Chương 6: Thị trường tài chính

1. Những vấn đề chung về thị trường tài chính:

1.1.           Khái niệm thị trường tài chính:

Bắt nguồn từ mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm: một nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy động vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng thêm nguồn tiết kiệm. Vì vậy, mối quan hệ nhân quả này tuần hoàn và tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo ra sự gặp gỡ này. Đó chính là quá trình giao lưu vốn hay nói khác hơn đó là thị trường tài chính, là nơi tạo ra cơ chế cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có chỗ đầu tư giao lưu với những nhà đầu tư đang cần vốn.

Như vậy, thị trường tài chính là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các sản phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong đó, các chủ thể thừa vốn thì tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu đầu tư khác. Việc hình thành quá trình giao lưu vốn giữa những chủ thể thừa vốn và thiếu vốn đã tạo nên một thị trường với đầy đủ cơ chế như trong một nền kinh tế thị trường. Đồng thời, do sản phẩm trên thị trường là sản phẩm tài chính, có tính nhậy cảm và ảnh hưởng đến mọi thành phần trong nền kinh tế nên thị trường tài chính là thị trường bậc cao. Do đó, thị trường tài chính phải là loại thị trường bậc cao, chỉ tồn tại và hoạt động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.

Như vậy, Nói một cách cụ thể nhất thì Thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và những công cụ tài chính nhất định.

1.2. Điều kiện hình thành thị trường tài chính

Cũng giống như các loại thị trường khác, thể chế thị trường phải được duy trì trong nền kinh tế tài chính. Tức là, các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn trên thị trường tạo ra cung và cầu về sản phẩm tài chính. Giá các tài sản tài chính hình thành thông qua quá trình giao lưu vốn giữa các chủ thể trên thị trường. Đó chính là lợi tức hay giá phải trả để có được một tài sản tài chính và trong nền kinh tế, vốn được phân bổ giữa các tài sản tài chính dựa trên tín hiệu của thị trường.

Để thị trường phát triển thì phải có một cơ chế thông thoáng. Do đó, các nhu cầu giao lưu vốn trong xã hội phải được khuyến khích mạnh mẽ trong khuôn khổ luật pháp. Vốn được giao lưu thông qua hai kênh chính là giao lưu vốn trực tiếp và giao lưu vốn gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính trung gian.

- Kênh tài chính trực tiếp là kênh mà các chủ thể thừa vốn trực tiếp chuyển vốn cho các chủ thể thiếu vốn, bằng cách mua các tài sản tài chính trực tiếp từ người phát hành. Trong trường hợp này, luồng tiền được vận động thẳng từ người thừa vốn đến người thiếu vốn. Hoạt động này có thể được nhận thấy rõ ràng nhất thông qua mua bán cổ phiếu hoặc giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán.

- Kênh tài chính gián tiếp là kênh thông qua các trung gian tài chính như các Ngân hàng, các định chế tài chính phi Ngân hàng và các tổ chức trung gian khác. Các tổ chức tín dụng mà cụ thể là các Ngân hàng thương mại với vai trò là người huy động vốn rồi đem cho vay. Còn những trung gian tài chính, thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ người dư vốn sang người cần vốn, bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Tuy nhiên, thông qua hoạt động của các trung gian tài chính, lãi suất hay còn gọi là giá của tiền tệ được hình thành trên cơ sở cung cầu của thị trường và nhờ đó, các hoạt động tài chính gián tiếp được vận hành trên thị trường tài chính.

Như vậy, các định chế tài chính được hình thành và hoạt động có hiệu quả cũng góp phần tạo nên một thị trường tài chính trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Thị trường tài chính được hình thành đã thực hiện chức năng quan trọng của mình, là tập trung các khoản tiền tiết kiệm tạo thành nguồn vốn lớn để tài trợ các dự án đầu tư trong nền kinh tế xã hội.

1.3. Phân loại thị trường tài chính

* Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được

- Thị trường tiền tệ: Trên thị trường này, chỉ có các công cụ nợ ngắn hạn ( thường kỳ hạn đến một năm) được mua bán. Chủ thể huy động nguồn tài chính chỉ có quyền sử dụng nguồn tài chính huy động được trong thời kỳ ngắn.

- Thị trường vốn: Trên thị trường này có các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu được mua bán. Người huy động nguồn vốn tài chính dài hạn được quyền sử dụng nguồn tài chính huy động được trong một thời gian dài.

Giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tiền tệ sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.

Các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường tiền tệ có thể sử dụng kỹ thuật để chuyển đổi các nguồn tài chính có thời hạn sử dụng ngắn thành các nguồn tài chính có thời hạn sử dụng dài cung cấp cho thị trường vốn. Sự phát triển của thị trường vốn sẽ kích thích thị trường tiền tệ phát triển.

*Căn cứ vào phương thức huy động nguồn tài chính

- Thị trường nợ: Trong thị trường nợ, các chủ thể huy động nguồn tài chính thông qua phương thức chung nhất là đưa ra một công cụ vay nợ ( có thể là trái khoán hay một món vay thế chấp). Thực chất, đây là một sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người vay phải thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian đều đặn cho tới thời điểm quy định trước là đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện. Lúc này người vay phải hoàn trả luôn cả vốn và phần lãi tiền vay còn lại cho người nắm giữ công cụ. Chủ thể huy động nguồn tài chính chỉ có thể sử dụng nguồn tài chính đó trong những khoảng thời gian cố định.

- Thị trường vốn cổ phần: Trong thị trường này, các chủ thể huy động nguồn tài chính thông qua phương thức phát hành cổ phiếu. Khi bán được cổ phiếu, các cty CP có được nguồn tài chính để hình thành hoặc tăng thêm vốn tự có của mình. Các công ty này có quyền sử dụng nguồn tài chính đó trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động của công ty.

*Căn cứ vào sự luân chuyển của các nguồn tài chính

- Thị trường sơ cấp (thị trường cấp một): là thị trường tài chính trong đó những chứng khoán mới phát hành được người huy động nguồn tài chính bán cho người đầu tiên mua nó. Sự hoạt động của thị trường cấp một huy động nguồn tài chính trong xã hội chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nguồn tài chính vận động từ người đầu tư sang chủ thể phát hành chứng khoán.

- Thị trường thứ cấp ( thị trường cấp hai): là thị trường tài chính trong đó thực hiện giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường cấp một. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Thị trường cấp hai làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán.

*Căn cứ tính chất pháp lý

- Thị trường tài chính chính thức: là bộ phận thị trường tài chính tại đó các hoạt động

huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc, thể chất nhất định, được Nhà nước quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật.

Các chủ thể tham gia thị trường này với quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của họ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

- Thị trường tài chính không chính thức: là thị trường tài chính ở đó các hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo sự thoả thuận giữa người cung cấp nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính không theo nguyên tắc thể chế do Nhà nước quy định

1.4. Vai trò của thị trường tài chính

1.4.1Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích luỹ và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu cầu vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.

Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, …Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn.

Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt khác, nhà đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động nguồn vốn lớn, tức thì, không bị bó hẹp như cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư từ những dự án kinh tế có sức sinh lời cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ chế hoạt động cho thị trường chứng khoán phát triển.

1.4.2 Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả

Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài. Đối với nguồn lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính để những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa vào cất trữ. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối với nguồn lực tài chính bên ngoài, cần có chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút nguồn lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài.
Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trò kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.

1.4.3 Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ.

Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính.

Đối với tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:

- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đoái, có tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.

- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:

- Tự do hóa giao dịch vãng lai

- Tự do hóa giao dịch vốn

- Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ

Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia.

Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau.

Tóm lại, việc hình thành thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Đây là thị trường tiền đề cho mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội được diễn ra, bắt đầu từ việc tạo lập nguồn vốn đến nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và cuối cùng là hội nhập và nền kinh tế thế giới. Cho nên, thị trường tài chính cần được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, có cơ chế giám sát phù hợp nhằm hạn chế những tác hại, rủi ro khi có khuảng hoảng tài chính.

II. Vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường tài chính

1.Nhà nước tạo môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính

Biểu hiện ở các mặt sau:

- Nhà nước thông qua các chính sách thuế, lãi suất, tiền tệ, tỷ giá,… để tạo ra cơ cấu kinh tế mới, hợp lý có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, kiểm soát được lạm phát.

- NN thông qua các chính sách kinh tế phù hợp để thúc đẩy đầu tư, tăng cường tiết kiệm.

- Nhà nước định hướng cho sự phát triển của thị trường tài chính bằng nhiều chính sách, biện pháp và bước đi phù hợp cùng với sự phát huy vai trò của các khâu trong hệ thống tài chính, tạo điều kiện cho thị trường tài chính vận hành an toàn và có hiệu quả.

2. Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính

Nhà nước xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành là cơ sở pháp lý điều chính các hành vi của người phát hành, người đầu tư và các tổ chức trung gian, giải quyết các tranh chấp và xử lý các vi phạm trong hoạt động của thị trường tài chính.

3. Nhà nước đào tạo con người cho thị trường tài chính

Để thị trường tài chính hình thành, hoạt động và phát triển không thể thiếu yếu tố con người. Với cơ chế hoạt động phức tạp, thị trường tài chính đòi hỏi phải có một đội ngũ những người làm công tác quản lý, kinh doanh, môi giới,… trên thị trường tài chính phải có kiến thức tương đối toàn diện cả về kinh tế, thương mại, luật pháp, ngoại ngữ, tin học,… Để có được đội ngũ này, cần có những chi phí đào tạo lớn và kế hoạch đào tạo bài bản, khoa học. Những kế hoạch này chỉ có Nhà nước mới đủ sức thực hiện và nguồn tài chính cung cấp cho hoạt động này được huy động chủ yếu từ NSNN.

4. Nhà nước thực hiện việc giám sát đối với thị trường tài chính

Việc giám sát của NN đối với hoạt động của TTTC vừa là vai trò của NN, vừa là sự cần thiết xuất phát từ yêu cầu đảm bảo hoạt động lành mạnh của thị trường.

III. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ

Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn hạn.

1. Đối tượng và công cụ của thị trường tài chính:

- Đối tượng: là quyền sử dụng các nguồn tài chính có thời hạn sử dụng ngắn( thường nhỏ hơn 1 năm). Chính vì tính chất ngắn hạn đó nên thị trường tiền tệ cung ứng nguồn tài chính có khả năng thanh toán cao và người tham dự ít bị rủi ro.

- Công cụ:

+ Tín phiếu kho bạc: là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN. Thời hạn thường là 3 tháng, 6 tháng và 1 năm. Đây là công cụ quan trọng nhất của thị trường vì có độ an toàn cao, khối lượng phát hành lớn.

+ Thương phiếu: là chứng chỉ ghi nhận sự cam kết thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định trong 1 thời gian nhất định. Về bản chất, thương phiếu là các giấy tờ chứng nhận quyền chủ nợ về số tiền hàng hoá, đối với việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp với nhau. Gồm:

+/ Hối phiếu: do người bán phát hành để đòi tiền người mua

+/ Lệnh phiếu: do người mua phát hành để cam kết trả tiền hàng hoá, dịch

vụ khi đến hạn cho người bán.

+ Chứng chỉ tiền gửi Ngân hàng: là công cụ vay nợ do NHTM phát hành, xác nhận 1 khoản tiền gửi có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn của người được cấp chứng chỉ.

+ Giấy chấp nhận thanh toán của NH: được xem là loại chứng khoán rất an toàn vì chúng được NH bảo lãnh

+ Các hợp đồng mua lại: là các hợp đồng mà người bán chứng khoán cam kết sẽ mua lại những chứng khoán đã được bán với giá cao hơn vào thời gian sau (thường 1-2 ngày hoặc vài tháng )

+ Vốn dự trữ bắt buộc: là khoản vốn mà các NHTM bắt buộc phải dự trữ dưới dạng tiền gửi ở NHTW

+ Trái phiếu ngắn hạn của các công ty: là giấy nhận nợ ngắn hạn do các công ty phát hành nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời.

+ Tín phiếu ngân hàng: là chứng chỉ vay nợ do NHTW phát hành bán cho các

NHTM và tổ chức tín dụng.

2. Các chủ thể tham gia

- Ngân hàng trung ương:

- Ngân hàng thương mại:

- Kho bạc Nhà nước:

- Người đầu tư:

- Người môi giới và người kinh doanh :

IV. Thị trường vốn:

Thị trường vốn là 1 bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng dài hạn.

1. Đối tượng, công cụ của thị trường vốn:

* Đối tượng: là quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn. Do tính chất dài hạn nên nguồn tài chính ở thị trường vốn chủ yếu để đầu tư dài hạn vào sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở

* Công cụ:

- Cổ phiếu:

+ Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu mang lại cho người sở hữu nó những

quyền lợi thông thường. Cụ thể:

Quyền được nhận cổ tức theo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty và

tỷ lệ phần vốn góp

Quyền được bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị

Quyền được kiểm tra sổ sách của công ty

Quyền được chia số tiền sau giải thể

+ Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu mang lại cho người sở hữu nó được

hưởng những quyền lợi ưu đãi nhất định so với cổ phiếu thường. Cụ thể:

Quyền nhận lợi tức trước cổ đông có cổ phiếu thường

Quyền được chia tài sản do giải thể trước cổ đông có cổ phiếu thưòng

Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước mà không phụ thuộc vào

kết quả hoạt động của công ty

Nhưng không có quyền bỏ phiếu và tham dự hội nghị của công ty.

+ Trái phiếu: gồm

+/ Trái phiếu chính phủ

+/ Trái phiếu công ty

+/ Trái phiếu của Ngân hàng và các tổ chức tài chính

2. Các bộ phận chủ yếu của thị trường vốn:

- Thị trường cho vay dài hạn: là bộ phận của thị trường vốn diễn ra hoạt động cho vay các nguồn tài chính dài hạn giữa chủ thể cung ứng và chủ thể cần nguồn tài chính dài hạn mà không cần phát hành chứng khoán

- Thị trường tín dụng thuê mua hay cho thuê tài chính: trong thị trường này, người cung nguồn tài chính là người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê ( người sử dụng nguồn tài chính) và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Thị trường này giúp chủ thể càn nguồn tài chính có được nguồn tài chính cần thiết mà không cần có tài sản thế chấp.

- Thị trường chứng khoán trung và dài hạn:

V. Thị trường chứng khoán

Là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá về mua bán chứng khoán các loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

1. Thị trường chứng khoán sơ cấp

1.1. Chủ thể tham gia

- Các chủ thể cần nguồn tài chính: huy động nguồn tài chính bằng cách phát hành chứng khoán ( Nhà nước, các tổ chức tài chính, doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, đặc biệt là công ty cổ phần)

- Các chủ thể cung ứng nguồn tài chính: là chủ thể mua chứng khoán mới phát hành với tư cách là người đầu tư.

- Chủ thể môi giới đóng vai trò bảo lãnh: có thể là Ngân hàng hoặc các công ty chứng khoán. Người bảo lãnh sẽ cố vấn cho chủ thể cần nguồn tài chính trong việc phát hành và đảm bảo việc tiêu thụ chứng khoán cần phát hành sẽ thu về nguồn tài chính.

1.2. Cơ chế hoạt động:

Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán nên cơ chế hoạt động của thị trường này là cơ chế phát hành

Có 2 phương thức phát hành thông qua người bảo lãnh

- Phương thức uỷ thác phát hành:

Những người bảo lãnh sẽ tập hợp thành 1 tổ chức chung dưới hình thức 1 tổ

hợp phát hành chứng khoán. Các thành viên của tổ hợp sẽ thoả thuận về

phương thức bán và phân phối thù lao. Sau đó mỗi thành viên sẽ nhận 1 lượng

chứng khoán nhất định để bán cho nhà đầu tư theo giá đã công bố. Người mua

chứng khoán không phải mất hoa hồng hay chi phí nào khác cho người bảo

lãnh. Chi phí cho người bảo lãnh do người phát hành trả( chính là chênh lệch

giữa giá bán cho người đầu tư và số tiền mà người phát hành nhận được)

- Phương thức phát hành kiểu đấu giá:

Các chủ thể phát hành thông báo tiến hành đấu giá. Căn cứ vào bảng tổng hợp

xin mua của các tổ chức tham gia đấu giá, xếp theo thứ tự giá chào từ cao đến

thấp. Chủ thể phát hành đáp ứng mọi lệnh bắt đầu từ giá cao nhất đến khi đạt

được tổng số tiền mà họ mong muốn.

2. Thị trường chứng khoán thứ cấp:

2.1. Cơ cấu cần thiết cho thị trường chứng khoán thứ cấp

- Người đầu tư: là những người mua bán lại chứng khoán. Người đầu tư quyết định bán chứng khoán với mục đích thu được lợi nhuận trước mắt hoặc giảm rủi ro trong đầu tư. Người đầu tư quyết định mua chứng khoán với mục đích thu lợi nhuận trong tương lai

- Các tổ chức quản lý giám sát thị trường:

Ở VN, tổ chức này là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, được thành lập ngày 28/11/1996. Tổ chức này chuyên trách giám sát các hoạt động của thị trường như:

+ Cấp giấy phép và giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán

+ Kiểm tra tính hợp thức của các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường

+ Kiểm tra sự chính xác của các tài liệu thông tin của các doanh nghiệp trong thị trường

- Người môi giới: là người đóng vai trò trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán

- Sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán: là tổ chức có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Chức năng chủ yếu

+ Tổ chức, tạo điều kiện cho việc giao dịch, mua bán chứng khoán được tiến hành thuận lợi, công khai, đúng pháp luật

+ Cung cấp cho người đầu tư thông tin cần thiết liên quan đến chứng khoán được giao dịch trên thị trường.

- Các tổ chức khác liên quan đến nghiệp vụ chứng khoán: ( Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm,...)

2.2. Các hoạt động chủ yếu

- Cung cấp lệnh mua bán chứng khoán:

Lệnh mua bán chứng khoán là chỉ thị của nhà đầu tư cho người môi giới thể hiện ý muốn mua hoặc bán chứng khoán theo yêu cầu họ đặt ra

- Định giá chứng khoán: là việc xác định giá giao dịch của 1 loại chứng khoán tại 1 thời điểm nhất định. Giá này được gọi là thị giá chứng khoán ( hay là giá thị trường của chứng khoán). Nó được hình thành từ sự cân bằng tại 1 thời điểm giữa cung và cầu về loại chứng khoán đó.

- Giao dịch chứng khoán: là hoạt động trả tiền mua và giao chứng khoán đã được bán. Gồm:

o Phương thức trả tiền ngay

o Phương thức giao dịch theo kỳ hạn

o Phương thức giao dịch theo hình thức tín dụng

;it9Ig đủ chi. Căn cứ nguyên nhân gây ra, có thể chia bội chi thành 2 loại:

- Bội chi cơ cấu: Xảy ra do sự thay đổi chính sách thu chi của Nhà nước, Nhà nước chủ động phát hành thêm tiền vào lưu thông để chi tiêu nhằm kích thích kinh tế phát triển.

- Bội chi chu kỳ: Xảy ra do sự thay đổi của chu kỳ kinh tế, thường xảy ra trong chu kỳ suy thoái của nền kinh tế.

Thực tế cho thấy bội chi ngân sách không có nguồn bù đắp hợp lý sẽ dẫn tới lạm phát, gây tác hại xấu đối với nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Nhưng nếu bội chi ở một mức độ nhất đinh (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong năm) thì lại có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.

2.5.2. Các biện pháp xử lý

- Tăng thu và giảm chi ngân sách là biện pháp cổ truyền nhưng không phải bao giờ cũng thực hiện thành công được.

- Nhà nước phải rà soát và tổ chức lại hệ thống thu và quá trình chi tiêu của NSNN.

- Vay trong nước và ngoài nước                                                      

Biện pháp này chính là chính sách thu bù đắp thiếu hụt ngân sách, là giải pháp mang tính chất tình thế nhằm đảm bảo bù đắp bội chi một cách nhanh chóng, kịp thời.

3. TỔ CHỨC HỆ THỐNG NSNN VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN

3.1 Tổ chức hệ thống NSNN

NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp ngân sách, mỗi cấp ngân sách vừa chịu sự ràng buộc các chế độ thể lệ chung, vừa có tính độc lập tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình.

Trên thế giới có 2 mô hình tổ chức hành chính là mô hình Nhà nước liên bang (Mỹ, Đức, Canada,…) và mô hình Nhà nước thống nhất (Việt Nam, Nhật Bản, Anh,…). Tương ứng với các mô hình đó là 2 mô hình tổ chức hệ thống NSNN.

Với các nước có mô hình tổ chức liên bang, hệ thống NSNN được tổ chức thành 3 cấp: Ngân sách liên bang, Ngân sách bang và Ngân sách địa phương.

Với các nước theo mô hình Nhà nước thống nhất, hệ thống NSNN gồm 2 cấp: Ngân sách trung ương và Ngân sách của các cấp chính quyền địa phương.

