ma truyen 2
Duyên Nợ Oan Tình
(Phần 1)
Tôi là một người đàn bà bình thường, giống như trăm triệu người đàn bà bình thường khác trong xã hội hôm nay. Vừa bước chân qua tuổi con gái đôi mươi, tôi đã gặp gỡ Hùng - chồng của tôi bây giờ. Chúng tôi quen nhau, yêu nhau rồi lấy nhau chỉ sau một thời gian chưa đầy một năm trời hẹn hò nồng nàn say đắm, tìm hiểu lẫn nhau thật qua quít về tính tình và những sở thích cá biệt của nhau để rồi nhanh chóng đi đến quyết định lấy nhau để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình.
Ðời sống riêng tư vợ chồng giữa tôi với Hùng trải ra những tháng ngày thật êm đềm hạnh phúc. Dù lưu lạc nơi xứ người, vợ chồng chúng tôi cũng đều may mắn được học hành đến nơi đến chốn và đều có công ăn việc làm tươm tất đàng hoàng. Nói chung về đời sống vật chất, chúng tôi chẳng có điều gì để phải phàn nàn hay mơ ước.
Tất cả, chúng tôi đều may mắn có đủ trong tầm tay với nhà cửa, xe cộ, những tiện nghi văn minh khoa học. Về tiền bạc thì, với hai đầu lương nhờ cả hai chúng tôi làm việc lâu năm với một vị trí khá quan trọng trong sở làm, hai vợ chồng chúng tôi, sau khi tiêu xài chi phí thoải mái, cũng để dành được một chút vốn luyến nho nhỏ trong ngân hàng, phòng khi hữu sự hoặc cùng dự tính sau này sẽ nhảy ra làm ăn buôn bán, khỏi phải mãi mãi lê kiếp trâu cày.
Duy có một điều khiến cho cả hai vợ chồng chúng tôi thường băn khoăn tự hỏi và cũng đã có đôi ba lần cậy thầy cậy thuốc, cả đông lẫn tây y, hoặc đêm ngày cầu xin lễ bái ơn trên để mong sao có được một mụn con cho vui nhà vui cửa. Nhưng thời gian qua đi nhanh chóng, thấm thoát cũng đã gần mười năm trôi qua trong đời vợ chồng, tôi vẫn không nhận được bất kỳ triệu chứng gì trong vấn đề thai nghén, nhưng vì cả hai chúng tôi đều còn rất trẻ cho nên việc đó, đôi khi trong những ngày giờ nhàn hạ, chỉ bùng lên trong chốc lát, rồi sau đó lại lơi dần trong xao lãng, quay về với những hiện thực phải giải quyết hàng ngày.
Phải nói ngay rằng, đời sống vợ chồng riêng tư giữa tôi và Hùng thật là tâm đầu ý hợp, chúng tôi thỏa hiệp cùng nhau trong mọi vấn đề của đời sống, không có chuyện gì làm cho chúng tôi phải mất thời giờ tranh luận hay cãi cọ lôi thôi, rất ít khi chúng tôi phải bàn cãi lớn tiếng, cho đến khi sóng gió nổi lên bất chợt, đưa đến cho chúng tôi thảm cảnh chia lìa, rẽ đàn tan nghé, trong lúc vợ chồng chúng tôi lúc nào cũng vẫn còn yêu thương gắn bó với nhau, chỉ vì một bóng ma vô hình.
Câu chuyện quái gở huyền hoặc thực sự bắt đầu xảy ra từ lúc nào, thì quả thật, cả tôi lẫn Hùng đều không thể nhận biết, đều chẳng bao giờ ngờ, cho đến ngày, tôi không còn có thể chịu đựng thêm được nữa mới đành đoạn phải xa Hùng, phải trốn chạy những sự thực phủ phàng và mang nặng tính chất huyền bí, cứ ngày đêm luôn phiên diễn ra trong đời sống vợ chồng của chúng tôi đang bình lặng trong những ngày tháng bình yên hạnh phúc, cũng là phương cách bất khả kháng để tôi tự cứu lấy tôi và ước mong cứu được cả cho Hùng. Nếu không, tôi biết chắc, sẽ có một ngày nào đó không lâu lắc gì, vợ chồng của chúng tôi sẽ kiệt lực đi mà chết hay ít ra cũng sẽ quỵ xuống, chẳng còn đủu sức để mà đứng lên. Cho nên, tôi đành phải đoạn gạt nước mắt xa Hùng, chấm dứt mọi liên hệ xác thịt của đời vợ chồng, để mặc cho hồn ma vô hình mà sau này tôi còn có được cơ hội quen tên biết mặt, còn hiểu rõ cả những tâm sự ai oán của cô ta và tôi tự nhường nhịn để mặc tình cho cô ta tự tung tự tác, lôi kéo chồng tôi vào một cuộc sống ái ân thác loạn tột cùng...
Lúc sự việc diễn ra sau hai một hai lần đầu vào mỗi khi vợ chồng chúng tôi mặn nồng ân ái, qua ngày sau, Hùng cứ kín đáo nhìn tôi mỉm cười ra chiều thật mãn nguyện thích thú, chàng không chút ngần ngại biểu lộ sự sống sượng cùng dáng vẻ lẳng lơ đồng tình và cho rằng bản thân của tôi cũng thỏa hiệp với chàng trong những cả hai ngập chìm vào những cơn điên cuồng của thú tính. Chỉ có riêng tôi là nhận biết ra điều khác thường này vào những lúc tôi một mình riêng tư tỉnh táo, tự kiểm điểm lại bản thân và nhận diện ra những dấu tích ái ân cuồng loạn còn sót đọng lại trên thân thể rã rời với những dấu tích bầm dập, dày vò... cực chẳng đã tôi phải nói ra, tôi thật ngượng ngùng đến tím lịm cả tâm hồn.
Ðã bao lần tôi thẳng thắn quyết liệt đem sự thực quái đản này ra để cùng với Hùng tìm hiểu thì chàng lạnh lẽo nhìn tôi nhẹ cười:
- Có gì mà em phải băn khoăn thắc mắc, vợ chồng thì ai cũng như vậy cả mà, đâu có tội lệ gì mà chúng mình phải kềm chế? Thấy em tỏ ra yêu đương say đắm, thì anh cũng đáp lại để cả hai chúng ta cùng được hạnh phúc mà thôi. Anh chỉ có điều hơi thắc mắc là vợ chồng mình lấy nhau, ăn ở với nhau qua nhiều năm tháng, sao bỗng nhiên em tỏ ra "hăng hái" khác thường, còn hơn trong những ngày trăng mật của chúng ta dạo trước. Nhưng suy đi nghĩ lại, anh nhớ rằng, có chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thời kỳ hồi xuân...
Thực sự tôi còn trẻ, chưa đầy ba mươi tám, chưa có dấu hiệu gì là đã đến tuổi hồi xuân để bỗng nhiên, tôi nổi chứng dâm đãng, vui thú chìm ngập miệt mài vào những cơn điên cuồng nhục dục vốn càng không phải là bản chất của tôi.
Những khi trở lại trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, tôi chỉ biết rằng thân thể của tôi bải hoải rã rời và càng rã rời hơn vì những vết cào xướt của Hùng trong những lần thịnh nộ ái ân còn lưu lại trên khắp người. Tôi tự dặn lòng mình rằng tôi nhất định sẽ phải tự tiết độ và phải nhắc nhở, ngăn cản để cho Hùng cùng giữ gìn sự tiết độ giống như tôi. Nếu không, rồi mọi sự sẽ như thế nào? Chắc chắn, cả hai chúng tôi sẽ lại không còn đủ nghị lực và sức khỏe để trở dậy đi làm vào sáng hôm sau. Ðã mấy lần rồi, sau đêm ngập chìm vào những hoang loạn mê đắm, cả hai chúng tôi đều nhất tề bảo nhau gọi vào sở để lấy sickly (ngày nghỉ bệnh), nằm lại ở nhà để dưỡng sức. Tình trạng bê bối này chắc chắn không thể kéo dài được thêm nữa.
Dự định thì như thế, nhưng thực tế thì lại xảy ra khác lạ hoàn toàn. Tôi không thể nào có có thể chẳng những không tự chủ mà còn lôi cuốn mê hoặc chồng tôi... đến nỗk chồng tôi còn phải lên tiếng gần như một lời thống trách:
- Sao lúc này em "dữ" quá, Hồng ơi!...
Tôi sực tỉnh và ngỡ ngàng, chẳng biết phải giải thích ra sao, chỉ biết cúi mặt bực mình. Rõ ràng là tôi vô cùng tỉnh táo, vô cùng cảnh giác đề phòng. Nhưng sau cùng, tôi lại chính là người chủ động đến suồng sã trắng trợn, chỉ sau những cuộc mây mưa tôi mới nhận ra được rằng tôi không hề cố ý làm như thế, không hề cố ý dẫn dụ chồng... để yêu cuồng sống vội như hai kẻ mèo mả gà đồng. Tôi càng bực dọc nhiều hơn nữa khi chỉ cho chồng tôi xem những vết cào xướt ngang dọc ở trên người, Hùng chỉ nhìn tôi ân hận:
- Anh xin lỗi đã gây ra những dấu vết khó coi này làm cho em xót xa đau đớn.
Hùng thú thật:
- Anh cũng không biết tại sao anh chẳng còn chút hồn phách gì mỗi tái diễn, anh cứ phải xoắn xuýt, cào cấu em để phải ra nông nỗi này.
Chúng tôi nói với nhau cởi mở như vậy. Nhưng đó là những sự trao đổi chân thật vào những khi vợ chồng chúng tôi hoàn toàn tỉnh táo bước ra khỏi những mê hoặc hoang đường, tự nhận diện lại chính bản thân của mình và người mình yêu thương trân quý. Và rồi ngay sau đó, việc gì xảy đến lại cứ tiếp tục diễn ra, không nhất thiết ban đêm hay cả ban ngày và theo sự mô tả của Hùng thì, những khi như vậy, tôi như đã hoàn toàn lột xác thành một người nào đó chứ không phải là bản chất cố hữu của tôi nữa. Lẽ dĩ nhiên, là một người đàn ông sinh động, sức khỏe của Hùng còn dồi dào và sung mãn, chàng còn tỏ ra thích thú trong thời gian đầu. Nhưng tiếp tục hoài thì chàng cũng trở nên vô cùng mệt mỏi vì sức khỏe mỗi ngày một vơi đi, không kịp hồi phục cho đến lúc bỗng nhiên, tôi cảm thấy trong người có những triệu chứng khác lạ của người mang thai.
Tôi vội vã đến thăm một vị nữ bác sĩ sản khoa trong vùng. Bà khám bệnh sơ sài và làm thử nghiệm. Bà thân ái nói kết quả với tôi:
- Mừng cho bà đã có tinh mang thai em bé! Bà bắt đầu phải chú ý thường xuyên đến việc săn sóc thai nhi cùng những tiết độ cần thiết trong đời sống gối chăn.
Tôi vâng dạ cho bà bác sĩ an lòng. Nhưng trong thâm tâm tôi, nửa vui nửa lo âu khắc khoải, ngại ngùng. Nghĩ đến ngày tháng đầu tiên, con tôi được hiện diện chào đời, tôi được làm mẹ, Hùng được làm cha, chúng tôi có con như niềm mong đợi tha thiết từ bao lâu nay, được thỏa nguyện với giấc mơ cố hữu của tất cả những cặp vợ chồng để có kẻ nối dõi tông đường, làm sao tôi không vui mừng cho được, làm sao tôi che dấu được sự hãnh diện của một người vợ bình thường là đã chu toàn xong bổn phận của một người mang thiên chức làm mẹ.
Chiều đến, tôi mừng quá đến quên cả việc chuẩn bị cho bữa ăn tối thịnh soạn của tôi với Hùng. Chúng tôi dẫn nhau đi ăn tiệm. Bữa cơm ngon miệng khác thường và cả hai chúng tôi đều cảm thấy hạnh phúc. Sua đó, vợ chồng chúng tôi lái xe trở về nhà. Tôi sắp đặt trong đầu một vài công việc phải làm để tạ ơn Thượng Ðế đã ban cho chúng tôi sắp có một đứa con. Hồi trưa ở phòng mạch sản khoa đi ra, tôi đã mua sắm lễ vật nhang đèn để tối nay về nhà, tôi sẽ đặt lên bàn thờ để tạ lễ bề trên.
Về phần Hùng, trong suốt bữa ăn và suốt cả buổi chiều, chàng tỏ ra chững chạc và vô cùng tỉnh táo. Hùng chuyện vãn huyên thuyên, thêu dệt ra đủ mọi thứ chuyện thần tiên với đứa con tương lai vừa mới tượng hình trong bụng của tôi. Hùng hứng chí, khoác lấy vai tôi đi bước thấp bước ao ra khỏi nhà hàng, miệng huýt sáo ra chiều thật trẻ trung vô tư lự.
Chúng tôi vừa bước vào nhà thì bỗng nhiên trong tôi như bị du tới một thế giới nào khác và bị chìm ngập ngay vào một trạng thái lâng lâng đầy khác lạ. Người tôi nóng ran lên như đang đứng giữa buổi trưa hè. Tôi bị giằng co thật mãnh liệt trước hai ý định đang lởn vởn ở trong đầu, một bên là loa sắp sửa hoa đèn lễ tạ, một bên là khao khát ngay lập tức được ân ái với Hùng. Ý nghĩ như phong ba bão tố với một tốc độ vô cùng mãnh mẽ khác thường và dường như còn có cả ngàn vạn âm thanh khác lạ đang bùng vỡ ở trong đầu, lấn át tất cả những lý trí của tôi đang cố tình giằng kéo. Nhưng rồi tôi phải bị thua. Tôi quên mất đi tất cả mọi rối ren đang xảy tới như có một ma lực thúc đẩy kêu gào. Tôi sai khiến Hùng nhập cuộc mây mưa...
Lúc đầu Hùng còn có vẻ bỡ ngỡ trước sự tất công quá bất chợt của tôi, nhưng sau đó Hùng nhanh chóng tham dự vào cơn khác khao của tôi giống y như là hai con thú. Tự nhiên những âm vang trong tôi cứ dấy động hẳn lên từng hồi. Tôi miệt mài và quên đi tất cả. Tôi chỉ nhớ được rằng trong giây phút cuồng loạn đó, tôi vừa thở hổn hển vừa nói những điều gì đó khác lạ với chồng tôi. Những lời nói mà mãi đến ngày hôm sau, thể theo sự khẩn khoản yêu cầu của tôi muốn biết Hùng rành rẽ kể lại cho tôi nghe rồi còn chết nhạo tôi như vầy:
- Em khéo giả vờ. Ai đời ngay cả nói với anh những lời của vợ chồng âu yếm mà còn bảo là quên thì có phải là em như người đang mơ ngủ không? Ðược rồi! Muốn biết thì anh sẽ kể lại cho mà nghe. Em nói rằng em muốn ăn tươi nuốt sống anh. Rằng em không để cho anh đi đâu hết. Rằng em muốn luôn luôn ở bên anh mãi mãi, không cho ai khác được phép xen vào, được quyền chia xẻ...
Nghe Hùng nói nửa chừng, tôi vội đưa tay bịt miệng lại, không muốn cho chàng tiếp tục kể ra những câu nói, những điều mà, thật sự tôi vốn rất yêu thích thương chồng nhưng cũng không cần gì phải bộc lộ đến một cách sỗ sàng như vậy. Tôi ôn tồn bảo Hùng:
- Lạ quá anh ạ! Em đâu có muốn nói những điều không mấy cần như vậy với anh. Em đâu có định làm như những việc điên loạn như em đã làm vừa rồi. Em chỉ định khi về nhà thì lo nhang đèn hoa quả tạ ơn trời Phật đã cho chúng ta một đứa con sắp sửa chào đời như bao lâu nay vợ chồng mình hằng ao ước. Tại sao...
- Tại sao cái gì? Cái gì để em phải hỏi tại sao? Nhưng mà có tại sao đi chăng nữa thì chúng ta là vợ chồng, điều gì cũng có thể nói và làm cho nhau được. Cần gì em phải khách sáo! Chỉ có điều là em hơi vội vã, anh chẳng kịp chuẩn bị gì cả...
Nói vậy xong, như thường lệ, Hùng lại tủm tỉm mỉm cười ra chiều đầy thích thú. Ðiều đó, khiến tôi chỉ cảm thấy tự giận mình, tự nhiên bực bội. Tôi vùng vằng ngũng nguẩy nói với Hùng:
- Tôi! Em không thèm nói gì với anh nữa hết. Anh chẳng hiểu được em tí gì. Lúc nào cũng toàn nghĩ bậy...
Tôi bỏ chàng ngẩn ngơ đứng đó, chạy tuốt lên lầu. Qua khung kính cửa sổ, tôi nhìn qua ngoài kia đêm đen thăm thẳm với một ngọn cây cao cành lá rậm rạp đang ngã nghiêng đong đưa trong gió nhẹ.
Bỗng tôi cảm thấy giá lạnh rụng rời tứ chi thân thể khi tôi chợt nhìn thấy ẩn hiện mơ hồ trong lùm cây ở ngoài khung cửa chỉ được che phủ bằng một tấm màn ren thật mỏng manh đang đong đưa trong làn gió nhẹ, ngay trong tầm mắt, có một người đàn bà còn rất rẻ, nhan sắc có thể kể là đẹp một cách sắc sảo mặn mà, với mái tóc đen dày bỏ xõa rối trên vai, thân thể thì lõa lồ không một mảnh vải che đậy. Tôi kinh hoàng sợ hãi đến ú ớ, miệng không thốt ra thành tiếng để cầu cứu gọi Hùng đang còn ở dưới nhà trước hình ảnh người đàn bà trần truồng đang hiện ra nhìn tôi mỉm cười như trêu chọc ngạo nghễ quá rõ rệt ở trước mặt. Tôi sợ quá, lảo đảo ngã ngồi ngay xuống cạnh chân giường.
Tôi vừa tạo ra một tiếng động khá lớn sau khi ngã xuống, khiến cho Hùng nghe thấy, hoảng hốt vội vã chạy lên. Thấy tôi ngã trên giường, chàng sấn đến đỡ tôi ngồi dậy và hỏi:
- Có chuyện gì vậy hả em? Tại sao em lại bị ngã xuống như thế này?
Tôi biết chồng đang vô cùng lo lắng nhưng vì quá sợ hãi, tôi cũng chẳng nói nên được lời nào, bèn chỉ tay ra phía bên ngoài cửa sổ để cho chàng ngoái đầu ra ngoài đó trong đêm đen để cho chàng cùng thấy hình ảnh người đàn bà lõa lồ vẫn còn đang ẩn hiện trong lùm cây lơ lửng.
Hùng theo hướng tay tôi chỉ, nhìn ra, nhưng chàng vội vã lắc đầu:
- Anh đâu có thấy gì ở ngoài kia đâu mà em sợ hãi quá vậy! Chắc lúc chúng ta ăn cơm chiều em đã uống hơi nhiều rượu khai vị nên mới bị chóng mặt và sanh ra ảo giác như vậy đó mà. Thôi, đừng sợ nữa. Hãy đi tắm cho tỉnh táo lại là xong.
Tôi cảm thấy hơi có chút an tâm trước sự vỗ về âu yếm của chồng và ngoan ngoãn đứng dậy đi vào phòng tắm... Hùng nhanh nhẹn tiến đến bên khung cửa sổ, chàng với tay khép tấm màn dày phủ kín lấy khung cửa sổ như cốt ý để cho tôi được yên lòng.
Nhưng không ngờ lúc chỉ có một mình tôi đứng chuẩn bị áo khăn bên trong phòng tắm mờ mờ thì hình ảnh cô gái lõa lồ ban nãy lại hiện ra ngay trong tấm gương lớn dùng để soi mặt trong phòng tắm. Tôi lại một phen thất kinh hồn vía rồi không thể nào tự chủ được, tôi hét lên một tiếng thật kinh hoàng và tông cửa phòng tắm chạy ra. Nghe tiếng thét của tôi, Hùng đã xuất hiện ở ngay cửa phòng tắm tự lúc nào nên khi tôi vừa hốt hoảng phóng ra, chàng đã vội đưa hai cánh tay ra đón đỡ lấy tôi và ôm chặt lấy tôi một cách thương yêu như thể sẵn sàng bảo vệ cho tôi không cho bất cứ sự gì có thể chạm đến được. Tôi cũng vội vã ôm chặt lấy chồng để tìm sự an toàn tuyệt đối. Hùng ghé xuống hỏi nhẹ bên tai tôi:
- Em đã trông thấy điều gì đến phải hoảng loạn lên như vậy?
Tôi vừa định mở miệng nói ra hình ảnh con ma nữ mà tôi đã trông thấy lúc nãy ở bên ngoài cửa sổ và bây giờ lại thấy nó hiện ra bên trong phòng tắm thì, bất chợt, những cảm giác hâm hấp nóng bỏng, giống hệt như tình trạng lúc chúng tôi vừa từ quán ăn bước vào nhà vội quấn quít lấy nhau, sự khao khát lại bùng lên mãnh liệt, khiến toàn thân tôi như vừa có một huyền lực naò đó từ bên ngoài chợ đến xâm chiếm trọn vẹn cả thể xác lẫn thần trí của tôi cũng lại đang bắt đầu bềnh bồng trôi dạt mãi vào trạng hướng của thần thức mênh mông. Tối nhón gót và tự ngữa mặt lên đặt một cái hôn thật tình tứ trên bờ môi của Hùng, khiến chàng không kịp phản ứng... Chúng tôi lại quấn chặt lấy nhau như chẳng thể rời.
Hùng có vẻ thảng thốt, song chàng cũng chẳng phải đối được điều gì, lại đành thúc thủ nhật cuộc với tôi để cùng tiếp diễn tấn tuồng yêu đương nồng nàn.
Thật ra thể xác của tôi lúc đó đã cảm thấy mệt mỏi rã rời sau một ngày vừa làm việc, vừa đón nhận một nguồn tin vui với đứa con trong bụng khiến mãi xúc động, nhưng trong tâm tâm của tôi dường như không còn đủ sức để đề kháng, thêm nữa, tôi cảm thấy dường như có một ma lực huyền bí nào đó cứ dấy động mãi cơn khao khát dục tình để cho từ từ nó lại xâm chiếm và lấn át toàn bộ thân xác và tri thức của tôi. Tôi đành bị khuất phục trong khi vẫn mơ hồ cảm thấy như vậy là một điều khác thường mà đáng lẽ, tôi phải biết tự chết. Nhưng không được nữa rồi!
Cho đến lúc hai vợ chồng tôi rời nhau ra và ngã vật trên mặt thảm vô tình thì trong tai tôi chợt nghe nổi lên lanh lảnh những chuỗi cười đầy mãn nguyện vọng lại cơ hồ như rất xa xăm nhưng không kém phần kinh dị, tai nghe rõ ràng đến nỗi tôi có thể cảm nhận ngay được rằng tiếng cười đó phát ra từ hình ảnh cô ma nữ tôi đã thấy ban nãy, giọng cười nghe sao thật quá lẳng lơ, sao có vẻ như thách thức trêu người đến lạ lùng. Tôi cố vận động trí lực để bật dậy tìm kiếm dáo dác chung quanh căn phòng. Nhưng tuyệt nhiên, chẳng có ai khác lạ ngoài Hùng đang nằm chìm đắm trong giấc ngủ đồng thiếp sau một hồi chàng tiêu hao sinh lực giống như bao nhiêu lần.
Tôi mệt mỏi quá không thể trở dậy để làm gì, tôi cũng nằm tại đó, thiếp đi từ lúc nào không hay biết. Giấc ngủ kéo đến thật nhanh chóng nhưng cũng rất chập chờn đầy mộng mi. Tôi thấy tôi đang một mình đi lạc vào trong khu rừng già cây cối tối tăm chi chít và không có ngay một lối mòn để bước đi rõ rệt. Bỗng một tiếng rú rùng rợn vang lên như muốn lay động đánh thức tất cả khu rừng rậm này.
Người con gái ma quái tôi đã thấy bên ngoài khung cửa và trong phòng tắm vừa rồi lại bất chợt hiện ra trước mặt tôi ngay trong khu rừng này lúc nào mà tôi cũng không hề hay biết. Sợ hãi quá, tôi chỉ biết ngây mặt ra đứng nhìn, miệng không thể nào nói năng ra được thành tiếng. Tôi mãi lắp bắp mà không thốt lên được lời nào.
Duyên Nợ Oan Tình
(Phần 2)
Cô ta nói nhỏ nhẹ với tôi:
- Tôi với cô không có oán thù. Tôi tuy là một hồn ma chưa được siêu thoát nhưng không có ý làm hại cô đâu, cô đừng sợ sệt và cũng đừng nghĩ rằng tôi hiện ra để quấy nhiễu hoặc để trả thù. Tôi có một tâm sự muốn cùng cô bày tỏ và chia xẻ cùng nhau, nhưng tôi ngại, không biết cô có bằng lòng cùng tôi trò chuyện hay cô lại ngộ nhận hiểu lầm về những vong hồn cùng những hoạt động vô hình thuộc cõi âm giống như những ngộ nhận và hiểu lầm của nhiều người trên dương thế từ bao lâu nay vẫn thường nghĩ rằng cõi âm là những điều kinh dị, là những hồn ma hung tàn lam lũ lúc nào cũng chỉ muốn hiện ra để quấy phá hoặc trả thù. Ðó là những định kiến hoàn toàn sai lạc và bất công, cho nên, hiếm khi "chúng ta" có được với nhau những quan hệ cảm thông.
Ðúng ra thế giới vô hình của chúng tôi cũng có những loại hồn ma hung hăng bạo ngược, cũng có những vong linh bị bất tử oan khiên với muôn vạn ân oán chất chồng, chưa được giải quyết thỏa đáng sau khi họ nhắm mắt lìa đời, cho nên cô hoặc những người còn sống trên dương thế nếu có cơ duyên, vẫn thường chứng kiến những hiện tượng hiển hiện lên để giải quyết cho xong những oan khuất muộn phiền. Nhưng bù lại, phần đông triệu vạn hồn ma trong cõi ô minh thăm thẳm, không phải hồn ma nào cũng đáng kinh dị...
Như trường hợp của tôi là một giả dụ điển hình. Tôi muốn được gặp cô trong hoàn cảnh này cũng không có gì đáng để cho cô phải bàng hoàng ghê sợ. Vì vậy, cô hãy bình tĩnh nghe tôi bày tỏ đôi lời. Tôi muốn được cùng cô trở thành đôi bạn, cho dù chúng ta mỗi người hiện ở hai thế giới cách biệt âm dương. Không biết cô có bằng lòng không?
Giọng nói của cô hồn ma nghe sao đầy chân tình tha thiết, nghe sao nhuốm một chút gì đó thật đáng tội nghiệp bi thương khiến cho tôi ở trong trạng thái thực thực hư hư này cũng rất bồi hồi cảm động. Tôi lên tiếng nói với cô ta:
- Cô thật đã làm cho tôi rất đỗi sợ hãi kể từ lúc chiều, ở trên ngọn tàng cây bên ngoài khung cửa sổ và trong căn phòng tắm của nhà tôi. Tôi chưa được biết tên cô là gì? Lại càng không hiểu sao cô không có mặc quần áo để che thân, để lộ ra như thế này trông không được đẹp mắt?
Bóng ma nữ phá ra bật cười thành tiếng:
- Cô nói vậy cũng phải! Chẳng là ở cõi vô hình chúng tôi không cần lệ thuộc vào quá nhiều phiền bận như khi còn tại thế, chúng tôi không cần thiết phải xử dụng tới y phục quần áo chỉ vì chúng tôi có một nhãn quan vô thường. Có nghĩa là, trong nhiều điều chúng tôi không cần phân biệt, không cần phân định giai cấp thấp cao, hay trai gái trẻ già, không có chia ra những giai cấp sang hèn, hay dở mà chỉ có một qui luật thật rành mạch phân minh dựa trên nghiệp quả của mỗi vong hồn để mà phải chú ý. Ðó là vấn đề Thiện, Ác của mỗi vong hồn, của từng nghiệp quả để được xếp loại và quả trị mà thôi.
Nhãn quan thường lệ của cô nhìn thấy tôi cũng chẳng có chi đáng phải quan tâm. Nếu cô không tiện nhìn tôi như thế này, thì tôi sẽ cho cô thấy tôi dưới một hình thể khác để cô được an tâm hơn. Cô chịu vậy chứ gì?
Nói vừa xong, hồn ma nữ đã hóa thân thành một hình bóng có mặc đầy đủ quần áo chỉnh tề tươm tất. Cô ta vẫn đứng cận kề trò chuyện với tôi ở trước mặt như hai người bạn rất thân. Cô ta tỏ ra từ tốn khác thường và cho đến bây giờ cô ta mới tự giới thiệu:
- Có lẽ, cô không biết tôi là ai? Tên tôi là gì và tại sao chúng ta có cơ duyên hôm nay hội ngộ để chuyện vãn, tâm sự với nhau.
Cô ta duyên dáng vấn gọn lại mái tóc đen dài rồi ôn tồn kể cho tôi nghe tất cả những gì thuộc về cô mà tôi chưa bao giờ được biết.
Cô ta vốn là một sinh viên sắp ra trường trong thời gian mười chín năm về trước, tên là Nguyễn Thị Thảo Chi. Thảo Chi năm đó đã quen biết với Hùng tức là người chồng yêu thương hợp pháp của tôi bây giờ. Cách đây gần 20 năm về trước, Thảo Chi là một cô gái tuổi độ hai mươi. Hùng đã yêu Chi và Chi cũng đã yêu Hùng. Lúc bấy giờ hai người còn đang đi học và tình yêu đã rộ nở trong tim. Hùng bị động viên và phải từ giã trường lớp sách vở thị thàng để lên đường làm nhiệm vụ của người con trai thời chinh chiến. Hai người đã thề non hẹn biển cùng nhau. Chàng sẽ có ngày trở về sau thời gian thụ huấn. Lúc đó, Thảo Chi cũng đã ra trường để rồi hai người sẽ chính thức trở thành chồng vợ. Câu chuyện tình trong thời chinh chiến với những giấc mộng ái ân thơ mộng và nuôi nhiều hy vọng biết bao. Và đã biết bao nhiêu cánh nhạn thư tình hàng ngày nối kết hai mối ân tình tưởng đâu sẽ đời bền vững. Nào ngờ, một trong hai kẻ đã phải sớm lìa bỏ trần tục ra đi mãi mãi không có lúc quay về, khiến cho Hùng ngày đêm thương nhớ hình bóng cũ.
Số là căn mệnh của Thảo Chi đã phải chết trong một tai nạn rùng rợn trong một buổi chiều, xảy ra trên đường Trương Minh Ký, khúc cổng xe lửa số 6 mà từng chiều chiều thường có những chuyến xe lửa tốc hành từ phía Dĩ An - Biên Hòa - Thủ Ðức chạy qua. Hôm đó, Thảo Chi từ nhà lái chiếc xe PC trở lại giảng đường để tham dự một buổi thực tập về đêm. Nàng chạy xe đến cổng xe lửa đúng vào lúc có một chuyến xe chạy ngang, nàng ngừng xe lại ở phía bên đây khúc cây cản ngang đường như bao nhiêu chiếc xe khác đang từ hai chiều đi tới. Chuyến xe lửa vun vút lao qua thật huyên náo trong những hồi còi dài. Bỗng từ ngay phía sau lưng chiếc xe PC nhỏ bé do Thảo Chi đang tắt máy đứng đợi có một chiếc xe taxi không hiểu vì sơ ý cách nào mà cứ vô tình lấn tới, lấn tới để rồi cứ như vậy mà lấn tới mãi không thôi, để mặc cho Thảo Chi cùng những người lái xe đang có mặt ở phía trước, ở chung quanh phải thất thanh hét lên hỗn loạn trong lúc chiếc xe PC của Thảo Chi bị đẩy tới, vượt qua bẻ gẫy cả khúc cây đang chắn ngang đường cho đến khi bánh xe trước của Thảo Chi đã ra dần tới khoảng cách hiểm nghèo của chiếc xe lửa vẫn hùng hục vượt qua.
Sự hiểm nghèo chỉ xảy ra trong khoảnh khắc khi chiếc bánh xe trước của Thảo Chi bị móc vào bên hông thân tàu và ngay lập tức bị kéo đi trong khi vạt áo dài của Thảo Chi còn đang gài trên chiếc ghi đông của chiếc xe gắng máy nhỏ bé. Vạt áo bị kéo mạnh rách toạc nhưng không rách hẳn và vẫn còn đủ sức để kéo trọn thân thể của Thảo Chi cuốn vào dưới những bánh xe nặng nề để rồi nàng phải chết không kịp phó linh hồn.
Khi những toa tàu đã được ngừng lại hẳn thì Thảo Chi đã vĩnh viễn lìa đời với những vết thương kinh hoàng vương lại trên một tấm thân đã bị nghiền nát, kéo xé tả tơi không toàn xác, trông rùng rợn vô cùng. Chỉ một ít phút giây, Thảo Chi đã hóa ra người thiên cổ trong một tai nạn rùng rợn bất ngờ, chắc chắn linh hồn của nàng còn vương mang nặng nề bao nhiêu là u hoài oan khuất, luyến ái lẫn kinh hoàng.
Ðến những tháng ngày Hùng mãn khóa ra trường, trở về chỉ để còn một việc chàng đem những đóa hoa tang tìm đến mộ phần của người yêu - của Thảo Chi - để mà ngậm ngùi thương xót. Kể từ đó, Hùng giữ mãi hình bóng của người yêu để cho niềm tương tư tiếc hận ở trong lòng mỗi ngày một thêm u sầu héo hắt.
Chàng tôn thờ và chọn một đời sống câm lặng, lầm lũi trong suốt những tháng năm dài binh nghiệp để giữ trọn mối tình thủy chung, cho đến khi lưu lạc sang đây rồi đột nhiên gặp gỡ cô gái là tôi bây giờ mà ngay từ lúc ban đầu quen biết, Hùng đã không ngớt dành cho tôi những câu nói tán tụng ngọt ngào và lúc nào chàng cũng không tiếc lời khen tôi xinh đẹp, hiền thục và đoan trang cho đến khi hai chúng tôi thành vợ chồng, trải qua những tháng ngày êm đềm hạnh phúc. Càng hạnh phúc vô biên khi chúng tôi khấn nguyện để có một mụn con cho vui cửa vui nhà thì chúng tôi cũng đã được toại nguyện.
Cuộc đời tỵ nạn của chúng tôi như vậy, tưởng đã chẳng còn có điều chi để mà hối tiếc nếu, bất ngờ, không có vong hồn ma nữ của Thảo Chi hiện ra, ân cần kể lể cho tôi biết rõ là Thảo Chi vẫn còn yêu Hùng đến không thể nào quên được. Có thể vì quá nặng lòng luyến ái, nên nàng khó mà được siêu độ, và vẫn còn nuối tiếc tiền nghiệp thế gian, vẫn còn nuôi giữ mãi mối tình xưa với tấm tình yêu dấu thiên thu bất tận với Hùng.
Chính Thảo Chi đã thổ lộ rõ ràng rằng vì còn quá yêu Hùng và cũng tự biết rằng nàng cả gan hành xử như vậy là có lỗi, là phi lý và bất công cho một người vợ thật vô tội là tôi. Nhưng Thảo Chi đã không thể tự kềm hãm được lửa tình, nàng đã không tự chết được sở cầu luyến ái cho nên đã đường đột xử dụng thân xác đàn bà của tôi để cùng với Hùng vui vầy những cuộc mây mưa mà tôi không hề chủ động, chẳng vậy mà sự kiện khiến tôi cứ bị sống trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, nửa thực nửa hư như một kẻ bị mất hết hồn phách và xác thân thì cứ như bị muốn rời ra từng mảnh mà không ngưng nghỉ được những trận cuồng nộ của xác phàm. Riêng đối với Hùng, không thể nào phiền trách anh ấy, Hùng vừa rất yêu thương vợ, lại mang bản chất ham hố và xung động thường lệ của một người đàn ông, một người đàn ông thủy chung và chỉ muốn cho vợ của mình được chan hòa hạnh phúc. Chàng không có chút ngờ vực nào về những lần vợ chồng gần gũi nhau mà thực ra Hùng đang gần gũi với một hồn phách khách, vốn là gnười yêu xưa nhưng lại ẩn náu trong chính xác thân của vợ mình. Thật không có lý do chi chính đáng để cấm đoán hoặc ngăn cản một người đàn ông yêu thương và chung đụng thường xuyên với người vợ đầu ấp tay gối của mình. Có trách chăng là phải trách cả hai vợ chồng đều không cùng một lòng bảo nhau để tự chế, để khỏi bị xô ngã liên tục vào những cơn thịnh nộ của xác thân. Nhưng tại sao chỉ trách Hùng, trong khi chính vợ chàng - qua sự thúc đẩy vô hình của hồn ma Thảo Chi - luôn luôn đòi hỏi và chủ động.
Thảo Chi nhìn tôi bằng tia nhìn đầy tội nghiệp. Nàng thẳng thắn thú nhận với tôi như một người bạn thân thiết đã quen tự thuở nào. Nàng thì thầm tâm sự:
- Chắc cô cũng thừa nhận rằng tình cảm thương yêu có những ràng buộc lạ lùng không ai có thể giải thích. Tôi tự biết đã làm những điều không phải và thật sự có lỗi với cô. Nhưng tôi cũng không biết phải làm sao để ngăn được những dục vọng điên cuồng cùng những khác khao luôn luôn dấy động từ tận đáy lòng, cho nên tôi đã phạm tội, tôi đã có lỗi với cô. Tôi biết, tôi sẽ bị bề trên thống trách và trừng phạt nặng nề. Nhưng tôi xin thú nhận, tôi không thể nào cầm lòng được mỗi lần tôi nhìn thấy Hùng và cô âu yếm lẫn nhau, cho nhau những ái ân mặn nồng của đời làm chồng vợ, trong khi tôi là một hồn ma vô hình, còn quá tha thiết yêu anh, khao khát được cùng anh vui vầy tình tự. Và cũng chỉ vì yêu anh như thế mà hồn tôi còn vướng mắc duyên nợ ân tình nên không thể nào siêu thoát để lên đường tiếp nhận một kiếp khác. Tôi nghen tuông đó mà.
Nhưng tôi mong cô hãy dành cho tôi niềm thông cảm. Chúng ta đều là đàn bà như nhau. Mặc dù cô là vợ chính thức và hợp pháp của anh Hùng. Nhưng còn tôi, dù sao tôi cũng là người đến với anh ấy từ trước và anh ấy cũng rất hết dạ yêu tôi. Vì vậy cho nên, tôi không thể quên anh ấy được đâu. Anh ấy là của tôi, tôi không bao giờ chịu để mất anh ấy thêm một lần nữa cho dù bây giờ tôi chỉ là một vong hồn không có dương lực để cùng anh chung sống, nhưng tôi nhất định không thể mất anh...
Hồn của Thảo Chi say sưa biểu lộ như chỉ sợ tôi ngăn cản không để cho nàng nói nữa. Phần tôi chỉ biết lắng nghe mà không nói được với Thảo Chi lời nào rồi bất ngờ tôi liên tưởng đến cái thai đang cưu mang trong bụng. Tình mẫu tử đột nhiên trỗi dậy đem đến cho tôi một sức mạnh phi thường để không còn ngần ngại hay sợ hãi nữa.
