past2

CHƯƠNG 60: QUAN TÀI TREO

Lúc này, Shirley Dương đã nhổ đoạn rễ cây đâm xuyên đầu vai Tôn Cửu gia

ra, trên đó toàn vảy ngược, vừa rút một cái, lập tức giật theo cả một mảng thịt

lớn, máu tươi bắn tung tóe khắp mình mẩy mặt mũi chúng tôi, nhưng Tôn Cửu

gia vẫn nhịn đau, không kêu lấy một tiếng.

Chúng tôi không đủ thời gian xem xét thương thế của Tôn Cửu gia, nhân

lúc những mảnh Kinh Lăng giáp chưa tiếp tục rơi xuống đợt tiếp theo, vội gọi

Tuyền béo và Út ra rìa hốc tiếp ứng, hai người vừa kéo vừa nâng, đưa Tôn Cửu

gia vào trong hốc đá chứa quan tài treo.

Tuyền béo phẫn nộ: “Nhất ơi là Nhất, hai người chán sống rồi hả? Liều

mạng vì lão Tôn này có... đáng không?”

Tôi tiện tay lau máu tươi trên mặt, đáp lấy lệ: “Vụ mua bán này đằng nào

cũng coi như lỗ vốn rồi, ngại gì lỗ thêm một ít nữa, chỉ cần giữ được mạng, sau

này sớm muộn sẽ gỡ lại, giờ cứ coi như cho vay nặng lãi đi.”

Shirley Dương lại nói: “Không đơn giản vậy đâu, tôi cứu giáo sư Tôn là vì

đột nhiên nghĩ đến một điểm mù, sự việc đã được số mệnh định sẵn sẽ xảy ra

ấy... có lẽ không phải như chúng ta tưởng tượng, tấc cả đều đã bị những tù

nhân trong thạch laoở mộ Địa Tiên làm hiểu lầm rồi.”

Cửu Tử Kinh Lăng giáp quấn xung quanh núi Quan Tài tuy đá đứt rễ,

nhưng những đoạn rễ quấn chặt trên vách đá vẫn không ngừng cọ xát vào

nham thạch, khiến núi Quan Tài bị cản lại ở một chỗ hẹp trong hang động

ngầm dưới đất, lúc này chấn động đã lắng xuống phần nào. Tôi nghe Shirley

Dương nói thế, nhất thời cũng không hiểu lắm, vội lắc đầu mấy cái thật mạnh,

vẫn cảm thấy trước mắt sao bay tá lả, bèn lơ mơ hỏi: “Chẳn lẽ lời tiên tri trong

nhà lao đá ấy không phải là thật ?”

Shirley Dương nói, ít nhất những chuyện đã xảy ra đều ứng nghiệm rồi,

nhưng những chuyện tiếp theo chưa chắc đã như chúng ta tưởng tượng lúc

đầu. Bích họa trong địa lao được vẽ theo quẻ số tinh tượng, em nhớ hồi trước

anh từng nói, vạn vật trên thế gian này đều từ só sinh ra tượng, trong bức

tranh tiên tri cuối cùng, thi tiên ngồi trên đạo tinh rời khỏi núi...

Tôi gật đầu: “Đạo tinh ấy chắc là ứng lên đám người chúng ta, coi bộ chúng

ta cũng là thân bất do kỷ, dù làm gì, cuối cùng cũng khiến thi tiên trong mộ cổ

thoát ra khỏi núi.”

Shirley Dương lại nói tiếp, giáo sư Tôn nói, trước khi thi tiên rời núi, dù gặp

nguy hiểm mấy chúng ta cũng không thể chết, nhưng anh có từng nghĩ, bức

bích họa mang theo lời tiên tri kia tuy trừu tượng khó hiểu, nhưng đạo tinh chỉ

có một, vả lại không thể phán đoán xem lúc rời núi là còn sống hay đã chết, có

thể ngay cả khi chúng ta đều chết trong núi, thi tiên cũng có thể ám lên thi

thể của một người trong bọn. Đương nhiên... trước khi thôn Địa Tiên tiến vào

hẻm núi, mọi suy đoán đều không có căn cứ, ý của em là, chuyện này không

thể phán đoán theo lẽ thường, chớ nên dùng ý nghĩ chủ quan mà suy đoán.

Tôi nghe Shirley Dương nói tới đây, đã hiểu được ý cô, việc không hẳn như

Tôn Cửu gia nhận định, mà là trước khi rời khỏi núi Quan Tài này, chúng tôi có

thể mất mạng bất cứ lúc nào dù cả bọn chết hết cũng không thể xoay chuyển

càn khôn, thi tiên trong thôn Địa Tiên cuối cùng nhất định sẽ thoát ra ngoài,

nhưng tình hình thực tế ra sao thì không đến thời khắc cuối cùng, vẫn không

thể nào suy đoán được.

Lúc này, tôi không khỏi sinh nghi, bèn quay lại liếc Tôn Cửu gia một cái, chỉ

thấy Út đang xử lý vết thương cho lão ta, bôi thuốc cầm máu tác dụng nhanh

lên vết thương bị đâm xuyên trên vai, Tôn Cửu gia sắc mặt đờ đẫn, bị thương

nặng như vậy mà dường như không hề thấy đau đớn.

Tôi đột nhiên nhớ ra, cử chỉ hành vi của Tôn Cửu gia thực không khác gì

một cái xác sống, hơn nữa lão ta cũng không thể giải thích được tại sao trên

người mình có thi khí bao bọc, lại có cả thi trùng xuất hiện, lẽ nào người này

còn có âm mưu sâu xa gì nữa chăng? Có lẽ nào Tôn Cửu gia chính là thi tiên

không? Hay lão ta đã bị Phong Soái Cổ ám lên mình rồi ?

Một loạt nghi vấn xoay chuyển trong óc tôi như đèn cù, nhanh chóng khuấy

thành một vòng xoáy khổng lồ, càng nghĩ càng cảm thấy mình chìm đắm vào

trong đó, không thể bứt ra được, mọi giả thiết đều trở nên phi logic, chỉ riêng

sự tồn tại của một kẻ khắp người đầy dấu hiệu thi biến như giáo sư Tôn, cũng

đã vượt xa phạm trù thường thức và năng lực lý giải của tôi rồi.

Tôn Cửu gia thấy tôi nhìn chằm chằm lão ta, liền kéo tôi một cái, nói: “Lúc

trước tôi khóa cửa đường hầm bí mật lại, không phải muốn hại mọi người đâu.

Nghe cô Dương nói, giờ tôi đã nghĩ thông rồi, năm người chúng ta dù sống

hay chết cũng không thể thay đổi được kiếp nạn đã định sẽ bùng phát ở thôn

Địa Tiên, hy vọng các cô các cậu đừng để trong lòng, phải biết... mọi chuyện

tôi làm đều là nhìn việc không nhìn người, tôi xưa nay không hề có oán cừu gì

với các cô các cậu, chỉ muốn dốc hết khả năng của mình, ngăn cản thi tiên

thoát khỏi núi Quan Tài mà thôi.”

Tôi thấy Tôn Cửu gia tuy hành sự cực đoan quá khích, nhưng hẳn lão ta đã

nói hết những gì có thể nói rói, cứ tiếp tục dằng dai nữa cũng chẳng ý nghĩa

gì, bây giờ chỉ cần ngấm ngầm đề phòng, tìm cơ hội dụ rắn rời hang là được,

bèn nói: “Đừng nói những luận điệu hoang đường này với tôi làm gì, tôi không

hiểu cái quái gì là nhìn việc không nhìn người, việc đều do người làm ra cả,

nhìn việc chính là nhìn người, có điều chuyện giữa chúng ta nhất thời không

thể giải quyết gọn gàng được, họa lớn đang ở trước mắt, vẫn phải nghĩ cách

thoát thân trước rồi hẵng hay”

Tôn Cửu gia thở dài một tiếng, nói: “Hồ Bát Nhất, cậu đúng là rộng lượng

khoan dung với kẻ khác, đời này những gì tôi nợ các cậu sợ rằng không thể trả

được, nếu Phong Học Vũ tôi còn có kiếp sau, dẫu làm trâu làm ngựa cũng phải

báo đáp mọi người, nhưng núi Quan Tài này bị dòng nước lũ xối xả đẩy về phía

hẻm núi lớn, chỉ mấy người chúng ta muốn ngăn cản khí thế trời long đất lở

này, thật không khác gì châu chấu đá xe, tôi coi như đã nhìn thấu rồi, cánh tay

không khỏe bằng cẳng chân, người không nên tranh với số mệnh, chúng ta cứ

ở đây nhắm mắt chờ chết thôi.”

Tôi và Tuyền béo xưa nay là hạng người “không sợ Lý Quỳ hung, chỉ sợ Lưu

Bị khóc”, Tôn Cửu gia đã nói đến nước này, đương nhiên cũng không tiện làm

khó lão ta nữa, nhưng tôi không muốn ngồi một chỗ chờ chết. Núi Quan Tài

tạm thời bị tầng nham thạch dưới lòng đất chặn lại, chứng tỏ tổ sư gia phù hộ,

để cho đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi một cơ hội sống sót, thiên cơ thần diệu,

điềm trời khó hiểu, ai dám nói chắc được kiếp nạn cuối cùng có xảy ra hay

không? Vạn nhất đám người thủ lĩnh cho Ô Dương vương kia tính sai, chúng

tôi ngồi đây chờ chết há chằng phải đã đánh mất cơ hội tốt hay sao?

Tôi và Tuyền béo trao đổi qua một chút, quyết định trưng cầu ý kiến của

Shirley Dương và Út trước, rốt cuộc nên mạo hiểm xông ra ngoài núi hay ở đây

chờ chết? Vì đồng chí Lenin từng nói: từ kinh nghiệm của tất cả các cuộc vận

động giải phóng cho thấy, thành bại của cách mạng luôn quyết định bởi mức

độ tham gia của phụ nữ vào quá trình giải phóng.

Út không có ý kiến gì, nhưng đối diện với lựa chọn sống chết, đương nhiên

cô muốn sống không muốn chết, còn Shirley Dương cũng cho rằng, việc là do

người làm, những tù nhân trong thạch lao từng bị cực hình tàn khốc hành hạ,

khi họ tính toán thiên cơ cho Phong Soái Cổ, có lẽ đã chôn xuống một mối họa

ngầm. Tuy rằng khả năng này không lớn, nhưng không vào hang cọp, làm sao

bắt được cọp con? Không đến thời khắc cuối cùng, không ai có thể đoán biết

bất cứ điều gì.

Tôi thấy ngoài Tôn Cửu gia, ý kiến mọi người đều đã thống nhất, bèn quyết

định tranh thủ thời cơ lúc ngọn núi dừng lại trong lòng đất, leo qua vách đá

dựng đứng chạy khỏi núi Quan Tài. Lúc này, những đoạn rễ Cửu Tử Kinh Lăng

giáp trên cao cũng đã thôi rơi xuống, đây chính là thời cơ tuyệt hảo để bắt đầu

hành động. Tôi lập tức cùng Tuyền béo xốc Tôn Cửu gia không chịu đi đâu kia

lên, lần lượt chui khỏi hốc đá ẩn mình, men theo đường điểu đạo ngoằn ngoèo

đục trên vách đá, tiến lên cao.

Núi Quan Tài giống như một cỗ quan tài đá khổng lổ không nắp, trên bốn

vách đá xung quanh có rất nhiều khe nứt và hang hốc chứa vô số quan tài

treo, đại đa số là những quan tài nhỏ khâm liệm các cơ quan nội tạng của

người xưa. Trên vách đá chằng chịt điểu đạo và sạn đạo, trong các khe đá mọc

rất nhiều rêu mốc, mùi hôi thốc từ sâu bên trong xộc lên tận não. Nhìn từ xa,

những thứ ấy tựa như hoa văn rồng bay phượng múa trên quan tài cổ, người

đi bên trong, thực chỉ nhỏ bé như một con sâu quan tài bò trong các kẽ nối

giữa mảnh ván quan tài mà thôi.

Thông đạo nối nhau trên vách đá dựng đứng ấy có một phần là sạn đạo cổ,

dùng cọc gỗ đóng vào vách đá, bên trên đặt đá phiến, còn đa phần là điểu đạo

khoét lõm vào các khe nứt. Những đoạn sạn đạo kết cấu cọc gỗ ván đá kia

phần lớn đều đã hư hại trong trận động đất lúc nãy, chỉ còn lại vài chiếc cọc

gỗ mục nát đột nhiên chìa ra, chúng tôi đành lần dò trong điểu đạo, vòng qua

mấy hang động, quanh co đi lên phía trên.

Lần mò leo bám trong bóng tối đến giữa chừng, giơ đèn pin mắt sói rọi lên

trên, tôi đã có thể thấy trên đỉnh đầu phủ một lớp Cửu Tử Kinh Lăng giáp

chằng chịt, tuy đã có khá nhiều đoạn rễ đứt lìa vì va đập, nhưng đấy chỉ là một

số đoạn nằm ở nhánh cuối, nhánh phụ, chủ thể Kinh Lăng giáp quấn quanh

núi Quan Tài vẫn còn gần như hoàn hảo, gai nhọn chằng chịt, không có khe

hở nào để chui ra.

Lúc trước, cả bọn vốn cho rằng Kinh Lăng giáp này đã rơi xuống quá nửa,

nhân lúc núi Quan Tài còn chưa xông ra đến hẻm núi lớn, có thể thoát thân ra

ngoài, không ngờ vẫn kín mít như bưng thế này, phen này, phỏng chừng kế

hoạch leo núi thoát ra đành phải gác lại.

Cả bọn không biết làm sao, đứng trên chỗ cao này lâu chỉ sợ tuột chân rơi

ngã, đành vòng đường cũ đi xuống, không ngờ trong Bàn Cổ thần mạch lại

phun ra vô số nước ngầm đen như mực. Thì ra, khu vực dưới chân núi có

nhiều khe nứt bị Kinh Lăng giáp xé toạc ra nhất, nước ngầm từ bốn phía hòa

với dòng suối máu trong mạch núi, hóa thành những dòng nước đục cuồn

cuộn, mực nước trong núi Quan Tài không ngừng dâng cao đã nhấn chìm gần

một nửa thôn Địa Tiên, nhất thời, trong núi tanh thối nồng nặc.

Những ngôi mộ cổ bên dưới thôn Địa Tiên, cùng vô số thi thể trong Linh

Tinh điện đều bị nước cuốn ra, nổi lên theo làn nước đen không ngừng dâng

cao. Chúng tôi nhìn không rõ cảnh tượng phía xa, nhưng mặt nước trong tầm

chiếu sáng của ngọn đèn gắn trên mũ lềnh phềnh đầy xác cổ và quan quách

minh khí, tất cả đều đang xoay tròn trong xoáy nước. Tôi chợt thấy lạnh buốt

cả cõi lòng, trước mắt chính là cảnh tượng biển máu núi thây, tình thế bây giờ

đúng là tiến thoái lưỡng nan, lối thoát ra ngoài núi đều đã bị Cửu Tử Kinh Lăng

giáp bít kín, còn trong núi, mực nước đang dâng lên với tốc độ chóng mặt, rơi

xuống vùng nước mù mịt đầy thi khí kia cũng đừng hòng sống sót. Lâm vào

chốn thiên la địa võng núi Quan Tài này, thật đúng là mọc cánh cũng khó

thoát.

Đang khi chúng tôi còn bối rối chưa biết xoay xở ra sao, đột nhiên một âm

thanh kinh thiên động địa vang lên, tựa như xé đồng bẻ sắt, tiếng cọ xát

không ngớt vang lên trên đỉnh đầu, thì ra tầng tầng Cửu Tử Kinh Lăng giáp

bao bọc xung quanh núi Quan Tài rốt cuộc cũng không chống nổi thế nước

cuồn cuộn xung kích, song lại bị tầng nham thạch ở xung quanh cản trở, từng

mảng từng mảng bong ra rơi xuống.

Cửu Tử Kinh Lăng giáp chằng chịt giăng mắc, gai móc quấn vào nhau, một

phần rơi khỏi núi Quan Tài, cũng kéo theo cả những phần còn lại bóc ra khỏi

khối núi.

Thể tích và trọng lượng của núi Quan Tài lập tức giảm bớt, bị dòng nước

ngầm cuồn cuộn hung dữ xối vào, liền phá vỡ tầng nham thạch mong manh

chắn đường, tiếp tục lắc lư chao đảo di chuyển về phía trước.

Lúc Cửu Tử Kinh Lăng giáp bị tróc ra, cả trái núi rung dộng dữ dội, chúng

tôi ở bên trong khe hở trên vách đá, suýt chút nữa bị va đập hất xuống nước,

sau đó là những chuyển động liên tiếp hết đợt này đến đợt khác tựa như dời

non lấp bể, không cho người ta ngừng tại để lấy hơi, hang dộng trong lòng đất

nghiêng ngả xiêu vẹo, núi Quan Tài cũng men theo địa thế ấy mà không

ngừng chuyển động.

Chúng tôi trốn trong một mộ thất để quan tài treo chật hẹp trên vách đá,

lục phủ ngủ tạng xóc lên xóc xuống theo cả khối núi, chỉ thấy đầu váng mắt

hoa, tay chân thân thể đều mất cảm giác thăng bằng, đầu óc chỉ còn một

mảng trống rỗng, hoàn toàn không biết mình đang ở chốn nao.

Không biết núi Quan Tài di chuyển trong lòng đất được bao xa, cuối cùng

đột nhiên dừng sững lại, bên tai chỉ nghe tếng nước xối ầm ầm như sấm dậy,

lại thấy phía trước có ánh sáng chói mắt, tôi còn tưởng là ảo giác, nhưng gió

lạnh thốc vào mặt khiến tinh thần người ta tỉnh táo lại phần nào, định thần

nhìn lại, mới phát hiện khối núi rỗng ruột này đã tiến vào đến khu vực hẻm núi

Quan Tài rồi.

Giờ đang là mùa lũ, hẻm núi Quan Tài đầy những ngọn núi sừng sững, giữa

những ngọn núi cao ngất, thế nước như rồng như hổ gào thét gầm rú. Dòng

nước lũ dưới lòng đất phun thành một ngọn thác trên vách đá ngay phía trên

dòng sông dưới đáy sơn cốc, núi Quan Tài trôi theo dòng nước, đầu phía trước

đụng vào vách đá đối diện, đoạn sau mắc lại ở miệng thác, cứ vậy treo lơ lửng

giữa từng không.

Thể tích núi Quan Tài tuy không nhỏ, nhưng ra đến hẻm núi lớn này lại trở

nên nhỏ bé vô cùng, không thể so sánh với những ngọn núi đá sừng sững

xung quanh, may mà hẻm núi dốc đứng chật hẹp mới khiến núi Quan Tài chưa

rơi thẳng xuống dòng sông lớn bên dưới. Nhưng khối núi bị dòng nước xối, lại

bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xâm thực cả mấy trăm năm, lúc này cả bốn vách đá

“mặt quan tài” đều đã thủng lỗ chỗ, tổn hại nặng nề, giống như một cỗ quan

tài treo mục nát nghìn năm, trần mình giữa cuồng phong bão tố, bất cứ lúc

nào cũng có thể bị dòng nước xiết xối cho vỡ tan tành.

Lúc này, bên ngoài núi đang là ban ngày, chúng tôi ở trên vách đá vẫn

chưa định thần lại, sờ đầu sờ chân thấy vẫn còn ở nguyên vị trí cũ, ai nấy đều

thầm thấy mình may mắn, nhưng trong đầu vẫn mông lung hỗn loạn, chỉ còn

một ý nghĩ duy nhất là mau chóng ròi khỏi nơi này, hoang mang ngơ ngác bò

lên đỉnh vách đá nghiêng ngả nhìn ngó xung quanh, chỉ thấy trên đầu là một

dải trời xanh ngắt, giữa hai vách đá cao nghìn thước sừng sững là mây trôi

bồng bềnh, núi Quan Tài tựa như một cỗ quan tài treo lơ lửng ở giữa, dòng

sông bên dưới nước chảy cuổn cuộn, thế nước sục sôi dữ dội.

Tôi nằm rạp người trên đỉnh vách đá ván quan tài, ngoảnh lại nhìn xuống

khu vực bên trong núi Quan Tài, tư duy bị những trận rung lắc dữ dội làm cho

tản mạn giờ mới tập trung lại được. Lúc này, thôn Địa Tiên xây trên địa mạch

Bàn Cổ sớm đã sụp đổ, thần mạch Bàn Cổ cũng bị phá vỡ, nước máu tích ở

đằng trước khối núi vẫn chưa bị dòng lũ xối hết. Vì khối núi bị nghiêng, đoạn

trước của núi Quan Tài chóng vào vách núi dựng đứng phía đối diện, đoạn sau

vẫn mắc ở miệng thác nơi dòng nước ngầm phun ra, dòng nước đục ngầu đen

như mực đưa vô số xác chết trong các huyệt mộ dưới lòng đất lên mặt nước,

đẩy về phía vách núi.

Thi thể những người tuẫn táng kia bị gió núi thổi vào lập tức sinh ra một

tầng đốm đen, thấy vậy, tôi kinh hãi kêu lên: “Chết ròi, người chết trong chôn

Địa Tiên sắp thi biến hóa thành ‘hắc hung’ rồi!”

Tôn Cửu gia kêu khổ không ngớt: “Đó không phải cương thi, cương thi một

là không thể nghe tiếng gà gáy, hai là không thể thi biến giữa ban ngày, càng

không thể không có quan quách, những thứ này đều là thi tiên do Phong Soái

Cổ luyện hóa ra đấy!”

Trong truyên thuyết dân gian, cương thi hóa hung gọi là “sùng”, có thể vồ

người hút tủy, bất luận là “phi cương” hay “hành cương” hễ đến khi gà gáy

trời sáng sẽ lập tức đổ vật ra như khúc củi khô. Vả lại, cương thi nhất thiết

phải ở trong quan tài mới thi biến, người chết trong Linh Tinh điện ngoài

Phong Soái Cổ ra, đều không được khâm liệm trong quan quách, bao nhiêu thi

thể như vậy đột nhiên xuất hiện đốm đen trong núi rõ ràng là hết sức bất bình

thường, vì vậy Tôn Cửu gia mới cho rẳng bọn họ đều là thi tiên đã luyện ra

được hình hài.

Lúc trước, mọi người còn tưởng trong mộ chỉ có một thi tiên là Phong Soái

Cổ, không ngờ lại nhiều đến vậy, tận mắt chứng kiến đại kiếp nạn trong điểm

trời đã xuất hiện, đám người chúng tôi coi như không còn cách nào vãn hồi

được nữa rồi.

Tôn Cửu gia nói: “Thi tiên vẫn chưa hiện hình hoàn toàn, chúng ta mau đến

gần xem rốt cuộc chúng là thứ gì, dù phài liều mạng... cũng phải hủy diệt hết

chúng nó đi.”

Tuyền béo ở trên cao, lá gan đã nhỏ đi mất bảy phần vội nói: “Không phải

Tuyền béo này không trượng nghĩa, nhưng bọn chết tiệt ấy nước lửa đều

không làm gì được, chúng ta biết làm gì với chúng đây ? Theo tôi thì ai lo việc

người nấy cho xong, Nhất ơi, chúng ta mau té thôi.”

Tôi nhìn ngó quanh quất, lập tức đưa ra quyết định, bảo cả bọn: “Núi Quan

Tài này có thể vỡ tan tành bát cứ lúc nào, phía sau đang nằm trong dòng nước

xối xả của ngọn thác, muốn rời khỏi đây chỉ có cách từ phía đầu quan tài bám

vách đá leo lên thôi.” Nói xong, liền dẫn đầu men theo vách đá quan tài đi về

phía đầu đang chống lên vách núi đối diện. Mấy người bọn Shirley Dương gọi

nhau bám theo sau tôi.

Dưới dòng thác xối, núi Quan Tài không ngừng chấn động, mọi kiến trúc

bằng đất đá ở nửa sau dang dần dần bị dòng nước cuốn vào khe núi, những

thứ rơi vào dòng nước xiết bất luận lớn hay nhỏ, đều chỉ trong nháy mắt đã

biến mất không còn tăm tích. Nửa sau núi Quan Tài chi còn lại cái vỏ không,

mỗi giây mỗi phút trôi qua đều có khả năng sụp đổ rơi xuống, người ở bên

trên, tựa như đang ở giữa dòng thiên hà nghiêng ngả, nguy hiểm tột cùng.

Chật vật mãi mới đến được chỗ đầu quan tài chống vào vách núi, núi Quan

Tài cũng càng lúc càng tan rã sụp đổ nhanh hơn, thanh thế có thể nói là kinh

hồn bạt vía, trăng sao biến sắc. Tôi thấy Tôn Cửu gia vẫn muốn leo xuống xem

xét những cái xác mọc đốm đen khắp ngưòi kia, vội kéo lão ta lại. Núi Quan Tài

chỉ trong giây lát nữa sẽ hoàn toàn sụp đổ rơi xuống dòng sông bên dưới,

những thứ trong thôn Địa Tiên bất kể sống hay chết cũng đều bị nước sông

cuốn đi, chúng tôi không cần phải phí công vô ích làm gì, thần cơ diệu toán

của Phong Soái Cổ chỉ chớp mắt sẽ hoàn toàn tan thành bọt nước. Cũng may,

chúng tôi không hoàn toàn tin vào điểm triệu trong lời tiên tri kia, giờ còn

không bỏ chạy tháo thân, thì còn đợi đến khi nào?

Tôn Cửu gia vẫn không yên tâm, chẳng màng an nguy của bản thân, một

mực muốn đích thân xem xét rõ ràng. Tôi vốn định mặc xác lão ta, nhưng rất

nhiều chuyện vẫn còn dính dấp đến con người này, bèn bảo Shirley Dương

dẫn theo Út leo lên điểu đạo đục trên vách đá, còn mình và Tuyền béo thì kéo

Tôn Cửu gia bắt phải đi.

Leo bám trên vách núi tầm mười mấy mét, đoán rằng núi Quan Tài cũng

đến lúc rơi xuống sông rồi, nhưng chúng tôi đều có cảm giác sự việc này quá

đỗi kỳ quặc, không có vẻ gì sẽ kết thúc ở đây, lại thấy mây mù trong hẻm núi

hơi là lạ, không kìm được ngoảnh đầu xem thử, không nhìn thì thôi, vừa quay

lại nhìn, cả bọn đều bở vía.

Chỉ thấy, trên vách đá bên dưới chúng tôi, không ngờ lại bò đầy những xác

chết gặp nước nổi lên ở thôn Địa Tiên, số lượng nhiều không kể xiết. Những

người chết bồi táng theo Phong Soái Cổ ấy, người nào người nấy toàn thân

mọc kín lông mao mốc meo. Lúc này, dưới đáy hẻm núi sương đen mù mịt,

đống đổ nát còn sót lại của núi Quan Tài ẩn hiện trong màn sương dày đặc,

tựa như một hang ma ổ quỷ nổi lên giữa cơn hồng thủy, tình cảnh thật chẳng

khác nào “Phong Đô thành vừa mở, thả ra mười vạn ác quỷ” vậy.

CHƯƠNG 61: LONG THỊ

Tôi biết ngay có chuyện chẳng lành, tử thi trong thôn Địa Tiên đã chạy cả

ra ngoài rồi. Điềm trời mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương tính

toán, đến cuối cùng quả nhiên đều ứng nghiệm, giờ có nói gì cũng đã muộn,

sự việc đa được số mệnh định sẵn, rốt cuộc không ai thay đổi được.

Những cái xác bò ra từ núi Quan Tài cơ hồ đã phủ kín cả vách đá xanh sẫm,

phóng mắt nhìn qua chỉ thấy một mảng đen kịt, cái xác cổ phần đầu vỡ toác

làm đôi của địa tiên Phong Soái Cổ cũng xuất hiện trong đám xác chết, được

một lũ tử thi tiền hô hậu ủng, càng lúc càng đến gần chỗ chúng tôi. Trong lúc

hỗn loạn, cũng không nhìn rõ bọn chúng di chuyển thế nào, chỉ thấy trong

chớp mắt đã đến sát dưới chân rồi.

Sự việc phát triển quá nhanh, không để người ta kịp suy xét tính toán, tôi

vội tiếp tục dịch chuyển lên trên, chỉ mong tránh lão Phong Soái Cổ đã hóa

thành thi tiên kia càng xa càng tốt, nhưng hai chân tựa như đổ đầy chì, tuy

lòng nóng như lửa, nhưng bước chân trên điểu đạo dốc đứng lại hết sức khó

khăn chậm chạp.

Tôn Cửu gia lòng đã nguội lạnh như tro tàn, trên vai bị thương, một cánh

tay hoàn toàn không thể hoạt động, cả người ngã bổ xuống con đường chật

hẹp trên vách đá, không muốn chạy nữa. Chỉ thấy, cái xác địa tiên Phong Soái

Cổ như thạch sùng bò tường leo thẳng lên, cuốn theo một luồng sương đen,

hôi thối dị thường, từ bên dưới lao lên nhằm thẳng vào thân thể lão ta.

Tôi không kịp ra tay cứu trợ, toàn thân lạnh toát, thầm nhủ phen này Tôn

Cửu gia coi như xong đời, đang định chạy tháo mạng thì trước mắt lại xuất

hiện một cảnh tượng không thể tin nổi. Thi tiên kia dường như không thấy Tôn

Cửu gia, cứ thế lướt qua bên người lão ta, tiếp tục bò thẳng vào Tuyền béo ở

cách nó xa hơn.

Tuyền béo hét ầm lên, lập tức quay đầu nhảy về phía một cỗ quan tài treo

nằm chếch phía trên. Cậu ta cuống lên thì liều mạng, chẳng còn để ý cao thấp

gì nữa, cỗ quan tài ấy giống như một cái đinh gỗ nhô ra khỏi vách đá, cú nhảy

của Tuyền béo làm ván quan tài thủng một lỗ lớn, cọc gỗ chống đỡ bên dưới

cũng gãy mất một cây, máy cây cọc còn lại không chịu nổi trọng lượng đè

xuống, phát ra những tiếng “rắc rắc rắc”, tựa hồ sắp gãy đến nơi.

Tuyền béo nằm rạp người trên quan tài, nhất thời không dám nhổm lên, chỉ

sợ hễ nhúc nhích cử động, cả người lẫn quan tài sẽ lập tức rơi xuống dòng

sông cuộn sóng đục ngầu bên dưới. Cậu ta nhảy cú này, coi như đã đặt mình

lên một hòn đảo trơ trọi, bốn phía xung quanh đều không còn chỗ trốn, chỉ

mong tạm thời tránh thoát mối họa trước mắt rồi tính sau, chẳng ngờ "thi tiên”

trên vách núi dựng đứng kia vẫn bám theo như hình với bóng, đuổi sát không

buông.

Tôi ở bên cạnh nhìn thấy rõ mồn một, trong đầu chợt lóe lên một ý niệm, tại

sao thi tiên Phong Soái Có lại bỏ gần tìm xa, vòng qua Tôn Cửu gia mà lao tới

chỗ Tuyền béo như vậy? Chẳng lẽ Phong Soái Cổ chết rồi vẫn nhận ra được

hậu duệ của nhà họ Phong Quan Sơn thái bảo hay sao? Chuyện khác thì tôi

không rõ, nhưng đã làm nghề đổ đấu này tự nhiên không thể tách khỏi những

thứ xác cổ, minh khí, quan quách, bao năm nay mưa dầm thấm đất, kiến thức

của tôi cũng không thể nói là không nhiều, theo tôi được biết, phàm xác chết

bật dậy vồ người,hiển nhiên là do bị dương khí của người sống hẫp dẫn, trong

dân gian lẫn đạo giáo đều gọi đây là hiện tượng “long thị".

Trong truyền thuyết, mắt rồng chỉ có thể nhìn thấy những thứ có sinh

mệnh, còn mắt cương thi hoàn toàn vô dụng, chỉ có thể dựa vào cảm ứng với

dòng điện hay luồng khí truyền ra từ sinh vật hoặc vật môi giới, vì vậy trong

dân gian mới có cách nói “long thị” này. Thi tiên Phong Soái Cổ vòng qua Tôn

Cửu gia, chứng tỏ điều gì? Lẽ nào Tôn Cửu gia không phải “xác sống”, cũng

không phải “người sống”, ngay cả linh hồn cũng không có, mà chỉ là một “cái

bóng” trong mắt chúng tôi thôi ?

Tôn Cửu gia tâm tư thâm trầm, dường như đã hoàn toàn kế thừa được

truyền thống hành sự bí ẩn dị thường của Quan Sơn thái bảo, trông thấy thi

hài của cha anh mình ở hẻm núi Quan Tài, mà lão ta vẫn có thể không chút

động lòng, lại hao phí gần hết một đời để lên kế hoạch vào thôn Địa Tiên trộm

mộ hủy xác... những hành vi ấy người bình thường không dễ gì làm được,

nhưng vẫn có thể xem là hợp tình hợp lý. Những hiện tượng bất thường thực

sự ở Tôn Cửu gia, đều xuất hiện sau khi chúng tôi tiến vào mộ cổ Ô Dương

vương.

Cũng chính trong địa cung từng mai táng Ô Dương vương những bí mật ẩn

giấu của Tôn Cửu gia mới dần dần hé lộ, một học giả khảo cổ không ngờ lại sở

hữu thuật yêu tà đã thất truyền từ lâu, mà đấy mới chỉ là “một góc của núi

băng”. Tiếp đó, mọi người còn phát hiện ra, trên người lão ta xuất hiện thi

trùng, tỏ ra vô cùng sợ hãi móng lừa đen, gần như là một cỗ xác sống biết đi,

nhưng lão ta lại hoàn toàn không có phản ứng gì trước gương cổ Quy Khư,

ngọn nến dùng để chiêm nghiệm hung cát dữ lành trong bí thuật Mô Kim cũng

không có tác dụng với Tôn Cửu gia, tựa như người này không phải là gì cả,

không phải ma, không phải người, càng không phải xác sống. Nếu loại trừ

những khả năng này, vậy lão ta có thể là thứ gì chứ? Lão ta có hữu hình hữu

chất, có máu có thịt, bước đi có bóng, lẽ nào người này mới là thi tiên thực sự

trong núi Quan Tài hay sao?

