Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa... gắn với kinh tế trí thức
Câu 2: Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNHX; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức.
(“Dựa vào cơ sở nào mà Đảng ta xác định đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển tri thức. Trên cơ sở đó hãy phân tích nội dung chủ yếu của CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức”. Liên hệ địa phương.)
Sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì thế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân được coi là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển mới – giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?
Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa VII đưa ra quan niệm: “CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, XH từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”.
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, CNH, HĐH là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua nhằm cải biến nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ; trang bị và tái trang bị công nghệ mới nhất cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, chuyển từ lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng lao động với công nghệ (phương tiện, phương pháp) tiên tiến, hiện đại, có hàm lượng trí tuệ cao; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ và đưa đất nước đi lên CNXH một cách vững chắc.
Sự hình thành và những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức:
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặc lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn.
CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một phương thức công nghiệp hóa mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Chỉ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mới có thể sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tính tất yếu của việc thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam:
Nước ta quá độ đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất kém phát triển. Vì vậy phải tiến hành CNH, HDH gắn với phát triển kinh tế tri thức là tất yếu khách quan, bởi vì:
Trước xu thế có tính tất yếu của thời đại chuyển sang kinh tế tri thức, trước đòi hỏi bức thiết của sản xuất và đời sống, nước ta không còn sự lựa chọn nào khác nếu không chịu tụt hậu, cách xa các nước trong sự phát triển là phải đẩy mạnh CNH, HĐH, gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức.
Bên cạnh tính tất yếu về kinh tế, việc thực hiện đường lối CNH, HĐH của Đảng sẽ có tác dụng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nó là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển XHCN. CNH, HĐH tạo ra lực lượng sản xuất mới làm tiền đề cho việc xây dựng và phát triển QHSX mới XHCN. Tạo điều kiện vật chất – kỹ thuật cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng tích lũy và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do, toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Tạo lực lượng kỹ thuật - vật chất cho việc đảm bảo quốc phòng – an ninh, đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Tạo điều kiện vật chất- kỹ thuật cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập – tự chủ, tích cực tham gia phân công và hợp tác quốc tế.
* Những nội dung của CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
Một là: đẩy mạnh cách mạng khoa học và công nghệ theo những nội dung và bước đi thích hợp để tạo lập cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với một hệ thống công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, trọng tâm là công nghiệp chế tạo nhằm trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho nông nghiệp và các thành phần kinh tế quốc dân.
Hai là, xác lập cơ cấu kinh tế mới hợp lý, tiến lên hiện đại cho phép khai thác, phát huy có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của đất nước, của các vùng và các thành phần kinh tế trong sự mở rộng giao lưu và tích cực chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế.
Thực hiện CNH, HĐH và bối cảnh bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, ĐH IX của Đảng nhận định: trong thế kỷ XXI, “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong văn kiện ĐH XI nêu: “Để xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức”.
Qua 25 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng: nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao 7 - 8%/năm và là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Trong 10 năm qua, GDP bình quân đầu người tăng gấp hơn ba lần (năm 2000 là 390 USD, năm 2010 là 1.168 USD); đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; nền kinh tế đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường; thể chế kinh tế thị trường đã bắt đầu hình thành và đang trong quá trình hoàn thiện. Nước ta là một trong những nước đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su… và là một trong những nước đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, được các tổ chức quốc tế thừa nhận có thành tích xóa đói, giảm nghèo nhanh nhất. Trong lĩnh vực KH&CN, trình độ công nghệ của một số lĩnh vực được nâng cao theo kịp trình độ chung các nước trong khu vực; nhất là, CNTT và truyền thông, điện tử…. Trong những năm đổi mới, chúng ta đã từng bước tạo được nền tảng về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực, đủ điều kiện để thực hiện thành công đường lối phát triển kinh tế tri thức.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, song nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém, nhất là chất lượng tăng trưởng thấp, phát triển chưa bền vững. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm”,… Nguyên nhân của những yếu kém trên, là do công tác đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức (lực lượng lao động dồi dào, nhưng tỷ lệ qua đào tạo rất thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý, chất lượng đào tạo còn thấp); năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng những công trình, bằng sáng chế phát minh khoa học còn ít và thấp so với các nước; thị trường KH&CN chậm được hình thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất, kinh doanh còn yếu (tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp của Việt Nam mới chỉ khoảng 20%, trong khi Thái Lan 31%, Ma-lai-xi-a 51%, Xin-ga-po 73%...). Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả kém: sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến. Năng suất lao động ở nước ta còn thấp hơn từ 2 đến 15 lần so với một số nước ASEAN.
Nguyên nhân của những yếu kém trên là do: công tác đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập trước yêu cầu phát triển KTTT; năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu; kết quả ứng dụng những công trình, bằng sáng chế phát minh khoa học còn ít và thấp so với các nước; thị trường KH&CN chậm được hình thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục - đào tạo và sản xuất, kinh doanh còn yếu; đầu tư cho đổi mới thiết bị - công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam thấp; năng lực hoạch định chính sách còn yếu so với yêu cầu phát triển CNTT; công tác ứng dụng CNTT ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp...
Những vấn đề đặt ra:
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển KTTT đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình CNH,HĐH ở các nước đang phát triển. Nó đòi hỏi CNH,HĐH ở những nước đi sau (như Việt Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình: một là, xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại; hai là, phát triển KTTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra song hành và phải được thực hiện đồng thời. Đảng ta xác định: CNH,HĐH ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn. CNH,HĐH phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ một nền kinh tế công nghiệp sang KTTT. Từ một trình độ thấp về kinh tế và kỹ thuật, muốn đi nhanh và phát triển theo hướng hiện đại cần kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt. Theo đó, nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”: một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào phát triển KTTT thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH,HĐH, thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 mà Đảng ta đã đề ra. Do vậy, gắn liền CNH,HĐH với phát triển KTTT là con đường để giải quyết những vấn đề đó. Bởi, KTTT vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững do nó không dựa chủ yếu vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vừa có thể đảm bảo cho sự phát triển nhanh vì nó tạo ra sự bùng nổ về thông tin và sức sáng tạo của nguồn nhân lực.
Giải pháp về phát triển kinh tế tri thức thời gian tới tại Việt Nam:
Một là, sớm xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế tri thức, coi đây là khâu đột phá để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, coi việc tập trung nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là ở bậc đại học và dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học, công nghệ đầu đàn, những doanh nhân tầm cỡ và lao động lành nghề. Đồng thời, phải trí thức hóa giai cấp công nhân, nông dân lao động, nâng cao dân trí trong toàn xã hội. Cơ sở vật chất và các trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học phải được triển khai cùng với những chủ trương, chính sách khác để tập trung vào một số lĩnh vực có chọn lọc mà chúng ta thường nói là “đi tắt đón đầu”.
Hai là, cần đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức toàn dân về thời cơ và thách thức đối với dân tộc ta khi nhân loại đang có một bước chuyển quan trọng, quyết định từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ - tương ứng với thời kỳ quá độ lên CNXH, để bắt nhịp với nền kinh tế tri thức đang hình thành trên thế giới, đây cũng là cơ hội để thực hiện đường lối mà Đảng ta đã vạch ra là "đi tắt, đón đầu" trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Ba là, cần coi trọng phát triển khoa học - công nghệ trên cơ sở dẫn dắt và hỗ trợ của doanh nghiệp, được khuyến khích bởi động lực cạnh tranh thị trường bình đẳng và lành mạnh. Chú trọng phát triển thị trường công nghệ coi đây là môi trường kích thích quang trọng của nền khoa học công nghệ quốc gia. Điều quan trọng để tạo lợi thế cạnh tranh trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức là phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, cùng với việc tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới hệ thống hành chính. Cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt về giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ. Vì thế, nhà nước cần tạo môi trường pháp lý để các pháp nhân hoạt động trên thị trường khoa học – công nghệ được cạnh tranh bình đẳng.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập ngày càng rộng hơn, sâu hơn với khu vực và thế giới nên Nhà nước cần thực sự đóng vai trò bà đỡ thông qua việc tạo môi trường pháp lý và hỗ trợ những điều kiện cần thiết cho phát triển khoa học - công nghệ, trước hết là các hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm và triển khai; phát huy những năng lực nội sinh và tranh thủ tiếp thu những thành tựu của thế giới.
Nhà nước còn cần phải có chính sách thông thoáng để thu hút các tập đoàn công nghệ xuyên quốc gia, siêu quốc gia có tiềm lực khoa học - công nghệ mạnh đầu tư vào Việt Nam
Bốn là, cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
Tóm lại, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đưa ra tại Đại hội XI không chỉ là sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) mà còn là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước xây dựng và phát triển đất nước theo kịp với sự phát triển chung của các nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Liên hệ thực tế :
Quảng Trị là một tỉnh ở miền trung, được tách ra từ tỉnh Bình Trị Thiên năm 1989. Khi mới chia tách tỉnh, đời sông nhân dân còn rất khó khăn, cơ sở hạ tầng hầu như phải xây dựng mới hoàn toàn. Với xuất phát điểm của nền KT thấp, chậm phát triển, các nguồn lực cho phát triển kinh tế còn hạn chế; vị trí tỉnh cách xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Thiên tai lũ lụt, hạn hán xãy ra triền miên. Nguồn tài nguyên thiên nhiên ít, KHCN lạc hậu, thiếu vốn, nguồn lao động phần lớn chưa qua đào tạo… Sự ra đời của hành lang kinh tế Đông-Tây tạo điều kiện cho Quảng Trị mở rộng là tăng cường liên kết thông qua hội nhập đa ngành, tạo điều kiện cho thương mại xuyên biên giới và đầu tư, tăng cường sự tham gia tư nhân vào việc phát triển và củng cố tính cạnh tranh của thành phần kinh tế tư nhân. Xác định tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây trên địa bàn tỉnh là tuyến kinh tế động lực của tỉnh. Lấy Quốc lộ 9 làm lợi thế khai thác phát triển kinh tế tổng hợp- gồm 3 vùng kinh tế động lực, đó là: Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo; Thị xã Đông Hà; Khu kinh tế du lịch - dịch vụ Cửa Việt - Cửa Tùng và đảo Cồn Cỏ. Hướng phát triển chung: Thương mại - Dịch vụ - Du lịch giữ vị trí quan trọng hàng đầu, phấn đấu sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Trong những năm trở lại đây, nhờ biết nắm bắt cơ hội đã thu hút vốn đầu tư vào địa phương. Quảng Trị đã xây dựng nhiều khu công nghiệp (KCN), như KCN Nam Đông Hà gần TP. Đông Hà (có diện tích 100 ha); KCN Quán Ngang (diện tích 200 ha); Khu kinh tế, thương mại đặc biệt Lao Bảo (diện tích 15.800 ha)...
Động viên khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư sx kinh doanh; chủ động tích cực xd các dự án đầu tư để quảng bá, xúc tiến, thu hút đầu tư ptriển kt – xh; tranh thủ thu hút tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư ptriển đặc biệt là đầu tư về công nghệ cao.
Những kết qủa đạt được sau 22 năm thành tái lập tỉnh đã góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, nâng cao lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển đi lên cùng với đất nước trong những năm tiếp theo./.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top