Tôi vội vã nói với Thảo Chi:
- Tôi đã có con với Hùng. Ðứa con này là do cả hai vợ chồng chúng tôi thành tâm cầu khẩn nên mãi đến nay mới có. Tôi mong cô hãy dành cho chúng tôi một cơ hội để cho đứa nhỏ được chào đời...
Hồn Thảo Chi phá ra cười nghe thật rùng rợn:
- Ai bảo nó là con của cô? Nó là con của tôi mới đúng! Cô quên mất rằng cô lấy Hùng đã gần mười năm, sao đến giờ này cô mới có thể thụ thai? Các vị bác sĩ chẳng từng nói cho cô biết là thể chất của cô không có thụ thai là gì? Cô phải hiểu điều này hơn ai hết chứ! Nó đích thị là giọt máu của tôi, của những lần Hùng với tôi yêu nhau say đắm và thân thể của tôi chỉ là một công cụ cho tôi vay mượn mà thôi.
Tôi cảm thấy bần thần bối rối. Chẳng thể nhận định được thực hư trong lúc này. Vong hồn Thảo Chi nói không phải là không có lý. Tôi đã bao lần đi thử nghiệm với các bác sĩ chuyên mộn, đã được họ cho hay tôi không có chức năng làm mẹ cơ mà. Trước giờ tôi vẫn cho rằng chính nhờ vào lời cầu khẩn vô cùng tha thiết của hai vợ chồng, tôi mới được Phật Trời ban cho một đứa con cầu tự. Nay hồn Thảo Chi lại nói ra sự thật này làm sao tôi không bàng hoàng bối rối. Nhưng cho dù là vậy thì bổn phận của tôi, bổn phận của một người sắp được làm mẹ, tôi cũng cần phải nhắc nhở với hồn phách của Thảo Chi đôi điều cần thiết. Tôi nhỏ nhẹ nói với nàng:
- Cô nói sao tôi đành chỉ biết vậy. Nhưng dẫu thế nào, tôi cũng phải bảo vệ và gìn giữ cho thai nhi để cho đứa con tôi đã cưu mang phải được chào đời một cách bình thường khỏe mạnh, nó không thể nào chịu đựng được những biến loạn quá độ của những cơn điên loạn dục tình mà cô đã dùng xác thân của tôi để mà mê hoặc, lôi kéo anh Hùng. Cô phải chấm dứt những hành động cuồng loạn đó lại để đứa bé có đủ điều kiện dinh dưỡng trong an toàn.
Hồn Thảo Chi như sự nhớ lại việc này, cô ta lên tiếng:
- Ðiều này thì đúng! Vậy tôi hứa với cô, sẽ không làm tổn hại đến thai nhi nhiều để cho nó được mạnh khỏe. Nhưng bắt tôi phải xa cách Hùng thì tôi không thể nào hứa với cô cho được. Tôi vẫn còn rất yêu anh, vẫn muốn có anh luôn luôn bên cạnh của mình, cho dù chúng tôi là hai miền âm dương khác biệt. Cô hãy cứ an tâm và nhất là đừng bắt buộc, cấm đoán tôi phải xa Hùng. Nếu không, cô sẽ ân hận đó.
Nói đến đây, hình bóng của Thảo Chi chợt tan biến trong sương mờ đang phủ ngập đầy trong cánh rừng già rậm rạp. Một cơn gió lạnh thổi tới khiến tôi thoắt chốc tỉnh lại dần dần. Căn phòng ngủ của vợ chồng chúng tôi vẫn hoàn toàn im vắng, đèn điện ở trong phòng vẫn bật sáng khắp nơi. Hùng vẫn ngủ mê mệt trên mặt thảm vô tình và cũng giống như tô, trên người chàng cũng không có một tấm chăn che phủ...
Tôi xấu hổ quá, vội vã đứng bật lên vớ đại tấm khăn phủ giường rồi đi nhanh vào phòng tắm. Cũng may, các cửa nẻo trong phòng ngủ đều được đóng kín. Dòng nước ấm tưới xuống khắp châu thân giúp cho tinh thần tôi tỉnh táo lạ thường để hồi tưởng lại tường tận những diễn biến mà tôi vừa trải qua với vong hồn ma nữ mà bây giờ đây tôi còn nhớ được cả tên họ của cô ta. Tuy vậy, lòng tôi vẫn không khỏi ngờ vực về những gì tôi với vong hồn Thảo Chi đã trao đổi.
Tôi định tâm chờ đợi một cơ hội nào đó thật thuận tiện sẽ đem tất cả những chi tiết này ra để thảo luận với Hùng. Kể từ lần sau đó, đúng như lời Thảo Chi đã hứa trong giấc mơ, nhịp độ chăn gối giữa vợ chồng chúng tôi đã có phần trở lại bình thường, tuy rằng những lần xảy ra bất chợt, những lúc mê đắm loạn cuồng không phải là đã được hoàn toàn chấm dứt, nhưng ít ra, tôi cũng có thể kham nổi và đứa bé trong bụng của tôi cũng đang được lớn dần, còn đợi chờ đến ngày tôi khai hoa nở nhụy.
Chồng của tôi đã rất kinh ngạc vào một lần chúng tôi dắt nhau đi phố, cùng nhàn nhã trò chuyện trong một quán nước, giữa ban ngày. Tôi đã nói với anh thật bình dị ôn hòa, cốt không để cho Hùng có ý nghĩ cho tôi là người tò mò hoặc là ghen tuông bóng gió:
- Anh còn nhớ người con gái nào tên là Thảo Chi, Nguyễn Thị Thảo Chi không?
Thật là tội nghiệp. Hùng há hốc miệng ra nhìn tôi một cách lạ lùng:
- Cô ta là người yêu của anh lúc trước, lúc còn ở bên nhà dạo anh còn đi học. Chuyện đó đã lâu lắm rồi và cô ta chẳng may qua đời torng một tai nạn.
Tôi ngắt lời Hùng:
- Cô ta bị cuốn vào xe lửa, bị kéo đi và chết rất thê thảm phải không anh?
Hùng trợn mắt nhìn tôi kinh ngạc:
- Sao em biết rõ vậy?
- Em còn biết cô ta bị chết ở đâu nữa kìa! Cô ta bị chết trong một buổi chiều, tại cổng xe lửa số 6 trên đường Trương Minh Ký, gần khu nhà thờ Ba Chuông trong lúc anh còn đang đi học quân trường.
Ðến lúc này thì Hùng không còn thể nào giữ được bình tĩnh, chàng chồm qua mặt bàn nắm lấy tay tôi:
- Sao em biết rõ từng chi tiết quá vậy? Bộ lúc đó em cũng có mặt ở nơi Thảo Chi gặp nạn à?
Tôi lắc đầu nhè nhẹ, đáp cụt ngủn:
- Không?
Hùng hỏi vặn:
- Em nói không có nghĩa là gì? Không ở nơi đó lúc xảy ra tai nạn, tại sao em biết được rõ rệt những chi tiết mà ngay cả anh cũng chỉ được nghe người nhà thuật lại?
Tôi ôn tồn chậm rãi nói hết cho Hùng nghe tự sự. Bắt đầu từ một buổi chiều năm trước, kho chúng tôi từ quán ăn trở về nhà rồi cuống cuồng quấn lấy nhau như hai con dã thú đói mồi, rồi tôi nhìn thấy rõ ràng hình ảnh của Thảo Chi trần truồng hiện ra giữa lùm cây bên ngoài cửa sổ phòng ngủ, ngay cả trong phòng tắm, rồi chẳng bao lâu sau đó vợ chồng chúng tôi lại tái diê!n cơn khao khát dục tình rồi cả hai cùng ngã ra ngủ say trên mặt thảm, rồi trong giếc đồng thiếp chiêm bao, cô ta đã hiện đến và kể lại tự chuyện của Thảo Chi không thiếu sót một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Ðến nước này thì chồng tôi không còn có lý do để chàng cho rằng tôi đang đặt điều, bịa chuyện chọc phá chàng hoặc là tôi làm vậy để tỏ dấu ghen tuông bóng gió, trong khi tôi thật không biết một chút gì về những năm tháng đã qua của Hùng trong dĩ vãng, tôi lại cũng chẳng bao giờ tìm hiểu hoặc thắc mắc về những mối tình thuở đầu đời của chồng, của Thảo Chi với Hùng đã diễn ra như thế nào. Tôi thuộc loại đàn bà thủ phận và chân chất. Tôi gặp Hùng, yêu Hùng rồi chúng tôi trở thành một đời chồng vợ. Tôi chỉ biết rõ một điều là thương yêu và chiều chuộng chồng tôi tất cả những gì do anh đề nghị. Ngược lại, chồng tôi cũng hết mực nhường nhịn và yêu chiều lại tôi. Cuộc sống bình lặng của chúng tôi thật ra chẳng có vấn đề gì, cho đến ngày vong hồn của Thảo Chi xuất hiện và xen vào chi phối, chi phối quá mạnh mẽ trong vai trò chăn gối vợ chồng, khiến cả hai chúng tôi đều bị gần như là kiệt lực, torng lúc chồng tôi thì rất đỗi vô tư, không nghĩ ngợi gì. Cứ tưởng diễn ra như vậy là do lòng tôi ham muốn và chàng sẵn sàng dốc hết sinh lực để đáp ứng và chiều chuộng tôi, để tôi khỏi buồn lòng. Thật vô cùng tai hại.
Tôi nhận thấy rõ là tôi không thể nào đủ sức để kham nổi tình trạng miệt mài trong ái ân dục vọng, bởi vì trong sinh hoạt hằng ngày, tôi còn quá nhiều vấn đề phải chư toàn bổn phận, sức khỏe và thời gian ở xứ này vốn là một điều hệ trọng cho bất cứ ai muốn kiện toàn đời sống. Nếu chúng tôi cứ bị miễn cưỡng tiếp tục như vầy thì chúng tôi không còn sức khỏe và nghị lực để chăm lo cho đời sống, nhất là tôi lại sắp sinh con. Từ đó, sức khỏe và thời giời còn đâu nữa để mà chuẩn bị chu toàn, rồi cũng sẽ bị tiêu tán mất mà thôi.
Tôi thật sự hoảng hốt bày tỏ mối lo ngại này với chồng thì Hùng cũng ra chiều đồng ý, chàng quả quyết nói với tôi:
- Ăn thua là ở mình, em ạ! Chúng ta sẽ cố chấn tĩnh cho nhau thì Thảo Chi đâu có thể sai khiến chúng ta mãi được...
Nghe Hùng nói như vậy, tôi thương chồng nên cũng tin theo và hy vọng chúng tôi có đủ sáng suốt để nhắc nhở nhau phải tự chủ, mực thước.
Nhưng thực tế không diễn ra như lòng chúng tôi ước định. Thể xác của tôi vẫn trở thành công cụ bất khả kháng để cho Thảo Chi dùng để hưởng thụ bất tận với Hùng. Phần của Hùng thì chàng giống như một đứa trẻ nhỏ vô tư lự và thơ ngây, hễ chớm bị chút mê hoặc trên thân xác là chàng bị mê đắm và nhập cuộc tức thời để rồi, cả hai chúng tôi, những khi tỉnh lại chỉ có một niềm ăn năn hối tiếc với hai thân xác rã rời.
Cho đến một ngày, tôi lấy lại được trạng thái hoàn toàn tỉnh táo để dứt khoát nói chuyện với chồng tôi. Tôi nói với Hùng về một quyết định mà tôi đã cân nhắc từ lâu lắm rồi. Chúng tôi nhất định phải tạm thời xa nhau. Tôi nói:
- Em không thể nào chịu đựng hoàn cảnh quái dị này lâu hơn được nữa, lại càng không thể nào chấp nhận việc Thảo Chi mượn lấy xác của em để cho cô ta hành hạ anh liên tục cả đêm lẫn ngày.
Chồng tôi tỏ ra vô cùng bàng hoàng khi nghe tôi nói đến chuyện phải xa nhau. Chàng hỏi lại tôi mà không dấu được sự bực dọc trong lòng:
- Tại sao em phải quyết định như vậy? Tại sao chúng mình đành phải xa nhau? Nhất định chúng ta sẽ tìm ra giải pháp thỏa đáng để hóa giải tình trạng này...
Chồng tôi khăng khăng nói như vậy. Nhưng tôi biết cả hai chúng tôi đã bất lực thật rồi. Chúng tôi không cách nào có thể tự chủ hoặc chận đứng được những ham muốn thác loạn của Thảo Chi, của một hồn ma quay về đòi lại món nợ ân tình mà ngày xưa đã bị vuột mất.
Tôi biết rõ như vậy và quyết định phải ra đi. Ði đến một tiểu bang xa xôi để chấm dứt tình trạng ân ái loạn cuồng này và nhất là để sanh đẻ đứa con đầu lòng mà tôi vô cùng yêu quí, cho dù hồn ma Thảo Chi có nói thế nào đi nữa cũng mặc. Tôi đành gạt lệ xa Hùng, xa hẳn người chồng, mà tôi vẫn còn yêu thương nhất mực sau những năm tháng hương lửa mặn nồng.
Một năm sinh sống bình yên trôi qua sau khi tôi hạ sanh được bé Hiền toàn vẹn khỏe mạnh. Con gái đầu lòng của tôi bây giờ đã lớn. Cháu rất bụ bẫm đáng yêu, diện mạo khôi ngôi trong sáng lạ thường. Tôi chợt có ý định đưa con trở về chốn cũ để tìm lại chồng tôi để cho anh được nhìn thấy mặt con lần đầu và chia xẻ niềm hoan lạc của một người cha vốn hằng mong ước có được đứa con để thương yêu torng cuộc sống.
Mẹ con chúng tôi bồng bế nhau tìm lại chốn xưa trong tâm trạng nửa vui nửa lo lắng muộn phiền vì những ngày tôi ra đi biền biệt, không để lại bất kỳ một dấu tích hoặc mối dây liên lạc nào.
Căn nhà xưa cũ với bao nhiêu hạnh phúc êm đềm của vợ chồng chúng tôi giờ đây đã bị thay tên đổi chủ. Hùng cũng đã ra đi, không còn hiện diện ở trong nhà khiến cho tôi vừa bàng hoàng vừa lo sợ, không biết số phận của Hùng ra sao.
Hai mẹ con tôi đành tạm lưu ngụ trong một quán trọ rẻ tiền để đi dò la tin tức của Hùng, của một người chồng đầy tội nghiệp. Sau mấy ngày dò la tìm tòi ở tất cả những người quen biết thân sơ của vợ chồng chúng tôi khi trước. Một người thím họ của Hùng đã kể lại đầu đuôi câu chuyện của Hùng cho tôi nghe. Bà nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
- Thằng Hùng chết đi thật đúng là căn phần đoản mệnh nghiệp chướng của nó. Sau khi cháu bỏ đi rồi, cuộc sống thường nhật của nó là những chuỗi ngày im lìm khép kín. Nó chẳng còn giao tiếp với ai. Nó đến sở làm và trở về trong căn nhà suốt ngày cửa đóng im ỉm, rất ít khi tiếp xúc với bên ngoài cho đến ngày chúng tôi bất chợt chạm mặt nó với một hình thể xơ xác tả tơi, sắc diện bạc nhược với tấm thân héo gầy giống như một cái cây đã bị hao mòn tinh lực khô héo lạc thần.
Chúng tôi ai nấy đều cảm thấy hết hồn, đến ép nó phải đi khám bệnh và chạy thầy chạy thuốc mãi cho đến khi có người biết nó mắc phải bệnh tà, bèn đưa nó đi tìm thầy để trừ khử, nó cũng chẳng chịu nghe. Mãi cho đến khi pháp sư phải triệu hồn cô ma nữ trở về khuyên bảo hồn ma buông tha cho nó. Cháu phải biết, hồn con ma là một cao thủ tinh tường, triệu hồn cô ta trở về không phải là một việc làm giản dị và dễ thực hiện.
Lúc bị gọi hồn về, cô ta ra mặt chống đối và nhất định không chịu để bị khuất phục, ngay cả khi vị pháp sư thắp đến chín cây nến để dẫn độ soi đường và cô ta vẫn luôn luôn cố tình đi lạc. Sau chót, cô ấy vẫn bị khuất phục phải bị triệu trở về, nhưng rất hằn học và nói năng đầy lý sự:
- Tại sao các người bắt tôi phải rời xa người đàn ông mà tôi rất yêu thương. Chúng tôi có làm điều gì để hãm hại ai đâu. Chúng tôi thỏa hiệp dâng hiến cho nhau tình yêu giống như tất cả mọi người. Hà cớ chi mọi người lại bắt chúng tôi phải chia uyên rẽ thúy?
Hồn cô ta lý luận chắc nịch như vậy thì pháp sư cũng còn chỉ biết lắc đầu. Nhưng chẳng lẽ mọi người thấy chết mà không cứu, thấy thân xác của Hùng mỗi ngày thêm tiêu hao mòn mỏi mà làm ngơ để mặc cho người đàn ông miệt mài trong nhục dục với hồn ma cho đến khi phải quỵ xuống, trút linh hồn.
Mọi người sau khi nghe vong hồn ma nữ mà chỉ có tôi biết rõ tên của cô ta là Thảo Chi đã quay về đòi hỏi chồng tôi phải cùng với cô ta vui vầy trong duyên tình xưa cũ, họ đành phải vặn hỏi ý định của Hùng. Họ nói cho Hùng biết:
- Anh đang bị một vong hồn ngày đêm ám ảnh và vầy cuộc mây mưa. Anh phải tỉnh táo để nhận định việc chánh tà. Chỉ có anh, có những quyết định sáng suốt và dứt khoát của anh mới có thể cứu cho anh tránh được cái chết đã cận kề vì kiệt dần tinh lực mà thôi. Anh có bằng lòng để cho chúng tôi giúp anh tìm lại cuộc sống trong sáng bình yên. Anh đừng quên anh còn có nghĩa vụ với cuộc đời, với đứa con và người vợ còng đang vì anh mà rất thảm thương đau khổ. Anh hãy cho chúng tôi biết, anh có chịu dứt khoát chấm dứt mối liên hệ vô hình với vong hồn con ma nữ này thì mới mong chúng tôi có lý do để khử trừ nó.
Bặt tiếng khá lâu, Hùng mới nhìn vị pháp sư và chàng nhè nhẹ lắc đầu. Có nghĩa là chàng không chịu từ bỏ những đam mê khoái lạc lạ kỳ với vong hồn ma nữ. Chàng sẵn sàng chịu chết trong cái bẫy kinh khiếp của dục vọng đam mê.
Vong hồn ma nữ tên Thảo Chi đắc chí phân trần sau những chuỗi cười dài lanh lảnh:
- Ðó! Các người thấy rõ chưa? Chúng tôi yêu nhau mà sao các người lại muốn cho chúng tôi phải cách biệt chia lìa. Chúng tôi đâu có làm chi nên tội.
Nói rồi hồn ma thoát đi trong khoảnh khắc và Hùng cũng thất thểu ra về. Chàng tiếp tục kéo lê thêm những tháng ngày miệt mài nhục dục với vong hồn ma nữ chẳng còn màng đến mọi sự ở chung quanh cho đến khi sau đó chẳng bao lâu, người ta phát giác ra xác thân gầy lạnh cứng của Hùng trong căn nhà nay đã trở thành hoang tàn lạnh lẽo, trống trải hỗn mang, hoàn toàn không có bàn tay chăm sóc của con người.
Tôi lắng nghe người thím họ của Hùng sụt sùi kể lể đầu đuôi câu chuyện đầy thương tâm đã dần dần ập xuống số phận của chồng mà không còn cơ cứu vãn vì sự đam mê vụng dại đến ngu xuẩn của anh, để đến nỗi phải chết khô héo trong khi tôi và đứa con thân yêu của anh vẫn có mặt nơi này, vẫn còn xót thương cho anh, cho một linh hồn si dại không chịu tìm về với cuộc sống đầy xinh tươi và ánh sáng hạnh phúc của trần gian.
Chuyện Ma Ðời Lính
(Phần 1)
Nhắc đến Ma hay nhắc đến những chuyện huyền bí thuộc thế giới siêu hình thì có lẽ không ai đã không một lần nghe nói tới hoặc đã được nghe kể lại. Nhưng nói đến việc trực tiếp gặp ma, đối diện với ma, chuyện trò hay giao hữu với ma, xa hơn chút nữa là sự cảm thông hoặc bị ma nhập hẳn vào một người nào đó để chế ngự thân xác và tâm thức của họ thì không phải ai ai cũng đều có cơ duyên để chứng nghiệm và đó chính là nguyên nhân càng khiến cho những định kiến của thế gian nghĩ về quỷ ma, nghĩ về thế giới siêu hình, đôi khi trở nên rẫy đầy những điều kỳ bí và thường bị thêu dệt quá đáng theo một thiên kiến ghê gớm kinh dị để cho những người chưa bao giờ gặp ma trở nên hãi hùng khiếp sợ.
Thật ra, chúng ta đều nhận biết một cách rất rõ ràng rằng, những điều gớm ghê kinh dị không phải chỉ xảy đến từ những hoạt động của âm giới mà ngay cả trongđời sống hiện thực của chúng ta hằng ngày, cũng đâu có thiếu gì những sự kiện còn kinh dị hơn gấp bội, những sự kiện đó còn đưa đến những hậu quả đầy kinh hoàng khác hơn thế nữa. Nhưng đối với điều đó, tác giả không có chủ đích để bàn luận trong câu chuyện huyền bí này, chúng tôi chỉ đề cập đến một cách phiến diện trước khi kính mời quý vị cùng tham dự vào câu chuyện một người lính chiến thuộc QLVNCH có đời sống rất bình thường và anh đã chẳng bao giờ muốn mà vẫn cứ có nhiều cơ duyên phải gặp gỡ những vong hồn đã khuất mày khuất mặt ở bên kia thế giới trong suốt quãng đời binh nghiệp...
Người lính chiến có duyên cơ với ma, với những sinh hoạt thuộc âm giới đó tên của anh là Long, là một quân nhân vạm vỡ khỏe mạnh. Tánh tình Long hồn nhiên yêu đời và rất vui tính. Lúc nào Long cũng có trên môi nụ cười cởi mở hiểu theo đúng nghĩa đen, tức là miệng cười của Long lúc anh hoan hỉ thì ngoài tiếng cười dòn như sấm nổ, hai vành môi của anh còn cởi và mở hẳn ra để lộ diện thật rõ ràng hai hàm răng vừa to quá khổ vừa trắng hếu, trông anh rất đỗi vô tư và không ai có thể nhìn anh mà nín được cười. Ðã vậy, khi nói chuyện, Long còn có giọng nói sang sảng, đứng ở xa anh đến cả trăm thước, chúng tôi vẫn có thể nghe rõ mồn một tiếng Long nói, cười. Anh cũng là người có bản chất mộc mạc, thích hòa đồng và vui tính. Vui tính và vô tâm đến nỗi có những lúc bạn bè gặp phải chuyện không vui, rất không cần đến sự vui tính của anh, Long cũng cứ tự nhiên xen vào làm cho bầu tâm sự hoặc câu chuyện tâm tình của bạn bè bị anh phá đám một cách lãng nhách. Thỉnh thoảng có người trực tính, cự nự lại cái bản chất vô tư lự của Long thì anh toét hẳn miệng ra cười đáp lại:
- Tao đâu có biết chúng mày đang có những chuyện quá nghiêm trọng đến như vậy. Sao không chịu nói trước...
Nói là nói cho có lệ như vậy, chứ chẳng ai lấy thế làm phiền lòng. Vã lại tánh tình của Long trẻ trung như vậy thì bạn hữu, ai cũng đã biết, chẳng ai nỡ để tâm giận anh mà làm gì.
Ngay từ đêm đầu tiên mấy trăm quân nhân tập sự chúng tôi vừa từ Sài Gòn được chiến hạn Hải Quân chuyển vận ra Nha Trang thụ huấn quân sự ở quận trường thuộc vùng cát trắng này, cả khóa lính mới của chúng tôi đã có dịp biết đến tên tuổi của Long vào một dịp tình cờ.
Số là chiến hạm chuyên chở chúng tôi vừa mới cập bến trong lúc đêm đã về khuya, nhưng tất cả khóa sinh đều phải hoàn tất mọi thủ tục nhập trại cho nên mọi người được cán bộ huấn luyện quân trường ra lệnh phải tề tựu tập họp trước sân cờ để lãnh quân trang quân dụng, để rồi sau đó, mọi người được phân chia theo từng đại đội, trung đội rồi tiểu đội để tạm thời tìm chỗ ngủ qua đêm.
Và bởi vì đêm đã quá khuya, tất cả hóa sinh tân binh chúng tôi được lênh phải phân tán theo từng đơn vị vừa mới được gấp rút phân chia để tự tìm lấy chỗ ngủ tạm qua đêm trong một dãy building (tòa nhà) bị trống trơn dường như đã xây khá lâu năm nằm ngay sát hàng rào doanh trại, ngoài kia không xa lắm là bờ biển với tiếng sóng vỗ rì rào suốt đêm ngày. Người khóa sinh tiểu đội trưởng tiểu đội của tôi chấp hành lệnh điểm danh quân số báo cáo lên cán bộ huấn luyện trước khi đến chỗ nằm đã được chỉ định. Vì là lính mới, chúng tôi chưa thuộc hết tên tuổi và mặt mũi của nhau. Vì vậy, người khóa sinh vừa được chỉ định làm tiểu đội trưởng loay hoay điểm danh tới điểm danh lui, mãi một lúc sau mà vẫn còn thấy vắng mất một người. Anh ta vội báo cáo lên vị sĩ quan cán bộ huấn luyện về sự vắng mặt của anh tân binh kỳ lạ này.
Cán bộ huấn luyện gào rát cả cổ trong đêm thâu vừa vắng vẻ vừa bị lạnh cóng bởi những cơn gió tạt mạnh từ bờ biển thổi vào để réo gọi cái tên Nguyễn Trần Long, đến một hồi lâu mới có người lên tiếng từ một góc thật xa trong quân trường, khiến mọi người dồn tất cả mọi cặp mắt về hướng phát ra tiếng nói, mọi người tỏ ra có vẻ rất nhốn nháo:
- Có mặt!
Không một ai biết được anh tân binh này vì cớ gì mà bỗng nhiên biến về phía xa đó. Lúc bấy giờ Nguyễn Trần Long mới từ hướng phát ra tiếng nói, vừa thắt lưng quần. Té ra, anh ta bị trở dạ thình lình tìm chỗ giải quyết cấp thời. Kết quả là toàn bộ tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi đã phải vác túi ba lô nặng trĩu vừa mới được nhận lãnh nối gót nhau chạy thục mạng để thanh toán cho đủ mười vòng sân cờ.
Nguyễn Trần Long đã được mọi người biết đến tên anh từ lúc đó với tất cả sự hậm hực oán trách của mọi người vừa đói vừa lạnh vừa mệt đến bở hơi tai vì hình phạt quân sự đầu tiên, mở màn cho cuộc đời binh nghiệp.
Về đến chỗ nằm, chúng tôi chia nhau ra tản mạn mỗi người một góc cố gắng thu vén chuẩn bị thật nhanh cho giấc ngủ sắp tới. Nguyễn Trần Long cũng đang tháo vát dọn lấy một chỗ nằm. Vì tất cả mọi người, không ai có giường để nằm, đành phải trải tại khăn trên nền xi măng lạnh ngắt. Riêng Nguyễn Trần Long thì quý phái hơn người, anh tìm được một góc chỗ nằm vắng khuất với một tấm gỗ phong dày được anh tự động gỡ ra từ một cánh cửa, làm cho khung cửa biến thành một lỗ hổng lớn, không thể dấu được mắt nhìn của mọi người. Nhìn qua lỗ hổng của khung cửa, dường như thấy có điều gì bất thường, một sĩ quan cán bộ huấn luyện lớn tiếng cảnh cáo:
- Anh nào vừa mới tháo cánh cửa đó ra, hãy mau mau gắn trở lại. Tất cả mọi người, ai cũng phải nằm trên mặt xi măng mà thôi.
Long nghe cán bộ quân trường ra lệnh, anh lại phải lục đục gắn lại tấm cánh cửa vào chỗ cũ, nhưng trong thâm tâm, đợi cho viên cán bộ đã ra khỏi, anh lại vẫn nhất định lấy tấm gỗ đó để lót xuống chỗ nằm cho đêm đỡ lạnh. Chẳng bao lâu đó, cả tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, ai cũng đã quá mệt mỏi sau chuyến hành trình bằng đường biển, lại chịu thêm hình phạt chạy đủ mười vòng sân cờ nên ai nấy đều đi vào giấc ngủ nhanh chóng, cho đến tảng sáng hôm sau, mọi người lại một phen nhốn nháo cả lên vì có tinh khóa sinh Nguyễn Trần Long cùng với tấm ván cửa đã bị ai bí mật khiêng anh ra nằm ngủ ở trên bãi cát ngoài bờ biển trong đêm cho đến khi người lính gác phát hiện và hô hoán lên. Người ta phải đổ ra đánh thức anh dậy để đưa anh về bệnh xá của quân trường và phải mất cả một buổi sáng tịnh dưỡng, Nguyễn Trần Long mới trở lại được trạng thái bình thường sau một đêm anh nằm phơi mình trong đêm sương gió lạnh ngoài bờ biển.
Về sau này, vì cùng chung một tiểu đội khóa sinh với nhau, chúng tôi có nhiều thời giờ để cật vấn Long về chuyện lạ lùng đã xảy ra, Long chỉ toét miệng cười:
- Tao cũng như chúng mày, đâu có biết chuyện gì, cứ ngủ say như chết. Ðến khi nghe tiếng người gọi, tao mới biết rằng mình đang nằm ngủ ngay trên bãi cát.
Ðó mới chỉ là giai thoại lạ lùng đầu tiên xảy ra với Long. Cho mãi đến lúc sau này, Long còn là người chạm mặt với ma trong nhiều trường hợp khác nữa, kể cả thời gian chúng tôi đã tốt nghiệp, ra trường, được điều động chung với Long về đơn vị, chúng tôi cũng nhờ vậy mà chứng kiến thêm rất nhiều sự huyển hoặc vô hình khác.
Chuyện Ma Ðời Lính
(Phần 2)
Trở lại những tháng ngày chúng tôi phải tập tành gian khổ cùng những kỷ luật sắt thép ở quân trường, đối với Nguyễn Trần Long, anh còn có nhiều dịp để và chạm với cõi vô hình khác nữa. Những sự kiện này, đối với bọn khóa sinh chúng tôi, lúc đầu còn kinh ngạc và khiếp hãi, nhưng sau khi đã chứng kiến thường xuyên hơn, lại thỉnh thoảng được cán bộ tòng sự lâu năm ở quân trường cho biết một cách xa xôi bóng gió rằng ở chốn đìu hiu hút gió này có rất nhiều hình thức ma quỷ hiện hình quấy phá các khóa sinh thụ huấn, lâu dần chúng tôi cũng đỡ được phần nào sợ hãi. Nhưng đối với những đứa nhát gan, thì ma quái hiện ra phá phách trong đêm vẫn là điều làm cho mọi người phải khiếp sợ. Nguyễn Trần Long thì có lẽ bởi anh được lũ ma thiêng tinh nghịch ở quân trường này nhắm vào để phá phách thường xuyên trong suốt khóa học cho nên anh tỏ ra tức bực nhiều hơn là sợ sệt. Long thường nói đùa với chúng tôi:
- Thằng nào muốn gặp hay muốn trông thấy ma, chúng mày cứ đi theo tao, sẽ gặp liền.
Có người trong bọn khóa sinh hỏi lại Long:
- Gặp ma hoài, mày có ngán không Long?
Long hồn nhiên trả lời:
- Không phải vào quân trường này tao mới có duyên bị ma hiện về phá rối, tao đã gặp ma nhiều rồi, ngay cả dạo trước còn ở ngoài dân sự, vào những đêm thức khuya gạo bài thi, ma cũng đến với tao hoài. Lúc mới đầu thì tao sợ thật. Nhưng gặp ma mãi cũng nhàm. Bây giờ tao khỏi có sợ nữa. Chúng mày không tin, tao làm thử cho coi. Cả bọn chúng tôi ngồi yên lặng nghe Long nói chuyện, cũng chẳng biết Long bảo chúng tôi không tin chuyện gì. Có người nhanh nhẩu đáp:
- Tin! Tụi tao tin mày chứ! Nhưng như mày vừa nói, mày sẽ làm gì với lũ ma vậy Long?
Long cười hềnh hệch:
- Tao chẳng làm gì cả, chỉ sẽ dẫn chúng mày đi gặp ma ngay trong quân trường này để đừng có đứa nào nói rằng tao bịa chuyện. Ðứa nào sợ thì đừng tham dự kẻo lại trách tao.
Long cho mọi người biết rằng, địa thế heo hút của quân trường này hiện có rất nhiều ma. Chúng nó thường xuất hiện nhiều nhất ở các phía nhà bếp, cầu tiêu và ngay cả trong khu bệnh xá của quân trường và ở cả khu bỏ hoang ở sát hàng rào, chỗ bọn mình phải ngủ tạm trong đêm đầu tiên đó, chúng mày còn nhớ không. Con ma đã khiêng tao ra ngoài mép biển mà mấy người lính gác đêm đâu có thấy gì. Chúng tôi sẵn đà hỏi tới:
- Sao mày biết có ma ở những chỗ này. Mày đã gặp chúng ở những nơi đó hay sao mà rành quá vậy?
Long gật gù:
- Có chỗ tao đã gặp, có chỗ chưa. Nhưng tự nhiên tao linh cảm thấy những chỗ đó thường là chỗ có ma và cũng tự nhiên, tao biết cảm giác của tao khôgn có sai lầm. Thằng nào không tin tao cũng mặc kệ. Nhưng tao dặn trước, hễ nhát gan thì đừng bao giờ đêm hôm khuya khoắt bén mảng đến những nơi này, không nghe tao bị ma nhát ráng chịu.
Mãi về sau. Khi khóa thụ huấn đã gần xong, chúng tôi chuẩn bị cho ngày lễ mãn khóa ra trường. Mối quan hệ giữa tiểu đoàn khóa sinh với các thành phần cán bộ huấn luyện của quân trường không còn nhiều kỷ luật ngăn cách nữa, các cán bộ ở đây đã xác nhận là có rất nhiều ma trong quân trường này cùng với những hiện tượng khác thường mà chính Nguyễn Trần Long đã gặp và kể lại.
Khu vệ sinh của quân trường nằm về phía tây, là nơi tương đối rất vắng vẻ cả đêm cũng như ngày, chung quanh hai dãy nhà dài đó dạo trước có những chòm cây rừng lâu năm cao lớn và um tùm nhưng đã được cưa đốn tận gốc rất quang đãng. Về ban đêm đèn điện được thắp sáng trưng cả trong lẫn ngoài. Tuy nhiên, đối với bọn khóa sinh tuy có ngang ngược nhưng lại cũng rất nhát ma như chúng tôi mỗi khi phải bắt buộc xử dụng chỗ này về đêm thì cũng thấy ớn lạnh vô cùng. Cực chẳng đã, chúng tôi mới phải rủ rê đôi ba đứa mới dám đến đó về đêm. Vậy mà, trong khoảng thời gian thụ huấn lâu dài, chuyện ma quái lộng hành phải đến đã đến.
Có lần, sau một cuối tuần, khóa sinh được cho giấy phép đi ra ngoài khu dân cư để giải trí hoặc mua những thứ cần thiết cá nhân. Những lần đi phép cuối tuần này là những lần các khóa sinh quân sự chúng tôi được tạm thời tụ do muốn làm gì tùy ý trọn một ngày cho nên người nào trong chúng tôi cũng đều sung sướng ra mặt, người nào cũng có chút ít tiền để mua sắm hoặc ăn uống phủ phê để bù đắp lại những ngày tù túng và kham khổ trong quân trường. Ðược ra ngoài ăn uống lung tung mọi thứ như một lũ đói khát đã lâu, lúc ban chiều trở về trại liền bị cái bao tử nó hành. Và đó chính là dịp để những đứa tham ăn ban ngày cho dù bây giờ rất sợ, cho dù không muốn đến khu vệ sinh, cũng phải vác xác tới, có khi phải trở tới trở lui dến mấy lần vẫn chưa thể chấm dứt nổi những cơn đau bụng quặn thắt, nếu chỉ là một lần thì may ra còn có bạn bè thương tình cùng đi, nhưng bị tháo dạ thì đành phải ôm bụng đi một mình chẳng có người nào cùng đi để bớt sợ. Một khóa sinh đã lâm vào trường hợp này và bị ma nhát đến nỗi phải nằm bệnh viện vì anh ta sợ quá đến trở thành kinh hoàng mất hồn.
Vào một đêm khuya khoắt, tất cả các doanh trại đang im lìm bỗng nghe có triếng rú thất thanh của ai đó phát ra từ khu nhà vện sinh rồi tắt ngắm. Toán khóa sinh trực tuần phòng doanh trại ban đêm được lệnh ngay lập tức phải đến chỗ phát ra nơi có tiếng rú để tìm hiểu vấn đề, mới biết rằng có một người khóa sinh đã bị ngất xỉu ngay khung cửa nhà vệ sinh. Anh ta được khiêng ngay về khu bệnh xá để y sĩ trực săn sóc. Vị y sĩ trực cho biết khóa sinh này vì sợ hãi quá cho nên đã bị ngất xỉu.
Phải mất đến gần một tuần lễ tịnh dưỡng, anh ta mới hoàn hồn thuật lại câu chuyện gặp ma như sau:
- Tôi bị bệnh tiêu chảy hoành hành liên tục, nên cực chẳng đã phải lui tới khu vệ sinh đã mấy bận. Lần cuối cùng trong cầu tiêu khi tôi còn đang ngồi, vừa ngẩng mặt lên sửa soạn bước ra thì tôi thấy rất rõ một bóng người đã đứng án ngay giữa khung cửa từ lúc nào. Tuy vậy, tôi không thể nào nhìn thấy rõ mặt của người đang đứng đối diện, bèn lên tiếng:
- Làm ơn tránh chỗ để tôi đi ra.
Bóng đen không trả lời, nó vẫn thản nhiên đứng lù lù ngay ở trước mặt và tôi bỗng ngửi thấy một mùi xú uế xông ra đến lợm người. Tôi cho rằng đây là một khóa sinh nào đó cũng bị tiêu chảy còn nặng hơn cả tôi đến nỗi anh ta không nhịn nổi và đã bĩnh cả ra quần. Tôi nói với anh:
- Còn thiếu gì phòng sao không chịu đến chỗ khác mà cứ phải dành chỗ này.
Bóng người vẫn không lên tiếng. Nó vẫn đứng lững thững không hề nhúc nhích khiến tôi vừa chịu hết nổi mùi quá hôi hám vừa bực mình nên nổi nóng đứng bật lên định đẩy hắn sang một bên để thoát ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa đứng được thẳng người lên thì bóng đen bỗng chiếu thẳng hai tròng mắt đỏ lòm nhìn tôi thật kinh dị. Tôi cảm thấy sự việc khác thường trước hai con mắt đỏ au trên khuôn mặt đen thui trong bóng tối nhạt nhòa mà tôi không thể nhìn ra được đường nét. Tôi dùng toàn năng lực vào hai cánh ta định đẩy mạng bóng người qua một bên, bỗng nhiên hai cánh tay và cả thân thể tôi bị chúi mạnh vào khoảng không phía trước mặt, xuyên hẳn qua bóng người để rồi tôi bị ngã nằm sóng soài trên mặt đất, bên tai tôi còn nghe rõ tiếng con ma thở hồng hộc và nó còn rít lên những tiếng cười gằn. Tôi sợ quá ngất đi vào lúc đó.