Lúc trước, tôi cũng từng có suy đoán như vậy, nhưng không có bằng cớ xác

nhận, vẫn muốn mang lão ta rời núi rồi điều tra kỹ lại sau, nhưng lúc này, lại

thấy dị tượng xuất hiện trên người Tôn Cửu gia. Những tồn tại nẳm ngoài lẽ

thường rất dễ khiến người ta sợ hãi, trong tiềm thức, tôi vốn chẳng hề tin vào

những chuyện kỳ dị thế này, nhưng sự việc sờ sờ trước mắt, muốn không tin

cũng không được, nghĩ tới đây, da đầu tôi chợt thấy tê rền rần như chạm phải

điện.

Trong một thoáng ngắn ngủi như chớp lóe ấy, tôi cũng không thể nghĩ ngợi

quá nhiều, rạp mình trên điểu đạo ngây ra một giây, đã thấy Tuyền béo rơi vào

hoàn cảnh bị cô lập, tình thế nguy hiểm vô cùng, tôi lập tức gạt hết những ý

nghĩ rối như tơ vò ấy ra khỏi đầu, cũng không buồn để ý đến Tôn Cửu gia nằm

bất động kia nữa, vội vàng vẫy tay ra hiệu với shirley Dương đã leo lên chỗ cao

hơn, bảo cô nhanh chóng cứu viện.

Vì phương pháp liên lạc của chúng tôi trước nay vẫn tương đối lạc hậu, gặp

tình huống khoảng cách tương đối xa, về cơ bản đều dựa vào hò hét để gọi

nhau, trao đổi thông tin chủ yếu bằng tay, nhưng ở với nhau lâu ngày thành ra

ăn ý,chỉ cần một động tác tay đơn giản cũng có thể truyền đạt ý đồ. Shirley

Dương ở bên trên nhoài người ra nhìn, lập tức hiểu ngay, cô cũng biết tình thế

trước mắt như ngàn cân treo sợi tóc, hết sức nguy ngập, ném phi hổ trảo

xuống đã không kịp. Cũng may, trong hẻm núi này đâu đâu cũng có quan tài

treo, cô liền gọi út, hai người hợp sức đẩy một cỗ quan tài treo ở đằng trước

xuống vách núi dựng đứng.

Tuyền béo thấy trên đầu có quan tài rơi xuống, vội vàng lách người né

tránh, cỗ quan tài ấy “vù” một tiếng rơi xuống bên cạnh cậu ta, vừa hay đúng

chỗ Phong Soái Cổ, lập tức đập trúng cái đầu bị vỡ toang từ phần miệng của

ông ta, làm nó văng ra khỏi cổ, chỉ còn lại cái xác không đầu vẫn bám trên

vách núi.

Shirley Dương định tranh thủ cơ hội này thả phi hổ trảo xuống tiếp ứng,

nhưng lúc này lũ xác chết bò ra khỏi núi Quan Tài đã ùn ùn trào lên, hình

thành thế hợp vây trên vách núi. Shirley Dương và Út đành không ngừng đẩy

quan tài, ván đá, cọc gỗ xuống, nhưng gần chỗ bọn họ chỉ có ba bốn cỗ quan

tài treo gãy nát, làm sao ngăn nổi đám tử thi ở thôn Địa Tiên rời núi.

Tôi biết rõ lúc này đã là cơ hội cuối cùng, liển bức hỏi Tôn Cửu gia: “Bây giờ

lũ thi tiên trong núi Quan Tài đã chạy ra cả rồi, ông cũng phải nói xem rốt cuộc

ông muốn làm cái gì, đừng để chúng tôi chết hóa thành một lũ ma hồ đồ chứ.”

Tôn Cửu gia ngơ ngẩn hoảng hốt, sắc mặt thâm trầm như nước, cũng

không buồn nhìn tôi, chỉ đăm đăm nhìn cái xác không đầu của Phong Soái Cổ

trên vách núi, thẫn thờ đáp: “Tôi muốn làm gì? Tôi muốn...” Lời còn chưa dứt,

điểu đạo nơi chúng tôi đặt chân thình lình sụt lún, Tôn Cửu gia cũng biết

chuyên chẳng lành, chỉ kịp kêu “ối chao” một tiếng, thân thể đã mất khống

chế trên con đường đục lõm vào vách đá rộng chưa đầy một mét. Sự việc diễn

ra quá đột ngột, tôi thậm chí còn không kịp phản ứng, đến khi hiểu ra thì lão

ta dã trượt xuống khỏi vách núi cùng đám đá vụn, rơi thẳng xuống màn sương

đen mù mịt trong núi Quan Tài, không còn thấy tăm tích đâu nữa.

Tôi vội cúi người xuống quan sát, không thấy Tôn Cửu gia ngã xuống chỗ

nào, nhưng lại trông thấy từ cần cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ,

nhung nhúc bò ra một vật thể đen ngòm như mực, tựa hố đám lông đen mọc

trên xác chết, vừa ngắn vừa nhỏ. Xác cổ nằm trong quan quách kín bưng

nhiều năm, đột nhiên tiếp xúc với không khí lưu động bên ngoài, lớp da của thi

thể sẽ nảy sinh biến hóa dữ dội, co rút khô héo trong chớp mắt, đồng thời mọc

ra một lớp lông mao mốc meo, nhưng ngoại trừ Phong Soái Cổ ra thì các xác

chết trong thôn Địa Tiên đều lồ lộ trong hang động ngầm suốt mấy trăm năm,

chẳng hề có quan quách khâm liệm, vậy mà lại xuất hiện thi biến thế này, quả

là hết sức bất thường.

Sương mù đen trong hẻm núi mỗi lúc một nhiều, vệt sáng trời khi có khi

không trở nên ảm đạm lạ thường, nhưng lần này, khoảng cách giữa tôi và thi

thể Phong Soái Cổ rất gần, nhìn thấy hết sức rõ ràng, vật chất màu đen ở bên

trong xác chết chính là bóng ma” rất giống hình người mà chúng tôi từng

trông thấy trong hang ngọc phía trước Linh Tinh điện. Trong bức Bỉnh chúc dạ

hành đồ cũng ngầm miêu tả thứ vật chất màu đen như bóng ma này.

Bọn chúng tuồng như có thể hút chặt lên vách núi để di động nhanh

chóng, tỏa ra một mùi xác thối kỳ dị, hình thái bên ngoài không cố định, hơn

nữa còn không sợ nước lửa đao thương, xác chết bị thứ này bám vào có thể

không thối rữa, không cương hóa, thậm chí cả máu thịt trong cơ thể cũng

không hề biến chất. Thời kỳ Vu Tà, người ta coi nó là hoạt đan trấn thi, còn

Quan Sơn thái bảo Phong Soái Cổ lại xem đấy là điềm báo thi hài hóa thành

tiên.

Ngoài bức tranh do Phong Soái Cổ vẽ, cùng với các xác chết ở Linh Tinh

điện và bên trong mộ thất, chắc tôi còn trông thấy vật này ở một số nơi khác

nữa, hình như ở ngay trong núi Quan Tài, thậm chí là mộ cổ Ô Dương vương,

và khu vực quan tài treo trong hẻm núi, chỉ có điều, ấn tượng ban đầu luôn

giữ vai trò chủ đạo, tôi luôn cho rằng đấy là “thi tiên” do thứ gì đấy luyện hóa

thành, mà quên mất vô số chi tiết sờ sờ trước mắt. Thứ vật chất màu đen này

có lẽ là một loại cỏ rêu sống trong môi trường ẩm mốc tối tăm, hoặc nói cách

khác, chính là rêu xác vẫn được đề cập đến trong đạo phong thủy.

Thuật phù thủy Vu Tà và thuật Quan Sơn chỉ mê mà nhà họ Phong nắm

giữ, đều phát xuất từ phép phong thủy cổ, trong đó phong thủy thiên tinh

chiếm tỷ trọng rất lớn. Những thứ này và thuật phong thủy âm dương được

Mô Kim hiệu úy truyền đời trên thực tế đều là phân nhánh của quẻ cổ Chu

Thiên, hoàn toàn có thể nói là đồng tông đồng nguyên, cùng một tông chỉ là

trong vòng tạo hóa, trời và người hợp nhất, chỉ có điều phong thủy cổ thâm ảo

khó hiểu hơn nhiều, có rất nhiểu lý luận không thiết thực, sau thời Hán đa

phần đã không còn sử dụng nữa. Nhà họ Phong nhờ trộm mộ ở khu vực hẻm

núi Quan Tài này mà học được dị thuật, nội dung vân là phép cổ từ thời Tam

Đại, có rất nhiều điểm khác biệt so với thuật phong thủy của Hình thế tông mà

tôi xưa nay vẫn tiếp xúc, vì vậy mạch suy nghĩ trong đầu tôi từ đầu tới giờ vẫn

chứa hề chuyển ngoặt theo hướng này, giờ đây đột nhiên tỉnh ngộ ra, lập tức

hiểu được bảy tám phần.

Hẻm núi Quan Tài có hàng nghìn hàng vạn cỗ quan tài treo khác nhau, mà

thần mạch Bàn Cổ trong núi Quan Tài lại là đất cực âm tàng phong tụ khí, bên

trong chôn vùi vô số quan tài nhỏ, những cơ quan nội tạng của xác chết ấy đặt

trong núi nhiều năm sinh biến, mọc lên một lớp rêu màu xanh đen, có thể ký

sinh lên người sống hoặc xác chết. Loại rêu thịt này chính là “hoạt đơn” mà các

thầy mo thời kỳ Ô Dương vương dùng để giữ gìn dung nhan và chống thối rữa

cho xác chết.

Về sau, các thấy phù thủy phát hiện vật này tuy có thể bảo tồn xác chết

vạn năm không tiêu tan, nhưng lại không thể để nó rời khỏi núi Quan Tài, một

khi rời khỏi đất tàng phong tụ khí, nó sẽ lợi dụng hình hài vật chủ mà sinh sôi

nhanh chóng, sinh linh trên thế gian ắt sẽ gặp phải họa hại khôn lường, vì vậy

trên bia cáo tế mới đề cập đến chuyện “đào đứt địa mạch, bít núi trấn áp”, núi

Quan Tài trở thành cấm địa thời cổ đại.

Dị thuật Phong Soái Cổ học được, quá nửa xuất phát từ núi Quan Tài, thêm

vào đó, ông ta lại mê muội với việc tham ngộ thiên cơ để chứng đại đạo, vì vậy

mới sinh ra vọng tưởng “hoạt đơn” trong núi, ý đồ lợi dụng vật này để tu luyện

thành tiên, bèn xây dựng mộ cổ thôn Địa Tiên hòng khôi phục long khí trong

địa mạch. Thực ra, cũng không thể nói là Phong Soái Có tính toán sai lầm, đến

giờ nhân quả tuần hoàn, tất cả đều xuất hiện đúng như sự tính toán và bố trí

của ông ta thuở sinh tiền, nếu những “thi tiên” kia từ đây tản đi khắp nơi, thật

không biết sẽ có bao nhiêu người sống bị bọn chúng độ hóa nữa?

Trong bộ sách Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật mà tôi thuộc như

cháo chảy, quyển chữ “Vật” cũng có ghi chép về thứ rêu xác này, viết rằng

“bên dưới mạch xấu không gì tốt lành, rêu xác lâu ngày sinh ra thịt, để lâu

năm kết thành hình người, truy đuổi cắn nuốt dương khí của người sống, hễ

rời khỏi mộ sẽ gây ra đại dịch trên thế gian”. Đó đều là vật hung sinh ra trong

những chốn mồ hoang mộ cổ, xét từ góc độ nào đấy, chúng khá giống với Cửu

Tử Kinh Lăng giáp bảo vệ lăng mộ, chỉ có điều, một cương một nhu, vả lại thứ

rêu xác này gần như không có nhược điểm nào cả.

Trong hẻm núi Quan Tài, từ quan tài treo trên vách đá cho tới địa cung mộ

cổ, chỗ nào cũng có rêu mốc thối rữa, nhưng tôi nhất thời bị che mắt, hiểu lầm

rằng hẻm núi này là chốn đất báu phong thủy, nơi các bậc tiên hiền ẩn sĩ chôn

xác, không hề nghĩ đến chuyện thi tiên trong truyền thuyết thì ra lại là thứ rêu

mọc từ xác chết kia.

Trên vách núi dựng đứng, mặc dù tôi đã hiểu được chân tướng của thi tiên,

nhưng cũng chẳng ích lợi gì, rêu xác ký sinh trên tử thi và truyền thuyết về thi

tiên trong mộ Địa Tiên về cơ bản là một. Lúc này, thứ rêu xác màu đen trong

thi thể của toàn bộ người chết trong thôn Địa Tiên đều đang nhung nhúc nhu

động ra khỏi thân thể vật chủ, bám vào vách núi bò đi khắp tứ phía. Nếu để

bọn chúng thoát ra khỏi hẻm núi này, ắt sẽ gây họa lớn cho nhân gian.

Tôi thấy lúc này có lấy cứng chọi cứng cũng vô ích, nhân lúc Shirley Dương

đẩy quan tài xuống chọi rơi hai cái xác cổ bị rêu xác bám lên, vội vàng dịch

người đến chỗ phía trên Tuyền béo, rồi cùng Shirley Dương và Út thả phi hổ

trảo xuống, kéo cậu ta lên khỏi cỗ quan tài treo lung lay như sắp rụng đó.

Tuyền béo vừa đánh một vòng qua cửa địa ngục, liền đưa tay lên quệt mồ hôi

trên mặt, rối rít hỏi tôi: “Tôn Lão Cửu tèo rồi hả?”

Tôi gật gật đầu: “Chắc là rơi xuống sông bị nước cuốn đi rồi, cũng có thể rơi

vào núi Quan Tài tan xương nát thịt, trước mắt không thể xác định, chỉ tiếc tôi

vẫn còn một câu rất quan trọng chưa kịp nói với lão ta, phỏng chừng không

còn cơ hội để nói nữa rồi.. ”

Shirley Dương và Út thấy Tôn Cửu gia không rõ tung tích, không khỏi buồn

rầu, nhưng tố chất tâm lý của Shirley Dương rất tốt, lúc này vẫn giữ được bình

tĩnh, cô hỏi tôi: “Anh Nhất, những thi thể trong thôn Địa Tiên hình như đều bị

thứ sinh vật gì đó ký sinh, xem ra chúng ta không ngăn chặn chúng được đâu,

giờ phải làm sao đây?”

Shirley Dương tâm cơ nhạy bén, phản ứng còn nhanh hơn, sau khi nhìn rõ

diện mạo của thi tiên, quả nhiên đã có suy nghĩ giống tôi. Tuy cô không hiểu gì

về phong thủy, nhưng cũng đã đoán ra ngay trên những cái xác ấy có vật ký

sinh, có điều, nay chúng tôi đã rơi vào tuyệt cảnh, muốn sống sót thoát khỏi

chỗ này còn khó, lấy đâu ra cách đối phó với đám rêu xác trong núi Quan Tài

này chứ?

Núi Quan Tài nằm vắt ngang hẻm núi đã dần dần sụp đổ, nhưng âm khí

trong lòng núi mãi không tan, sương đen cuồn cuộn tuôn ra tựa hồ vô cùng vô

tận. Từng đợt từng đợt mây mù thoáng ẩn thoáng hiện, khiến ánh sáng trong

hẻm núi càng lúc càng nhạt nhòa, trước tình thế ấy, tôi cũng chỉ biết lo lắng

suông mà thôi. Nếu tiếp tục men theo điểu đạo sạn đạo lên trên, không biết

lúc nào mới trèo qua được vách đá dựng đứng cao cả nghìn thước này, vả lại

tâm lý và thân thể của cả bọn đều đã đạt tới cực hạn, chỉ sợ leo chưa được

nửa chừng đã bị lũ rêu xác đang sinh sôi nhanh chóng kia bắt kịp lấy mạng.

Út thấy tôi trù trừ do dự, vội năn nỉ tôi chớ có ý định nhảy xuống nước

thoát thân, cô không sợ trèo đèo vượt núi, chỉ mỗi tội không biết bơi, từ xưa

đã có một nỗi sợ thâm căn cố đế với những dòng nước xiết.

Tôi bảo cô không cần lo lắng, tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện chạy

bằng đường thủy, trong hẻm núi này nước chảy rất xiết, dù người bơi giỏi đến

mấy, nhảy xuống đó cũng chẳng sống nổi. Nhưng lòng tôi lúc này cũng đang

như lửa đốt, lũ rêu xác ở xung quanh phỏng chừng chỉ mấy phút nữa sẽ áp

sát tới, rơi vào cảnh ngộ khốn cùng này, trừ phi mọc cánh bay thẳng lên trời,

bằng không làm sao có thể thoát khỏi đại nạn dây?

Tuyền béo ngó nghiêng xuống dưới, đoạn nói: “Đường thủy tuy nguy hiểm,

nhưng dựa vào cặp giò của chúng ta mà chạy thì mười phần chết tám là cái

chắc, trước mắt chỉ có cách học theo Tôn Lão Cửu, nhảy xuống nước lẩn vào

Long cung mà thoát thân...”

Tôi hiểu Tuyển béo hơn ai hết, cậu ta là loại người chết đến đít vẫn còn

cứng miệng, câu nói vừa rồi chắc chắn chỉ để mình thêm vững dạ mà thôi.

Nhưng kẻ nói vô tâm, người nghe hữu ý, mấy lời này lọt vào tai tôi, đặc biệt là

hai từ “Tôn Lão Cửu” và “Long cung”, bất giác một ý nghĩ lóe lên trong đầu...

Trên người Tôn Cửu gia có rất nhiều dấu hiệu khiến người ta khó lòng hiểu

nổi, lão ta bám mình trên vách đá, không ngờ lại có thể tránh được rêu xác,

khiến tôi khi ấy còn ngờ vực là thi tiên mở long nhãn, trong trạng thái “long

thị” không thể nhìn thấy loại tồn tại không phải người, không phải ma như lão

ta. Tuy tôi đã nghe nói đến truyền thuyết này từ rất lâu, nhưng cách nói

“người không thấy gió, ma không thấy đất, cá không thấy nước, rồng không

thấy mọi vật”, lại là từ miệng Trương Doanh Xuyên, đây cũng chính là chỗ bí

ảo của gương cổ Quy Khư và hai miếng quẻ phù bằng đồng xanh.

CHƯƠNG 62: THIÊN NỘ

Mỗi khi tôi nhớ đến miếng quẻ phù bằng đồng xanh ấy, thảm trạng bị lôi

hỏa thiêu đốt của Lão Dương Bì sau khi thi biến mười mấy năm trước lại hiện

lên rõ mồn một như vừa mới hôm qua. Thứ rêu xác kia là do xác thối trong

huyệt nhãn phong thủy chuyển hóa mà thành, nếu đã mở ra long thị, đương

nhiên cũng thuộc một dạng thi biến, những thứ rêu thịt rêu xác này cực kỳ âm

trầm thối nát, lửa thường không thể hủy diệt nó được, có lẽ mảnh long phù

bằng đồng xanh trong túi tôi đây, mới là cơ hội duy nhất.

Ý niệm vừa lóe lên, tôi lập tức xé toác cái túi kín mang theo bên mình, lấy ra

mảnh long phù đồng xanh, Tuyền béo ở bên cạnh hình như cũng sực hiểu ra ý

đồ của tôi, vội kêu lên: “Không được đâu, vốn đã chẳng đổ đấu được món gì ra

hồn, lại còn phải bù cả miếng quẻ phù vào nữa, tham ô lãng phí là tội lớn lắm,

buôn bán lỗ vốn tuyệt đối không nên làm...”

Tôi biết miếng bùa bằng đồng này đối với chúng tôi có ý nghĩa không phải

tầm thường, nhưng trong ba món đồ đồng xanh ở Quy Khư mà chúng tôi có

được, hai món còn lại đã bị mất hết tính đồng, chỉ còn lại miếng long phù

đứng đầu trong bốn miếng quẻ phù này, vả lại, nó còn được chôn trong động

Bách Nhãn nhiều năm, hải khí ngấm vào trong đồng không tiêu tán, sau khi

cân nhắc thiệt hơn, tôi thấy chỉ còn cách dằn lòng bỏ đi vật này mới có khả

năng phá hủy hoàn toàn thôn Địa Tiên. Đồng thời, sinh tử của bốn người

chúng tôi cũng đều do nó quyết định.

Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến răng, nhìn cái xác không đầu bên dưới đã đến

gần trong gang tấc, vung tay ném long phù xuống. Hải khí bên trong chất

đồng của long phù trải qua mấy nghìn năm vẫn chưa tan, chỉ thấy rêu xác bên

trong hình hài người chết khi phun nuốt khí đen, đã cuốn lấy cả miếng long

phù vào bên trong.

Gần như đồng thời, trong hẻm núi, mây đen đã che đầy trời, tối đến mức

mặt đối mặt cũng không nhìn thấy đường nét hình dáng của người kia, một

đợt sấm ì ùng vang lên trong màn mây mù mịt. Tôi biết, đây là điềm sấm sét

sắp giáng xuống, vội vàng bảo mấy người kia nằm rạp xuống đất. Tôi chưa kịp

cúi người né tránh, đã thấy một tia sét tựa như rồng uốn xẹt qua trước mắt,

làm khoảng không gian giữa hai vách núi dựng đứng bừng lên một quấng

sáng chói mắt, sấm vang sét giật ngay bên cạnh, tiếng nổ ầm ầm đinh tai

nhức óc, khiến nghìn vạn cỗ quan tài trong hẻm núi đều nhất tề rung lên bần

bật.

Những người canh giữ mộ cổ Ô Dương vương bị Quan Sơn thái bảo Phong

Soái Cổ giam cầm, từng giúp ông ta suy đoán thiên cơ, cuối cùng ứng nghiệm

như thần, núi Quan Tài đã bị cơn lũ cuốn từ lòng đất ra đến hẻm núi lớn bên

ngoài, nẳm lơ lửng vắt ngang trên dòng sông cuốn cuộn gào thét, vô số thi

tiên trong núi thừa cơ thoát ra ngoài, hoàn toàn ứng hợp với tượng “phá sơn

xuất sát” miêu tả trong điềm trời.

Chúng tôi bị vây khốn trên vách đá trong hẻm núi, không còn đường thoát,

trong lúc tuyệt vọng đã chụp được một cọng rơm cứu mạng. Nói không chừng,

đồ đồng xanh ở Quy Khư lại cổ thể xoay chuyển càn khôn, mấy món quẻ phù,

gương đồng ấy đều là bí khí phong thủy từ thời thượng cổ, ngoài tác dụng

chiêm nghiệm phong thủy, quẻ tượng ra, hải khí ẩn giấu bên trong chát đồng

cũng là thứ phi phàm.

Năm xưa, Láo Dương Bì mất mạng trên thảo nguyên Mông Cổ, trước lúc

lâm chung đã lén lút nuốt quẻ phù vào bụng, khiến lũ hoàng bì tử đào huyệt

trộm xác, lại thần xui quỷ khiến thế nào bị chúng tôi đào lên, cuối cùng thì bị

sét đánh, thi thể Lão Dương Bì và con chồn lông vàng đến trộm quẻ phù đều

bị lôi hỏa giáng trúng, cháy thành một đống than.

Đáng tiếc, người xưa đã khuất, tôi vĩnh viễn không thể biết được dụng ý

thật sự của Lão Dương Bì nữa, nhiều năm sau đó, tôi lại từ chỗ lão Trần mù và

Tôn Cửu gia ít nhiều nghe được chút thông tin, dựa vào đó suy đoán, có thể

thấy năm xưa Lão Dương Bì quả thật có ý đồ quá phận. Từ xưa, lão đã nghe

nói long phù không mắt là bí khí phong thủy, toan chiếm lấy làm của riêng sau

khi chết hòng giúp con cháu đời sau được phát vượng, nên mới sắp xếp ra

chuyện quái đản như khỏa thân chôn chổng đẩu xuống đất như thế. Chỉ là, lão

không biết hành vi ấy rất dễ bị trời trừng phạt, cuối cùng phải nhận lấy kết cục

“mưu mô vô dụng, quỷ kế thành không”

Trước khi tìm thấy di thể của trung đoàn trưởng Phong trong hẻm núi Quan

Tài, tôi từng trông thấy trong quan tài treo trên vách đá có xác của một ẩn sĩ

không bị thối rữa, cái xác ấy vẫn còn nguyên cả râu tóc, thần thái y như lúc

sống, thoạt nhìn toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, hoàn toàn không giống xác cổ

nghìn năm, có lẽ là cương thi từ thời cổ đại còn lưu tồn đến ngày nay. Bấy giờ,

tôi đang chuẩn bị sử dụng quẻ phù và gương cổ suy đoán phương vị của mộ

cổ Địa Tiên ngay cạnh cỗ quan tài treo ấy, kết quả khiến gần đó giáng xuống

một trận sấm sét ì ùng, làm cả bọn kinh hãi một phen.

Trải qua hai trường hợp như vậy, khiến tôi lờ mờ có cảm giác miếng long

phù bằng đồng xanh này còn ẩn giấu rất nhiều bí mật, đây có thể là một

miếng “lôi phù”. Kỳ thực, khi xác khô thi biến, trong xác có rất nhiều khí ác cực

âm, gặp phải dương khí ở thế giới bên ngoài sẽ nảy sinh hiện tượng âm dương

va chạm, lại được luồng khí hỗn độn mờ mịt bất minh trong đồ đồng xanh ở

Quy Khư kia hấp dẫn, liền gây ra phóng điện ở tầng mây thấp, sản sinh sấm

sét trong thời gian cực ngắn.

Người cổ đại tin vào câu chuyện thần thoại “ở trong Lôi trạch có Lôi thần,

đầu rồng mình người, vỗ bụng thành sấm”, ngỡ rằng sấm sét lôi điện đánh

người phá nhà là do trời cao nổi giận, trừng phạt con người. Đến thời Hán,

người ta bắt đẩu dùng lý luận hai khí âm dương tác động lẫn nhau để giải

thích hiện tượng sấm sét, đưa ra quan điểm “Âm dương kề nhau, cảm thành

sấm, kích thành sét”, có nghĩa là, âm khí và dương khí tiếp xúc, phát sinh chấn

động sẽ hình thành sấm, khi chấn động kịch liệt sẽ hình chành sét giáng

xuống.

Mặc dù tôi cũng từng có ý nghĩ này, nhưng không thể xác định sự tình thực

hư, lúc này đã rơi vào đường cùng, không còn phương cách nào khác nữa, khó

khăn lắm tôi mới nghĩ ra được một cách, trong đầu chỉ còn ý nghĩ trời không

tuyệt đường người, tâm trạng đâu mà xem xét nó có khả thi hay không, lập

tức cắm miếng long phù nhắm vào đống rêu xác kia ném tới, vừa khéo rơi

đúng vào cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ.

Ai ngờ thi khí trong núi Quan Tài kia quá nặng nề, trong đạo phong thủy gọi

là “phá sơn thấu huyệt, quần long kinh chập”, là điềm cực hung, lập tức khiến

trong hẻm núi sâu này xuất hiện sấm sét. Sấm sét này không phát ra từ tầng

mây trên cao, mà lại nảy sinh trong màn sương đen dưới đáy hẻm núi, chỗ tiếp

giáp với mặt nước.

Thường có câu, “sấm đánh không kịp bưng tai”, sấm sét trong hẻm núi bảo

đến là đến, trong tiếng sấm ì ùng lúc đấu, bốn bề vẫn còn tối như hũ nút,

nhưng khi một tia chớp hình cành cây chĩa nhánh vạch ngang hẻm núi tựa

như rồng thần thoạt hiện, ánh điện quang chói mắt lập tức chiếu sáng bừng

cả vách đá lên.

Điểu đạo nơi chúng tôi náu mình cực kỳ dốc và chật hẹp, đa phần không

rộng quá một thước, khi tia sét lướt qua bên cạnh, tôi còn chưa kịp rạp người

né tránh, tranh thủ ánh sáng lóe lên trong chớp mắt ấy, có thể nhìn thấy bốn

phía xung quanh đều phủ đầy rêu xác. Thi thể của vô số người chết trong thôn

Địa Tiên hầu hết đều đã bị xé toạc hình hài, bên trong lộ ra từng mảng rêu xác

đen kịt nhu động, hình thái thiên kỳ bách quái, nhầy nhụa máu tươi bám lên

vách đá, chen chúc lúc nhúc bò lên cao.

Tia sét tựa như con rồng lướt qua bầu không kia lóc lên rồi vụt tắt, hẻm núi

Quan Tài lại chìm vào màn sương đen mù mịt mênh mang, không gian trong

hẻm núi từ tối tăm chuyển sáng rói lại chìm vào bóng đêm chỉ trong một cái

chớp mắt, hai mắt tôi bị ánh chớp làm lóa, chưa kịp chớp chớp đã nghe tiếng

sấm nổ ùng ùng, tiếng vang còn chứa dứt, dưới đáy khe núi tăm tối bỗng

bùng lên vô số quả cầu lửa, tất cả đám rêu xác đều bị lôi hỏa giáng trúng,

dường như mảng thi khí mù mịt như sương ở xung quanh cũng bùng cháy,

thiêu đốt cả không khí.

Lôi hỏa lan ra cả hai vách núi ké bên núi Quan Tài, tựa một cơn lốc xoáy

vừa nóng bỏng dị thường lại vừa lạnh buốt thấu xương cuốn lấy, tôi nằm mơ

cũng không thể ngờ mình lại gây nên biến động lớn chừng này, chỉ thấy

những mảng rêu xác lớn nhỏ xung quanh đều bị cầu lửa bao bọc, không

ngừng vùng vẫy rơi khỏi vách đá dựng đứng, bèn vội vàng nằm rạp xuống né

tránh. Lúc này, không biết có phải tai bị ong ong vì tiếng sấm hay không, mà

tôi lại nghe thấy trong hẻm núi dường như toàn những tiếng gào rít thê thiết

dị thường.

Trong lý luận thông thường của thuật phong thủy thanh ô, vẫn cho rằng

lửa trên thế gian ngoài quỷ hỏa thần bí ra, còn ba loại lửa khác nữa, lần lượt là

nhân hỏa, long hỏa và thiên hỏa. Long hỏa có thể cháy trong nước, nhân hỏa

là thứ lửa bình thường khi đốt củi đốt than; còn thiên hỏa tức là lôi hỏa, hay

còn gọi là hận thế hỏa, nếu đức hạnh của người đời suy đồi bại hoại, hoặc có

hiện tượng vật già hóa tinh hóa quái, sẽ rất dễ bị lôi hỏa giáng xuống. Dân

gian cho rằng, đó là Lôi thần mở mắt, chuyên tru diệt yêu tà gian ác, kỳ thực,

đó chính là dị biến của “khí” trong bốn yếu tố phong thủy “hình, thế, lý, khí”.

Dị biến dẫn đến thiên địa mất cân bằng, mới khiến trong tầng mây có lôi điện

giao kích.

Trong không khí nồng nặc mùi ô zôn tanh tanh, cùng với mùi hôi thối khi

đốt xác chết, làm chúng tôi cơ hồ tắc thở, Hai mắt tối sầm lại. Bốn người

chúng tôi vội đeo mặt nạ phòng độc, nằm rạp người xuống không dám nhúc

nhích, cũng may quần áo mặc trên người đều bằng chất vải chịu nước chịu

lửa, lại thêm mặt nạ phòng độc ngăn cách hơi thở của người sống với bên

ngoài nên mới may mắn thoát nạn, bằng không chỉ trong giây lát, cả bọn đã bị

lôi hỏa thiêu chết trong hẻm núi Quan Tài này rồi.

Bốn người đều kinh hồn táng đởm, không biết đã bao lâu trôi qua, tôi nhìn

qua lỗ quan sát của mặt nạ phòng độc, chỉ thấy màn sương thi khí bị lôi hỏa

thiêu đốt dã tan hết, ánh mặt trời lại chiếu rọi xuống hẻm núi sâu, vô số muội

than đen kịt bay khắp trời, vẫn còn một vài đốm lửa chưa tắt hẳn, Xem chừng

kiếp nạn đã qua, bấy giờ tôi mới cởi bỏ mặt nạ phòng độc, một luồng gió núi

lành lạnh ùa tới, tuy rằng mùi cháy khét nồng nặc trong không khí vẫn chưa

tan hết, nhưng cảm giác bức bối khó chịu nơi lồng ngực đã lập tức bớt đi phần

nhiều.

Mọi người trên vách đá đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trong tầm mắt toàn

những cảnh tượng ghê hồn khiếp vía, sau phen chết hụt, càng khiến người ta

thổn thức không thôi. Thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài bị lôi hỏa giáng xuống,

mưu đồ phá sơn xuất sát của địa tiên Phong Soái Cổ tựa như băng chảy mây

tan, trong khoảnh khắc đã thành tro bụi. Vệt nắng trên đỉnh hẻm núi lại hiển

lộ, ngoài những vết tích cháy đầy vách đá, không còn xác chết nào nữa, chỉ có

vô số mảng muội than đen kịt sót lại sau khi lôi hỏa thiêu đốt thi hài dập dờn

phiêu đãng trong làn gió núi, như một trận tuyết đen giăng giăng khắp bầu

trời trong hẻm núi.

Trong núi Quan Tài gác nghiêng lên hai vách núi đá, “ván quan tài” ở bốn

phía xung quanh đã bắt đầu rạn nứt đổ vỡ, địa mạch Bàn Cổ và thôn Địa Tiên

trong núi đều bị nước lửa hủy hoại sạch trơn, trong đống bùn nước nhầy nhão

chỉ còn lại một đống gạch ngói tan hoang, ngọc thạch bên trong và nham

thạch vỡ vụn, những khối đá, mảng ngói vỡ không ngừng rơi xuống dòng nước

bên dưới.

Điều khiến người ta bất ngờ nhất là, thôn Địa Tiên quả nhiên đã ứng với

điềm “phá sơn xuất sát”, sự việc đã định sẵn trong mệnh trời rốt cuộc vẫn xảy

ra, đây là kết quả chân thực mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương

dùng quẻ cổ suy diễn cho Phong Soái Cổ, nhưng trong quẻ tượng này lại ẩn

giấu lời nguyền ác độc của bọn họ.

