cũng thuộc Khảm Thủy, vốn kỵ nhưng thật ra thì chẳng hại gì. Tất cả các quẻ trên là Thể quái, mà gặp Ngoại ứng khắc Thể, tất phải luận cái khinh và trọng mà đoán. Xét về nhứng cách sinh Thể, cũng nên minh biện rõ ràng Thổ như gạch, ngói cũng đều là đất thuộc Khôn, nếu gặp được Kim thì Thổ sinh Kim, còn gạch ngói thì không thể sinh Kim được. Cây cối, củi đốt đều thuộc Mộc cả, gặp Ly Hỏa thì khắc, nếu là cái đuốc thì chống khắc Hỏa; còn như cây lớn mà chưa đốn xuống thì sinh Hỏa đâu có chống được. Thể là Mộc mà gặp Thủy thì điềm phước đức, nhưng như sữa, máu huyết đều là Thủy cả, gặp những loại như vậy ví dù là Khảm mà sinh Mộc, như thế đó đều gọi là loại khinh cả. Ngoài ra ngũ hành sinh khắc, đều phải phân rõ ràng từng loại mà đoán. Thể, Dụng Suy Vượng Pháp Thuật Phàm Thể quái phải vượng, khắc Thể quái phải suy, khí quái của Thể như mùa Xuân thuộc Mộc, Hạ thuộc Hỏa, Thu thuộc kim, Đông thuộc Thủy, bốn tháng tứ quý thuộc Thổ, đều thuận với thời tiết cả, nên gọi là thừa vượng khí. Nếu có tha quái khắc thì cũng vô hại. Dụng quái, Hổ quái, Biến quái mà vượng thì tốt. Chẳng những chỉ không nên có khí vượng của quẻ khắc Thể, mà khí của Thể quái lại suy thì cũng không tốt được. Chiêm quẻ nếu gặp phải như vậy thì ví như chiêm bịnh, ắt phải chết. Chiêm tụng sự ắt phải thất bại, nếu không phải là chiêm bịnh hay chiêm tụng sự mà là chiêm thường sự đi nữa, thì cũng phải đề phòng bịnh hoạn, quan tai. Muốn biết nhật kỳ xảy ra, hay gặp phải thì cứ xét ngay khí quái của quẻ khắc Thể, tức ta lấy thời kỳ đó vậy. Trái lại, khí của quái Thể vượng, mà khí của quẻ sinh Thể lại vượng nữa, thì sự việc rất tốt, mau chóng thành đạt, muốn tìm cái sự xuất phát lúc nào, cứ xét ngày giờ của quẻ sinh Thể là biết. Nhược bằng Nội quái và Ngoại quái có nhiều cách sinh Thể, mà Thể quái tuy là suy thì cũng không hại lắm. Nếu nội, Ngoại đều không có quẻ sinh Thể, tuy là Thể quái có nhiều quẻ đồng hành với Thể (thuộc vào hành nào đó, giống như hành ở Thể quái) là suy quái vậy, rúy cục cũng không được tốt. Vì lẽ ấy, cho nên Thể, Dụng cần phải xét thịnh suy cho tinh tường Chiêm Tọa Đoan Pháp Thuật Tọa đoan nghĩa là lấy chỗ ta ngồi là chánh giữa, bát vị bày ra tám phương, xem quẻ quyết đoán , không nên cố chấp ý kiến của mình, mà phải theo cái ứng ngồi làm đích xác. Xét bát quái bát phương ứng triệu, như vậy gọi là chiêm quẻ theo ứng của tọa đoan, tùy theo phương quái sinh khắc mà định cát hung của người: - Cung Càn: có Thổ sinh, hoặc cung Càn có triệu tốt, thì người tôn trưởng, lão nhân có hỷ sự, nếu quẻ Càn có Hỏa khắc, hoặc triệu hung, ắt người tôn trưởng, lão nhân chắc có ưu sự. - Cung Khôn: có Hỏa sinh, hoặc cung Khôn có triệu tốt, thì mẫu thân hoặc chủ âm nhân có sự vui mừng, Khảm cung thấy khắc hoặc có triệu hung, thì chủ lão mẫu, âm nhân có tai ách. - Cung Chấn: có Thủy sinh và Đông phương Chấn cũng có triệu tốt, chỉ sự vui thuộc về trưởng tử, trương tôn, nếu thấy khắc hoặc thấy hung triệu, trưởng tử, trưởng tôn sẽ bất lợi. - Cung Khảm: nếu thấy ngũ kim hoặc cát triệu, chỉ người trung nam có lợi, nếu thấy Thổ khắc hoặc thấy hung triệu, người trung nam có sự ưu phiền. - Cung Ly: tốt nhất là gặp Mộc sinh, hoặc được cát triệu thì trung nữ có sự vui, nếu gặp khắc hoặc thấy hung triệu, người trung nữ bị tai ách. - Cung Cấn: thuộc về thiếu nam, gặp được Hỏa sinh, hoặc thấy cát triệu thì tốt cho người thiếu nam, nếu gặp khắc lại gặp hung triệu, người thiếu nam bị tai ách, nếu xem về sinh sản chắc không nuôi được. - Cung Đoài: thuộc thiếu nữ, nên gặp Thổ sinh, thấy ứng lành người thiếu nữ được an vui hỷ sự, nếu hỏi về bịnh, gặp quẻ Càn nếu bị khắc, bị bịnh ở đầu; Khôn cung thấy khắc, bịnh ở bụng; Chấn thì bị ở chân; Tốn ở vế; Ly ở mắt; Khảm ở tai và huyết; Cấn ở tay, ngón tay; Đoài ở miệng, răng. Nếu khắc tất phải thụ bịnh. Vả lại trong tám đoạn (tám nguyên nhân) nói trên, đoán là do người có biệt tài chiêm bốc và ý đoán giỏi. Nay dẫn giải pháp thuật tọa đoan, để làm lệ án vậy.(Hình như thiếu cung Tốn) Pháp Thuật Chiêm Bốc Khắc Ứng Khắc Ứng có nghĩa là khắc kỳ ứng nghiệm. Trong pháp chiêm bốc nếu không có khắc ứng thì không thể biết được thời kỳ, lúc nào các sự việc cát hung, thành bại, vậy cho nên khắc ứng rất cần thiết cho quẻ. Song le, sự khắc rất khó biện, có lúc dùng số để biện khắc, có lúc dùng lý mà biện khắc, đều phải cần yếu mà bàn đến. Dùng số mà khắc kỳ ắt phải minh tường cái lý. Như bói xem gia trạch, lúc mới xây cất, nam nữ lúc mới kết hôn. Phần mộ lúc mới chôn. Khí vật, vật dụng lúc mới sắm, đều lấy năm tháng ngày giờ khởi tạo, rồi gia số sự vật mà bố quẻ, đã thành quẻ rồi, xét xem thể Dụng, Hổ Biến toàn quái mà ước định thời kỳ, như xét về sự đoán mau, chậm mà định kỳ. Như Ốc trạch, phần mộ là thuộc về trường cửu, về ốc trạch phải lấy số của toàn quái mà định thời kỳ chung cuộc của ốc trạch, vì ốc trạch cũng có thời kỳ hủ hoại. Phần mộ, cũng có thời kỳ hủ hoại, tuy nhiên chiêm về phần mộ chỉ xem cho biết tốt xấu thôi chứ không có định thời kỳ hủ hoại. Về hôn nhân lâu cũng chẳng qua niên số của quẻ, lấy toàn quái mà đoán, lâu cũng bằng bằng sự trường cửu của ốc trạch vậy. Tuy nhiên, xem hôn nhân chẳng chỉ muốn biết sự tốt xấu mà thôi, chứ không định thời kỳ. Ví bằng muốn biết kỳ tốt xấu thì lấy năm, tháng của quẻ sinh Thể hay tỵ hòa mà định thời kỳ tốt và lấy năm tháng của quẻ khắc Thể mà định thời kỳ không tốt. Chiêm khí vật như đất đá là chất trường cửu, loài thảo mộc thuộc loại ít lâu bền; lâu thì lấy số toàn quái làm niên kỳ, còn ít lâu thì lấy số toàn quái làm nguyệt kỳ và ít lâu hơn nữa thì lấy số toàn quái làm nhật kỳ. Như cái nghiên mài mực, thì lấy số toàn quái kể niên kỳ, chí như cái bút mực không lẽ cũng lấy số toàn quái mà kể năm sao? Phải kể là nhật kỳ mới được, như thế gọi là định kỳ, khắc ứng cho khí vật. Tiên sinh quan Mai và Mẫu đơn, là loài hoa thuộc loại sớm nở chiều tàn, cho nên lấy lý mà suy, thì chẳng có thể nói sự lâu bền dài ngày được. Lại như ở quẻ Hậu thiên, lão nhân, thiếu niên, gà gáy, bò rống, dùng phương quái hợp với vạn vật quái số mà đoán, các sự vật như lão nhân, thiếu niên, gà gáy, bò rống, đều cũng lấy nhật kỳ mà đoán thôi. Ví như chiêm sự vật gì về