Khóa sinh chúng tôi thường thường đứa nào cũng nghịch ngợm phá phách hay làm cho các sĩ quan huấn luyện không ngớt ban hành các lệnh phạt hoặc răn đe gay gắt. Mặc dù đã có lệnh về đêm, sua giờ tắt đèn không ai được thức hoặc đi ra khỏi phòng ngủ, nhưng lúc ban chiều, trong giờ cơm, chúng tôi được đề cử thấy trong nhà bếp, chúng tôi đã nhìn thấy những chảo cơm cháy ngon lành còn để lại và chúng tôi đã có với nhau một quyết định là đêm nay, sau giờ tắt đèn sẽ kéo nhau xuống nhà bếp để cạo cơm cháy ăn chung với đường tán đã có sẵn sẽ ngon tuyệt vời. Những ai đã từng có mặt ở quân trường vào những ngày cuối năm có đầy gió mùa lồng lộng với cái lạnh cắt da mà được ăn cơm cháy với đường thì tưởng không có gì thú vị cho bằng. Chính vì vậy mà chúng tôi bất chấp nghiêm lệnh của quân trường, trong đêm khuya rủ nhau lén lút bò về khu nhà bếp để ăn vụng cơm cháy.
Khu nhà bếp cũng có leo lét ánh đèn vàng và lũ tham thực như chúng tôi ai cũng nhìn rất rõ từng mảng cơm cháy thom tho ngon lành, thay phiên nhau cạy lên ăn lấy ăn để và quả thật, hương vị cơm cháy quân trường ngon đáo để. Chúng tôi, gồm sáu bảy người cứ vậy mà tọng cơm cháy vào miệng nhai ngấu nghiến ra chiều thích thú vô cùng, ăn cho đến khi miệng nhai đã mỏi với cái bụng no chướng lên mới lục đục kéo nhau trở về phòng ngủ cho đến sáng ngày hôm sau, tất cả bị nằm liệt giường không một ai dậy nổi theo lệnh kèn tập thể dục và sự bê trễ này bị phát giác ngay lập tức cho đến khi cả sáu người chúng tôi được khiêng hết lên bệnh xá để được sút ruột, tẩy uế bao tử vì cả 6 đứa chúng tôi, mồm miệng ai cũng còn dính đầy đất bùn, trong bao tử của mỗi người, các y tá trực cũng cho biết đang chứa toàn bùn đất, nếu không súc ruột kịp thời, hệ thống tiêu hóa của chúng tôi sẽ bị nghẽn và có thể đi đoong (đi đời). Ðến lúc này, chúng tôi mới xanh xám cả mặt mày vì biết rằng đã bị lũ ma đánh lừa cho ăn toàn bùn đất thay vì ăn đám cơm cháy dư thừa của nhà bếp. Sự kiện lạ lùng này, không ai có thể giải thích được khi mà chúng tôi rõ ràng đã nhìn, đã ăn, và đã thưởng thức tường tận mùi vị thơm dòn đích thực của cơm cháy.
Chuyện Ma Ðời Lính
(Phần 3)
Sau ngày lễ mãn khóa, chúng tôi lưu lại quân trường trong một vài ngày để chờ chiến hạm ra đóng đưa về Sài Gòn đi phép mãn khóa trước khi mỗi người chúng tôi chia tay đáo nhậm đơn vị mới, chúng tôi mới được một vài sĩ quan cán bộ tiết lộ cho biết rõ hơn về tình trạng ma cỏ hiện ra lộng hành thường xuyên không phải chỉ diễn ra trong phạm vi trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh này mà ngay cả khu rừng góc núi lân cận, những hiện tượng vô hình này cũng không phải là họa hiếm. Giống như có một lần tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi vào những ngày phải tản ra các khu rừng để thao dượt hành quân trên bộ.
Vào một buổi chiều nhá nhem tối, chúng tôi ai cũng nhìn thấy giữa sườn núi chênh vênh trước mặt có một con cọp mẹ cùng với một con cọp con. Cả hai đều có bộ lông màu vàng óng điểm những vằn đen chung quanh. Cọp mẹ và cọp con thản nhiên ngồi trước một hốc núi không có chiều sâu nhìn xuống chúng tôi bằng một thái độ bình thản vô cùng. Qua ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh trở lại thực tập tại nơi này. Nhưng để đảm bảo cho sự an toàn trước những con thú rừng, nhất là trước hình ảnh hai mẹ con cọp mà tất cả chúng tôi đã đều nhìn thấy rõ hôm qua, bây giờ phải đi lùng sục để xua chúng đi chỗ khác đề phòng con cọp mẹ có thể rình rập hãm hại khóa sinh.
Ðịa điểm hai con cọp xuất hiện chiều hôm qua được đánh dấu cẩn thận và chúng tôi cảnh giác, tỉ mỉ tiến dần về phía hốc núi đó. Vất vả hồi lâu chúng tôi mới đến được vị trí hai con cọp ngồi hôm qua, nhưng hốc núi thì không thể nào tìm ra được, chỉ có những phiến đá lạnh ngắt với bề mặt xù xì, nhưng nhìn thật kỹ lại thấy có hiện lên những đường nét hài hòa ẩn hiện mơ hồ như những nét chữ Hán mà tất cả chúng tôi không ai có khả năng hán tự để hiểu được những nét chữ cổ kính kỳ lạ này. Mấy ngày sau, chúng tôi cũng nhìn lại nơi này thì hình dạng hốc núi đã đổi khác với những khóm cây xanh mọc phủ đầy, cũng không còn thấy dấu vết của hai mẹ con chú cọp xuất hiện như trước nữa.
Khi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về phục vụ ở đơn vị mới, một sự ngẫu nhiên đã xảy ra là tôi và Nguyễn Trần Long cùng một người bạn có nghành chuyên nghiệp trọng pháo, anh phải kề cận thường xuyên với những dàn súng lớn nhỏ. Long vào sanh ra tử nhưng tính chất của anh rất can trường và lúc nào cũng giữ nguyên tánh nết cũ là đùa phá tinh nghịch.
Ðơn vị là một giang đoàn biệt lập, tọa lạc tại một tiền giang đèo heo hút gió, ở giữa cánh đồng, xa hẳn làng mạc và những nơi có đông cư dân trú ngụ, do vậy mà cuộc đời lính chiến của chúng tôi không mấy khi tránh được những ngày đêm đơn điệu, buồn tẻ. Tôi thì có cây đàn, những người khác với thú vui đánh cờ, đọc sách. Riêng Long, anh đem đến đây được một con mèo để làm bầu bạn. Con mèo với Long là đôi bạn chí thân, lúc nào cũng ở cạnh nhau, kể cả những lúc chiến đấu ở ổ trọng pháo dưới giao thông hào...
Có một lần Long thoát chết trong đường tơ kẻ tóc cũng nhờ có con mèo, nếu không, chắc chắn mạng sống của Long đã tan tành như một chiếc pháp nổ. Lần đó diễm ra vàp lúc chiều tàn. Trời chưa tối hẳn, bỗng nhiên những đạn pháo kích từ đâu bay tới ào ào vào đơn vị. Tiếng còi báo độn rít lên như muốn xé tan không gian ruộng đồng đang yên lành tĩnh mịch. Nghe tiếng còi báo động hụ lên inh ỏi vào lúc Long đang ngủ mơ mơ màng màng. Anh choàng tỉnh giấc, vơ vội lấy mảnh áo giáp khoác vội lên người định phóng ra thẳng lỗ giao thông hào chiến đấu, nhưng con mèo của Long đột nhiên gào rú lên rất lạ lùng, nó chạy tới chạy lui dưới chân Long làm cho những bước chân của Long bị vướng vít đâm ra chệnh choạng suýt ngã. Anh bực bội la toáng lên với con mèo như nói với một người bạn:
- Kêu ca cái gì không biết nữa! Mày không nghe thấy tiếng pháo kích um sùm đó hay sao? Tránh chỗ mau để tao ra giao thông hào không thôi bị nhốt bây giờ.
Con mèo dường như không nghe Long nói gì cả, nó tiếp tục quẩn bước dưới chân anh, khiến cho Long loạng choạng suýt đạp lên lưng nó, con mèo vội vã nhảy tránh rồi phóng một cái ào lên cái kệ gỗ đóng ở trên cao, nơi Long để đủ hết mọi thứ lung tung xà bần nào chén đũa gà mên, sách vở khiến cho tất cả những vật dụng đang để trên cái kệ bị hất tung cả xuống đất trong khi Long chợt nhớ ra rằng trên đầu của anh chưa có cái nón sắt dùng để bảo vệ an toàn trong lúc tác chiến. Long quày gót xoay người trở vào góc chiếc gường vải vơ lấy cái nón chụp vội lên đầu rồi bất chấp con mèo đang làm bước chân anh trở nên vướng vít, Long phóng như bay ra cửa về phía ổ đại pháo ở dưới giao thông hào. Bất thình lình, một tiếng rít xé gió từ xa tiến tới, theo sau là một tiếng nổ long trời. Viên đạn pháo kích vô tình rớt trúng ngay cỗ trọng pháo của Long ở dưới giao thông hào bứng hổng cả bộ chân của ổ súng nặng nề tung thẳng lên cao. Nếu không nhờ có con mèo làm chướng ngại, chỉ cần sớm hơn chưa đầy vài chục giây đồng hồ, chắc chắn Long đã cùng chung số mạng với ổ trọng pháo vô tri.
Trận pháo kích chấm dứt, nhìn hình ảnh cỗ súng bị bứng nổ tung tận gốc rồi liên tưởng đến mạng sống còn lại của mình chỉ trong vòng gang tấc, nhưng nhờ có linh cảm của con mèo, nó tạo ra những trở ngại để cho Long được thoát chết. Long bùi ngùi ôm chặt con mèo vào trong lòng ngực của mình như đang ôm một đứa con yêu quý với tất cả lòng trìu mến biết ơn con vật linh thiêng...
Chuyện ma đời lính chiến cứ lần hồi xảy đến với Long như một thói quen rất lạ lùng. Vào một lần hành quân tảo thanh phối hợp với các đơn vị khác, Long đã chứng kiến thêm những hiện tượng huyền bí đến không thể nào giải thích được. Một người thuộc hàng ngũ bên kia, sau khi bị quân ta truy quét đến đường cùng thất trận, anh ta bị trọng thương nặng nề, hơi thở chỉ còn thoi thóp trong lúc toán hành quân chúng tôi cấp báo gọi trực thăng vận để đưa anh ta về điều trị tại Tổng Y Viện. Nhưng khi trực thăng đến nơi thì người lính bên kia đã trút hơi thở cuối cùng.
Trước khi bàn giao xác chết của anh ta cho đội mai táng, chúng tôi và Long có lục soát tư trang của anh ta để may ra có thể tìm thêm được tài liệu gì khác nữa, chúng tôi không tìm thấy gì khác ngoài chút ít lương khô ăn dở dang với một cuốn sổ nhỏ và dày, anh ta đã viết đầy những trang chi chít chữ. Long cất cuốn sổ nhỏ đó trong bao công văn cá nhân để về nộp lại cho ban an ninh khai thác. Ngay sau đó, trực thăng đã bốc cái xác cứng lạnh của anh ta đem về trung ương mai táng.
Buổi chiều đến, đơn vị của chúng tôi có tổ chức một tiệc liên hoan nhỏ để cho các chiến hữu có dịp trò chuyện hợp mặt. Chúng tôi đang quây quần bên nhau với chút men rượu đang ngà ngà say thì cả bọn đều nhìn thấy rõ ràng người lính bên kia đã bị chết ban chiều. Anh ta hiện ra ngay trong bữa nhậu và sừng sộ chỉ thẳng vào mặt Long để đòi lại cuốn sổ nhật ký theo lời tiết lộ của anh ta. Anh ta nhình chòng chọc vào mắt Long và nói:
- Mấy người bắn chết con người ta rồi ngồi đó mà nhậu nhẹt bình thản như chẳng có chuyện gì thì thật là vô tâm quá sức. Nhưng điều đó cũng chẳng hệ trọng gì vì số phần của ta bắt buộc phải chết như vậy. Nhưng ta xin các người hãy bỏ qua ranh giới ý thức hệ, giúp đỡ cho ta một điều, đó là hãy gởi trả lại cho người con gái mà ta từng yêu thương trong suốt những năm trường, nhưng ta chưa được trở về cưới nàng làm vợ thì số phần ta đã mãn. Các người hãy cố gắng giúp ta. Cuốn sổ đó đang được cất giữ bởi người này. Hồn tên du kích đưa tay chỉ đúng vào mặt Long khiến cho anh bủn rủn cả tay chân trong khi nhiều người khác vẫn không hề hay biết rằng Long đang cất giữ cuốn sổ nhật ký tình yêu này.
Hồn ma lơ lửng một lúc thì từ từ nhạt nhòa tan biến vào màn đêm mất hút với những lời nói văng vẳng sau cùng:
- Chỉ một điều nhỏ nhặt đó mà thôi. Ta cám ơn các người....
Chúng tôi hết đưa mắt nhìn nhau đến nhìn về phía Long như đợi chờ ở anh một điều xác định. Cuối cùng, Long nói:
- Ðiều tất cả chúng ta vừa nghe là sự thật đó. Lúc chiều, tôi có nhận lệnh lục soát tư trang của người lính này và đã tìm thấy một cuốn sổ nhỏ, chưa kịp nộp lại cho ban an ninh thì hồn kẻ chết đã tức khắc trở về nhắc nhở và xin được giúp đỡ.
- Vừa nói Long vừa thò tay vào ba lô cá nhân lấy ra cuốn sổ nhỏ nhàu nát giơ lên cho mọi người cùng thấy. Long hỏi ý kiến mọi người:
- Ý của hồn ma muốn mình gửi về cho người yêu của hắn. Nhưng chúng ta biết gửi về đâu bây giờ?
Long vô tình để cuốn sổ lên mặt bàn và chưa nói hết câu thì một cơn gió từ bên ngoài thổi vào lật tung từng trang giấy đến chỗ gần cuối thì gió ngưng, cuốn sổ mở ra như cố tình để cho mọi người có thể nhìn thấy tên họ và ngay cả địa chỉ của người con gái mà hồn thiêng anh ta muốn chúng tôi gửi đến:
"Lưu Thị Sang - số nhà 198/11 đường Xóm Chùa - Ấp Ba - Xã An Phước - Huyện Cai Lậy".
Ngày hôm sau, mọi chuyện xảy ra đã được Long trình lên ông đơn vị trưởng và ban an ninh của đơn vị. Nhân viên hữu trách cũng không quên xem xét thật kỹ càng từng trang giấy với những hàng chữ viết tay nguyệch ngoạc với những lời lẽ, tâm sự yêu thương rất chân thật và chí tình. Cũng có những đoạn anh ta tự trách mình không đủ can đảm rời xa hàng ngũ chiến đấu để trở về làng xưa xóm cũ sống đời bình thường bên cạnh mối tình mà anh ta ấp ủ tôn thờ. Anh ta chỉ hứa hẹn một ngày nao hòa bình sẽ trở về hạnh ngộ bên người yêu. Nhưng mộng ước cuồng ngông đó đã chẳng kịp thành, người lính này đã hóa ra người thiên cổ.
Thời gian sau đó, chúng tôi có dịp nhắc lại chuyện này với một nhân viên an ninh phụ trách để gởi cuốn sổ, được người này cho biết như sau:
- Tên tuổi và địa chỉ của người con gái tên Lưu Thị Sang đều chính xác. Cô ta đã nhận được cuốn sổ của người chết và có vẻ rất đau khổ trước một mối tình bị đứt gánh giữa đàng.
Có một lần Nguyễn Trần Long bị đau bịnh trầm trọng. Anh ta được chuyển về bệnh xá quân y để chữa trị. Vào một đêm, anh ta lần mò xuống phòng y tá trực để gọi điện thoại về nói với chúng tôi:
- Tao vừa nhìn thấy thằng Ðắc hiện về với hai cánh tay của nó cụt hẳn vì bị đạn cắt mất.
Lúc đó đơn vị của chúng tôi đang trong những ngày diễn tiến hành quân. Người lính tẻ tên Ðắc vẫn còn đang chiến đấu bên các đồng đội và chưa trở về vì cuộc hành quân chưa chấm dứt. Nghe Long báo tin dữ, chúng tôi vội nạt nộ anh ta:
- Ðừng nói tầm bậy Long à! Ông xếp nghe được là mày lãnh 10 ngày trọng cấm đó nghe em.
Nó gân cổ nói to trong máy:
- Tao thấy sao nói vậy, chứ nào biết được thực hư nên mới gọi về cho chúng mày để xem sự thể ra sao. Tao đâu có ý xấu gì mà đòi nhốt với chả nhốt.
Chúng tôi trấn an Long:
- Chắc mày mê cô em gái thằng Ðắc nên lo lắng cho nó rồi thành tưởng tượng đó thôi! Hãy an tâm dưỡng bệnh, thằng Ðắc trở về, chúng tao sẽ bảo nó gọi điện thoại thăm mày ngay!
Long miễn cưỡng cúp máy nhưng anh có vẻ còn hậm hực, không hoàn toàn bằng lòng với sự trấn an của chúng tôi. Ngay trong đêm đó, phòng hành quân đơn vị nhận được công điện báo cáo tổn thất, trong đó có tên Huỳnh Tất Ðắc đã bị trúng đạn tử thương, cụt mất cả hai cánh tay. Xác anh đã được trực thăng chuyển thẳng về Tổng Y Viện để chờ đợi thân nhân đến nhận xác.
Chuyện Ma Ðời Lính
(Phần 4)
Một lần khác, chúng tôi cùng với Long đổ bộ truy lùng tông tích của kẻ địch, vì quá hăng say tìm kiếm nên cánh quân chúng tôi bị mất phương hướng, lạc sâu trong một cánh đồng lầy, loanh quanh gần hết đêm mà vẫn không thể nào mò mẫm ra được đường về...
Cả toán đang điên đầu họp bàn tìm ra phương hướng thì Long dõng dạc đứng lên:
- Chúng mày khỏi phải tìm tòi chi nữa, cứ đi theo hướng tao chỉ, bảo đảm sẽ về đến... nhà.
Lúc đầu, chúng tôi còn ngần ngừ không chịu tin theo lời của Long nói, nhưng sau nhiều tiếng đồng hồ ngụp lặng bì bõm trong những đám cỏ lau lách sình lầy, đường ra vẫn không tìm thấy. Cuối cùng, đành bảo nhau dấn bước theo hướng chỉ đạo của Long. Nhờ vậy, chỉ có chừng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã bắt liên lạc truyền tin được với bộ chỉ huy và tìm ra được điểm hẹn để trở về.
Chúng tôi hỏi Long làm sao anh ta biết và chỉ đúng được phương hướng để trở về trong an toàn và còn tránh được những bẫy mìn chông của địch chôn dấu chằng chịt như mắc cửi. Long cho biết như sau:
- Tao chẳng có tài cán gì, cũng mù tịt như chúng mày vậy thôi. Nhưng lúc bấy giờ, bỗng nhiên trong đầu của tao cứ thoáng nhìn thấy khuôn mặt mờ nhạt với đôi mắt của người em gái của tao đã mất cách nay ba bốn năm gì đó. Ðôi mắt của em gái tao lúc đầu còn ẩn hiện lờ mờ, về sau càng lúc càng hiện ra thật rõ, thật lâu. Tao thử nhắm mắt lại để xua đuổi ảo giác đó trong lúc cả bọn chúng mình đang tứ bề lâm nguy thì đôi mắt của em gái tao lại cứ trừng trừng nhìn tao như muốn khiển trách rồi lại nhìn về một phía như bảo tao bắt buộc phải đi theo. Việc đó xảy ra khá lâu và có lúc tao đã chống chống lại, bước chân quay về hướng khác thì ánh mắt trở nên dữ tợn và sáng quắc nhìn tao như một sự răn đe, tao xoay hướng bước theo thì ánh mắt em tao ngay lập tức dịu lại bình thường. Giờ chúng mình được yên ổn, tao mới nhận ra rằng vong linh người em gái chết yểu của tao linh thiêng vô cùng, đã bao nhiêu lần nó cứu tao thoát chết.
Ðời lính chiến của chúng tôi sau đó bị rã ngũ tản hàng, cuộc di tản khổng lồ làm cho chúng tôi mỗi người phiêu bạt về mỗi nẻo, nhưng đều gặp nhau lại ở đảo Guame, tôi với Long cùng một lúc được bốc thẳng đến định cư tại Hoa Kỳ. Chuyện ma đời lính đến với Long có tôi chứng kiến, tưởng rằng sau khi rã ngũ tan hàng thì Long sẽ không còn cơ duyên để liên hệ với cõi âm nữa, nào ngờ, căn kiếp vẫn khiến cho Long cứ mã dan díu tới những người thuộc thế giới bên kia.
Số là sinh sống ở Hoa Kỳ được vài ba năm gì đó thì Long gặp được một người con gái đồng hương. Hai người yêu nhau và tỏ ra rất ý hợp tâm đầu. Long với người con gái tên Liên đã bàn luận cặn kẽ với nhau những chi tiết nghi thức để tiến tới việc thành hôn, tình cờ gặp tôi, Long bèn kể cho tôi nghe một hiện tượng lạ lùng:
- Chuyện vợ chồng giữa tao và Liên chắc không thành tựu được.
Tôi hỏi lại:
- Vì lẽ gì? Tao thấy hai đứa mày đâu có điều gì trở ngại, gia đình của Liên cũng đã rất bằng lòng gả cô ấy cho mày kia mà!
Long vò tai bứt tóc:
- Nào có phải do lỗi của tao hay lỗi của Liên mà là trở ngại bởi một vong hồn đã khuất, cứ đứng ra cản trở tụi tao hoài.
Tôi lấy làm lạ, hỏi tới, Long rành rọt kể lại đầu đuôi:
- Chuyện tao với Liên, không những chúng mày mà đến cả nước tị nạn ở đây ai mà không biết chúng tao sắp sửa lấy nhau. Nhưng cứ mỗi khi hai đứa tao tỏ ra với nhau một vài hành vi thân thiết thì có một bóng ma hiện về. Cả tao cả Liên cũng đều trong thấy mới là lạ. Liên còn nói cho tao biết vong linh hiện về ngăn cản tụi tao đó chính là hồn ma của người anh trai của nàng đã chết ở Việt Nam cả chục năm rồi. Liên cho tao biết, bình thường thì chẳng khi nào ông ta hiện về, nhưng từ lúc tao với nàng gặp gỡ rồi quyết định lấy nhau cũng vẫn chưa có hiện tượng khác lạ gì, trừ phi giữa tao với Liên đừng dành cho nhau những hình thức thân ái.
Nói đến đây, Long tặc lưỡi liên hồi:
- Mày nghĩ thử coi trên thế gian này có hai người yêu nhau nào mà không có lúc tỏ tình thân ái, không có lúc say đắm bên nhau, cho nhau những cử chỉ ân cần. Tao với Liên thì cũng vậy mà thôi. Nhưng cứ mỗi khi chúgn ta oâu yếm bên nhau thì hồn vong người anh trai của Liên hiện về phá đám. Có lúc thì như chỉ cốt để cho hai đứa chúng tao nhìn thấy hắn mà không biểu lộ gì cả. Nhưng cứ đến lúc chúng ta mùi mẫn thì y như rằng hồn ma anh trai của Liên bày tỏ thái độ rõ rệt. Tự nhiên Liên thay đổi hẳn thái độ, hất hủi tao ra mặt hoặc nàng chồm dậy bỏ ra về ngang xương không một lời giải thích thỏa đáng. Việc đó diễn ra trắng trợn nhiều lần khiến tao không còn kiêng nể gì nữa. Ngay trong mắt nhìn của Liên cũng thấy anh ta đang xuất hiện. Tao thắc mắc với hồn ma liền:
- Tôi với anh không thù không oán, anh cũng biết rằng tôi rất yêu Liên, yêu chân thật đàng hoàng, chúng tôi sắp sửa làm lễ cưới, tại sao anh cứ phá rối tụi tôi hoài?
Hồn ma tự nhiên tiết lộ và giải thích một cách ngang bướng:
- Tôi cần cho "ông" biết, tôi là Hoàng Hổ danh trấn giang hồ. Còn ông chính là ông Bạch Hổ, là bạn bè cùng tiền nghiệp với tôi. Tôi đã chết, đã hóa thân là một linh thần, tôi muốn làm gì cũng được. Ông vẫn còn sống, vẫn có thể thực hiện được tất cả mọi điều, ngoại trừ việc ông lấy em gái của tôi làm vợ. Ðiều đó tôi không muốn để nó xảy ra. Nếu ông vẫn cứng lòng thì tôi sẽ có nhiều cách để ngăn cản.
Nghe hồn ma nói không có chút lý lẽ, tao nổi sùng quát lại:
- Tôi không thèm biết ông là cái thá gì để phải vâng theo ý ông muốn. Tôi với Liên thương nhau thật lòng, là một người anh ruột, lẽ ra ông phải phù hộ cho tôi và Liên sớm được thành chồng vợ, chứ nào đâu ông lại ngăn cản, phá phách chính hạnh phúc của em gái ông. Nói cho ông biết điều này, ông muốn làm gì tùy ý. Chúng tôi yêu nhau và nhất định sẽ cưới nhau, ông không cản được đâu.
Nghe tôi nói dứt khoát mãnh liệt, hồn ma phá ra cười sằng sặc ra chiều tự mãn lắm rồi hắn biến đi. Ðể nhất quyết thực hiện ý muốn, tao đã có sẵn một ước định trong đầu. Ước định đó cũng có thể là một lần thử lửa về lời đoan quyết của hồn ma. Một hôm tao mạnh dạn nói với Liên:
- Chúng mình nhất định lấy nhau mặc kệ cho vong linh anh trai của em ngăn cản một cách vô lý. Em có sẵn sàng không vậy?
Liên ngớ người không hiểu, nàng hỏi lại tao:
- Sẵn sàng việc gì vậy anh? Nếu chỉ là việc nên vợ nên chồng thì nếu không sẵn sàng thì em đâu có nhận lời để cho anh xin cưới!
Tao hạ quyết tâm thi hành kế sách của mình nên nói:
- O.K. Hôm nay chúng mình sẽ chung chăn chung gối, em chịu không?
Nghe tao đưa đề nghị sàm sỡ, Liên đấm thùm thụp vào vai tao nhưng không phải để phản đối mà là để chữa thẹn trước lời đề nghị suồng sã quá đối với nàng. Thế là chúng tao đưa nhau đi du hí. Nhưng tao phải nói ngay, mọi sự đã bị hồn ma khiến cho thất bại ngay từ phút bắt đầu. Có nghĩa là Liên không phản đối, nàng sẵn sàng thỏa hiệp với tao tất cả mọi điều. Nhưng cứ mỗi lần tao dở trò chồng vợ với Liên thì đột nhiên Liên hóa thành một người khác tức thì. Nàng bò phắt dậy và thoát ra khỏi vòng tay của tao tức khắc, nàng bước ra khỏi phòng cũng là lúc con chó nhà tao cuống cuồng tìm đường chạy trốn, nó rên lên ư ử hoặc rú lên rùng rợn như vừa mắc phải bệnh chó điên. Tao có dùng hết sức lực và hết cách cũng không thể nào làm cho nàng tỉnh táo và lưu giữa cho nàng ở lại được, còn nói chi những việc ái ân. Câu chuyện chồng vợ giữa tao với Liên đến đây thì mày biết tao phải làm sao rồi chứ?...
Tao với Liên đành xa nhau. Và tao cứ ngỡ có lẽ vì tao có điều gì bất xứng cho nên vong hồn người anh của Liên vì quá thương cô em gái, không muốn cô em gái của anh ta lấy phải thằng chồng không ra gì như tao. Nên cuối cùng, chúng tao đành trả tự do cho nhau. Về phần tao cho đến bây giờ thì như mày đã thấy vợ con đề huề hết cả, nhưng Liên thì vẫn sống đơn độc một mình. Không có người đàn ông nào có thể lấy được nàng làm vợ có lẽ tất cả những người đến sau tao cũng đều phải trải qua những bối cảnh đầy éo le ngang trái, có thể yêu Liên nồng nàn đắm đuối, có thể cùng nàng hứa hẹn đủ điều, nhưng chỉ có một điều là không một người đàn ông nào có thể cùng Liên biểu lộ những hành vi yêu đương thân ái để cho đến bây giờ, cuộc đời của một người con gái đẹp đẽ đến cỡ nào mà vẫn phải sống trong cảnh phòng không gối chiếc chỉ vì sự cản trở, sai khiến của một bóng ma vô hình mà không một ai có thể giải thích.
Người Ðàn Bà Cứu Khổ Ban Vui
(Người Chị Vô Hình)
(Phần 1)
Người đàn bà đó về sau, tôi biết chính là chị Hiền, một người tôi không tài nào nhận ra được tuổi tác và thân thế của chị ở cuộc đời, chị có vóc người thon nhẹ nhàng, trên bàn tay trái của ngón tay giữa, có đeo một chiếc nhẫn cẩn cái hột cẩm thạch màu xanh biếc nhỏ xíu xinh xinh, mà chỉ cần nhìn thấy chiếc nhẫn này một lần, tôi có thể nhớ được nó ở trong đầu mãi mãi vì chiếc nhẫn được thực hiện bằng một kiểu mẫu rất khác lạ mà tôi chưa từng thấy bao giờ trong những lần có cơ hội được tiếp xúc với nữ giới.
Tôi không thể nào lầm lẫn được. Vì chính chị đã cứu tôi thoát chết trong một cơn mưa tuyết phủ ngập khúc đường đèo quanh co trơn trợt trong khi xe tôi đang đổ dốc, tự nhiên tôi nhìn thấy có một bóng người mặc chiếc áo mưa rộng thùng thình to xù đang lầm lũi bước rất chậm, từng bước băng ngang khúc đường núi khúc khuỷu quanh co vắng ngắt này.
Tôi thất kinh hồn vía đạp lên bàn thắng xe tức thì trong khi chiếc xe chỉ có một mình tôi lái, đang đổ dốc với tốc độ khá nhanh. Chiếc xe mất thăng bằng, quay ngang lông lốc nhiều vòng trên mặt đường mưa tuyết phủ đầy trong khi thần trí tôi bàng hoàng hoảng hốt cho đến lúc tai tôi nghe tiếng chiếc xe va mạnh vào một tảng đá nào đó ở bên đường và tôi thiếp đi kể từ giây phút đó, không còn nhận biết thêm được điều gì nữa.
Tôi ý thức chắc chắn rằng tôi đã bị nạn trên khúc đường vắng vẻ này rồi. Vậy là tôi sắp sửa khổ sở với pháp luật của nước Mỹ đến nơi. Chiếc xe tôi có mua bảo hiểm nhưng chỉ mua một chiều, hoàn cảnh của tôi thì lại chẳng khá giả gì. Lợi tức tháng nào vừa đủ cho tháng nấy, chẳng mấy khi dư. Sau tai nạn này, tôi có thể bị mất việc làm trong lúc các món nợ thẻ, nợ nhà còn cao đến ngập đầu. Ðời tôi tối đen là cái chắc. Nhưng trong lúc này, tôi không có nhiều thời gian để nghĩ đến bất cứ điều gì khác ngoài nỗi lo ngại hơn tất cả về bóng người mà tôi nhìn thấy xuất hiện đột ngột trên đường, không biết được người đó là đàn ông hay đàn bà, tôi cũng không hiểu được vì lẽ gì mà con người này lại xuất hiện bất ngờ trên một khúc đường vắng ngắt, quanh đó không có bóng dáng của những khu cư dân bên đường trong khi xe tôi chạy ngang khung cảnh nhá nhem của một buổi chiền vừa mưa rả rích vừa có tuyết rơi giá lạnh. Ở xứ này, lái xe đụng người là một chuyện chẳng vừa nếu chẳng may xe tôi đã cán chết người đó. Bởi vì kẻ lái xe cán chết người đi bộ là một trọng tội mà phải là hàng trọc phú, có rất nhiều tiền mới mong được yên ổn phần nào để xin ngoại hầu tra chờ ngày ra tòa lãnh án.
Với ý nghĩ khủng khiếp này, tôi càng thêm thất kinh hồn vía, không còn nhận thức được điều gì ở chung quanh. Thần thức của tôi chìm sâu vào trong cơn bất tỉnh nặng nề.
Bỗng chị Hiền, người đàn bà mà tôi đã nói ra ở đầu câu chuyện xuất hiện cứu tôi một cách hết sức bất chợt và rõ ràng, tôi không thể nào có thể lầm lẫn được. Sau khi xảy ra tai nạn, tôi thấy tôi đang nằm trên một cái giường nhỏ trong căn nhà êm ấm của chị từ lúc nào. Chị bưng đến trước mặt cho tôi một ly nước ấm, dường như là một thứ nước trà pha loãng, có mùi thơm dịu nhẹ giống như mùi loại trà móc câu của người Việt Nam mình hay uống. Chị trao ly nước cho tôi, bàn tay chị trắng ngần, có những ngón tay thon dài thanh tú, ngón tay giữa của chị có đeo một chiếc nhẫn cẩm thạch như thể chị đeo nó cho có lệ chứ không ngụ ý khoe của cải giàu sang quí phái như một số phụ nữ vẫn làm. Chị Hiền nhìn tôi hiền từ và tỏ ra rất thân ái. Nhìn dáng vẻ khoan thai chừng mực của chị, tôi nhận biết ra ngay rằng chị không hề có chút ngần ngại về tôi, về một thanh niên đồng hương xa lạ trong căn nhà ấm cúng của chị mà tôi không thấy có dấu hiệu sự có mặt của bất cứ người nào khác. Tôi chưa kịp lên tiếng nói một lời cám ơn, chị đã nhắc tôi thêm một lần:
- Chú uống chú nước ấm cho người bớt lạnh rồi nằm nghỉ cho mau hồi sức. Ngoài trời mưa tuyết vẫn còn rơi. Chiếc xe của chú đụng đá móp méo hết cả và máy đã bị hư rồi, cứ yên tâm ở đây nằm nghỉ. Khi nào khỏe hẵn hay.
Tôi cảm xúc trước lòng tốt của người phụ nữ trung niên đây vẻ dịu dàng và đáng kính trọng, của một kẻ có tấm lòng nhân ái, lại là người đồng hương, tôi sung sướng vội đỡ lấy ly nước ấm trên tay của chị, chống người nhỏm dậy uống một hơi cạn và cảm thấy khoan khoái lạ thường rồi nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi vẫn vơ về cái xui rủi bất ngờ bị nạn giữa đường với cái may bất ngờ khác gặp được đúng người đồng hương để mà cứu mạng trong cơn lỡ độ đường.
Chị nói với tôi:
- Gọi trên tôi là Hiền. Chú là chú Dũng phải không? Huỳnh Thanh Dũng. Chú bằng tuổi cậu em ruột của tôi, tên nó là Bình, Lê Phước Bình, vợ chồng Bình có nhà ở vùng Huntington Beach, nếu chú muốn, tôi đưa địa chỉ của Bình để chú lại đó thăm chơi. Năm nay chú với em tôi vừa tròn ba mươi mốt tuổi, có lẽ vì thế mà chú cũng như Bình hay có nhiều biến cố xảy đến trong năm nay. Chú có biết ông bà mình thường nói "băm mốt chưa qua, băm ba đã tới" là muốn ám chỉ cái gì không?
Tôi lắc đầu để yên cho chị Hiền giải thích:
- Ở lớp tuổi này, nhất là từ ba mươi mốt đến ba mươi ba như người Việt mình hay bàn luận, thường có những xui xẻo bất ngờ kéo dài, coi như ai bước đến tuổi này cũng thười khi gặp những rủi xui khúc mắc, từ tuổi ba mươi mốt đến lúc qua hết tuổi ba mươi ba mới mong mọi sự được hanh thông may mắn. Chú với Bình chắc cũng sắp sửa vượt qua cái "đốt" hạn này rồi, đừng lo ngại nữa. Tai nạn vừa đe6'n, rồi cũng sẽ được ổn thỏa mà thôi. Chiếc xe của chú đã bị hư hỏng hết rồi, xem đó như của đi thay người, chú chỉ bị bất tỉnh đã là may mắn lắm!
Tôi nói ra sự thắc mắc của mình với chị:
- Sao chị biết rõ về em quá vậy?
Chị mỉm cười ra vẻ dễ hiểu:
- Tôi biết được như vậy qua các giấy tờ tùy thân của chú, có gì lạ đâu!
- Nhưng tại sao lại có người qua đường tại khúc quanh hoang vắng này vậy chị?
Chị trả lời nhưng tia mắt nhìn về một phía khác:
- Ở đâu mà chẳng có người. Bóng người băng ngang qua đoạn đường dốc này để tai nạn phải xảy đến cho chúng cũng là điều hơi nghịch lý nhưng chắc là phải có nguyên do...
Chị Hiền ngưng một lát, chị nói cho tôi biết thêm một chi tiết khá bất ngờ:
- Người đó vô tình đem lại sự may mắn lớn cho chúc đó. Nếu không có người đó đi ngang qua đường chiếc xe của chú chắc chắn sẽ vô tình không biết có điều gì đang xảy ra từ phía trước, tiếp tục chạy xuống dốc cách đó không xa còn đang bị những tảng đá lớn từ trên triền núi lăn xuống làm cản trở giữa đường với nhiều chiếc xe đã bị đụng nối đuôi nhau tại đó. Có hai chiếc xe thắng không kịp, đâm vào đá hình như có người chết.
Tôi hoảng hốt cho rằng số phần mình còn nhiều may mắn. Tôi nói điều này ra với chị Hiền. Chị nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ nói với tôi về những điều có vẻ huyền nhiệm siêu linh, giọng nói của chị thật êm ái dịu dàng:
- Ở đời, mỗi con người có một phần số, người rủi kẻ may. Mỗi lúc mỗi khi may rủi cứ nối gót nhau xoay tròn, không ai tránh được định luật bất di bất dịch này đâu chú ạ. Chỉ có điều may rủi nhiều hay ít tùy theo phúc đức mệnh nghiệp của mỗi cá nhân tự tạo ra ở đời. Sống với thiện tâm thiện ý thì dễ gặp việc lành. Sống bằng tà tâm ác ý thì hậu quả xấu sẽ đến mãi mãi mà thôi. Chú bị nạn hôm nay đâu phải là sự tình cờ. Chắc hẳn phải có nguyên cớ. Nhưng chú chỉ bị bất tỉnh sơ sài, chiếc xe bị thiệt hại, mạng sống không bị đe dọa đã là may mắn quá rồi. Ðừng nghĩ ngợi nhiều cho thêm mệt mỏi, hãy nằm yên tịnh dưỡng sẽ tốt hơn...
Tôi ngoan ngoãn gật đầu nhưng tự nhiên buột miệng nói ra sự lo ngại vẫn còn đang gậm nhấm trong lòng:
- Em may mắn thật. Nếu không có chị đưa về nằm đây, chẳng biết sẽ ra sao! Nếu em bị chết trong tai nạn này chắc là thảm khốc lắm!