Ngay cả bậc kỳ nhân có dị thuật thông thiên như Phong Soái Cổ cũng

không phát giác được bên trong quẻ tượng này lại chôn giấu huyền cơ, những

người bảo vệ lăng mộ bị Quan Sơn thái bảo dùng cực hình hành hạ ấy chỉ tính

ra “phá sơn xuất sát” là điểm triệu cuối cùng của thiên tượng, nhưng lại giấu

đi kết quả sẽ xuất hiện ngay sau đó, khiến thôn Địa Tiên mà Phong Soái Cổ

dốc hết tâm cơ xây dựng cuối cùng bị hủy bởi lôi hỏa.

Trải qua những sự việc này, khiến chúng tôi không thể không tin, trong một

cõi nào đó, đích thực có thiên ý sắp đặt. Kỳ thực, các bậc tiên hiền cổ đại sớm

đã nói rõ đạo lý này: “U thâm vi diệu, ấy là cơ trời; tạo hóa biến dịch, ấy là lẽ

trời; đem thiên lý ứng với người, ấy là phải; tiết lộ thiên cơ để mê hoặc người,

trời ắt trừng phạt.”

Có thể dùng nguyên lý biến hóa của trời đất để chỉ dẫn cho mọi người, như

vậy mới có thể sinh sôi không ngừng, khoan hậu bao dung; nhưng thiên cơ vi

diệu sâu xa, phàm phu tục tử ở cõi thế tục không nên trộm ngó bí mật trong

đó, bằng không ắt sẽ dẫn đến tai họa, hại mình hại người. Có lẽ thuật luyện

đơn tu tiên, chưa chắc chỉ là kỳ thuật trong truyền thuyết, nhưng cần phải có

tấm lòng phẳng lặng, không muốn không cầu, luyện tập lâu dài sẽ có thể

cường gân kiện cốt, diên niên ích thọ. Tiếc rằng địa tiên Phong Soái Cổ kia vổn

là kẻ tuyệt thế kỳ tài, nhưng lại mê muội với pháp môn cứu thế độ người, còn

ấp ủ những ý nghĩ ngông cuồng trái phận, bức ép những người dân còn sót lại

từ thời kỳ Ô Dương vương suy tính thiên cơ, ý đồ luyện ra thi tiên kết quả bị

bọn họ lừa gạt đến nỗi tự châm lửa thiêu mình, nhân lấy kết cục tan thành tro

bụi.

Hẻm núi Quan Tài này mây mưa vô thường, trời vừa mới quang, đột nhiên

lại có mây mù tụ hợp, thoáng cái đã thấy mưa to như trút sầm sập đổ xuống,

rửa hết những bụi tro bay lơ lửng trên không trung. Chúng tôi bị mưa xối cho

toàn thân ướt sũng, lập tức cảm thấy xương cốt rã rời, ba vạn sáu nghìn lỗ

chân lông từ trên xuống dưới thảy đều đau nhức, đành nán lại trong hốc đá

đặt quan tài treo trên lưng chừng vách đá nghỉ ngơi cho lại sức.

Mọi người tuy mệt mỏi rã rời, nhưng cả bọn sống sót qua kiếp nạn, lại được

nhìn thấy ánh mặt trời, mà thứ đặc sản “thi tiên” của núi Quan Tài cũng bị hủy

diệt, ai nầy đều lấy làm vui mừng.

Tôi và Tuyền béo nhắc lại chuyện bị Tôn Cửu gia dụ đến núi Quan Tài đổ

đấu, coi như một cú va vấp, cả chuyến đi này hoàn toàn bị người ta lợi dụng

làm tay đấm. Trong địa mạch Bàn Cổ tuy có thi đơn, nhưng lại không phải thứ

nội đơn có thể cứu mạng Đa Linh, hai thứ này hoàn toàn khác nhau; vả lại,

cuối cùng Tôn Cửu gia vẫn không rõ tăm tích, muốn tìm lão ta hỏi tội cũng

khó. Nhưng phen này có thể an toàn trở ra, không bị mất chân cụt tay, cũng

coi như là tổ sư gia hiển linh, khí số của Mô Kim hiệu úy chúng tôi chưa tuyệt

rồi.

Hai chúng tôi càng nói càng phẫn hận, nước bọt bắn tung tóe, những lời ác

độc có thể nghĩ được đều tuôn ra hét một lượt, bây giờ thôn Địa Tiên đã

không còn tồn tại nữa, nếu Tôn Cửu gia có mặt ở đây lúc này, không khéo

chúng tôi ăn tươi nuốt sống lão ta tại chỗ cũng nên.

Út không hề biết chuyện đi Nam Hải mò ngọc, cũng không hiểu tại sao

chúng tôi lại cáu tiết lên như thế, chỉ cảm thấy đi một vòng trong huyệt mộ

của Phong Soái Cổ mà vẫn còn sống sót trở ra đã coi như niềm vui bất ngờ rồi,

bèn lên tiếng hỏi rõ đều đuôi câu chuyện.

Tuyền béo lập tức gập ngón tay đếm ra mười tội lớn của Tôn Cửu gia, đến

cả vấn đề tác phong năm xưa cũng tính vào, đương nhiên chuyện này chỉ là

cậu ta nghe hơi nồi chõ thôi. Nghe nói, năm xưa khi Tôn Cửu gia vừa từ nông

trường cải tạo lao động về, đã lợi dụng cơ hội tham gia công tác khảo cổ tại

hiện trường lén lút quan hệ với nữ chủ nhà, kết quả bị nông dân trong thôn

bắt được quả tang. Thời bấy giờ, đó là chuyện lớn tày đình, lão ta bị tẩn cho

một trận tại chỗ, nếu không phải có các đồng nghiệp nói đỡ thì đã bị dân làng

bắt trói giải đến công an rồi.

Về sau, tổ chức yêu cầu Tôn Cửu gia viết kiểm điểm, lão ta lại giảo biện nói

rằng mình và người đàn bà nông thôn kia không hề có vấn đề về mặt tác

phong. Sự việc lúc ấy hết sức đặc thù, vì bấy giờ ở nông thôn toàn nhà bằng

gạch mộc, nhiều rận vô cùng, chúng nhảy lên khắp người, lão ta và bà chủ

nhà ban đêm rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn ngồi trên giường lột hết quần

áo ra bắt rận cho nhau, ngoài ra không làm bất cứ điều gì khác. Thái độ của

Tôn Cửu gia trước sự việc này cực kỳ ngoan cố, nhất quyết không chịu thừa

nhận chân tướng, khai ra sự thật.

Tuyền béo còn nói, Tôn Cửu gia chính là loại người như vậy, len lỏi vào kẽ

hở của công cuộc cải cách mở cửa, chấn hưng kinh tế, còn kiếm được cái học

hàm giáo sư rởm, kỳ thực đằng sau lớp vỏ bọc ấy vẫn còn không biết bao

nhiêu tội ác phản động chưa lộ ra, hạng người này lẽ ra phải xử bắn bảy tám

chín mười lần mới thỏa lòng thỏa dạ được. Cậu ta vốn đã chướng mắt giáo sư

Tôn từ trước, lúc này mồm mép trơn tuột, bịa tạc lung tung bao nhiêu tội ác

xấu xa có thể tưởng tượng được đều áp cả lên người lão ta.

Tuyền béo càng nói càng chẳng ra sao, Shirley Dương và Út đều lắc đầu

không tin. Shirley Dương nói: “Giáo sư Tôn không thể nào là gián điệp của Cục

Tình báo Trung ương Mỹ được, nhưng ông ta là hậu duệ của Quan Sơn thái

bảo, cũng không phải người làm công tác khảo cổ thông thường. Thân phận

chuyên gia giải đọc long cốt, có lẽ đúng là một lớp ngụy trang của ông ta. Việc

mà cả đời này ông ta muốn làm, e rằng chỉ có mỗi chuyện vào thôn Địa Tiên

tìm Phong Soái Cổ thôi, tính cách kiên nhẫn tàn khốc cơ hồ đã đến mức biến

thái, người bình thường căn bản không thể làm nổi, chuyện này hẳn bắt

nguồn từ những gì ông ta phải trải qua trong quá khứ. Việc đã đến nước này

rồi, các anh có hận ông ta mấy cũng vô dụng, nghe tôi khuyên một câu, tha

được cho người ta thì hãy tha đi.”

Tôi nhắc lại lời Shirley Dương: “Tha được cho người ta thì tha, nhưng Tôn

Cửu gia... lão ta có phải là người không? Trên người lão ta có dấu vết bị thi

trùng cắn xé, vai bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xuyên qua mà vẫn như không, thi

tiên căn bản không cảm giác được sự tồn tại của lão ta, thứ hư vô như cái

bóng ấy, rốt cuộc là gì đây ?”

Bọn tôi vừa băng bó vết thương, vừa thấp giọng bàn luận những dấu hiệu

khó thể tin nói xuất hiện trên người Tôn Cửu gia, nhưng trước sau vẫn không

nắm được điểm mấu chốt, không ai nhìn thấu nổi bí mật của hậu duệ cuối

cùng nhà họ Phong. Đang lúc chuyện trò, chợt thấy một cái bóng to tướng

lướt qua vách đá sát bên, cả bọn thảy đều kinh ngạc, trong chớp mắt chỉ thấy

vật thể ấy to đến lạ thường, trên người khoác áo bào đen, leo bám trên vách

đá dựng đứng mà như đi trên đất bằng, bóng lưng lao vút qua màn sương mù

nhanh nhẹn tuyệt luân, đến mức khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi.

CHƯƠNG 63: NGƯỜI BẠN TRẦM LẶNG

Tôi thấy có thứ gì đó lướt qua trên vách núi, thân hình thoăn thoắt, nhanh

không thua gì loài khỉ vượn, chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái, thẩm nhủ

chẳng lẽ là con khi Ba Sơn mà người nhà họ Phong thuần dưỡng, nhưng thể

hình con khỉ Ba Sơn trong hầm phòng không Thanh Khê dường như không lớn

đến vậy, chẳng lẽ trong núi Quan Tài vẫn còn sót lại “thi tiên” hay sao?

Đúng lúc này, cái bóng leo bám trên vách đá kia đột nhiên dừng lại ở chênh

chếch chỗ chúng tôi, tôi vội dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ, lại càng thêm kinh

ngạc bội phần. Bọn tôi đang ở giữa đoạn điểu đạo vừa chật vừa dốc, cách

chúng tôi chừng vài chục mét, có mấy cây cọc gỗ đóng trên vách đá, dùng để

đặt quan tài, con khỉ Ba Sơn đang cõng giáo sư Tôn trên lưng, dừng lại trên đó

bất động trong mưa. Một người một khỉ, cứ thế ngoái đầu lại nhìn chằm chằm

vào chúng tôi, nét mặt đơ ra như gỗ.

Tôi đoán, con khỉ Ba Sơn kia không theo bọn tôi vào hẻm núi Quan Tài,

nhưng nó có linh tính, cứ quanh quẩn ở gần đây, cảm giác được dưới lòng đất

có biến động lớn, liền một mạch vượt núi băng đèo chạy tới, đồng thời tìm

được Tôn Cửu gia trong núi Quan Tài sắp bị hủy diệt, bèn cõng lão ta leo lên

vách đá, đối mặt với chúng tôi lần nữa.

Tôi thấy Tôn Cửu gia buông thỏng một cánh tay, khắp người toàn bùn đen,

gương mặt bị nước mưa xối vào trông nhợt nhạt hết sức, lão ta không cất

tiếng, nhưng tôi có cảm giác, ông chỉ muốn xem xem chúng tôi có chuyện gì

hay không, rồi sẽ lặn đi từ nay không gặp lại mọi người nữa.

Chúng tôi và Tôn Cửu gia cùng con khỉ Ba Sơn cứ nhìn nhau từ xa trên

vách đá, mấy phút liền không ai thốt lên một lời, vách đá trong hẻm núi Quan

Tài này dốc đứng, tôi muốn lại gần lão ta thêm một bước cũng không thể.

Chuyến này, chúng tôi nhặt được mấy cái mạng ở thôn Địa Tiên trở về, may

mà mấy người đều không thương tổn gì, nghĩ lại những gì vừa trải qua, cảm

giác như vừa gặp một cơn ác mộng, đối với những chuyện đã qua, tự nhiên

cũng nhìn thoáng hơn rất nhiều, cảm thấy hành vi của Tôn Cửu gia về tình thì

chấp nhận được, nhưng về lý thì khó tha, tuy tôi và Tuyền béo ngoài miệng nói

dữ, nhưng thực tâm cũng chẳng muốn truy cứu lão ta gì nữa.

Lúc này, tận mắt trông thấy Tôn Cửu gia được con khỉ Ba Sơn kia cứu ra

khỏi núi Quan Tài, tảng đá đè trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống. Chỉ thấy lão

ta hình như muốn trốn đi thật xa, không biết bao giò mới gặp lại, tôi chợt nhớ

ra còn một câu thoại vẫn chưa nói vói lão, bèn khum tay trước miệng, hét về

phía lão ta trong màn mưa: “Tôn Cửu gia, món nợ giữa chúng ta còn chưa

xong đâu, mong rằng ông trời phù hộ cho ông được bình an vô sự, ít nhất là

cho đến khi ông chạm mặt tôi lần nữa.” Tôn Cửu gia nghe tôi nói thế cũng

không biểu lộ gì, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng tôi một lúc, gương mặt không

còn chút sắc máu thoáng lướt qua một nụ cười lạnh lẽo khó nhận ra, đoạn lão

ta khẽ vỗ lên vai con khỉ Ba Sơn một cái. Con khỉ hiểu ý, không buồn liếc nhìn

chúng tôi thêm lần nào nữa, vươn cánh tay tung mình bám lên vách đá, nó

cõng một người trên lưng mà vẫn có thể leo bám trên vách núi dựng đứng

nghìn mét không hề khó khăn, nhổm lên hụp xuống mấy cái đã lên càng lúc

càng cao, rồi biến mất trong màn mưa như trút.

Tôi và Tuyền béo vươn người thò ra khỏi điêu đạo, ngước nhìn lên vách đá

phía trên, chỉ thấy mưa và sương mù mờ mịt, nào còn tăm tích của một người

một khỉ ấy, trong lòng chợt thấy trống trải hoang mang, đành rụt người vào,

tiếp tục ở lại trong hốc đá tránh mưa.

Lúc này, hẻm núi Quan Tài mứa gió tơi bời, chúng tôi không dám mạo hiểm

leo bám lên vách đá ẩm ướt trơn tuột, đành kiên nhẫn đợi mưa lớn tạnh hẳn.

Núi Quan Tài nằm vắt vẻo giữa hẻm núi đã hoàn toàn sụp đổ, vỡ thành vô số

khối đá lớn, bị dòng thác cuốn xuống con sông bên dưới, giờ đang là mùa lũ,

thế nước trong núi rất mạnh, các di tích như mộ Địa Tiên, Linh Tinh điện rơi

xuống nước, lập tức bị nhấn chìm không thấy tăm hơi.

Cả bọn an một ít lương khô rồi ngồi bó gối, mỗi người đều có tâm sự riêng,

trầm mặc không nói năng gì, sau phen lao lực, cơn buồn ngủ ập đến, bất giác,

cả mấy người đều lần lượt thiếp đi.

Vùng đất Vu Sơn xưa nay vẫn nổi danh là chốn thâm u sớm mây chiều

mưa, lúc tôi tỉnh giấc, cơn mưa trong núi vẫn chưa dừng, mãi đến sáng hôm

sau, mây mới tan, mưa mới tạnh, có thể vượt núi băng đèo rời khỏi hẻm núi

Quan Tài. Dọc đường, chúng tôi chỉ hái vài quả dại trong khu rừng gần đó lót

dạ, uống chút nước suối giải khát. Chốn hoang sơn dã lãnh này chẳng có

đường đi, lúc ở trên núi trông lộ trình có vẻ không xa lắm, nhưng khi băng

rừng vượt suối, vẫn phải đi mất gần một ngày trời. Suốt cả chặng dường, bọn

tôi không gặp bóng người nào, càng không thấy tung tích Tôn Cửu gia, cũng

không biết lão ta vẫn còn nán lại trong hẻm núi hay đã chạy đến nơi nào nữa.

Tối hôm sau, chúng tôi mới đến dược cổ trấn Thanh Khê không một bóng

người, vùng núi hiếm khi được ngày quang mây, không sương không khói, chỉ

thấy những vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời đêm, sông Ngân hiện lên rõ mồn

một trước mắt. Vì cả bọn đều có vết thương trên mình, khó lòng ở lại lâu, trời

vừa sáng, chúng tôi lại lập tức ra khỏi núi theo đường sạn đạo, trước tiên tới

trạm y tế huyện Vu Sơn trị liệu, đồng thời thương lượng xem nên xử lý Tôn

Cửu gia thế nào. Tuyền béo nói, lão họ Tôn này thật đáng căm hận, phải băm

vẳm lão ra mới được, nhưng cũng chớ vội làm gì, hòa thượng chạy được thì

chùa vẫn còn đó, khi nào về Bắc Kinh sẽ tới hốt ổ nhà lão, lên trời thì đuổi tới

điện Lăng Tiêu, xuống biển thì truy tới cung Thủy Tinh, dù lão có là Kim Sí Đại

Bàng bên cạnh Như Lai thì cũng phải đến Tây Thiên vặt trụi lông lão, không ăn

được bữa Mãn Hán toàn tiệc ở quán Chính Dương Cư thì không xong.

Tôi lo nhất là Tôn Cửu gia còn có mưu đồ gì khác, trên người lão ta xảy ra

rất nhiều hiện tượng kỳ quái khó lòng lý giải nổi, càng suy đoán lại càng cảm

thấy lão ta không phải người bình thường, thảng như chúng tôi vô ý giúp kẻ

xấu làm điều ác, thì tội này thật quá lớn, bất luận thế nào cũng phải nghĩ cách

tìm bằng được lão ta.

Có điều, tôi cảm thấy biện pháp vé Bắc Kinh hốt ổ nhà Tôn Cửu gia của

Tuyền béo cũng chẳng ý nghĩa gì, xét về thủ đoạn hành sự bí hiểm, Tôn Cửu

gia này so với đám tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo của mình tuyệt đối chỉ

hơn chứ không kém. Nếu tôi đoán không sai, trước khi cùng chúng tôi xuất

phát rời Bắc Kinh, lão ta đã hạ quyết tâm bỏ hết gia nghiệp, không trở lại đó

nửa rồi.

Ngay trong ngày, tôi và Shirley Dương ở huyện lỵ gọi điện thoại đường dài

về nhà giáo sư Trần ở Bắc Kinh, thử thăm dò chuyện của Tôn Cửu gia. Quả

nhiên không sai, Tôn Cửu gia đã bàn giao công việc, viện cớ bệnh tật xin nghỉ

hưu sớm về quê, cả gian nhà tập thể kia lão ta cũng trả lại nốt. Hiện giờ,

người ở Bắc Kinh cũng chỉ biết có chừng đó thông tin.

Tôi thấy việc này không có kết quả, nghĩ nhiều cũng vô dụng, đành tạm gác

lại một bên, tĩnh tâm bồi dưỡng sức khỏe. Âm khí trong mộ cổ Ô Dương vương

và núi Quan Tài quá nặng nề, thân thể bốn người chúng tôi đều tích tụ không

ít thi độc, đầu tiên là ho sù sụ không ngừng, hô hấp khó khăn, sau đấy còn

thường nôn ra máu bầm, nán lại trong bệnh viện gần một tuần mà vẫn chưa

khỏi hẳn.

Hôm ấy, trời vừa tối, tôi nằm trên giưòng bệnh truyền dịch, mơ mơ màng

màng gặp phải một cơn ác mộng, tình cảnh trong mộng mờ mịt xa xăm,

dường như tôi trở lại thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài, đi vào gian chính của

nhà cũ họ Phong, thấy trong nhà hương khói nghi ngút, trên tường treo một

bức ảnh thờ, phía trước bày một bàn thờ, trên bàn có bảy đĩa tám bát đựng

các món điểm tâm, hoa quả, cùng với ba cái đầu máu chảy ròng ròng của tam

sinh trâu, dê, lợn, phướn trắng đong đưa phơ phất, rõ ràng là minh đường của

người làm nghề sông nước.

Tôi bước tới trước ban thờ, định nhìn cho rõ xem người trong ảnh là ai.

Dưới ánh nến vàng yọt trong nhà, tôi loáng thoáng nhận ra bóng dáng của

một thiếu nữ con lai. Tôi thầm nhủ: “Đây không phải Đa Linh ư? Sao cô ấy lại

chết... ai đưa linh vị của cô ấy về thờ trong thôn Địa Tiên thế này?” Đang kinh

ngạc không hiểu chuyện gì, tôi chợt nghe trên bàn thờ vang lên tiếng ùng ục,

như thể có con lợn đang vục mõm ăn nước gạo vậy.

Tôi vội cúi đầu nhìn thử, thấy cái đầu lợn bày trên bàn thờ không hiểu sao

lại sống dậy, đang tham lam vơ vét các món điểm tâm hoa quả cúng trên bàn,

máu và nước miếng văng tứ tung, trông hết sức hung tợn đáng sợ.

Tôi thấy thế lền nổi giận, trong lòng dấy lên một cảm giác chán ghét khó tả,

lập tức vớ lấy cán cây phướn trước bàn thờ, chọc vào cái đầu lợn kia, chẳng

ngờ cán phướn bằng giấy bồi mềm quá, hoàn toàn không dồn được sức vào.

Bất giác, tôi cuống lên, trán đầy mồ hôi, đang nóng lòng, chợt cảm thấy vai

mình bị ai đẩy đẩy mấy cái, lập tức giật mình tỉnh mộng.

Tôi trông thấy Shirley Dương và hai người kia đang ở bên cạnh đánh thức

mình dậy mới biết vừa rồi chỉ là mơ, nhưng giấc mơ này thật hết sức kỳ quặc,

vả lại còn vô cùng chân thực, khắp người tôi đã ướt sũng mồ hôi lạnh. Tôi

thầm cảm thấy đây là giấc mộng chẳng lành, lòng vẫn hoảng hốt không yên.

Út tò mò hỏi tôi mơ thấy gì mà sợ đến nông nỗi này, gặp ác mộng thì phải

lập tức nói ra, chỉ cần nói ra là không linh nữa.

Tuyền béo cũng lấy làm lạ: “Nhất này, lá gan cậu xưa nay đâu có nhỏ, cũng

tại trên đời không có cây gậy đủ dài, chứ không cho cậu một cây gậy như thế,

dám cậu cũng chọc một lỗ trên trời lắm, sao mới nằm mơ một giấc đã sợ thế

này rổi?”

Tôi nói, mấy người đừng nói linh tinh, thường có câu nghĩ gì mơ nấy, giấc

mơ không phải điềm báo cát hung phúc họa gì cả. Có lẽ tại gần đây tôi nghĩ

ngợi quá nhiều về việc của Đa Linh, nên mới gặp cơn ác mộng không đầu

không đuôi như thế thôi. Nói đoạn, tôi liền kể lại những gì trông thấy trong mơ

cho họ nghe.

Cả bọn nghe xong đều có một dự cảm chẳng lành, chỉ sợ tính mạng Đa

Linh phen này khó giữ. Tuy có lỗi với lời ủy thác trước lúc lâm chung của

Nguyễn Hắc, nhưng chúng tôi đã tận lực, chung quy vẫn không tìm được nội

đơn của xác cổ nghìn năm, Đa Linh rốt cuộc sống hay chết đành trông cả vào

phúc phận của cô thôi.

Sau đấy, chúng tôi lại nói sang chuyện Đa Linh trúng phải tà thuật Giáng

Đầu của chính cha ruột mình, thật đúng là tạo hóa trêu ngươi, ý trời khó đoán.

Có điều, sự kiện ở Nam Hải nếu suy xét đến cùng, vẫn là trách nhiệm của Tôn

Cửu gia. Suốt nhiều ngày gần đây, chúng tôi không hề có chút tin tức nào của

con người này, cũng không biết lão ta đã lẩn đi đâu mất.

Tôi đoán, Tôn Cửu gia sẽ không rời khỏi khu vực Thanh Khê, dẫu sao đây

cũng là nguyên quán của lão ta, thi thể cha và anh trai lão ta cũng ở cả nơi

này, nên định khi nào thương thế hồi phục đôi phần, sẽ tiến vào hẻm núi Quan

Tài tìm kiếm lão lần nữa.

Chúng tôi đang bàn tính làm cách nào để tìm Tôn Cửu gia, đột nhiên ngoài

cửa sổ có ai ném vào một cái bọc, đó vật bên trong dường như cũng không

nặng lắm, phát ra một tiếng “cạch” khe khẽ, rơi xuống đất. Tuyền béo lập tức

đứng dậy ra ngoài xem, huyện lỵ này có hai khu vực cũ mới, bệnh viện nằm ở

rìa khu thành cổ, nhân khẩu không tập trung đông đúc, lại đang giữa mùa hạ,

không khí ẩm thấp oi bức, ban đêm tuy có đốt hương muỗi nhưng cửa sổ

phòng bệnh vẫn mở ra cho mát, bên ngoài chỉ có mấy ngọn đèn đường lẻ loi

chiếu sáng, không bóng người nào. Rốt cuộc, Tuyền béo đành đóng cửa sổ lại,

đề phòng có chuyện gì ngoài ý muốn phát sinh.

Shirley Dương nhặt cái bọc lên, mở ra xem, thấy bên trong có mấy bó cỏ

dại hình thù quái dị, ngoài ra còn một xấp giấy viết thư, miếng long phù không

mắt bằng đồng xanh kia không ngờ cũng ở bên trong. Cô cầm lấy đưa cho tôi

nói: “Chắc là Tôn Cửu gia bảo con khỉ Ba Sơn lẻn vào huyện lỵ đưa thư cho

chúng ta. Anh xem trong thư viết gì vậy?”

Tôi nôn nóng xem cho rõ ràng, vội vàng mở thư ra, vừa xem vừa đọc lại cho

ba người kia. Bức thư do Tôn Cửu gia tự tay viết, ký tên thật của lão ta là

“Phong Học Vũ”, văn chương lưu loát dài dòng, đại để nói lão ta tự cảm thẩy

hổ thẹn với mọi người, không còn mặt mũi nào đến gặp. Có điều, chuyện đổ

đấu ở thôn Địa Tiên núi Quan Tài lần này, toàn nhờ vào Mô Kim hiệu úy tương

trợ, tuy sau này có thể không còn gặp lại nhau nữa, nhưng có nhiều chuyện,

lão ta không thể không nói cho rõ ràng.

Trong thư, Tôn Cửu gia nói đời này mình chưa bao giờ được thanh thản,

trong lòng lúc nào củng đè nặng một trái núi lớn, hoàn cảnh xuất thân cùng vô

số nguyên nhân nội tại và ngoại tại khác đã khiến lão ta không có nổi một

người bạn để giải bày tâm sự, có thể tín nhiệm được, cũng chỉ có con khỉ Ba

Sơn ẩn náu trong hẻm núi Quan Tài kia. Có điều, ông bạn già này của lão ta

tuy tuyệt đối trung thành đáng tin cậy, lại rất có linh tính, nhưng dẫu sao cũng

không thể nói được tiếng người, giống như một bộ phim của Rumani có nhân

vật chính là chó săn vậy, nó vĩnh viễn chỉ là một “người bạn trầm lặng”.

Lâu dần lâu dần, Tôn Cửu gia liền hình thành nên tính cách âm trầm lạnh

lùng, trong thế giới quan của lão ta, ngoài việc của nhà họ Phong, trong thiên

hạ không còn đại sự nào đáng nói nữa. Vì ở bên ngoài mộ cổ Địa Tiên có Cửu

Tử Kinh Lăng giáp mỗi mười hai năm chỉ có mấy ngày trong năm Tý là lúc Kinh

Lăng giáp ngủ đông, người bên ngoài mới có cơ hội tiến vào núi Quan Tài. Vì

vậv, con cháu của Phong Soái Kỳ đã nhiều lần bỏ lỡ thời cơ, trung đoàn trưởng

Phong vì dọc đường nhiễm bệnh nên quá mất thời hạn, nhất thời lửa giận

công tâm, khiến hai chân bị liệt, nên mới chất trước khóa Cửu Cung Ly Hổ.

Tôn Cửu gia thấy nhân khẩu trong nhà rơi rụng dần, nếu mùa hạ năm nav

vẫn không thể tìm được lối vào thì e rằng cả đời này cũng không còn hy vọng

nào nữa. Trải qua nhiểu năm bày mưu tính kế, sắp xếp chuẩn bị, cuối cùng lão

ta cũng có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, kế hoạch tuy rất chu đáo cẩn

mật, nhưng dẫu sao cũng không thể lường hết mọi chuyện, từ lúc bắt đầu tiến

vào hẻm núi Quan Tài đã xảy ra rất nhiều chuyện lão ta không ngờ đến.

Vốn dĩ, Tôn Cửu gia đã thuộc làu “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự, chỉ là lo

lắng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi sẽ bỏ rơi lão ta, vì vậy mới giấu giấu giếm

giếm mãi, trước đó còn sắp xếp mấy tình huống, để mọi người tiếp tục với các

thông tin rời rạc nửa thật nửa giả ở những địa điểm khác nhau, rồi thêm vào

chút khổ nhục kế hòng đánh lừa dư luận, đến lúc mấu chốt mới tự mình lần

lượt chỉ ra điểm quan trọng. Kỳ thực, trong bài “Quan Sơn chỉ mê phú” thật sự

kia, đã bao hàm cách phá giải khóa Cửu Cung Ly Hổ rồi, trở ngại duy nhất

chính là ghép lại những mảnh vỡ của tấm bản đồ phong thủy, nhưng lão ta

không liệu trước được việc truyền nhân của Phong Oa sơn nửa đường gia

nhập đội thám hiểm, rất nhiều kế hoạch đã sắp xếp từ đầu không thể không

thay đổi, dẫn đến cục diện dần dần trở nên hỗn loạn không thể khống chế.

Điều khiến Tôn Cửu gia bất ngờ nhất là một loạt các sự vệc xảy ra ở cầu

Hách Hồn do lũ chim yến tạo thành, lão ta vốn định lợi dụng lũ châu chấu

giáp vàng mai phục trong hẻm núi để phân tán sự chú ý của mọi người, sau đó

chỉ ra đường sống, từ chỗ thác hóa thạch tụt xuống cây xà gỗ để thoát thân.

Sở dĩ sắp xếp như vậy là vì sau khi xuống dưới hẻm núi, sẽ tiến vào địa

cung Ô Dương vương, trước đó, lão ta cần làm một “thủ thuật” với thân thể

mình. “Thủ thuật” này, thực ra là một “yêu thuật” từ xưa truyền lại, Quan Sơn

thái bảo nhờ trộm mộ của ẩn sĩ thời cổ mà phát tích, phát hiện ra rất nhiều

thuật phù thủy, tà pháp sớm đã thất truyền cả nghìn năm nay. Trong đó có

một môn, là dùng kim châm bằng xương đâm vào não, tương truyền có thể

khiến tam muội chân hỏa trong cơ thể tắt ngấm. Vì trên cơ thể người sống

luôn có ba ngọn đèn, tượng trưng cho dương khí của người sống, độ sáng tối

ba ngọn đèn này thể hiện sự hưng vong của vận khí, phẩm đức chủ nhân, mắt

thường không thể nhìn thấy được, chỉ có ma quỷ và cương thi mới trông thấy.

Đâm một cây kim bằng xương vào huyệt vị sau gáy, có thể làm tắt ba ngọn

mệnh đăng này, lúc trộm mộ có thể tránh được chuyện gặp ma, hoặc có thi

biến, nhưng một khi dùng thuật này, tuyệt đối không thể nói với người bên

cạnh, chỉ có thể tự biết, một khi nói ra, sẽ lập tức hồn phi phách tán, lúc chết

muốn làm ma cũng không xong.

Tà thuật này bắt nguồn từ đất Ba Thục cổ xưa, trên thực tế, đây chính là

tiền thân của thuật châm cứu huyệt vị, trong các bức bích họa, nham họa lưu

lại từ thời văn minh Vu Sở từng miêu tả rất kỹ lưỡng những trường hợp tương

tự. Thầy phù thủy thi triển yêu thuật, người bị kim bằng xương đâm vào, sẽ

như có quỷ thần nhập thể, lên núi đao xuống biển lửa hoàn toàn không cảm

thấy đau đớn, vì huyệt vị mũi kim đâm vào chính là trung khu thần kinh kiểm

soát cảm giác đau đớn, người cổ đại không hiểu sự kỳ ảo bên trong, bèn cho

rằng đấy là tà thuật.

Nhưng ở trước Long môn nơi thác đá, sự việc đã phát triển đến mức Tôn

Cửu gia không khống chế nổi nữa, lúc rơi xuống xà gỗ vắt ngang vách núi lão

ta bị đập đầu, mũi kim vừa đâm vào gáy không biết biến đâu mất, có thể đã

ngập lút vào trong đầu, cũng có thể trong lúc hỗn loạn đã bị rơi ra. Sau khi vào

địa cung Ô Dương vương, lão ta phát hiện thần kinh của mình dần trở nên tê

liệt, cơ thể bị thi trùng cắn xé mà hoàn toàn không có cảm giác gì, nhưng sự

thể đã không còn cách nào vãn hồi, sợ rằng trong những năm còn lại, lão ta sẽ

phải làm một cái xác sống không còn tri giác Chẳng những vậy, hễ căng thẳng

kích động quá độ, lão ta lại cảm thấy mạch máu toàn thân căng phồng lên,

phỏng chừng có thể vỡ mạch máu mà chết bất cứ lúc nào.

Tôn Cửu gia lòng dạ sắt đá, sự việc đã xảy ra rồi, đành chấp nhận số mệnh,

cũng không lấy đó làm oán hận. Lão ta trời sinh tính tình lạnh nhạt, coi nhẹ cả

mạng mình lẫn mạng người khác, có điều, bấy giờ lão ta cũng chỉ định đơn

độc một mình tiến vào thôn Địa Tiên, dựa vào bí thuật làm tắt ba ngọn đèn

sinh mệnh, lại có gương có Quy Khư trừ tà, chỉ cần tìm được mộ Địa Tiên, hẳn

vẫn ứng phó được.

Chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, những dấu hiệu thi biến trên người

lão ta làm chúng tôi sinh nghi, khiến láo ta bại lộ thân phận sớm hơn dự định.

Để kịp vào thôn Địa Tiên trước khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp phong tỏa núi Quan

Tài, dẫu biết rõ phen này có đi mà không có về, lão ta cũng đành giở ra kế

hiểm, dụ cả bọn cùng tiến vào một lượt.

CHƯƠNG 64: CỬU TỬ HOÀN HỒN THẢO

Sự việc phát triển đến bước này, từ lâu đã vượt khỏi phạm vi dự tính mà

Tôn Cửu gia có thể tưởng tượng được, lão ta càng không ngờ những hành vi

của mình đều bị Phong Soái Cổ tính toán ra từ lúc còn sống, lòng không khỏi

nguội lạnh như nắm tro tàn, cứ tưởng thi tiên trong mộ ắt hẳn sẽ thoát ra

ngoài núi, gây nên một trận ôn dịch quy mô lớn. Bất kể trong tai kiếp đó có

bao nhiêu người chết, tội nghiệt cuối cùng đều tính do lão ta gây nên, đến khi

xuống suối vàng cũng hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, tinh thần lão ta cơ hồ rơi vào

trạng thái suy sụp.

Chẳng ngờ vào lúc cùng đường tận lối lại có bước ngoặt, đây có lẽ cũng

chính là “ông trời có mắt”. Có câu “bọ ngựa bắt ve, sẻ vàng nấp sau”, không

chỉ đám người vào núi đổ đấu chúng tôi, mà ngay cả địa tiên Phong Soái Cổ

cũng bị ăn quả lừa của những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương vương năm

xưa, có thể nói, Quan Sơn thái bảo và Mô Kim hiệu úy đều không bì nổi với

tâm kế sâu xa độc địa của những người bảo vệ bí mật núi Quan Tài kia, nghĩ

lại thật khiến người ta dựng hết cả tóc gáy.

Điểm trời mà những người bị giam cầm ấy suy diễn ra trước lúc chết là núi

Quan Tài sau khi rời khỏi lòng đất, cuối bùng bị lôi hỏa thiêu hủy, người chết

trong thôn Địa Tiên đều bị thiêu rụi không còn cả tro than, cơ hồ tất cả những

chuyện ấy đều đã được định sẵn trong cõi xa xăm rồi, mọi si tâm vọng tưởng

của thế gian, chẳng qua chỉ là một màn mây khói lướt qua mắt mà thôi.

Tôn Cửu gia lúc đó ngã xuống khỏi vách đá, rơi vào đống người chết trong

núi Quan Tài, trong bóng tối mờ mịt may mà không đụng phải tảng đá tan

thây nát thịt, sau đó sấm sét nổi lên trong hẻm núi, thôn Địa Tiên chìm trong

ngọn lửa. Tôn Cửu gia lúc này chẳng phải người cũng chẳng phải ma, tránh

khỏi đợt sấm sét, lại được con khỉ Ba Sơn nghe tiếng mò đến cứu viện, đá

băng qua vách núi dựng đứng đào tẩu giữa trời mưa như trút.

Sau đó, trong thư lại nhắc đến, gương cổ Quy Khư là vật báu cổ đại, không

thể vì hải khí tiêu tán mà hỏng mất. Trong một khu nhà phía Tây thành Bắc

Kinh có một cái giếng khô bỏ hoang, trong đó có giấu một số thứ, có thể dựa

theo bản đồ trong thư để tìm đến đào lên, sau đó đem vật ấy phụ trợ với hình

khắc ở mặt sau tấm gương đồng, nói không chừng có thể tìm được quẻ cổ

Chu Thiên thất truyền đã lâu.

Tôn Cửu gia xuất thân thế gia, tuy rằng các ngón nghề của tổ tiên Đại Minh

Quan Sơn thái bảo có mười phần, lão ta cũng chứa học hết một, nhưng từ nhỏ

lão đã biết các loại chữ triện Trùng Ngư cổ, ký hiệu cổ, sau khi được phóng

thích khỏi nông trường cải tạo lao động Quả Viên Câu, hồi phục công tác lại

quanh năm nghiên cứu Long cốt thiên thư thời kỳ Hạ Thương Chu, tiếp xúc với

rất nhiều bản khắc trên giáp cốt và đồ cổ đồng xanh. Có điều, tâm tư lão ta

không đặt vào công việc, đồng thời không thể xử lý tốt quan hệ với những

người xung quanh, nên thường xuyên bị một số nhân sĩ có quyền lực chèn ép,

xưa nay chưa hề có cơ hội ngóc đầu.

Vì vậy mặc dù có được một số thành quả, nhưng Tôn Cửu gia đều lần lữa

không báo lên cấp trên mà âm thầm giấu đi để nghiên cứu, ngày tháng tích

lũy, quy mô nghiên cứu đã tương đối khả quan. Quẻ cổ Chu Thiên, chính là

mấu chốt của âm dương, là quỹ tích của thiên địa, tuyệt đối không thể dựa

vào máy quẻ đồ và chữ triện cổ vụn vặt mà dễ dàng phá giải toàn diện được.

Từ khi có được tấm gương cổ Quy Khư, Tôn Cửu gia phát hiện quẻ đồ trên

mặt sau tấm gương này ảo diệu vô cùng, nếu có thời gian dông dài, kết hợp

với thành quả nghiên cứu quẻ cổ Chu Thiên của lão, không chừng có thể khiến

toàn quẻ Chu Thiên tuyệt tích đã lâu tái hiện lại trên thế gian.

Nhưng so với quẻ cổ Chu Thiên đã thất truyền cả nghìn năm, Tôn Cửu gia

còn có việc quan trọng hơn cần làm. Thời cơ mười hai năm một lần đã tới, việc

trong mộ cổ Địa Tiên đã vô cùng cấp bách, không cho phép lão ta hao phí

thêm bảy tám năm thời gian nghiên cứu Thập lục tự thiên quẻ. Khi ấy, lão ta

lại có ý định mang theo gương cổ vào trong mộ trấn áp thi tiên, nên đành đem

hết tư liệu nghiên cứu và các quẻ đồ, quẻ tượng mình thu thập được chôn

trong đường hầm dưới đáy giếng khô.

Năm 1971, cả nước Trung Quốc đều sôi sục chuẩn bị chiến tranh, đề phòng

mất mùa, triển khai rộng rãi phong trào đào hầm sâu, trữ lương nhiều. Bấy

giờ, Bắc Kinh cũng tiến hành mở rộng hệ thống công trình phòng thủ dưới

đất, cái giếng khô giấu đồ ấy thông với một đoạn đường hầm đã bị bít kín bỏ

hoang. Trong thư, Tôn Cửu gia có vẽ một bản đồ sơ lược, đánh dấu vị trí và

các lối vào, lão ta hy vọng chúng tôi về Bắc Kinh có thể đào những thứ ấy lên,

sau này có cơ duyên, họa may có nắm được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, coi

như là một sự bồi thưòng và báo đáp của lão ta.

Sau đó, lão ta lại viết, gửi kèm theo thư này còn có mấy món đồ, một là

miếng long phù bằng đồng xanh bị thất lạc trong hẻm núi Quan Tài, mộ cổ

thôn Địa Tiên bị lôi hỏa thiêu đốt, có lẽ vì hải khí trong miếng Long phù này

quá thịnh, cũng có thể do hình thế phong thủy trong địa mạch Bàn Cổ ở núi

Quan Tài biến động quá lớn, nhưng bất kể vì lý do gì, hai miếng bùa và một

tấm gương cổ mang từ Bắc Kinh tới đây, rốt cuộc vẫn giữ được không tổn hại

chút nào.

Ngoài ra, núi Quan Tài là chốn cấm địa tế tự của các thầy mo thời cổ đại,

âm khí bên trong hết sức nặng nề, mộ cổ Ô Dương vương ở chỗ địa mạch hình

đầu xác chết cũng thuộc loại này, tuy chúng tôi đã có mặt nạ phòng độc bảo

hộ song vẫn khó thể chu toàn, những phần da lộ ra ngoài cũng có thể nhiễm

phải khí độc thối rữa hủ hóa, vì vậy, trên người cả bọn sẽ lần lượt xuất hiện

các đốm đen và vết tụ huyết, sau đó còn nôn máu, ho ra đờm đen, tuy không

mất mạng, nhưng về lâu về dài vẫn sẽ để lại mầm bệnh khó dứt trong cơ thể.

Bởi thế, trong bao lão ta có gửi kèm mấy bó Cửu tử hoàn hồn thảo, tên

khoa học gọi là Herba Selaginellac, vật này chuyên mọc ở nơi thâm sơn cùng

cốc, khi không đủ dinh dưỡng và nước, nó sẽ khô quắt lại ở trạng thái chết

giả, toàn bộ sự trao đổi chất trong tế bào đều ngừng lại, nhưng không lâu sau

lại có thể hoàn hồn tái sinh, vì vậy mới gọi là Cửu tử hoàn hồn thảo, trong dân

gian cũng hay gọi là “trường sinh bất tử thảo” hoặc “Thiên nhiên thảo”, dùng

bên ngoài có thể thay thuốc cầm máu trị thương, uống vào có thể tiêu ứ trừ

độc, hóa giải khí âm đã bám vào tận xương tủy. Tôn Cửu gia dặn chúng tôi

đến tiệm thuốc trong huyện lỵ mua mấy vị thuổc Nam dùng để tiêu đờm giải

độc như thịt cá sấu khô, đem mấy bó Trường sinh bất tử thảo đốt thành tro,

rồi trộn lẫn liên tục uống trong ba ngày, có thể triệt để trừ hết mầm bệnh

trong người. Trước đây, trên vách đá ở hẻm núi Quan Tài mọc rất nhiều loại cỏ

này, đều là thứ chín rễ chín lá, không phải tầm thường, nhưng giờ thì không

dễ gì gặp được nữa, mấy bó này tuy ít, nhưng cũng đủ cho năm sáu người

dùng.

Cuối cùng, Tôn Cửu gia viết trong thư rằng: “Giờ nợ nần của chúng ta coi

như đã dứt, tôi không còn lưu luyến gì với thế giới bên ngoài nữa, vả lại sau

khi kim xương đâm vào não, thần hồn sẽ tan biến, chết rồi sợ rằng muốn làm

ma cũng không được. Thời gian còn lại của tôi không nhiều, sau khi an táng di

thể của cha và anh trai, tôi sẽ ở lại hẻm núi Quan Tài này chờ chết, không

muốn gặp người ngoài nữa, khi các cô các cậu đọc được phong thư này, có

thế xác tôi đã lạnh, được con khỉ Ba Sơn mai táng ở một nơi bí mật nào đó rồi.

Khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn núi cao chót vót, vách đá ngất ngưởng,

dẫu có chôn vùi đại quân mấy chục vạn người cũng không có manh mối đâu

mà tìm, vì vậy các cô các cậu khỏi uổng phí tâm sức vào núi tìm tôi nữa, cũng

xin các cô các cậu chớ nên tiết lộ chuyện của tôi với bất cứ người nào khác.”

Chúng tôi đọc xong bức thư con khỉ Ba Sơn đưa tới, trong lòng bán tín bán

nghi, từ lúc trải qua sự kiện thôn Địa Tiên, cách nhìn của mọi ngưòi đối với Tôn

Cửu gia đã thay đổi hoàn toàn. Trước đây, chúng tôi cảm thấy con người này

chẳng qua chỉ là một chuyên gia về văn tự cổ lắm tư tâm, tính tình gàn bướng

ngang ngược, lại quá khích cực đoan bất cận nhân tình, nhưng sau khi sự việc

xảy ra, nghĩ lại mới thấy Tôn Lão Cửu này chẳng những thân thế đặc thù, hơn

nữa còn rất giỏi ẩn mình, là một nhân vật thông minh tuyệt đỉnh, đúng như

câu “đại tượng vô hình, đại trí giả ngu”. Không biết có phải do di truyền từ tổ

tiên Quan Sơn thái bảo nhà lão ta hay không mà tác phong hành sự của người

này hoàn toàn không để lộ ra dấu vết gì, đến thần tiên cũng khó lòng đoán

thấu được.

Chúng tôi tự phụ là người kiến thức quảng bác, lịch duyệt phi phàm, vậy

mà đều bị Tôn Cửu gia này qua mặt, trước khi tiến vào núi Quan Tài, chẳng ai

phá được lớp vỏ ngụy trang của lão ta. Thật đúng như trong cuốn Mặt dày

tâm đen có viết “tâm đen mà vô sắc, mặt dày mà vô hình” thử hỏi người phàm

mắt thịt làm sao nhìn thấu được chứ? Đây chính là chỗ cao minh của Tôn Cửu

gia.

Nếu cứ như lão nông Hương Cảng Minh Thúc kia còn đỡ, bề ngoài có vẻ

tinh minh giảo hoạt, nhưng cảnh giới quá thấp, còn chưa mở miệng, người ta

biết lão là kẻ không đáng tin cậy, cứ thế thì ai còn tin lão? Phàm gặp chuyện

gì, cũng đều không thể bị loại người như Minh Thúc che mắt. Tôi thấy, so với

Tôn Cửu gia thâm tàng bất lộ kia, Tiểu Gia Cát Minh Thúc thật tình có thế coi

như một người thực thà trung hậu.

Út vốn là người bản địa, nhận biết được tính chất của thảo dược, cô nói,

loại Cửu tử hoàn hổn thảo mọc ở hẻm núi Quan Tài nay đã gần như tuyệt tích,

có được mấy bó này là quý lắm rồi, đích thực có thể hóa giải chất độc trong cơ

thể. Tôi vẫn chưa yên tâm, lại tìm một thầy lang Trung y già trong huyện lỵ,

hỏi rõ vị chính vị phụ trong đơn thuốc cho chắc chắn, bấy giờ mới y theo cách

của Tôn Cửu gia uống vào.

Chỉ vài ngày sau, sức khỏe cả bọn đều có chuyển biến tốt, khi bàn bạc

đường đi nước bước sau này, mấy người đều cảm thấy vẫn nên nghĩ cách tìm

Tôn Cửu gia. Nhưng hẻm núi Quan Tài địa thế hét sức phức tạp, địa hình hiểm

trở thâm u, bên trong hẻm núi quanh năm mây mù bảng lảng, lại có vô số các

loại quan tài treo, bên cạnh Tôn Cửu gia còn có con khỉ Ba Sơn kia giúp đỡ,

chúng tôi ngoài sáng, lão ta trong tối, muốn tìm được người này thật không

phải chuyện dễ dàng.

Chúng tôi vào núi tìm kiếm thêm lần nữa, quả nhiên không có kết quả, xét

thấy căn bản không thể tìm được Tôn Cửu gia đang lẩn tránh trong hẻm núi

một mình chờ chết, cả bọn lấy làm chán nản, đành chuẩn bị trở vể Bắc Kinh.

Trước khi rời đi, ăn xong bữa tối trong huyện lỵ, tôi và Tuyền béo bắt tay

sắp xếp lại hành lý. Phen này vào núi tuy không tìm được nội đơn của cổ thi,

nhưng cũng không phải không có thu hoạch, đầu tiên là mang ra được mấy

bức họa trong thôn Địa Tiên, đều là bút tích thật của Quan Sơn thái bảo

Phong Soái Cổ. Người này tuy không nổi danh bằng ngón nghề bút mực,

nhưng mấy bức Quan Sơn tướng trạch đồ ấy đều thuộc loại thủ bút và để tài

hiếm gặp, có thể đem nhờ Kiều Nhị gia ở Lưu Ly Xưởng định giá hộ.

Ngoài ra, còn có một cái hộp mạ vàng Tuyền béo vớ được trong âm trạch ở

thôn Địa Tiên. Lúc đó, cả bọn trông thấy trong mộ cái xác nữ được trâu vàng

cõng trên lưng, trong lòng ôm cái hộp này. Mộ thất ấy là do Quan Sơn thái bảo

di chuyển từ bên ngoài vào trong thôn Địa Tiên, cơ quan trâu vàng cõng xác

thiết kế cực kỳ xảo diệu, một khi trộm mộ xông vào gian chính sẽ kích hoạt

chốt lẫy ẩn giấu bên trong trâu vàng, lập tức khiến con trâu húc lật tường mộ,

đưa xác mộ chủ vào gian sau.

Chúng tôi chỉ có thể đoán mộ thất có trâu vàng này được xây vào thời Minh,

nhưng không có cách xác định danh tính mộ chủ, lai lịch xuất thân thế nào, tại

sao lại có ngôi mộ kết cấu tinh xảo nhường ấy.

Tuyền béo đã quen thói trộm chẳng về không, vớ được một món minh khí

vào tay, nhưng sau đó gặp phải bao mối hiểm nguy, sớm đã quên béng

chuyện này, lúc sắp dọn đồ đạc mới nhớ tới, vội vàng lấy ra định mở xem bên

trong có gì.

Cái hộp mạ vàng này hết sức tinh xảo đẹp đẽ, mộ chủ lại là phụ nữ, vì vậy

chúng tôi đoán bên trong chắc hẳn là các loại trang sức vàng bạc bồi táng,

hoặc trân châu bảo thạch kiểu như xuyến ngọc chẳng hạn. Nom cơ quan trong

mộ xảo diệu như thế, thân phận mộ chủ ắt hẳn cũng thuộc loại bất phàm,

minh khí tùy thân đương nhiên phải cực kỳ quý trọng, lắc lắc thấy nằng nặng,

nhưng cũng không có âm thanh gì. Tôi và Tuyền béo đều nôn nóng muốn xem

cho thỏa, thấy cái hộp có khóa, không dám dùng biện pháp mạnh đế khỏi hủy

hoại đồ vật đáng tiền bên trong, bèn nhờ Út giúp một tay.

Đợi Út mở xong cái khóa bạc, chúng tôi cùng ngó vào trong hộp, sau khi

nhìn rõ vật bên trong, không khỏi nửa bất ngờ, nửa thất vọng. Bên trong cái

hộp mạ vàng chẳng có nửa món vàng bạc châu báu gì, mà là máy quyển sách

cũ dày cộp, giấy màu vàng sậm. Tôi lật ra xem thử, thấy không giống như điển

tịch kinh quyển, trong sách toàn những hình vẽ ly kỳ cổ quái, lời chú giải quái

gở khó hiểu, hệt như thiên thư (sách trời) vậy.

Thường có cầu “Thiên thư không chữ”, vì bên trong thiên thư thật sự toàn

quẻ tượng quẻ đồ, thoạt nhìn đều là các ký hiệu thần bí như nòng nọc chim

cá, không hề có lấy một chữ, nếu có chứ thì đều là sách giải quẻ của hậu thế

sau này. Nhưng tôi dám khẳng định, mấy quyển sách dày bịch này, tuyệt đối

không phải loại chu Dịch mà tôi thường hay tiếp xúc, xem kỹ lại, mới phát hiện

chúng rất giống đồ phổ cấu tạo các loại cơ quan, ám khí thời cổ đại.

Có câu, khác nghề như khác núi, lần đầu tiên tôi trông thấy loại sách cổ

này, cũng không dám tùy tiện xác định bừa bãi, may mà có Út đã học hết bản

lĩnh của Phong Oa sơn ở đây, tôi bèn đưa cô xem kỹ xem có hiểu được mấy

quyển sách này rốt cuộc ghi lại nội dung gì hay không.

Út lật mấy trang sách, cũng kinh ngạc ra mặt, bộ sách cổ này hình như

chính là Vũ Hầu Tàng Binh đồ. Vũ Hầu Tàng Binh đồ tuy là hậu nhân mượn

danh Gia Cát Vũ Hầu mà viết ra, xuất hiên sớm nhất vào khoảng thời Đường

Tống, nhưng các loại cơ quan ám khí ghi chép bên trong đều ảo diệu tinh kỳ,

so với trâu gỗ ngựa máy thời Tam Quốc trong truyền thuyết thì chỉ có hơn chứ

chẳng kém gì.

Vũ Hầu Tàng Binh đồ là báu vật trấn sơn của Phong Oa sơn, có thể nói nó

tương đương với Thập lục tự Ẩm dương Phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu

úy, bao đời thợ thủ ông Phong Oa sơn đều coi tập bản vẽ này là tuyệt học đáy

hòm, đáng tiếc là nó thất truyền đã lâu. Ông Lý, ông nuôi của Út, tuy rằng tay

nghề tinh thâm, sản phẩm tinh xảo có thể dối gạt cả quỷ thần, nhưng thực ra

cũng chưa học được ba bốn phần bản lĩnh trong Vũ Hầu Tàng Binh đồ.

Những ngón nghề tuyệt học này xưa nay đều là căn bản an thân lập nghiệp

của các nhà, đại đa số sư phụ truyền cho đệ tử đều theo kiểu “mèo dạy hổ”,

giữ lại bản lĩnh cứu mạng là trèo cây không truyền. Thêm nữa, lại còn những

quy củ kiểu như “truyền nam không truyền nữ, truyền trưởng không truyền

thứ”, khiến cho các môn tuyệt nghệ càng truyền càng ít dần, thường xuyên rơi

vào tình trạng mấp mé thất truyền, thậm chí là đoạn tuyệt hương hỏa.

Gần một thế kỷ nay, các ngành khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển

từng ngày, ngành nghề truyền thống của Trung Quốc khó tránh khỏi có chút

“thổ tả”, những thứ xưa cũ bị mai một nghiêm trọng, đến giờ lại không thế kế

thừa hoàn thiện những gì còn sót lại, mà vẫn tiếp tục đánh mất. Tay nghề ám

khí của thợ thủ công Phong Oa sơn chính là một ví dụ, vì vậy Vũ Hầu Tàng

Binh đồ đối với Út mà nói quả có hơi thâm thúy khó hiểu, cô căn bản không

hiểu được bao nhiêu nội dung trong đó

Tuyền béo vừa thấy minh khí trong hộp mạ vàng hóa ra là máy quyển sách

rách, lập tức mất hứng, chỉ giữ lại cái hộp, định mang ra Phan Gia Viên đẩy

đi,r ồi hỏi tôi mấy quyển bản vẽ này xử lý thế nào.

Tôi bảo, thực ra Vũ Hầu Tàng Binh đồ không phải vật tầm thường, có điều

người ngoài ngành xem không hiểu gì mà thôi. Có câu, mỗi vật đều có chủ

nhân thích hợp, thứ này rơi vào tay người thường thì thật uổng phí của trời.

Phen này chúng ta vào hẻm núi Quan Tài tìm thôn Địa Tiên, em Út đây đã giúp

đỡ rất nhiều, chi bằng hãy tặng Vũ Hầu Tàng Binh đồ này cho ông chủ Lý, coi

như trả món nợ ân tình, nói không chừng ông Lý còn biết được lai lịch xuất xứ

của bộ sách này, chúng ta tiện thể mở mang kiến thức luôn.

Tuyền béo hân hoan đồng ý, cậu ta nói thứ này ở trong tay chúng ta cũng

chẳng ích lợi gì, cầm đến tiệm tạp hóa của ông chủ Lý, có thể đổi lấy dăm ba

cái Ô Kim Cang, dẫu sau này không đi đổ đấu nữa thì sang California cắm trên

bãi cát bên bờ biển cũng có thể làm dù che nắng, nói không chừng còn có thể

mở ra một trào lưu mới ở Mỹ, thậm chí trên toàn thế giới ấy chứ.

Trong lúc nói chuyên, Shirley Dương lại đến bàn bạc với tôi, trước mắt tính

mạng Đa Linh đang nguy ngập trong sớm tối, nhưng bọn tôi lại toi công ở thôn

Địa Tiên, chi bằng đi đường vòng về Hồ Nam một chuyến, tìm lão Trần mù

xem bói xem thế nào. Năm xưa, lão là thủ lĩnh của phái Xả Lĩnh, kiến thức lịch

duyệt bất phàm, cũng chỉ có cách nhờ lão giúp nghĩ xem còn biện pháp nào

khác hay không.

Tôi thầm nghĩ, như vậy cũng tốt, lão Trần mù ấy từng thống lĩnh bọn đạo

tặc ở mười ba tỉnh Nam Bắc, thực sự là một nhân vật “gọi gió được gió, hô

mưa được mưa”, tới khi bắt đầu trộm mộ ở Bình Sơn vùng Tương Tây, không

biết gặp phải thứ xúi quẩy gì hay đụng phải hung thần ở đâu, chẳng những

không thể vùng lên lần nữa, ngược lại còn ngã dúi ngã dụi, cực kỳ không

thuận, chưa qua được núi Già Long đã tổn hao rất nhiều nhân thủ, những

người còn lại cũng ngỏm hết trong núi, chỉ còn mình lão may mắn thoát thân,

nhưng mù mất đôi mắt, đành ẩn tích mai danh sống đến ngày hôm nay.

Nhưng lão Trần mù năm xưa thông thuộc “Lăng phổ”, thủ hạ tai mắt đông

đảo, biết được rất nhiều thông tin về cổ mộ khắp nơi, đến cả mộ hoàng bì tử ở

miền Đông Bắc hiếm người nào trong quan nội biết đến, lão cũng hiểu biết đôi

phần. Hiện giờ, chúng tôi chi còn cách nhờ lão vắt óc nghĩ lại cho kỹ... xem

trong mộ cổ mồ hoang nào còn có khả năng chôn thi đơn dị khí nữa không.

Lão hiện đang ở Tương Âm, từng là sào huyệt cũ của bọn đạo tặc Thường

Thắng sơn, nghe lão Trần mù nói, theo lệ cũ, những đầu mối về mộ táng các

triều đại ở các vùng miền, cùng sự việc tụ tập trộm mộ kiếm lợi, đều phải ghi

lại tường tận vào sổ sách, nếu may mắn, nói không chừng có thể tìm thấy

thông tin liên quan sót lại từ thời trước giải phóng, như vậy còn hơn chúng tôi

cứ đâm bừa tìm bãi không có mục tiêu thế này nhiều.

Tuy rằng chuyện này chưa chắc đã khả thi, nhưng hiện tại không ai có

phương pháp nào hay hơn, cả bọn bèn quyết định thẳng tiến Hồ Nam, không

ngờ đúng lúc này, chúng tôi lại nhận được một tin tức chẳng lành, Đa Linh ở

Mỹ đã qua đời.

CHƯƠNG 65: KIM ĐIỂM

Trong di chỉ Quy Khư ở vùng biển Vực Xoáy San Hô, chủ thuyền Nguyễn

Hắc bất hạnh gặp nạn, trước lúc lâm chung, tôi từng chính miệng hứa với ông

ta sẽ chăm sóc thật tốt cho Đa Linh và Cổ Thái, chẳng ngờ ma xui quỷ khiến

thế nào, Đa Linh lại nhặt được cái đồng hồ vàng của tay thuyển trưởng cụt tay

trên tàu Mariana, trúng phải tà thuật Giáng Đầu trên chiéc đồng hồ ấy. Chẳng

những thế, sau này chúng tôi xác nhận được từ nhiều nguồn, vị thuyền trưởng

người Pháp buôn lậu đồ cổ ở Nam Dương ấy, chính là người cha ruột đã mất

tích trong chiến tranh Việt Nam của Đa Linh. Chuyện này không thể không nói

là do ý trời khéo sắp, nhưng cũng lại là trời cao vô tình.

Chúng tôi đã tìm đủ mọi cách giữ lại tính mạng cho cô, nhưng thời gian

lênh đênh trên biển quá lâu, lúc về đến đảo Miếu San Hô, chất độc đã ăn sâu

vào cốt tủy, nếu không có tấm áo Phỉ Thúy kia khoác lên người, sợ rằng Đa

Linh đã thối rữa mà chết từ lâu rồi. Thế nhưng, đến cuối cùng chúng tôi lại

không tìm được nội đơn của xác cổ có thể cứu mạng Đa Linh, vẫn không thể

giữ cô lại trên cõi dương gian này.

Sau khi biết được tin này từ bức điện báo của Răng Vàng, lòng tôi như thể

bị chèn một tảng đá lớn, vừa tự trách, vừa hổ thẹn với linh hồn Nguyễn Hắc

trên trời. Tuy cũng biết rằng sức người có hạn, một số việc có thể làm được,

còn một số việc bất luận ra sao cũng không thể hoàn thành, nguyện vọng khởi

tử hồi sinh đã trở thành bọt nước, nghĩ đến thế sự lạnh giá như băng, sực sự

khiến người ta khó mà chấp nhận nổi.

Cả bọn than thở một hồi, đều nói đây là sinh tử do trời, sức người không

thể cưỡng cầu, đã đến nước này cũng chẳng thể làm gì hơn, đành thay đổi kế

hoạch, trở lại Mỹ tham gia đám tang của Đa Linh. Dân mò ngọc vùng Nam Hải

tuân thủ truyền thống khá nghiêm ngặt, theo phong tục của họ, người sau khi

chết, phải thả thuyền đưa Ngũ thánh ra biển thì thi ốt dân mò ngọc mới có thể

nhập thổ vi an, ngoài ra còn phải lập đạo tràng trên đất liền và dưới nước,

cúng tế ba ngày, siêu độ cho người chết sớm ngày thoát khỏi nỗi khổ luân hồi.

Chúng tôi đến tiệm tạp hóa trong thị trấn nhỏ vô danh kia, chào từ biệt ông

chủ Lý. Ông Lý vội vàng đóng cửa tiệm, mời mọi người vào trong hỏi han rối

rít: “Nom mọi người mặt ủ mày chau, hẳn là lần này vào núi làm việc không

được thuận lợi lắm, thôi thì ngày rộng tháng dài, dẫu có chuyện gì khó khăn

cũng không nên để mắc míu trong lòng.” Nói đoạn, ông lấy trong tủ ra hai chai

rượu, định cùng tôi và Tuyền béo làm mấy chén.

Chúng tôi chối từ không đặng, đành cung kính tuân theo. Không ngờ ông

chủ Lý này tuy tuổi tác đã cao nhưng tửu lượng không hề giảm sút, ba người

làm hết nửa bình rượu lâu năm, liền mở máy nói tràng giang đại khải, tôi kế

hết chuyện hẻm núi Quan Tài tìm nội đơn không thành cho ông nghe, rồi lấy

tập Vũ Hầu Tàng Binh đồ tìm được trong mộ cổ thôn Địa Tiên ra.

Tôi bảo ông chủ Lý: “Có câu, vật về với chủ, bộ Vũ Hầu Tàng Binh đồ này

tổng cộng tám quyển, căn bản chẳng dùng được gì trong công cuộc kiến thiết

hiện đại hóa, ngoài những vị sư phụ tinh thông ngón nghề chế tạo cơ quan ám

khí, có lẽ chẳng còn ai đọc hiểu được nó nữa đâu. Chỉ có ở trong tay ông đây,

nó mới có thể phát huy ít nhiều tác dụng thôi.”

Ông chủ Lý nghe tôi nói vậy thì hết sức kinh ngạc vội vàng lấy đôi kính lão,

không ngừng lật xem từng trang như thể vớ được món báu vật, vừa xem vừa

lẩm bẩm nói: “Tổ sư gia hiển linh, đúng là tổ sư gia hiển linh rồi!” Tập bản vẽ

này là bảo điển của các thợ thủ công thời xưa, dây cốt và ốc vít bát bảo xuất

hiện sau này đều không so được với sự xảo diệu của các cơ quan mô tả trong

đây. Hầu hết các nội dung trong tập sách này đều đã thất truyền nhiều năm,

những tưởng rằng các tuyệt nghệ của Phong Oa sơn phải điêu tàn tuyệt tích,

người thợ già như ông có nằm mơ cũng không ngờ lại có thể tìm được cả bộ

Vũ Hầu Tàng Binh đồ trong mộ cổ, lập tức cảm ơn rối rít, rồi cất ngay tập sách

đi.

Tôi hỏi ông chủ Lý tại sao Vũ Hầu Tàng Binh đồ lại xuất hiện trong mộ cổ

thôn Địa Tiên, chẳng lẽ nữ mộ chủ được trâu vàng cõng trên lưng ấy cũng là

nhân vật của Phong Oa sơn thời Minh hay sao?

Ông chủ Lý cũng là tay lão luyện giang hổ, bèn kể ra một số chuyện xưa

tích cũ, gợi cho chúng tôi nghĩ tới một số đầu mối, suy đoán ra cái xác phụ nữ

thời Minh ấy có thể là con cháu của kỳ nhân thuật số Lưu Bỉnh Trung, nhà họ

Lưu sở trường Kỳ môn Độn giáp, còn tinh thông thuật bố trí cơ quan cạm bẫy.

Tuy không phải là người trong Phong Oa sơn, nhưng nhà Họ Lưu có giao tình

rất thâm hậu với các đời thủ lĩnh, trong nhà có giâu bộ bản vẽ cơ quan này

cũng không có gì kỳ quái.

Nhà họ Lưu chuyên về thuật số và nhà họ Phong Quan Sơn thái bảo là quan

đồng triều, vốỗn đã không hợp nhau, địa tiên Phong Soái Cổ nhăm nhe muốn

đoạt lấy bản vẽ cơ quan ám khí của nhà họ Lưu, bèn ngấm ngầm trộm ngôi

mộ trâu vàng cõng xác mang về. Có điều, Phong Soái Cổ tuy thần thông

quảng đại, nhưng chỉ sở trường các ngón dị thuật tà môn, dù lấy được Vũ Hầu

Tàng Binh đồ cũng khó lòng hiểu hết sự ảo diệu bên trong, vì vậy cơ quan Vũ

Hầu Tàng Binh ở mộ có Ô Dương vương chỉ được cái vỏ bề ngoài, cuối cùng

cũng không hoàn thành. Bộ sách này, cũng được an trí nguyên vẹn vào âm

trạch trong thôn Địa Tiên cùng với các loại thi hài, minh khí Quan Sơn thái bảo

trộm được.

Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của chúng tôi, sau khi núi Quan Tài sụp

đổ, tình huống chân thực đã không thể nào khảo chứng nữa. Ba người cụng

chén cụng ly, khi đã ngà ngà, mắt hoa tai đỏ thì bắt đầu dốc lòng dốc dạ, nói

rất nhiều lời gan ruột. Tôi nói chuyện của Út với ông chủ Lý, bảo rằng học

ngón nghề đổ đấu với tôi cũng chẳng ra gì, kỳ thực học xong rồi cũng chẳng

có chỗ dùng, vả lại một khi đã làm cái nghề Mô Kim này, muốn thoát thân ra

thì khó càng thêm khó.

Bản thân tôi chính là một ví dụ, nhớ năm xưa tôi và Tuyền béo đi Dã Nhân

câu ở Đông Bắc, cũng chỉ muốn kiếm một khoản lớn giúp đỡ đám bạn bè

nghèo khó chứ chẳng mơ mộng gì cao xa, nhưng từ khi chúng tôi lấy được

một đôi ngọc hình con Ly trong mộ vị tướng quân nước Kim kia, những phiền

phức không đầu không đuôi cũng bắt đầu tìm đến tận cửa, nhiều lần chịu tội,

nhiều lần chịu khổ, có thể sống đến hôm nay mà không cụt tay què chân cũng

không phải chuyện dễ. Khoảng thời gian ấy, trên người ai mà không thêm vài

vết sẹo ? Cái mũi của Tuyền béo ở núi Côn Luân đã bị gọt mất một mẩu, phá

cả tướng, cũng may chúng tôi tay chân nhanh nhẹn, lại được tổ sư gia phù hộ,

nên mới có thể ba lần bốn lượt xông ra từ cửa Âm Tào. Út là cô gái lớn lên

trong núi, học cái nghề đổ đấu mò vàng này, thật không ổn thỏa chút nào.

Nói tới dây, tôi ngoảnh đầu nhìn ra, thấy Shirley Dương và Út dang ở gian

ngoài trò chuyện, không nghe được câu chuyện của chúng tôi, tôi lại hạ giọng

nói với ông chủ Lý: “Phụ nữ ấy à, quan trọng là phải gả cho người tử tế. Chiến

hữu hồi bộ đội của tôi nhiều lắm, quá nửa vẫn còn độc thân, nên chuyện này

ông khỏi cần phải lo, cứ để đấy cho tôi. Mấy ngày trước tôi hỏi Út rồi, cô bé

không muốn ra nước ngoài, nhưng rất muốn đến Bắc Kinh một chuyến. Tôi và

Tuyền béo cũng có chút mặt mũi ở Phan Gia Viên và Lưu Ly Xưởng, có thể để

cô đến làm trong tiệm đổ cổ của Kiều Nhị Gia, học nghề giám định cổ vật, sau

đó gả cho một người đàn ông đáng tin cậy, sống trọn đời hỷ lạc bình an, ông

cũng có thể đi theo hưởng phúc.”

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Tôi nhìn người chưa bao giờ sai, ý cậu chuẩn quá

đi rồi. Tôi đây có bệnh cũ trong người, sức khỏe ngày một yếu đi, nói không

chừng mai kia lại xuôi tay về trời thôi, con bé Út này có được chỗ gửi thân yên

ấm, tôi có chết cũng nhắm mắt được rồi.”

Sau đấy, ông chủ Lý lại nói, mới đầu khi thấy chúng tôi nhận ra được Ô Kim

Cang, ông đã đoán chúng tôi đều là Mô Kim hiệu úy đeo bùa đổ đấu. Ông ta là

người đi ra từ xã hội cũ, đương nhiên cũng biết bí thuật Mô Kim, đồng thời hết

sức tin phục thuật phong thủy âm dương, định nhờ tôi giúp ông chọn một

mảnh đất làm âm trạch sau khi chết.

Tôi bèn khuyên rằng, tôi không thể coi là tinh thông phong thủy, cũng chỉ

biết chút da lông bên ngoài mà thôi, chẳng qua dựa vào tầm long quyết và

thuật Phân kim định huyệt tổ truyền để kiếm miếng cơm ăn. Những gì nghe

được thấy được trong đời, đích thực có rất nhiều chuyện can hệ đến phong

thủy, nhưng đồng thời tôi cũng phát hiện, phong thủy không thể làm thay đổi

hung cát họa phúc, nó chỉ là một môn địa lý sinh thái học mà thôi.

Để ông chủ Lý tin lời, tôi kể cho ông nghe câu chuyện năm xưa ông nội

mình từng đích thân trải nghiêm. Trước Giải phóng, ông nội Hồ Quốc Hoa của

tôi làm nghề đoán chữ, xem phong thủy, xem đất mưu sinh. Những ngành

nghề dựa vào thuật số để giúp người chiêm bốc sự cát hung kiếm miếng cơm

này vì có hàm lượng tri thức tương đối cao, nên thường được tôn xứng là Kim

Điểm. Bản lĩnh của Hồ tiên sinh có được từ nửa quyển Thập lục tự Âm dương

Phong thủy bí thuật, đều là chân tài thực học, con người lại tinh minh cẩn

thận, nên giành được danh hiệu “Kim Điểm tiên sinh”, xét trong vùng thì gia

nghiệp cũng vào hàng tương đối giàu có sung túc.

Kim Điểm Hồ tiên sinh mỗi ngày đều ngồi quán xem bói, giảng về mệnh lý,

địa lý cho các loại người từ mọi miền Nam Bắc, một hôm trời mưa lát phất,

trên phố người qua lại thưa thớt, buôn bán ế ẩm, các cửa tiệm đèu tháo đèn

đóng cửa sớm. Hổ tiên sinh đang ngồi rỗi uống trà trong quán, chợt nghe trên

phố có tiếng vó ngựa, người trên ngựa đi tới trước cửa tiệm bói, liền ghìm

mạnh cương tung mình nhảy xuống, vội vội vàng vàng chạy vào bên trong.

Hồ tiên sinh vội đứng dậy nghênh đón, đồng thời đưa mắt quan sát người

khách mới đến, chi thấy người đàn ông ấy chừng bốn năm mươi tuổi, thân

hình cao lớn to khỏe, bộ dạng như một tay thổ hào có tiền có thế, hành sự

thẳng thắn mạnh bạo thế này, có lẽ không phải phường giặc cướp, nhưng

thần sắc ông ta u uất, nét mặt rầu rĩ như đón khách viếng đám ma, không biết

có phải vì trong nhà có thân thích gì qua đời hay không nữa.

Hồ tiên sinh không dám thất lễ, liền mời người khách ngồi xuống, lễ độ rót

trà, nói: “Quý khách đến thăm, không biết có chuyện gì chỉ giáo?”

Tay thổ hào ôm quyền nói: “Tiên sinh nổi danh Kim Điểm, bọn tôi nghe

tiếng đã lâu, hôm nay đội mưa chạy tới, đương nhiên là không có chuyện

không đến điện Tam Bảo, chẳng hay Hồ tiên sinh có hiểu đạo xem đất không

vậy ?”

Hồ tiên sinh dựa vào nghề này để kiếm cơm nuôi gia đình, thấy khách là tay

mơ, làm sao có thể nói là không hiểu, lập tức tự nâng giá lên nói: “Không phải

kẻ hèn này nói ngoa, kẻ hèn năm xưa từng được kỳ ngộ, bái Thiên Nhật chân

quân ở núi Nhạn Đãng làm thầy, học được rất nhiều bản lĩnh chân truyền, mấy

thứ Trạch kinh, Táng kinh, Thanh Nang áo ngữ, Linh Thành tinh nghĩa, Thôi

quan phát vi... không thứ nào không hiểu, không thứ nào không tinh thông,

xem đất chọn nhà là nghề chính, đương nhiên khỏi cần phải nói.”

Tay thổ hào kia nghe thế cả mừng, bấy giờ mới nói rõ nguyên do. Thì ra,

ông ta họ Mã, tên là Lục Hà, quê ở Đổng Lăng, sau này làm ăn nên chuyển

đến sống ở gần hồ Động Đình, mấy năm gần đây, nhà họ Mã cậy thế hiếp

người, trên tư thông quan phủ, dưới qua lại với bọn giặc cướp, lũng đoạn rất

nhiều chuyện làm ăn ở địa phương. Tiền của nhiều, ông ta muốn xây một

trang viên rộng lớn, bèn mời thầy phong thủy về xem đất, chọn trúng một

mảnh đất đẹp, liền cưỡng đoạt chiếm lấy, rầm rộ xây dựng nhà cửa trang viện,

bỏ ra rất nhiều tiền của, xa hoa vô cùng.

Mã Lục Hà cực kỳ tin vào phong thủy, ông ta chọn mảnh đất ấy cũng bởi

nhìn trúng hình thế tiến bảo nạp tài của nó, mọi bố cục nhà ngang dãy dọc

bên trong trang viện, dù lớn dù nhỏ đều mời thầy địa lý cao minh về chỉ điểm

sắp xếp. Sau khi nhà mới xây xong, cả nhà già trẻ mừng rỡ dọn đến, chẳng

ngờ vừa chuyển đến được vài hôm, Mã lão thái gia đã trượt chân trong vườn,

chân tay già nua không chịu được va đập, được nửa ngày sau thì tắt thở.

Hỷ sự biến thành tang sự, chưa kịp chôn cất Mã lão thái gia thì con trai cả

của Mã Lục Hà ở bên ngoài đã bị kẻ thù giết chết. Tóm lại, từ khi dọn vào nhà

mới, trong nhà liên tiếp có người chết, tính cả người hầu kẻ hạ, cả nhà bảy

mươi mấy nhân khẩu chưa đầy nửa năm, từ trong ra ngoài đã chết mất mười

ba mạng.

Đặc biệt trước khi Mã lão thái gia chết, từng ngồi đánh mạt chược một

mình trong sân giữa đêm hôm khuya khoắt, miệng còn lẩm bẩm tựa như ba

cửa còn lại đều có một bóng ma ngồi chơi vậy, hành động kỳ dị này làm đàn

bà con gái trong nhà sợ đến mặt cắt không còn hột máu, lão thái gia làm sao

vậy? Chẳng lẽ bị ma nhập? Nhưng Mã lão thái gia thường ngày ở trong nhà rất

gia trưởng độc đoán, nói một là một, hai là hai, mọi người tuy thắc mắc trong

lòng, nhưng không ai dám nói thẳng ra. Không ngờ, mới vài ngày sau, ngưòi

đã không bệnh không tật mà qua đời. Lúc tìm người đến khám nghiệm thi thể,

thấy không trúng độc cũng không bệnh tật, tóm lại là chết không minh bạch,

đến nay vẫn chưa có kết quả, giờ người nhà họ Mã nhớ lại chuyện này, vẫn

cảm thấy lạnh hết sống lưng.

Nhưng nói ra cũng lạ, người chết càng nhiêu, việc làm ăn của họ Mã lại

càng hưng vượng, tiền kiếm nhiều đến độ khiến người ta hoa mắt. Mã Lục Hà

ham hố tiền tài phú quý, cắn răng chịu đựng không chịu chuyển nhà, có điều

tài vận vượng thì vượng, nhưng trong nhà lại phải vạ lớn, trước mắt vẫn không

ngừng có người lăn đùng ra chết, thật sự không thể chịu nổi nữa, ông ta đành

tìm người về thay đổi phong thủy, nhưng đã mời hết các thầy địa lý trong

vùng, vẫn không có kết quả gì Mã Lục Hà được người ta giới thiệu, biết trong

thành có vị Kim Điểm Hồ tiên sinh giỏi xem đất, bèn thúc ngựa phi đến mời Hồ

tiên sinh đi xem xem trang viện nhà họ Mã xây trên mảnh đất báu phong thủy

kia rốt cuộc có điểm gì sai sót, mà lại thiệt hại nhân khẩu đến thế, nếu có kết

quả, sẽ không tiếc vàng bạc tạ ơn.

Hồ tiên sinh nghe xong, cũng cảm thấy chuyện này không phải tầm

thường, không ngờ lại chết nhiều người như vậy, hung địa nào mà lợi hại

nhường ấy? Tính ông vốn cấn thận, chỉ sợ không phá giải được thì khó ăn khó

nói với nhà họ Mã, đang định kiếm cớ chối từ, chợt thấy Mã Lục Hà lấy trong

túi ra bốn thỏi vàng đặt trước mặt, bốn thỏi vàng lớn này chỉ là tiền đặt cọc,

sau khi xong việc nhất định sẽ có thêm gấp mười lần thế này, gọi là chút lòng

thành.

Hồ tiên sinh bị vàng làm cho hoa cả mắt, thầm nhủ: “Hình thế trang viện

nhà họ Mã thế nào phải xem thử mới biết được, đây là tiền ta kiếm bằng bản

lĩnh thật, có gì phải ngại? chẳng lẽ lại từ chối vụ làm ăn đã đưa đến tận cửa?

Và lại, Mã Lục Hà này đội mưa mà đến, không thể phụ tấm lòng người ta

được”. Nghĩ đoạn, ông bèn nhận tiền đặt cọc, thu dọn những món cần dùng,

mang theo giấy vàng, chu sa, la bàn, đoản kiếm, đèn báo, dầu tây, phong

đinh, xẻng mỏ vịt, hoa tiêu... toàn những khí cụ để “xem phong vọng thủy”, rồi

thuê một cỗ xe lừa, theo Mã lão lục trở về xem đất.

Đến nhà họ Mã đã là đêm khuya, hai người ở ngoài ăn cơm uống rượu rồi

trọ trong khách sạn, đợi qua ngày hôm sau, Mã Lục Hà mới đưa Hồ tiên sinh đi

từ trong ra ngoài, nhìn hình đo đất. Trong Thập lục tự Am dương Phong thủy

bí thuật mà Hồ tiên sinh được sư phụ truyền cho, có phép Bát trạch minh khí,

chuyên dùng để phân biệt sự hung cát hưng suy của bố cục trạch viện, bao

năm rồi chưa hề sai trật lần nào.

Sau khi vào nhà, Hồ tiên sinh lấy ra một tấm gương đồng nhỏ, rồi soi ánh

mặt trời để xác định phương hướng góc độ. Thuật Mô Kim có từ thời Tam

Quồc, thực tế phát nguyên từ thuật Thần Phù thời Tây Chu, bất luận tầm long

điểm huyệt hay xem hình xét thế, xưa nay đều không dùng la bàn, dùng la

bàn thì không phải là phép cổ.

Hồ tiên sinh theo Mã Lục Hà đi vào, qua nhà qua sân, xem cách bố trí trong

các phòng, cảm thấy trật tự rõ ràng, tuy không đến mức cao minh, nhưng

cũng coi là tạm được. Có điều, trật tự rõ ràng chỉ là một nhân tố, vẫn còn phải

dựa vào phép Bát trạch minh kính tiếp tục tính toán, vì sách cổ có viết rằng:

“Nơi ở, chính là căn cơ của người, lớn nhỏ khác nhau, âm dương mỗi khác,

nếu không cầu toàn, thì dùng không đủ.”

Từ thời Tống, việc bày bố trong âm trạch và dương trạch đa phần đều theo

phép Ngũ tính âm lợi, dựa vào âm đọc cùa họ để phân ra Kim, Mộc, Thủy,

Hỏa, Thổ, phối hợp với phương vị Ngũ hành Bát môn mà sắp xếp. Họ của Mã

Lục Hà và nhà này không hề xung khắc, hơn nữa còn lợi tài hưng vượng, vì

thế, nguyên nhân này cũng nhanh chóng bị Hồ tiên sinh loại trừ.

Sau đấy, lại luận tới lý thuyết Đạo gia, suy tính các chi tiết nhật nguyệt, càn

khôn, nóng lạnh, thư hùng, ngày đêm, âm dương, chỉ thấy trang viên nhà họ

Mã “lấy hình thế làm thân thể, giếng nước làm huyết mạch, lấy gạch ngói làm

da thịt, lấy cây cỏ làm lông tóc, lấy môn hộ làm mũ đội ”, tất cả đều không có

điểm nào không thích hợp cả.

Hồ tiên sinh lại đề nghị gặp mặt từng người trong trang viện họ Mã, cũng

không phát hiện ra kẻ nào “hung thần ác sát cả. Đến lúc này, Hồ tiên sinh

không khỏi toát mồ hôi, không hiểu nhà họ Mã gặp phải ma tà quỷ quái gì, vốn

là nơi cát trạch cát địa, lại có tướng phú quý, sao trong nhà lại liên tiếp có

người bạo bệnh mà chết như thế?

Xem hết bên trong trang viện mà không có thu hoạch gì, Hồ tiên sinh đành

ra ngoài xem tiếp, phía sau trang viện nhà họ Mã có một triền núi, Hồ tiên sinh

và Mã Lục Hà dẫn người lên đó, từ trên cao nhìn xống, chỉ thấy đúng là một

mảnh đất báu phong thủy “sơn thanh thủy tú, rồng bay phượng múa”.

Mã Lục Hà thấy Kim Điểm Hồ tiên sinh mãi vẫn chưa nhìn ra được nguyên

nhân, trong lòng càng thấp thỏm không yên, bèn hỏi ông đất này thế nào, rốt

cuộc là hung hay cát. Hồ tiên sinh đành nói: “Rành rành là một mảnh đất báu

phong thủy quý hóa vô cùng, nhưng tại sao...” đang nói giữa chừng, ông đột

nhiên dừng lại, hít sầu một hơi khí lạnh, sắc mặt biến hẳn, kinh hãi thốt lên

một tiếng: “Quả nhiên hung hiểm!”

CHƯƠNG 66: MŨ MA

Mã Lục Hà bị Hồ tiên sinh làm cho giật thót mình, biết rằng người này đã

tìm được căn nguyên đụng chạm với hung sát trong nhà mình, vội hỏi: “Tiên

sinh, sao lại nói vậy? Hung hiểm ở đâu?”

Hồ tiên sinh lau mồ hôi lạnh trên trán, đáp: “Nếu không phải tôi nhìn ra

được, già trẻ gái trai nhà họ Mã đều phải xuống Âm Ty làm ma cả đấy.”

Mã Lục Hà nhất mực tin tưởng thuyết phong thủy, nghe thấy lời này, trong

lòng lại càng kinh hãi bội phần: “Mảnh đất báu phong thủy nhà chúng tôi sao

lại có vận hung hiểm thế chứ?”

Hồ tiên sinh chỉ xuống núi, nói với Mã Lục Hà: “Ông nhìn kỹ xem, ngọn núi

cao phía Tây trang viện nhà họ Mã giống cái gì?” Mã Lục Hà nhìn theo hướng

ngón tay, chỉ thấy mé sau nhà mình có một ngọn núi cao, cảnh sắc đẹp đẽ

xanh um, bình thưòng nhìn cũng đã quen, cho là thường, không hề cảm thấy

gì. Nhưng lúc này ngắm nghía kỹ càng, bất giác cũng kinh hoảng thốt thành

tiếng: “Rõ ràng là một cái mũ, đây là... là mũ của phán quan trong kịch nói.”

Hồ tiên sinh nói: “Ngọn núi kia trên nhỏ dưới phình, vươn lên sừng sững

như mũi dùi, thế núi lánh dương tìm âm, vừa khéo phủ trùm lên trang viện

nhà họ Mã, hình thế này trong phong thủy có tên tục gọi là mũ ma, chẳng

trách việc làm ăn trong nhà lại hưng vượng, tiền vào cuồn cuộn, vì đây chính là

dường thu tiền âm của phán quan Sâm La điện. Khu nhà này của ông chỗ nào

cũng tốt, xây dựng không chút vấn đề, hiềm nỗi lại nằm bên dưới mũ ma, há

chẳng phải coi đây như âm trạch mộ phần hay sao? Thứ cho tôi nói thẳng,

không đầy ba năm toàn gia nhà ông sẽ chết sạch, gà chó cũng chẳng còn

đâu.”

Mã Lục Hà sợ đến hồn xiêu phách lạc, lập tức níu lấy Hồ tiên sinh khẩn cầu:

“Tiên sinh nhất định phải cứu cả nhà tôi với, tốn bao nhiêu tiền cũng được, xin

tiên sinh cứ nói.”

Hồ tiên sinh bèn an ủi: “Mã lão gia không cần phải lo sợ, chỉ cần bỏ căn nhà

này đi, toàn gia nhà ông dọn đi chốn khác là được, giờ vẫn chưa muộn đâu.”

Mã Lục Hà không nỡ bỏ mảnh đất báu nạp tài này, liền đảo mắt van nài Hồ

tiên sinh: “Xây khu nhà lớn như vậy tuy tốn kém không ít, nhưng cũng không

có gì luyến tiếc cả, chỉ có điều cái “mũ ma” kia rõ ràng là mảnh đất báu phong

thủy thu nạp tiền tài, sao có thể để uổng phí vậy được, cầu xin tiên sinh ban

cho diệu pháp để nhà họ Mã tôi giữ được tài vận này.”

Sau đấy, Mã Lục Hà lại lấy ra mấy miếng vàng, nói cứng nói mềm, cầu Hồ

tiên sinh ban cho kế sách. Hồ tiên sinh từ hồi theo thầy học nghề đã biết một

câu ngạn ngữ cổ: “Núi sông mà biết nói, thầy phong thủy chết đói; thảo dược

mà biết nói, y sứ không gạo ăn.” Không nên quá tin vào thuyết phong thủy,

nhưng các bậc thánh hiền thời xưa cũng thường nói chuyện “thiên nhân tương

ứng” có lúc địa lý núi sông dường như cũng có thể ảnh hưởng đến họa phúc

cát hung, vì vậy Hồ tiên sinh cho rằng, đạo phong thủy không phải vô căn cứ,

cũng thường nghĩ đến chuyện tìm cho mình một mảnh đất báu phong thủy, để

đến khi trăm tuổi còn lưu lại phúc ấm cho con cháu đời sau.

Không cầm lòng được trước lời khẩn nài vật vã của Mã Lục Hà, Hồ tiên sinh

đành đồng ý. Kỳ thực, muốn giữ lại mảnh đất tài lộc “mũ ma” này cũng không

phải chuyện gì khó, chi cần đảo lộn âm dương là được, bỏ dương trạch đi, sau

đó đưa mộ phần tổ tiên về mai táng ở đây, việc làm ăn của nhà họ Mã vẫn

càng ngày càng phát đạt.

Mã Lục Hà mừng rỡ khôn xiết, luôn miệng tán dương Hồ tiên sinh quả

không hổ là cao nhân Kim Điểm, ông ta đã mời hết cả các vị danh gia trong

tỉnh, mà không ai nhìn ra được trang viện nhà họ Mã phạm phải hung sát gì,

vậy mà Hồ tiên sinh mắt lửa ngươi vàng, vừa lên núi nhìn đã thấu được huyền

cơ ngay, đúng là bản lĩnh thần tiên, gặp được cao nhân như thế, nhất định là

khí số nhà họ Mã vẫn còn chưa tuyệt.

Đối với chuyện hưng vong của gia tộc, Mã Lục Hà không dám có chút sơ

suất, lập tức mời Hồ tiên sinh ở lại nơi tốt nhất trong trấn, rồi phái người đến

hầu hạ cơm ăn nước uống, đổng thời một mặt nhờ ông giúp chỉ ra huyệt đạo

của địa mạch, mặt khác tiến hành dọn cả nhà đi nơi khác.

Đúng dịp Mã lão thái gia vừa qua đời được tròn năm, họ liền chọn ngày

hoàng đạo, tập hợp người đào mộ lên, còn chuẩn bị đủ khí cụ của mặc

sư(

[32]

)để phòng thi biến. Thời xưa, mọi người tương đối mê tín, những khi

khai quật mộ có hoặc di chuyển mộ phần đều lo gặp phải thi biến, nên đều

mang theo đầu mực của thợ mộc để khắc chế cương thi. Đầu mực và dây mực

dùng để kẻ vạch đo đạc, trong dân gian phổ biến quan điểm là: “Dây mực

thẳng, không thể bẻ cong dối lừa”, dây mực chỉ có thể kẻ đường thẳng, có thể

nói là bảo vật của các mặc sư, dùng càng lâu càng quý báu. Dây mực là tượng

trưng cho chính trực. Từ thời xa xưa. tà đã không thể thắng chính, các vật

kiểu như dùi của thợ đá, thước, dây, búa, bào của thợ mộc, đều có tác dụng

tương tự, có thể trấn áp các thứ yêu tà quái dị. Rường cột và các đồ gỗ trong

nhà mà vô cớ cót két phát tiếng, đều bởi chưa cọ sạch dây mực, lâu ngày hóa

thành tinh linh phát ra tiếng động. Đương nhiên đấy đều là truyền thuyết,

cũng không có chứng cứ xác thực.

Ngoài ra, còn phải chuẩn bị một ít tiền đồng trước thời Thanh, sau khi quật

nấm thấy quan tài, phải áp lên nắp quan mấy chục đồng tiền, bên ngoài chăng

hai sợi dây. Làm vậy để phòng ngừa cái xác bật dậy phá quan tài. Tiền đồng

đè quan cài còn gọi là “nghìn cân một đồng”, tương truyền, làm như vậy có

thể ngăn cách thi thể với dương khí, ngoài ra còn có thuyết nói tiền đồng

chính là tiền quan, đè cho cương thi không bật lên được. Các thuật sĩ còn cho

rằng chữ trên tiền cổ chính là ấn quang, có thể phá yêu thuật lòe bịp. Truyền

thuyết về ấn quan này có rất nhiều, tỷ như có thuyết nói, thời xưa có kẻ trộm,

không cần móc túi vẫn có thể lấy tiền bạc từ ngoài xa ngàn dặm, vì vậy phàm

các nhà giàu đều đặt một xâu tiền cổ hoặc nguyên bảo có ấn quan trong ngân

khố, gọi là tiền “áp khố”, như vậy sẽ không bị trộm nữa. Vả lại, tiền cổ có ấn

quan cũng có thể tránh tà, niên đại càng xưa càng tốt.

Theo phong tục mai táng của địa phương, lúc chuyển mộ dời quan cài cần

chú ý “vạ miệng”, đây không phải chỉ tiếng lóng trong đạo lục lâm, mà mộ cổ

là lãnh địa của người chết, người sống đến tìm ngưòi chết, cần phải kiếm lấy

cái cớ cho mình yên tâm, vì vậy mới gượng ép thêm vào rất nhiều điều kỵ húy,

“vạ miệng” tức là những cấm kỵ trong lời ăn tiếng nói, kỵ nhất là những từ

kiểu như “chết, xác, âm, chạy, mồ, mả...” cho rằng những chữ này không

được may mắn, trong lúc nói chuyện đều cố gắng tránh đi. Tuy vậy, hai chữ

quan tài phát âm giống như quan tài trong thăng quan phát tài, vì vậy không

cần tránh vạ miệng. Những quy củ nhà quê phức tạp này, Hồ tiên sinh trước

giờ vẫn nắm rõ trong lòng bàn tay, chỉ điểm rõ ràng đâu ra đấy.

Vào đêm cuối cùng, theo quy củ, cần mời đạo sĩ đến niệm chú an ủi vong

hồn, con cháu thắp hương dập đầu xong, mới khiêng quan tài ra, cắm phướn

cắm đèn dẫn lối, để trâu vàng ngựa trắng kéo xe, đưa quan tài khâm liệm thi

thể Mã lão thái gia đến mảnh đất “mũ ma” chôn cất lại.

Quan tài là trung tâm của việc mai táng, vì trong xã hội cũ, người người đều

mê tín tin vào phong thủy, cho rằng đất có đất hung đất cát, sao có sao lành

sao dữ, nếu tìm được một mảnh đất lành làm mộ tổ, chôn cất thi hài tổ tiên,

con cháu đời sau có thể nhờ vào long khí phong thủy ấy mà phát tích. Gia tộc

hưng vượng không ngoài việc làm quan, kiếm tiền, chính vì lẽ này mà quan tài

đồng âm với quan tài trong thăng quan phát tài, nên việc chuyển dời mồ mả tổ

tiên là hết sức quan trọng, nhà họ Mã lại có tiền có thế, kinh động đến nỗi dân

chúng khắp vùng đều kéo về xem náo nhiệt, người đông như nước.

Trang viện về cơ bản đã bị phá dỡ, nơi chôn cũng đã chọn xong, nhưng để

đề phòng long khí trong âm trạch chạy mất, trước khi đưa quan tài đến không

được đào đất lên, đợi khi quan tài đến nơi, Mã Lục Hà lập tức lệnh cho người

nhà bắt tay đào đất. Từ xưa, người ta đã chú trọng đào sâu chôn chặt, quan

tài chôn càng sâu càng tốt, chỉ có mộ người nghèo mới đào hố nông, dăm bữa

nửa tháng là bị chó hoang đào bới.

Nhà họ Mã tuy thừa tiền, nhưng dẫu sao cũng không phải quý tộc, thời Dân

quốc cũng không còn ai xây dựng minh đường mộ thất dưới lòng đất nữa, nên

chỉ đào một cái hố sâu để hạ táng mà thôi. Mười mấy người to khỏe thay phiên

nhau đào bới, được một cái hố còn sâu hơn cả móng nhà, phỏng chừng cũng

sắp xong thì đột nhiên đào được một khối đá.

Mọi người đều lấy làm kinh hãi, huyệt vị này là do Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ

cho, sao bên dưới không phải đất lành, mà lại có nham thạch? Hồ tiên sinh

ngồi bên cạnh trầm tĩnh quan sát, trong bụng cũng lấy làm lạ, thầm nhủ phen

này đúng là thất sách, sao lại chọn đúng một cái huyệt đá thế này? Không

khéo phen này mất mặt chứ chẳng chơi. Ông đang ngẫm nghĩ tìm cơ hội lẩn

đi, chợt thấy sắc mặt Mã Lục Hà nặng trịch, sầm sì đi tới bên cạnh, bảo ông tới

xem thử, tại sao trong huyệt mộ lại có nham thạch.

Kỳ thực, ý của Mã Lục Hà đã hết sức rõ ràng, nhà ông ta cũng dỡ rồi, mộ tổ

cũng chuyển đi rồi, nhưng trong huyệt mới lại đào phải nham thạch, tự nhiên

phải nghi ngờ Hồ tiên sinh là hạng giang hồ lừa đảo. Họ Mã này ỷ mình qua lại

với quan phủ, hoành hành bá đạo đã quen, hại chết một vài dân thường cũng

chẳng đáng gì, bây giờ đã định chôn sống luôn Hồ tiên sinh vào cái hố đó.

Hồ tiên sinh hối hận vô cùng, sớm biết thế này thì ban đầu đã không mở

tiệm bói, xưng là Kim Điểm kim điếc gì, cứ ù lì chăn dê chăn bò cho nhà địa

chủ còn hơn, giờ rơi vào tình cảnh này, tự mình tạo nghiệt thì không thể sống

được, đành phải chịu mệnh thôi. Bị cả đám người dổn ép, ông đành ủ rũ tấp

tểnh đi tới trước cái hố, trong đầu không ngừng xoay chuyên xem nên tán láo

thế nào để bảo toàn tính mạng.

Nhưng nước đến chân mới nhảy, làm gì có cách nào đây? Đang không biết

phải nói sao, chợt nghe mấy người phu đào huyệt xì xào ầm ĩ, nói rằng trên

tảng đá đào được kia có chữ, hình như là một tấm bia đá. Mã Lục Hà vội kêu

người đưa tấm bia ấy lên.

Người đông dễ làm việc, chỉ thoáng sau, tấm bia đá đã được đưa ra khỏi hố,

mọi người phủi sạch bùn đất bên trên, chỉ thấy trên mặt bia khắc sáu chữ lớn.

Bấy giờ, rất nhiểu người vây lại xem xét, ai biết đọc biết viết đều nhận ra được,

lẩm bẩm đọc lên thành tiếng: “Ở thì chết, chôn thì phát.”

Mã Lục Hà gạt đám người ra xem đi xem lại mấy lượt, kinh hãi đến nỗi một

hồi lâu không sao khép miệng lại được, quỳ sụp xuổng trước mặt Hồ tiên sinh

dập đầu cảm tạ rối rít: “Tiên sinh đúng là thần tiên sống! Mã Lục Hà tôi hôm

nay hoàn toàn tâm phục khẩu phục rồi!”

Hồ tiên sinh vốn tưởng rằng phen này bị chôn sống lấp hố rồi, không ngờ lại

có kỳ ngộ như vậy. Nơi này xưa nay chưa từng có người xây nhà hay xây mộ,

thứ chôn trong đất ắt là di vật từ thời cổ xưa, thật không ngờ lại ứng nghiệm

đến thế. Ông cũng ngây ra hồi lầu mới định thần lại được, càng cảm thấy Thập

lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật nói đâu trúng đó, mấy thứ kỹ nghệ giang

hồ vặt vãnh không thể nào so sánh được.

Khi ấy, người quây xung quanh xem đông nghìn nghịt, ai nấy đều coi Hồ

tiên sinh như một vị “bán tiên”, cứ như tinh tú quây quanh vầng nguyệt vậy.

Hồ tiên sinh cũng thấy lâng lâng, lòng mừng khôn tả, song bề ngoài vẫn không

dám để lộ ra, chỉ tìm mấy câu xã giao ứng đáp, rồi chủ trì nghi thức hạ táng

quan tài của Mã lão thái gia. Xong xuôi đâu đấy, ông nhận được rất nhiều tiền

tài tạ lễ,

từ đó trở đi, danh tiếng Hồ tiên sinh vang xa, hễ nhắc đến Kim Điểm Hồ

tiên sinh, người nào biết chuyện đều giơ ngón tay cái lên, khen một tiếng

“thuật số như thần, tay vàng điểm chỉ” nhưng cây to gọi gió lớn, dần dần cũng

có rất nhiều tên đạo tặc có ý đồ với nhà họ Hồ, muốn bắt ông đi giúp chúng

tìm long mạch trộm mộ.

Hồ tiên sinh tự thổi phồng mình một thời gian, thấy hết đám trộm này đến

đám giặc khác không ngừng tìm đến tận cửa, cũng không thể không thu liễm

bớt, qua quýt được thì qua quýt, tránh được thì tránh, nhưng ông cũng biết

tránh được mùng một không thoát khỏi hôm rằm, cứ ở lại trong thành xem bói

xem đất, sớm muộn cũng rước lấy vạ lớn, cái đầu mình rơi xuống cũng không

sao, nhưng vợ con trong nhà lấy ai nuôi sống đây?

