Câu 11: Nội dung Cương lĩnh dân tộc
Câu 11: Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính sách dân tộc của Đảng hiện nay.
Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin:
a. Dân tộc:
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, có chung mối liên hệ về kinh tế, chung ngôn ngữ, chung nền văn hóa.
Sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi của các hình thức cộng đồng người. Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thức cộng đồng khác nhau, trong đó có hình thức cộng đồng dân tộc. Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trên thế giới, sự hình thành dân tộc diễn ra là không đều.
b. Nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Dựa vào quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc, về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, trên cơ sở phân tích hai xu hướng của phong trào dân tộc và tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng khi giải quyết vấn đề dân tộc, Lênin xây dựng cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nội dung của cương lĩnh:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Các dân tộc bình đẳng nghĩa là các dân tộc có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không dân tộc nào có đặc quyền, đặc lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ,…trong quan hệ xã hội cũng như quan hệ quốc tế.
Bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc (kể cả bộ tộc, chủng tộc). Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc.
Trong một quốc gia nhiều thành phần dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều có ý nghĩa cơ bản để thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc là khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại.
Trên phạm vi thế giới, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc sô – vanh,…và gắn liền với cuộc đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới mới.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc.
Các dân tộc có quyền tự quyết.
Quyền tự quyết của dân tộc thể hiện trước hết ở quyền tự quyết về chính trị. Quyền tự quyết về chính trị là quyền thành lập quốc gia dân tộc độc lập. Tự quyết về chính trị còn có nghĩa là có quyền liên hiệp với các dân tộc khác thành liên bang dân tộc trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực chất của quyền dân tộc tự quyết là thực hiện quyền làm chủ của dân tộc, quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình trên mọi lĩnh vực. Đối với các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc thì quyền tự quyết dân tộc có ý nghĩa giải phóng những dân tộc này thoát khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, được độc lập thực sự.
Khi xem xét quyền tự quyết dân tộc cần hết sức tỉnh táo, đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Liên hiệp công nhân các dân tộc lại.
Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh. Tư tưởng này phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và phản ánh giai cấp.
Sự liên hiệp này tạo nên sức mạnh đảm bảo cho phong trào dân tộc và phong trào giải phóng giai cấp thắng lợi. Chính vì thế, đoàn kết công nhân ở các dân tộc là cách thức tổ chức lực lượng và cũng là mục tiêu phấn đấu của người cộng sản.
Chính sách dân tộc của Đảng hiện nay:
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc. Người còn khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước
coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng"1. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đi đôi với “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng"2, kiên quyết “Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự
ti, mặc cảm dân tộc”3.
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được biểu hiện cụ thể như sau:
+ Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc phục sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Đi đôi với phát huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc cần chú trọng bảo vệ môi trường thiên nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi.
+ Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, hải đảo.
Đây là vấn đề quan trọng và rất tế nh, cần lắng nghe ý kiến của đồng bào và có chính sách thật cụ thể nhằm làm cho nền văn hoá chung vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng phong phú và rực rỡ.
+ Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Bởi vì, chỉ tinh thần đó mới phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất nước. Trong công cuộc đó, không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ xuất thân từ dân tộc mình, ngược lại, cần sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đội ngũ cán bộ thuộc mọi dân tộc trong cả nước.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện, tổng hợp, quán xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộng đồng quốc gia. Phát triển kinh tế – xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất cứ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước.
Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top