Chị Hiền nói ra chiều thành thạo:
- Sống chết đều có số mệnh hẳn hoi. Số chú còn sống lâu lắm, lo gì. Thôi, đêm đã khuya rồi, tôi còn phải đi ngủ. Chú cũng phải ngủ bây giờ.
Nghe chị nói như vậy tôi chỉ cho rằng chị muốn tôi ngủ sớm cho chóng phục hồi sau tai nạn, phần chị, chắc chị không muốn ngủ đâu, vì tôi thấy chị Hiền lúc đó chẳng tỏ ra mệt mỏi hay buồn ngủ tí nào. Ít phút sau thì tôi chìm sâu vào giấc ngủ từ lúc nào tôi cũng không hề hay biết.
...
Tôi choàng tỉnh thức giữa vùng ánh sáng choang choang của những hộp đèn ống trong căn phòng bệnh viện. Bên tai tôi vọng đến những âm thanh huyên náo của một cơ sở y tế đang sinh hoạt tấp nập trong giờ làm việc lúc ban ngày.
Tôi định thần và bỗng nhiên nhớ ngay đến chị Hiền, đến khuôn mặt và rất ư thánh thiện của chị, nhớ rất rõ khung cảnh chỗ tôi nằm ngủ trong nhà của chị vào đêm hôm trước, nhớ đến người đã cứu và đưa tôi về nằm tịnh dưỡng, còn chuyện trò giải thích chuyện nọ chuyện kia với tôi, nhớ đến tờ giấy viết tay địa chị người em trai của chị tên Bình mà chị muốn có ngày tôi đến thăm. Giờ đây, vì sao tôi lại nằm điều trị trong phòng bệnh viện này? Tôi đưa tay lần mò trong túi áo quần tôi mặc trong khi tạm trú trong căn phòng nhà chị. Tấm giấy nhàu nát vẫn nằm yên trong túi áo sơ-mi. Tôi lấy ra xem lại dưới ánh đèn. Nét chữ có thể trông được rõ ràng, nhưng màu mực thì chỉ hiện lên lờ mờ, giống như tờ giấy đã được viết lâu ngày cho nên mực đã bị thời gian làm cho nhạt nhòa phai sắc. Tôi cẩn thận nhét lại tờ giấy vào trong áo ngực, định tâm sẽ đến thăm vợ chồng của Bình để tìm hiểu thêm về người chị hiền lành phúc hậu.
Tôi đoán ra được rồi! Chắc là trong khi tôi mệt quá, ngủ thiếp đi trong lúc hôn mê, ngủ say đến nỗi chị Hiền tưởng như người tôi sắp chết, chị Hiền hoảng sợ, đã gọi báo cho nhà thương để họ đến "bốc" tôi về đây điều trị cho đúng luật lệ bình thường. Tôi yên trí với cách suy luận của mình trong khi một người y tá lách nhẹ cánh cửa phòng tiến lại giường của tôi. Cô ta lên tiếng khi thấy tôi đang dõi mắt ra nhìn:
- Ông mạnh giỏi? Mọi chuyện đã O.K, ông đã tỉnh lại rồi. Bệnh trạng của dông không có gì đâu, ông đừng sợ, chỉ có vài vết nứt nhỏ chung quanh đầu đã được bác sĩ khâu lại cả rồi. Chỉ có điều, ông bị ngất đi hơi lâu thôi. Thần kinh của ông không bị ảnh hưởng gì cả.
Tôi nhờ cô y tá đêm đến cho tôi một tờ nhật báo với dụng ý xem lại bài tường thuật chi tiết về tai nạn của chính tôi đã gặp phải vào đêm hôm trước. Quả thật bức hình chụp nơi đã xảy ra tai nạn rất rùng rợn, nhưng không phải ở chỗ xe tôi bị va vào vách đá, mà là ở đoạn đường không xa lắm ở phía trước mặt. Nếu xe tôi không vì thấy có bóng người đột ngột xuất hiện nên phải thắng gấp lại để xe chỉ bị xoay ngang rồi va vào vách đá, ngất xỉu đi và rồi tôi vô tình, tiếp tục cho xe chạy đến khúc đường có tai nạn chết người ở phía trước. Chừng đó, không biết số mạng của tôi rồi sẽ ra sao? Bị chung số mạng chết như những người mà tờ báo này đã loan tải danh tánh thì thiệt là vô phước. Phần tôi, bản tin ghi nhận rằng vì va chạm mạnh vào đá nên chỉ bị xây sát và ngất xỉu để được chở ngay vào bệnh viện này, tránh hẳn được tai nạn chết người ở đằng trước, cách đó không xa. Tôi thở ra nhẹ nhõm, thầm cảm ơn trời, cảm ơn luôn cả cái bóng người lạ đã lững thững băng ngang qua đường.
Chi tiết này khiến tôi ngờ vực và cảm thấy khó chịu. Chính chị Hiền là người đã cứu sống tôi, giúp tôi tỉnh lại trong căn nhà của chị, chứ đâu phải nhóm cứu htương đưa thẳng tôi vào bệnh viện trực tiếp từ nơi xảy ra tai nạn. Tôi liên tưởng đến chị Hiền mà tự nhiên nghe trong lòng như có điều gì xôn xao xúc động, vừa thần biết ơn chị, vừa nôn nao mong đợi một ngày nào khi tôi đã được khỏe lại sẽ dò tìm trên bản đồ để trở lại thăm chị trong căn nhà nhỏ bé ấm êm của chị.
...
Từ bệnh viện trở về nhà, sức khỏe của tôi chưa hoàn toàn bình phục, đầu óc bên trong vẫn dậy lên những cơn đau nhức như búa bổ trong đầu. Nhiều lúc nhức đầu quá, tôi tưởng mình có thể chết đi còn may ra sung sướng hơn gấp bội. Nhưng thật may, những cơn đau nhức đó chỉ xảy ra trong thoáng chốc mà thôi. Tôi chưa thể tự lái xe đi lại nhiều bởi vì vẫn nghe trong đầu còn vương sót lại những cảm giác lùng bùng choáng váng. Tôi đành phải ở lại trong nhà, cơm ngày hai bữa, thuốc men ăn uống rất mực điều độ đàng hoàng.
Vào một buổi chiều êm đềm thanh vắng, tôi đang dõi mắt theo dõi một chương trình hài hước trước màn ảnh truyền hình. Tự nhiên mắt tôi bị nhòe đi không trông thấy bất cứ vật gì cho rõ nét. Ðầu óc của tôi lại nghe như có những âm vang lạ kỳ mà tôi không thể định được những âm thanh đó từ phía nào thoát ra. Tâm thức của tôi sao xôn xao nôn nả khác thường.
Ngay khi đó, bỗng ngoài hiên nhà có ai bấm chuông kêu lên từng chập. Tôi cố định thần cho tỉnh táo để bước ra phía cửa để xem ai đang đến thăm vào giờ giấc này. Tôi biết rõ ràng rằng tôi vừa đứng lên, vừa rời khỏi mặt chiếc ghế niệm nơi phòng khách và lảo đảo bước ra mở cửa để cho người khách nào đó đến thăm mà tôi chưa biết vào nhà.
Cánh cửa gỗ bên trong nhà vừ hé ra, qua một khung cửa sắc nữa, tôi tưởng như đôi chân của tôi run rẩy, chỉ muốn sụm xuống vì quá đỗi vui mừng. Tôi đã nhác trông thấy người khách bên ngoài đúng là chị Hiền, người mà tôi đang trông chờ có một ngày trở lại viếng thăm và cám ơn chị cứu mạng. Tôi vừa ngạc nhiên vừa quá mừng rỡ trong lúc chẳng bao giờ tôi nghĩ rằng chị Hiền sẽ phải lặn lội tìm đến thăm tôi tại nhà. Bởi vì, lúc còn nằm nghỉ tạm trong căn nhà của chị, tôi chưa kịp nói cho chị biết rõ số nhà hay số điện thoại. Ðến lúc tỉnh lại thì đang nằm trong bệnh viện. Tôi nghĩ, chỉ có một cách duy nhất để tôi có thể gặp lại chị Hiền để cám ơn lòng tốt của chị là lái xe trở về con đường đã xảy ra tai nạn để dò tìm nhà cửa hoặc tông tích của chị mà thôi. Nhưng việc đó, vì sức khỏe của tôi còn yếu cho nên tôi chưa thể thực hiện được thì chị Hiền đã chịu khó ghé đến thăm tôi.
Trong thấy chị, thấy lại ân nhân mà lòng tôi vừa biết ơn vừa vô cùng thân thương quí mến, làm sao tôi có thể đè nén được hết nỗi vui mừng. Tôi thật vui mừng quá sức, luống cuống chẳng nói lên được lời gì thì chị Hiền đã nở nụ cười hiền hòa đôn hậu:
- Mở cửa cho chị vào chứ chẳng lẽ chú tiếp khách ở bên ngoài?
Tôi làm theo lời chị như một cái máy, vội lách mình sang một bên để cho chị Hiền đặt bước chân vào nhà. Chị bước qua chỗ tôi đứng một cách thanh thoát nhẹ nhàng, để lại một làn hương thơm cũng rất nhẹ nhàng thanh thoát. Một mùi hương mà thính giác của tôi chưa bao giờ có thể định được đó là loại nước hoa gì. Tôi lại vốn chẳng bao giờ am tường về những loại nước hoa mà các bà các cô thường dùng khi đu ra phố, chỉ thỉnh thoảng được thưởng thức vào những dịp ở những chỗ đám đông, có nhiều các bà các chị hiện diện, họ xức đủ các loại dầu thơm đắt tiền và tôi vô tình được thưởng thức. Nhưng loại nước hoa rất sang cả dịu dàng thoát ra từ y phục của chị Hiền thì quả thật, chưa bao giờ tôi được hân hạnh ngửi thấy. Mặc dù vậy, tôi vẫn đinh ninh rằng đây là một loại hương thơm rất lạ và rất quí phái khác thường.
Tôi chưa kịp nói gì thì chị Hiền đã lên tiếng. Giọng nói của chị sao có một âm sắc đầm ấm thân tình, trong vắt như màu thủy tinh không gợn một tì vết, gọn và nhẹ nhưng vô cùng mạch lạc, chứa đựng đầy ắp những thân thương. Ðã nhiều lúc, nhớ lại giọng nói của chị Hiền, tôi nghĩ từ đáy lòng ao ước, nhủ thầm một mình, nếu tôi có một người chị có dung mạo và giọng nói chan hòa nhân ái như chị Hiền thì tôi thật là hạnh phúc vì có một người chị sang cả, nhân ái và bao dung:
- Chú vẫn chưa bình phục hẳn đâu. Có lẽ những chấn động vẫn còn làm cho chú đôi lúc cảm thấy nhức đầu và ăn uống chư được ngon miệng như lúc thường. Hãy ráng tịnh dưỡng ít ngày cho tâm hồn và thể xác mau được hoàn toàn khỏe mạnh.
Cảm động quá, tôi chẳng biết nói với chị lời gì, miệng tôi lắp bắp:
- Em đã khỏe lại nhiều. Nhưng sao chị hiểu rất rõ bịnh tình của em như vậy? Chẳng khác chị là bác sĩ đã theo dõi sát bịnh lý của em.
Chị Hiền mỉm cười:
- Chị đâu phải là bác sĩ. Chị chỉ đoán chừng vậy thôi, té ra lại trúng phóc.
Chị phá ra cười hồn nhiên bằng những tiếng cười trong sáng. Tôi dợm đứng lên định bụng rót một ly nước mời chị cho đúng phép xã giao khi có khách viếng nhà. Chị Hiền chừng như đã đoán biết, chị ra dấu:
- Ðừng khách sáo làm gì, chị không thấy khát nước. Chỉ ghé thăm chú chốc lát, rồi chị phải đi ngay.
Tôi sực nhớ ra một điều quan trọng, bèn nói với chị Hiền ngay:
- Chị quên không viết cho em địa chỉ của chị để thỉnh thoảng có dịp em sẽ đi thăm. Chị khoác tay:
- Việc đó chẳng cần. Từ nơi này đến nhà chị, chú phải lái xe đến hơn một giờ cơ đấy. Cứ yên chí, chị cũng rất hay có việc đi xuống khu này. Lúc nào tiện, chị ghé thăm chú cũng được. Chú không cần đi lại xa xôi.
Nhưng tôi vẫn trả lời:
- Không đến thăm chị thường thì em xin chị cho em số phone cũng được. Thỉnh thoảng chị em mình điện thoại cho nhau...
Nói ra điều đó tôi rất chân thành và chị lại cũng không chiều tôi thêm một lần nữa:
- Hôm ở trên nhà của chị, chú cũng đã biết rồi đó. Chị ở một mình, lại không có nhiều bạn bè quen biết, lại thường hay đi vắng nhà nên ít khi nào chị phải dùng tới điện thoại, chú có gọi chị cũng như không...
Nghe chị nói đến đây thì tôi chợt nhận thấy ở nơi chị có những điều hơi khác thường. Ở xứ này, nhà nào mà không cần thiết phải có một cái điện thoại, kể cả các cụ già sống lui cui thui thủi một mình cũng rất cần phương tiện truyền tin này vào những khi cấp bách. Chị Hiền lại nói, cho thấy điều đó đối với chị dửng dưng như không. Lời chị nói dường như tiềm ẩn một sức mạnh, một quyền hạn vô hình khiến cho tôi không dám nói thêm điều gì để kỳ kèo hay xin xỏ. Chị nói:
- Chú đã thấy chưa? Chị biết chú thường nghĩ đến ân nhân, muốn đến thăm chị, thì chị đã tìm đến thăm chú đây này. Thôi, hãy bỏ qua điều đó. Bây giờ đã đến giờ chị phải đi, chú chịu khó tịnh dưỡng để còn tiếp tục đi làm. Nghỉ bệnh quá lâu, coi chừng bị mất việc làm đó!
Tôi cố gắng bày tỏ với chị về nỗi thắc mắc trong lòng:
- Sao chị tìm biết tên tuổi và địa chỉ của em tài tình quá vậy?
Chị lại mỉm cười:
- Chú này thật là lẩn thẩn. Ở đây chị muốn biết nhà ai cũng có thể tìm được kia mà. Dễ hiểu quá mà. Chị chỉ cần điện thoại hoặc đến bệnh viện, nơi đã chữa trị cho em để xin họ những chi tiết này thì có chi mà họ cần dấu. Nhất là chị bảo với họ rằng chị là chị họ của em, ở xa nên cung cấp cho chị tất cả những chi tiết chị cần, thế là chị có thể dò trên bản đồ tìm đến được nơi chú trú ngụ, điều đó thật dễ như trở bàn tay.
Tôi ngớ người:
- Á à! Chị nói đúng rồi! Vậy mà em cứ ngỡ chị có phép thần thông, chuyện gì cũng biết, em chẳng dấu được chị điều gì.
Chị cười pha trò:
- Coi chừng chị có thần thông thần nhãn thật đó. Chú nghĩ ngợi lung tung những điều không phải, chị biết ngay tức thì... Nào, cho chị sờ lên trên trán của chú xem đã bớt sốt chưa.
Miệng nói, tay chị Hiền cất lên đặt nhẹ vào vầng trán của tôi. Bàn tay có đeo chiếc nhẫn cẩm thạch bé xíu ở ngón tay giữa vẫn còn. Tôi ngoan ngoãn hiền lành như một cậu bé ngồi yên để cho bàn tay ấm áp mềm mại của chị kiểm soát độ nóng trong người cứ y như chị là một vị y sĩ. Thật là một cảm giác dịu êm hết sức lạ lùng khi lòng bàn tay của chị Hiền sờ lên vầng trán của to6i vẫn còn hơi sốt, nhiệt độ vẫn chưa trở lại bình thường. Làn da tay củ chị như có một phép nhiệm màu đang chuyền sang cho tôi những dịu dàng và bình yên khác lạ. Tôi nhận biết được đầu óc hết sức thảnh thơi và cái đau nhức thường lệ kể từ ngày bị lật xe xem ra đã biến đi đâu mất. Tôi chỉ muốn chị Hiền đừng rút bàn tay lại để cho tôi được mãi mãi tiếp nhận cảm giác lâng lâng huyền nhiệm này. Có lẽ, suốt một đời người, kể cả những lúc tôi bị đau bệnh vào lúc thiếu thời, mỗi lần lên cơn sốt cha hoặc mẹ tôi vẫn âu yếm đặt tròn bàn tay thương yêu lên trên vầng trán của tôi, nhưng chưa có bao giờ tôi cảm nhận một cảm xúc tương tự như lần này. Tôi không biết phải tả như thế nào về cảm giác dấu yêu thánh thiện và yên bình cùng tột như khi chị Hiền đặt bàn tay lên vầng trán của tôi.
Tôi nói với chị Hiền:
- Em không biết! Nhưng bàn tay của chị như có phép màu hay sao ấy. Khi chị đặt bàn tay trên trán, em cảm thấy cơn đau nhứ như được giảm đi nhanh chóng lạ kỳ và có vẻ biến đi đâu mất tăm mất tích.
Chị Hiền đùa:
- Tại bàn tay của chị có thoa dầu nóng cho nên chú cảm thấy như vậy mà thôi. Nhưng chị cũng hy vọng bệnh nhức đầu của chú sẽ thuyên giảm sau lần này, tuy nhiên chú không được bỏ quên uống thêm thuốc. Chị chỉ khoe khoang chút đỉnh cho vui...
Nói xong, chị Hiền đứng lên tạm biệt. Tôi tiễn chị đi mà trong lòng tự nhiên quyến luyến và quí mến chị vô cùng. Tôi cố dặn dò như một sự nhắc nhỏ khi tiễn chị ra phía ngoài khung cửa:
- Thỉnh thoảng tiện đường, chị gắng ghé thăm em.
Tôi nói dạn dĩ thật lòng:
- Chẳng biết tại sao, em gặp được chị, em thấy vui và khỏe khoắng lạ thường. Tại sao tự nhiên chị thương mến em nhiều như vậy?
- Tại vì em có phước nên chị mới đến thăm, cũng chị có một cậu em ruột bằng tuổi với em tên là Bình. Chị có nói cho chú nghe về điều đó rồi. Bình hoặc là cũng cũng đều là em của chị. Chị co 'thể giúp các em được việc gì là chị giúp ngay. Cơ duyên đã đưa chị em chúng ta gặp mặt. Trước lạ sau quen. Người Việt Nam với nhau cả mà, không thương mến người mình thì còng thương người nước nào mới phải, chú thắc mắc làm gì. Thôi chị đi, chào chú!
Vừa nói, chị Hiền vừa vẫy vẫy bàn tay mềm mại lên chào, chị thoăn thoắt bước ra khỏi cửa. Tiễn chị đi rồi trong lòng tôi vẫn còn nghĩ ngợi vẫn vơ. Cảm giác lâng lâng, nửa vui vui, nửa như tiếc nuối một cái gì rất thân thương, bình an và gần gũi, nó hoàn toàn trong sáng thanh cao, tuyệt đối không ẩn chứa một tì vết đen tối nào và tôi những tưởng giữa tôi và chị Hiền dường như đã thân thiết nhau đã từ kiếp nào mà tôi không nhớ được.
Tôi bước trở vào nhà, màn ảnh truyền hình nãy giờ vẫn đang hoạt động, chương trình đã chuyển sang loan báo tin tức tự lúc nào mà từ nãy giờ tôi hoàn toàn quên lãng, không nhìn hoặc nghe thấy từ lúc tiếp đón chị Hiền ở trong nhà. Chiếc ghế nơi chị Hiền vừa ngồi vẫn ở kia, không hề xê dịch.
Bất giác, người em gái của tôi từ trong phồng trong bước ra hỏi nhỏ:
- Nãy giờ anh trò chuyện thì thầm với ai vậy?
Tôi thản nhiên trả lời:
- Với chị Hiền chứ còn ai nữa. Một người chị tinh thần mà anh mới vừa quen biết trong đêm bị nạn xe ở trên đường, không có chị ấy đưa anh về nhà băng bó nghỉ ngơi, chắc là anh đã chết cóng vì lạnh trong khi bị ngất xỉu đi rồi. Chị ấy tìm đến nhà mình để thăm hỏi thôi ấy mà!
Tôi hỏi cô em gái:
- Sao em không ra nói chuyện với chị ấy cho vui? Chị ấy rất dễ dãi và hiền lành, lại có một tấm lòng vị tha nhân đạo.
Cô em gái của tôi trả lời:
- Có! Em có ra ngoài này khi em nghe thấy tiếng anh nói chuyện. Nhưng em nhìn vào phòng khách không thấy có ai, em lại tưởng anh đang nói cái gì đó nên lẩm bẩm một mình, em để ý làm gì. Ủa, vậy ra anh vừa tiếp chị gì đó ở trong nhà hay sao?
- Phải! Anh vừa tiếp chị Hiền. Chị ấy hỏi nhà thương nên biết anh đã trở về nhà nên tìm đến đây thăm anh ban nãy.
Cô em tôi ra dáng bực mình, nó hỏi lại:
- Anh nói cái gì em không hiểu! Anh bảo có chị ấy đến nhà mình và anh đã cùng chị ấy nói chuyện?
Tôi hăng hái gật đầu. Cô em tôi nói thẳng:
- Lúc nãy đúng là em có ra đây, nhưng em nói thật lòng, em không có nhìn thấy bất cứ người nào trong căn phòng này để cùng anh nói chuyện. Em chỉ nghe anh nói một mình những điều nào đó mà chính em cũng không cần phải lưu ý tới, vì em nghĩ, cái đầu bị thương của anh còn bệnh, nên anh nói nhảm vu vơ...
Tôi bắt đầu cảm thấy bất nhẫn trong lòng. Quả thực, tôi vừa tiễn và nói chuyện hồi lâu với chị Hiền một cách hết sức bình thường mà em gái tôi dám bảo rằng tôi nói năng vu vơ lảm nhảm. Nhưng làm gì có sự lảm nhảm trong câu chuyện hết sức mạch lạch rành rẽ với chị Hiền. Nhìn thái độ nghiêm chỉnh của cô em, tôi biết rằng em tôi không nói dối hay cố ý lung lạc ý nghĩ của tôi.
Nhưng tại sao lại có chuyện lạ kỳ như vậy? Tại sao em tôi dám quả quyết cô ấy đã không hề trông thấy sự có mặt của chị Hiền. Tôi thực chẳng biết làm thế nào để có thể xác quyết cho cô em gái của tôi hiểu được rằng nó đã thờ ơ, nhìn gà hóa cuốc đến nỗi đã ra đến phòng khách mà lại không hề trông thấy chị Hiền, trong khi khứu giác của tôi vẫn còn phảng phất mùi nước hoa thanh thoát của chị, trong khi cái ghế chị ngồi kia có xê dịch đi ít nhiều, trong khi tiếng nói cùng nhân dáng của chị vẫn còn lảng vảng đâu đây.
Tôi nghĩ cô em gái của tôi đã đến lúc phải chấn chỉnh lại thị lực hoặc thần trí mất rồi.
Nhưng tôi không nói thêm lời gì với một cô em vốn có tánh tình hơi chểnh mảng. Thôi! Cứ kệ cô ấy, cãi vã phân giải với nó mà làm gì. Con gái gì mà hay vô ý vô tứ. Chuyện gì cũng không chú ý, thì thế nào cũng có ngày...
Người Ðàn Bà Cứu Khổ Ban Vui
(Phần 2)
Thấm thoát, tôi đã có thể trở lại sở làm. Tháng đầu tiên, tôi bị bó buộc phải ôn tập cho quen lại công việc cũ. Tay chân đầu óc cứ lóng ngóng chẳng nhuần nhuyễn chút nào khiến cho ông xếp của tôi là người Tây Ban Nha đã phải lên tiếng:
- Này thằng Vú (Vũ)! Cái đầu của mày đã lành hẳn mà sao tay chân của mày vụng về quá thể vậy kìa! Mày làm cho tao đến điên cái đầu mất Vú à!
Giờ "snack" (nghỉ giải lao) tôi với ông xếp rủ nhau đi uống cà phê tán hươu tán vượn giống những lúc thường. Trong câu chuyện, ông tâm sự:
- Con vợ mà tao cưng quí nhất mấy tháng nay tự nhiên phải nằm bệnh việc vì chân tay nó bị tê cứng không thể cử động làm việc bình thường. Nó làm cho tao ưu tư quá!
Tôi hỏi lại ông ta:
- Ông đem bà ấy đi thăm bác sĩ tức thì. Xứ này có bệnh hoạn nào mà y khoa không chữa khỏi, hà tất ông cứ lo âu.
Ông xếp trừng mắt nhìn tôi:
- Mày coi tao là thằng mán không bằng, bảo hiểm ngon lành của tao đã bị biết bao nhiêu thằng bác sĩ lừng danh dụ dỗ, cắt cạo gần hết mà con vợ tao tay chân của nó vẫn cứ cứng ngắc thẳng băng, chẳng ép-phê với bất cứ phương pháp trị liệu nào. Tao đang định đi tìm y sĩ người Á Ðông chúng mày để chữa chạy cho bà ấy. Tao nghe họ nói Y Sĩ Á Ðông rất giỏi khoa trị liệu xương cốt này. Chẳng lẽ tao cày bừa khổ như con chó mà hàng đêm cứ phải làm công việc thay thế cho y tá ở nhà thương? Ðã vậy, nệm ấm chăn êm nay còn đâu nữa, tao cứ phải ngủ một mình, chán đời bỏ mẹ.
Ông xếp lớn tuổi bình dân, tâm tánh lè phè tưởng nói cho vui câu chuyện. Mấy bữa sau, ông ấy tâm sự với tôi:
- Tao đưa con Julliet nhập viện chuyên khoa châm cứu rồi, xem thử trong một tuần mấy ông bác sĩ Á Châu này có làm cho nó tốt hơn không.
Nhưng sau khi hết một tuần, tôi hỏi thăm bệnh tình của vợ ông ấy. Ông ấy bèn nổi máu tạc dzăng, quát tôi liền:
Tao mệt mỏi lắm rồi, đừng có hỏi tao về chuyện ấy. Bệnh hoạn cái gì mà chữa mãi cũng chẳng ép phê. Mày lo làm việc đi, thăm hỏi khơi khơi thì có ích gì.
Không ngờ lòng tốt của tôi quan tâm tới bệnh tình của vợ ông ấy lại bị ông ta xì nẹc. Tôi cảm thấy hơi buồn, nghĩ thầm trong bụng:
Tại chúng mày ăn ở nông nổi, chẳng có tình cảm con người, cho nên ông trời ông ấy không thương đem đến cho gặp thầy gặp thuốc.
Bất ngờ tôi chợt nghĩ đến tai biến của tôi, nhớ đến chị Hiền và luôn nghĩ rằng số tôi thật là phước đức, chẳng giống như bà vợ trẻ đẹp của ông xếp này. Tai nạn của tôi, nếu không có chị Hiền, chắc chắn là tôi đã gặp đại nạn. Tuy có thoát chết nhưng bị động não trầm trọng như tôi, dễ gì có thể bình phục bình thường. Vậy mà, không những tôi thoát chết, còn được chị Hiền đến thăm tận nhà, nhức đầu cứ như búa bổ, chỉ cần chị ấy "giả vờ" làm thầy thuốc dạo, sờ tay lên trán một lần là bao nhiêu bệnh hoạn tiêu tan hết cứ như là có những ngón tay thần.
Nếu người vợ tên Julliet của ông xếp này mà gặp được lòng nhân ái của chị Hiền đem tới, không chừng chị ta cũng sẽ được sớm lành bịnh như tôi. Nghĩ đến đây, tôi chợt liên tưởng tha thiết đến chị Hiền, định bụng rằng cuối tuần này, cho dù chị đã dặn dò tôi kỹ lưỡng, tôi vẫn đánh bạo, trở lại đường cũ, tìm đến tận nơi hỏi thăm chị cho vui. Tôi nhớ đến chị Hiền rất nhiều và thực lòng cầu mong cho bà vợ của ông xếp được mau lành bệnh để ông ta được thảnh thơi khoan hòa, đừng cáu bẳn bất chợt la mắng thuộc cấp vô cớ như ông ấy đã từng diễn ra.
Cuối tuần lễ đó tôi có một mình dò dẫm từng chi tiết tỉ mỉ của quyển bản đồ Thomas Guide. Con đường dẫn đến thị trấn nơi căn nhà của chị Hiền khi nhìn lên mặt bản đồ thật dễ dàng không có gì là khúc mắc. Do đó, tôi yên chí định tâm một buổi sáng sớm thứ Bảy sẽ quyết định lên đường. Tự tính toán trong đầu một cách thật là chính xác, tôi yên lòng lái xe đến đúng nơi chốn mà tôi đã bị tai nạn ngày nào.
Nhưng khúc đường này, tôi đã cẩn thận lái xe ngược chiều qua lại trong một khoảng cách có đến trên 10 miles hoặc còn xa hơn thế nữa. Nhưng, trong khúc quanh vắng ngắt này không hề có bóng dáng những khu cư dân. Bởi núi cao bao bọc quanh co khúc khuỷu và nhất là lại là khúc đường đèo, chung quanh chỉ là sườn núi chưa được khai khẩn san bằng nên không thể có nhà cửa quanh đây.
Tìm mãi đến trưa, lúc nắng đã lên cao, tôi vẫn không thể kiếm ra được căn nhà của chị Hiền, tôi đành thất vọng lái xe trở về trong lòng dậy lên một niềm bâng khuâng xa vắng, nghĩ về chị Hiền với những tung tích khác thường mà tôi bắt đầu nảy ra những sự ngờ vực không nguyên cớ. Chẳng lẽ một người trong sáng phúc hậu như chị Hiền mà chị lại phải nói dối tôi.
Cuối tuần đó trôi qua, tôi vẫn không nguôi nghĩ ngợi mãi về chị Hiền, định bụng rằng thế nào rồi cũng có lúc tôi sẽ được gặp lại chị. Chừng đó, nhất định tôi phải buộc chị ghi lại thật đầy đủ địa chỉ cùng số điện thoại cho tôi. Phải chăng, tôi còn có một tia hy vọng sau cùng là tìm đến số nhà người em tên Bình của chị mà có lần chị đã chính tay ghi lại cho tôi.
Cuối tuần lễ sau đó, tôi lại lái xe tìm đến đúng số nhà của Bình như trong tờ giấy nhỏ mà chị Hiền đã ghi cho tôi lúc trước với nét mực chỉ còn hiện lên mờ mờ. Ðến đúng căn nhà của vợ chồng Bình tọa lạc nơi thị xã Hungtington Beach, tôi bấm chuông rồi đứng đợi một lúc thật lâu mới có một bà cụ già chậm chạp đi ra mở cửa. Rất may bà cụ là người Việt Nam, nhưng khi tôi hỏi chuyện để tìm kiếm một cặp vợ chồng trạc tuổi của tôi có tên là Bình thì cụ bà lắc đầu không biết. Cụ nói:
Tôi già chẳng để ý được việc gì. Có thể cặp vợ chồng cậu đang tìm kiếm là chủ cũ của căn nhà này. Con trai và dâu của tôi mua lại căn nhà này và dọn vào ở trong dịp tế trung thu năm ngoái. Cậu có thể trở lại vào buổi chiều để gặp hai cháu nhà tôi. Chắc là hai cháu sẽ biết người cậu muốn tìm.
Tôi đành vâng lời bà cụ quay ra. Buổi chiều, thêm một lần nữa, tôi kiên nhẫn lái xe trở lại nhà này để mong được gặp con trai của bà cụ để hy vọng dò tìm ra manh mối của vợ chồng Bình, em trai ruột của chị Hiền. Từ đó, chắc chắn tôi sẽ tìm ra tin tức của chị dễ dàng.
Người con trai của bà cụ tôi tiếp xúc ban sáng tiếp chuyện tôi trong căn phòng khách tươm tất nhà ông ta. Ông ta nói cho tôi biết rằng, ông ta đã mua lại căn nhà xinh xắn này từ trong danh sách những căn nhà do nhà băng sai áp. Ông ta được cho biết rằng người chủ cũ của căn nhà cũng là một cặp vợ chồng trẻ người Việt Nam. Nhưng ông ta nghe nói, cả hai vợ chồng cùng với một người chị ruột, bà chị độc thân này ở riêng đâu trên miệt núi. Cả ba người đã cùng bị tử nạn trong một vụ lật xe trên xa lộ 15 từ hai năm trước, căn nhà này, do vậy, không có người thừa kế để trách nhiệm tài chánh với nhà băng, cho nên đã bị lên list bán đấu giá. Vợ chồng ông ta trả trúng giá thầu nên mua được căn nhà và mới dọn vào đây từ năm ngoái.
Nghe ông ta thuật lại đầu đuôi, nỗi ngờ vực của tôi càng lên cao hơn lúc nào. Tôi đánh liều đề nghị với ông ấy:
Thưa, chắc là ông bà có trong tay tờ khế ước căn nhà. Ông có thể vui lòng giúp tôi một việc sau cùng không?
Ông ta điềm đạm trả lời:
Ðược, anh cứ nói. Tôi giúp anh được điều gì thì tôi sẽ giúp.
Tôi nói với ông ta:
Thật ra, tôi chỉ mong tìm ra tông tích của hai chị em ông Bình. Nhưng cứ như lời ông vừa cho biết, thì họ đã chết cả rồi. Tôi cũng tin như vậy, nhưng với tư cách chủ nhân của căn nhà, xin ông vui lòng truy tìm giúp tôi tên tuổi của người chủ nhà cũ. Ðiều này có gì phiền toái không ạ?
Ông ta vui vẻ lắc đầu:
Có gì đâu mà phiền phức. Ðiều đó, tôi có thể giúp ông hoặc ông cũng có thể tự tìm hiểu bằng cách tôi hoặc là ông cũng được, gọi đến văn phòng phát mại địa ốc. Nơi đây họ có thể cung cấp cho chúng ta biết rõ lý lịch của căn nhà cùng tên tuổi của những người chủ cũ.
Vì hơi xúc động đột ngột vì chi tiết người chủ cũ căn nhà đã chết vì tai nạn xe cộ, tôi quên không nói cho ông ta về tên nọ của người tôi đang tìm kiếm tên là gì. Tôi cáo biệt ông ta ra về không quên để lại số điện thoại ở nhà và ở sở để nhờ ông ta thông báo dùm cho tôi khi đã tìm được tên chủ cũ của căn nhà.
Ðến trưa ngày hôm sau, đúng như lời ông ta đã hứa, ông gọi vào sở cho tôi. Ông ta nói chuyện rất vui vẻ:
Chuyện ông nhờ, tôi đã tìm ra được dễ dàng tên tuổi của người chủ cũ của căn nhà tôi mua lại rồi đấy. Sổ bộ địa sản có ghi tên hai vợ chồng người đứng chung tên trên văn khế căn nhà, người chồng tên là Lê Phước Bình, lấy tên Mỹ là Brandy 38 tuổi, còn người vợ thì thấy đề tên Mỹ là Theresa Vũ thuộc tuổi 30. Mọi chi tiết cá nhân khác đều đúng như tôi đã cho anh biết chiều hôm qua. Hai người họ đều đi làm việc, một người thì trong ngành điện toán, người chồng là một kỹ sư sáng tạo trong một hãng chế tạo những dụng cụ chiến hạm.
Gia đình của họ cùng với người chị ruột nghe nói là một dược sĩ trong viện bào chế của chính phủ, ba người đã bảo nhau lấy vacation cùng đi du ngoạn, chẳng may xe bị lật, rớt xuống khúc đường núi có thung lũng nên tất cả đã bị tử nạn cách nay đã gần ba năm rồi. Tôi còn nhớ in là tôi có đọc báo chí và nghe đài truyền hình Mỹ thuật lại tai nạn thương tâm này vào thời gian đó.
Tôi cám ơn ông rồi gác máy, quay trở lại với công việc đang làm dở dang nhưng trong tâm tư không thể nào tránh khỏi sự bức rứt bàng hoàng.
Ðúng vào lúc này thì ông xếp già của tôi từ đàng xa đi tới với nét mặt phấn khởi khác thường. Ông ta chẳng cần biết tôi đang có chuyện bực bội, sà đến ngồi gếch lên một cạnh bàn, ông ta nói rối rít:
- Tao với mày đúng là hai bác sĩ đại tài. Tao đã đồng ý nghe lời khuyên của mày đưa ma-đàm (Madam) Julliet của tao chuyển sang chữa trị bằng phương pháp Ðông y châm cứu. Ðến đó mới có vài ngày, mà mày biết không, con vợ tao đã không còn cảm thấy đau đớn như mấy lúc trước, tay chân của nó đã có thể cử động được chút chút.
Theo phép xã giao, tôi cũng chuyển lời hỏi thăm của tôi đến với bà vợ của ông xếp già. Nhưng ông ta đề nghị.
Tại sao chiều nay mày không đi với tao ghé thăm Julliet một lần cho phải đạo? Julliet cũng hay nhắc đến mày lắm đó nghe Vú (Vũ)!
Nghe ông ta nói vậy, tôi cũng nhanh nhẩu gật đầu đồng ý:
Ông nói phải! O.K, chiều nay tôi sẽ đi mua một bó hoa rồi cùng ông đến thăm để cho bà ấy lên tinh thần. Ông xếp già thương vợ vui vẻ ra mặt. Ông ta đứng dậy rời khỏi chỗ tôi ngồi, miệng huýt sáo tung tăng inh ỏi.
Tôi với ông xếp già tự động đậu xe rồi men theo dãy kiếng dọc theo phòng mạch để vào bên trong. Chúng tôi rảo bước ngang qua một khung kiếng lớn thay cho bức tường của một căn phòng bệnh. Ðột nhiên ông xếp già dừng lại, chỉ tay vào bên trong nói:
Chỗ này là căn phòng nơi con vợ của tao đang nằm châm cứu đó!
Tôi dõi mắt nhìn vào bên trong theo hướng tay ông ta đang chỉ trỏ. Mắt tôi bỗng hoa lên. Ðích thị là khuôn mặt và dáng dấp của chị Hiền, chị đang lom khom cúu xuống trên người của bệnh nhân, dường như chị đang dùng những ngón tay khéo léo để xoay xoay nhè nhẹ cây kim châm cứu. Tôi nhìn thấy rất rõ ràng trên ngón tay giữa của chị vẫn còn đeo chiếc nhẫn có cẩn hột cẩm thạch nhỏ xíu màu xanh biếc giống hệt hôm nào. Mái tóc ngắn của chị phủ xuống hai bên bờ má dịu dàng làm cho tôi không thể nhìn được trọn vẹn khuôn mặc của chị cho đến lúc chị đứng thẳng người lên sau khi để nguyên cây kim châm cứu trên một phiến lưng trần của người bệnh tức là bà vợ của ông xếp già mà chúng tôi sắp sửa đi vào bên trong để thăm viếng.
Tôi thảng thốt chạy đến áp sát mặt vào măt kiếng kêu lên, cốt ý để cho chị Hiền đang đứng bên trong có thể trông thấy. Tôi gọi lớn chị liên hồi:
Chị Hiền! Chị Hiền!!!
Bên trong lới kiếng chị Hiền vẫn thản nhiên. Rõ ràng chị không hề nghe tiếng tôi đang gọi chị ở bên ngoài. Chị quày lưng bước khỏi cánh cửa căn phòng bệnh nhân. Ở ngoài này tôi tức tốc chạy tới khung cửa chính để đi như chạy vào bên trong, về hướng căn phòng bệnh của bà Julliet đang còn nằm tại đó. Ðến nơi, tôi dõi mắt qua cánh cửa phòng. Chị Hiền đã như tôi vừa nhìn thấy, không còn đứng bên cạnh thành giường của bệnh nhân. Bà vợ tê bại của ông xếp già vẫn còn đang nằm xoay mặt xuống gối, đưa tấm lưng trần có phủ sơ sài một tấm khăn trắng mỏng để che đi những cây kim đang ghim tua tủa trên lưng của bà. Một người y tá đến gần ngưỡng cửa nơi tôi đang đứng nhìn vào trong phòng người bệnh. Cô ta nghiêm nghị lên tiếng:
- Xin ông vui lòng trở ra phía trước ngồi đợi. Còn ít phút nữa sau khi châm cứu cho con bệnh, ông mới có thể vào đây thăm.
Tôi trở về thực tế để biết mình đã vượt qua một vài thủ tục thông thường vào những khi vào thăm người bệnh. Tôi vội xin lỗi cô ta về sự đường đột của mình và ngoan ngoãn trở ra ngoài phòng đợi. Ông xếp già lên tiếng với tôi:
- Ngồi xuống đây đã nào ông bạn! Ðến đây chúng ta phải làm theo một vài qui cũ của nơi này. Bây giờ còn đang giờ chữa bệnh, họ chưa cho phép mình bước vào bên trong đâu. Vừa rồi mày vụt chạy như bị ma đuổi đi đâu vậy kìa?
Không tiện nói ra những ý nghĩ đang gây xáo trộn mạnh mẽ ở trong tâm khảm, tôi nói dối ông ta:
- Tôi chạy vào trong để đi tiểu ấy mà! Mắc tiểu quá đi mất...
Ông xếp già cả tin, ông ta gật gù:
- À há! Tao đoán vậy.
Chúng tôi ngồi đợi không lâu đã được cho phép đi vào bên trong phòng của bà Julliet. Cô y tá vừa ân cần cài lại khuy áo cho bà ta, xong xuôn, cô ta quày quã bước ra khỏi căn phòng. Tôi vội vàng lên tiếng:
- Xin lỗi cô, tôi muốn nhờ cô một việc, cô có vui lòng giúp đỡ không vậy?
Cô ta cười tươi tắn:
- Sure! Sure!!! Tôi có thể giúp cho ông chuyện gì?
Tôi nói cùng cô y tá:
- Cô có thể nói với bà bác sĩ vừa nãy mới vào đây châm cứu cho bệnh nhân này rằng có tôi tên là Vũ, Huỳnh Thanh Vũ muốn tiếp xúc với bà ta.
Cô y tá rất cở mở gật đầu:
- Vâng! Ông đợi tại đây, tôi sẽ ra thưa với bà ấy. Ồ! Nhưng thật lòng xin lỗi, tôi chưa nghe rõ tên của ông, phải phát âm nó như thế nào?
- Cô đọc là Vũ hay Vú cũng được. Bà bác sĩ nghe đến tên tôi bà ấy sẽ biết liền. Cô không phải lo về chuyện đó.
Cô y tá liếng thoắng trề môi chụm mỏ lập lại tên tôi theo lối pháp âm của người Việt mình:
- Vú, Vú, Vu, Vu... được lắm, tôi đọc đúng rồi. Có phải không vậy?
Tôi vội gật đầu cho qua câu chuyện rồi quay lại nói vài lời thăm hỏi xã giao thân tình với bà Julliet người vợ cưng của ông xếp già cùng với bó hoa tươi nãy giờ tôi vẫn còn nắm chặt trong tay như giữ một món đồ quí giá.
Cánh cửa phòng bệnh hé ra sau mấy tiếng gõ lọc cọc. Cô y tá trẻ trung ló đầu vào cho biết.
Bà bác sĩ Chen Young Yum bảo tôi mời ông đến gặp bà ta tại phòng làm việc số 6 và tên của bà bác sĩ mà tôi vẫn tuyệt đối đoán chắc là chị Hiền. Bảng tên gắn bên ngoài cánh cửa không thành vấn đề. Có thể chị Hiền, giống như phần nhiều người Việt Nam phải chọn cho mình một cái tên ngoại quốc cho dễ xưng hô. Có thể chị Hiền làm việc lâu ngày ở đây mà chị không cần nói cho tôi biết. Và căn phòng này cũng có thể là căn phòng của một vị bác sĩ đồng nghiệp người Tàu nào đó mà chị dùng để tiếp xúc với tôi.
Không chút ngần ngại, tôi đưa tay gõ cửa. Tưởng đến giây phút được chạm mặt chị Hiền. Hai chị em gặp lại nhau trong khung cảnh không hề hẹn trước này, chắc sẽ vui lắm. Thế nào tôi cũng phải trách nhẹ chị Hiền và trêu lại chị cho đỡ tức.
Bên trong có tiếng đàn bà lạ hoắc, cộc lốc nói vọng ra:
- Come in! (Vào đi!)
Rõ ràng tiếng nói lạnh lùng này không đúng với giọng nói trong trẻo êm ái của chị Hiền. Nhưng tôi cũng mạnh dạn xoay nhẹ nắm cửa đi vào. Bà bác sĩ người Trung Hoa có thân hình tròn như hột mít ngước cặp kính trắng lên nhìn tôi. Bà ta nói:
- Chào ông! Ông cần gặp tôi có chuyện gì? Cô y tá cho tôi biết rằng ông đến thăm bệnh nhan bị bán thân bất toại cấp tính ở phòng châm cứu số 11 phải không? Có điều gì khác thường xảy ra cho bệnh nhân tên Julliet này?
Tôi thực sự tin rằng mình đã gõ lầm cửa, gặp sai người. Bà bác sĩ bệ vệ và nghiêm nghị này không phải là chị Hiền, không phải là người từ nhiều tháng nay không lúc nào tôi không tưởng nhớ tới và thầm mong có ngày được gặp lại. Nhưng chị Hiền quả thật không phải là bà bác sĩ phì độn này.
Tuy vậy, tôi vẫn không đành lòng bỏ mất cơ hội để tìm hiểu cho rõ ràng về hình ảnh của chị Hiền mà mới ban nãy, đứng bên ngoài khung cửa kiếng, tôi đã nhận ra dáng dấp của chị một cách rõ rệt vô cùng. Có bắt tôi phải chứng minh bất cứ bằng cách gì, thì tôi vẫn quả quyết rằng tôi đã trông thấy mồn một hình ảnh của chị Hiền mặc chiếc áo choàng trắng của giới y sĩ đã đứng châm cứu trong phòng bệnh của bà Julliet.
Tôi nghiêm túc hỏi bà bác sĩ đối diện người Tàu y như tôi đang hạch hỏi một người tội phạm:
- Bà chính là người đã đến châm cứu trong phòng bệnh nhân số 11 khoảng 20 phút trước đây?
Bà bác sĩ nhướng đôi mắt lên nhìn tôi sau tròng kiếng trắng đáp cộc lốc:
- Phải!
- Ngoài bà là bác sĩ chữa bệnh cho bà Julliet ra, ở đây có bà bác sĩ người Việt nào không vậy?
Bà ta lắc đầu:
- Không ai cả. Hầu hết bác sĩ và nhân viên y tá ở đây là người Trung Hoa lẫn người Ðại Hàng. Tôi không hiểu ông đang muốn nói cái gì cả.
Như vậy là đã quá rõ ràng. Tôi chưng hửng như người từ trên cao rớt xuống, bị mừng hụt chẳng lẽ bắt nguồn từ ảo giác khác thường của tôi? Ðầu óc của tôi lâu này đã được ổn định hoàn toàn, không còn đâu nhức hoặc bất cứ biến chứng nào khác, nhất là từ sau lần cuối cùng chị Hiền ghé đến thăm tôi, để bàn tay của chị lên trán của tôi cho tôi tiêu tán mọi cơn đau bệnh trong người, mặc dù sau đó, chẳng bao giờ tôi có hứng thứ sờ tới số thuốc men mà bác sĩ điều trị cũng như chị Hiền ân cần nhắc nhở bảo tôi phải uống cho điều độ.
Vậy thì bóng chị Hiền mà tôi đã nhìn thấy ngay giữa ánh sáng ban ngày còn tỏ rõ của buổi chiều ở nơi này là ai. Dáng chị dong dỏng thanh bai với mái tóc đen tuyền cắt chải theo kiểu những mệnh phụ dài các Việt Nam, không thể lẫn lộn, hòa trộn được với dáng dấp trái nghịch tròn trịa và mang kích thước thấp ngắn của bà bác sĩ người Tàu tôi đang đối diện. Tôi nói thật sự lầm lẫn này với bà ta rồi vội xin lỗi cáo từ:
- Xin bà thông cảm về sự lầm lẫn tôi đã làm phiền bà. Tôi có một người chị thân thương mà tôi đột ngột trông thấy xuất hiện trong căn phòng của bệnh nhân Julliet, tôi tưởng chị tôi đang làm việc nơi đây. Nhưng tôi đã nhìn lầm. Tôi mong bà tha lỗi.
Nói xong, tôi để mặc cho bà bác sĩ Tàu ngồi cau mày ra chiều không hiểu được những điều tôi nói, trở lại thêm vài lời trấn an bà vợ của ông xếp già rồi trở về nhà trong một buổi chiều tâm hồn cực kỳ xáo trộn.
Tôi không cảm thấy đói bụng trước bàn ăn do cô em gái tôi đã sửa soạn sẵn sàng trên bàn trước khi em tôi đến trường theo học một lớp chuyên môn vào buổi tối. Tôi trở nên như kẻ lạc thần, mở tủ lạnh lấy ra chai bia, uống một hơi xong, tắp táp qua loa rồi vào phòng riêng nằm chắp tay sau ót dõi mắt lên trần nhà nghĩ ngợi vớ vẫn cho đến khi chìm sâu vào giấc mộng từ lúc nào.
Tôi nhác nhìn thấy khuôn mặt dịu dàng khả ái của chị Hiền hiện ra đứng lặng yên nơi khung trời dường như không mấy xa lạ đó nhìn tôi. Ánh mắt chị trong sáng tinh anh như những lúc thường, nhưng thấp thoáng như đang ẩn chức những muộn phiền. Thấy lại chị là lòng tôi vô cùng bàng hoàng xao xuyến vì mừng cũng có mà vì bực dọc cũng có vì không bao giờ tôi được yên tâm trí sẽ có thể tìm gặp lại được chị ở đâu.
Chị đứng đó trên thảm cỏ xanh bao phủ bởi từng cơi gió lồng lộng và lạnh lẽo của một buổi chiền cuốn tới từng đợt lá vàng thi nhau tan tác làm lòa xòa những sợ tóc trên khung mặt đẹp tựa thiên thần của chị mà tự đáy lòng tôi đã rất thân yêu quí mến. Tôi cảm thấy khổ sợ khi trông thấy khuôn mặt của chị chìm khuất trong nỗi u hoài.
Một hồi thật lâu hai chị em chúng tôi đứng nhìn nhau trong không gian vừa se lạnh vừa nhuốm mà hoàng hôn đang từ từ xuống thấp mà không ai dợm nói với ai nửa lời. Tôi nhìn chị muốn biểu lộ ngàn lời thương yêu thánh thiện, bày tỏ nỗi lòng của một người em nghĩ về chị bằng vô vàn thương mến kính yêu mà tôi lại chẳng thể mở lời. Thốt nhiên đôi mắt của tôi nhạt nhòa nước mắt. Chị Hiền thấy vậy, chị tỏ vẻ rất áy náy sâu xa. Sau cùng chị lên tiếng:
- Vũ đừng khóc như một đứa trẻ nhỏ làm chị không vui. Có những điều không thể nói ra theo qui luật đất trời, nhưng đã đến nước này, chị nghĩ, cần phải cho Vũ hiểu để chị em chúng ta không phải gượng gạo mãi trong bối cảnh khác lạ này. Chị biết Vũ coi chị là một người như ruột thịt thân yêu, chị cũng nhận Vũ như người em có cùng huyết thống gia đình, như cậu Bình, em trai của chị mà trước đây có lần, chị đã mạnh dạn ghi cho Vũ cả địa chỉ, nhưng chị biết rằng, Vũ không thể nào tìm gặp lại được vợ chồng cậu Bình hoặc là tìm gặp lại chính bản thân của chị nữa đâu.
Nói đến đây nước mắt của chị chan hòa trên khuôn mặt tròn trịa cân đối phúc hậu và đẹp như một vì tiên. Trên cánh môi buồn, chị vẫn như sẵn có một nụ cười của một con người có một tâm hồn bao dung và đầy an nhiên tự tại, vài sợi tóc bị làn gió thổi vắt ngang trên khuôn mặt mịn trắng hiền hòa. Chị Hiền đưa tay thấm nhẹ đôi hàng châu lệ rồi chị tiếp tục nói với tôi:
Từ tiền kiếp, chị em chúng ta vốn là chị em ruột thịt một nhà. Chị vốn là người chị cả của Vũ, Vũ là cậu em trai nhỏ mà chị hết sức yêu chiều. Gia đình của chúng ta có một người cha làm nghề đông y chữa bệnh và một mẹ già trọn một đời chỉ biết an phận với những đứa con. Sở dĩ chị nói cho Vũ nghe những chi tiết xa xăm này vì tấm lòng thương yêu gắn bó của chị em chúng ta từ tiền kiếp, đã bị nghiệp quả luyến ái cột chặt nên chưa thể rời xa. Ngày đó cả nhà của chúng ta đã cùng bị chết chung trong một cuộc phi cơ oanh tạc cày nát xóm làng. Gia đình chúng ta khi nghe hiệu còi báo động, tất cả mọi người đã chạy xuống trú ẩn dưới cái Tăng-Xê (hầm đào dưới đất để tránh bom) Vũ còn bé nên bước chân lẫm chẫm không thể chạy nhanh được trong khi cha đang bận lôi mẹ xuống dưới miệng hầm còn chị em mình thì đang chơi đùa những trò con nít. Cha giữ mẹ dưới mặt hầm, kinh hãi hét vọng lên nhắc chị cõng Vũ trên lưng để chạy cho kịp. Chị chưa kịp cõng Vũ, chỉ biết cuống cuồng ôm lấy Vũ ở trong tay thì đã nghe một tiếng ầm kinh thiên động địa, chị lìa đời trong ngay giây phút kinh hoàng đó, còn Vũ thì bị sức ép trái bom thổi bật ra xa. Linh hồn chị thoát ra khỏi thân xác tức thì trong khi chị vẫn chưa tin rằng chị đã bị chết bất đắt kỳ tử, nhưng theo phản xạ sinh tồn, linh hồn của chị thoát nhanh đến nơi Vũ đang nằm ngất xỉu chỉ vì thân xác của Vũ không chịu đựng được sức ép quá mạnh của trái bom.
Ngoại trừ Vũ với em Thoa còn sống sót sau cuộc oanh kích này cho đến bây giờ, cả nhà chúng ta bị tử thương trong cơn oanh tạc. Trong cõi trung giới vô hình, cha mẹ của chúng ta đã đi siêu thăng tịnh độ, còn chị được đầu thai vào một gia đình khác. Chị ra đời, khôn lớn với mảnh bằng dược sĩ vừa nắm trong tay, còn chưa được hưởng duyên phúc thành lập gia đình thì trong một tai nạn cùng với vợ chồng cậu Bình là người em ruột của chị trong hiện kiếp đã gặp tai nạn rồi cùng chết với nhau.
Nếu chị còn ở thế gian, chưa chắc chị đã nhìn thấy những tai biết xảy đến cho hết mọi người, xảy ra cho em trên khúc đường đồi núi hoang vu dạo trước. Chị đã chết đi và theo vòng tiến hoá luân hồi, chị chưa đến ngày phải đi đầu thai kiếp khác. Còn đang chờ đợi cho những nghiệp lực nặng nề từ trong nhiều kiếp đã qua phai nhạt dần dần, mới được tái sanh lại dương trần để bước theo mệnh nghiệp tiến hóa. Nhưng sức luyến ái gia tộc năm xưa vẫn còn tác động mạnh mẽ trong hồn vía chị, cho nên, khi vừa chết đi, chị thấy lại được bao nhiêu tiền kiếp của mình, trong đó, kiếp người gần nhất, chị em ta là con cái trong một gia đình và tấm lòng của chị vẫn còn yêu thương em nhiều lắm, vẫn còn luyến ái trì kéo nặng nề, cho nên, chị không thể nào làm ngơ, biết rất rõ ràng quỷ ma chúng nó đang khiến xui cho em phải gặp tai biến. Nếu không có chị quá thương em, thiết tha xin với các đấng tối cao cho em được tiếp tục an hưởng kiếp dương trần, thì chắc chắn, chị đã không biến hóa thành một bóng người băng ngang con đường để cho em kịp thắng xe lại, nếu không, em sẽ lao xe chạy nhanh về phía trước để rồi cùng bị chết giống những người kia.
Nghe chị kể đến đây, tôi không thể kềm hãm được lòng, tôi vội vàng hỏi chị:
- Bây giờ em biết tìm chị ở đâu? Chị đã cho em thấy được chị, em thật hạnh phúc vô cùng. Nhưng những lúc hoạn nạn u buồn, chỉ còn hai anh em nương tựa đùm bọc nhau trong cuộc đời lưu lạc, em với Thoa đơn độc lắm chị ơi!
Chị Hiền của tôi ra dấu ngậm ngùi:
- Em với chị hiện thời đang ở hai miền âm dương cách biệt, không thể nào còn được gần nhau, ngoại trừ những lúc chị khẩn thiết van xin ân huệ của các đấng nhiệm màu để thỉnh thoảng được hiện về an ủi em trong chốc lát, rồi chị lại phải trở lại cõi âm theo đúng những qui luật tự nhiên trói buộc, không thể hiện ra bất cứ với ai hoặc bất cứ lúc nào. Chẳng hạn như chị đã hiện về trong căn nhà em và Thoa đang sinh sống để giúp em sớm chấm dứt cơn bệnh ngặt nghèo, cũng có khi vì lo cho hai em mà chị xin đấng thiêng liêng trở về cứu giúp những người hoạn nạn khác, nếu những người đó có được duyên cơ.
Tôi ngắt lời chị Hiền:
- Như vậy đúng là đã có lần em trông thấy chị hiện về chữa bệnh cho bà Julliet, người vợ của ông xếp em trong sở làm.
Chị Hiền gật đầu:
- Em thấy đúng rồi đó. Không phải là em bị ảo giác chi phối đâu. Chị xin về chữa cho bà ta bằng những cách thế hữu hiệu của thế giới vô hình. Bệnh tình của bà ta sẽ được chấm dứt vào đầu tuần tới, vì nghiệp quả còn nhẹ, cho nên bà ta chỉ phải trả bằng những cơn đau đớn không đến nỗi kéo dài khiến cho người chồng phải ngày đêm lo lắng. Em hãy yên tâm về chuyện này. Chỉ chần chị trở về bên cạnh bà ta một lần nữa thì đúng 10 giờ sáng của ngày thứ Năm tuần tới, bà ta sẽ có thể đứng dậy đi đứng lại thật bình thường. Những cơn đau đớng tưởng có thể chết người của bà ta sẽ được chấm dứt.
Riêng em với em Thoa, rồi cũng sẽ được chị tiếp tay với các chư thiên bảo trợ và quan phòng. Em Thoa sẽ lập gia đình với một người thanh niên Việt Nam vào sau năm Thoa học ra trường hai tháng. Vợ chồng của nó cũng rất xứng đôi đẹp lứa. Chúng nó sẽ thành đạt vinh hiển như mọi người và có ba đứa con một gái hai trai rất khôi ngô tuấn tú. Còn em, vẫn sống đơn độc cho đến ngày em ra tay cứu vớt một người con gái bị nạn chìm tàu trong một chuyến du lịch ra khơi, em với người con gái tên Hương này sẽ chính thức trở nên đôi vợ chồng với một cuộc sống hạnh phúc thăng tiến đề huề.
Từ đây cho đến những năm kế tiếp, các em có bất cứ mệnh hệ gì cũng đều có chị hiện hữu, tiếp tay. Có lúc chị sẽ công khai, cũng có lúc ẩn hiện vô hình, cho đến ngày chị được đầu thai trở lại làm một thường nhân kiếp khác và tiếp tục thăng hoa cho sớm tiến hóa lên những từng giới cao hơn của một linh hồn.
Nói đến đây, gương mặt chị Hiền đột nhiên trở nên tươi vui trong sáng, khác hẳn những nét u uất buồn rầu vừa qua. Ðột nhiên chị đưa tay ra để nắm lấy bàn tay của tôi và tôi cũng xòa bày tay ra để nắm lấy bàn tay tiên nữ của một người chị mà chỉ bằng sự cảm nhận vô hình, tôi biết rằng giữa chúng tôi sẵn có mối dây duyên nợ. Nhưng bàn tay của tôi khi khép lại chỉ là nắm lấy cái vô hình trong khoảng không huyền nhiệm, trong khi hình ảnh chị Hiền, người chị hiền hòa nhân ái, người đàn bà cầu xin được thể hiện quyền năng cứu khổ ban vui cho anh em chúng tôi, cho những người vấn nạn quanh đời đã từ từ chìm khuất trong không gian vô sắc.
Tôi choàng thức tỉnh sau một cơn mơ tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đựng nhiều chi tiết bí mật thần kỳ mà chỉ có một mình tôi được biết và còn được chiêm nghiệm sự chính xác trong những ngày tháng của tương lai.
Quả nhiên, tuần tự theo từng dữ kiện mà người chị cả của tôi từ kiếp trước trong cõi vô hình chưa đi tái sanh vào kiếp khác vẫn còn lẩn khuất trong thế giới vô minhg, đã ưu ái cứu tôi và trở về báo mộng cho tôi biết trước những diễn tiến sẽ đến trong đời để cho hai anh em của chúng tôi được an tâm vui sống, không còn bị mặc cảm hoặc tủi thân vì sự đơn độc không cha không mẹ lưu lạc ở xứ người.
Ông xếp già của tôi đã có vẻ coi tôi như một vì thánh sống khi tôi đoan chắc với ông ta đúng như lời của chị tôi, của người đàn bà từ ái cứu khổ ban vui cho người có những phước hạnh đã cho tôi biết trước một tuần:
- Ðúng 10 giờ sáng thứ Năm, bà vợ yêu kiều của ông sẽ lành bệnh. Ông chuẩn bị tiệc mừng đi là vừa, nhưng nhớ phải mời tôi đấy nhé!
Chuyện đã xảy ra đúng rập khuôn như lời tôi loan báo trước đó một tuần và ông xếp già của tôi kể từ ngày đó không còn dám tự tiện rầy rà mắng mỏ một nhân viên quèn như tôi mộc cách đầy uy quyền như những lúc trước nữa.
Dăm sáu năm sau đó thì em Thoa của tôi cũng đã thành lập gia đình với ba đứa con vuông tròn kháu khỉnh. Duy chỉ có mình tôi, đã quá bốn mươi mà vẫn chưa hề thấy có dấu hiệu sẽ đi ngao du sơn thủy bằng tàu hay bằng bất cứ phương tiện nào khác để rồi tôi sẽ có một người vợ để yêu thương sau khi tôi đã nhảy xuống biển cả để cứu mạng cho nàng đúng như lời của chị Hiền của tôi đã ân cần báo trước để cho tôi ấp ủ những hy vọng thần tiên. Và, tôi tin tưởng một cách chắc chắn rằng chị Hiền của tôi ở cả kiếp trước lẫn kiếp này đích thị chị là một trong những vị thiên thần, những người đàn bà nhân hậu chuyên hiện diện trong cuộc đời rẫy đầy hạn họa bi thương này để cứu khổ ban vui cho những ai có phước hạnh cơ duyên được hưởng...
HỒN OAN BÁO OÁN
(Phần 1)
Triệu Phong là một thanh niên tiêu biểu về mọi mặt và luôn luôn khiến cho những người cùng lứa tuổi phải ao ước thèm thuồng về tướng diện, tài năng, con người cũng như những gì anh đang có.
Sinh trưởng trong gia đình tuy không thuộc loại phú gia địch quốc, nhưng của cải cha mẹ anh tạo dựng được trên thương trường trong hàng mấy chục năm dài từ miền Bắc di cư vào Nam năm 54 cho đến lúc Triệu Phong khôn lớn, bước vào ngưỡng cửa đời, đã giúp cho Triệu Phong và mấy anh chị em của chàng không bao giờ bị chật vật về mặt tiền bạc, dư đủ để cung ứng cho anh tiêu xài ăn học, thù tạc bạn bè một cách rộng rãi hào sảng trong cảnh :
"... Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say... (Nguyễn Công Trứ).
Triệu Phong có dáng người thanh tao cao lớn, không qúa đỗi đẹp trai nhưng nhờ được ăn học đàng hoàng, anh có rất nhiều tài, cầm kỳ thi phú thảy đều tinh tường, trò chuyện văn chương chữ nghĩa làu thông trôi chảy, giọng nói khúc chiết rõ ràng, truyền cảm dịu dàng, đàn ca xướng hát... Nhất nhất, Triệu Phong đều vượt trội hẳn những bạn hữu chung quanh khiến một vài khi, anh cũng khó tránh khỏi những kẻ xấu miệng đàm tiếu tị hiềm. Nhưng nhờ tánh tình Triệu Phong vui vẻ, ôn hòa, cởi mở dễ dãi cộng thêm bản chất tiếu lâm duyên dáng khi anh trò chuyện vui đùa và hay có lòng vị tha, giúp đỡ bạn hữu anh em, cho nên anh vẫn giữ được sự hòa thuận hầu như với tất cả mọi người.
Chỉ có một điều làm cho Triệu Phong gặp khá nhiều phiền toái như một tai họa, đôi khi đến khó xử ngay từ lúc anh vừa học lên trung học, rồi đeo đẳng mãi cho đến khi anh đã thực sự bước chân vào đời, là mối quan hệ dây dưa với... đàn bà. Tránh né cách nào anh cũng khó mà thoát khỏi. Có lẽ, đây đúng là một định số trời già hay gán buộc vào để "đày đọa" phần số của những kẻ đào hoa tốt tướng như Triệu Phong cũng chẳng biết chừng.
Công tâm mà nói, Triệu Phong không bao giờ cố tự sắp đặt ra những cuộc tình duyên sảy ra đột ngột chớp nhoáng, có khi chỉ trong chớp mắt với một tốc độ yêu cuồng sống vội đến khó mà ngờ như anh đã từng bị các bà, cô lôi cuốn vào mê hồn trận ở lúc anh còn trẻ rồi ngay cả vào lúc anh đã thành người trung niên. Ái tình cứ như vậy đẩy đưa Triệu Phong lún sâu mãi trên con đường yêu đương bấn loạn.
Đích thị là lỗi tại cái số đào hoa của Triệu Phong cho nên cuộc đời sau này của chàng mới ra nông nỗi, dở khóc dở cười, muốn qui ẩn cũng khó, muốn tránh xa cũng không xong. Thật đúng là muôn nẻo tình trường. Biết bao người cùng lứa tuổi như anh muốn có một tình yêu thì tìm không thấy. Còn Triệu Phong mong thoát khỏi thì cứ bị cuốn hút mãi vào y như một thứ nợ nần truyền kiếp. Đến nỗi, anh em bè bạn chứng kiến mãi những mối tình sáng hợp chiều tan của Triệu Phong cũng phải đồng tình kết luận giống như ý nghĩ của người trong cuộc :
Cũng đành nhắm mắt đưa chân,
Để xem con tạo xoay vần đến đâu?
(Nguyễn Du)
Con tạo xưa nay xem ra vốn rất đỗi vô tình, hay có thể ông tơ là một anh chàng có máu đùa dai không ai sánh kịp. Cứ đẩy đưa Triệu Phong vào mãi những mối tình khi hạnh phúc, lúc khổ đau, khi ngụp lặn bên nhau, lúc chia cách đợi chờ. Mà khốn thay! Triệu Phong cũng chỉ là một con người như triệu triệu người khác, chỉ có một đời để sống với một thân xác, một trái tim luôn mong đượïc sống yên ổn sống với chan hòa hai chữ thủy chung. Nhưng thủy chung thế nào được với những mối tình sảy ra như cơm bữa cứ mãi mãi dây dưa tới chàng.
Qua những đam mê sôi nổi của tuổi vào đời, chắc chắn sau những ngón đòn tình giáng xuống chí mạng trong đời sống, Triệu Phong không còn tha thiết, hăm hở giống khi xưa. Chàng ao ước có một cuộc sống an phận thủ thường, một mái gia đình một chồng một vợ với những đứa con kháu khỉnh dễ thương xinh xắn, thì chàng lại cứ bị "đánh" tới tấp bởi những mối tình ngẫu nhiên xuất hiện, để rồi lại hợp lại tan, lại ân ái mặn nồng rồi chia lìa phũ phàng oán hận. Cứ như vậy, luẩn quẩn loanh quanh, chẳng biết sẽ ngừng lại ở thời điểm nào. Đã bao lần Triệu Phong tự nghĩ, chỉ còn một cách rũ áo phàm trần, tìm một nơi tận đầu ghềnh xó núi để âm thầm sống cho hết một kiếp người, xóa tan đi mối nợ đời của một kẻ đào hoa. Nhưng từ nghĩ đến làm thường cách nhau một trời một vực. Hóa nên :
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa...
(Nguyễn Du)
Trời gần hay xa nào có tham dự vào những tiếng sét ái tình của anh chàng Triệu Phong hào hoa phong nhã? Có chăng, Triệu Phong nên tự trách mình đã không bao giờ biết tự chế ngự lấy bản ngã để thoát khỏi tai kiếp ái tình mới mong cho mình đưọc thoát ra ngoài vòng khổ lụy, để cho những người đàn bà con gái nhẹ dạ khỏi mãi vấp ngã bởi duyên nợ trần ai.
*****
Mới mười lăm mười sáu tuổi, Triệu Phong đã một lần thất tiết với một thiếu phụ lớn gấp hai tuổi chàng. Vào một đêm mưa bão dầm dề, người thiếu phụ hàng xóm một con, sắc đẹp mặn mà, có chồng lính trận còn ở phương xa, đã khá lâu chưa thấy trở về. Nàng Bạch Tuyết Hoa cam tâm thủ phận sống âm thầm đơn chiếc. Có mối thân tình qua lại với mấy người chị của Triệu Phong nên thỉnh thoảng vẫn ghé nhà Triệu Phong chuyện vãn viếng thăm như kẻ trong nhà.
Cơn mưa đầu mùa hôm ấy đổ xuống như trút nước sau những ngày nắng cháy khô cằn khiến cho mái nhà của chị Tuyết Hoa bị nước dột lênh láng khó mà yên ngủ qua đêm. Nàng chẳng biết làm sao, bèn đội mưa sang cầu cứu với gia đình của Triệu Phong để chữa dột cho cái mái nhà. Thấy người hoạn nạn là chỗ thâm tình hàng xóm, lại xem người thiếu phụ như tình chị em, Triệu Phong tức tốc đến tìm mọi cách che sửa mái nhà cho người thiếu phụ. Loay hoay một lúc, chỗ dột đã tạm vá xong mà cơn mưa vẫn xối xả trút nước xuống hoài.
Lúc bấy giờ Triệu Phong mới được yên tâm ngồi nghỉ cùng lúc Tuyết Hoa từ phòng trong đi ra mang theo một tấm khăn khô trao cho Triệu Phong lau người. Áo quần của người đàn bà hàng xóm một con vẫn còn ướt nước mưa dán chặt vào thân thể lồ lộ của nàng khiến cho chàng thanh niên trẻ tuổi tràn đầy sức sống như Triệu Phong không thể không có mối động lòng. Dường như biết rõ Triệu Phong đang sống trong cơn bão lửa si tình, Tuyết Hoa vờ thản nhiên như không biết, nàng đứng sát trước mặt Triệu Phong, đưa tấm khăn cho chàng trẻ tuổi lau người. Khoảng cách quá gần khiến cho tầm nhìn của Triệu Phong càng thấy rõ tất cả những đường nét vô cùng gợi cảm trên thân thể người thiếu phụ đang xuân. Cậu học sinh trung học còn cảm nhận được cả hơi hướm đầy kích thích từ tấm thân ngọc ngà của nàng tròn căng nhựa sống. Đôi mắt Triệu Phong dại đi trong khi Tuyết Hoa cúi xuống kéo sát khuôn mặt của Triệu Phong áp lên đôi gò bồng đảo phập phồng êm ấm. Chuyện gì phải đến, đã đến. Triệu Phong trở thành đàn ông trong tay người thiếu phụ trẻ đẹp từ giây phút ấy. Kể từ sau cơn mưa, việc tình tự lén lút qua lại giữa Tuyết Hoa và Triệu Phong tái diễn thường xuyên mà không một ai hay biết cho đến lúc người lính trận đồn xa trở về, thản nhiên đưa nàng cùng đứa con thuyên chuyển đến một vùng đất xa xôi khác, để lại cậu học sinh Triệu Phong ngày đêm tiếc nhớ, ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ mất hồn.
Rồi theo tháng ngày học hành thi cử, sinh hoạt văn nghệ liên trường, Triệu Phong có thêm nhiều cơ hội thân thiết với các nữ sinh đẹp tựa những tiên nữ giáng trần, trong đó có hai chị em Mộng Tuyền, Mộng Điệp đang theo học từ một trường nữ trung học danh tiếng. Cùng một lượt, hai chị em đem lòng thương yêu Triệu Phong, khiến chàng không thể khước từ để cũng cùng một lượt đáp lại tình yêu của cả hai chị em. Chuyện tình tay ba diễn ra đã lâu ngày, tuy có kín đáo nhưng rồi cũng bị gia đình của Mộng Tuyền Mộng Điệp hay biết. Thân sinh của hai cô nữ sinh yêu kiều đã đến mách chuyện với gia đình Triệu Phong, đồng thời thân phụ của hai cô đích thân hăm dọa sẽ đưa nội vụ ra nhờ pháp luật xét xử, khiến cho gia đình Triệu Phong rất bối rối buồn phiền, chưa biết phải xử trí ra sao cho hợp tình hợp lý thì đúng vào lúc chính phủ đương thời có lệnh kiểm tra trưng binh. Triệu Phong thuộc thành phần sẽ bị trưng dụng vào quân đội nếu năm này chàng không thi đậu tú tài.
Để chạy chữa cho Triệu Phong tránh thoát một lúc cả hai tai họa tình cảm lẫn lính tráng, bà mẹ của Triệu Phong ngay lập tức, bí mật gởi chàng ra Nha Trang tiếp tục việc học hành tại nhà của một gia đình vốn là chỗ bạn bè chí cốt với cha mẹ Triệu Phong. Tưởng thu xếp như vậy thì mọi việc sẽ tạm êm xuôi để cho Triệu Phong ăn học đến nơi đến chốn, lấy được đầy đủ bằng cấp học trình qui định thì sẽ được hoãn lệnh trưng binh. Nhưng tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Chỉ sau vài tháng tạm cư tại vùng biển xanh cát trắng, Triệu Phong bị chính cô con gái rượu của ông chủ nhà là bạn bè mật thiết với thân phụ của chàng phải lòng, yêu chàng một cách say mê đắm đuối đến bỏ ăn bỏ học từng ngày. Hai gia đình lại thêm một phen lâm vào thế kẹt, đành chỉ biết ôn tồn hứa hẹn để cho Ngọc Nữ, cô con gái rượu của ông bạn già yên tâm học hành cũng là một cách giúp cho Triệu Phong an lòng thi nốt cái bằng tú tài phần hai để lỡ có bị gọi lính thì cũng có được chút vốn phòng thân, học khóa sĩ quan như mọi người.
Năm đó Triệu Phong đã may mắn thi đậu tú tài toàn phần. Chàng xin phép cha mẹ nộp đơn vào trường sĩ quan Hải Quân để từ nay lệnh gọi trưng binh sẽ không còn làm cho mẹ chàng phải lo sợ sốt vó vì sợ chàng sẽ bị xung vào trường sĩ quan bộ binh. Câu chuyện tình giữa chàng với cô nữ sinh Ngọc Nữ cũng êm đềm thơ mộng diễn ra trong suốt những năm tháng Triệu Phong thụ huấn tại Nha Thành với những hoan lạc tràn trề của những ngày cuối tuần Triệu Phong cầm tấm giấy "Đi Bờ" (danh từ đặc biệt ám chỉ quân nhân đi phép của Quân Chủng Hải Quân).
Năm tháng dần trôi đến ngày Triệu Phong cử hành long trọng lễ ra trường trong bộ quân phục đại lễ vô cùng oai nghiêm lịch sự với thanh kiếm dài đeo lủng lẳng bên hông tiến lên khán đài tuyên thệ trung thành với tổ quốc cùng một lúc tiếp nhận sự vụ lệnh chàng được tuyển chọn trong số rất ít tân sĩ quan vinh dự đi Mỹ tu nghiệp về hải hành.
Tình yêu và sự nghiệp đè nặng trên đôi vai, Triệu Phong ở vào thế bó buộc phải gác lại chuyện hôn nhân cùng Ngọc Nữ để sau những ngày phép mãn khóa, chàng phải hoàn tất thủ tục xuất ngoại vốn là con đường tiến thân hiếm có đối với các tân sĩ quan. Chàng phải ra đi, hẹn cùng người yêu cử hành ngày hợp cẩn khi tình hình cho phép lúc đã trở về. Phần Ngọc Nữ cũng nan giải không kém với cái bào thai của hai người đang tượng hình, nàng đành gạt lệ đưa tiễn người yêu dù chưa chính thức kết hôn nhưng đã trao gởi cho nhau những gì qúi nhất của đời làm vợ làm chồng.
*****
Thời gian thấm thoát thoi đưa, xa mặt cách lòng, Triệu Phong giờ đã như bóng chim tăm cá, cánh nhạn thưa dần cho đến khi Ngọc Nữ không còn nhận được tin tức gì từ chàng nữa. Nàng hết sức khổ đau trong khi cái bào thai cứ theo ngày tháng lớn dần mà tác giả cái bầu thì hầu như đà biệt tích. Vì đạo lý gia phong, vì thể diện danh giá gia đình, Ngọc Nữ âm thần gạt lệ tìm đến một bác sĩ sản khoa để giải quyết mối oan trái đang đe dọa ngày đêm trong bụng nàng. Phá cái thai đã gần 4 tháng xong rồi thì tâm tình của Ngọc Nữ dành cho Triệu Phong cũng không còn chút gì lưu luyến, chỉ còn là niềm oán hận mà thôi. Kịp lúc có vài công tử con nhà giàu vốn đã lâu yêu thầm Ngọc Nữ nay đến dạm mặt xin hỏi cưới nàng trong lúc tâm hồn tan nát, Ngọc Nữ chấp thuận kết hôn với một vương tôn công tử một cách dễ dàng không đắn đo gì cả.
Phần Triệu Phong thì con đường sự nghiệp cứ lên như diều gặp gió. Sau khóa tu nghiệp tốt nghiệp ưu hạng, chàng lại tỏ ra xuất chúng với hải nghiệp chuyên môn, được chính tướng tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ đến trao bằng danh dự và lại thêm một lần được tuyển chọn lưu giữ ở lại Hoa Kỳ làm sĩ quan tham mưu cho các khóa học về sau.
Sống một mình nơi xứ người với nỗi niềm bơ vơ hoang vắng như chàng là một điều bất hạnh. Thời gian đầu chàng còn liên lạc thư từ cùng Ngọc Nữ làm điểm tựa tâm hồn, tin thư qua lại cũng xoa dịu được phần nào niềm cô đơn trống trải cho đến khi sự xa cách đã làm cho mọi việc nguội lạnh dần dà thì Triệu Phong đã gần như hoàn toàn chán nản đến chẳng buồn biên tiếp một cánh thư cho người yêu từng thề non hẹn biển ở quê nhà. Chàng vùi đầu vào việc dùi mài kinh sử. Thời gian còn lại trống vắng không biết phải làm gì. Với khả năng âm nhạc sẵn có, Triệu Phong gia nhập vào một ban nhạc đại hòa tấu để cùng tập dượt và thỉnh thoảng trình diễn chung trước công chúng hoặc đài truyền hình.
Những tưởng như vậy cuộc đời lưu lạc của chàng sẽ tạm yên vui. Nào ngờ, nghiệp lực ái tình nặng nề vẫn cố tình đeo đuổi chưa chịu buông tha cho chàng một bước. Chàng lại rơi vào cái bẫy khốn khổ của tình yêu với cô đầm trẻ Jannet vốn là nữ nhạc sĩ thổi Flute (sáo) trong ban đại hòa tấu của chàng. Cô nhạc sĩ trẻ đẹp gốc Đức này có khuôn mặt và nhân dáng quá sức diễm kiều, lại thêm tánh tình trầm mặc ít nói, hệt như bản chất của những phụ nữ Á Đông. Cô ta ngã trong cơn vũ bão ái tình với Triệu Phong vào một buổi trưa nóng bỏng tại một khách sạn sang trọng trong dịp chuẩn bị cho một buổi đại hòa tấu ban chiều. Triệu Phong cùng Janet hầu như quên đi mọi điều mọi vật chung quanh, quấn quít bên nhau ân ái mặn nồng cho đến ngày Jannet bình thản nói cho chàng biết:
- Tụi mình sắp có baby!
Cũng vào khoảng thời gian này chàng nhận được thư nhà do chị ruột của chàng viết sang cho biết, một trong hai cô nữ sinh hàng xóm là nàng Mộng Điệp đã qua đời cùng với một hoang thai không biết ai là tác giả. Vì quá xấu hổ, Mộng Điệp đã tự quên sinh. Bác sĩ giảo nghiệm đã phát giác Mộng Điệp mang thai khi khám nghiệm thi thể của nàng. Chỉ có Triệu Phong biết đích xác ai là người đã để lại cho Mộng Điệp cái bào thai oan trái đó. Nhưng Triệu Phong tự hỏi, nếu đã như vậy thì tại sao lại chỉ có một mình Mộng Điệp có thai với chàng trong khi cô chị là Mộng Tuyền cũng từng cùng chàng chung chăn chung gối. Đây có phải chỉ là sự rủi may đối với một nữ sinh thơ ngây như Mộng Điệp?
Triệu Phong không khỏi ngỡ ngàng trước hung tin Mộng Điệp hóa ra người thiên cổ. Chàng cảm thấy ăn năn bối rối trong khi Jannet thủ thỉ bên tai:
- Nếu honey không muốn tiếp nhận điều này thì đừng quan tâm đến nữa! Thật ra tao cũng chẳng muốn như vậy, có baby trong lúc này thiệt là kẹt, phải không? Tao chưa có chuẩn bị gì cả, lại thêm parent (cha mẹ) tao cũng hủ lậu quá trời. Thôi, để đó rồi tao tính. Dễ mà honey!
Đầu óc Triệu Phong đang quay cuồng trước hung tin Mộng Điệp nên chẳng mấy để ý đến lời thỏ thẻ của Jannet. Chàng chỉ ậm ừ cho qua.
Sau khoảng một tháng Jannet cố ý lánh mặt chàng cho đến ngày nàng gọi cho chàng vào một chiều weekend thật đẹp :
- Honey! Mình có thể gặp nhau lại rồi. Mọi chuyện coi như êm thắm cả. Từ nay tao không còn có gì phải lo ngại nữa. Hãy đến quán Con Bò Tót cũ với tao nghe honey! I Love you!
Nói rồi Jannet cúp máy, chẳng để cho Triệu Phong nói thêm lời nào. Gặp lại nhau, Triệu Phong biết rằng Jannet đã không còn giữ cái thai trong bụng, nàng đã phá nó đi sau ba tháng có bầu. Khi biết rõ rệt Jannet đã giết đi một thai nhi mang giọt máu của mình, Triệu Phong vô cùng tức giận. Từ đó, chàng mất hẳn hứng thú với người nữ nhạc sĩ tài ba, sắc đẹp cá lặn chim sa mà chàng đã có chủ tâm yêu thương gắn bó suốt đời, trong khi Jannet, như phần lớn các cô gái phương Tây, chỉ xem chàng như một người tình chăn gối, đến với nhau trong những cơn thác loạn ái tình, không một chút nghĩa keo son gắn bó.
Từ đó, hai người vẫn chạm mặt nhau trong các buổi hòa nhạc bình thường, nhưng Triệu Phong thẳng thắn khước từ những cuộc hẹn hò chăn gối với Jannet, còn không chút động tâm khi nàng ngang nhiên hò hẹn với một thính giả vai u thịt bắp người Tàu.
Bất đồ vào một đêm sau giờ hòa nhạc, Triệu Phong nhận được bó hoa tươi từ một người cho biết từng đến tham dự những buổi có chàng hòa nhạc. Hoa tặng là một việc bình thường đối với hầu hết những nhạc sĩ tài danh trong ban đại hòa tấu được người nghe yêu thích gởi cho, nếu chàng không nhận thêm một bao thư dán kín với hàng chữ viết rất đúng chính tả và nét chữ rất Việt Nam:
"Gởi Mr. Hoàng Triệu Phong,
Không ngờ em gặp lại anh nơi đây. Chắc chắn anh sẽ ngạc nhiên thật nhiều. Em đã từng tham dự rất nhiều buổi hòa tấu có sự hiện diện cùng tiếng kèn đầy hấp dẫn của anh. Em đã cùng với chồng em - anh Triều - là sĩ quan VN được điều động sang Hoa Kỳ lo việc tiếp nhận các sinh viên sĩ quan Việt Nam sang đây du học. Em hiện cư ngụ tại thị xã Suối biển. Đây là số điện thoại của em. Nếu không ngại, mong anh gọi cho em. Rất muốn nghe lại tiếng nói của anh như khi xưa còn ở quê nhà.
Thân mến,
Phạm Bạch Tuyết Hoa."
Bức thư ngắn gọn làm cho Triệu Phong dậy lên bao nhiêu điều xúc cảm với những rung động cuồng điên của tuổi chập chững bước vào ngưỡng cửa đời. Như một khúc phim được đem ra chiếu lại rành rẽ như mới hôm qua trong đầu, Triệu Phong nhột nhạt nhớ lại những hình ảnh ngụp lặn điên cuồng trong vòng tay người đàn bà một con tràn đầy sức sống cùng những khát khao nghiến ngấu nàng đã biểu lộ vào mỗi lần có dịp cùng Triệu Phong lén lút ân ái trao tình.
Chàng định bụng không gọi cho Tuyết Hoa như nàng đã yêu cầu mà sẽ viết cho vợ chồng nàng một cái Post Card (thiệp) đúng với tư cách xã giao thăm hỏi, rồi thôi!
Nhưng một buổi sáng tinh mơ, Tuyết Hoa tự gọi đến cho chàng. Sau cú điện thoại ngắn ngủi, Tuyết Hoa đã lừng lững xuất hiện ngay trước ngưỡng cửa của căn chung cư biệt lập dành cho các sĩ quan độc thân nơi chàng cư ngụ. Thì ra Tuyết Hoa biết quá rõ chàng rời bỏ quê hương qua sự liên lạc với gia đình chàng. Nàng cũng có cơ may theo chồng xuất ngoại rồi lặng lẽ truy tìm được chính xác địa chỉ, số điện thoại của Triệu Phong bằng hệ thống điện tử quân bưu hiện đại của Hoa Kỳ. Nàng đã tìm tới và dùng "điện thoại tay" để gọi cho chàng cho nên vừa cúp phone là nàng đã hiện diện y như có phép thần thông biến hoá.
Chuyện gì sẽ phải xảy ra với một sĩ quan trẻ tuổi đào hoa xung động với một thiếu phụ thường phải dồn nhịn những cơn bão tình vì thường xuyên xa chồng, thêm nữa, nàng và Triệu Phong đã từng có với nhau những lần hẹn hò tràn đầy ân ái? Hai kẻ cô đơn xa nước xa nhà, gặp lại nhau như cá gặp nước. Có là những kẻ bại liệt, họ mới có thể chế ngự được cơn thịnh nộ của xác phàm.
Cuồng loạn rồi thì cũng đến lúc họ phải nghỉ ngơi. Họ kể lại cho nhau nghe những vấn vương dằn vặt từ phút phải xa nhau cho đến bây giờ. Và điều trọng đại đối với Triệu Phong hơn cả là Tuyết Hoa, sau những phen ngụp lặn mải miết trong thú xác thịt thầm lén với Triệu Phong, nàng cũng có thai với chàng. Nhưng để tránh cho chồng khỏi sự ngờ vực có thể đưa đến thảm cảnh tan nát gia đình, nàng cũng tự tìm cách phá cái thai trước khi nó tố cáo rõ ràng với chồng của nàng về kết quả cuộc tình vụng trộm với người trai trẻ Triệu Phong.
Nghe Tuyết Hoa nhắc đến chuyện này, Triệu Phong chỉ còn biết thở dài ngao ngán và tự hỏi tại sao vì cứ mãi vô tình mà chàng đã gây nên nhiều điều nhẫn tâm như vậy? Ít lắm cho đến ngày hôm nay, đã có bao nhiêu người đàn bà đã có thai với chàng rồi tự ý giết nó đi như tự ý xóa bỏ một trở ngại chưa có khả năng hiện diện hoặc chống đối trong đời sống.
Trước hết là chị Tuyết Hoa rồi đến Mộng Điệp, rồi Ngọc Nữ, rồi Jannet đã quá rõ ràng với những vụ phá thai mà họ có dịp để nói cho chàng được biết. Còn những cuộc tình sớm nở chiều tan, ù ù cacï cạc hững hờ với Aùi Liên, Thanh Thanh, Đào Nguyên, Châu Diệp, Thúy Phương... , hay những người đàn bà bán buôn xác thịt trên những khúc quanh đời mà Triệu Phong đã có lần ghé lại mua vui một vài trống canh, từ trên quê hương cho đến các địa danh ở nước ngoài mà chàng không tài nào có thể nhớ hết. Hoặc họ không còn dịp nào tiết lộ với chàng thì sao? Kể làm sao cho hết được trên những đầu ngón tay! Nói làm sao cho đủ những con số thương vong oan nghiệt của những thai nhi vô tình vô tội mà chính chàng là thủ phạm chánh yếu để lại trong thân thể của những người đàn bà đã hiến dâng thân xác cho chàng trong những cơn khát khao dục vọng vì cái mã, cái tài văn nghệ trí thức, cái hào hoa phong nhã, ăn nói duyên dáng, cái mệnh số đào hoa của chàng?
Chừng đó năm tháng vào đời là chừng đó những người đàn bà đã cùng chàng chung chăn chung gối và chừng đó những hài nhi không hề được quyền lên tiếng khóc chào đời để rồi mãi mãi phải ngậm ngùi trôi dạt thiên thu trong cõi u minh tăm tối, không được sinh ra để nhận lấy kiếp người, cũng không được quyền ghi danh lại ở sổ trời để còn cơ hội tái sinh theo dòng thiên mệnh.
Những oan hồn uổng tử đó rồi sẽ phiêu bạt nơi đâu trong suốt cõi ta bà. Chúng sẽ trở thành những hồn ma bóng quế vất vưởng từ những bờ bụi khóm cây, lang thang đây đó đêm ngày, bơ vơ khốn khổ, đói lạnh trăm chiều mà không một ai ngó ngàng chăm lo săn sóc, không hề có ai có cách nào cải hoàn được mệnh số cho chúng để chúng mãi mãi là những vong hồn!
HỒN OAN BÁO OÁN
(Phần 2)
Vẫn biết rằng hàng năm trên dương trần hiện thế đều có những dịp lễ xá tội vong nhân, những lễ lạc cầu siêu cho trăm họ, những lễ vật bố thí ủi an cho các oan hồn bạc mệnh, nhưng nào phải oan hồn nào cũng nhận được ân siêu thoát nếu phước báu biệt nghiệp tích tụ chưa đủ chưa đầy. Chúng sẽ trở thành những hồn ma trôi sông lạc chợ, sẽ trở thành loại cô hồn các đảng phân tán đó đây, oan hồn nào nếu có nhân có đức thì an nhiên tu tịnh để mong được tái sinh. Nếu phước báu không dày, có khi biến thành ma vương quỷ dữ, tản mạn quấy phá kinh động trăm họ ngàn nơi mà rõ rệt nhất là ngày đêm đeo đuổi theo chính những người mẹ, người cha đã nhẫn tâm tiêu diệt đi cơ hội để cho chúng được nhận lấy kiếp người. Những oan hồn này chẳng khác chi những đứa trẻ sơ sinh, cũng lớn dần theo năm tháng, cũng phát triển hoàn bị hệ thống tư tưởng vô minh. Có khác chăng là chúng không bao giờ có được cơ hội hiện tiền để tham dự vào thế giới hữu hình của triệu triệu con người trên dương trần tại thế. Tội nghiệp chúng lắm thay!
Triệu Phong nhờ phước đức ông bà cha mẹ, lại được ăn học và dạy dỗ đạo lý nên người cho nên chàng hiểu được điều này rất rõ rệt. Chàng tự biết, cho dẫu chỉ vì vô tình, chàng cũng đã gây nên bao nhiêu là chướng nghiệp oan trái, đã gián tiếp tiêu diệt bao nhiêu là mầm sống mang chính máu thịt của chàng. Cho đến hôm nay khi hiểu ra thì mọi điều đã dĩ lỡ. Chàng chỉ còn biết ăn năn và đón đợi những tai ương nghiệp báo rồi đây sẽ tuần tự che phủ xuống đời chàng.,
*****
Biến cố 30/4/1975 làm cho đất nước Việt Nam rơi vào cơn tao loạn kinh hoàng. Cả một cơ đồ dân quân sụp đổ. Người người tán loạn vượt chết đổ ra biển tìm tàu lánh nạn lưu vong. Bom nổ đạn bay bốn phương tám hướng khiến người chết, nhà cửa tan hoang. Con người chết vì bom đạn cũng lắm mà tàn sát lẫn nhau để vơ vét của cải ra đi cũng nhiều. Trung Tá Võ Bị Nguyễn Quang Triều là một trong những nạn nhân vắn số. Ông bị trúng đạn tử thương trong lúc trở lại phi trường Tân Sơn Nhất để trở sang Hoa Kỳ trong những ngày đầu vừa ban hành lệnh di tản.
Vào lúc đó, các cơ cấu truyền tin của quân đội còn đang hoạt động bình thường trước khi bị phá hủy, cho nên chẳng bao lâu sau, Bạch Tuyết Hoa nhận tin tử nạn của chồng do Bộ Tư Lệnh quân sự hỗn hợp Việt Mỹ ở Hoa Kỳ thông báo và phân ưu trong lúc nàng vẫn an nhiên qua lại tình tự với Triệu Phong chẳng chút buồn phiền lo lắng. Trái lại, cái chết của chồng mặc nhiên trở thành một dịp may ngàn năm một thuở để cho Triệu Phong với nàng công khai chắp nối bên nhau.
Từ đó, hai người hợp thức hóa biến thành vợ chồng, sống một đời an nhàn sung túc nhờ vào số tiền ủy lạo quân nhân tử tuất của chính phủ Mỹ dành cho. Phần Triệu Phong, sau khi QLVN tan hàng, chàng được Hoa Kỳ chuyển sang phục vụ trong ngành hoa tiêu hàng hải với mức lương khá lớn hàng năm. Họ sống bên nhau tưởng đâu sẽ hạnh phúc êm đềm cho đến ngày răng long tóc bạc. Nào ngờ, bắt đầu từ đó là những tai nạn hạn họa liên tu bất tận mà họ phải thay phiên gánh chịu đều đều mà không thể nào hiểu được vì sao.
*****
Một năm sau Triệu Phong và Bạch Tuyết Hoa sanh được một bé trai bụ bẫm kháu khỉnh vô cùng. Thằng bé hay ăn chóng lớn, nhưng chỉ khổ tội thường bị kinh động thức giấc và khóc thét trong những đêm khuya, cặp mắt trợn trắng hoảng hốt, chừng như nó vô cùng kinh sợ một cái gì trong cơn say ngủ. Mấy lúc ban đầu, Triệu Phong và Tuyết Hoa cho rằng trẻ con thường hay khóc đêm vì những nguyên nhân dễ hiểu bình thường. Hai vợ chồng không quản ngại thời giờ hoặc tiền bạc, sẵn sàng đưa đứa con trai yêu quí đến chữa trị tại những phòng mạch nhi đồng của các danh y để tìm ra con bệnh. Nhưng không có vị bác sĩ nào khám phá ra được một nguyên nhân đặc biệt, ngoài những lời dặn dò săn sóc như thông lệ dành cho các trẻ em còn ở tuổi lên ba.
Khoảng sáu tháng sau, vào một buổi trưa giữa thanh thiên bạch nhật thì đứa trẻ đột ngột chết khi Tuyết Hoa vừa tắm xong cho con, nàng đặt nó nằm ở trên giường nệm êm ấm. Qua khung cửa kiếng, nàng thoáng thấy dáng người phụ nữ đưa thư, định tâm sẽ ôm thùng quà không lớn lắm ra để nhờ người đưa thư cho nàng biết giá cước phí phải trả để gởi về cho gia đình bên quê nhà. Chuyện trò cùng người phát thư chưa đầy 10 phút, lúc trở vào nhà, Tuyết Hoa vào phòng riêng của thằng nhỏ thăm chừng con thì thằng bé đã hết thở, trong khi thân nhiệt vẫn còn. Nàng thất kinh hồn vía, bốc điện thoại kêu gọi tứ tung, từ Triệu Phong đến nhà thờ Hội Thánh Tin Lành, sở cảnh sát, sở cứu hỏa và ngay cả cho vị bác sĩ riêng của con mình.
Xác thằng nhỏ được được đưa đi khám nghiệm để tìm ra nguyên cớ qua đời. Sau tất cả mọi thủ tục giảo nghiệm hiện đại nhất, các chuyên viên liên hệ chỉ có thể ghi trong tờ giấy khai tử mấy hàng chữ : "Chết vì nghẽn mạch máu não".
Chôn táng tươm tất cho đứa con trai xong thì Bạch Tuyết Hoa và Hoàng Triệu Phong ngơ ngẩn giống như hai kẻ mất hồn. Đêm ngày biếng ăn mất ngủ, ủ rũ buồn phiền khiến việc làm hàng ngày trong sở không được hoàn hảo như trước, đến nỗi ban giám đốc phải ban hành lệnh khai trừ sau nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo.
Mất sở làm hai vợ chồng cũng chẳng buồn quan tâm. Để thay đổi không khí sống, họ tổ chức những chuyến đi chơi xa trên chiếc xe Van rất đầy đủ tiện nghi. Họ thường lái xe rong ruổi đường xa. Có lúc lái suốt trong đêm hoang vắng, tìm đến những nơi danh lam thắng cảnh, ngừng xe lại ngủ qua đêm hoặc để tận hưởng thú tiêu dao mây nước nên thơ hữu tình.
Rất nhiều lần Triệu Phong lặng lẽ lái xe ban đêm, trong lúc Bạch Tuyết Hoa rũ đầu ngồi ngủ gà ngủ gật ở ghế bên, cả hai cùng nghe rất rõ có nhiều tiếng trẻ con léo nhéo nô đùa trong lòng xe trống vắng phía sau. Hai vợ chồng vội bật đèn trong xe, ngoái đầu nhìn lại thì những hàng ghế phía sau thốt nhiên hoàn toàn im vắng, tiếng trẻ nít nô đùa thoắt nhiên mất hẳn. Họ ngỡ rằng cả hai, có lẽ vì quá thương nhớ đứa con đã chết nên có ảo giác như vậy mà thôi. Nhưng khi tắt đèn trong xe, tiếp tục lái đi thì lại nghe như có cả đám trẻ con đứa khóc đứa cười réo lên cực kỳ inh ỏi.
Họ là những người không dễ dàng tin tưởng vào những chuyện hoang đường giả tưởng hồn ma bóng quế, nhưng quá nhiều lần cả hai đích thân nghe rõ tiếng ồn ào léo nhéo của trẻ con trong chính chiếc xe của mình, Triệu Phong và Bạch Tuyết Hoa cũng có phần ái ngại mà chẳng biết phải làm sao.
Có một lần họ lái xe về vùng nắng ấm Cali là nơi bây giờ đã có rất đông người Việt Nam tỵ nạn đưa nhau về đây sinh sống. Thực phẩm Á đông, chợ búa, nhà hàng, nhà thờ, đình chùa mọc lên như nấm gần giống như khi còn ở quê nhà, khiến cho cả hai người như vừa tìm lại được những gì lâu nay họ đã bị mất. May thay, cũng tại vùng đất này, hai người gặp lại khá nhiều bạn bè xưa cũ. Những bạn hữu thân thiết của hai người từng khuyên họ:
- Ông bà sinh sống ở tiểu bang đó vừa lạnh quanh năm vừa buồn muôn thuở, sao không dọn hẳn về đây chung sống hoặc làm ăn với chúng tôi để chờ đợi ngày về lại quê hương.
Được lời như cởi tấm lòng. Hai vợ chồng tính toán thật nhanh chóng rồi trở lại tiểu bang cũ xa xôi, thu góp tiền tài, bán hết nhà cửa xe pháo, gom được một số vốn khá lớn trở lại Cali, mua một căn nhà nằm kề cận với phố Bolsa. Bạch Tuyết Hoa mở ngay một cửa tiệm kim hoàn, buôn may bán đắt, còn Triệu Phong chung góp với một người bạn thân mở ra cơ sở thiết kế hệ thống điện toán cá nhân cung cấp cho đủ loại khách hàng Mỹ, Tàu, Ta, Mễ...
Đời sống vật chất của Bạch Tuyết Hoa và Triệu Phong phát đạt như lúa trúng mùa. Công việc làm ăn buôn bán của họ thật hưng thịnh và chắc chắn nếu không có một biến cố thương tâm khác xảy đến với Bạch Tuyết Hoa. Số là có nhóm người đến điều đình với Tuyết Hoa. Họ muốn dùng cửa tiệm kim hoàn của nàng làm địa điểm giao thương để chuyển và nhận thường xuyên một số kim hoàn từ Hồng Kông đem đến để rồi một nhóm người khác đã được nhận diện kỹ càng đến trách nhiệm mang đi. Bạch Tuyết Hoa, ngoài việc mua bán vàng bạc hột xoàn bình thường, hàng tháng nàng còn có thêm nguồn lợi nhuận không nhỏ do dịch vụ này đem tới. Càng lúc, họ càng giàu đến độ, cả khu thương mại Bolsa ai ai cũng đều biết tiếng tăm vị nể. Nhưng họ chẳng để ý đến một điều có danh thì có họa...
Đùng một cái, báo chí đồng loạt loan tin bà chủ tiệm kim hoàn Đại Phát Bạch Tuyết Hoa bị cướp tại nhà riêng và bị giết chết một cách vô cùng thương tâm sau khi bọn cướp có võ trang thay phiên nhau hành hạ thân xác của bà. Cảnh sát đang cố gắng truy lùng các tay tội phạm.
Trong khi đó, Bạch Tuyết Hoa còn có đứa con gái riêng với người chồng cũ là ông Nguyễn Quang Triều tên Christian Nguyễn nay đã lớn đang học nội trú ngành nghiên cứu không gian sắp ra trường, nhận được hung tin của mẹ, cấp tốc bay qua Cali. Nhưng không biết họa vô đơn chí ra sao, cô nhờ người bạn trai chở cô ra phi trường, chiếc xe chạy quá vội với tốc độ trên 75Ml/h, húc vào bờ cản bằng xi măng ngăn đôi xa lộ. Chiếc xe bị lật sấp nhiều vòng mang lại tử thương cho người con gái Christian Nguyễn không còn kịp mang tang mẹ, người bạn trai của cô không chết, chỉ bị gẫy một ống chân, xem như bị tàn tật suốt đời.
Triệu Phong hoàn tất tang lễ cho vợ vừa xong, lại cấp tốc bay sang tiểu bang nọ để lo chôn táng cho con gái riêng của nàng, vừa mệt mỏi rã rời vừa chán nản cùng tột. Khi trở lại Cali, theo lời chỉ dẫn của một vị cao tăng chủ trì tang lễ, đem di ảnh của vợ cùng với đứa con trai đã chết về chùa mong được ngày đêm cầu siêu hương khói. Chàng như không còn sinh thú nào để mà luyến lưu tha thiết. Buồn chán xâm lấn tận cùng hồn xác người đàn ông một thuở huy hoàng oanh liệt.
Tiệm kim hoàn của Bạch Tuyết Hoa, vợ chàng được sang nhượng lại cho một tài phiệt người Đài Loan. Căn tiệm thiết kế điện tử của chàng chẳng bao lâu bỗng nhiên thưa thớt đơn đặt hàng. Có điều lạ là cửa tiệm do Triệu Phong là người ra vốn, chàng tham dự rất ít vào công việc điều hành. Việc quản trị kinh doanh từ bao lâu nay vẫn do người bạn partner của chàng trách nhiệm. Có nghĩa là, dù chàng có bị khủng hoảng về tâm linh, sao lãng phần nào trong công việc giao thương, thì vẫn còn có người partner (người hùng vốn) thường xuyên phụ trách, cớ sao thương vụ lại đi xuống một cách bất ngờ. Đến nỗi, người bạn của Triệu Phong không ngừng thốt lên lời than thở :
- Thật không thể hiểu được tại sao. Mọi việc đang tiến triển khả quan, không dưng sảy ra những việc cho thấy hết sức khác thường. Anh nói cho tôi biết lý do nào cùng một lúc các hóa đơn mình sắp sửa giao hàng thì lại nhận được giấy từ chối với những lý do thật là kỳ lạ...
Chỉ có trời mới biết được tại sao! Triệu Phong cứng họng trước những lời thở than của của người bạn partner.
Một vài khi Triệu Phong ghé chùa, nơi có để di ảnh vợ con, thắp cho họ một nén hương lòng tưởng niệm với những lời thì thầm thương nhớ thiết tha, chàng chậm rãi thả bước ra vườn sau ngoạn cảnh tĩnh lặng của chùa thì bất đồ sư ông trụ trì đi tới, người lên tiếng vồn vã hỏi han :
- Ông Phong hôm nay đến thắp nhang cho bà nhà và cháu?
- Dạ kính bạch sư ông!
Sư ông đon đả :
- Hôm nay ông Phong nếu không quá bận công việc thì ở lại đây trò chuyện cùng tôi dăm phút được không?
Chàng lễ phép chắp tay :
- Thưa Sư Ông được lắm ạ!
Vị chân tu với một kẻ phàm trần thong dong ngồi xuống cái bàn gỗ nhỏ dưới tàn cây xum xuê bóng bát, trước mặt là hai tách trà thơm nghi ngút khói, bên cạnh là bàn cờ tướng với những con cờ lăn lóc, xô lệch lung tung. Một lát, Sư Ông chậm rãi mở lời :
- Không biết tôi có nên nhắc cho ông Phong biết rõ một điều...
Triệu Phong ngước nhìn khuôn mặt nhân từ thanh thoát của vị cao tăng một cách tín cẩn cung kính, chàng đáp :
- Bạch Sư ông, xin ngài cứ tự nhiên dạy bảo, kẻ phàm này xin hết lòng biết ơn.
Ngừng một lát Sư ông tiếp lời :
- Có phải lúc này công việc làm ăn của ông Phong bỗng kém phần hanh thông phát đạt?
- Bạch Sư Ông qủa có như vậy! Sao ngài biết quá rõ?
Sư Ông nở nhẹ nụ cười không trả lời câu hỏi của Triệu Phong, Sư Ông tiếp :
- Từ nhiều năm nay ông Phong luôn luôn gặp phải nhiều rủi ro buồn phiền?
- Bạch Sư Ông, ngài đã nói rất đúng. Không biết có phải tại con...
Sư Ông nhè nhẹ khoác tay :
- Ông khoan nói ra điều gì, hãy để cho tôi hỏi trước. Ngừng một lát, Sư Ông hỏi :
- Cơ sở buôn bán của ông Phong nằm ở chỗ nào, có thể cho tôi biết được không?
Triệu Phong không ngần ngại, lấy ra tấm danh thiếp có in rõ địa chỉ, số điện thoại của cơ sở thiết kế điện tử của chàng. Cầm lấy tấm card của Triệu Phong, Sư Ông thong thả đứng lên như có ý cáo từ :
- Ngày mai tôi sẽ nhờ người đưa đến thăm cửa tiệm của Ông Phong. Ông có ngại về chuyện đó không vậy?
Triệu Phong hoan hỉ nhận lời. Chàng thầm đoán Sư Ông đã muốn chấm dứt câu chuyện, vội vã cúi chào rồi lầm lũi bước về chỗ đậu xe.
Ngày hôm sau, Triệu Phong đón tiếp Sư Ông tại căn tiệm của chàng với tất cả sự thành tâm của một tín đồ khiêm nhượng bằng một bình trà thơm thật đậm do chính tay chàng pha sẵn và hai ba loại bánh ngọt để tiếp đãi sư ông. Nhưng khi Sư Ông tới, ông không hề đặt chân vào bên trong cửa tiệm, chỉ đứng quan sát ở bên ngoài, đôi mắt Sư Ông trở niên nghiêm trang khác lạ như đang chú mục vào một vật gì mà chàng không thể nào cảm được.
Nắng đã khá cao, bắt đầu tỏa ra hơi nóng của buổi trưa hè. Đứng im lặng một hồi với tia nhìn đảo quanh trong căn tiệm, Sư Ông quày gót ra xe, không quên dặn lại Triệu Phong :
- Lúc nào có thời gian rảnh rỗi, mời Ông Phong lại chùa cùng tôi trò chuyện cho vui. Nói xong Sư Ông lên xe ra về mặc cho Triệu Phong khẩn khoản mời ông vào tiệm uống chút trà ăn bánh ngọt.
Buổi chiều cùng ngày, không ngăn được sự tò mò về thái độ trầm mặc khó hiểu của vị cao tăng, chàng rất nóng lòng, không muốn trì hoãn, vội vã lái xe đến chùa, thắp cho vợ con mỗi người một nén nhang như thông lệ. Vừa quay gót trở ra, chàng thoáng thấy Sư Ông hiện ra giữa khung cửa chánh điện. Ông khoác tay chỉ ra sau chùa. Triệu Phong ngầm hiểu, chàng tiến đến cái bàn gỗ thô dưới gốc cây xum xuê hôm trước.
Chỉ ly nước trà lung linh khói, Sư Ông nói :
- Uống chút trà cho thơm miệng, Ông Phong!
Triệu Phong nhẹ nâng tách trà trong khi Sư Ông nói giọng nhỏ nhẹ :
- Ông còn nhiều phước báu lắm đó ông Phong ạ!
Triệu Phong rất bỡ ngỡ, chưa biết vị cao tăng nhân hậu này muốn đề cập với chàng về điều gì thì Sư Ông đã tiếp :
- Theo chỗ tôi cảm nhận, thời gian dài đã qua, ông liên tiếp tạo nên những nghiệp lực hết sức nặng nề mà ông không hề hay biết, có phải vậy không?
- Kính Bạch Sư Ông, quả nhiên con không hề hay biết bản thân con đã gây ra những lầm lỗi nào!
- Nặng nề lắm ông Phong ạ! Để tôi nói thử ông nghe vài điều. Nếu không sai, tôi sẽ nói tiếp. Nếu không đúng ông cứ bỏ qua cho, ông nhé!
Uống nhẹ một hớp trà, Sư Ông chậm rãi nói :
- Ngày hôm qua, tôi đã đến thăm cửa tiệm của ông Phong và đã hiểu ra được phần nào lý do thời gian gần đây ông mãi luôn gặp xui rủi.
Triệu Phong nôn nóng ngắt lời :
- Bạch Sư Ông, Sư Ông đã hiểu ra được điều gì?
- Chẳng những tôi hiểu được mà còn cảm được, còn "thấy" được cả chúng nữa.
Nghe đến đây, Triệu Phong bắt đầu thấy gờn gợn từ các lỗ chân lông.
- Tôi thấy bên trong tiệm và chung quanh chỗ ông ngồi có một bầy con nít. Thái độ của chúng tỏ ra chúng rất thù ghét ông nhưng cũng thương ông ghê gớm lắm, không nỡ xa ông nửa bước. Ông có tin được lời tôi nói không vậy ông Phong?
- Kính Bạch Sư Ông, con rất tin tưởng lời ngài. Nhưng có một điều con chưa đủ sức hiểu là tại sao lại có một lũ trẻ con vừa thương vừa thù ghét con bên trong cửa tiệm? Sao con không hề trông thấy chúng?
- Làm sao ông thấy chúng được vì chúng đâu phải là người. Xin nói ngay cho ông biết, chúng chỉ là những oan hồn uổng tử đã bị giết chết một cách tức tưởi oan khiên, chúng chính là những đứa con hoang thai của ông với những người phụ nữ mà ông từng chung chạ qua đường rồi những người đàn bà này, do một trở ngại nào đó, họ đã tự ý tìm cách phá thai, tức là họ đã nhẫn tâm giết chết đi chính những đứa con mang máu thịt của họ và của ông, cho nên chúng không có cơ hội chào đời. Điều tôi nói có đúng phần nào không vậy ông Phong?
Đầu óc Triệu Phong như được khơi dậy toàn bộ những gì đã qua với bao nhiêu con gái đàn bà trong thời dĩ vãng. Chưa lúc nào bằng lúc này, cõi lòng Triệu Phong như tiêu điều rũ liệt. Chàng cảm thấy thống khổ và hết sức ăn năn. Ngước đôi mắt u uẩn nhìn vị cao tăng như một sự van xin cứu giúp. Vị Sư già chậm rãi nói tiếp, giọng ông nhẹ nhàng thanh thoát như đang quyện trong lanø gió thoảng vi vu :
- Nói rằng chúng chỉ ở trong cửa tiệm của ông thì không đúng hẳn mà chúng thường quấn quít bên ông ở bất cứ chỗ nào có ông hiện diện, chúng đều lũ lượt kéo theo ông sát nút, cả đêm lẫn ngày. Chẳng hạn như ngay trong lúc này, tại đây, ông có một chút xíu cảm giác nào là đang có nhiều con trẻ bu ở chung quanh ông không vậy?
Nghe Sư Ông nói, Triệu Phong nổi hẳn da gà. Buổi chiều nắng chưa tắt hẳn nhưng chàng đã cảm thấy rờn rợn ở châu thân. Chàng khe khẽ lắc đầu, trong khi vị sư già bình thản giảng tiếp :
- Lũ trẻ đó chính là những đứa con vô hình của ông. Ông hiểu rồi chứ? Theo lề luật tự nhiên, tuy không được làm người, nhưng chúng cũng vẫn có khả năng khôn lớn theo thời gian. Chúng cũng có những xúc cảm và nhu cầu vật chất y hệt con người biết yêu thương oán hận, biết đói lạnh khổ đau, biết ganh tị sân si...Nghĩa là tâm trạng thường hằng của con người ra sao thì các oan hồn uổng tử, các cô hồn các đảng cũng diễn ra như vậy. Điều khốn khổ lớn nhất của những oan hồn này là không có con đường đi tới, cũng không có cơ hội được trở về.
Ngừng lại trong giây lát, vị sư già nói tiếp :
- Nhưng ông Phong có hiểu rõ qui luật tái sinh nhân qủa này không đã!
Ngước đôi mắt mệt mỏi nhìn vị sư già, Triệu Phong khe khẽ lắc đầu. Sư ông nhấp chút nước trà như để thấm giọng, sư ông nói tiếp :
- Dễ hiểu thôi ông Phong ạ! Tôi tạm thí dụ như thế này để ông đỡ thắc mắc. Âm giới cũng không khác mấy với dương gian. Khi một ông tư lệnh chỉ định một toán quân đi làm nhiệm vụ thì ông ta đã biết những quân nhân này là ai, họ sẽ đến nơi nào, rồi bao lâu họ sẽ được gọi về. Một linh hồn bên âm giới khi đã đủ phước báu để được tái sinh đi đầu thai nhận lại kiếp người. Sổ nhà trời đã ghi như vậy. Nhưng khi vừa được thụ thai, thay vì sẽ được hạ sanh như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác, thai nhi này bị phá đi, bị hủy hoại. Như vậy số phận của thai nhi đó sẽ đi về đâu nếu không phải là những oan hồn uổng tử? Đi chưa được đến nơi mà trở về thì chưa có thiên lệnh, con đường đã bị bịt kín lối, chúng sẽ hóa kiếp thành cái gì nếu không phải là các âm hồn tức tưởi nhận chịu lấy số phần oan khuất. Cho đến khi hội đủ âm đức do sự hồi hướng của nghiệp lực thì sẽ được hóa kiếp tái sanh! Nhưng công đức hồi hướng từ đâu mà có, nếu không phải là do chính tâm tu tập cùng với phước báu qui tụ từ thập loại chúng sinh lẫn những người có trách nhiệm khai sinh ra nó, tức là các người làm mẹ làm cha, cho dù thai nhi đã bị hủy đi, đứa trẻ không được cất tiếng chào đời.
Nghe đến đây, Triệu Phong khiếp sợ rùng mình. Chàng có cảm tưởng như vị sư già đã soi rọi đúng chân tướng lâu nay vì đời sống tâm linh hời hợt, chàng đã không hề quan tâm nghĩ tới. Triệu Phong ngắt lời vị sư già :
- Cúi xin Sư ông ban cho con một lời chỉ dạy để cho con còn có cơ hội sám hối ăn năn.
Sư ông nhìn Triệu Phong bằng đôi mắt thương xót hiền từ, ông nói :
- Con người thì nhân vô thập toàn, mấy ai có được duyên cơ để mà giác ngộ. Tội lỗi thì đã xảy ra, dù kẻ lầm lỗi chẳng qua cũng chỉ vô tình. Điều quan trọng là ta phải thành khẩn ăn năn và không cố tình tái phạm.
- Dạ!
Vị sư già đặt bàn tay tâm từ lên vai Triệu Phong như muốn truyền sang cho chàng lòng
yêu thương cùng sức mạnh thần bí :
- Chuyện đã dĩ lỡ, ông cũng đừng qúa chán nản bi quan. Thượng đế bao dung, Chúa Phật lúc nào cũng có sẵn đường đi để cho đàn con dại quay gót trở về, từ bỏ bến mê tục lụy. Ông hãy thành tâm sám hối. Rồi mọi sự đen tối sẽ qua đi.
Triệu Phong khẩn khoản van xin :
- Kính Bạch sư Ông chỉ dạy thêm cho con phải thực hiện những gì để con chuộc lại những điều đã vô tình vấp phải.
Sư Ông rót thêm chút nước trà đã nguội vào cái chung trước mặt, nhấp một ngụm nhỏ rồi nở nụ cười rạng rỡ như trẻ thơ :
- Tôi đã nói với ông rằng ông còn có nhiều phước báu, ông có biết vậy không? Phước báu là những điều lành điều thiện mà tự bản chất, ông đã đem đến cho mọi người ở chung quanh. Nếu chẳng may ông là một người đầy lòng sát sanh ti tiện, tham lam ích kỷ, quên nghĩa trọng tài, tôi e ông khó mà tránh được những hậu qủa bi thương chắc chắn sẽ sảy ra cho chính bản thân ông do các oan hồn hài nhi quay về tác loạn chứ không phải chỉ ở nơi những người thân quyến thương yêu.
Im lặng một lúc, Triệu Phong hỏi vị sư già:
- Kính Bạch sư Ông! Con thật tâm ăn năn sám hối. Từ nay con sẽ dốc lòng không còn vi phạm.
Vị sư già phá ra cười thành tiếng :
- Chưa đủ hẳn đâu ông ơi! Để chuộc lỗi, từ rày ông nên chú ý nhiều hơn đến vấn đề tu thân tích đức, kềm chế và từ bỏ mọi tham dục s6n si, lánh dữ làm lành và hãy ân cần bố thí cho thập loại chúng sinh. Còn nữa, ông hãy nhớ thực hành thêm những điều tôi sẽ căn dặn.
Triệu Phong nói như van xin :
- Kính xin sư ông dạy con phải thêm những gì?
- Dễ thôi ông ạ! Ngoài việc chuyên tâm ăn năn sám hối, ông cố nhớ lại đã có bao nhiêu lần ông là người gián tiếp góp phần vào những vụ phá thai. Bao nhiêu lần là bao nhiêu thai nhi đã bị hủy diệt sự sống, ông phải tìm cho chúng một con đường giải thoát, hòng giúp chúng siêu thăng tịnh độ để chúng khỏi mãi mãi là những oan vong không có đầu mối để trở về. Ông hiểu ý tôi rồi chứ?
Làm theo sự chỉ dạy của sư ông, Triệu Phong cố gắng ôn lại những đoạn đời dĩ vãng cùng những người đàn bà con gái dù có hay không có chút ân tình sâu đậm, đã hơn một lần cùng chàng vầy cuộc mây mưa, từ lúc lớn khôn cho đến bây giờ. Con số thật sự nhiều qúa, chàng không thể nào ghi nhớ trọn vẹn từng người, từng ngày từng tháng, đành âm thầm thực hiện những bài vị siêu nhiên, đặt cho mỗi bài vị một cái tên có mang họ của chàng rồi tập trung đem hết lên chùa, xin vị sư già tổ chức cho một buổi lễ, kêu gọi các sinh linh uổng tử từng là giọt máu của Triệu Phong về hết nơi đây để đêm ngày hưởng chút lộc vị hương nhang no đầy ấm áp đồng thời thường xuyên nghe lời kinh thuyết giảng để được hồi hướng tâm linh đợi đến ngày được siêu thăng siêu thoát, quên bỏ đi hết những oán hận hiềm thù quả báo với những người ruột thịt như Bạch Tuyết Hoa đã bị chúng trả thù cho đến khi phải chết khốn khổ đau thương, như Cô Christian Nguyễn, vốn là một thân tộc cùng mẹ khác cha, như đứa bé lên ba hoặc kỳ dư, cả với thập loại chúng sinh vô tội vô tình.
Thi hành xong các nghi thức tôn giáo, Triệu Phong quày quả trở về căn nhà tiện nghi thoắt nhiên biến thành hoang liêu hiu quạnh từ ngày Bạch Tuyết Hoa bị thảm sát thương tâm, dù trong tâm khảm của chàng, nỗi niềm ăn năn sám hối đã giúp chàng nghe như có nhiều phần thanh thản nhẹ nhàng.
Đột nhiên Triệu Phong nhận ra cuộc đời của chàng monh manh vô vị như một cuốn phim hiện thực quay nhanh không có chút gì được coi là miên viễn. Thực thực hư hư, còn đó mất đó chẳng chút lâu bền. Hạnh phúc hay khổ đau, cùng khổ hay sang giàu, thăng trầm hay vinh nhục cũng chỉ là những giả tạm trong lòng cuộc đời.
Chàng khóa trái cánh cửa nhà, từng bước chân chậm chạp trở lại trong xe, ngồi tần ngần trước vòng tay lái, ngước mặt nhìn lên bầu trời từ lúc nào đã ngập chìm vào trong đêm đen đầy những vì sao lấp lánh. Triệu Phong thở một hơi thật dài, chiếc xe vụt biến vào lòng đêm.
Từ đó, không có ai gặp lại Triệu Phong. Nghe đâu người đàn ông đào hoa thuở trước đã dốc tâm về an thân qui ẩn thầm lặng tại một thị xã gần phía chân núi, rất ít khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Hay là anh ta cũng đã hóa ra người thiên cổ cũng chẳng có ai hay.
HỒN CŨ TÌNH XƯA
(Phần 1)
Tự cổ chí kim, chưa cần so sánh đến phước hạnh khác biệt giữa hai phái nam và nữ. Khi một người đã được sinh ra với dung mạo nhân dáng vừa đẹp đẽ vừa sang giàu, lại vừa thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc, trâm anh thế phiệt, kín cổng cao tường đã là một điều ai ai cũng hằng mơ ước, ai ai cũng thường xem đó như một số mệnh hiếm hoi. Nhưng từ lúc chập chững vào đời với bao nhiêu vui buồn sướng khổ, biến đổi thăng trầm cho đến khi chiều tàn bóng xế, nằm xuống, Phải bó buộc gác lại những vô hạn của kiếp người. Chừng đó mới hay, số phần may rủi đích thực diễn ra trong đời sống của một con người.
Câu chuyện có thực người viết kể về một người con gái nhan sắc tuyệt trần, giàu sang phú qúi, trưởng thành trong một gia thế tiếng tăm lừng lẫy, thụ hưởng mọi ước vọng giàu sang phú qúi, đến tuổi trung niên phải đón nhận những hậu quả vô hình, cũng chỉ vì cô gái này không bao giờ quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, kiêu căng ngạo mạn và bản chất tham lam ái dục khác người.
Đối với một con người lúc sinh thời chỉ biết chú trọng tới phần phụng sự và phát triển vật chất thường hằng mà xem thường, xao lãng việc tu dưỡng, vun bồi cho lãnh vực đạo hạnh, vốn là điều vô cùng quan trọng và cần thiết lâu bền thì trái tim và tâm thức của họ sẽ không còn chỗ để cho phần đạo đức và tâm linh phát triển, ngự trị. Thân tâm tự nhiên trở nên ích kỷ, vô tích sự, ăn bám và chẳng thể tạo ra được lợi ích cụ thể nào cho bản thân, gia đình và xã hội ngoài việc ăn ngon mặc đẹp và ngụp lặn trong biển ái hồ tình...
Trúc Thanh - tên người con gái vừa đẹp lại vừa giàu sang quyền quí, luận theo tướng pháp, cô thuộc loại hồng diện ắt đa dâm, mắt phượng mày dài long lanh ắt tinh ranh đa trá, da thịt vừa mềm mại, vừa ưng ửng hưng phấn ắt là loại tướng mạo của phường phụ nữ phong trần, thích ăn ngon mặc đẹp, suốt đời chỉ mong muốn mọi người, nhất là những người khác phái cúi đầu phụng sự, không bao giờ nghĩ đến sự công bằng, tương trợ... Có thể nói, cuộc đời vật chất của cô quá lý tưởng lại thêm diện mạo đổ nước nghiêng thành, chim sa cá lặn của cô không chỉ là đối tượng thèm thuồng khao khát của các cô gái cùng độ trăng tròn, mà đối với hàng thanh niên nam tử thời đó, không chàng trai nào không nuôi giấc mộng rắp ranh bắn sẻ hoặc ngày đêm thầm mơ trộm ước được cùng cô chung khúc nhạc đời, cùng nắm tay tung tăng dập dìu dạo bước trong vườn xuân ngập tràn hoa bướm.
Cô là người đẹp nhất trong số năm chị em gái thuộc gia đình quyền thế uy danh, lại tài hoa văn hay chữ tốt, ngôn ngữ đối đáp lanh lợi, thông minh sâu sắc khác thường, chẳng những cô có trí tuệ rất bén nhạy, mưu mô quyền biến, vượt trội hẳn bốn chị em khác trong gia đình, cô còn là người sớm biết tận hưởng mọi lạc thú, sớm biết xử dụng nhan sắc của mình như một vũ khí sắc bén để chinh phục và sai khiến những người khác phái phải qụy lụy, luồn cúi răm rắp làm theo mọi ý muốn của mình.
Có điều, bên trong diện mạo cao sang đài các đó, tánh tình của cô kiêu ngạo và khắc nghiệt lạ thường. Cũng bởi mấy chị em của cô được sinh trưởng trong một gia đình khá giả, vừa đẹp vừa giỏi, được mọi người thân sơ luôn luôn chiều chuộng từ khi còn tấm bé cho nên các cô rất đỗi hống hách, miệt thị khinh người. Đến khi trưởng thành thì các cô, nổi bật nhất là Trúc Thanh, giống như cành cây đã quá thời có thể uốn nắn, từng tuổi đời khôn lớn, cô càng tỏ ra là một người tinh ranh quỷ quyệt và đầy rẫy tham vọng, từ tham vọng danh vị tiền tài cho đến những ước muốn nhục dục mà chính cô tự biết, chẳng có ai và cũng chẳng cách nào có thể thỏa mãn được những ước vọng ghê gớm luôn luôn sôi sục ngấm ngầm bên trong thể chất đầy sinh lực cuồng loạn của cô.
Đến tuổi cặp kê, mấy chị em của cô, người nào cũng đẹp đẽ nõn nường, lôi cuốn tấp nập đàn ong lũ bướm, các cô thường bàn bạc trao đổi cho nhau từng mưu thần chước quỷ chủ ý nhằm khuất phục đám thanh niên háo sắc đa tình để biến họ trở nên những con thiêu thân mù quáng, sẵn sàng dâng hiến đời trai làm nô lệ để cho các cô và nhất là Thanh Trúc lợi dụng trắng trợn và sai khiến thẳng tay. Cứ theo quan niệm dại khờ, tối tăm nông cạn, hẹp hòi và ích kỷ của các cô, thì người chồng tương lai do các cô chọn lựa để trao thân gởi phận, dù các cô có thật tình yêu thương hay chỉ kết hôn theo những mưu đồ đã được các cô an bài, hoạch định theo lý trí, đều phải hết lòng thần phục, đều phải cúc cung tận tụy làm thân nô lệ cho các cô để chiếm được chỗ đứng của một tình nhân hay là người chồng đầu ấp tay gối sau này.
Chính những điều này đã khiến xui cuộc sống tâm linh tình cảm của các cô, về lâu về dài, trở nên nghèo nàn cằn cỗi để rồi sau thời gian chìm ngập trong hương lửa mặn nồng của thuở ban đầu thơ mộng, người đàn ông chợt tỉnh mộng ái ân, từ từ nhận ra chân tướng yêu ma đáng sợ của người đàn bà xinh đẹp nhưng tâm hồn thì quá khó khăn khắc nghiệt, lại gian dối điêu ngoa, biết khôn khéo che đậy tất cả những ý đồ đen tối bên trong dáng vẻ đẹp đẽ dịu dàng, họ chẳng lưu luyến gì, vội vã tìm kế thoát thân để lại cho các cô một thực trạng bẽ bàng, niềm canh cô mồ quả từ đó đã đến chiếm ngụ đời sống các cô cho đến khi bước hẳn vào trong vòng tiêu tan khổ lụy từ lúc nào cũng không hề hay biết. Nếu không kịp thời tỉnh ngộ, thiếu chút nữa, có thể tiến thẳng đến chỗ tàn tạ phũ phàng.
Mười tám tuổi thông thường, tâm hồn các cô gái còn thơ ngây hồn nhiên mơ mộng, nhưng đối với cô gái trẻ đẹp Trúc Thanh đã tỏ lộ đầy lòng đam mê tham ái, cô dẫn dụ tình nhân, tự ý cho phép anh ta bẻ khóa động đào, chỉ đường dẫn lối cho "con ong am tỏ đường đi lối về". Từng đêm ngày lén lút vầy cuộc mây mưa, chìm đắm ngụp lặn trong biển ái sóng tình với một người thanh niên lớn hơn cô vài tuổi, nhưng trong thâm tâm, cô vẫn xem anh ta như một phương tiện chỉ để hưởng thụ giải khuây, một tên nô lệ không hơn không kém để cô sai phái và thỏa mãn dục tình. Trái lại, đối với tâm tình ngây thơ trong sáng của người thanh niên tên Đạt, Trúc Thanh là một thần tượng của mối tình đầu. Đạt tự cho rằng anh có được diễm phúc hơn người mới lọt được vào mắt xanh của cô tiểu thư diễm kiều và đồng điệu, tuy rằng cô ta có hơi khó tính, Đạt suy luận, cô ta đã chẳng chí tình tự ý dâng hiến trọn vẹn thân xác trinh nguyên cho anh khi tình yêu hai người mới vừa chớm nở? Cho nên Đạt xem đó như một bằng chứng đích thực của tình yêu, anh càng đem tâm quí trọng, thương yêu và chiều chuộng cô hết lòng không chút e dè suy nghĩ.
Đạt thường bộc lộ với Trúc Thanh :
- Em là người yêu lý tưởng của anh trong đời. Bất cứ điều gì làm cho em được vui lòng toại ý, anh cũng sẵn sàng, kể cả mạng sống của anh...
Nghe những lời yêu đương nồng nàn tha thiết của Đạt, trong dạ Trúc Thanh đã thừa hiểu, nhưng Trúc Thanh giả bộ hồn nhiên. Nàng kín đáo quay mặt để che dấu nụ cười vô cùng thâm độc :
- Anh nói thì phải nhớ lời, đừng có làm những gì khiến cho em phật ý, em sẽ giận cho coi... Em đã thương anh như thế nào, chắc anh đã rõ! Nếu không thì sao em lại dâng hiến cả cuộc đời con gái trong trắng cho anh?
Giọng nói Trúc Thanh êm ái thỏ thẻ như có sức chinh phục lạ thường, hồn phách Đạt lâng lâng bay bổng trong niềm hạnh phúc tràn trề của người con trai vừa tròn tuổi lớn. Đúng là Đạt "chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì".
Anh tự hứa với lòng, sẽ không bao giờ dám để cho Trúc Thanh bị phật ý, kể cả sự việc đã bao tháng dài liên tục chiều chuộng ý muốn Trúc Thanh, miệt mài trong thú giao hoan xác thịt đến bải hoải rã rời, anh vẫn không một lần dám cưỡng lại, chỉ biết dốc lòng thần phục Trúc Thanh. Đạt cho đó như một thể hiện, một cách tận hiến cho tình yêu, là hạnh phúc của cả hai người, đến nỗi thân thể Đạt dần dần khô cạn tinh lực, sắc diện ngày càng nhợt nhạt bơ phờ hiện rõ trên gương mặt của người con trai vốn đang ở tuổi tràn trề sức sống, điều đó, khiến Đạt, vì quá đỗi đam mê, anh cũng chàng màng! Bởi vì thâm tâm Đạt, anh thật lòng thật dạ yêu cô và anh đã tự nhủ, bất cứ lúc nào anh cũng có bổn phận phải thần phục, chiều theo mọi khao khát của người yêu. Đạt vẫn thầm mơ mộng, gắng sức làm vui lòng Trúc Thanh, chừng đợi ít năm, sau khi anh đỗ đạt thành tài, khi cả hai đã bước đến ngưỡng cửa trưởng thành thật sự, anh sẽ xin cha mẹ hai nhà tác hợp lương duyên để cho anh và Trúc Thanh được sống bên nhau hạnh phúc suốt đời, yên vui đến thuở đầu bạc răng long bên người vợ kiều diễm mà ai nấy cũng phải ao ước trầm trồ.
Nhưng cuộc đời và những khát vọng dục tình của Trúc Thanh vốn là một cái hồ sâu không có đáy, một đại dương vô hạn, cho dù anh có gắng sức và sẵn lòng hy sinh chiều theo mọi ước muốn của người yêu đến đâu đi nữa, thân xác và tinh thần của Đạt cũng chỉ là cái giới hạn nhỏ nhoi thường tình. Anh tự đem cái vô hạn nhỏ nhoi của bản thân trải ra trước cái vô hạn mênh mông của Trúc Thanh và của cuộc đời, thì có khác nào lấy cái không đem so với cái có, lấy cái hẹp mà ví với cái vô biên, giống như rất nhiều người không biết tự đo lường cân nhắc, nên chẳng bao lâu anh đã rước lấy thảm họa vào thân bằng sự ra đi vĩnh viễn của một kiếp người. Đạt bị kiệt lực, rồi vướng phải phải bệnh lao. Đáng lẽ, ngay khi phát hiện được điều này, Đạt phải biết cam lòng tự chế, tịnh dưỡng thuốc thang và xa lánh ngay các cuộc truy hoan tai hại. Nhưng vì đã quá mê man với tình yêu ban đầu ngập đầy thú tính, nên chẳng bao lâu, bịnh tình tiến đến giai đoạn nguy khịch sau cùng, anh bị ho ra máu nhiều lần, sức khỏe và tinh thần suy sụp nhanh chóng như một chiếc xe đổ trên triền dốc thẳng đứng, có muốn thắng lại cũng không kịp nữa rồi!
Anh nhắm mắt qua đời chết yểu trong khi người yêu Trúc Thanh của anh mới vừa tròn mười tám, vẫn nhởn nhơ chẳng chút tiếc thương. Trong ý nghĩ thầm kín của Trúc Thanh, nàng đã sắp đặt cho một cuộc tình mới, trong khi tâm tưởng của người con trai vắn số vẫn còn xây biết bao mộng đẹp, vẫn còn tha thiết yêu dấu Trúc Thanh, ngọn lửa tình ái vẫn còn long lanh nóng bỏng trong tâm hồn, và đành ngậm ngùi mang theo về bên kia thế giới. đạt giống như kẻ bị chết oan ...
*****
Như hàng triệu người tỵ nạn VN khác, Trúc Thanh lưu lạc nơi xứ người với những tháng năm vô định. Nhưng đối với nàng, Trúc Thanh không bỏ mặc thời gian, nàng biết khôn khéo xử dụng nhan sắc và những tinh ma của một người đàn bà đầy mưu sâu kế hiểm, biết lợi dụng đám đàn ông si tình lúc nào cũng vây quanh và sẵn sàng hết lòng cung phụng tiền bạc vật chất để nàng có một cuộc sống sung túc nhàn hạ hơn người, ngày đêm nàng nhởn nhơ hưởng thụ đời sống trăng hoa vật chất như một phụ nữ lắm bạc nhiều tiền.
Nhưng sau những tháng năm bồng bềnh dâu biển, trải qua la liệt nhiều mối tình cùng những ngày đêm chìm đắm trong trụy lạc giao hoan với hết người này đến người khác, đúng là một cách sống sa đọa, hoàn toàn dựa trên nhục dục, yêu cuồng sống vội, quên hết đạo lý tương lai, Trúc Thanh vẫn luôn ngùn ngụt một lòng kiêu ngạo, vẫn những tham vọng cùng cường độ khao khát của xác thân chẳng có dấu hiệu giảm bớt chút nào. Tuy nhiên, nàng có đủ khôn ngoan để biết rằng, đối với một người đàn bà đẹp sống đơn thuần một mình nơi xứ lạ quê người là một điều không ổn thỏa cho dù nàng có khéo léo ngụy trang che đậy cách mấy cũng khó mà tránh được những đàm tiếu dị nghị của những kẻ chung quanh, nhất là vào những năm tháng đầu tiên khi mới vừa đặt chân đến xứ sở này. Và nàng nhận ra, đã đến lúc Trúc Thanh phải tự xem xét lại đời tư của mình. Nàng thừa khôn ngoan để hiểu, nếu muốn che dấu những khát vọng dục tình lúc nào cũng sục sôi trong xác thân của người đàn bà sang trọng và đầy dâm đãng cần được luôn luôn thỏa mãn, chỉ có một cách hợp lý và dễ dàng nhất là kiếm một người đàn ông nào đó để núp bóng làm vợ chính thức của ông ta, rồi sau đó nàng tha hồ tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, nhất thiết, không cần phải quản ngại sự dèm pha.
Điều này, đối với một người đàn bà vừa trẻ trung vừa xinh đẹp, có dư thừa điều kiện lại lịch lãm như Trúc Thanh, quả là việc quá dễ dàng không phải chỉ đối với những người đàn ông tỵ nạn mà đời sống tình cảm tha hương vốn rất lênh đênh thiếu thốn, giống như đang sống giữa thời kỳ đổi đời "gạo châu củi quế", lúc nào cũng ước mong tìm được một người khác phái để ấp ủ thương yêu, mà với những điều kiện thuận lợi của Trúc Thanh, ngay cả với những người đàn ông thuộc thành phần các sắc dân khác, rất giàu sang phú quí, nếu muốn một cuộc phiêu lưu, Trúc Thanh cũng vẫn có thể chinh phục họ một cách dễ dàng. Nhưng nàng không dại gì chọn lựa đi vào con đường "đồng sàng dị mộng" đó với đầy những khác biệt ngôn ngữ, tập quán, thể chất ...
Thời gian lưu vong tỵ nạn qua đi kể cũng khá lâu rồi, ít gì cũng đã gần hai mươi năm có lẻ, khoảng thời gian dư đủ cho nàng và tất cả mọi người VN làm ăn sinh hoạt tại xứ này có thể nhận rõ chân tướng của một xã hội hiện sinh, của những người đàn ông nước ngoài, họ từng đã tôi luyện trong một bộ máy phồn vinh siêu tốc với tập quán cố hữu nhằm tận hưởng vật chất và tôn sùng chủ nghĩa cá nhân.
Từ những hiểu biết thấu đáo đó, trong quan hệ bạn hữu thân sơ với một số bạn hữu đồng phái tại xứ này, nàng đã chứng kiến và chia xẻ không ít những hồi chung cuộc của các mối quan hệ tình cảm, các cuộc hôn nhân dị chủng để rồi, sau những thực tế quá nhiều khác biệt cả về văn hóa lẫn thể chất, những người đàn bà đã nói, đành chọn lấy giải pháp sau cùng là trở lại với những gì thích hợp của quê hương với ước vọng "lá rụng về cội, ... về tắm ao nhà vẫn hơn...", họ sẵn sàng quay lại với những bình dị đáng quí và mang giá trị lâu bền của tình tự Việt Nam. Đã hiểu biết quá rõ như vậy rồi, tuy là một người đàn bà cuồng nhiệt và chủ trương ích kỷ cá nhân, Trúc Thanh cũng đâu dại gì ngụp lặn rong chơi trong bối cảnh dị biệt đó để có thể rước lấy những thảm họa, ít nhất cũng sẽ có những tác dụng không tốt đối với thể chất nhỏ bé của hàng phụ nữ Á đông!
Thật ra, ở những năm tháng đầu tiên nơi xứ người, vừa chạm mặt với những lôi cuốn rẫy đầy trong một đời sống hoàn toàn tự do đổi mới, vai trò và chỗ đứng của người phụ nữ được xưng tụng và rất mực tôn vinh - cho dù chỉ tôn vinh trên bình diện ngôn ngữ - thêm nữa, một số đàn ông VN chưa mấy thức thời, vẫn bám giữ lấy những tập quán sai lầm, chồng chúa vợ tôi, cá tánh lại hay khó chịu chấp nê, eo sèo, ghen tuông bóng gió lôi thôi, khiến cho quan niệm của những phụ nữ tân thời, đang nồng nhiệt hăm hở hội nhập và đón chào cuộc "cách mạng giải phóng" thường không được hoàn toàn toại ý, cho nên đã có một thời, Trúc Thanh nhắm mắt lao vào thử lửa cho biết đá biết vàng. Nhưng rồi sau chót, nàng thấy khó lòng "hội nhập" nổi với cung cách hưởng lạc thiếu bóng dáng tình cảm thương yêu, không có tương lai định hướng, với những lần hẹn hò ăn chơi chí mạng, phóng đãng đổi chác qua tay không để lại chút nghĩa ân tình, ngụp lặn thâu đêm suốt sáng để rồi mạnh ai nấy sống, mạnh người người đi... Nàng sực tỉnh, vội vã quay gót tạ từ, trở lại với những gì quen thuộc và rất đỗi Việt Nam.
Nhìn ngắm đời sống tỵ nạn rải rác chung quanh, giờ đây mọi cục diện đã khá vững vàng, người người thịnh vượng no cơm ấm áo. Nhưng đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Bản chất cần kiệm vốn là huyết thống được cha ông un đúc lưu truyền đã giúp cho mọi người tỵ nạn tuy không trở thành đại phú, cũng đạt đến hàng tiểu phú với một cuộc sống tươm tất đường hoàng. Duy chỉ có phần đời tình cảm, chỉ có phần đời tinh thần nặng về ân tình về nghĩa khí thì xem ra hiếm hoi thưa thớt. Vì thế, phía đàn ông, nhiều lúc rất "bấn" với việc tìm kiếm một người khác phái đúng với lòng kỳ vọng để mong cùng chung vai sát cánh xây đắp mộng uyên ương.
Biết bao nam nhi sang đây chí thú làm ăn, học hành thi cử đỗ đạt thành tài, bạc tiền trên thương trường hoặc danh vọng có thể kiếm ra, lâu năm góp lại hóa thành những anh tiểu phú do cần, nhưng về mặt đàn bà, thì tìm mãi vẫn chưa gặp được một người vừa ý, một ý trung nhân như trong mộng tưởng của đời mình. Có nghĩa là, đối tượng đầu tiên phải là ngưới đàn bà có ít nhiều nhan sắc, nhân dáng phải lịch duyệt thanh tao, có ăn có học đàng hoàng, từ trong nhà ra đến xã hội phải là người đàn bà toàn hảo, khiến cho mọi người ngưỡng vọng vì nể.
Thật ra, điều quan trọng nhất trong tâm tư phái nam là có được một người khác phái để mà ấp ủ thương yêu, để cho đời sống tâm tình khỏi cô đơn nguội lạnh, để mà chia xẻ nương tựa lẫn nhau. Hóa nên, đối với Trúc Thanh, nàng quả là một đối tượng then chốt mà hầu hết đàn ông đang dõi mắt kiếm tìm. Cho dù họ kiếm tìm với ý đồ trăng hoa bỡn cợt hay kiếm tìm với dụng ý chân thành cưới hỏi đem về để thương yêu phụng dưỡng như một báu vật trân quí thì hiển nhiên, nàng cũng đã khiến cho nhiều đấng đàn ông bao phen ngẩn ngơ mê mẩn với những giấc mộng vàng. Hóa nên, Trúc Thanh trở thành người phụ nữ đi tìm một người chồng "như ý" để ngụy trang. để mặc tình thi hành thao túng những bản ngã tham vọng cá nhân, chứ người đàn ông không thể áp đặt sự chọn lựa kiếm tìm đối với cá nhân một người tài sắc vẹn tòan như nàng.
Chẳng bao lâu sau khi có ý định như vậy, Trúc Thanh đã dễ dàng tìm ra đúng người chồng rập theo "khuôn mẫu" của nàng. Đối với sở trường cố hữu của người đàn bà khôn ngoan ngay từ buổi đầu đời mới lớn và nhiều kinh nghiệm sau những năm tháng thăng trầm, rõ ràng nàng là người thừa quyền năng chủ động. là người nắm chìa khóa mở cánh cửa lòng, sẵn sàng phất tay đưa người đàn ông này vào bẫy sập của lâu đài tình ái. Ông Phục, tên người đàn ông không biết là tốt số hay vô phước đã lọt được vào mắt xanh của Trúc Thanh. Ông góa vợ, lại là một doanh gia tăm tiếng thành đạt đương thời. Suốt cả cuộc đời của ông Phục, có lẽ chỉ có hai điều khiến cho ông quan tâm và cũng là điều khiến cho ông trở thành người có tiếng tăm nhiều nhất, đó là sự thành công tột bực trên thương trường với những chiêu thức kinh doanh khôn khéo biết nhìn xa thấy rộng và điều thứ hai sau này là tấm lòng sủng ái chiều chuộng và cung phụng Trúc Thanh đến độ gần như mù quáng dại khờ.
Bạn hữu của ông, có những người lọc lõi trên cả tình trường lẫn thương trường, không phải là đã không có lần nửa đùa nửa thật, nhắc nhở ông về những thủ đoạn thâm sâu bí hiểm của những người đàn bà đẹp thuộc tầng lớp của Trúc Thanh, nhưng ông chẳng quan tâm. Ông thản nhiên phớt lờ với ý nghĩ cho rằng đã là vợ chồng ưng thuận lấy nhau có hôn thơ hôn thú đầy đủ hợp pháp thì chẳng nên qúa đa nghi, hẹp hòi xét nét với nhau để mà làm gì. Vả chăng, Trúc Thanh, người vợ trẻ đẹp của ông, từ khi lấy nhau, bao năm tháng qua rồi, nàng đã chẳng từng tỏ rõ cốt cách khả ái chừng mực và rất nghiêm chỉnh đúng tư cách của một mệnh phụ là gì. Đâu có phải lúc nào ông cũng thường có mặt ở nhà với vợ. Đâu có phải quanh năm suóùt tháng ông lẩn quẩn làm ăn buôn bán chỉ ở trong đất Mỹ. Ông từng đã có những ngày tháng vì sự phát triển thương vụ, phải đi xa ra các nước bên ngoài. Có khi phải ở lại những nước này đến một vài tuần hoặc là một tháng, nào đã có chuyện gì? Bạn bè của ông thật là đám người lo xa mnhảm nhí! Có lúc nào, ngày đêm nào, ông và Trúc Thanh, vợ ông lại chẳng liên lạc mật thiết với nhau qua hệ thống điện thoại viễn liên y như lúc ông đang có mặt ở nhà.
Hơn ai hết, ông Phục cho rằng ông là người hiểu biết rất rõ tâm tánh cùng những sở thích riêng tư của vợ. Có sở thích nào của Trúc Thanh mà ông chưa hề nghe nàng chân tình thổ lộ. Có thói quen nào của nàng mà ông đã không từng một hoặc nhiều lần nhận ra. Trúc Thanh xinh đẹp quyền qúi, lại là vợ của một người tiếng tăm giàu có như ông cho nên nàng giống như một đóa hoa tươi mát, luôn cần đến những săn sóc đầy đủ dịu dàng trong một hoàn cảnh qúi phái riêng tư. Cuộc sống của nàng cần phải có những cung ứng dư dả cùng những uy quyền của một người đàn bà giàu sang phú quí. Nàng lại không phải loại đàn bà thích đến những nơi chốn ăn chơi hạ tiện, chung đụng với những chỗ đông người.
Khi ông có mặt ở Hoa Kỳ, ngoài những giờ tất bật điều hành nhân sự và các cơ sở kinh doanh, hoặc những dịp phải xã giao trà đình tửu hội, ông phải tham dự một mình vì Trúc Thanh không thích hiện diện tại những nơi huyên náo, nàng thích ở nhà hoặc đến những khu thương mại sang trọng để giết thời giờ, lúc tài xế đưa ông về nhà, một căn nhà khang trang biệt lập nằm trên một ngọn đồi soi hướng ra mặt biển trong một khu vực của giai cấp thượng lưu, là lúc Trúc Thanh tươi cười vồn vã hiện ra giữa khung cửa của ngôi biệt thự biệt lập nguy nga đồ sộ, nàng đón ông với một khuôn mặt tươi tỉnh hân hoan, một dáng dấp sang cả chừng mực vô cùng, khiến cho ông vừa hài lòng vừa hãnh diện, tự cho mình là người đào hoa tốt số. Vào những dịp ông Phục phải bay ra nước ngoài, đi "oversea" để đích thân ký kết các văn kiện thương mại thì như đã nói, tiện nghi truyền thông hiện đại tân kỳ, bất cứ lúc nào, kể cả trên phi cơ hay ngoài đại dương xa tít, cần chuyện vãn thăm nom, nhắc nhở lo lắng cho nhau chuyện gì, ông và vợ ông đều có thể thực hiện ngay lập tức và quá dễ dàng. Cho nên ông rất yên lòng ra đi mà chẳng có chút bận tâm nào cần phải quan ngại, kể cả mối bận tâm về việc săn sóc, hầu hạ chu đáo cho Trúc Thanh thì trong nhà cũng đã có thuê mướn riêng một người tài xế nữ và đầy đủ những người ăn kẻ làm. Chỉ cần nhẹ nhàng lên tiếng, mọi ý muốn, mọi sai khiến của Trúc Thanh phải được răm rắp thi hành.
Không có ai biết được rằng, đàng sau một cuộc sống yên lành và điều hòa vương giả, đằng sau những mẫu mực trung trinh của một người đàn bà xem ra đầy mực thước do tài ngụy trang khôn khéo của Trúc Thanh, không một ai có thể ngờ vực hoặc hay biết về đời sống tình dục rất thác loạn và sa đọa của nàng. Lẽ đương nhiên, ông Phục chồng nàng thì lại càng tin rằng Trúc Thanh, người vợ mà ông nhất mực tín cẩn thương yêu lại đã được ông ưu ái dành cho tất cả mọi ưu tiên cung phục vô cùng đầy đủ, kể cả về phương diện ái tình. Nàng đâu còn thiếu thốn thứ gì để mà thèm muốn điều nọ chuyện kia.
Phần Trúc Thanh, như đã diễn tả ở phần trên, nàng thuộc loại đàn bà khát dâm vô độ, tầm
cỡ như ông Phục, dù ông thường tự hào với khả năng sinh lý của một người đàn ông dạn dày kinh nghiệm, làm sao ông có thể hóa giải được những cơn khao khát thường xuyên của người vợ đa dâm. Với sự hiểu biết chưa đến độ tận cùng thấu đáo của một người đàn ông tuy từng tự hào về thể chất, về khả năng xác thịt cũng như về những mưu lược rất khôn khéo trên thương trường, làm sao ông Phục có thể ngờ được rằng mực độ ái ân mà ông đã tận tình đem lại cho Trúc Thanh, hợp chung với cả những phương thuốc cường dâm siêu đẳng của các danh y lừng lẫy, cũng vẫn chỉ đưa đến một khả năng tương đối với một bản chất khác thường như của Trúc Thanh. Vì vậy, ông Phục cho dẫu có thường phải đi vắng hay ở nhà thì con ma dâm loàn trong xác thân của người vợ ông hằng tin yêu cưng quí vẫn trỗi dậy như thường, nhưng ông làm sao hay biết.
Mà cũng không một ai có thể biết được rằng, Trúc Thanh lúc nào cũng đã tự khéo léo an bài một đời sống tình dục riêng tư theo một nhịp độ vô cùng trụy lạc, kể cả lúc nàng chưa nhận lời làm vợ ông Phục trước kia. Chỉ có điều, lấy ông rồi là Trúc Thanh đoạn tuyệt hẳn với những ngày đêm ngụp lặn trong bể dục với cả những người nước ngoài, lấy ông là một cách vô hình chung nàng biến ông thành một tấm bình phong hữu hiệu che phủ để cho nàng hưởng thụ tận cùng đời sống ái ân với những người đàn ông dù vô tình nhưng rất hoan hỉ rơi vào lưới bẫy để phục dịch cho nàng. Từ ngày chính thức làm vợ ông Phục, tiền bạc phương tiện có đủ trong tay, nàng đã nhiều lần kín đáo chung chạ mây mưa một lúc cả chồng, còn với hai người đàn ông khỏe mạnh khác.
HỒN CŨ TÌNH XƯA
(Phần 2)
Nàng sắp đặt riêng biệt và kín đáo cho Tấn với Cường - tên hai người tình phụ thuộc của Trúc Thanh - tiếng là người thuê nhà để ở nhưng kỳ thực hai người được đến ở khỏi phải trả tiền hàng tháng, mỗi người ở một nơi xa cách tại hai đơn vị gia cư khá sang trọng nằm rải rác trong những căn địa ốc đắt tiền do ông Phục mua đầu tư để đợi ngày lên giá đem ra tháo khoán thu lời. Phương cách làm ăn đầu tư vào đất đai địa sản, tiền đẻ ra tiền này, có lúc đã đem lại cho ông Phục những nguồn lợi tức đáng thèm chỉ trong thời gian dăm bảy tháng ngắn ngủi. Hai người đàn ông độc thân trung niên tên Tuấn và Cường cũng chẳng hề hay biết họ chỉ là một thứ tình nhân tạm bợ, đang là những tên nô lệ dục tình, lúc nào cũng phải cúc cung tận tụy và trung thành với người đàn bà ham hố, lại vô cùng tinh ma quỉ quyệt.
Thảng hoặc đôi khi, sau những phen ngụp lặn trong biển tình để phục vụ cho Trúc Thanh mãn nguyện, đã có lần người tình tên Tấn gợi ý với Trúc Thanh :
- Anh không biết chúng ta kéo dài cảnh yêu đương thầm lén này đến khi nào? Anh thật lòng yêu và rất bằng lòng cưới em làm vợ. Trúc Thanh, em nghĩ thế nào?
Trúc Thanh âu yếm bâng quơ trả lời :
- Sao anh cứ bận tâm mãi về chuyện này? Hoàn cảnh hiện thời của em, như anh đã biết, từ bỏ anh Phục để lấy anh, chúng ta sẽ được chính thức sống bên nhau, nhưng đời sống kinh tế sau đó sẽ như thế nào chắc anh cũng biết! Em không muốn phải nai lưng ra làm việc, còn anh thì mức lương chỉ xài cho riêng anh còn chưa đủ, biết lấy gì bao bọc cho em. Rồi chúng ta sẽ phải xoay trở ra sao? Theo em nghĩ, mọi việc hãy để từ từ cho em toan tính. Thế nào cũng sẽ có ngày chúng ta sống công khai hóa! Vả lại, anh không nhận thấy chúng ta có với nhau những ngày tháng hạnh phúc chan hòa trong điều kiện hoàn hảo như hiện nay là điều may mắn sao?
Tấn ngắt lời :
- Anh hiểu như vậy! Nhưng anh sợ mất em, anh vẫn ngại, sẽ có một ngày, ông Phục biết rõ chúng ta thậm thụt vụng trộm. Chừng đó, rồi anh sẽ phải xử sự ra sao? Anh không thể sống không có em trong đời.
Trúc Thanh bật cười lanh lảnh :
- Anh sao mãi lo chuyện bò trắng răng! Chuyện riêng tư giữa chúng mình chỉ có anh và em biết, anh không nói em không nói, ông Phục làm sao biết được để mà phản ứng nọ kia.
Nàng ranh mãnh bẹo má người tình :
- Bộ anh quên rằng, trong tâm tưởng của chồng em, ông Phục không khi nào dám nghĩ rằng người vợ thân yêu cao quí đức độ của ông ta lại đem thân xác ra hiến dâng cho người đàn ông khác, dù cho người đàn ông đó có là anh đi nữa... Anh nghĩ xem, có phải đúng như vậy hay không?
Trúc Thanh đánh trúng tim đen của người đàn ông si tình, lại cũng đầy lòng ích kỷ, muốn chiếm hữu Trúc Thanh một cách riêng rẽ lâu dài. Nàng vô cùng tinh ý, đoán biết được cả những ý đồ thầm kín nhất của anh ta. Trúc Thanh giả lả cho qua câu chuyện :
- Thôi anh! Nghĩ ngợi vẩn vơ để làm gì. Nghe lời em nhé! Chúng ta hãy cứ tận hưởng những giờ phút hạnh phúc bên nhau. Anh quên sao? "Mưa lúc nào mát mặt lúc bấy giờ", hơi sức đâu để cho những giờ phút của chúng ta bên nhau trở nên nhạt nhẽo vô vị...
Nói rồi, như thói thường, Trúc Thanh chủ động khêu gợi, đưa tâm hồn nhẹ dạ của Tấn thêm một lần đắm chìm vào cuộc ái ân bất tận.
Những lần khác, có khi vừa tạm biệt Tấn, Trúc Thanh âm thầm lái xe đến tiếp tục ngụp lặn vụng trộm với Cường, trong câu chuyện trao đổi giữa Trúc Thanh và Cường, có khi, cũng không đi ra ngoài các vụ thảo luận thường tình đó. Cường cũng nghĩ đến một ngày, anh không còn giữ mãi được Trúc Thanh, anh đề cập đến chuyện hợp thức, ăn đời ở kiếp với nhau thì Trúc Thanh dở ngay tuồng cũ ra áp dụng với Cường và nhẹ nhàng khéo léo đưa Cường rơi vào mê hồn trận.
Ngày tháng bình thản trôi đi. Trúc Thanh tiếp tục thủ diễn vai trò do nàng tự ý sắp đặt ra để hưởng lạc đồng thời che mắt những người chung quanh, dấu kín tất cả những khát vọng điên cuồng và ý đồ khinh rẻ người chồng lý tài cục mịch không thấu hiểu những cung cách ăn chơi giao hoan kiểu cách, cho dù đó chính là người đầu ấp tay gối, là ông Phụïc bên trong cái vỏ của một người đàn bà điềm đạm hiền hòa, khả phong tiết hạnh, gượng gạo sống trong tình yêu chân thật của người chồng chân chỉ hạt bột, chí thú làm ăn, cùng một lúc nàng giao hoan mật thiết thân xác với cả Tấn lẫn Cường...
Ấy vậy mà trong lòng của Trúc Thanh vẫn nuôi rẫy đầy mộng tưở, những mộng tưởng chỉ nhắm tới những chung cuộc mây mưa, miệt mài nô lệ cho thân xác không có bến bờ, không lúc nào vơi đi bao niềm khao khát...
Có lẽ chính bởi những lý do này, vô tình Trúc Thanh bị rơi vào một trạng huống giao hoan huyền bí. Bởi vì do lòng mộng tưởng xấu xa vô độ, những ước vọng thấp hèn của nàng đã trở thành môi trường thuận tiện thu hút mãnh lực tác động của cõi âm.
Tự nhiên ban đầu, bỗng có những đêm nàng chìm sâu trong cơn mộng mị, nàng thấy mình ân ái với người nào đó không bóng vô hình. Nhưng những cảm giác toàn thân thì tê dại khác thường và cực kỳ thống khoái, đem đến cho nàng những cuộc giao hoan vô tiền khoáng hậu, đã làm cho Trúc Thanh mãn nguyện hoàn toàn sau những giấc mơ nhục dục thầm kín từng sôi sục bấy lâu. Nàng sống trong hoang tưởng như một kẻ thoát hồn, không còn tâm trí để biết đâu là hư đâu là thực. Trúc Thanh trở nên lãnh đạm cả với chồng đã là một điều khiến cho ông Phục vô cùng kinh ngạc, ông âm thầm thắc mắc và cũng không biết được nguyên lý tại sao, bấy lâu trong quan hệ vợ chồng, luôn luôn ông nhận được từ Trúc Thanh tất cả niềm đam mê hưng phấn. Chẳng bù cho những lúc sau này, mỗi lần vợ chồng gẫn gũi, nàng đánh mất hẳn những cử chỉ cuồng nhiệt khi xưa, thụ động và rời rã, không tỏ chút dấu hiệu tận hưởng thân thương tha thiết gì.
Điều này, Trúc Thanh cũng lộ ra với cả hai người tình phụ. Nàng mất hẳn thái độ ân cần thăm viếng và giao tình với Tấn và Cường không giống lúc xưa, khiến cả hai đang miệt mài đều đặn vui hưởng thú ái ân, tuy cũng có khi ngao ngán đến rã rời, bỗng nhiên bị bỏ rơi, sống đơn lạnh chơi vơi nhớ nhung ngày đêm trong từng giây từng phút mà không biết tỏ lộ cùng ai, cũng không thể cùng ai để tìm hiểu tường tận ngọn nguồn...
Phần Trúc Thanh, quá rõ ràng, nàng say mê miệt mài sống trong vòng ái ân bất kể ngày đêm với kẻ vô hình với khả năng sinh lý có một không hai, vô cùng cuồng bạo. Lúc đầu, nàng mãn nguyện hài lòng. Nhưng lâu dần, dương lực tinh túy của nàng hao cạn đến mức độ nguy ngập. Con ma đói tình chừng như càng lúc càng tỏ ra khao khát lộng hành. Bất cứ lúc nào hắn cũng nghiến ngấu mê hoặc tâm thần, khiến cho Trúc Thanh không thể nào cưỡng chống lại được, đành phải hưởng ứng vầy cuộc ân ái. Có khi ngay giữa thanh thiên bạch nhật, có khi diễn ra ngay trên giường, bên cạnh và trước mắt ông Phục, chồng nàng.
Đã nhiều lần Trúc Thanh rên la lăn lộn, quằn quại trong dáng điệu và tư thế cực kỳ thống khoái của một kẻ đang trong tư thế giao hoan, nàng lăn lóc loạn đả ở trên giường đã là một hình ảnh cuồng loạn kỳ lạ, Trúc Thanh còn bị hất tung xuống dưới mặt thảm một cách cuồng bạo không thể ngờ. Và rồi, cứ sau một lần liên hồi kỳ tận như thế thì nàng ngã vật người ra, thở dốc trong trạng thái kiệt lực tận cùng, toàn thân ê ẩm đau đớn, đi còn không nổi, khiến cho ông Phục không thể bình tâm chứng kiến mãi cảnh vợ mình không dưng mơ mơ hồ hồ ái ân với người khuất mày dấu mặt. Nhưng ông cũng chẳng biết thổ lộ cùng ai, kịp đến khi Trúc Loan, cô em gái ruột của Trúc Thanh ghé nhà thăm vợ chồng anh chị, ông Phục mới đem chuyện này ra nói :
- Anh thật không thể hiểu tại sao trúc Thanh lại ra nông nỗi này! Nếu chúng ta không tìm ra biện pháp để cứu nàng kịp lúc, anh e có ngày chị của em sẽ bị kiệt lực mà chết...
Trúc Loan thừa biết tánh hoang dâm vô độ của chị mình, song nàng cũng chẳng ngờ được vì sao bỗng nhiên Trúc Thanh lại rơi vào thảm trạng đáng sợ như vậy. Nàng ghé tai nói nhỏ với người anh rể :
- Em tin chắc chị Trúc Thanh bị mắc bệnh tà, cứ nhìn sắc diện càng ngày càng sa sút, xanh mét như tàu lá, tia mắt lại lơ láo lạc thần, cũng đủ biết tinh thần và thể xác của chị ấy đang trong tình trạng nguy kịch. Chúng ta không thể chần chừ, phải cứu ngay cho chị ấy.
Ông Phục bối rối hỏi dồn :
- Nhưng cứu bằng cách nào? Tất cả các bác sĩ tây y tăm tiếng thân sơ anh biết đều đã đưa Trúc Thanh đến họ cả rồi. Anh đâu ngại ngùng sự tốn kém, cho dù đến đâu đi nữa, anh cũng sẵn sàng chạy thầy chạy thuốc cho Trúc Thanh. Nhưng không có ông bác sĩ nào tìm ra căn bệnh của nàng, mỗi lần đưa Trúc Thanh đến các phòng mạch trở về, quanh đi quẩn lại cũng chỉ toàn những toa thuốc an thần hoặc đại bổ. Uống mãi mà nào có biến chuyển gì đâu.
Trúc Loan quả quyết ngắt lời người anh rể :
- Ngay ngày mai, em sẽ trở lại để cùng anh đưa chị Trúc Thanh đến một nơi có các vị đạo sĩ pháp thuật chuyên môn cao cường, các vị này thường chuyên trị các chứng bệnh nghiệt ngã do cõi âm tác hại.
Ông Phục riu ríu đồng tình :
- Em tính sao anh cũng ưng thuận. Về điểm này, anh hoàn toàn mù tịt, chẳng biết trời trăng ất giáp gì cả, miễn làm sao cứu được chị Trúc Thanh trở lại bình thường như xưa thì dẫu tốn kém bao nhiêu anh cũng chẳng tiếc!
Ngày hôm sau Trúc Loan trở lại phụ lực với anh rể đưa chị đến gặp vị đạo sĩ mà nàng đã nhắc đến hôm qua. Lúc tới nơi, điệu bộ và cung cách của Trúc Loan thoắt nhiên biến đổi lạ thường. Tự nhiên thái độ cùng ngôn ngữ của nàng cho mọi người thấy nàng đã biến thành một người đàn ông xa lạ, nhưng hiện tượng này đối với nhãn quan của vị đạo sĩ cao sâu, ông nhận biết ngay Trúc Loan đã bị một vong linh nào đó vừa mượn xác của nàng nhập vào. Vị đạo sĩ không cần mất thời gian tìm hiểu, ông nghiêm nghị nói với vong hồn vừa chiếm cứ xác thân của người con gái :
- Anh là ai? Vì nguyên cớ tại sao lại trú vong trong xác thân của người con gái này? Nếu anh có điều gì oan khiên cần giải quyết, hãy tự tiện giải bày.
Hồn ma ú ớ hồi lâu trong cổ họng, nhưng hắn có gắng sức, cũng không thể nói ra thành lời, do kinh nghiệm sẵn có, vị đạo sĩ biết rằng âm lực của con ma không đủ mạnh để có thể diễn tả qua ngôn ngữ bình thường nếu không cấp cho hắn linh phù để trợ lực. Ông đốt một thẻ nhang, chậm rãi làm phép khai khẩu một hồi thì hồn ma trong xác thân của Trúc Loan bật ra được thành tiếng nói, lúc đầu còn ấp úng trong cổ họng, hồi sau, đã có thể đối đáp trơn tru mạch lạc sau khi vị đạo sĩ giúp hắn khai khẩu bằng cách nhắc hắn niệm 3 lần "Nam Mô A Di Đà Phật" và "Nam Mô Quan Thế Aâm Bồ Tát". Vong linh bắt đầu khai báo :
- Tôi tên Hùynh Hữu Đạt, là người yêu đầu tiên của người đàn bà tên Trúc Thanh này. Tôi đã chết cách đây lâu lắm rồi, lúc người đàn bà này còn là một cô gái mới vừa 18 tuổi. Tôi rất yêu thương cô ấy và ngược lại, cô ấy cũng yêu tôi. Chúng tôi đã có những chung đụng ân ái mặn nồng. Nhưng vì bản chất cô ta hoang dâm vô độ, ngày đêm lôi kéo tôi ngụp lặn tận hưởng dục tình, khiến cho tôi bị hao mòn sức khỏe đến lâm bệnh nặng mà chết một cách chẳng tiếc thương. Tôi chết đi trong khi lòng luyến ái cô ta vẫn còn mãnh liệt dạt dào. Vì như vậy, nên tôi không đi đầu thai được và vẫn luôn quấn quít bên cạnh cô ta cả đêm lẫn ngày trong suốt những năm tháng đã qua với tấm tình yêu thương da diết.
Đáng lẽ, tôi chỉ có thể theo đuổi mà không được bề trên cho phép quấy nhiễu cô ta hoặc hãm hại. Nhưng càng lúc cô ta càng lún sâu vào những khát vọng thể xác thấp hèn với hết người đàn ông này đến người đàn ông khác, không còn biết phải quấy hoặc đạo lý luân thường. Thậm chí, đến việc cô ta chọn lấy ông này (vong linh chỉ vào ông Phục) cũng chỉ là cách dùng ông ta cũng như của cải do ông ta kiếm được để làm bình phong và phương tiện để cô ta thuận tiện bày binh bố trận tận hưởng thú xác thịt đêm ngày. Thật là quá quắt...
Vị đạo sĩ thong thả ngắt lời :
- Có phải vì như vậy mà ngươi cố tình trở về quấy phá, quyết hành hạ cô ta cho đến khi cô ta phải chết?
- Điều đó không sai! Ông cũng biết, những âm vong như chúng tôi đâu có phải muốn làm hại ai thì làm. Chúng tôi luôn luôn bị chi phối theo qui luật vô cùng nghiêm ngặt của âm giới. Nhưng ông thử nghĩ xem, tội lỗi hoang dâm kiêu kỳ vô độ của cô ta cao đến ngất trời. Bề trên không thể nào mãi bao dung tha thứ, chỉ có hại thêm cho cô ta, nên tôi mới được phép tác hại hoành hành. Cô ta thật đáng lãnh nhận những hình phạt thảm thương.
- Đành rằng như vậy, nhưng hiện giờ cô ta đã lấy chồng, ít hay nhiều cô ta cũng có những bổn phận. Những lỗi lầm khi xưa có thể cô ta đang dần dần ăn năn hối cải.
Vị đạo sĩ vừa nói đến đây, hồn ma trong thân xác Trúc Loan lồng lên như vừa bị chạm nọc bất bình. Đôi mắt Trúc Loan đỏ ngầu, long lên sòng sọc, hồn ma hung hãn nói với vị pháp sư :
- Ông cho rằng cô ta đang cải tà qui chánh, biết ăn năn hối cải? Ông đâu có biết, cô ta lấy ông chồng này chẳng qua chỉ làm một bức bình phong để che dấu những thủ đoạn đê tiện dâm loàn. Thực tế, hiện nay cô ta còng đang lang chạ với thêm hai người nữa, một người tên Tấn, kẻ kia tên Cường. Hai người này đang được cô ta bao che đùm bọc, cho ở không tại các địa chỉ này. Hồn ma thì thầm bên tai vị pháp sư to nhỏ, hắn cho biết rõ ràng rành mạch chỗ cư ngụ cùng những chi tiết thầm kín của những người trong cuộc, đoạn hồn ma bực dọc phân trần :
- Đó! Ông biết đó! Cô ta sẽ còn tiếp tục chìm sâu trong nhục dục cho đến bao giờ? Có thể nói, đối với người đàn bà hoang dại này, không biết thế nào mới là tạm đủ. Cô ta giống như một giếng sâu không có đáy, một đóa hoa mọc ở giữa cánh đồng, ai muốn ngắt cũng được. Ngay cả ông, nếu muốn, ông cũng có thể chiếm đoạt cô ta một cách dễ dàng...
Vị pháp sư nhân hòa tỏ ra cảm thông, ông không lấy gì làm bất ý trước sự bực dọc và lối ví von có tánh xúc phạm vừa qua. Oâng nói với hồn ma tên Đạt như đang chuyện vãn với một kẻ gần gũi thân tình :
- Cô ta chịu đựng như vầy tưởng cũng đã quá đủ. Ngươi nên lấy lòng thương xót mà bỏ quá cho cô ta, để cho cô ta có cơ hội quay lại con đường trung trinh chân chính của một người vợ, một người đàn bà bình thường.
Hồn ma không cần che dấu vẻ ái ngại :
- Ông nói thì tôi xin nghe. Ông ra lệnh thì tôi phải rời xa cô ấy, nhưng lấy gì để bảo đảm rằng cô ta sẽ biết thực sự ăn năn?
Vị đạo sĩ ôn tồn :
- Tôi có thể đoan chắc với anh, cô ta sẽ phải chấp thuận cải tà qui chánh. Bù lại, anh cũng phải hứa từ nay không còn ra tay bức hại cô ta thêm nữa. Anh cứ tin vào lời tôi hứa với anh kể từ giây phút này.
Hồn ma gật đầu ưng thuận tức thì. Thoắt chốc, Trúc Loan choàng mắt, trở lại tỉnh táo như thường. Lúc bấy giờ vị đạo sĩ mới trở ra trò chuyện với Trúc Thanh nãy giờ nằm im lìm ở một chỗ khác, người đàn bà đang bị hồn ma bách hại tỏ ra mệt nhọc và đau đớn khác thường. Vị đạo sĩ nói với cô ta :
- Cô có biết vì sao cô trở nên nông nỗi này?
Trúc Thanh giữ thái độ lặng yên trong khi vị đại sĩ tiếp lời :
- Nếu cô có những vấn đề nan giải nào xin cô cho chúng tôi biết. Chúng tôi chỉ có một ước muốn là giúp đỡ cô tìm trở lại trạng thái bình thường..
Đã đến nước này mà Trúc Thanh vẫn một mực cố tình che dấu, không chịu tiết lộ bất cứ điều gì với vị pháp sư khiến cho ông không muốn phải nghe những lời dấu diếm quanh co của nàng. Oâng nói rành mạch cho Trúc Thanh biết tình trạng lang chạ giữa nàng với hai người thanh niên tên Cường và Tấn cùng với địa chỉ cư ngụ rõ rệt chẳng sót một mảy may. Ông kết luận rõ ràng :
- Nếu cô cứ tiếp tục dấu diếm, thì chẳng ai có thể giúp đỡ cô được điều gì. Vả lại, chúng tôi đã thấu hiểu tường tận mọi chi tiết và đầu đuôi câu chuyện. Chúng tôi chỉ mong cô tận tâm cải thiện, thành tâm sám hối, tu chỉnh đời sống mực thước một vợ một chồng và đừng bao giờ còn giữ thái độ khinh khi miệt thị người chồng mà cô đã tự ý chấp nhận làm vợ của ông ấy. Cô có toàn quyền suy nghĩ vì cớ gì tà ma có thể chọn cô mà quấy phá hoành hành, trong khi bao nhiêu người khác không hề vướng phải. Cô có biết tại sao không? Tại vì cô không biết tôn trọng người chồng, thật ra ông ta là người có nhiều phước đức cho cô an hưởng mà cô không biết đó thôi. Chính vì cô có cuộc sống buông thả hoang đàng cho nên cõi âm người ta mới được phép chọn cô để hoành hành quấy phá.
Từ nay, mọi chuyện đã dĩ lỡ và tỏ lộ như ban ngày, cô cũng nên bình tâm suy xét, nếu cô biết tự chế ngự, sám hối và ăn năn thì chúng tôi bảo đảm cô sẽ không còn bị cõi âm chi phối như đã hành hạ cô đến độ đau đớn vô cùng như cô đã từng chịu đựng vừa qua. Nếu không, kể cả mạng sống của cô, chẳng bao lâu, không ai có thể quả quyết sẽ bảo vệ được hoàn toàn.
Trúc Thanh bấy giờ mới chịu thú nhận mọi việc cho đến khi nhắc đến cái chết cận kề, nàng mới hốt hoảng cúi đầu ăn năn sám hối, đồng thời nàng còn hứa hẹn giữ giới để tu sửa tâm thân.
Từ đó trở đi, để thực hành các điều đã hứa để tự cứu mình, Trúc Thanh đoạn tuyệt hẳn với các mối vụng trộm xác thịt dây dưa, nàng cương quyết đoạn giao và quên hẳn hai người thanh niên tên Tấn và Cường, nàng ra công tập tành ăn uống có chừng mức để chay tịnh giữ giới, dần dần gội rửa tất cả các thói tánh miệt thị kiêu căng, nhất là sự ngầm ngầm coi rẻ người chồng. Chẳng bao lâu Trúc Thanh hồi phục lại thể chất mạnh khỏe hồng hào, nhìn lại cuộc đời với một cái nhìn hoàn toàn êm đềm trong sáng và ông Phục thật mừng rỡ vì đã tìm lại được đích thực hạnh phúc vợ chồng mà đã có lúc ông nghĩ rằng đã đến hồi có cơ tan vỡ...
Nói thêm về một giai thoại thật éo le tréo cẳng ngỗng xảy ra sau đó của một trong hai người thanh niên vốn đã vụng trộm cùng Trúc Thanh trao đổi ân tình. Người thanh niên tên Tấn, không biết do ai đưa lối dẫn đường, vào một ngày nọ, anh ta cũng tìm đến với chính vị pháp sư đã hơn một lần cứu giúp Trúc Thanh thoát khỏi cơn khổ ải mà Tấn không hề hay biết. Anh bày tỏ với vị pháp sư :
- Tôi đang bị mất người yêu. Tôi vốn yêu cô ấy chân tình, nhưng bỗng dưng cô ta bỏ tôi một mình rồi biến dạng. Tôi ngờ rằng có kẻ nào đó đã dùng bùa chú mê hoặc cô ta, đến nỗi cô ta bỏ rơi tôi không một lý do chính đáng hoặc một câu nói giã từ. Cầu mong ông giúp tôi tìm lại được nàng. Tôi sẽ không thể sống được nếu trong đời tôi không có bóng hình của Trúc Thanh bên cạnh.
Nghe thanh niên tên Tấn đến tỏ mối tơ lòng và xin giúp cho nàng đem tình yêu trở về bên anh vui sống. Vì đã biết rõ mọi sự tình, vị pháp sư không khỏi bật cười. Ông đành nói cho người thanh niên tên Tấn hiểu rõ tất cả đầu đuôi câu chuyện rồi ân cần khuyên nhủ anh ta :
- Tình yêu giữa anh với một người đàn bà đã yên bề gia thất như người đàn bà này là một việc không thể xảy ra. Trước đây trong tâm tưởng của anh còn quá si mê nên chưa nhìn ra được điều ngay lẽ phải, nay anh đã biết tất cả mọi việc xảy đến cho nàng. Nếu cả hai hay ba người đều ngoan cường, không chịu ăn năn sám hối, giữ giới giữ đạo làm người, chúng tôi e cả ba người sẽ còn có ngày gặp nạn. Chừng đó thì ai sẽ có uy quyền giúp đỡ các người thoát được những oan khiên nghiệp qủa. Anh hãy nhớ đến lời khuyên này để mong mưu tìm một cuộc sống yên hàn an lạc là đừng bao giờ manh tâm chiếm đoạt vợ người. Phá hoại gia cang nhà người thì chính cuộc đời của người phá hoại sẽ lâm vào con đường tự diệt...
Vị pháp sư nhân ái khuyên can phủ dụ Tấn cho đến khi anh ta thấu hiểu mọi bề. Tấn cúi đầu thi lễ, ra về với một tâm tư an hòa trong sáng khác xưa.
Từ đó, vợ chồng ông Phục yên ổn sống trong an lạc hạnh phúc tràn trề. Trúc Thanh, chừng như thấu hiểu tường tận ý nghĩa cuộc sống chừng mực thanh cao, nàng tập tành cách sống mực thước bình dị, gìn giữ giới luật và tình cảm thủy chung một vợ một chồng, nên đã tự hóa giải được toàn bộ nghiệp lực nặng nề năm nào. Câu chuyện hồn cũ tình xưa quay về tác đáng là một bài học siêu hình có thực để cho những ai còn nặng lòng si mê ái dục nên bình tâm suy xét.
Luân Hồi
Sống trên đất Mỹ đã sáu bảy năm nhưng Chị Sương vẫn chưa thể nào bước chân ra khỏi hoàn cảnh khó khăn của một người tỵ nạn vẫn còn đang đối đầu với rất nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống hàng ngày.
Chị là một thiếu phụ nhan sắc, có học lực trung bình cùng với năng khiếu về thi ca âm nhạc, chị có thể xử dụng đàn guitar lẫn dương cầm thành thạo, tánh tình lại dễ thương hiền hậu, nết ăn ở cư xử có chừng mực và thuận thảo với hầu hết những người chung quanh, chị được mọi người cảm mến. Nhưng đời sống nội tâm của chị lại là một chuỗi dài với những khúc quanh truân chuyên dang dở đầy những muộn phiền. Anh Quang, người chồng chính thức của chị đã đến đất này vào những năm tháng đầu tiên của thời kỳ mất nước, để lại người vợ trẻ là chị Sương chung sống với một người em gái ruột bị bệnh bại liệt của chị, còn trong tuổi vị thành niên ở lại Sài Gòn.
Thư qua tin lại, cùng những qùa cáp cấp dưỡng tiền bạc đều đặn được anh Quang lo lắng chu toàn đầy đủ trong nhiều năm tháng dài. Và, ngay cả việc bảo lãnh cho chị Sương và đứa em gái nhỏ tàn tật của chị sang Mỹ cũng được anh Quang làm tròn bổn phận.
Ngày hai chị em chị Sương còn đứng tần ngần bịn rịn ở ngưỡng cửa chiếc phi cơ hàng không dân dụng Việt Nam đậu trong phi trường Tân Sơn Nhất để đưa hai chị em chị ra nước ngoài. Chị quay mặt rưng rưng xao xuyến bồi hồi nhìn lại lần cuối cùng khung trời cố hương rồi đưa tay vẫy chào đám người thân thuộc đi đưa tiễn lần cuối, chị Sương và cô em gái những tưởng, từ đây, hai chị em của chị sẽ vĩnh viễn chấm dứt những năm tháng đợi mong âu lo muộn phiền và sắp sửa bước qua ngưỡng cửa của trần gian để đi đến một vùng trời khác, nơi hứa hẹn có một đời sống thiên đường, có tình yêu chồng vợ sau bao tháng năm xa cách với ngày đoàn tụ trong hương lửa mặn nồng, có một đời sống tiện nghi vật chất dư thừa, phồn thịnh an vui và, nhất là có tự do đích thực, không còn phải kéo lê những tháng năm ngậm ngùi đơn lẻ, tù túng trong một xã hội mà chị tưởng như một nơi chốn cùng cực đọa đày để nuôi thân, để thuốc thang chữa chạy cho đứa em gái xấu số.
Gặp lại được người chồng trên xứ lạ nhưng là với một thực tế cay đắng phũ phàng, thiếu chút nữa, chị đã tìm đến cái chết để kết liễu cuộc đời khi chị nghe anh Quang cho biết, anh đã có vợ khác ở đây sau ít năm đầu tiên tha hương, anh sống lủi thủi cô đơn lưu lạc nơi xứ người. Anh Quang thành khẩn mong chị hiểu và tha thứ cho hoàn cảnh đang rất khó xử của anh.
Chị Sương bật khóc nghẹn ngào như kẻ mất hồn rồi tự trấn tỉnh, cúi đầu chấp nhận một thực tế cay đắng bẽ bàng. Chị vận dụng tất cả nghị lực để nhận chịu một quyết định phũ phàng và cam tâm vĩnh biệt người chồng với biết bao yêu thương hy vọng để sẵn sàng đối diện với dòng đời mới chênh vênh đang chực chờ ở trước mặt.
Vậy mà, thời gian thấm thoát trôi nhanh như nước chảy qua cầu, chị với Hương, cô em gái bại liệt đã sống ở Mỹ sáu bảy năm nhanh chóng với nỗi niềm thất vọng muộn phiền trong khi cô em gái nay đang bước dần tới ngưỡng cửa trưởng thành, cho nên, chị biết rất rõ rệt, chị không thể thủ phận mãi như thế này với số tiền cấp dưỡng khiêm nhượng của sở xã hội chỉ dành cho cô em gái tàn phế đáng thương.
Chị cần phải có công ăn việc làm chắc chắn bền bỉ lâu dài, hai chị em của chị cần đặt chân vào nấc thang thăng tiến, cần có một đời sống bảo đảm tươm tất hơn tình trạng giật gấu vá vai, thu vén chật vật như hiện giờ. Chị cắn răng gác bỏ tất cả những xô đẩy thúc bách của cuộc sống hàng ngày và ngay cả những mối manh săn đuổi, chinh phục của các đấng mày râu đa tình khi họ thấy chị còn rất trẻ đẹp, lại sống chịu đựng lủi thủi một thân một mình để vùi đầu vào việc lo lắng cho cô em gái nhỏ và chị tự học hành lấy được một mảnh bằng y tá để kỳ vọng sẽ kiếm được một công việc làm.
Bổn phận của chị Sương là từng ngày, đúng giờ giấc, đến trông nom săn sóc cho một cụ ông gia cảnh giàu có con cháu đông đảo thành đạt đáng kể, cụ bị chứng bệnh nghễng ngãng, dở hơi, đôi mắt lúc nào cũng như thất thần ngây dại, tuổi tác của cụ đã già mà chưa một ai, kể cả các con các cháu thân thuộc ở trong gia đình được cụ bằng lòng cho đến gần để họ có thể hầu hạ chén cơm ly thuốc, săn sóc cái ăn cái mặc cho cụ hàng ngày.
Ngày đầu tiên bước vào trong khu nhà đồ sộ nguy nga này để được người quản gia đứng tuổi dẫn đến một căn phòng là nơi chốn riêng biệt do đám con cháu trong nhà dành riêng cho ông cụ, chị Sương đã như muốn nghẹt thở với mùi hôi hám rất khó chịu. Về phần bệnh nhân là ông cụ thì than ôi! Thật hết cách mô tả, cụ ông ăn mặc quần áo dơ bẩn nhàu nát lôi thôi, đôi mắt lúc nào cũng long lên, ngây dại lạc thần. Toàn thể căn phòng tỏa ra một mùi hôi tanh không thể nào chịu được, khiến cho chị Sương bủn rủn cả người và phải tháo chạy đến phòng vệ sinh để mửa ra thốc tháo.
Viên quản gia và đám con cháu có tác phong đàng hoàng đĩnh đạc của ông cụ trong nhà chừng như hiểu biết qúa rõ về những điều tệ hại mà chị Sương đang phân vân chưa thể quyết định. Họ hết lời van lơn thuyết phục và đối đãi với chị Sương bằng tất cả tấm lòng hậu hĩnh với một mức lương ngoại lệ đưa ra để hậu đãi chị mà, chị Sương biết rằng, ở Mỹ này, tìm được một mức lương và thời khóa biểu làm việc linh động tự do như vậy không phải là việc dễ dàng, ngay cả đối với những người đã đi làm thâm niên có bằng cấp lớn, cũng khó mà có được, trong khi, chị em chị Sương lại rất cần tiền. Chị quyết định nhận việc và kiên nhẫn tìm tất cả mọi phương cách để khuất phục cho được ông cụ già nhà giàu mắc bệnh ngớ ngẩn, không chịu vâng lời.
Việc làm của chị Sương thật qúa vất vả như thông lệ, thật đáng đồng tiền bát gạo mà đám con cháu trong gia đình ông cụ đã bỏ ra mướn chị, nó đòi hỏi một sức chịu đựng kiên nhẫn phi thường trước một người già không còn thuần tính, không chịu nghe theo những sự chỉ bảo và vâng lời, lại thường hay nổi cơn điên khùng bất chợt. Nếu không vì mưu cầu cho đời sống mới với tương lai cấp bách của đứa em gái, chị Sương thà chết, cũng không thèm đảm nhận một việc làm kinh khiếp này. Nghĩ đi nghĩ lại rồi cuối cùng, chị Sương quyết định làm công việc săn sóc, hầu hạ ông cụ già khó nết, ngẩn ngơ, bằng tất cả thiện chí cùng sự siêng năng. Nhờ vậy, sau đó mọi việc đều được cải thiện dần dần.
Mãi về sau này, chị Sương mới may mắn tìm ra cơ hội để biết rằng giữa chị với ông cụ già bệnh hoạn kia cùng với những mối nhân duyên khác với chồng, với cô em gái, với ông cụ già bệnh hoạn..., đã có những liên hệ hết sức chặt chẽ từ những dòng tiền kiếp luân hồi.
*****
Từ tiền kiếp đã qua, chị Sương vốn là một người công bộc chung thủy trong một gia đình nhà giàu, chị cũng có một cô con gái mà ở trong kiếp này, cô ta đang trở thành cô em gái nhỏ tàn tật của chị Sương.
Thuở ấy xa xưa, giai cấp giữa hai người này ở kiếp trước, tuy ở hai giai cấp khác biệt tớ chủ, nhưng qua mối quan hệ đồng trang lứa, cô Thu và anh Thức ở kiếp trước vốn là hai anh em ruột trong gia đình nhà giàu đó.
Tánh tình của hai anh em Thu với Thức đều là hai người tốt bụng, riêng có chút cá tánh ích kỷ, ganh tị hẹp hòi. Vì rằng thường thường, con gái nhà giàu nếu không được giáo dục nghiêm minh cẩn thận, thường hay kiêu kỳ bác bậc và khinh bỉ những kẻ tật nguyền. Thu thường nhẫn tâm hành hạ và chế nhạo những kẻ mù lòa hoặc què quặt tàn phế. Vào thời kỳ tháng ba năm Ất Dậu với nạn đói kém khi xưa, những kẻ thiếu thốn áo cơm đã bị chết đói chết lạnh đầy đường. Chị Sương đối với Thu, tuy là người ăn người ở, nhưng tuổi tác sàn sàn như nhau, cho nên cũng có những khi chị kết bạn thân thiết chơi đùa với cả hai người. Họ trở nên gần gũi với nhau như những kẻ ruột thịt một nhà. Chị Sương cũng được cha mẹ của Thu và Tuấn đối xử bình đẳng thương yêu.
Vì tánh hạnh của chị Sương ở tiền kiếp chăm chỉ hiền lạnh như vậy, cho nên chị được vợ chồng người chủ, tức là cha mẹ của Thu trong kiếp trước tỏ lòng thương yêu, đối xử vả thương mến chị chẳng khác họ đối xử với người gái con ruột, cho nên, dù hai người chơi thân với nhau, nhưng trong thâm tâm, Thu vẫn ngấm ngầm ghen tức.
Đến lúc cả hai đã trở thành những thiếu nữ trưởng thành, chị Sương (kiếp trước) được một chàng trai khôi ngô tuấn tú đem lòng thương yêu, trong khi Thu cũng thầm yêu trộm nhớ người thanh niên ấy đã lâu. Khi biết được rằng người con trai kia đã đặt hết tình yêu dành cho chị Sương thì Thu không dằn được lòng ghen hận, một hôm Thu đang đang quanh quẩn chơi đâu đo trong lúc chị Sương (vốn là người ở gái của gia đình Thu trong tiền kiếp) đang lúi húi đứng múc nước ở dưới một cái giếng lên để giặt quần áo thì Thu thừa lúc chị Sương vô ý, chạy đến xô mạnh cho chị Sương ngã lao đầu xuống giếng, đến lúc mọi người phát giác ra để cứu chị lên thì chị Sương đã bị què mất một bên chân sau khi tỉnh lại. Chị chẳng những không trách oán Thu mà còn nghĩ đến ân nghĩa của cha mẹ Thu cho nên quên đi hết mọi việc và vẫn thương yêu Thu, coi Thu như một người bạn thân như cũ.
Về phần của ông cụ già bệnh hoạn mất trí mà chị Sương không phải do ngẫu nhiên tình cờ mà đến hầu hạ săn sóc, cũng không phải đương nhiên ông cụ mất trí này lại để cho chị Sương chăm nom cho mình rồi từ sự chăm nom thân tình đó, ông cụ đã có cơ may bình phục.
Thật ra, từ tiền kiếp, ông cụ chính là người con của chị, do bởi hoàn cảnh của chiến tranh tao loạn, trong khi chạy giặc, chị đã bỏ lại đứa con thơ dại cho người khác nuôi mang, nhưng vì hoàn cảnh qúa khó khăn trong thời kỳ chinh chiến tao loạn, thực phẩm thuốc thang quần áo đều rất khốn quẩn, cho nên đứa con chị Sương đã bị qua đời rồi được đầu thai ở kiếp này và mọi việc đã được diễn tiến như độc giả đã thấy. Chị Sương vẫn phải trả lại những nợ nần, tình cảm tích tụ từ kiếp trước cho đứa con trai, nay chính là ông cụ nhà giàu bị bịnh tật và mất trí nhớ.
Còn đối với anh Quang, tức là người chồng ở kiếp này của chị, đã không ăn đời ở kiếp với chị Sương, trái lại, anh có gia đình với một người vợ khác chẳng qua là do tiền kiếp xa xưa, ở một tiền kiếp chị Sương, vốn là con gái của một gia đình khá giả, chị đã trao trọn tình yêu của chị cho một người thanh niên tuổi cùng trang lứa, hai người ước hẹn sẽ được lấy nhau, yêu nhau trọn đời. Nhưng oái oăm thay! Cha mẹ của chị vì muốn môn đăng hộ đối cho nên gả chị cho một thanh niên khác, cũng thuộc loại con nhà danh gia vọng tộc. Người thanh niên này cũng đã từ lâu thâm yêu chị, anh ta cũng rất mực yêu chị mà chị lại chẳng chút yêu mến lại anh ta. Hai vợ chồng ăn ở với nhau chẳng được bao lâu thì chị nghe tin người yêu cũ bị tử nạn chiến tranh. Chị ngấm ngầm đau khổ trong lòng và vì muốn giữ trọn niềm thủy chung với người tình cũ lúc nào hết dạ yêu thương chị, cho nên, chị thừa lúc vắng chồng, vội lấy dây thắt cổ mà chết, để lại người chồng đau đớn tận cùng trong khi trong lòng của anh ta vẫn yêu chị đến muôn ngàn muôn kiếp. Chẳng bao lâu vì qúa thương nhớ người vợ đã qua đời, cho nên người chồng của chị cũng chỉ còn biết ngậm ngùi, kéo dài những ngày tưởng nhớ cho đến giờ phút anh lâm chung. Và nghiệp báo, đã cho thấy anh Quang, người chồng của chị Sương ở kiếp này, cũng đã oan oan tương báo, để cho mối duyên chồng vợ phải đứt gánh giữa đàng.
Chính những sự kiện tao phùng tưởng như tự nhiên, tưởng như phi lý này, lại chính là do sự chi phối bất di dịch của vòng quay qủa báo luân hồi. Và chị Thu ở kiếp này đang phải cưu mang, chu toàn cho Hương, người em gái ruột tàn tật của chị, mà kỳ thật, Hương chính là người bạn gái, là cô chủ con nhà giàu, chơi thân với chị, đã làm cho chị Sương bị té xuống giếng đến phải què chân từ tiền kiếp. Ở kiếp này, Thu đang phải trả qủa bởi chính sự tàn phế bẩm sinh của mình và chị Sương cũng đang trả phần nghiệp quả của chị để đền đáp lại những sự thương yêu bao bọc của hai vợ chồng người chủ nhà, chính là ba mẹ của Thu ở tiến kiếp.
Cho hay, quả báo luân hồi chính là kết qủa của một chuỗi chất chồng mọi công tội, phước hạnh của một con người. Ai tạo được phước báu thì sẽ nhận được phước hạnh của đời sau. Ai gieo rắc qủa xấu, làm những việc thất đức hay xử dụng tình cảm thương yêu không đúng, đem đến những đau khổ cho người chung quanh, thì hẳn nhiên, bánh xe luân hồi sẽ quay mãi và đưa nghiệp quả của người đó đến chính vị trí mà người đó đã tác tạo ra.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top