Vậy là Hồ tiên sinh liền gói ghém hết vàng bạc châu báu, đưa cả nhà đi

trốn. Ông vốn không phải người Hồ Nam, nói đi là đi luôn, không có gì vướng

bận cả. Hai năm sau, gặp lúc thời cuộc khó khăn, trong nhà hơi túng thiếu,

ông nhớ ra mình còn cái tráp chôn ở một nơi bí mật bên hồ Động Đình, đó là

món tiền dùng khi khẩn cấp ông chuẩn bị từ lúc gia cảnh còn sung túc, dạo

trước đi gấp quá nên không kịp mang theo. Nay cần dùng đến, Hồ tiên sinh

bèn hóa trang thành thương khách trở về lấy tiền.

Hồ tiên sinh tính tình cẩn trọng, luôn né tránh tai mắt người khác, lại thông

đường thuộc lối nên chẳng tốn mấy công sức đã dễ dàng lấy lại được tráp tiền,

đang chuẩn bị mang tiền về nhà thì chợt nhớ ra Mã Lục Hà, thầm nhủ năm đó

mình giúp người này lấy được địa mạch phát tài “mũ ma”, lúc này Mã gia chắc

hẳn càng thêm hưng vượng, sao không tới đàm đạo một chuyến, biết đâu lại

được thêm gì đó.

Nghĩ đoạn, ông quyết định vòng đường đến tìm gặp Mã Lục Hà, chẳng ngờ

đến nơi liên đớ người ra, cả nhà họ Mã đều đã ngỏm củ tỏi, mộ phần của Mã

lão thái gia cũng bị đào trộm. Hồ tiên sinh cảm thấy hết sức bất ngờ, trong

lòng không khỏi thắc mắc: “Chẳng lẽ ta xem địa mạch không chuẩn, hại chết

cả nhà Mã Lục Hà rồi?” Nhưng rồi ông lại nghĩ: “Không thể nào, bia đá thời cổ

đào được trong huyệt mộ ấy, rõ ràng viết rằng “ở thì chết, chôn thì phát’,

chứng tỏ người xưa sớm đã nhận ra mảnh đất báu phong thủy này, lại không

phải có người động chân động tay vào, sao có thể sai được chứ?”

Hồ tiên sinh lấy làm nghi hoặc, chuyện này quan hệ đến tính mạng mấy

chục con người của một gia tộc lớn, không hỏi thăm cho rõ thì về nhà cũng

canh cánh không yên, bèn đi xung quanh dò hỏi, cuối cùng cũng biết được

toàn bộ sự kiện. Kết quả càng khiến ông bất ngờ hơn gấp bội.

Thì ra, Mã Lục Hà chuyển dời âm trạch dương trạch xong, quả nhiên việc

làm ăn càng thêm hứng vượng, thanh thế như mặt trời chính ngọ, tiền tài

cuồn cuộn chảy vào kho. Nhưng trời có gió mưa bất trắc, một ngày nọ, giếng

nước trong nhà bị người ta bỏ độc, một mạch chết mất mấy chục mạng người,

tuy trong nhà vẫn có người, nhưng người chết quá nhiều, trong lúc vội vàng,

đến cả quan tài cũng không kịp đặt mua.

Mã Lục Hà lớn tiếng mắng chửi Hồ tiên sinh là tên bịp bợm, cái mũ ma này

vẫn chụp lên đầu người sống nhà họ Mã không gỡ ra được. Ông ta nổi giận

đùng đùng dẫn người vào thành phá tiệm bói của Hồ tiên sinh, nhưng lúc đó

cả nhà Hồ tiên sinh đã dọn đi đâu không biết.

Mã Lục Hà tìm khắp nơi không thấy, đành hậm hực trở về. Ông ta ngồi

thuyền đi đường thủy, không ngờ dọc đường gặp một trận gió lớn, đánh chìm

cả thuyền, cả đám người đều làm mồi cho tôm cá, không kẻ nào sống sót. Cả

một gia tộc lớn cứ vậy mà chết sạch sẽ không còn một ai.

Thời bấy giờ đang buổi chiến loạn liên miên, mộ phần của Mã lão gia là mộ

mới, bằng như một đống vàng bạc đặt lù lù trên mặt đất. Sau khi băng cướp

lớn ở Tương Âm tan đàn xẻ nghé, có khá nhiều kẻ hoạt động đơn lẻ trong

vùng. Một hôm, cả trăm người mang theo vũ khí chạy qua, trắng trợn đào ngôi

mộ này lên, vơ vét sạch sẽ đồ bồi táng của Mã lão thái gia mang đi.

Bấy giờ, tục hậu táng đã suy tàn, nhưng vẫn thịnh hành lệ đặt tiền “áp

khẩu” cho người chết, trong miệng ngậm bạc hoặc tiền đồng, mà nhà họ Mã

lại tiền nhiều mạnh chi, trong quan tài quả cũng có một số món xa xỉ đắt tiển,

y phục của xác chết không cần phải nói, chỉ riêng cái túi đựng thuốc bằng gấm

đỏ, miệng túi nạm ngọc đã đáng mấy trăm đổng Đại Dương rồi. Cuối cùng,

bọn trộm còn nhổ nốt mấy cái răng vàng trong miệng Mã lão thái gia rồi mới

đập quan tài hủy xác, nghênh ngang rời đi, tình trạng thê thảm hết chỗ nói.

Về sau, lại có mấy toán trộm quy mô nhỏ hơn, cùng một số sơn dân quanh

vùng đến lọc hố, huyệt mộ càng đào càng lớn, ở chỗ dạo trước chưa động thổ,

lại lộ ra một tấm bia đá. Những người hiếu sự đều đó đến xem, thấy trên tấm

bia mới khai quật được ấy, cũng có sáu chữ lớn: “Người ngay phát, kẻ gian

chết.”

CHƯƠNG 67: SỔ GHI CHÉP

Chuyện này từng rộ lên một thời, người trong vùng đều xôn xao bàn tán, có

người bảo Kim Điểm Hồ tiên sinh chỉ được cái hư danh, lừa Mã Lục Hà một mớ

tiền to, lại chỉ cho ngưòi ta một cái hung huyệt, kết quả hại chết mấy chục

mạng người nhà ông ta. Có lẽ bản thân Hồ tiên sinh cũng biết có chuyện xảy

ra, nên mới dọn nhà trốn đi đâu không rõ.

Nhưng phần đông mọi người lại không nhìn nhận như vậy, mảnh đất “mũ

ma” này trước sau đào được hai tám bia đá, chữ khắc bên trên hết sức rõ

ràng! Nghĩ kỹ lại những câu “chôn thì phát, ở thì chết, người ngay phát, kẻ

gian chết”, thì không phải Kim Điểm Hồ tiên sinh chi sai huyệt nhãn, mà là Mã

Lục Hà táng tận lương tâm, bao năm nay minh tranh ám đấu, lại buôn bán

thuốc giả, không biết đã hại chết bao nhiêu mạng người, mấy trăm dặm quanh

đây thử hỏi có ai không hận hắn ta? Có thể thấy, không thể làm những việc

trái lương tâm được. Đây là ông trời muốn trừng trị cả nhà hắn, đúng như câu,

trời cao có mắt, mắt thần như điện, báo ứng không sai.

Hồ tiên sinh lại dò hỏi kỹ hơn, mọi người quả nhiên đều hận nhà Mã Lục Hà

thấu xương, người này lừa gạt thân thích, hãm hại dân chúng, chứa chấp đạo

tặc, chuyên làm những chuyện bịa đặt hãm hại, ăn không nói có, làm cho nơi

này khốn khổ vô cùng, gà chó cũng không yên, có thể nói đã khiến cho trời

giận người oán. Đại đa số dân chúng đối với chuyện cả nhà người này gặp họa

đều vỗ tay khen hay, cho rằng đó là “người ác người sợ trời không sợ, người

thiện người bạc trời không bạc; thiện ác đáo đầu đều có báo ứng, chẳng qua

chỉ sớm hay muộn mà thôi”.

Còn hai mảnh bia đá đào được ở mộ tổ nhà Mã Lục Hà kia cũng rất có lai

lịch, theo lời một hòa thượng già trong ngôi chùa địa phương, rất nhiều năm

trước, đích thực từng có địa danh “núi Mũ Ma”, mảnh đất rộng dưới chân núi

từng là nơi xây miếu thành hoàng. Những ngày lễ tết, người ta đều đốt tiền

giấy cho người âm ở chỗ cửa núi. Tương truyền, bia đá chôn bên dưới ngôi

miếu là để cảnh cáo hậu nhân... “âm địa không bằng tâm địa”, phong thủy

long mạch có tốt đến mấy, củng không bằng tự mình tích đức, làm việc thiện.

Sau này, miếu thành hoàng bị hủy trong lửa chiến tranh, trải mấy trăm năm

dời đổi, di tích cũ sớm đã không còn, không ngờ mảnh bia vỡ trong lòng đất

đến nay vẫn còn, lại vì chuyện của nhà Mã Lục Hà mà thấy lại ánh mặt trời, để

người đời biết được ý trời sâu thẳm, đạo trời khéo sắp.

Từ đó trở đi, Hồ tiên sinh cũng không dám vỗ ngực tự xưng tinh thông

phong thủy địa lý gì gì nữa, rốt cuộc ông cũng hiểu được ý tứ trong những lời

sư phụ nói năm xưa. Tại sao lại nói “thiên đạo không lời”? Chỉ vì ông trời không

nói chuyện, nhưng cảm ứng của trời đất vẫn luôn ở trong lòng người, bất luận

đắp mộ hay xây nhà, đều phải lấy tích đức làm gốc, đúng như câu “tâm là chủ

khí, khí phù cho đức”, trời chưa chắc đã có lòng với người, nhưng tâm ý đức

hạnh của người lại thường hay cảm ứng với trời cao.

Tôi kể chuyện này cho ông chủ Lý biết, để ông hiểu được đạo phong thủy là

chỉ “lẽ thiên nhân cảm ứng, đạo tạo hóa biến dịch”, chứ không đơn giản chỉ là

tìm mảnh đất đẹp để chôn cát, không nên mê tín quá. Từ xưa đến nay, bao

nhiêu hoàng đế quân vương sau khi chết đều được chôn ở long mạch, nhưng

cũng không thể ngăn được dòng chảy của lịch sử thay triều đổi đại.

Ông chủ Lý gật đầu nói: “Đèn không khêu không sáng, lời không nói không

hiểu, tấm giấy bồi cửa sổ mỏng manh mà không chọc thì cả đời cũng không

rách, hôm nay nghe cậu nói vậy, đích thực rất có lý...” Nói tới đây, ông chợt

nhớ đến một chuyện, liền gọi Út vào dặn dò mấy câu, hình như bảo cô đi lấy

thứ gì đó.

Út bới rương lục tủ trong phòng một lúc lâu, cuối cùng cũng lấy ra một cái

tráp bằng gỗ đen, nắp không có khóa, mà luồn hai sợi dây thừng thắt chặt lại,

ở chỗ thắt nút dùng xi niêm phong, phía trên còn có dấu ấn, bên trong nặng

trịch, dường như đựng rất nhiều thứ.

Tôi và Tuyền béo đều hết sức tò mò, còn tưởng ông chủ Lý lại khoe với

chúng tôi món bảo vật trấn sơn gì, bèn hỏi ông, trong tráp này đựng thứ kỳ

môn ám khí gì vậy.

Ong chủ Lý lắc đầu nói: “Trong này đựng thứ gì tôi cũng không biết, thậm

chí còn chưa từng mở ra xem, nhưng có lẽ các cậu biết được đôi chút đấy.”

Tôi càng ngạc nhiên hơn: “Đó của ông ông còn không biết, chúng tôi lại

không thể nhìn xuyên thấu cái tráp, làm sao đoán được chứ?” Nói tới đây, một

ý nghĩ chợt lóe lên trong óc, tôi vội hỏi: “Chẳng lẽ đây là đồ của Mô Kim hiệu

úy?”

Ông chủ Lý đáp: “Đúng thế, lúc trước tôi thấy các cậu có thể nhận ra Ô Kim

Cang là biết chắc chắn các cậu cùng nghề với người khách năm xưa đến đây

đặt làm chiếc ô ấy rồi. Vì Ô Kim Cang này không phải vũ khí tầm thường, chỉ

dùng đến khi đổ đấu mò vàng mà thôi. Năm đó, vị khách thương kia đến tiệm

tôi đặt làm một chiéc Ô Kim Cang, đồng thời gửi lại cái tráp này dặn rằng lúc

nào lấy ô sẽ mang cả đi, nhưng ông ta đi một mạch mấy chục năm không thấy

bóng dáng, giờ tôi đã sắp xuống lỗ rồi, cũng chưa từng gặp lại ông ta.”

Nhắc tới đoạn chuyện xưa này, ông chủ Lý không khỏi cảm thán hồi lâu.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, vật đổi sao dời, nay Phong Oa sơn đã từ Hà Bắc

chuyển đến Tứ Xuyên, trải qua bao nhiêu năm, bao thứ mang theo mình đều

đã mất hết, nhưng cái tráp này vẫn còn nguyên vẹn, ấy là vì năm xưa đã nhận

lời người ta, thì phải giúp họ trông coi cho tốt.

Ông chủ Lý tự thấy mình tuổi tác đã cao, sợ rằng không thể giữ gìn vật này

được nữa, liền giao tráp gỗ đen ấy lại cho chúng tôi. Dẫu sao, chúng tôi cũng

là Mô Kim hiệu úy, còn hơn để sau khi ông chết, nó rơi vào tay người ngoài,

còn bên trong rốt cuộc đựng những thứ gì, thì chẳng thể nào biết được.

Sau khi biết tin Đa Linh qua đời, tâm trạng tôi khá sa sút, thấy cái tráp gỗ

này kiểu dáng cổ xưa, đoán rằng bên trong hẳn đựng các thứ quý trọng, bấy

giờ hơi men đã xông lên tận đầu nên cũng chẳng gấp mở ra xem ngay. Bọn tôi

uống đến tận khuya, say khướt mới nghỉ. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi cám

ơn ông chủ Lý, chào tạm biệt rồi lên đường về. Lần này, chúng tôi chia làm hai

nhóm, Shirley Dương và Út đi Hồ Nam đón lão Trần mù, sau đấy sẽ vể Bắc

Kinh tụ họp.

Dọc đường không ai nói chuyện gì, tôi và Tuyền béo về Bắc Kinh trước,

Minh Thúc và Răng Vàng đã đợi sẵn từ lâu.

Minh Thúc không ngừng hỏi han chúng tôi đi đố đấu ở đâu, có mở hàng

không, tôi không hé nửa chữ, chỉ bảo Tuyền béo và Răng Vàng dựa theo địa

điểm Tôn Cửu gia mô tả trong thư, đào lấy tư liệu lão ta nghiên cứu chỉnh lý

nhiều năm, nhưng không có đổ cổ hay văn vật gì, hai người họ đành ủ rũ gói

đồ đạc trở về.

Tôi đặt cả mấy món đổ lấy được trong chuyến này lên bàn, đóng cửa lại,

cùng Tuyền béo, Răng Vàng bàn tính xem nên xử lý thế nào. Tôn Cửu gia đã ở

lại hẻm núi Quan Tài, đời này chắc đến chết cũng không chịu lộ diện nữa, tư

liệu về quẻ cổ lão ta để lại đều là thật, chỉ có điều, muốn phá giải được toàn bộ

quẻ cổ Chu Thiên, vẫn phải nhờ đến bậc đại hành gia như Trương Doanh

Xuyên giúp đỡ, không phải việc một hai năm mà có kết quả ngay, vả lại, cũng

không thể thiếu tấm gương cổ Quy Khư kia được.

Dạo trước, tôi cực kỳ hứng thú với quẻ chu Thiên hoàn chỉnh mười sáu chữ,

nhưng trải qua rất nhiều sự việc, khiến tôi thầm cảm thấy thiên cơ quẻ tượng

mê hoặc người ta không ít, năm xưa Trương Tam Gia hủy đi một nửa quyển

Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật, rất có thế cũng liên quan đến

chuyện này. Ngoài ra, từ trước tôi đã phát hiện Trương Doanh Xuyên là người

đạm bạc, không màng danh lợi, hình như cũng không coi trọng toàn quẻ Chu

Thiên cho lắm. Trương Doanh Xuyên tinh thông lý học, suy lẽ trời mà hiểu

được chuyện người, tầm nhìn rất xa, có thể nhận ra rất nhiều đạo lý mà người

thường không sao thấu hiểu. Anh đã thế, tôi mà bổ khuyết đầy đủ Thập lục tự

Âm dương Phong thủy bí thuật cũng chưa hẳn là một chuyện tốt, huống hổ

còn phải tốn rất nhiều tâm sức ngồi nghiền ngẫm, tính tôi làm sao ngồi yên

một chỗ vậy được chứ?

Tôi tính toán trước sau, cuối cùng quyết định đem hết tư liệu nghiên cứu về

quẻ cổ của Tôn Cửu gia chuyển giao cho Trương Doanh Xuyên. Còn gương cổ

Quy Khư và long phù bằng đồng xanh đều có ý nghĩa phi phàm, đồ đồng xanh

vớt ở Quy Khư lên đều là báu vật thượng cổ, ông chủ thuyền Nguyễn Hắc

cùng ra biển với chúng tôi đã vì gương cổ Quy Khư mà chết, chiến hữu năm

xưa Đinh Tư Điềm lại có nghìn vạn ối liên hệ vi diệu với mảnh bùa hình rồng

kia, những thứ này không nên lọt vào tay bất cứ người nào khác, cứ đưa cho

giáo sư Trần xử lý là ổn nhất.

Tuyền béo nâng cái tráp bằng gỗ đen ông chủ Lý đưa cho lên, hỏi tôi: “Nhất

này, thứ này tính sao đây? Đã về đến Bắc Kinh rồi, cũng phải mở ra xem thử

chứ, nom cái tráp này không nhẹ, lắc lên thấy bên trong lọc cà lọc cọc, có phải

đĩnh vàng đĩnh bạc gì không nhỉ ?"

Từ đầu tôi vẫn cho rằng cái tráp này là vật của người khác, sao cũng không

thể vì người ta không đến lấy mà mượn cớ chiếm làm của riêng được, nhưng

cũng rất tò mò không biết trong tay tiên bối Mô Kim hiệu úy kia rốt cuộc có

bảo bối gì. Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim chân chính, tôi và

Shirley Dương, Tuyền béo mỗi người một lá. Hai lá trong đó do Liễu Trần

trưởng lão ở chùa Vô Khổ năm xưa truyền lại, lá còn lại là Tuyền béo tìm được

trong ngôi mộ cổ sau miếu Ngư Cốt.

Từ đây có thế thấy, người khách đặt chế tạo Ô Kim Cang ở chỗ ông chủ Lý,

rất có khả năng chính là vị tiền bối chết trong hang nhện Long Lĩnh, nếu đúng

thế thật, chắc chắn ông ta vĩnh viễn không thể quay lại lấy món đồ mình gửi

nữa rồi.

Năm xưa, vị Ban Sơn đạo nhân cuối cùng là Gà Gô vì muốn tìm di tích

Thông Thiên Đại Phật tự ở thành Hắc Thủy chôn vùi bên dưới dải cát vàng, đã

bái Liễu Trần trưởng lão ở chùa Vô Khổ làm sư phụ, muốn học Tầm long quyết

và thuật Phân kim định huyệt, chẳng ngờ Liễu Trần trưởng lão lại bất hạnh

qua đời, không kịp truyền thụ cho ông Tầm long quyết. Lúc lâm chung, Liễu

Trần trưởng lão từng để lại di ngôn dặn dò Gà Gô đến hai bên bờ sông Hoàng

Hà tìm một vị Mô Kim hiệu úy khác.

Vị Mô Kim hiệu úy ấy thường cải trang thành khách thương, trên tay luôn

cầm một cái bàn tính vàng, tuy Liễu Trần trưởng lão không nói rõ quan hệ của

mình với người này, nhưng chắc chắn là bạn bè cộng tác trước đó của ông,

giao tình không phải tầm thường, bằng không ông cũng chẳng nhắc đến

người này với Gà Gô trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời. Đáng tiếc, Liễu

Trần trưởng lão không hề hay biết, Kim Toán Bàn sớm đã chết trong mê động

Long Lĩnh từ lâu. Vả lại, Kim Toán Bàn hành sự ẩn mật, nếu không phải chúng

tôi chạy ra từ mộ u linh thời Tây Chu, tình cờ chui vào hang nhện ở sâu hơn

bên trong, sợ rằng chẳng ai biết được Mô Kim hiệu úy Kim Toán Bàn đã chôn

thây trong đó.

Chuyện này tôi đã nghĩ đến từ trước, nhưng vẫn không dám xác nhận, bởi

không thấy chiếc bàn tính bằng vàng ròng trong cả mộ u linh lẫn hang nhện.

Thứ này vàng chóe, nhất định rất bắt mắt, vả lại còn là vật tùy thân quan

trọng của Kim Toán Bàn, đương nhiên ông ta sẽ không tùy tiện để rời xa. Từ

đây suy ra, chẳng lẽ ngoài chủ nhân đời trước của ba miếng bùa cổ ra, trên

đời vẫn còn một vị Mô Kim hiệu úy thứ tư nữa chắc?

Nghĩ tới đây, tôi không kìm được, định mở tráp ra xem trước rồi tính tiếp,

tương lai nếu thực sự có người tìm đến cửa đòi lĩnh lại, cứ trả hết đầy đủ mọi

thứ cho người ta là được, chỉ xem qua một chút cũng chẳng thể hư hỏng thứ

gì. Nghĩ đoạn, tôi liên động thủ cắt đứt sợi dây gân bò đã phủ bụi nhiều năm,

vừa mở nắp tráp ra, liền thấy ánh vàng lóe lên chói mắt.

Cái tráp bằng gỗ đen này rất giống rương tiền chuyên đựng tiền bạc sổ

sách của các thương gia thời xưa, bên trong là môt chiếc bàn tính vỡ vụn,

khung giá, con tính đều đúc bằng vàng ròng, bên trên khắc rất nhiều ký hiệu

nhỏ biểu thị thiên can địa chi, dạng thức cổ phác đẹp đẽ, không biết đã truyền

qua bao đời.

Tôi thầm nhủ, thế này thì không sai vào đâu được, quả nhiên là vật của Kim

Toán Bàn mà Liễu Trần trưởng lão quen biết, xem ra chúng tôi cũng có duyên

với người này. Kế đó, chúng tôi lại xem xét mấy món còn lại trong tráp, đều là

các cuốn sổ ghi chép, bên trong toàn các chi tiết mua vào bán ra, nhưng đọc

kỹ hơn, lại phát hiện trong đó còn kèm theo rất nhiều thông tin, tôi lật lật mấy

trang, dường như có chép lại cả những sự tích liên quan tới Thập lục tự Âm

dương Phong thủy bí thuật nữa.

Tuy tôi định lần này lo liệu việc chôn cất cho Đa Linh ở Mỹ xong xuôi sẽ

không làm nghề đổ đấu nữa, mà kết hôn rồi sống một cuộc đời bình lặng,

nhưng bao nhiêu chuyện tôi trải qua những năm gần đây, cơ hồ đều có liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật,

tất cả những người tôi quen biết, bao gồm cả Trương Doanh Xuyên hậu nhân

của Trương Tam Gia, đều không giải thích được tại sao bộ kỳ thư phong thủy

này chỉ còn nửa quyển, dẫu có kể ra được một số lý do, cũng đều khiến người

ta khó lòng tin phục. Lúc này, gặp được cuốn sổ của Kim Toán Bàn, không ngờ

lại ghi chép sự tích về nó, trong lòng tôi hết sức bất ngờ, càng nôn nóng muốn

biết rõ sự tình, bèn đưa hết đồ đạc trong tráp cho Tuyền béo cất giữ, sau đó

lấy cuổn sổ lật xem từng trang dưới ánh đèn.

Tôi đọc cả đêm không bỏ sót chữ nào, rốt cuộc cũng giải được mối nghi vấn

chôn sâu trong lòng bao năm nay, lại nhớ tới những gì mình và bọn Tuyền béo

từng trải qua, cũng không thể không khâm phục tầm nhìn và kiến thức sâu

rộng của Trương Tam Liên Tử, người viết nên bộ Thập lục tự Âm dương Phong

thủy bí thuật này, bình yên rút khỏi nơi đầu sóng ngọn gió là chuyện không

phải ai củng làm được.

Mượn chuyện xưa để xét chuyện nay, khiến lòng tôi có chút cảm ngộ, quyết

định sẽ dũng cảm thoái lui, cũng là để thực hiện lời hứa với Shirley Dương

trước đây. Sau khi an táng Đa Linh, tôi sẽ cùng Shirley Dương, Tuyền béo rửa

tay chậu vàng, từ nay gỡ bỏ bùa Mô Kim, đem số thanh đầu mò được ở Vực

Xoáy San Hô bán đi lấy chút tiền vốn, rồi cùng bọn lão Trần mù, Minh Thúc,

Răng Vàng, Cổ Thái ra nước ngoài hợp tác buôn bán làm ăn, cả đời không hỏi

đến chuyện đổ đấu nữa.

Gặp những lúc rảnh rỗi thanh tĩnh, tôi sẽ xem lại những thứ của tiền bối Mô

Kim hiệu úy năm xưa truyền lại, một là nửa quyển tàn thư Thập lục tự Âm

dương Phong thủy bí thuật, rồi ba lá bùa Mô Kim mà tôi, Tuyền béo và Shirley

Dương từng đeo. Tôi không biết liệu những món cổ vật này cùng có số mệnh

hay không, nhưng khí số “hưng vong” của chúng từ rất lâu về trước, đã được

sư phụ của Kim Toán Bàn là Trương Tam Liên Từ nắm rõ cả rồi.

Toàn bộ sự tích của các Mô Kim hiệu úy đương đại đến đây là hết, trong

cuốn sổ của Kim Toán Bàn rốt cuộc đã ghi lại sự việc gì? Nguyên nhân thật sự

khiến Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật trở thành tàn thư là gì ? Xin

mời xem thêm ba chương ngoại truyện.

CHƯƠNG 68: RỬA TAY CHẬU VÀNG

Trương Tam Gia là bậc lão thành trong nghề trộm mộ cuối thời Thanh, ông

một mình đeo ba lá bùa, người đời thường hay gọi là Trương Tam Liên Tử, tên

thật không rõ là gì, dù thời trước nhậm chức ở núi Côn Luân, thân trong cửa

quan, cũng chỉ dùng họ thật mà giấu đi tên.

Tên húy của Trương Tam Gia là gì, đến cả đệ tử con cháu trong nhà cũng

đa phần không biết, tại sao lại thế ? Chỉ vì bình sinh những việc ông làm, thảy

đều phạm vào cấm kỵ, trong hai đạo hắc bạch không ai không biết, cũng

thuộc hàng có số có má trong chốn lục lâm.

Trước thời Dân quốc, Trung Quốc vẫn còn thuộc chế độ phong kiến, thảng

như phạm phải tội lớn tày trời, có khả năng sẽ bị tru di cửu tộc, một người gây

chuyện, thân thích bằng hữu của y đều bị liên lụy theo, vì vậy người trong giới

lục lâm đều không dùng tên họ chân thực, mà chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu,

ngoại hiệu, dù một số người danh tiếng lẫy lừng khắp thiên hạ, đến lúc chết

cũng chỉ để lại thế gian một biệt hiệu mà thôi.

Tuy Trương Tam Gia vướng vào không biết bao nhiêu vụ án, nhưng thời trẻ

ông từng được hoàng đế Hàm phong phong thưởng, lại thành thạo sự đời,

dùng các thứ cổ vật hiếm quý đổ đấu được kết giao vô số vương công đại

thần, quan lại bổ khoái vốn không dám động đến ông, vì vậy mà môn hạ đệ tử

rất đông, gia tài giàu không kế xiết, hào kiệt khắp ngũ hồ tứ hải đều muón kết

giao cùng.

Một năm nọ, Trương Tam Gia nảy sinh ý định muốn thoái ẩn, ông hiểu được

mệnh trời, chán ghét những chuyện cơm áo gạo tiền của thế gian, định quy ẩn

chốn núi rừng, sống nốt quãng đời còn lại trong bình yên. Ông liền gửi thiếp

mời rộng rãi, mời bạn bè ở khắp nơi đến nhà họ Trương ăn tiệc.

Đã lăn lộn trong hắc đạo thì không thể tách khỏi đám cường đạo Xả Lĩnh

khống chế bảy tỉnh miển Nam sáu tỉnh miền Bắc, thời bấy giờ, quan và phỉ là

một nhà, Trương Tam Gia tự nhiên cũng phải nhập bọn. Lần rửa tay chậu

vàng công khai này, chính là để rút hương trên Thường Thắng sơn.

Khi đó, thế lực của cường đạo Xả Lĩnh đã suy vi, rất nhiều người không hề

biết Trương Tam Gia chính là Mô Kim hiệu úy Trương Tam Liên Tử, thêm nữa,

thân phận của thủ lĩnh cường đạo tuy tương đối cao, nhưng thanh danh còn

xa mới bì kịp Trương Tam Gia, vì vậy hành vi này của ông, còn gây vang động

hơn cả chuyện trùm cướp rời băng, có thể coi là một chuyện lớn trong giới lục

lâm đương thời.

Những kẻ giang hồ lớp sau, có ai mà không muốn được mở rộng tầm mắt

chứ? Đến ngày mười lăm tháng Sáu âm lịch, quả nhiên khách khứa chật nhà,

tề tựu đông đủ. Những người đến đây, không ai không phải giang dương đại

đạo, giặc cướp lục lâm, bàn ghế kê từ nhà chính ra đến cổng lớn, hai bên chái

nhà cũng chật kín người, rất nhiều kẻ thân phận thấp đều phải đứng chứ

chẳng có chỗ mà ngồi.

Sau khi sắp xong chỗ ngồi dựa theo thân phận, trước tiên là mở hương

đường, bái lạy tổ sư Võ Thánh chân quân, rồi bắt đầu đại lễ. Kỳ thực, đây

cũng chỉ là làm ra vẻ vậy thôi, nhưng tục lệ thì không thể miễn được, càng

không ai dám sơ suất coi thường. Ngó nhìn trăng trên trời đã tròn, sao cũng

lên đủ, người xướng lễ bèn mời thủ lĩnh Xả Lĩnh ra ngồi bên dưới thần vị trong

nhà chính, phụ lễ hai bên khênh một lò hương tới, bên trong cắm mười chín

cây hương lớn, ba trước, bốn sau, năm trái, sáu phải, một cây ở chính giữa.

Sau một hồi chiêng trống, giờ hành lễ đã đến, các nhân vật hắc đạo đến

xem lễ lập tức im bặt như tờ. Lúc này, Trương Tam Gia bước ra, quỳ một chân

trước mặt thủ lĩnh hành lễ. Thời bấy giờ, đạo lục lâm vào thì dễ, rút thì khó,

người bình thường đều không dám rút hương, giặc cướp bình thường muốn

rửa tay không làm nữa, trừ phi cha mẹ ruột hoặc vợ con xảy ra chuyện lớn,

người chủ sự trong nhà không thể không trở về thì mới dám nhắc đến chuyện

rửa tay chậu vàng. Sau đấy, thủ lĩnh phái người điều tra đích thực có chuyện

như vậy, mới có thể cho y rút hương, bằng không giết chết không tha. Tuy

Trương Tam Gia thân phận khác thường, nhưng vẫn không tránh khỏi những

lễ tiết này, trước tiên phải trần thuật lý do rút hương trước mặt thủ lĩnh.

Trương Tam Gia bẩm rõ nguyên do muốn rút hương rời khỏi đảng cướp,

không ngoài những câu như bệnh cũ quấn thân, lại có vợ con nheo nhóc

vướng bận, khó thể làm những việc giết người cướp hàng được nữa, cúi mong

tổ sư gia và thủ lĩnh giơ cao đánh khẽ, cho đệ tử được toàn thân rút lui!

Thủ lĩnh nghe xong vội đỡ Trương Tam Gia dậy, cười xòa nói: “Chúc mừng

Tam ca rửa tay chậu vàng, dũng cảm thoái lui giữa dòng nước xiết là việc

đáng quý vô cùng, Hắc bạch lưỡng đạo tren thế gian này, bên nào cũng là

nước sôi lửa bỏng, có thể cầm cự đến ngày hôm nay cũng thật không dễ dàng

gì, có câu rằng… gió mây thường đến hội, tụ tán chẳng có kỳ, rút hương rời

bọn, nhưng nghĩa khí vẫn còn lưu.”

Vậy là Trương Tam Gia cùng thủ lĩnh bước tới trước ban thờ, đứng bên

cạnh lò hương, miệng lầm bầm khấn: “Tinh tú đầy trời rải bốn phương, núi cao

Thường Thắng ở chính giữa; lưu lãng giang hỗ mấy chục năm, nhiều phần nhờ

các huynh đệ chiếu cố; hôm nay tiểu đệ phải rời đi, khẩn thỉnh các huynh đệ

khoan dung; tiểu đệ về nuôi mẹ già, nhưng vẫn cùng các huynh đệ đồng

mệnh tương liên; binh đến tướng đến, đệ truyền báo; có nước có lửa đệ thông

tri; dưới có hoàng thổ trên có trời, đệ và các huynh chung một thuyền; chùy

sắt vỡ răng miệng không khai, dao thép cắt gan tâm không đổi; tiểu đệ có sai

một lời, ngũ lôi oanh đỉnh diệt toàn gia; xin chúc sao Khôi tụ kim quang,

hương hỏa Thường Thắng át Côn Luân, thế thiên hành đạo mãi lưu truyền.”

Trong đạo lục lâm, bất kể ai rút hương, đều phải khấn bài này, nói nhà

mình có mẹ già phải phụng dưỡng là lấy cớ “trăm việc thiện, hiếu đứng đầu”,

dẫu có viện cớ bằng trời, củng không thể ngăn cản người tận hiếu đạo được.

Tuy Trương Tam Gia từ nhỏ cô khổ, không cha không mẹ, nhưng vẫn phải

khấn đúng nguyên văn, không thể sửa chữa mảy may, vả lại trong quá trình

khẩn không thể sai sót một chữ, cũng không được dừng lại nửa chừng để

ngẫm nghĩ, bằng không ắt bị coi là trong lòng hổ thẹn, ý đồ bất chính, đám

đạo tặc xung quanh sẽ lập tức nhao lên loạn dao phân thây, băm kẻ tụng niệm

kia thành tương thịt.