3.2 Phân cấp quản lý NSNN

3.2.1 Khái niệm

Phân cấp quản lý NSNN là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương có liên quan tới hoạt động NSNN.

3.2.2 Nội dung chủ yếu của phân cấp quản lý NSNN

+  Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách chế độ thu chi, quản lý ngân sách.

+  Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, nguồn và cân đối ngân sách..

+  Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách

2.3 Một số nguyên tắc trong phân cấp quản lý NSNN

+  Phân cấp ngân sách phải được tiến hành đồng thời với việc phân cấp kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính.

+  Trong phân cấp ngân sách phải đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và tính độc lập chủ động của ngân sách địa phương.

+   Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách.

IV. CHU TRÌNH QUẢN LÝ NSNN

1. Hình thành ngân sách nhà nước

Bao gồm các giai đoạn sau:

1.1 Lập ngân sách

- Khái niệm: Là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của quá trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là lập dự toán các khoản thu chi ngân sách trong 1 năm ngân sách.

- Yêu cầu của lập NSNN:

+ Dự toán thu, chi ngân sách phải đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn, định mức trong chế độ chính sách của Nhà nước và sự vận động của kinh tế, xã hội.

+ Dự toán thu chi ngân sách phải được tiến hành đúng trình tự và thời gian quy định.

+ Dự toán thu chi ngân sách phải đảm bảo mối quan hệ đúng đắn giữa chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị trong sự biến động của cung cầu và giá cả.

- Các căn cứ lập dự toán:

+ Lập dự toán ngân sách phải dựa vào phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đó.

+ Lập dự toán ngân sách phải dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước trong niên độ kế hoạch.

+ Lập dự toán ngân sách phải dựa vào hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu chi của ngân sách nhà nước.

+ Lập dự toán ngân sách nhà nước phải căn cứ vào kết quả phân tích việc thực hiện ngân sách trong thời gian qua.

1.2 Phê chuẩn ngân sách

Dự toán ngân sách được lập và tổng hợp từ cấp cơ sở lên đến trung ương và được trình quốc hội phê chuẩn.

Thông báo ngân sách:

Dự toán ngân sách sau khi phê chuẩn sẽ được thông báo từ cấp trung ương đến địa phương, đến các Bộ, các nghành.

2. Chấp hành ngân sách

 

2.1. Tổ chức chấp hành dự toán thu

- Mục tiêu : Trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên khai thác để đảm bảo tỷ lệ động viên chung mà quốc hội đã phê chuẩn.

Để đạt được mục tiêu đó, việc tổ chức chấp hành dự toán thu phải thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:

+ Xác lập và hoàn thiện hệ thồng chính sách chế độ thu thích hợp, vừa đảm bảo khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển vừa đảm bảo mức động viên của NSNN.

+ Nâng cao công tác tuyên truyền làm cho mọi công dân thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.

+ Kiện toàn bộ máy thu theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực của bộ máy, đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả cao.

+ Đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý thu từ khâu lập kế hoạch, giao kế

hoạch thu, đến khâu tổ chức công tác đôn đốc thu nộp, công tác thống kê kế toán thu.

+ Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp cụ của cán bộ quản lý thu, đồng thời xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan chức năng liên quan đến công tác thu nộp của ngân sách nhà nước.

4.2. Tổ chức chấp hành dự toán chi

- Mục tiêu: Đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế xã hội đã được phê chuẩn trong năm ngân sách.

Để đạt được mục tiêu đó, việc chấp hành dự toán chi cần phải thực hiện các yêu cầu cơ bản sau:

+ Thực hiện việc cấp phát kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức tiêu chuẩn.

+ Đảm bảo việc cấp phát kinh phí theo kế hoạch được duyệt.

+ Thực hiện nguyên tắc thanh toán trực tiếp, nghĩa là mọi khoản kinh phí chi trả từ ngân sách phải do kho bạc trực tiếp thanh toán.

+ Đổi mới phương hướng cấp phát vốn của ngân sách nhà nước theo hướng

nhanh gọn, dễ kiểm tra.

4.3. Quyết toán ngân sách nhà nước

Đây là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý NSNN. Yêu cầu của quyết toán ngân sách là phải đảm bảo tính chính xác, trung thực và kịp thời.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #phiêulưu