loại trường cửu, lấy ngày làm tháng, lấy tháng làm năm. Như chiêm về sự tầm thường (không quan trọng lắm) mà muốn biết rõ cái sự, muốn định khắc kỳ thì lấy số toàn quái, xét cho kỹ càng, lấy quẻ sinh Thể để định kỳ cát ứng, lấy quẻ khắc Thể định kỳ hung ứng, xa thì lấy số toàn quái kể năm, gần thì lấy số tòan quái kể tháng, còn gần nữa thì lấy số toàn quái mà kể ngày. Như chiêm cầu danh, nếu Càn là Thể quái, xem trong quẻ có Khôn Cấn, thì đóan tháng ngày Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, vì Càn Đoài thuộc Kim là Thể, là ứng sinh Thể. Ấy gọi là cát sự. Lại ví như chiêm bịnh, nếu Càn là Thể quái, xem trong quẻ có Ly thuộc Hỏa, trong quẻ không có Khôn, Cấn, tức là quẻ sinh Thể, nếu còn phạm thêm hung triệu nữa, đoán con bịnh phải chết vào ngày Tý Ngọ hoặc Hỏa nhật, như vậy gọi là khắc Thể, ấy là kỳ hung của sự. Còn như chiêm về hành nhân, lấy ngày của quẻ sinh Thể làm ngày quy kỳ; không có ngày của quẻ sinh Thể và không có ngày của quẻ tỵ hòa, thì về ắt chậm (nghĩa là không có quẻ sinh Thể hay không có quẻ tỵ hòa). Nói theo luật lệ trên thì hoàn toàn khó tả cho hết. Học giả hãy khảo xét kỹ càng. Vạn Vật Phú Nhân sinh thọ bẩm âm dương, quái phân chia ra tiên và hậu. Thông suốt sự việc đương thời, gần ví chư thân, xa ví chư vật, quan niệm ý thức của vật lý, Tịnh do ở đất, Động do ở trời. Xét vạn vật có số, Dịch số lại vô cùng, động tịnh mà biết được cũng chẳng ra ngoài Huyền thiên. Cát hung tất thấy rõ, chẳng thể tránh khỏi hiện ra trong hào tượng, trước chưa thành quái thì rấp tâm mơ ước cầu ứng nghiệm, sau đã thành quái rồi xem khắc ứng mà đoán cát hung của âm thanh, ngôn ngữ, sâm từ, hình ảnh, vãng lai, triệu chứng, đều do tâm ta chứng nhận được. Trải qua sáu hào đã định, tam thiên thể hiện, trước tìm cái nguyên nhân của quái tượng, sau đó xét cái chân lý của khắc ứng, xem xét gặp cát triệu, kết cuộc là tốt, thấy hung triệu khó tránh khỏi điều hung. Muốn biết sự việc của người, ắt hẳn phải dựa vào tai mắt của ta được nghe thấy. Chưa thành quẻ mà đã nghe thấy rồi, nghe thấy là cái cơ vị lai của sự việc. Cảm nghe thấy sự huyên náo, tức chủ đấu tranh; nghe lời nói vui cười là triệu cát khánh, nghe phụ nhân than khóc thì âm chủ kiến tai; xe tới quan lai ắt thấy quan tư từ tụng; gặp xiềng khóa tức là xiềng xích tâm thân, thoảng gặp roi vọt, vì roi đòn ắt đến kiện thưa; gặp đồ tể khiêng thịt ắt cốt nhục tai ương; gặp huyết quang (gặp thứ gì có huyết, ra huyết), hại về mùa màng súc vật; gặp đồng bóng (thuộc về phù thủy), thầy thuốc, bánh bộ (đồ cho người ốm ăn), bịnh hoạn tâm môn, nghe lời nói bất chính (gian dối) ắt phạm phải gia tiên, gặp rượu thì sai lời nguyện thần linh. Đàn bà tới, nữ tử thụ ách, đàn ông tới nam tử thọ tai, lại phải xem tượng trong Bát quái, chẳng khá chấp một lối mà bàn luận. Quẻ tốt gặp hào tượng tốt, tất chẳng có hoạn nạn gì, quẻ xấu gặp triệu hung, không sao tránh khỏi tai nạn. Gặp người bận đồ tang, hoặc đồ âm công tất là điềm tang phục. Cầm trượng ra hiệu là triệu khấp mãn đường. Thấy người buồn tất xảy ra sự buồn; thấy người vui gặp hỷ sự. Xem xét sắc hình để quyết ý đoạn tâm, nghe cổ nhạc huyên thanh cùng thấy tửu bôi trản vật (chén rượu, đồ đựng rượu) chẳng phải nghinh hôn thì cũng tiệc yến. Muốn biết ứng ngày nào, hãy xem hào tượng định số; Tốn5, Khôn 8, Ly 3, Khảm 6, lại xem xa gần khắc ứng để đích đoán tượng kỳ; ứng xa thì toàn quái tương đồng (theo số của toàn quái); ứng gần thì suy thời mà đoán. Giả như quẻ Thiên Địa Bỉ, trên Thiên (Càn), dưới Địa (Khôn) là tám; lại gặp Trạch Hỏa Cách, trên Đoài là hai, Ly dưới là ba, cứ thế mà suy, muôn vàn không sai một. Trên đây là ứng triệu nhân vật, xét suy cho rõ ràng. Còn như điểu thú ứng triệu thì như: chim khách kêu tất thấy triệu vui mừng; chim quạ kêu là họa sẽ tới. Trâu chó, heo dê gặp ngày Kim thì lục súc sẽ bị tổn. Ngày Mộc thấy heo, nuôi heo tất vượng. Canh nhật thấy gà gáy. Đinh nhật thấy dê vượt qua, là triệu hung nhẫn chỉ sát (chém giết) Tỵ nhật gặp ngựa, Nhâm nhật gặp heo, đều là triệu hưởng lộc thực. Thấy triệu tốt trăm việc đều thông; thấy triệu xấu mọi việc đều trở trệ. Nhược cầu tài, vấn lợi, dựa theo khắc ứng mà suy, thấy trấp thấy rương đều là dụng cụ chứa tài. Thấy dây thấy lạt, đều là vật xâu tiền (xưa ta hay dùng dây để xâu tiền thành từng chuỗi). Gặp châu báu lụa là, sự viếc đều nên. Gặp đao gặp kiếm thật là tổn hại. Suy xét toàn quái, chớ nên chấp nhất. Gặp tài thì có tài, không gặp tài thì vô ích. Phàm gặp việc gì nguyên vẹn chỉ sự tất thành, gặp vật hư hao sứt mẻ chỉ việc ắt bại, cho đến việc hôn nhân cũng đều như vậy; gặp vật nguyên vẹn, hôn nhân thành tựu, gặp vật sứt mẻ, nửa đường đứt gánh phu thê. Thấy củi than, chủ lo âu; thấy lúa chủ bi ai; thấy gạo mới thật kỳ (tốt); thấy đậu tất thương, thấy hài thấy dép chủ sự đều nên; thấy con cờ (kỳ), thấy thuốc (dược), cùng người ước hẹn (kỳ ước); thấy búa, rìu, cưa, đục ắt có việc tu tạo. Cơ trử lương thực là triệu đi xa. Nghe chim kêu mưu sự hư vô; nghe tiếng trống, giao dịch hoàn không. Lau mặt, dụi mày là triệu khóc rống. Cầm dao thấy huyết, đề phòng ngoài có mưu trùng độc. Khắc ứng đã nói rõ ràng, bây giờ giải bày sự ẩm thực. Thấy nước tức là ăn uống có rượu, thịt nướng. Thấy gạo được ăn; thấy cầm cái nậm, tất được mời uống rượu. Thủy tức được ăn đồ cá tôm, hải vị. Thổ thì được ăn thịt trâu dê và rau, miến canh. Thấy dao, chày đá là được ăn thịt nướng, ấy là khắc ứng tam thiên, thông đạt được sự bí mật then chốt của vạn vật, được như vậy là huyền diệu biết bao. Ẩm Thực Thiên - Càn: là tượng của Thiên (trời) bền chắc mà vị thì cay. Là đầu của chim muông (con vật dùng để tế thần) - là ngựa - là heo - Mùa Thu gặp Càn, ăn uống no say; mùa Hạ gặp Càn ăn uống sơ sài; mùa Xuân thì hưởng vật thời tân(*), quả, rau các loại; mùa Đông thì ăn đồ lạnh cách đêm. Nếu cùng Khảm, thì ăn đồ giang, hồ, hải vị. Có Thủy thì ăn rau quả và trân tu (đồ ăn quý lạ). - Cấn: là Thổ, vật nấu chín - Mùa Thu ăn cua; mùa Xuân ăn thịt ngựa, đồ thịt nhiều mà vị thì cay, dĩa bát dùng toàn đồ kiểu, đồ sứ, ly chén bằng vàng bằng ngà - Rau thì rau cần - Vật thuộc loại có lông - Khắc xuất thì ăn thịt sinh vật như ngỗng, vịt chẳng hạn - Khắc nhập thì ăn đồ rau ráng chốn thôn quê. - Khôn: là tượng Địa (đất), có viễn khách, cố nhân đến, đồ dùng toàn đồ kiểu, đồ sứ - đồ ăn thì gạo, nếp, trái cây, món làm bằng tay thợ khéo - Tịnh là Lê, táo, ngó sen, măng tre - Động thì cá hộp, dê tươi - Không chả, không nem thì cũng thịt ướp, cũng là dạ dày, lạp xưởng, ruột - Đãi khách lại có đàn bà, khắc có khẩu thiệt - Khắc xuất thì ăn các sinh vật như chim muông. Khắc nhập thì đồ ăn nấu nhiều thứ khác nhau (lẫn lộn) - Thấy có Càn Đoài, ăn đồ thái mỏng, cắt nhỏ - Thấy có Chấn Tốn thì ăn đồ tân sinh, mà nấu theo lối cũ - Sắc đen, vàng, vị thì ngọt - Gặp Thủy Hỏa đồ ăn thì nấu chưng - Tứ thời đều là lúa gạo, lúa mì, ắt lại có mè gừng gia vị. Phải nên xét kỹ càng, ắt đoán có hiệu nghiệm. - Tốn: chủ văn thơ (nghĩa là có văn thơ hay danh thiếp mời nhau), thời gian vắt tắt, hòa xướng luận bàn - Có khách lạ, có thông gia, cố nhân cựu giao hoặc chủ có khách xa định kỳ phó hội - Sắc trắng xanh, chỉ tịnh ngay thẳng - vị chua hình tượng dài - Đào, lý, Mộc quả, dưa, đồ ăn chay lạt - Là cá, gà, đậu, miến, chẳng phải là đồ trợ cấp, biếu tặng, mà là đồ ăn tự tay cày bừa lấy mà dùng - Có Đoài, Càn, ăn đến sanh bịnh - Có Khôn đồ ăn tuy không khéo nấu thì cũng rán, rang, rau, dưa thô bạc - Ly thì trà sao, chè - Có Khảm thì có tửu thang, đồ ăn không có sinh vật, nửa chay nửa lạt - Có Cấn, hội lân lý, có quý nhân đồ ăn chẳng nhiều, chỉ vừa thích miệng. Dâu, quít, rau quả có đốt có lóng, đốn hái ở chốn sơn lâm, hổ báo, thỏ nai, chài lưới, bẫy, dò - Gạo, mè, miến, mì - Khắc nhập, đồ ăn nhiều mà khác nhau (lẫn lộn), bị khẩu thiệt, thị phi, âm tai (là đàn bà), kết cuộc chẳng được ăn - Khắc xuất có thịt dê - Vị ngọt, sắc huyền, hoàng (vàng). - Khảm: tượng Thủy; thủy cận hải nội, hương vị, loài có vảy nhỏ hoặc thú bốn chân; phàm các loài vật ở nước đều là đồ ăn uống. Nơi chốn là chỗ có tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng trống hoặc ở chỗ lễ lạt (ý nói lúc ăn ở chỗ có âm nhạc, hoặc chỗ đám đình) - Sắc đen - Vị mặn - Khắc xuất thì có rượu, đồ ăn có sinh vật như cá, heo - là con mắt, lỗ tai, huyết - Canh nấu vị các vật, rượu, tương - Ngộ Ly, thì bàn luận văn thơ - Gặp Càn thì đồ ăn hải vị. - Chấn: thuộc Mộc - Bạn rượu thì thô lỗ, quái gở lạ lùng - Quả của cây lớn - Rau ở vườn, rừng - Sắc xanh - Vị chua - Đồ ăn nhiều, khách hội thì ít - Đồ ăn hơi tanh, hôi giống dê, hoặc có đồ nhắm thơm lạ - Với Ly chỉ về muối, trà - Cùng Khảm thì muối và dấm. - Ly: là giao dịch, văn thơ, hoặc thân thích, sư nho cùng dự tiệc có người lễ mão, trong tiệc có lắm kẻ anh tài - Đồ ăn nướng thui, thỉnh thoảng lại có trà, muối - Tiếp khách giữa ban ngày. Tuy nhiên có dùng nến soi sáng, cuối Xuân đầu Hạ - Phàm vật có hoa - Lão nhân chẳng nên ăn - Tâm sự chẳng yên, trẻ tuổi nên thích đáng - Nên giảng luận hửu ích - Là gà, chim trĩ, cua, rắn - Sắc đỏ, vị đắng - Tính nồng nhiệt khí thơm - Gặp Khảm uống rượu sinh cãi nhau - Gặp Tốn chỉ rau, dưa sao, xào nhi dĩ. - Đoài: thuộc bạch kim - Vị cay - Sắc trắng- Có bạo khách (kẻ hung bạo) xa tới, hoặc giao tranh với kẻ ở gần kề - Phàm động vật là dao, chày đá - Vị toan đồ cay - Đồ ăn là những thức gói, đùm, ướp muối - Rau, rau phỉ, rau lăng, củ cải, củ ấu, hành - Thịt sống, cá tươi - Vượng thì dê, ngan, ngỗng - Cùng dự tiệc có người vượt quyền hạn của mình, hoặc nữ ca xướng - Đơn (ít) chẳng có khẩu thiệt, trùng (nhiều) được hoan hỷ - Sinh xuất được ăn nhiều - Khắc xuất có hảo sự. (*) Thời Bài Ca Đoán Các Vật Rất Huyền Diệu Đoán vật tuy không cần thiết lắm cho đời; nhưng các học giả cũng nên lấy đó mà nghiệm, mới biết Thánh hiền làm Dịch rất linh ứng vậy. Vật ở đời cũng có số, vì cớ ấy nên: Trời tròn, đất vuông, đó là hình của vật. Trời huyền, đất hoàng (vàng), ấy là sắc của vật. Trời động, đất tịnh, ấy là ngôi thứ của vật. Càn cương (cứng), Khôn nhu (mềm), ấy là thể của vật. Vì lý do đó nên bảo: - Càn: là tròn mà cứng, quý và bền là loài kim, loài ngọc, sắc đỏ, hòn lớn, cái đầu, quả, vật ở trên; thấy Đoài là hủy, chiết; gặp Khảm bị chìm đắm; gặp Ly là loài kim nung luyện; gặp Chấn là vật chuyển động; gặp Tốn là trái cây và tròn; gặp Khôn Cấn chỉ đá ở trong đất; gặp Hỏa thì thành khí vật, Đoài là mũi nhọn của đầu kiếm - Mùa thu mà gặp có giá trị cao, mùa Hạ mà gặp thì suy vậy. - Khôn: hình thẳng mà vuông, sắc đen và vàng, là văn, vải, xe lớn, búa - Về vật có voi, ngưu (trâu); về tínhcó ác mà động; gặp Càn vừa tròn vừa vuông, khá sang, khá bền; gặp Chấn, Tốn là khí vật dài; gặp Ly là văn chương; gặp Đoài là vàng ở trong đất ra; gặp Cấn thuộc vê loài đá đất cứng rắn. - Chấn: sắc huyền và vàng mà có nhiều sắc xanh, là cây, tiếng, tre, cỏ lau, cỏ rậm rạp, trên mềm dưới cứng, chấn động, sợ sệt - Gặp Càn vật có giá trị; gặp Đoài cây vô dụng; thấy Cấn đá ở sơn lâm, thấy Khảm loài có hơi (khí); gặp Tốn cành là; gặp Ly có hoa. - Tốn: sắc trắng, khí thơm, thảo mộc, cứng mềm; thấy Ly thuộc về văn thơ; thấy Đoài Càn cây vô dụng, ắt gặp kim đao; thấy Khôn Cấn loài thảo mộc; thấy Khảm Đoài vật ăn được, dài, thẳng; gặp Chấn, mùa Xuân thì sinh, mùa Hạ thì lớn - Rau quả của loài thảo mộc. - Khảm: sắc đen, vừa tròn vừa vuông, vật mềm và thối nát, ở trong vật cứng ở chỗ ẩm thấp; phần nhiều là vật ở trong nước - Gặp Càn cứng tròn; thấy Đoài hư nát, ở chỗ nước đục ẩm thấp; gặp Chấn Tốn vật ăn được; gặp Ly là quẻ thủy Hỏa Ký Tế là giả thủy mà xuất, giả hỏa mà thành, lại là vật ứ động không thông được; gặp Đoài có đái khẩu (vật có lỗ, có miệng); cùng Chấn Tốn có cành lá, có bông hoa. - Ly: sắc vàng, xanh, thể thì khô và dòn, tính thì trên cứng dưới mềm như đá trên núi, loài đồ gốm, đồ sành, đá nhỏ trên núi; chỗ cửa ngõ, đường xá - Gặp Càn thì cứng, gặp Đoài thì hủy nát; gặp Khôn là đất khối; gặp Tốn vật thuộc loài thảo; gặp Chấn loài cây; gặp Khảm vật ở ven sông; gặp Ly đồ gốm; gặp Chấn Tốn vật ở bờ rào, vách, tường, bờ dậu. - Đoài: sắc trắng, tính ít nhu, nhiều cương, là hủy hoại, gãy nát, mà thấp, loài kim có miệng có lỗ mà tròn - Thấy Càn thì trước tròn, sau khuyết; gặp Cấnlà loài kim, đá vất bỏ (phế khí); thấy Chấn Tốn là vật bóc, lột, vót, gọt; thấy Khảm là vật thuộc thủy; gặp Cấn thì vật cứng nhiều; thấy Khôn mềm nhiều, lớn lên ở trong ao đầm, loài ở trong nước mềm mà được thành khí vật. tân: vật đầu mùa. Bài Ca Hưởng Ứng Các Sự Vật Buổi khai thiên lập địa, lộn xộn mờ mịt nên loài người, sự cát hung hưởng ứng (tiếng vang trở lại, dội lại) càng khó tránh. Tiên hiền xưa đã để sẵn âm luật, cái chuẩn tắc đặt ra Quan Mai, làm ra Chu Dịch, sự nhiệm mầu sâu kín mênh mông, bát ngát, không bờ bến, dặt ra các thuật, nhiều lời nói hay, mà người chẳng ghi chép được. Đại để Thể cần phải dụng quái sinh, vượng cùng có kế hoạch, mới kết cuộc có ích, tỵ hòa là tốt, khắc là xấu. Thể sinh Dụng cũng là triệu xấu. Hỏi trời mưa, trời tạnh ráo, nếu khôg có Khảm, Đoài là nắng hạn không mưa; có Khảm, Đoài nói cho cùng thì trời mưa liên tiếp. Hỏi trời tạnh thì chỉ có Cấn, Ly, Bí quái (tức Sơn Hỏa Bí đáp ứng mà thôi. Càn minh (sáng suốt); Khôn hối (tối tăm); Tốn đa phong (gió to); Chấn chủ sấm sét, định chẳng lầm. Phàm chiêm nhân sự, Thể khắc Dụng, chủ sự hanh thông, khá may được tỵ hòa là tốt, khắc là hung, lại xét xem trong quẻ có quẻ nào chứng minh trạng thái. Càn chủ công môn ấy là lão nhân, Khôn gặp âm nhu gọi là Thế ứng. Chấn là phương Đông hoặc ở sơn lâm. Tốn cũng là hoa quả phẩm ở chốn sơn lâm. Khảm thuộc Bắc phương cũng chung hàng rượu, cùng thủy tinh (người có họ tên bộ thủy), cá muối, nên lấy tài năng mà định đoạt. Ly là văn thơ, chỗ lò nung đúc loài kim thì có lợi, cũng gọi là phương Nam, nhan sắc lẫn lộn khác nhau. Cấn thuộc Đông Bắc mà cũng là sơn lâm tài(*). Đoài là phương Tây, cũng là chốn vui mừng thỏa đáng; sinh Thể, khắc Thể ghi chép lại để làm ứng chủ sự. Phàm chiêm gia trạch, Thể quái là chủ, vượng tướng nên hiểu biết đó là lợi điều tài. Sinh Dụng bị hao tài của tán. Tỵ hòa gia thế yên vui, khắc thể là hung. Đoán về sinh sản, Thể quái là mẹ, lưỡng nghi (cả hai mẹ lẫm con), phải sinh vượng, chẳng nên suy. Xét sự kỳ ngộ để xem trai hay gái, quẻ Càn thì dương, Khôn là âm, lại xem người đương thời (nghĩa là xem số người chẵn hay lẻ, hoặc nhiều nam hay nhiều nữ), cũng tìm xem hào nội, nhiều âm thì gái, nhiều dương thì trai. Theo số ấy, cái lý rõ ràng của Dịch. Chiêm hôn nhân, Thể sinh Dụng tất nan thành, tỵ hòa, khắc Dụng đại cát lợi. Chiêm ẩm thực, Dụng sinh Thể, cỗ bàn thịnh soạn, sinh Dụng khắc Thể ẩm thực tất nan; khắc Dụng ắt không, tỵ hòa ắt có Khảm, Đoài là rượu, Chấn là ngư (cá), tùy suy, vượng Bát quái mà dò xét. Chiêm cầu mưu được xứng ý là tỵ hòa; Thể khắc Dụng thì mưu sự chậm. Cầu danh có Thể khắc Dụng nên danh; Dụng sinh thể hay tỵ hòa cũng tốt. Cầu tài, Thể khắc Dụng có tài ngay; Dụng sinh Thể hoặc tỵ hòa, ắt xứng ý. Giao dịch, Dụng sinh Thể hoặc tỵ hòa ắt có lợi, chắc chắn khỏi lo về sau. Xuất hành, hể khắc Dụng, hoặc Dụng khắc Thể rất được vừa ý, chỗ nào mình muốn tới; Khảm nên đi bằng thuyền; Ly nên lên đường sớm; Càn Chấn thì nên động; Khôn Cấn thì nên ngừng. Còn hành nhân, Thể khắc Dụng sẽ về chậm, sinh Thể với tỵ hòa ắt người về sớm. Hàm tốc (quẻ Trạch Sơn Hàm) thì về mau; Hằng từ (quẻ Lôi Phong Hằng) về chậm; Thăng (quẻ Địa phong Thăng) chẳng về; quẻ Cấn bị trở ngại; quẻ Khảm ắt có hiểm họa, người nên nhìn kỹ. Yết kiến muốn được gặp người, cần nên Thể khắc Dụng hoặc tỵ hòa, hay Dụng sinh Thể, gặp ngay được việc. Đoài chủ ngoại kiến; Tụng (quẻ Thiên Thủy Tụng) bất thân (không thân thiết lắm); Càn thì lợi đại nhân, trưởng giả. Xem thất vật, Thể khắc Dụng, nên mau chóng kiếm tìm, theo quái tương sinh,tỵ hòa, của mất sẽ tìm thấy; Đoài tìm ở chỗ đổ nát, bờ ven giếng; Ly nên ở chỗ lò bếp phía Nam; Khôn thì ở vật vuông, dựa vào đó mà tìm. Bịnh tật rất nên Thể vượng tướng, Thể khắc Dụng bịnh uống thuốc lành ngay, tỵ hòa ắt có cứu tinh. Thể quái mà thụ khắc, ắt là hung triệu; Ly nên uống thuốc chsn; Khảm nên uống thuốc lạnh; Khôn Thổ quái, nên ôn thổ, liệu phanh (điều thuốc nấu). Bàn về vương vấn quỷ thần, nên lấy quái tượng mà suy, Chấn chủ hình dạng yêu quái; Tốn thì tự ải gông cùm; Khảm Cấn thì bị kẻ trầm mình và huyết nhục. Chiên tụng sự, Dụng quái nên bị khắc, thể quái vượng tướng, chung quy đắc lý, chẳng cần người giúp sức. Nhược xem mồ huyệt (mồ mả) ở tại chốn nào; Khảm mai táng ở chỗ đồng bằng; Tốn chôn ở chốn rừng núi; Càn ở chỗ cao ráo; Cấn ở núi; Ly ở thôn quê; Đoài bị tàn phế; tỵ hòa và sinh Thể chỗ chôn rất tốt; khắc Dụng lại rất tốt lợi. Nhược nghe chuyện trò, phô nói vui cười, gà gáy đều ứng tốt. Vật cũng ứng điềm lành, suy lược chỉ có một lời mà suốt muôn vật. (*) Tài: Vật của trời sinh có thể dùng được như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Chư Quái Đối Nghĩa Tính Tình Càn cương Khôn nhu nghĩa đối nhau, Tỷ quái hân hoan, Khổn lo âu. Lâm gặp việc hay Quan phải cầu, Mông quái khó thông Truân chẳng mất. Đại súc sanh phúc Vọng (Vô vọng) họa lai, Thăng đã đi không hề trở lại, Tụy thì xum họp chẳng lúc rời, Khiêm vốn tự tôn, Dữ đãi(1) nhân. Chấn hay dấy động Cấn ngăn ngừng, Đoài chủ ngoại ngộ, Tốn nội tàng. Tùy trước Khảm sau vô chí hướng, Bác thể tiêu tan, Phục hồi sinh. Cổ thì sẵn tính hay hối cãi, Minh Di nội lãng, lại phùng Thương. Tấn chủ ngoại minh tinh thông lý, Ích thịnh vượng Tổn suy vi. Hàm mau, Hằng chậm Hoán xa lánh, Đồng nhân nội thân Khuê ngoại sơ. Giải thung dung Kiển khó mở mang, Ly văn mỹ lệ, Cấn quang minh. Độn chỉ thối thân, Cấu tượng ngô, Đại hữu chúng đa, Phong lắm kẻ(2). Khảm rủi thay gặp nhiều cản trở, Cấn thì dấy động chẳng lúc ngừng. Nhu bất tiến Tụng chẳng được an, Ký tế nhất định vô hậu Lữ. Quy muội trước tiên là phụ nữ. Vị tế sau cùng lại phái nam, Bí đi khỏi, chắc chẳng muốn về. Thái đã về thì chẳng muốn lại, Cách khử cựu, Đỉnh(3) lại tòng tân. Tiểu súc là quả (góa, ít) Hạp là ăn, Đại quá lại điên đảo khốn đốn. Quái mới thật rõ ràng khoái lạc, Nên đem từng chữ xét tinh tường, Đối nghĩa tính tình từng quẻ một. Ghi chú: (1) Đãi: đãi ngộ người. (2) Lắm kẻ: nhiều người. (3) Đỉnh: đổi ra mới. [ Pháp Thuật Đoán Vật Loại Phàm đoán vật loại phải suy ở quái, xét rõ hào từ. - Như gặp Càn gọi là "Tiền long vật dụng" nghĩa là vật không dùng được. Kiến long tại điền nghĩa là vật ở trong đồng ruộng. Dược tại uyên là vật ở trong nước. Cang long hữu hối nghĩa là vật hoang phế, (hư hỏng vất bỏ). - Như gặp Khôn chỉ trực phương là vật vuông và to lớn. Quái nang võ cựu là vật gói, đùm, phong kín. Hoàng thường nguyên cát là vật y phục sắc vàng. Sắc huyền hoàng khổn ư thạch là vật bằng đá. Phùng thạch nhi phá khôn vu châu lâm là vật thuộc loại Mộc. Lại nữa, nếu Hào từ không nói tới vật loại, chẳng có thể đoán được, nên xem trong mục Bát quái sở thuộc chi tượng mà suy (trang 17, 39 và 40). Lấy Thể Dụng Để Đoán Các Vật Loại Chiếu theo sinh khắc, chế hóa của Thể Dụng mà đoán, cực kỳ hiệu nghiệm. Như sinh Thể là vật ăn được, khắc Thể là vật uế tạp. Thể sinh vật chưa thành khí; Thể khắc vật hao vỡ, bể nát; tỵ hòa vật hữu dụng. Sinh Thể vật quý; khắc Thể vật hèn tiện; tiết khí vật phế thải. Lại nữa, phàm chiêm các số vật, đều lấy Thể làm chủ, xem loại cứng hay mềm, còn Dụng quái thì xem hữu dụng hay vô dụng. Thể sinh thì vuông, tròn, ngay ngắn, làm được dùng được, như Dụng sinh Thể thì vật ăn được, dùng Biến quái và Hổ quái mà xét các sắc cùng số mục, Hổ quái ấy quyết đoán số mục của vật, như Hổ quái thấy Càn Đoài quyết đoán số 1 và số 2; Hổ quái thấy Khôn Cấn tức số 7 và số 8. Nhưng Hổ quái mà thấy trùng Càn, trùng Cấn, trùng Khôn, trùng Khảm, trùng Ly, đều là vật đôi (2 cái); thừa vượng thì vật số lại nhiều, nếu suy thì vật số lại ít. Ly là vật ở trong lòng trống rỗng, hoặc tay không, không có vật gì hết. Còn đoán số của vật như Hổ là Cấn quái, Tiên thên là số 7, Hậu thiên là số 8 vậy. Lấy Vật Số Làm Thể mà Đoán Phàm đoán các số vật, chẳng những lấy Thể quái làm Thể, mà có thể lấy quái nào nhiều hơn thì quái đó làm Thể như Càn là Kim, mà trong quái nhiều Kim thì lấy Kim làm Thể, tức nhiều cương (cứng) Như nhiều Khôn là Thổ, thì lấy Thổ làm Thể quái, tức nhiều nhu (mềm). Quẻ Càn là Thể quái, nếu Dụng quái cũng là Càn, Hổ quái lại cũng thấy Càn, vậy Kim làm Thể, là cương (cứng) ấy vật tròn rất cứng rắn lắm vậy. Đoán vật mà có Thể quái, Hổ quái, Biến quái mà không sinh vượng khí, tức là vật không thuộc trong ngũ hành. Đoán vật xem hào, như trong Bát quái có nhiều hào dương, tức vật nhiều cương, có nhiều hào âm, tức vật có nhiều nhu. Lại nữa, đoán vật thấy biến tại hào 5, hào 6, tức là động vật biết bay. Đoán Vật Mà Lấy Biến Hào Làm Chủ Phàm đoán vật lấy Biến hào làm chủ, ứng Dụng làm ứng nghiệm. Như được quẻ Càn, sơ hào biến làm Tốn quái, tức vật thuộc Kim, con dao chặt cây. Hào hai biến làm Ly quái, tức vật thuộc Kim, nung nướng rèn đúc trong lửa. Hào ba động biến làn Đoài quái, tức vật thuộc loại Kim bị sứt mẻ, tuy tròn nhưng đã bị hư hỏng đi nhiều. Trình bày như sau: _____ _____ _____ * Càn biến _____ _____ __ __ Tốn Sơ hào động _____ _____ * _____ Càn biến _____ __ __ _____ Ly Hào 2 động _____ * _____ _____ Càn biến __ __ _____ _____ Đoài Hào 3 động Đoán Vật Theo Khắc Ứng Phàm đoán vật thành bại ra sao, lại xem Thể quái khắc ứng ra sao, trong thời gian thành quái rồi, mà chưa quyết đoán. Nếu thấy vật tròn thì đoán là tròn (ngoại ứng), gặp vật Thổ thì đoán ở trong đất; thấy cương kiện thì đoán vật cương kiện (cứng rắn); thấy vật mềm đoán vật mềm mà mục nát, cũ kỹ. Đoán Vật Xu Hướng Theo Thời Tiết Phàm đoán vật mà xu hướng theo thời tiết, mà dùng lý thì không hiệu nghiệm, như: Mùa Xuân được Chấn, Ly là hoa. Mùa Hạ được quẻ Chấn là vật có tiếng (âm thanh). Mùa Thu được quẻ Đoài là vật mục nát mà thành khí (khí là đồ dùng). Mùa Đông được quẻ Khôn là vật bằng đất vô dụng. Đoán Vật Dùng Pháp Thuật Của Dịch Có người lấy cái bu bằng tre đựng đồ (cái lồng), toán được quẻ Địa Thiên Thái, hào sơ biến thành quẻ Địa Phong Thăng. Hổ thấy Chấn Đoài đoán là thuộc loài thảo mộc sinh trong Thổ, sắc xanh, rễ vàng dính liền nhau (rễ chùm); vì hào từ bảo: "bạt mao liên nhự dị kỳ vững", nghĩa là nhổ cỏ có rễ quấn liền nhau, tức loài thảo mộc có nhiều rễ khô khan, ở trong đất sinh ra. Quái tượng như dới đây: __ __ __ __ __ __ _____ _____ _____ * Quẻ Thái Sơ hào động __ __ __ __ _____ Chấn __ __ _____ _____ Đoài Hổ quái __ __ __ __ __ __ _____ _____ __ __ Biến quái Quẻ Thăng Hổ thấy Chấn tức sắc xanh; Đoài thấy rễ vàng. Lại như lấy cái chén úp vật, rồi bảo đoán xem, thì được quẻ Hỏa Phong Đỉnh, biến Lôi Phong Hằng, bảo rằng vật có tiếng và khí lực có giá trị, hình tròn mà nay đã hư sứt mẻ, sắc trắng, nhưng còn dùng được. Theo Dịch từ bảo rằng: "Đỉnh ngọc huyền đại cát", nghĩa là cái tai đính nạm ngọc, tốt lắm. Hổ quái nếu thấy Càn Đoài tuy tròn nhưng hư hỏng, mở ra xem quả thật cái vòng nạm bằng ngọc đã hư cũ lắm rồi. Quái tượng như dưới đây: _____ * __ __ _____ _____ _____ __ __ Quẻ Đỉnh Động hào 6 __ __ _____ _____ Đoài _____ _____ _____ Càn Hổ quái __ __ __ __ _____ _____ _____ __ __ Biến quái Quẻ Hằng Đoán Nghiệm Xem các Loại Vật (Chớ nên khinh thường) Phàm phỏng đoán vật nắm trong tay, thì: Càn thuộc Kim, vật tròn, sắc trắng, tính cứng rắn, vật báu vô gá. Khảm sắc đen, tính mềm dịu, vật ở gần nước. Cấn là vật ở trong đất như gạch, ngói, đá, có khí chất mà thành đồ dùng, sắc vàng; gặp Đoài khắc thì mềm, không có khí chất là vật hư hỏng, thương tàn. Chấn, Tốn thuộc loài trúc mộc, có khí chất là vật hữu dụng, vật có thể ăn được; không có khí chất là thuộc về loại trúc mộc; gặp Đoài là vật ăn được như loại cây trái, sắc xanh, có khí chất mềm, không có khí chất thì cứng; gặp Khảm là vật ở trong chỗ ẩm thấp, hoặc có khí chất, như không có khí chất là loài mộc chín quá, hư thối, mục nát. Ly sắc đỏ, tính mềm dịu, có thủy có mộc, mà lửa đốt cháy được, tức loài than, có khí chất là vật có giá trị, quý. Khôn là vật ở trong đất, sắc vàng, tính thì ôn. Đoài là vật hư nát, có lỗ, có miệng. Phàm đoán vật lấy mùa Xuân là Chấn Tốn - mùa Hạ thì Ly - mùa Thu thì Càn Đoài - mùa Đông thì Khảm, đều được kể là vật dùng được, vật đã thành đồ dùng. Trái lại không theo thời tiết kể trên, là vật khôg dùng được,cònbị mục hư xung phá,hoặc không có vật gì hết, mà là tay không vậy Pháp Thuật Chiêm Bốc Thập Ứng Phàm chiêm bốc lấy Thể quái làm chủ, Dụng quái làm sự ứng là lẽ cố nhiên.hẳng những Thể quái đã làm chủ, Dụng, Hổ, Biến quái tương ứng, cũng đều để xẽmét họa phước. Tuy nhiên ngày hôm nay, toán được một quẻ dùng Thể, Dụng, Hổ, Biến rồi đoán một việc như thế; ngày hôm sau, cũng đoán được một quẻ cũng như vậy, và Thể, Dụng, Hổ, Biến cũng như ngày hôm trước, há có thể cũng đoán được như ngày hôm trước chăng? Không! tất phải nhờ vào thuyết Thập Ứng mới quyết đoán được. Trong thuyết Thập Ứng chia ra: Chánh ứng, Hổ ứng, Biến ứng, Phương ứng, Nhật ứng, Khắc ứng, Ngoại ứng, Thiên thời ứng, Dịch lý ứng và nhân sự ứng. Chánh ứng là Chánh quái ứng ra. Hổ ứng là Hổ quái ứng ra. Biến ứng là Biến quái ứng ra. Căn cứ vào hai quái (Thể và Dụng), mọi sự chiêm bốc đều lấy đó mà đoán việc cát hung; ngoài ra còn nhiều lý khác, mà người ta không biết đến, rồi căn cứ vào mấy nghi thức trên mà đoán, thì tất nhiên quẻ không được linh nghiệm. Vậy cho nên phải hiểu thông suốt Thập Ứng mới đoán được linh nghiệm, nếu nắm được pháp thuật đó thì rất bí yếu. 1.- Chánh ứng tức là sự tốt xấu do hai quái Thể Dụng. 2.- Hổ ứng tức là sự tốt xấu của Hổ quái. 3.- Biến ứng tức sự tốt xấu của Biến quái. 4.- Phương ứng là lấy Thể làm chủ, xem người tới chiêm ở phương vị nào tới, tức họ ngồi đứng thuộc về phương vị nào, phải nên sinh Thể quái hoặc tỵ hòa với Thể quái thì tốt; nếu khắc Thể quái thì xấu, cón như sinh cũng xấu. 5.- Nhật ứng cũng lấy Thể quái làm chủ, rồi xem quẻ mình chiêm đó thuộc về quẻ gì và Thể quái có thuộc vào sinh vượng trong ngày mình chiêm quẻ như thế nào. Quẻ ấy phải sinh Thể hoặc tỵ hòa với Thể mới tốt, chẳng nên khắc Thể và cũng chẳng nên Thể quái sinh quẻ ấy mới được. Ngày ấy sở thuộc quái khí như: Dần Mẹo thuộc Mộc, Tỵ Ngọ thuộc Hỏa, Thân Dậu thuộc Kim, Tý Hợi thuộc Thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ. 6.- Khắc ứng tức là pháp thuật của Tam yếu, trong lúc chiêm quẻ, tùy theo sự nghe thấy triệu tốt xấu mà đoán cát hung. 7.- Ngoại ứng tức ứng của ngoại quái, nghĩa là trong lúc chiêm quẻ, tình cờ thấy ngoại vật tới, thì phải xem ngoại vật đó thuộc về loại gì, như thấy lửa là thuộc ly, thấy nước thuộc Thủy là Khảm, thấy lão nhân thuộc Càn và ngựa, vàng bạc, ngọc, vật tròn cũng thuộc Càn; như thấy lão bà, trâu, bò, đất, gạch ngói thuộc Khôn. Vật thấy đó tức là quái Ngoại ứng và thuộc về quẻ gì, xem quẻ đó inh khắc, tỵ hòa với Thể quái, để đoán cát hung. Nếu quẻ của Ngoại quái đó khắc Thể hay là sinh Thể thì xấu. 8.- Thiên thời ứng tức trong lúc chiêm quẻ mà trời tạnh, sáng sủa là Ly, nưa tuyết là Khảm, gió là Tốn, sấm là Chấn. Ví dụ: quẻ Ly là Thể quái, thì nên gặp trời tạnh ráo, sáng sủa. Như quẻ Khảm là Thể quái, thì nên gặp trời mưa; như quẻ Tốn là Thể quái, nêm gặp trời gió; Chấn là Thể quái, nêm gặp trời có sấm. Hỏa mà gặp sấm là tỵ hòa, phải nêm xét kỹ sinh khắc mà định cát hung. 9.- Địa lý ứng là đang lúc chiêm quẻ mình ở chốn trúc lâm, chỗ cây cối rừng núi là thuộc Chấn Tốn; nếu mình ở giang, hà, khe, suối, ao, hồ tức thuộc khảm; nếu ở chốn thuộc ngũ kim tức thuộc Càn Đoài; nếu mình ở chốn lò, bếp, gần lửa tức thuộc ly; nếu mình ở chốn có gạch ngói, đất cát tức thuộc Khôn rồi so với Thể quái mà định cát hung, theo sinh khắc, tỵ hòa với Thể quái. 10.- Nhân sự ứng tức là khắc ứng theo rtong Tam yếu nhân sự vậy. Trong lúc chiêm quẻ, tình cờ gặp nhân sự tốt thì tốt, nhân sự xấu thì xấu. Nghe tiếng cười, vui vẻ là chủ cát khánh, gặp khóc và buồn là chủ sự buồn bã, đau khổ, lại lấy nhân sự thuộc cái quái mà luận bàn, như lão nhân thuộc Càn, lão mẫu thuộc Khôn, Cấn thuộc thiếu nam, Đoài thuộc thiếu nữ, rồi gồm ứng quái nhân sự đó mà so với Thể quái, hiện sinh khắc, tỵ hòa để đoán cát hung. Tất cả những lý của Thập Ứng nói trên, phàm lúc chiêm quẻ mà tai nghe, mắt thấy các ứng đó rồi so với Thể quái là chủ mà đoán. Phải hiểu tường tận lý sinh khắc, tỵ hòa. Thí dụ: chiêm bịnh chứng, trong quẻ Hổ và Biến thấy nhiều quẻ khắc Thể, mà trong bản quái lại không có quả sinh Thể thì đoán không tốt; lại xem quẻ Thê suy vượng, nếu Thể vượng cũng còn hy vọng. Nếu thể suy tức là không có phục sinh, rồi phải xem chư ứng, nếu có ứng sinh Thể, thì sự nguy cơ có thể cứu vớt được; nếu chư ứng khắc Thể quái, thì không thể nào được yên ổn. Tất cả các cách chiêm bốc, đều dựa theo như thế mà đoán cát hung Luận Các Sự Việc Thuộc Thập Đại Thiên (10 sự dời đổi, thuyên chuyển. Lấy ngày giờ mà luận, Bản văn bí mật) 1.- Hành: là đi. Chiêm quan sự chẳng vượng. Thuộc Mộc, có văn thơ. thuộc Hỏa có quan tư, tai. kim Mộc, tài tới, có khách tới. Chiêm bịnh thì chứng sốt rét, đúng cử trưa phát lên: Kim Thủy là gạo, nước uống. 2.- Lập: là đứng. Chiêm quan sự chẳng phát. Mộc Thổ cùng Kim đại tiểu khẩu thiệt. Bịnh chẳng xấu. Tài Thủy Thổ. Có quý nhân tới. Văn thư phát động. 3.- Tọa: là ngồi. Chiêm quan tư có lợi, kiện tụng không thành. Chủ tài thuộc Hỏa. Chủ hòa khuyến (khuyên hòa). Kim bại tài. Mộc đắc tài. Bịnh cuối tháng lành, lại phạm lâm Mộc thần. Có họa chẳng hung. 4.- Ngọa: là nằm. Quan tư, nằm nghiêng mà muốn trở dậy, là do chủ âm nhân sự. Kim có tài. Hỏa thì sự phát phá tài. Thủy Thổ vô tài, khó thành tựu. Thổ Mộc có tài. 5.- Đam: là gánh vác. Quan tư mắc phải người tự làm rối loạn. Hỏa cùng người bàn luận sinh khẩu thiệt. Chiêm tin tức thì được tin. Thủy Thổ đắc tài, Kim mộc có khách tới. Bịnh tứ chi trầm trọng, không cử động được. 6.- Quyện: là mỏi mệt, chán nản. Quan tư chẳng thành. Hỏa có tài, Thủy Thổ có tài. Tâm không được yên. Có quý nhân. Chủ khẩu thiệt, chẳng xấu. 7.- Khòa đầu: khòa đầu là đầu để trần, không có nón, không có khăn. Quan tư sắp có khẩu thiệt. Hỏa thì đại quan tư (có danh vọng), Thủy Thổ tỵ hòa tài vô. Tiểu nhân phân rẽ bề trên (xâm lấn). Khẩu thiệt, Bịnh ẩu khí. Phòng ám nhân, tiêu khẩu tai. 8.- Tiển: là đi chân không (không có mang giày, dép). Quan tư thì phá tài, ngoại nhân khí ám hoang mang. Hỏa chủ phá tài. Thổ chẳng xấu. Bịnh có hiếu sự đến. 9.- Hỷ: là mừng. Quan tư tự mình không có căn bản. Có ngoại nhân mới. Quan tư có rượu thịt. Với người có nhiều việc lôn xộn. Cầu tài chẳng được, chẳng xấu. 10.- Nộ: là giận. Quan tư chủ ngoại nhân khinh dễ. Chẳng thấy quan. Chủ phá tài. Dựa người để thoát thân. Kinh sợ hỏa tai. Binh xấu. Quái Ứng (Cùng với tiền Bát Quái định loại đại đồng, nhưng có tiểu dị, xem thì lấy Hổ quái mà tham cứu) CÀN: Càn là trời - cha - vua - đầu - ngọc - kim - rét băng - dỏ thắm - ngựa - ngựa hiền - ngựa già - ngựa gầy - ngựa tải đồ - trái cây (Cửu gia dịch bảo là rồng, thẳng, áo, lời nói). Như quẻ Cấu, Độn, Di, quẻ Lý, quẻ Vô vọng, quẻ Tụng, quẻ Đồng nhân, tất cả 7 quái thì quẻ Càn ở trên, cứng ở ngoài. Còn những quẻ như quẻ Đại hữu, quẻ Thái, quẻ Đại tráng, quẻ Quải, quẻ Nhu, quẻ Đại súc và Tiểu súc gồm có 7 quẻ thì quẻ Càn ở dưới, cứng ở trong. Càn Khôn cương nhu (cứng mềm; tứ phát bát biến (bốn phơng tám hướng), nhưng tùy theo lục động, tùy thời có khác nhau. Chẳng nên câu nệ một quẻ Càn, tính ôn mà cương trực. Ở Dịch về hướng Tây Bắc, chẳng ở Tý Ngọ, mà ở Tuất Hợi. Dựa vào lệ pháp thì cương hiền, sáng sủa, chẳng dựa vào lệ pháp thì cương ác, hung bạo. Thiên Văn: Tuyết - Khí dương thạnh. Thiên khí: Rét. Hung đạo: Quân - Tay ná (cũng như tay súng) - Giặc - cường hoành - Đình thi (cái thây không tan, nghĩa là người ngồi như xác chết để hưởng lợi). Quan quý: Triều quỳ - Giám ty - Thái thú - Chủ tọa. Thân thể: Đỉnh đầu - Má mặt - Xương mép. Tính tình: Cương kiện chánh trực - Tôn trọng - Hảo cao - Tranh đua hơn thua. Âm thanh: Chính thanh - Tiếng Thương (ngũ âm). Tín âm: Thiều tín - Triệu lịnh - Tiến cử - Quan thăng - Kẻ nghĩa, thân. Sự ý: Quẻ trên là người có vẻ hình dáng bề ngoài - Quẻ dưới là bọn cường hoành. Bịnh tật: Tay, thái dương mạch đi Huyền và Khẩu - Uy trời trừng phạt - Trên thì bế tắt, mắt đau - Hàn nhiệt. Phục dược: Thuốc hoàn, ăn đồ vật - Bánh bằng bột màu đỏ - Bánh bò chiên - Bánh sen gói - Canh não heo - Canh đầu xương heo - Bột gạo tốt - Bánh bao. Các quả: Lúa tẻ - Cay dẻ - Dưa - Đậu - Long nhãn - Rau lệ - Cải. Cầm thú: Chim sẻ - chin nhạn - chim chài chài - chim ưng - chim bằng. Y phục: Xích, huyền sắc. Khí dụng: Cái chén tròn - Khay trà - Thủy tinh - Vòng ngọc - Đồ dùng có quy định - Quả bóng cầu. Tài: Của cải giao dịch có nhân nghĩa - Tiền thuộc loài ngựa. Lộc: Nhâm Thân. Tự: Hình vuông và tròn. Sách: 216. Quỷ: 768. Khôn: Khôn là đất - mẹ, vải - vàng - bụng - hẹp hòi bỏn sẻn - đều nhau - bò - bò con - bò mẹ - xe chở đồ - văn - chúng đông - cái khớp cái mộng - ở đất vậy. Đen là Khôn ở trên Thể; ở ngoài lục quái thì mềm ở dưới, mềm ở trong - Khôn là ngôi thứ tốt, ở lệch về hướng Tây Nam trên Thân (cung Thân) - Dựa vào lý pháp là thánh hiền, không dựa vào lý pháp là đảng. Thiên Văn: Sương mù - Giọt móc - Mây mù mịt. Địa lý: Quận nước - Cung cửa ải - Thành ấp - Vách tường. Nhân vật: Mẹ - Vợ - Nhà nho - Nông phu - Tăng (sư). Hung đạo: Nô tỳ, dấu ở chỗ hoang vắng. Quan quý: Đại thần - Giáo quan - Khảo hiệu văn tự. Sinh dục: Nữ - Phì hậu. Tính tình: Thuận thảo hòa hảo - Lòng tin - Ương độn - Không có tự ái. Âm thanh: Tiếng Cung (ngũ âm). Tín âm: Thỏa lòng đã hứa, mau chóng ứng vào ngày tháng Thìn Tuất Sửu Mùi. Sự ý: Trì trệ - Ngu hèn - Hà tiện bỏn sẻn - Thung dung. Bịnh tật: Tay - Thái âm thời tiết - Đau bụng - Tỳ vị bế, mạch trầm phù. Ẩm thực: Canh lê - Thiêu, rang khô, nước đá các vật - Ngỗng - Vịt - Phổi - Ăn uống, lệ tế Thái tào - Kẹo, đường. Các quả: Lấy vật đựng trong sọt, giỏ. Cầm thú: Bò trâu - Ngựa cái - Con cò bể - Chim sẻ - Con quạ đen - Chim chìa vôi. Ngũ vị: Đắng - Cay lắm - Ngọt. Khí dụng: Cái kiệu - Cái xe - Đồ gốm - Đồ làm ruộng - Đồ bằng cát. Tài vật: Tiền lễ thầy học - Chép lại đề - Áo thầy tu - Vải quần xiêm. Hôn nhân: Phú gia - Nhà làm ruộng - Thương gia - Xấu - Vụng về - Hạ tiện - Bụng lớn - Trai tráng - Trì độn - Mặt vàng. Tự: Khuê, kim tứ ngưu bàng. Sách: 144. Quỷ: 672. Lộc: Quý Dậu. Chấn: Chấn là sấm - rồng - huyền hoàng - đường đi - đường đi lớn - trưởng tử - chân - cương quyết nóng nảy - tre non - cỏ lau. Còn như ngựa thì: tiếng kêu hiền - Chân sau phía trái của ngựa - Chân đang nằm im mà đứng trở dậy - Cái trán. Còn trồng lúa thì: làm sống trở lại cỏ tươi tốt (Cửu gia Dịch nói rằng: vua - ngỗng trời cái trống). Xuân Hạ tính nghiêm, cương trực chúng đều khâm phục - Thu Đông cứng mà không có uy, chẳng thể chế được vật - Chẳng thích nhàn hạ - Tính lệch lạc mà ngẫu nhiên - Dựa vào lý thì oai nghiêm, nếu không thì táo bạo - Thể Dụng quẻ trên là bay được, quẻ dưới là chạy được. Thiên Văn: Sấm - cái cầu vồng - cáiang - chớp. Địa lý: Nhà ở - chợ - mồ mả - chỗ nhà cửa có cây cối sầm uất - phương sở - ở chính phương Đông. Hung đạo: ở Đông tới - người trộm nam. Nhân vật: Thương lữ - tướng soái - thợ. Quan quý: Giám ty - chủ quận - Quan coi về văn thư Bộ Hình - tuần kiểm - pháp quan. Sinh dục: Trưởng nam - chuyển động kinh sợ hãi hùng Tính tình: Đậu thì cương quyết - có quyết đoán - lúc gấp rút rối loạn, nóng nảy, bộp chộp. Hôn nhân: Nhà quan hoạn - nhà có nghế xảo công nữ dung - tâm thần ưa động tịnh, dễ lay chuyển. Âm thanh: Tiếng giác thượng hạ (ngũ âm) - Thượng bình thanh (ngũ âm) - Tam âm thất thanh. Tín âm: Có hứa mà không tới. Sự ý: Việc cũ chồng chất có tiếng mà không có miếng. Bịnh tật: Khí tích lạnh - thượng vị - chân tay mệt mỏi - ớn lạnh thường trực - thuốc - chân thuộc thái dương - mạch hồng phù. Yến hội: Tửu hội - ngoạn thưởng - tụ họp có định kỳ. Thực vật: Miến - bao tử - rượu - đồ ăn - vật trái đầu mùa - Khoai lang - tiêu, dâu - mộng giá. Cầm thú: Con ong - con bướm - con cò trắng - con hạc. Y phục: Quần, dây lưng - dây cột - dây thắt lưng bằng lụa - đố lụa có sắc xanh, huyền, vàng - xấp lụa. Khí dụng: Cái bàn bằng cây - cái sọt vuông đan bằng tre - bàn toán - thuyền xe - xe nhà binh - kiệu càng - đồ chén bát, dĩa - cái bình - cái chén - cái bàn nhỏ nhạc khí - trống Tài: Kẻ âm nhân tạo ra - Tiền thuộc về trúc mộc. Lộc: Hai bên có người giúp đỡ. Tự: Tẩu, trúc đứng một bên - một nửa chữ Lập. Sắc: Thanh - huyền - hoàng. Sách: 168 Quỷ: 704 Tốn: Tốn là cây - gió - trưởng nữ - dây thẳng - thợ - cây cối - đàn - cao - tiến thối - chẳng quả quyết - cá - gà. Người thì góa chồng- tóc - thuận - cải tán - nhiều lớp da mỏng ở nhản cầu - bắp vế - ở gần chỗ buôn bán có lợi - Ba lần cứu xét là quẻ rối loạn nóng nảy, bộp chộp (Cửu gia Dịch bảo rằng bốc lên - giơ lên - chim sếu) - Xuân Hạ có quyền, hiệu lịnh mưu chước - Thu Đông cương nhu bất nhất - Vật làm hại cùng người thì nhún nhường - Phàm sự chẳng bao giờ thối tránh. TYốnthuộc âm, tính tình lệch lạc - Dựa vào lệ pháp thì cơ mưu có quyền, nếu không thì gian tà. Thiên Văn: Gió. Địa lý: Lâm uyển (chỗ nuôi thú) - vườn nuôi thú để chơi. Nhân vật: Mệnh phụ - Dược bà (nữ bác sĩ) - Đàn bà giỏi khéo về công thuật. Hung đạo: Nô tỳ thương lượng với nhau mà lấy, nên thu gấp thì được. Quan quý: Người chủ ngục - Khảo giáo - Cán quan - Hưu cứu (quan lại tạm nghỉ để tra xét). Thân thể: Tai - mắt - mật - tóc - thân mình - khẩu - tứ chi. Sinh dục: Trưởng nữ - thai thiếu tháng - tâm địa sáng suốt. Tính tình: Quê mùa - Keo kiệt - gian khổ - hay than khóc gào thét. Hôn nhân: Mệnh phụ - tôn thất nữ - tiến thối - ủy thác trông cho (uốn mình tuân theo). Âm thanh: Tiếng giác (ngũ âm) Giác trắc thanh tam, thanh tứ, thanh thượng la. Tín âm: Triệu mệnh tin báo - sai - trạng tiến cử. Sự ý: Tiến cử - đi trình - cứu xét kẻ oan ức - hiệu lịnh - vậng lịnh. Bịnh tật: Tay chân giá lạnh vì thời tiết - 30 ngày - mạch nhu nhược - ẩm thực thượng vi vì nghiện rượu - sốt rét lâu ngày - đau màng ngực - thuộc về mũi - ăn đồ hột không tiêu. Dược: Dược thảo. Yến hội: Tiệc trong gia đình - khách tới không đầy đủ. Các quả: Mè - bột nghiền - trà. Cầm thú: Gà - ngan - vịt - cá - loài trùng, loài cầm biết gáy - quái thượng là loài biết bay, quái hạ là loài biết chạy. Y phục: Áo - dây lưng - tơ - xanh - lục - biếc - trắng - tía. Khí dụng: Đồ bằng tre, cây, nứa - dây - dây đờn bằng tơ - nhạc khí. Tài: Khu vực lợi để làm ăm - tiền thuế - tiền tài vật - tiền của lo liệu tính toán. Lộc: Tân (can Tân). Tự: Một bên có bộ thảo, bộ mộc, bộ trúc. Sách: 192. Quỷ: 736. Khảm: Khảm là nước - cái rãnh - cái ngòi - trung nam - tai - heo - ẩn phục - uốn cong ra thẳng - uốn thẳng ra cong - cái cung - bánh xe vòng tròn. Như người: thêm ưu - tâm bịnh - đau tai - huyết xấu - đỏ. Như ngựa: cái xương sống - lòng bứt rứt - cúi đầu xuống (luồn cúi) - móng chân mỏng manh - kéo dắt - kiệt lực. Như xe là nhiều sắc xanh - thông suốt - sáng - mặt trăng - kẻ trộm. Như nguồn gốc mọi việc thì bền chắc - đa tâm - Xuân Hạ tính hiểm họa - chẳng sợ vong nguy - việc nhiều táo bạo - Thu Đông thì yên tịnh - trước khó sau dễ - có mưu lược - có chí can đảm - Khảm thâm độc tuy lòng hướng về bên trong - chủ lập mưu kế hiểm hại - bản tính thường. Thể ở Bắc Khảm là vật ẩn nấp - dựa vào lý pháp thì cương - ví không dựa vào lý pháp là hãm độc. Thiên Văn: Mặt trăng - cái ráng - mây - sương. Địa lý: Bể rộng - nước muối - cái rãnh - cái ngòi - cầu tiêu - phương sở - ở chính Bắc - chỗ mồ mả - trong hang của chồn, thỏ. Nhân vật: Đạo hữu - tăng đồ. Hung đạo: Thừa dịp mà tới - dấu đầu lộ đuôi - có hư hỏng mới nên việc. Quan quý: Quan đi tuần - quan chuyên chở tiền lương. Thân thể: Tóc - chỗ dưới quả tim - huyết. Sinh sản: Khó sinh - trung nam - thanh tú. Tính tình: Tâm độc ác, thâm trầm - trí tùy nỗi khó khăn, ngoắt ngoéo. Hôn nhân: Phú gia - nhà buôn rượu - thân gia dụng cái bản tính của mình. Âm thanh: Tiếng vũ (ngũ âm) thượng quái - tiếng vũ bình lục thanh hạ quái. Tín âm: Phản phúc do dự - tiểu nhân nói dối - nịnh - xỏ lá - quỷ quyệt - đạo tặc - ngục tù. Thực vật: Rượu - vật mặn - heo - cá - hải vị - quả cật. Bịnh tật: Chân - khí thái âm - mạch hoạt. Phục dược: Thuốc bổ thận - hoặc tửu thủy hạ. Các quả: Lúa mạch - táo - mai - lý - đào - ngoài mềm trong cứng có hột. Cầm thú: Hươu - nai - heo - voi - heo con - chồn - yến - con ốc. Y phục: Sắc xanh, đen. Khí dụng: Đồ đựng rượu - bánh xe - xe hư. Tài: Tiền tranh tụng - của được không công bình. Lộc: Tuất. Sắc: Sắc đen, trắng. Tự: Thuộc về loại chấm thủy, chữ nguyệt, chữ cung các loại. Sách: 168 Quỷ: 764 Ly: Ly là hỏa - mặt trời - điện - trung nữ - áo giáp - mũ sắt - chiến tranh. Như người thì bụng lớn - mắt - quẻ Càn - chim trĩ - ba ba - cua - thú ít lông - trai - rùa. Như loài cây thì gốc cây rỗng, khô héo (Cửu gia Dịch bảo rằng: trâu, bò cái, bọt nổi trên mặt nước). Xuân Hạ tinh sáng, có màu vẻ đẹp, có đứt gãy. Thu Đông tối chẳng sáng, trước sau chẳng quyết định - Ty là đẹp đẽ - Tự hay xét mình. Bổn tính thì trực - Ở chính Nam - Dựa theo lý pháp thì văn minh, trái lý pháp thì lầm lỗi. Thiên Văn: Mặt trời - cái ráng - chớp - tạnh ráo. Địa lý: Cung điện - trung đường - mái nhà - nhà bếp - phương sở - chánh Nam. Nhân vật: Tướng soái - binh lính - quan vỏ. Hung đạo: Kẻ trộm đàn bà từ phương Nam tới. Quan quý: Nhà văn học - giáo quan - Thông phán - Bổ nhiệm nên đi hướng Nam. Thân thể: Tam tiêu - tiểu trường - mắt - tim. Sinh dục: Thứ nữ - tính táo bạo, hay khóc đêm, hay khóc. Tính tình: Thông minh - thấy sư thì minh mẫn Tín âm: Triều tín - Văn thơ - bảo thiệp - khế ước. Sự ý: Ưu nghi - phóng đảng - Huyên náo ồn ào - Cấp tính - hư ưu. Bịnh tật: Tay chân - nhị quân thái dương minh, tam tướng hỏa - bịnh mắt - khí táo nhiệt - bịnh phát cuồng - Thực vật: Bánh bao - vỏ loại trùng - vật trống rỗng trong tâm - vật nướng - nấu, sắc, đặc - cóc, quả - hột - trái cây - lúa nếp - củ sen - vật ngoài cứng trong mềm - bông của cây cỏ gai - lá cành khô. Cầm thú: Phượng có sắc rực rỡ - con ba ba, con ốc, con trai, con cua, con kềnh - hến - thú ít lông, con cú - cút - con hạc - chim bay - dê cái. Y phục: Sắc đỏ - hồng tía. Khí dụng: Đồ đèn dầu lửa - vật ngoài cứng trong mềm - cái bình phong - cái màn che - ức mành mành - cây cơ - binh khí - áp giáp - mũ sắt, cái mâm - cái siêu sành - cái bình, cái tên bắn - bức tường - vật trong lòng trống rỗng - cái lò - cái bếp - xưởng đúc, lò rèn - cái bóp, cái hũ, cái lồng đan bằng tre. Tài: Ngoại ý chi tài. Lộc: Kỷ Sách: 192. Quỷ: 763 Cấn: Cấn là núi - thiếu nam - tay - đường tắt - đá nhỏ - cửa cổng - trái cây - nấm - cái cổng lầu của chùa - ngón tay - chó - con báo con - con gấu - con bò - chuột - loại mỏ đen. Như cây là bền có nhiều lóng, nhiều đốt. (Cửu gia Dịch bảo rằng: là sóng mũi, lớp da trong, lớp da ngoài - da thú cọp, chồn). Xuân Hạ tính chất ôn hòa, hảo thiện. Thu Đông chấp trệ chẳng thường, về việc thì trì hoãn. Cấn là thôi, đừng, có cương có nhu. Phú tính lệch thì ở cung lệch. Dựa theo pháp lý là cương trực, nếu không thì ngoan ngạnh. Thiên Văn: Sao - khí trời. Địa lý: Đường nhỏ trên núi - bức tường - đường nhỏ trong làng - Gò - vườn - tường cửa - chuồng trâu, dê - cái cửa, cái chùa, tôn miếu. Phương sở: Phương Đông Bắc - bức tường về phía đông bắc - chùa. Nhân vật: Người giữ cửa chùa - tôi tớ - quan liêu - người bảo lãnh.