Toàn văn bài khấn tổng cộng có mười chín câu; khấn một câu lại nhổ một

cây hương, khi Trương Tam Gia khấn xong, hương trong lò cũng đã nhổ hết.

Lúc này, thủ lĩnh lập tức chắp tay ôm quyền chúc mừng: “Tam ca đi mạnh giỏi,

khi nào nhớ nhà thì quay lại uống chén rượu.” Đến đây coi như xong lễ từ nay

trở đi Trương Tam Gia không còn liên can gì đến những sự vụ của đạo lục lâm

nữa. Mọi người xung quanh cùng bước lên chúc mừng, bên ngoài trang viện

pháo nổ rầm trời, trống nhạc tưng bừng, người hầu kẻ hạ lập tức bày tiệc lên,

nhất thời rượu thịt ê hề, ly chén chạm nhau, chủ khách đều vui vẻ.

Trong tiệc, đám cường đạo lục lâm đang chén chú chén anh, chợt có người

đề nghị: “Hôm nay là ngày Trương Tam Gia nhổ hương rời đảng, các lộ hào

kiệt đều tụ tập về đây, trên bàn toàn là rượu ngon thức hiếm, thật thống khoái

vô cùng, hiềm nỗi không có thứ gì để đưa rượu, thế này gọi là chỉ sướng mà

chưa vui, khó lòng tận hứng. Giới lục lâm chúng ta toàn bọn hán tử thô lỗ, tu

mi trượng phu, cũng không thể học theo bọn vản nhân mặc khách chơi trò

“hành tửu lệnh”, thế thì nên thế nào đây? Tiểu tử cả gan, xin được mời các vị

cao nhân trong tiệc kể lại những sự đắc ý bình sinh của mình cho mọi người,

hễ nói đến chỗ kỳ dị, vũ dũng, hay người thường không bì được, chúng ta lại

uống một bát lớn để tán thưởng”.

Cả đám đều nhao nhao khen phải, Trương Tam Gia vốn là người thoải mái,

ông hiểu rõ đám này muốn tranh thủ cơ hội nghe chuyện của mình năm xưa,

đương khi cao hứng, sao có thể chối từ, bèn ngồi giữa bàn tiệc kể chuyện. Có

điều, Trương Tam Gia đeo bùa Mô Kim là chuyện bí mật, không tiện thổ lộ

trước chốn đông người, nên chỉ ngắt đầu bỏ đuôi, kể cho cả bọn nghe mấy sự

việc kỳ hiểm mình từng trải trong đời.

Trương Tam Gia là hậu duệ danh môn, sau khi gia tộc suy vong, từ nhỏ đã

phải lưu lạc nơi hẻo lánh, thời thiếu niên tham gia phá giải mấy vụ kỳ án, nhờ

dẹp giặc ở Giang Nam mà thành danh, về sau làm quan, từng đánh trận với

quân Thái Bình, đàn áp khởi nghĩa nông dân ở vùng An Huy, Giang Tô, đi theo

Tả đại nhân trấn áp phiến loạn Tân Cương, cuộc đời nhiều lần qua lại chốn sa

trường, tung hoành nơi chiến địa, kỳ ngộ nhiều không kể xiết.

Sự tích của Tam Gia, tùy tiện kể chuyện nào cũng đều là, “nói ra làm trăng

sao lu mờ, cất tiếng khiến sông ngòi chảy ngược” làm cả bọn nghe như say

như mê. Ông kể xong, lại dựa theo thân phận và lai lịch, lần lượt mời mấy vị

tiền bối giảng giải sự tích của mình, đám cường đạo này tung hoành Nam Bắc,

qua lại vạn dặm, ngoài giết người phóng hỏa ra còn làm không ít vụ đố đấu

quy mô lớn. Trải nghiệm của bọn họ đều khiến người nghe rởn cả tóc gáy,

người trong giới lục lâm lại rất thích khoe khoang những sự tích hào kiệt của

mình, thật đúng là người nói mặt mày rạng rỡ, người nghe thần hồn điên đảo,

trong tiệc không biết đã dốc cạn bao nhiêu vò rượu, mọi người say sưa sảng

khoái, uống từ chập tối đến tận sáng hôm sau mới say khướt ra về.

Trương Tam Gia mất hơn một tháng mới thu xếp xong xuôi mọi việc ở hai

giới hắc bạch, bấy giờ mới dẫn theo gia quyến trở vé quê cũ. Ông còn phải

tháo bỏ bùa Mô Kim trước thần vị tổ sư, sau này không làm Mô Kim hiệu úy

nữa.

Trên thế gian này chỉ còn lại ba lá bùa Mô Kim, là vật truyền từ đời này

sang đời khác, theo lệ cổ, không đeo bùa không được đổ đấu. Trương Tam Gia

có một trai một gái, ngoài ra còn bốn đệ tử. Trừ người con gái không tính,

tổng cộng có năm sư huynh đệ. Nhà họ Trương đều là cao thủ phong thủy,

đương thời người đủ tư cách đeo bùa này, không ngoài Trương Tam Gia và

đám đệ tử của ông, nếu nói rộng hơn, thì cũng không đủ mười người.

Có điều, bùa Mô Kim chỉ có ba lá, rốt cuộc nên truyền cho ai cũng phải lao

tâm khó tứ suy nghĩ một phen.

Bốn người đệ tử của Trương Tam Gia, người nào cũng có chỗ hơn người,

một là Liễu Trần trưởng lão sau này xuất gia đi tu ở chùa Vô Khổ, năm ấy Liễu

Trần trưởng lão vẫn chưa xuống tóc, nhưng không dùng tên thật trong giới lục

lâm, không ai biết được danh tính tục gia của ông là gì. Người này từ nhỏ đã là

một tên đại đạo có tài phi thiềm tẩu bích, biệt hiệu “Phi thiên thần châu”, chưa

một lần thất thủ, khinh công leo trèo cực kỳ xuất chúng, Tầm long quyết và

thuật Phân kim định huyệt đã học hết chân truyền của Trương Tam Gia. Liễu

Trần tính nóng như lửa, thích quản chuyện bất bình trong thiên hạ, có lòng tế

thế cứu nhân.

Một người nữa là Kim Toán Bàn, xuất thân trong nhà buôn bán, hiểu được

các loại kỳ môn ám khí, con người tinh minh láu lỉnh, nhưng lại có một tấm

lòng chính trực hiếm có, chỉ tội quá đỗi tự cao, không để người thường vào

trong mắt, chiếc bàn tính bằng vàng ròng không bao giờ rời tay, trên hạt bàn

tính và khung giá đều khắc chi chít các ký hiệu Thiên can Địa chi. Chiếc bàn

tính này của y không dùng để tính, mà để suy diễn thuật số Ngũ hành, chiêm

nghiệm phương vị bát môn. Kim Toán Bàn và Trương Tam Gia quen biết từ

xưa, giao tình bất phàm, nửa là sư đồ, nửa là bạn bè.

Người thứ ba là Âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ, vốn là con cháu thế gia,

khi sinh ra đã có một đôi mắt âm dương, từ nhỏ đã “nhìn được quỷ thần”, vì

vậy bị đuổi khỏi nhà, lưu lạc bốn phương, về sau Trương Tam Gia gặp phải,

bèn thu làm đồ đệ. Người này trạch tâm nhân hậu, đầy bụng kinh luân, lại

tương đối truyền thống thủ cựu, tuy học được một thân bản lĩnh nhưng không

thích làm chuyện đổ đấu kiếm tiền, xưa nay chưa từng tham dự hành động tụ

nghĩa chia tài nào trong giới lục lâm, vì vậy đi tới đâu cũng đều dùng chân

danh thực tính.

Người nhỏ nhất, là đệ tử quan môn của Trương Tam Gia, có biệt hiệu Cối

Xay Sắt, tu luyện ngạnh công Thập Tam Thái Bảo Hoành Luyện, từng làm thảo

khấu, cũng từng tham gia khởi nghĩa nông dân, hồi trước đã giết người vô số,

nhưng Trương Tam Gia nói tính khí của y rất giống với một người huynh đệ

năm xưa của mình, lại xét thấy y thủ đoạn cao cường, làm người thành thực,

mới thu vào làm môn hạ.

Hôm ấy, Trương Tam Gia gọi đệ tử và con cháu đến trước ban thờ, đặt ba

lá bùa Mô Kim lên khay ngọc, nói với mọi người: “Chọn ngày không bằng gặp

ngày, hôm nay ta sẽ truyền lại bùa Mô Kim. Trong thiên hạ không có bữa tiệc

nào không tàn, dù lấy được bùa hay không lấy được bùa, kể từ hôm nay, các

con sẽ phải tự lập môn hộ, dựa vào bản lĩnh của mình mà xông pha bên ngoài.

Nhưng có một điều, kẻ nào học Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt

của Mô Kim hiệu úy mà không đeo bùa Mô Kim đi đổ đấu, một hai lần có lẽ còn

may mắn nhặt được cái mạng về, nhưng đã phạm phải lệ cổ, sớm muộn cũng

không tránh khỏi kiếp số, các con nếu không nghe lời này của sư phụ, tới khi

đại họa giáng xuống đầu, chớ trách kẻ làm thầy này không nói rõ từ trước.”

Con cháu đệ tử đều biết Trương Tam Gia là nhân vật thông tuệ cái thế, lời

đã nói ra không bao giờ sai, đương nhiên không dám không nghe, đều nhất

loạt bước lên quỳ lạy, nói: “Ba lá bùa Mô Kim truyền cho ai, đều do sư phụ làm

chủ, đệ tử không dám hai lời.”

Trương Tam Gia gật gật đầu, tuy kể cả con trai thì ông có năm đệ tử, song

kỳ thực trong lòng sớm đă định đoạt sẽ truyền bùa Mô Kim cho ai rồi. Trước

tiên, ông bảo con trai mình lùi ra bên ngoài. Thì ra, bí thuật Mô Kim này truyền

thừa nghìn năm nội quy cực nhiều, bùa thật không truyền cho hậu nhân trong

nhà chính là một trong số đó.

So với đám trộm mộ dân gian không có phép tắc gì, quy định này xuất phát

từ việc đổ đấu trộm mộ kiếm lợi là hành vi cực kỳ tổn âm đức, mặc dù Mô Kim

hiệu úy trộm mộ lấy báu vật hầu hết đều để tế thế cứu dân, nhưng những thứ

châu báu ấy đa phần không phải phàm vật, một khi lộ diện trên đời, nhất định

sẽ dân đến minh tranh ám đấu, truy đến tận cùng thì người đổ đấu đào mộ lấy

báu vật ra cũng phải gánh tội nghiệt không nhỏ, bởi vậy mới có câu “làm một

đời, nghỉ ba đời”. Tính từ đời con trai Trương Tam Gia, thì tới đời chắt của ông

cũng không thể đeo bùa Mô Kim làm nghề đổ đấu, bằng không ắt sẽ bị trời

phạt, đoạn tử tuyệt tôn, tan cửa nát nhà.

Cùng là người làm nghề trong xã hội cũ, nghề mổ lợn xưa cũng có cách nói

như vậy. Ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, đã có truyền thuyết đồ tể bị báo ứng,

nhưng không phải chuyện đồn đại trong dân gian bình thường, mà rất đáng

tin. Vì những nghề này đều là tổ tiên truyền xuống, chỉ truyền cho nam không

truyền cho nữ, làm bao nhiêu đời đồ tể đều có ghi chép rất rõ ràng.

Phàm là đồ tể, cứ cách ba đời lại có một đời không thể làm đồ tể, tuy cũng

phải học lấy tay nghề của đời cha ông, nhưng không thể tự lập môn hộ, giết

mổ súc sinh. Nghe nói, quy tắc này là vì lo người sát sinh quá nhiều, sợ tuyệt

hậu, nhưng nguyên nhân có phải vậy hay không đến giờ không ai nói rõ được.

Tóm lại, cứ ba đời, ắt phải có một đời không thể giữ lấy nghiệp tổ, mà phải học

nghề khác mưu sinh, đợi đến đời sau mới có thể tiếp tục làm đồ tể.

Nhà họ Mễ đời đời làm nghề giết mổ dê lợn, truyền đến đời “Mễ đồ tể” liền

phạm vào đại kỵ, nghề giết mổ truyền đến đời y, theo lệ cũ vốn không thể

động đến đao đồ tể nữa, nhưng y không hề để chuyện này trong lòng, vẫn cứ

giết lợn mở tiệm thịt bình thường. Một hôm, trời còn chưa sáng Mễ đồ tể đã

thức dậy để giết thịt một con lợn nái, một mình y vào phòng giết mổ thắp đèn,

vật con lợn nái xuống đất, tiện tay lần mò mạch máu trên cổ, rút đao định

chọc tiết luôn. Nào ngờ con lợn kia đột nhiên cất tiếng, nói bằng tiếng người:

“Tôi lẽ ra đến mười lăm tháng Năm mới chết, hôm nay mới mười bốn, ngày giờ

không đúng, sao ông dám giết tôi ”.

Gan kẻ làm đồ tể không phải người thường có thể sánh được, vả lại Mễ đồ

tể dậy quá sớm, mắt mũi kèm nhèm, còn tưởng mình nghe lầm, lại nghe thấy

lợn nói tiếng người, bèn chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, vung đao chọc tiết luôn,

mặc cho con lợn nái eng éc giãy giụa, cũng không buồn mảy may động lòng.

Nhưng đến ngày hôm sau, chính là mười lăm tháng Năm, Mễ đồ tể vẫn dậy

sớm giết lợn, không ngờ hôm nay y càng mệt mỏi hơn, đến đèn cũng chẳng

buồn thắp, đằng nào cũng đã quen tay, lần mò trong bóng tối vẫn làm được.

Có điều, lần này không nghe thấy con lợn bị giết kia nói chuyện, lúc giết mổ

cũng rất thuận lợi, tựa hồ không phí chút sức lực nào, đến lúc cạo lông, Mễ đồ

tể vẫn còn thắc mắc: “ừm, lạ thật, con lợn bị chọc tiết hôm nay sao không thấy

kêu la gì nhỉ ? Mà... mà chân lợn sao ít lông thế, trơn nhẵn bóng loáng, sờ cứ

mềm mềm như chân gái ấy...”

Nghĩ tới đây, Mễ đồ tể giật mình sực tỉnh, nhận ra mình không hề vào

phòng giết mổ mà đang ngồi trong nhà, trên giường dưới đất be bét máu tươi,

trên tay y cầm một cái đùi đàn bà trắng toát như tuyết. Mỗ đồ tể lập tức ba

hồn rời xác, bảy vía thăng thiên, không dám tin thảm cảnh trước mắt là thật,

không ngờ trong lúc mộng du y đã coi vợ mình như con lợn, tự tay xẻ ra làm

tám mảnh, máu tươi khắp nhà vẫn còn nóng hôi hổi. Kết quả, ngay ngày hôm

ấy Mễ đồ tể treo cổ tự vẫn, trước lúc chết còn dùng máu tươi viết lên tường

mấy chữ lớn: “Ngày giờ không đúng.”

Chuyện này nói là lời đồn đãi ở chốn thôn quê cũng tốt, mà là sự tích chân

thực cũng được, tóm lại những kẻ dựa vào tay nghề kiếm cơm, đều thà tin là

có, chớ ngờ là không, vì vậy Trương Tam Gia không muốn để con trai mình làm

Mô Kim hiệu úy nữa. Như vậy, người có thể đeo bùa, chỉ còn lại bốn đệ tử của

ông. Trong bốn người này, Âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ là tú tài không đội

mũ quan, căn bản không muốn làm nghề đổ đấu mà cam tâm tình nguyện làm

một số việc tầm thường mưu sinh, hoặc mở trường dạy học, hoặc xem bói

chọn đất, tìm nơi xây nhà xây mộ cho người ta, dù sao thì người này đa tài đa

nghệ, không lo vô kế sinh nhai.

Trương Tam Gia thấy Âm Dương Nhãn tâm ý đã quyết, bèn lấy ra một cuốn

sách, sách này tên gọi Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật, ghi chép lại

tỉ mỉ tất cả sở học bình sinh của Trương Tam Gia.

Mô Kim bí thuật kỳ thực chính là một phân chi của Dịch, quẻ cổ Chu Thiên

tổng cộng có mười sáu chữ, truyền tới hậu thế chỉ còn lại tám quẻ, tám quẻ

này lại phân thành Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái. Tương truyền,

Tiên thiên bát quái do Phục Hy đại đế có được từ hình vẽ trên mai rùa, Hậu

thiên

bát quái là của Chu Văn Vương suy diễn, kỳ thực đều là do người đời sau

nghĩ ra, trên thực tế, hai thứ này khác nhau không lớn, đều thuộc Thiên quẻ

lấy “long” làm tượng, vì vậy Chu Dịch giải quẻ hẳn thuộc về Long quẻ. Trong

các hào của Bát quái này, tuy có cả tượng hưng vong, nhưng xét kỹ ra, đều là

số chấn hưng, vì vậy Kinh Dịch từ thiên mở đầu đến thiên kết thúc, đều nói về

Càn nguyên thiên đạo.

Còn tám quẻ đã thất truyền từ thời Tây Chu kia, lại thuộc vẻ quẻ Âm, đa số

đều lấy “phượng” làm tượng, người xưa cho rằng quẻ cổ quá chu toàn, đã

phát hiện hết thảy mọi bí ẩn trong trời đất, như vậy ắt sẽ bị quỷ thần đố kỵ,

dẫn đến việc chẳng lành, bèn hủy đi một nửa của mười sáu quẻ, từ đây không

còn lưu tồn trên chế gian nữa.

CHƯƠNG 69: VẬT CỰC TẤT PHẢN

Trương Tam Gia từng trộm mộ cổ thời Tây Chu, từ đó tìm được quẻ tượng

Chu Thiên đầy đủ, nên đã dùng quẻ cổ mười sáu chữ làm mồi dẫn, đưa thuật

phong thủy âm dương vào trong, viết nên một cuốn Thập lục tự Âm dương

Phong thủy bí thuật trong đó thuật âm dương và phong thủy mỗi bên

chiếm một nửa, thiên Âm dương nói về chiêm đoán thuật số, lý lẽ của tạo hóa,

còn thiên Phong thủy thì nói vể thuật thanh ô, đạo phong thủy... chỉ nửa

quyển này đã bao hàm Tầm long quyết và thuật Phân kim định huyệt của Mô

Kim hiệu úy, đổng thời tập hợp mọi tục lệ, quy chế mai táng của các triều đại

ở Trung Quốc, có thể nói là “nghiên cứu mọi lẽ của trời đất, tự thành ngôn

luận một nhà”.

Ở trước mặt bốn người đệ tử, Trương Tam Gia xé đi một nửa của Thập

lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật, chỉ để lại nửa quyển về bí thuật

Phong thủy, còn phần bí thuật Âm dương thì bỏ vào chậu lửa đốt thành tro.

Mấy người đều nghi hoặc khó hiểu, bèn xin sư phụ chỉ giáo tận tường, cuốn

thiên thư này ảo diệu khôn cùng, tại sao lại hủy đi ? Từ nay trên đời há chẳng

phải không còn quẻ cổ Chu Thiên nữa hay sao?.

Trương Tam Gia cười nói: “Đất ruộng cấy cày, đường thủy đi thuyền, đầu

người không thể mọc ra cây trái, đây đều là đạo trời, hưng vong tạo hóa trên

thế gian xưa nay đều đã có định số, nhưng mấy ai nhìn thấu được bí ẩn bên

trong? Chi có thể nói rằng từ thuở hồng hoang đã thế, hoặc có tiên, tóm lại là

người thế tục như chúng ta không nên biết. Thiên cơ này tuy thâm ảo vi diệu,

nhưng lưu lại trên thế gian lại gây họa cho người không ít nên thiêu hủy đi mới

là chính đạo.” Nói xong, ông đưa nửa quyển tàn thư còn lại cho Âm Dương

Nhãn Tôn Quốc Phụ, dặn dò: “Bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy thâm

diệu vô cùng, đã thăm dò hết ba đại long mạch từ Nam chí Bắc, lưu lại nửa

quyển tàn thư này trên thế gian, tương lai biết đâu vẫn còn đất dụng võ, con

phải giữ gìn cho tốt, chớ nên để thất lạc”.

Âm Dương Nhãn Tôn Quốc Phụ vội vàng quỳ lạy cảm tạ ân đức của sư phụ,

nuốt nước mắt thu nhận cuốn tàn thư, từ đó rời khỏi sư môn đi xa. Cuối cùng,

Trương Tam Gia nói với ba Bgười Liễu Trần, Kim Toán Bàn, Cối Xay Sắt, xem ra

bùa Mô Kim sẽ rơi vào tay các con rồi. Hôm nay không phải ngày lành, đợi qua

giờ Tý, bái lạy tổ sư gia xong, sẽ tiến hành nghi thức đeo bùa.

Đêm hôm đó, Trương Tam Gia dẫn ba đồ đệ ra nhà sau, bảo họ quỳ xuống,

dập đầu, dâng hương trước tượng tổ sư Tào công, rồi truyền cho mỗi người

một lá bùa Mô Kim.

Sau đấy, còn phải truyền quy tắc hành nghề, khí giới, và các chuyện xưa

tích cũ. Trước tiên, Trương Tam Gia hỏi ba người bọn Kim Toán Bàn, có biết

tại sao từ xa xưa nghể đố đấu đã tồn tại trên đời hay không?.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn cũng là hạng lăn lộn giang hồ đã lâu, kiến

văn quảng bác, hiểu rõ tận tường các ngành các nghề, các tục lệ chốn thôn

quê, nghe sư phụ hỏi vậy, liền lần lượt trả lời:

Trong thiên hạ có tam giáo cửu lưu, tam giáo là “Phật giáo, Đạo giáo, Nho

giáo”, cửu lưu là chỉ chín giai tầng, trong đó lại phân ra thượng cửu lưu, trung

cửu lưu và hạ cửu lưu. Trong tam giáo cửu lưu có rất nhiều ngành nghề mưu

sinh, tổng cộng có khoảng hơn ba trăm sáu mươi ngành nghề.

Thượng cửu lưu, chính là, nhất lưu Phật tổ, nhị lưu tiên, tam lưu hoàng đế,

tứ lưu quan, ngũ lưu viên ngoại, lục lưu thương, thất lưu cầm đồ, bát lưu thợ,

cửu lưu nông phu, đây đều là những nghề nghiệp chính đáng. Trung cửu lưu

là nơi tập trung khá nhiều các nghệ nhân thủ công, còn hạ cửu lưu, chính là

hạng con hát, ca nhi, kỹ nữ.

Trong tam giáo cửu lưu diễn sinh ra mấy trăm nghề nghiệp, vốn không có

nghề đổ đấu. Đổ đấu thuộc về tám nghề ngoài. Tám nghề ngoài, gồm có kim

điếm, ăn mày, cướp đường, trộm cắp, đổ đấu, đi núi, dẫn lửa, gánh nước, gọi

chung là “ngũ hành bát gia”. Kỳ thực, nếu xét kỹ, trong đây có mấy ngành

nghề đều có thể coi là “nghề trộm cướp”, nhưng trong tám nghề ngoài lại tách

ra để tính, chẳng hạn như cướp đường là cướp trắng trợn ngoài ánh sáng, vì

vậy không thể gộp chung với hạng phi tặc trộm cướp trong bóng tối được.

Nghề đổ đấu, chiếm chữ “thổ” trong ngũ hành, theo lý cũng thuộc nghề

trộm cướp, không khác gì cướp đường hay phi tặc, chỉ khác là làm chuyện

trộm mộ mò vàng. Nói lên cao thì đổ đấu coi như cướp kẻ giàu chia người

nghèo; nói xuống thấp thì là kiếm tiền của người chết, làm việc tổn hại âm

đức, một cao một thấp, khác nhau một trời một vực.

Mô Kim hiệu úy đương nhiên không thể so với hạng trộm vặt, xưa nay đều

chỉ trộm lấy các thứ kỳ trân dị báu cứu tế người cùng khổ, xứng với bốn chữ

“trộm cũng có đạo”, thanh danh trên thế gian xưa nay rất tốt. Chì vì từ xưa

người nghèo nhiều, người giàu ít, người giàu quá giàu, người nghèo quá

nghèo, vì vậy mới có mấy nghề trộm cướp trong tám nghề ngoài, chuyên làm

việc thay trời hành đạo.

Trương Tam Gia lắc đầu nói, các con nói nghề đổ đấu này là thế thiên hành

đạo, nhưng lại hiểu lầm ý của hai chữ “thiên đạo” Mô Kim đổ đấu cũng không

phải là như vậy. Người ở trên đời này có giàu có nghèo, giàu có cũng được,

bần hàn cũng xong, đây đều là số mệnh đã định sẵn, cần gì đến đám cường

đạo phi tặc thay trời hành đạo ? Đây chẳng qua chỉ là cái cớ để họ giết kẻ giàu

sang cướp lấy tiền tài mà thôi.

Đổ đấu là việc trộm mồ quật mả người ta, tại sao lại có người lấy nó làm

nghiệp mưu sinh? Chỉ vì các triều các đại đều coi trọng việc hậu táng, bất cứ

sơn lăng mộ cổ nào, từ ngày khởi công xây dựng, đã tiêu phí không biết bao

nhiêu máu và mồ hôi của dân chúng, không chỉ báu vật bồi táng nhiều không

kể xiết mà còn phải giết người chôn sống tuẫn táng theo, cả những người thợ

xây lăng cũng khó thoát họa diệt khẩu.

Phải biết, thiên đạo khoan dung, trời cao có đức hiếu sinh, dù mộ chủ ấy

lúc sống là minh quân khai quốc hay bậc hiền tài cứu thế, chỉ cần lúc chết, làm

việc mai táng quá đỗi xa xỉ, tất sẽ tổn hao phúc đức; thêm nữa, nơi xây mộ đa

phần đều chọn đất báu phong thủy, chiếm lấy long mạch của thiên địa làm

của riêng, cũng coi như phạm vào điều kỵ của quỷ thần, thiên đạo xưa nay

đều không phù hộ cho hạng ấy.

Nghề đổ đấu này, chính là ứng vào thiên lý tuần hoàn, bất kể sơn lăng mồ

mả chôn sâu giấu kỹ tới mức nào, sớm muộn “Cũng sẽ gặp họa đổ đấu, ăn

miếng trả miếng, đây chính là nguyên tắc của lẽ trời. Vì vậy, đồ đấu mò vàng

không đơn giản chỉ là đào trộm mộ cổ; cướp của người giàu chia cho kẻ

nghèo, mà cũng ngầm hợp với lẽ hưng phế trong đại đạo.

Cũng như nước Đại Thanh này của chúng ta vậy, thời Khang Hy Càn Long

tại vị, nước mạnh dân giàu thịnh thế nhường nào, vậy mà giờ đây thù trong

giặc ngoài, ngổn ngang trăm mối, mắt thấy sắp diệt đến nơi rồi. Có câu, vật

cực tất phản, có lúc hưng vượng tự nhiên cũng có khi suy vong, xét cho cùng,

đều là một chữ “mệnh”.

Ba sư huynh đệ Kim Toán Bàn đều biết sư phụ Trương Tam Gia tài học bao

la vạn tượng, không ngón nghề nào không tinh thông, còn sở trường chiêm

bốc bói toán, đối với những lời này của ông chỉ thấy tựa hồ có thâm ý, nhưng

nhất thời vẫn chưa thể hoàn toàn lĩnh ngộ, đành quỳ dưới đất cung kính lắng

nghe.

Kế đó, Trương Tam Gia lại kể vế khởi nguyên của Mô Kim hiệu úy, cuối cùng

nói tới các loại quy tắc, sự tích trong nghề. Ông nói, Mô Kim hiệu úy xưa nay

không phân biệt sư đồ, ta truyền cho các con Tầm long quyết và thuật Phân

kim định huyệt, đấy là thầy dạy cho trò, nhưng khi đeo bùa Mô Kim cùng đi đổ

đấu thì không thể coi là thầy trò hay sư huynh đệ nữa, mà chỉ có thể coi là

những kẻ đem tính mạng ra buộc chung với nhau, cũng chính là đồng bọn. Ba

huynh đệ các con sau này ra ngoài đổ đấu, một là không thể phạm vào quy tắc

của nghề, hai là không được tham luyến danh lợi, làm nhục thanh danh của

Mô Kim hiệu úy; ba là phải chiếu cố lẫn nhau, chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải

thương lượng kỹ càng.

Sở dĩ dặn dò như vậy, là vì Trương Tam Gia rất hiểu mấy đệ tử này, mỗi

người đều có sở trường sở đoản riêng. Liễu Trần từ nhỏ đã được tẩy cân hoán

cốt, giỏi thuật khinh công, có thể phi thiềm tẩu bích, thủ đoạn Mô Kim lại càng

cao cường, nhưng tâm tính từ bi, ra tay không cứng rắn, có phần quá rộng

lượng khoan hòa, hành sự không thể quyết đoán kịp thời, đây là đại kỵ trong

nghề trộm mộ.

Còn Cối Xay Sắt cũng có một thân bản lĩnh, gan lớn hơn trời, không sợ quỷ

thần, luận giết người cướp hàng thì y là bậc hành gia, nhưng khí chất của kẻ

làm giặc cướp quá nặng nề, tính tình hơi tí là bốc lên, làm việc tương đối cẩu

thả, thực là một mối họa.

Kim Toán Bàn tinh thông dịch lý ngũ hành, là cao thủ trộm mộ, lại hiểu

được các loại phương vật kỳ dị trên thế gian, tuy rằng tâm cơ nhanh nhạy, cẩn

thận chu toàn, nhưng thân thủ lại không giỏi. Một thân công phu như Liễu

Trần hay Cối Xay Sắt kia, không phải những kẻ nửa đường xuất gia như y có

thể luyện ra được, muốn học nhảy cao, nhất thiết phải tắm trong chậu thuốc

đun nóng từ năm ba tuổi, còn ngạnh công phu thì trễ nhất cũng phải bắt đầu

luyện từ năm sáu tuổi. Kim Toán Bàn này xuất thân trong nhà thương lái, từ

nhỏ đã sống trong nhung lụa, chưa từng khổ công luyện tập bao giờ.

Vì vậy, Trương Tam Gia mới bảo họ ba người kết thành đồng bọn, lấy sở

trường bù cho sở đoản, chớ nên đơn độc hành sự. Sau đó, liền đem xẻng sắt,

móng lừa đen, ô Kim Cang... nhất loạt truyền lại, để ba đồ đệ nhớ kỹ sáu chữ

“hợp thì sống, chia thì chết”.

Sau khi Trương Tam Gia dặn dò hết những chuyện này, ba người bọn Kim

Toán Bàn coi như đã là Mô Kim hiệu úy danh chính ngôn thuận, từ nay trở đi,

ba người sẽ kết thành đồng bọn cùng đi đổ đấu. Sáng sớm hôm sau, Kim Toán

Bàn dậy rất sớm, không rủ theo hai sư huynh đệ kia, mà một mình đến

thỉnh an sư phụ.

Thì ra, Kim Toán Bàn vẫn luôn thắc mắc tại sao sư phụ lại hủy đi một nửa

Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật, chỉ truyền cho Âm Dương

Nhãn Tôn Quốc Phụ một quyển tàn thư, nên muốn hỏi rõ ràng trước khi rời

núi. Vì chuyện này chắc chắn không đơn giản như Trương Tam Gia giải thích

lúc đó.

Trương Tam Gia đang uống trà, nghe Kim Toán Bàn hỏi tới chuyện này,

không trả lời ngay mà hỏi ngựợc lại xem Kim Toán Bàn nghĩ thế nào.

Kim Toán Bàn nửa đùa nửa thật nói, tính sư phụ thế nào, đệ tử hiểu quá

rồi, xưa nay người nổi tiếng hào sảng, là bậc hào kiệt trong giới thảo mãng,

ghét nhất là đám tiên sinh cổ lỗ giọng điệu chua cay, chắc hẳn tên Âm Dương

Nhãn này không được sư phụ ưa thích, nên chỉ truyền cho hắn nửa quyển tàn

thư, để hắn vể cả ngày ôm lấy quyển sách rách mà rầu rĩ, nghĩ vỡ đầu cũng

không hiểu được sự ảo diệu trong nửa quyển còn lại.

Trương Tam Gia tính tình rộng rãi, quan hệ của ông với Kim Toán Bàn lại

không phải tầm thường, nên cũng không có gì giấu giếm y, liền nói thẳng: “Kỳ

thực, sư phụ cũng là kẻ rất cổ hủ gàn dở, chẳng qua xưa nay chưa bao giờ

giảng đạo thuyết pháp đấy thôi. Nhưng nói thực, sư đệ Âm Dương Nhân Tôn

Quốc Phụ này của con đích thực không thích hợp làm Mô Kim hiệu úy. Thập

lục tự Âm dương phong thủy bí thuật là tâm huyết cả đời của ta, ngày ấy

hủy đi một nửa, chỉ để lại nửa quyến tàn thư cho, cũng là hy vọng tuyệt nghệ

của Mô Kim hiệu úy chúng ta không bị thất truyền từ đây.

Đạo lý bên trong, Trương Tam Gia đã nói từ trước, giờ lại giải thích kỹ càng.

Căn nguyên của Mô Kim hiệu úy là Dịch, đạo sinh sinh biến hóa gọi là Dịch, vì

vậy trong Dịch chỉ nói chuyện sinh, mà không nói chuyện khắc, vậy thế nào thì

có thể “sinh”.

Sinh, một là chỉ sinh tồn, hai là chỉ hưng vượng. Trương Tam Gia từng thấy

được quẻ cổ Chu Thiên trong mộ cổ thời Tây Chu, phát hiện cơ số ảo diệu

khôn cùng, thêm vào đó, cả đời ông nhiều lần gặp kỳ ngộ, học được rất nhiều

bản lĩnh, bèn kết hợp lại viết nên Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí

thuật; trình bày hết thảy lẽ âm dương, lý thuyết hình thế phong thủy trên đời

vào trong đó, cũng có nghĩa là, thuật Mô Kim phát nguyên từ thời Hậu Hán,

truyền đến đời Trương Tam Gia, đã đạt đến một đỉnh cao chưa từng có.

Nhưng quy luật phát triển của sự vật trong trời đất, là có lên ắt có xuống,

có hưng ắt có vong, Trương Tam Gia thông hiểu quẻ cổ, đương nhiên hiểu rõ

đạo lý này, cũng như vầng dương giữa trời, tỏa chiếu vạn vật, nhưng qua

chính Ngọ, ánh dương sẽ càng lúc càng ảm đạm, dần dần khuất sau núi Tây;

đến ngày mười lăm âm lịch, trăng tròn lơ lửng, nhưng tiếp đó sẽ từ từ khuyết

dần.

Lý lẽ biến dịch của tạo hóa trong đạo trời, nói một cách đơn giản chính là

vật cực tất phản, sự vật phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì sẽ đi về

một cực khác, vậy làm sao mới có thể khống chế sự suy thoái đây? Duy chỉ có

cách duy trì trong trạng thái tàn khuyết mà thôi. Đây chính là nguyên nhân mà

Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí

thuật.

Mô Kim bí thuật tuy bắt nguồn từ thời Hậu Hán, nhưng thật ra từ thời Chu

đã có những khái niệm ban đầu, trải qua mấy nghìn năm được các đời Mô Kim

hiệu úy từng bước hoàn thiện, trong thuật phong thủy cổ xưa dần dần dung

hơp cả phong thủy thiên tinh, phong thủy thiền tông, Bát trạch minh kính,

phong thủy Hình thế tông Giang Tây... sinh ra Tầm long quyết và thuật phân

kim định huyệt là tập thành của các trường phái phong thủy.

Đến khi Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật xuất thế, lại càng

bao la quảng bác, bao hàm cả quẻ cổ Chu Thiên, căn nguyên của bí thuật

phong thủy, xét cứu vạn vật trong thiên địa, thực xứng với danh kỳ thuật quỷ

thần khó đoán, không thể tiến thêm một bước nào nữa, đấy là điểm vật cực

tất phản, từ nay trở đi, bí thuật Mô Kim chi có thể dần dần suy vi mà thôi.

Vì vậy, Trương Tam Gia hủy đi nửa quyển về bí thuật Âm dương, chỉ lưu lại

cho đời sau nửa quyển Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật hòng

giúp các Mô Kim hiệu úy sau này còn có cơ chấn hưng, tránh để từ sinh

chuyển thành khắc, bị tạo hóa đố kỵ, đoạn tuyệt danh hiệu Mô Kim hiệu úy.

Trương Tam Liên Từ biết trộm mộ là nghề đem tính mạng ra liều, truyền

nửa quyển Thập lục tự Âm dương Phong thủy bí thuật cho mấy người

bọn Kim Toán Bàn đều không ổn, nên mới cố ý giữ cho Âm Dương Nhãn Tôn

Quốc Phụ, để người này truyền lại bí thuật phong thủy của Mô Kim hiệu úy cho

hậu thế, họa may tương lai còn có kì trùng hưng.

CHƯƠNG 70: KHỞI NGUYÊN

Kim Toán Bàn nghe xong lấy làm tâm phục khẩu phục, khen thầm Trương

Tam Gia đã nhìn thấu được vạn vật trên đời. Ngày hôm ấy, y liền cùng Cối Xay

Sắt và Liễu Trần cáo biệt sư tôn bắt đầu bước lên con đường Mô Kim

hiệu úy.

Bấy giờ, đang là buổi loạn thế thay triều đổi đại, khắp nơi đều là thiên tai

nhân họa, dân chúng phải chịu cảnh khốn đốn, ba người trước tiên lên Mang

Sơn ở Hà Nam mở hàng, liên riếp trộm mấy ngôi mộ cổ, lấy những đó minh khí

đáng tiền nhất ra bán đổi lấy tiền và lương thực cứu tế nạn dân. Mấy vụ làm

ăn này của họ đều thuận buồm xuôi gió, từ đấy trở đi bắt đầu đi khắp Sơn

Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đồng, không biết đã đào trộm bao nhiêu sơn

lăng mộ cổ.

Từ xưa đã có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người sống ở đời,

bất luận ngươi bôn ba nước lửa ra sao, cuối cùng thành công hay không, rốt

cuộc vẫn đều do ý trời. Gặp phải vận tốt, thì thứ gì cũng mua bán được, việc

làm ăn lên như diều gặp gió, không có mộ nào không trộm được; còn như phải

lúc thời vận suy vi, thì cũng rút nhanh như nước thủy triều, đụng việc gì cũng

lỗ vốn, phải đem cả tính mạng ra bù.

Thời vận có lúc lên lúc xuống, không thể khi nào cũng thuận lợi như

thế được, có một năm nọ, đến lượt ba người bọn Kim Toán Bàn gặp vận rủi.

Ba người nhắm được một ngôi mộ cổ ở gần Lạc Dương, bèn nai nịt vào núi,

không may đụng phải một trận chiến, lũ bại binh tháo chạy khỏi chiến trường.

Bại binh thế lớn, xua theo vô số nạn dân ùn ùn kéo đến tràn cả vào trong núi,

khiến ba huynh đệ Kim Toán Bàn bị lạc nhau.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt cứu một nhóm nạn dân, trốn vào mộ cổ trong

rừng. Trong đám nạn dân ấy, có một phụ nữ mang thai chờ sinh, trong lúc

hỗn loạn đã làm động đến thai khí, khiến đứa bé chui ra sớm. Chẳng ngờ,

thai nhi này lại nằm ngược, mắt thấy sắp nguy đến nơi, một xác hai mạng nằm

lại giữa chốn hoang sơn dã lãnh.

Liễu Trần xưa nay tâm địa nhân từ, làm sao nhẫn tâm nhìn người khác

mất mạng trước mắt, ông nhìn ra trong cụm mộ cổ này có một ngôi mộ khí thế

sâm nghiêm, bèn xem xét địa mạch, quan sát hình núi, đoán rằng trong mộ

chắc chắn có suối Quan Tài, cũng chính là nguồn suối ở trong chỗ đặt quan

tài dưới lòng đất... dân gian có thuyết cho rằng, đun sôi nước lấy ở suối Quan

Tài có thể giúp sinh nở dễ dàng.

Liễu Trần và Cối Xay Sắt bàn bạc, nhất trí rằng cứu người khấn cấp, bèn

nhanh chóng rút xẻng Toàn phong, đào bới như bay. Chỉ một nấm mộ đất, làm

sao ngăn được hai cao thủ Mô Kim cùng đào bới, chỉ thoáng sau họ đã thấy

nắp quan tài. Chẳng ngờ, trong quan tài của ngôi mộ nhà quê này lại ẩn giấu

ám khí, hai người từng trải bao sóng to gió lớn, nay lại lật thuyền trong mương

rạch, Cối Xay Sắt bị cơ quan đánh trúng tử huyệt, chết ngay tại chỗ.

Liễu Trần bây giờ mới nhớ ra, năm xưa khi hạ sơn, sư phụ từng dặn đi dặn

lại... “hợp thì sống, phân thì chết”, giờ quả nhiên ứng nghiệm. Nếu như có Kim

Toán Bàn ở đây, y tinh thông thuật số Ngũ hành Bát quái, chắc chắn có thể

nhận ta trong quan tài có cơ quan, nhưng chỉ một ý nghĩ sai lầm đã gây thành

họa lớn, giờ có hối hận cũng không kịp nữa rổi. Về sau, Kim Toán Bàn đến tìm

hai người đồng bọn, thấy Cối Xay Sắt đã phơi xác tại trận, cũng tối sầm mặt

mũi ngất đi, chỉ có thể nói là người không nên tranh với số mệnh. Hai người

Liễu Trần và Kim Toán Bàn than thở một hồi, đoạn nuốt nước mắt hỏa thiêu

thi thể Cối Xay Sắt, đem tro cốt bỏ vào bình sứ.

Liễu Trần và Kim Toán Bàn thương lượng, theo lời sư phụ : “hợp thì sống,

phân thì chết” hai chúng ta từ nay nếu còn tiếp tục đi đổ đấu, chắc cũng

không có kết quả tốt đẹp gì, xem ra không thể làm nghề này được nữa rồi.

Những năm này, Liễu Trần đã nhìn hết mọi nỗi khổ của dân gian, tự thấy

bản lĩnh của mình có cao mấy cũng chẳng cứu tế nổi ức vạn thương sinh trong

thiên hạ, biển khổ vô biên, quay đầu là bờ, ông định treo bùa Mô Kim, mang

theo bình tro cốt của Cối Xay Sắt tới Giang Nam tìm ngôi chùa nào đấy xuất gia

đi tu, ngày tháng sau này bầu bạn với thanh đăng cổ phật, sám hối những

chuyện đã qua.

Kim Toán Bàn không muốn đi tu, lại không muốn tháo bùa, thầm nhủ, nếu

không đổ đấu thì vẫn có thể theo nghề cũ, tiếp tục làm thương nhân buôn

hàng kiếm lợi, kiếm được tiền cũng có thể phò nguy cứu khổ. Nghĩ đoạn, y bèn

nói với Liễu Trần: “Một lá bèo trôi về biến lớn, nhân sinh hà xứ bất tương

phùng. Hôm nay chúng ta từ biệt, sau này nhất định còn có ngày gặp lại, nếu

huynh gặp phải phiền phức gì cần giúp đỡ, cứ đến đội thuyền Hoàng Hà tìm

đệ.”Sau khi từ biệt ở khu mộ cổ, Kim Toán Bàn quả nhiên chỉ hành nghề buôn

bán ở lưu vực Hoàng Hà. Y vốn xuất thân trong nhà thương lái, chuyện buôn

bán qua lại đã cực kỳ thành thạo, nhưng thiên tai liên miên bất tuyệt, việc làm

ăn cũng không khá khẩm gì cho cam, huống hồ ăn trộm lâu ngày thành

nghiện, vả lại trong thiên hạ này làm gì có nghề nào kiếm tiền nhanh bằng đổ

đấu? Kim Toán Bàn cậy mình thông minh tuyệt đỉnh, lại chứng kiến Hoàng Hà

lũ lụt tràn lan, người chết đói chết trôi khắp nơi, nên vẫn ngấm ngầm làm một

vài vụ đổ đấu. Y hiểu đây là trò đem mạng ra đặt cược, nhưng không thể

không làm, trong lòng cũng hơi hoang mang, vì vậy mỗi lần đều lên kế hoạch

hết sức chu toàn, không chắc chắn vạn phần thì tuyệt đối không ra tay.

Có một năm, Kim Toán Bàn đi đánh hàng, ngồi thuyền xuống hạ du, bấy

giờ gặp đúng lúc nước Hoàng Hà dâng cao, dòng chảy cuổn cuộn, Kim Toán

Bàn đang ngồi trên boong nói chuyện phiếm với mấy khách thương, đột nhiên

trời đất biến sắc, vầng dương trên không tựa như mất hồn, chỉ còn lại một cái

bóng tái nhợt, kế đó cả mặt trời cũng không còn tăm tích, mấy đen từ khắp

bốn phía đổ về, mặt sông nổi sương mù mờ mịt, còn kèm theo những hạt mưa

to như hạt đậu và mưa đá đổ xuống.

Chủ thuyền kêu than không ngớt, thiên địa thất sắc, chứng tỏ con rồng già

dưới thủy phủ kia bị kinh hãi, đây là điềm Hoàng Hà sắp dâng lũ, vội vàng cho

thuyền chạy về phía bến cảng gần đó. Thuyền hàng đội cơn mưa sầm sập vừa

dừng lại, nước lớn phía sau liền ập đến, chỉ thấy trên thượng du sóng lớn đục

ngầu, thế nước tựa hồ nối liền với bầu không, chẳng thể nào phân biệt được

đâu là nước lũ, đâu là trời là đất nữa. Mưa rào, mưa đá giữa cơn cuồng phong,

quyện lấy bùn đất dưới đáy sông, rầm rập đổ xuống, cả thế giới như chìm vào

một buổi hoàng hôn đen tối, thật đúng là “Hoàng Hà dâng lũ đất trời tối, ba

đào hồng thủy cuồn cuộn trôi”.

Kim Toán Bàn thấy mưa lớn sầm sập, bốn phía càng lúc càng tối, biết rằng

phen này gặp phải họa lớn, dù có bản lĩnh bằng trời cũng chẳng kháng cự nổi

uy thế của dòng Hoàng Hà đang nổi giận. Y bỏ mặc hàng hóa chất đầy

khoang, cùng mọi người nhảy xuống thuyền, co cẳng chạy lên chỗ cao. Trong

đám người chạy nạn ấy, có mấy kẻ chậm chân, lập tức bị dòng nước đục ngầu

cuốn đi mất, chết trong con nước, đến xác cũng chẳng tìm về được.

Khi xưa, Trương Tam Gia từng nói thân thủ của Kim Toán Bàn không ổn,

nhưng còn phải xem là so sánh với ai, đem so với Liễu Trần và Cối Xay Sắt thì y

kém hơn rất nhiều, nhưng dẫu sao cũng là tay lão luyện trong nghề mò vàng

đổ đấu nhiểu năm, đem so với người bình thường, Kim Toán Bàn cũng có thể

xếp vào hàng rất nhanh nhẹn. Bị con lũ đuổi dồn, Kim Toán Bàn chạy thục

mạng trong mưa lớn, cuối cùng cũng lên được một ngọn đồi cao.

Kim Toán Bàn chạy lên được đồi cao, nằm rạp nhìn xuống dưới, chỉ thấy

mây đen dần tan, bầu trời phía xa xa tựa như một mảng bùn đất màu vàng

đen, bên trong ẩn hiện những tia sáng đỏ sẫm. Hoàng Hà đã nuốt trọn các

thôn trang thuyền bè bên bờ với khí chế không gì cản nổi, những người và

trâu bò dê lợn bị nướclớn cuốn đi vùng vẫy nổi trôi theo con sóng, tất cả đều

trở thành thức ăn của lũ binh tôm tướng cá dưới thủy phủ. Người nào may

mắn chạy lên được chỗ cao đều mặt mày xám xịt như chì không ngừng kêu

cha gọi mẹ, nhưng mọi âm thanh trên thế gian, đều đã bị tiếng nước ầm ầm

kia nhấn chìm, cảnh tượng thê thảm không tả xiết.

Trận lũ này đến cực nhanh, dòng sông đục ngầu suốt hai canh giờ mới lắng

xuống, Kim Toán Bàn nhặt được cái mạng từ cõi chết trở về, tinh thần chưa

kịp trấn định lại sau phen kinh hồn bạt vía, rờ lại đồ đạc trên người mới phát

hiện chiếc ô Kim Cang sau lưng đã biến mất.

Khi ấy, Trương Tam Gia để cho bọn họ tổng cộng hai chiếc ô Kim Cang, một

là cổ vật nghìn năm của Mô Kim hiệu úy truyền lại, chiếc này ở trong tay Liễu

Trần. Chiếc ô Kim Toán Bàn mang theo bên mình là đồ chế tạo thời Minh, công

nghệ và chất liệu đều giống hệt như chiếc ô cổ, cũng là một món khí giới

phòng thân cực kỳ hiếm có. Chắc chắn trong lúc bỏ chạy tháo thân vừa nãy, y

đã để rơi mất ô Kim Cang, giờ chắc hẳn đã bị nước cuốn đi rồi, làm sao tìm lại

được, đành nghĩ cách tìm thợ giỏi làm một chiếc khác vậy.

Kim Toán Bàn chủ ý đã định, bèn men theo dốc núi đi xuống, định mua

chút đồ ăn của dân trong vùng, nhưng sau cơn đại nạn, dân chết đói nằm la

liệt khắp chốn, ruộng vườn nhà cửa mất quá nửa, dù có tiền cũng chẳng mua

nổi cái ăn. Y đói cồn cào ruột gan, sắp ngã vật ra tới nơi thì trông thấy rất

nhiểu người đi về phía bờ sông, nói là muốn xem Long vương gia. Kim Toán

Bàn lấy làm lạ, bèn theo dòng người đi tới.

Vừa ra bờ sông, ngay cả Kim Toán Bàn kiến thức rộng rãi cũng không khỏi

giật mình kinh hãi. Chỉ thấy, trên dốc chỗ dòng sông uốn khúc có một con cá

lớn mắc cạn, vẫn chưa tắt thở, đầu cá còn lớn hơn ngôi nhà dân bình thường,

những cái vảy lớn khắp người trông như lá thép, những chỗ không lấm bùn

ánh lên sắc xanh đen, mắt cá trợn tròn, đầu đuôi quẫy loạn, cái miệng đen

ngòm mở ra khép vào, tanh hôi không thể tả. Nhìn kích cỡ cái miệng ấy, sợ

rằng cả nghìn cân đại hoàng cũng không đủ cho nó xơi một miếng.

Dân chúng trong vùng đều sợ nhũn người ra, run rẩy quỳ trước mặt con cá,

thắp hương dập đầu không ngớt, khẩn cầu Long vương gia nguôi giận, mau về

thủy phủ. Nhiều người bước lên đẩy, định đưa Long vương gia trở lại Hoàng

Hà, nhưng cũng chỉ như bọ ngựa lay cột, không làm nó nhúc nhích chút nào

cũng không đi đâu tìm được trâu ngựa tới kéo, cả bọn chỉ biết trơ mắt nhìn

Long vương gia hít vào thì ít thở ra thì nhiều, cuối cùng trợn mắt chết bên bờ

nước.

Kim Toán Bàn xem một lúc lâu, sau đó lại đến nghe ngóng chỗ dân chúng

đang khấn lạy Long vương gia một hồi, tìm đường vào huyện thành ăn chút gì

đó. Nghe người trong vùng nói trăm năm qua chứa gặp trận lũ nào thế này,

tuy đến nhanh rút cũng rất nhanh, nhưng lại gây ra thiệt hại nặng nề, chẳng

những thế Long vương gia ở thủy phủ Hoàng Hà còn chết trên bờ đây tuyệt

đối không phải điềm lành, phía sau nhất định còn tai họa lớn hơn nữa. Hoàng

Hà nước dâng, dìm chết không biết bao nhiêu người và súc vật, nơi này vốn là

đất chó ăn đá gà ăn sỏi; trong vòng mười năm nguyên khí khó mà hồi phục,

không biết còn bao nhiêu người nghèo phải chết đói nữa đây.

Kim Toán Bàn nghe được những lời này, bèn động lòng trắc ẩn, mắt thấy

thiên tai vô tình làm hại lê dân trăm họ hai bên bờ sông, y thầm nhủ: “Sau trận

đại họa này, chắc chắn người chết đói sẽ đầy đồng, giờ đây thế đạo suy bại,

quan phủ bất tài, ngoài ta ra, còn ai chịu đứng ra lo liệu nữa đây?” Trong lòng

có ý thu xếp lương thực cứu trợ, nhưng hàng hóa của y đã thất lạc trong dòng

nước, mất cả tiền vốn, trên người tuy còn một chút tiền bạc, nhưng đối mặt

với hàng nghìn hàng vạn dân gặp nạn thật chẳng khác nào muối bỏ biển. Y

liền nảy ra ý định đổ đấu, tính toán sẽ làm một vụ thật lớn.

Kim Toán Bàn nhớ đến một sự kiện mấy năm trước, khi ấy y biết được từ

miệng một vị khách thương, ở Long Lĩnh cách nơi này không xa, có một lăng

mộ lớn thời Đường nằm trong khu vực dốc Xà Bàn quanh co hiểm trở, nếu có

thể trộm được một hai món báu vật hoàng gia trong ấy thì không cần phải lo

việc xoay xở tiền bạc nữa. Có điều, mặc dù y tinh thông Lăng phổ, nhưng lại

không thể suy đoán ra được thời Đường có lăng mộ hoàng thất nào xây ở

vùng này.

Y ở khách sạn nghe ngóng vài tin tức, thăm dò một số đầu mối, hỏi rõ

đường đi tới Long Lĩnh rồi vào núi tìm mộ cổ, quả nhiên thấy hình thế trong núi

bất phàm, tuy có vụn vặt tản mạn, nhưng không thể che giấu được khí tượng

rồng bay phượng múa, theo lý phải là một nơi có lăng mộ hoàng gia. Có điều,

gần đây có mấy thôn làng rải rác, thường có người chăn dê chăn bò lang

thang quanh quẩn, muốn đào hang trộm dẫn xuống địa cung mộ cổ thì dễ,

nhưng khó che giấu được tai mắt.

Kim Toán Bàn nghĩ ra một cách, lại trở về bờ sông Hoàng Hà, thấy thi thể

con cá lớn vẫn nằm trên bờ sông, bèn nói với dân chúng rằng y nguyên xuất

tiền xây miếu Long vương thờ phụng xác cá để cầu thần sông phù hộ nơi này

được mưa thuận gió hòa, đồng thời bịa ra một cái cớ, để mọi người tin rằng

miếu Ngư Cốt nhất định phải xây trong núi, bằng không sẽ lại xảy ra thủy tai

lần nữa.

Xây miếu, đắp nhà, trồng hoa màu để che dấu vết tích đào trộm cổ mộ là

thủ pháp thường dùng của Mô Kim hiệu úy, dân quê không hiểu sự tình, tự

nhiên tin là thật. Khi ấy, Kim Toán Bàn xuất tiền, dân chúng ra sức, vận

chuyển hài cốt con cá lớn vào trong núi, xây thành một ngôi miếu Long vương.

Tranh thủ khoảng thời gian xây miếu, Kim Toán Bàn cũng bắt tay chuẩn bị

đổ đấu, dựa theo kinh nghiệm của y mà phán đoán, quy mô mộ cổ Long Lĩnh

này không nhỏ, truyền thuyết của dân địa phương về ngôi mộ cổ này cực kỳ

thần bí kỳ dị, hẳn cũng không phải chốn dễ đi. Không có ô Kim Cang hộ thân

trong lòng Kim Toán Bàn cứ cảm thấy không được chắc chắn cho lắm, nhưng

chiếc ô còn lại ở trong tay Liễu Trần, hai người ly biệt nhiều năm không hề liên

lạc gì, chính y cũng không biết đồng bạn năm xưa giờ ở đâu, đành lên thuyền

đi Bảo Định ở Hà Bắc, tìm danh gia “Ám khí Lý” đặt làm một chiếc mới.

“Ám khí Lý” là một trong các thủ lĩnh ở Phong Oa sơn, tay nghề xuất chúng,

có thể chế tạo đủ loại khí giới, nhưng ông ta xem xong bản vẽ và cách chế tạo

ô Kim Cang, cũng cảm thấy hết sức khó khăn, đáp rằng ô Kim Cang này không

phải vật thường, một số nguyên vật liệu không dễ gì kiếm đủ, hơn nữa còn yêu

cầu công nghệ và hỏa hầu hết sức phức tạp, ít nhất phải một năm mới làm

xong.

Kim Toán Bàn đang vội đi trộm mộ cổ Long Lĩnh, không thể đợi được sáu

tháng nửa năm, lại thêm nhiều năm trôi qua, lời dặn dò năm xưa của Trương

Tam Gia đã phai nhạt dần trong tâm trí, y thầm nhủ, sau khi Cối Xay Sắt thiệt

mạng, một mình ta từng nhiều lần trộm những mộ lớn, đều không hề sơ sẩy,

chỉ cần lúc đổ đấu cẩn trọng một chút, với kiến thức của ta, dẫu có gặp cơ

quan ám khí chắc cũng đủ ứng phó, không xảy ra sai sót gì lớn, làm sao mất

mạng trong ấy được? Nhưng lúc này, cái bàn tính bằng vàng ròng xưa nay y

vẫn mang theo không rời một bước bỗng nhiên nứt toác ra, những hạt tính

bằng vàng rơi đầy đất. Cái bàn tính này là bảo vật gia truyền nhà y, vô duyên

vô cớ bị hỏng, đương nhiên đau lòng hết sức. Y ngầm cảm nhận được, đây

không phải điềm tốt lành gì, chợt nảy ra dự cảm Diêm vương muốn thu lấy cái

mạng này của mình rồi.

Kim Toán Bàn thông minh một đời, mọi chuyện đều suy xét cặn kẽ, nhưng

lần này quả là khách tang đến nhà, họa tinh ập xuống, như bị ma xui quỷ

khiến, dù Quan Âm Bổ Tát hiển linh cũng không thể khuyên y quay đầu được.

Y dứt khoát dằn lòng xuống, thầm nghĩ, là phúc thì không phải họa, là họa thì

không tránh được, nếu đã đến số chết thì ở trong nhà đóng cửa ngồi một chỗ

cũng không bệnh mà toi đời; nếu mạng vẫn chưa tuyệt, thì núi đao biển lửa

cũng về được, toàn thân từ trên xuống dưới không tổn hại chút gì, run rẩy sợ

hãi thắp hương cầu bồ tát, chi bằng cứ làm việc nên làm, rổi y lại nghĩ: “Thảng

như trộm được châu báu trong mộ cổ Long Lĩnh, cứu tế nạn dân, tích đức hẳn

cũng không ít, nếu như có thể hoàn thành được việc thiện lớn này, trong cõi u

minh nhất định sẽ có quỷ thần tương trợ, nói không chừng còn tăng thêm tuổi

thọ cũng nên”.

Y cảm thấy ngôi mộ cổ thời Đường ấy tuy lớn, nhưng có thể suy đoán ra

được kết cấu địa hình bên trong, chắc chắn đơn thân độc mã cũng trộm được

đồ quý bồi táng, nhưng cũng nghĩ tới khả năng mình gặp bất trắc trong mộ,

vạn nhất có gì sơ sẩy, há chẳng phải sẽ lặng lẽ chết đi hay sao ? Trong quan

niệm truyền thống, thanh danh thường quan trọng hơn cả tính mạng, đúng

như câu “hổ chết để da, người ta chết để tiếng”, nên Kim Toán Bàn mới đem

hết những chuyện từng trải trong đời viết vào cuốn sổ ghi nợ, kể cả chiếc bàn

tính bằng vàng ròng bị hỏng cũng bỏ vào trong tráp niêm phong, tạm thời gửi

lại ở chỗ “Ám khí Lý”, hẹn khi nào tới lấy ô Kim Cang sẽ mang đi một thể.

Hết

1. Một câu thành ngữ hiện đại, không rõ xuất xứ, vì được Mao Trạch Đông dẫn

dụng trong một bài phát biểu ở hội nghị TW Đảng Cộng sản Trung Quốc mà

trở nên thông dụng.

[2]. Tổ tiên của Chu Văn

Vương.

[3]. Chu Nguyên là đô thành thời kỳ đầu của Tây Chu, dỉ chỉ ngày nay

vẫn còn ở

huyện Phù Phong và huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây.

1. Câu trong bài Thủy điệu ca đầu của Tô Thức. Nguyên văn: “Cao xứ bất

thắng hàn”, ý là người ở ngôi cao cũng không tránh khỏi lạnh lẽo.

[5]. Ý chỉ ba triều Hạ, Thương, Chu.

[6] Một loại bẫy mìn, thường có mồi (chiến lợi phẩm, con tin...) để dụ

cho nạn nhân chạm vào chốt lẫy gây phát nổ.

1. Di chỉ kỉnh đô cuối đời Thương (nay ở gần thôn Tiểu Đồn An Dương tỉnh Hà

Nam, Trung Quốc. Năm 1899 phát hiện chữ giáp cốt ở đây).

[8]. Sấm trong lòng bàn tay

[9] Một câu danh ngôn của Tưởng Gỉớỉ Thạch, nguyên văn là: Khỉ

chưa đến thời khắc hoàn toàn tuyệt vọng vớỉ hòa bình, tuyệt

không được từ bỏ hòa bình, khi chưa đến thời điểm mấu chốt

phải hy sinh, tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hy sinh.

2. Năm chỉến sĩ anh hùng của Bát Lộ quân trong kháng chiến chống Nhật, thà

chết cũng không chịu đầu hàng, bị quân địch bao vây, đạn dược đã hết, họ

liền ném đá cản bước quân địch, rồi hủy hết vũ khí, liều mình nhảy xuống vách

núi. Khi nước Trung Quốc mới thành lập, sự tích anh hùng này được dựng

thành phim, và đưa vào sách giáo khoa tiểu học.

[11] Thuyết Nhất nguyên duy vật được phát triển bởi Marx và Engels,

cho rằng toàn bộ hiện thực khách quan (kẻ cả xã hội loài người) về

bản chất là vật chất, ý thức chỉ là kết quà cùa sự phát triển và sự

phản ánh của vật chất vận động.

[12] di cư theo một tuyến đường nhất định.

1. Chữ quan trong Quan Tài.

2. Chữ quan có nghĩa là nhìn, xem.

[15] • Mười sáu quẻ Chu Thiên hoàn chỉnh.

[16] Công cuộc xây dựng bốn hiện đại hóa của Trung Quốc bao gồm: hiện đại

hóa công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa quân sự, hiện đại

hóa khoa học kỹ thuật.

[17] Tiếng lóng giang hồ. Trong Thủy Hử, hồi 37, khi Tống Giang lần đầu gặp

Trường Goành trên thuyền. Trương Hoành có hỏi Tống Giang và hai tên công

sai áp giải là muốn ăn mì vằn thắn hay mì dao phay. Mì vằn thắn là cởi hết

quần áo nhảy xuống sông tự tử, còn mì dao phay là mỗi người ăn một dao rồi

ném xác xuống sông.

[18] Rổng nhảy qua vực

[19] Trong địa cung của lăng tầm bậc đế vương, thường có bệ đá kê quan tài

bằng đá trắng, chính giữa là một lỗ hình chữ nhật, bên trong chứa đất vangfm

đây là xẻng đất đầu tiên xúc lên lúc chọn nơi xây mộ. Hốc chứa đất ấy gọi là

giếng vàng, là điểm mốc cơ bản của toàn bộ bố cục kiến trúc lăng tầm. Xung

quanh và bên trong quan quách có bạch ngọc, hoặc trong miệng người chết

ngậm ngọc thạch, gọi là táng ngọc. Sở dĩ làm như vậy, là vi người xưa cho

rằng giếng vàng có thể nối liền âm dương, trao đổi sinh khí, còn táng ngọc có

thể giữ cho thi thể không bị thối rữa. Thời Minh, Thanh, “giếng vàng táng

ngọc” được coi là nghi thức mai táng cao cấp nhất.

1. Tiên ở trong bụng

1.Hai câu này nằm trong bài thơ Nhân dân giải phóng quân chiếm lĩnh Nam

Kinh của Mao Trạch Đông. Chính xác mà nói, câu trước “Thiên nhược hữu tình

thiên diệc lão" là một câu trong bài Kim đồng tiên nhân từ Hán ca của thi

nhân Lý Hạ thời Đường, Mao Trạch Đông dẫn lại và thêm vào câu sau. Ý đại

khái là: “Trời mà cũng có tình cảm thì trời cũng sẽ già đi, xu thế phát triển của

thế gian chính là sự đổi thay”.

1.Một hình thức phê đấu thịnh hành thời kì đầu Cách mạng Văn hóa. Trong đại

hội phê đấu, người bị phê đấu bị ấn chặt đầu, cổ, lưng xuống khiến thân trên

và thân dưới tạo thành một góc 90 độ hoặc thậm chí hơn thế, đồng thời hai

cánh tay vươn ngược ra phía sau hoạc sang hai bên, trông như cánh của máy

bay phản lực, đầu chúi xuống đất, mông vểnh lên trời, trước ngực đeo tấm

bảng đen.

1. Thị trấn nằm ở phía Đông Mông cổ, cách Ulan Bator 290km. Năm 1971,

nhân vật số 2 của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Lâm Bưu bỏ chạy

sang Liên Xô, trên đường đã bị rơi máy bay tại thị trấn này.

1. Bát môn gồm có: Hưu môn, Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh

môn, Tử môn, Kinh môn và Khai môn. Tám cửa này là từ tám phương vị

của Bát Quái mà ra. Đây là một trong những căn cứ dùng để suy đoán

cát hung trong Kỳ Môn Độn Giáp.

1. Tức sách Xuân Thu.

1. Ý chỉ việc đăng cơ làm hoàng đế. Thời xưa coi phương Nam là chí tôn, còn

phương Bắc tượng trưng cho thất bại, thần phục. Cung điện và chùa miếu đều

xây theo hướng chính Nam, chỗ ngồi của bậc đế vương cũng là lưng hướng về

phương Bắc, mặt hướng về phương Nam.

1. Quan này là chữ quan trong quan tài, còn chữ quan trong Quan Sơn thái

bảo được Chu Nguyên Chương ngự phong là quan trong quan sát.

1 • Tranh vẽ cảnh đốt đuốc đỉ đêm

1. Nguyên văn: Điền viên tương vu, hồ bất quy. Đây là một câu trong bài

Quy tiên lai từ cùa Đào Uyên Minh.

1.Michelangelo Antonioni, đạo diễn người Ý. Năm 1972, ông quay một

bộ phim về Trung Quốc, trong đó có một vài cảnh bất nhã, và bị phản đối ở Trung

Quốc.

1. Vào buổi sớm mùa xuân hoặc mùa hạ, không khí ở độ cao thấp ổn định, rất

ít bụi, nếu có ráng mây rực rỡ chứng tỏ rằng trong không khí ở phía Đông có

rất nhiều giọt nước tạo thành tầng mây, thời tiết xấu đang áp dần đến, đây

chính là nguyên nhân “ráng sớm đừng ra cửa”; chập tối, vì được mặt trời chiếu

sáng cả ngày, nhiệt độ tương đối cao, tỷ lệ nước ờ vùng không khí ở độ cao

thấp thông thường không cao, nhưng vì sự đối lưu trở nên yếu, bụi bặm có thể

sẽ tập trung một lượng lớn ở tầm thấp. Nếu xuất hiện ráng mây rực rỡ, thì chủ

yếu là vì những hạt khô như bụi tán xạ ánh mặt trời tạo nên, điều này chứng

tỏ không khí phía Tây tương đối khô. Theo quy luật khí lưu di chuyền từ Tây

sang Đông, trong tương lai gần thời tiết bản địa sẽ không xấu đi.

1.Thợ mộc cao cấp, tương đương với kiến trúc sư.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: