ly luan 5

CHƯƠNG XII 

PHÁP LUT CH NÔ VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIẾN 

I. PHÁP LUẬT CHỦ NÔ

1. Bản chất của pháp luật chủ nô

Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử, ra đời cùng với sự ra

đời của nhà nước chủ nô. Quá trình hình thành và phát triển cuả pháp luật chủ nô diễn


ra chậm chạp  trong  một thời  gian  dài.  Nó đươc hình  thành  đầu tiên  trên  cơ


sở  sự


chuyển hoá của các tập quán, và sau đó là sự hình thành các văn bản quy phạm pháp

luật của các nhà nước chủ nô.

Cũng như nhà nước chủ nô, pháp luật ra đời, phát triển trên cơ sở các quan hệ

sản xuất chiếm hữu nô lệ ( CHNL ) trong đó chủ nô là chủ sở hữu đối với tư liệu sản

xuất và cả nô lệ. Xã hội chủ nô có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Trong đó

chủ nô là giai cấp thống trị, nô lệ là giai cấp bị trị. Hai giai cấp này thường xuyên đấu

tranh gay gắt với nhau.

Với cơ sở kinh tế và xã hội đó, pháp luật chủ nô về mặt bản chất trước tiên

nó thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật chủ nô là ý chí của giai cấp chủ nô được

“đề lên thành luật”. Pháp luật chủ nô là công cụ để thiết lập, bảo vệ trật tự xã hội có

lợi, phù hợp với lợi ích của giai cấp chủ nô. Củng cố và bảo vệ cơ sở kinh tế xã hội

của XHCHNL, và địa vị thống trị của giai cấp chủ nô.

Tuy nhiên, ở một góc độ khác pháp luật chủ nô cũng là công cụ để duy trì trật

tự xã hội quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho

xã hội CHNL tồn tại và phát triển. Ở góc độ này pháp luật chủ nô mang tính xã hội,

tuy nhiên tính xã hội của pháp luật chủ nô còn giới hạn trong phạm vi hẹp.

2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật chủ nô

- Pháp luật chiếm hữu nô lệ củng cố cơ sở kinh tế của XHCHNL là chế độ

chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đối với nô lệ, hợp pháp hoá chế độ bóc lột

tàn nhẫn của chủ nô đối với nô lệ.

Pháp luật chủ nô luôn ghi nhận và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ. Quyền này bao giờ cũng gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ.

Ví dụ: Luật La mã quy định chủ nô có toàn quyền đối với tài sản. Chủ nô có

toàn quyền đối với nô lệ kể cả việc mua, bán, đánh đập hoặc huỷ diệt.

Quyền tư hữu được pháp luật chủ nô bảo vệ chặt chẽ bằng pháp luật. Pháp

luật của một số nhà nước chủ nô cho phép chủ nô có quyền giam cầm, tra tấn, hoặc

bán con nợ đi để làm nô lệ bù đắp cho tài sản...Luật Đracông quy định hình phạt tử

hình đối với hành vi ăn cắp rau quả...Luật La mã: Ăn trộm, từ người tự do hạ xuống

làm nô lệ nếu nô lệ ăn trộm thì bị giết.

- Pháp luật chủ nô ghi nhận củng cố tình trạng không bình đẳng trong xã hội.

Trong xã hội chủ nô chỉ có chủ nô mới được coi là công dân, và pháp luật chủ nô chia

giai cấp chủ nô ra làm nhiều loại, nhiều thứ bậc khác nhau, địa vị xã hội của một

người phụ thuộc vào số lượng tài sản mà họ có.Ví dụ luật La Mã quy định: “Hoàng đế

không phải phục tùng pháp luật nào cả ý chí của Hoàng đế là pháp luật đối với nhân

dân”. Luật Ma nu quy định cùng phạm một tội nhưng nếu là chủ nô thì mức phạt là

cách chức còn đối với người khác thì có thể bị giết chết.


Những tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội tuy không rơi vào tình

trạng vô quyền như nô lệ , nhưng họ có rất ít quyền đặc biệt quyền tham gia các công

việc  của Nhà nước và xã hội

- Pháp luật chủ nô ghi nhận sự thống trị tuyệt đối của gia trưởng đối với các

con trong gia đình.

Trong gia đình chủ nô, người gia trưởng có nhiều quyền lực so với các thành

viên khác, điều này thể hiện rõ nét trong quan hệ giữa người gia trưởng đối với vợ và

con trên cả hai phương diện quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.

Trong quan hệ đối với con, con cái thuộc toàn quyền của người gia trưởng,  con


của người chủ nô tuy không phải là nô lệ nhưng bị


coi là  thuộc sở hữu của chủ nô.


Con của chủ nô có quyền công dân, có địa vị pháp lý nhất định nhưng chủ nô có toàn

quyền quyết định đến số phận, tính mạng của họ.

Luật La mã quy định chỉ người cha mới là chủ thể độc lập, các con chỉ là

những người thuộc quyền người khác. Trong xã hội nếu đã lớn tuổi con trai trưởng

ngang hàng bố và giữ những địa vị trong xã hội (trừ địa vị nghị viện), nhưng trong gia

đình anh ta hoàn toàn phụ thuộc quyền lực của người bố, kể cả khi đã lấy vợ và có

con.

Trong quan hệ đối với vợ, vợ chỉ có địa vị ngang hàng với con cái. Vợ có nghĩa

vụ phải trung thành với chồng. Người chồng có quyền được ngoại tình nhưng nếu

người vợ ngoại tình bị bắt quả tang sẽ bị giết tại chỗ cùng với người tình hoặc bị

giam vào nhà kín suốt đời.

-     Pháp luật chủ nô quy định những hình phạt dã man, tàn bạo

Các biện pháp phổ biến được sử dụng là tử hình, huỷ hoại các bộ phận của

thân thể. Việc thực hiện các hình phạt tử hình cũng được thi hành bằng những biện

pháp dã man như: ném phạm nhân vào vạc dầu, ném vào lửa, chôn sống...Pháp luật

chủ nô còn quy định biện pháp trách nhiệm tập thể và cho phép dùng nhục hình.

-  Pháp luật chủ nô có quan hệ mật thiết tới tôn giáo, đạo đức, luân lý và những

quy tắc ứng xử trong gia đình cũng như trong xã hôi.

3.   Hình thức của pháp luật chủ nô

Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử . Thời kỳ đầu pháp luật

chủ nô chủ yếu tồn tại dưới dạng pháp luật không thành văn và chưa hình thành một

hệ thống chuẩn mực bền vững. Do vậy, hình thức biểu hiện của pháp luật rất đa

dạng.

Hình thức phổ biến của pháp luật chủ nô là tập quán pháp. Nhà nước chủ nô thừa

nhận những tập quán xã hội cộng sản nguyên thuỷ thành pháp luật và bảo đảm cho

chúng được thực hiện bằng pháp luật.

- Ngoài tập quán pháp, các quyết định của cơ quan nhà nước chủ nô và cá nhân

chủ nô khi giải quyết một trường hợp cụ thể cũng được thừa nhận là khuôn mẫu để

giải quyết các trường hợp tương tự.

- Giai đoạn sau cùng với sự phát triển của chữ viết các nhà nước chủ nô ban

hành các VBQPPL. Thời kỳ đầu các văn bản này chỉ là sự sao chép các tập quán pháp

lại thành một hệ thống, về sau một số nhà nước chủ nô đã ban hành được những bộ

luật tổng hợp công phu và khá hoàn chỉnh như bộ luật Manu của Ấn Độ, bộ luật

Đracông của Hy Lạp, bộ luật Hammurabi (thế kỷ XVII trước công nguyên) của nhà

nước Babilon, bộ luật La Mã của nhà nước La Mã (thế kỷ V- TCN), trong số các bộ

luật của các nhà nước chủ nô đây được coi là bộ luật hoàn thiện nhất.


II. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN

1. Bản chất của pháp luật phong kiến

Pháp luật phong kiến là kiểu pháp luật thứ hai trong lịch sử, ra đời cùng với sự

ra đời của nhà nước phong kiến. Kiểu pháp luật Phong kiến thay thế cho kiểu pháp

luật chủ nô, chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ hơn pháp luật chủ nô.

Xét về bản chất của pháp luật phong kiến nó do chính các điều kiện kinh tế xã

hội phong kiến quy định hay nói cách khác nó do quan hệ sản xuất phong kiến quy

định. Vì vậy, về mặt bản chất giai cấp, pháp luật phong kiến thể hiện ý chí của giai

cấp địa chủ, phong kiến, là phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến, trước

hết là quan hệ sản xuất phong kiến. Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp

khác nhau trong xã hội, sự lệ thuộc của nông dân vào giai cấp địa chủ, bảo vệ sự áp

bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân.

Về phương diện xã hội pháp luật phong kiến có vai trò xã hội nhất định. Nó là

phương tiện để nhà nước phong kiến thực hiện những công việc chung của xã hội,

ghi nhận và phát triển các quan hệ xã hội của hình thái kinh tế xã hội phong kiến cao

hơn, tiến bộ hơn so với hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ. Đồng thời pháp luật

phong kiến là phương tiện để nhà nước phong kiến thực hiện những công việc chung,

những chức năng xã hội. Trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể pháp luật

phong kiến không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến mà còn phản ánh

ý chí chung của toàn xã hội.

Ví dụ: Trong bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê ngoài các quy định thể hiện ý

chí, bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, ta còn gặp rất nhiều quy định mà

mục đích là để thiết lập trật tự xã hội như: Thể lệ chia ruộng đất công, quy định các

vấn đề bảo vệ ruộng đất, quy định về vấn đề thừa kế...

2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật phong kiến

-     Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền

Pháp luật phong kiến chia giai cấp trong xã hội thành nhiều đẳng cấp khác

nhau. Mỗi đẳng cấp có địa vị xã hội và địa vị pháp lý khác nhau. Pháp luật phong kiến

công khai tuyên bố cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền riêng. Quyền lợi cao nhất

trong xã hội Phong kiến thuộc về vua, vua có toàn quyền, sau vua là các địa chủ lớn,

tăng lữ có rất nhiều quyền (quyền xét xử đối với nông dân, đặt ra luật lệ, quyền thu

thuế, quyền bắt nông dân phải lao dịch cho mình...), “Như vậy, một mình tên địa chủ

vừa là nhà làm luật, vừa là quan toà, là vị chúa tể có toàn quyền ở trang ấp của mình”1.

Tính chất đặc quyền của pháp luật còn thể hiện ở việc quy định các biện pháp

trách nhiệm khác nhau căn cứ vào đẳng cấp, thứ bậc của người phạm tội và người bị

hại trong xã hội. Người thuộc đẳng cấp dưới có hành vi xâm hại đến người thuộc

đẳng cấp trên, đặc biệt là vua chúa thì bị trừng trị rất nặng. Ngược lại, người thuộc

đẳng cấp trên xâm hại người thuộc đẳng cấp dưới bao giờ cũng được hưởng hình

phạt nhẹ hơn, ví dụ: trong pháp luật phong kiến Việt Nam quy định Bát nghị là 8 hạng

người khi có hành vi phạm tội sẽ được xem xét để được miễn hoặc giảm nhẹ hình

phạt. Tính chất đẳng cấp và đặc quyền của pháp luật phong kiến thể hiện trong câu

ngạn ngữ của người Trung Quốc là: “lễ nghi không tới thứ dân, hình phạt không tới

trượng phu”.

1 Mác-Ăng ghen toàn tập, tập 12. NXB Chính trị, HN 1995, Tr 361.


-     Pháp luật phong kiến mang tính dã man, tàn bạo.

Mục đích hình phạt của pháp luật phong kiến chủ yếu nhằm gây đau đớn về

thể xác và tinh thần cho con người, làm nhục, hạ thấp danh dự, nhân phẩm của con

người. Chính vì vậy, các hình phạt được quy định trong pháp luật như: chém đầu, treo

cổ, dìm nước, voi giày, tứ mã phanh thây, ném vạc dầu, thích chữ vào mặt... được áp

dụng rộng khắp ở các nhà nước phong kiến.

Ở Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức được coi là Bộ Luật có tính nhân đạo và tiến


bộ, song trong Bộ luật hệ thống hình phạt bao gồm: suy, trượng, đồ, lưu, tử

nhằm tới mục đích hành hạ thể xác con người.


đều


Bên cạnh đó pháp luật phong kiến còn cho phép áp dụng trách nhiệm hình sự

liên đới dựa trên hai nguyên tắc: Thứ nhất, đối với những người có cùng huyết thống,

dòng tộc và quan hệ hôn nhân. Thứ 2, đối với những người có quan hệ hàng xóm,

đồng cư với người phạm tội. Ví dụ như vụ án Lệ Chi viên đã áp dụng hình phạt chu

di tam tộc với 2 dòng họ của Nguyễn Trãi và Thị Lộ ở Triều Lê.

-     Pháp luật phong kiến là pháp luật của kẻ mạnh.

Pháp luật phong kiến hợp pháp hoá tính chất chuyên quyền và tuỳ tiện sử dụng

bạo lực. Ở giai đoạn đầu pháp luật phong kiến cho phép các lãnh chúa phong kiến có

pháp luật của riêng lãnh địa mình. Pháp luật cho pháp sử dụng bạo lực để giải quyết

tranh chấp. Ví dụ những quy định về đấu gươm, đấu súng ở Châu Âu.

Mặt khác, Toà án phong kiến được quyền xét xử bất kỳ vụ việc nào từ những

lĩnh vực thuộc về nhà nước cho đến những việc thuộc về đạo đức, tôn giáo, nghệ

thuật...

-     Pháp luật phong kiến liên quan mật thiết tới tôn giáo và đạo đức phong

kiến.

Trong xã hội phong kiến có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước và các tổ chức

tôn giáo, vì thế trong nhiều trường hợp tổ chức tôn giáo can thiệp vào công việc của

nhà nước và ngược lại nhà nước cũng can thiệp vào các công việc tôn giáo. Điều này

dẫn đến thực trạng nhà nước phong kiến ghi nhận, thể chế hoá nhiều quy định của lễ,

giáo, đạo đức phong kiến thành pháp luật của nhà nước. Ví dụ, ở các nước phương

Tây, Toà án giáo hội can thiệp, xét xử cả những công việc không thuộc phạm vi tôn

giáo. Ở phương Đông như Việt Nam trong các quy định của pháp luật có nhiều quy

định về nghi lễ tôn giáo, đạo đức, tập quán như quy định tại các Điều 511, Điều 504,

Điều 543, Điều 642 của Quốc Triều Hình Luật.

3. Hình thức của pháp luật phong kiến

Được xây dựng trên nền tảng của chế độ kinh tế- xã hội phong kiến mang tính

chất manh mún, phân tán vì thế pháp luật phong kiến cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.

Hình thức phổ biến của pháp luật phong kiến là tập quán pháp. Có những nước số

lượng tập quán lên tới 300 loại. Ở mỗi vùng lãnh thổ song song bên cạnh luật của nhà

vua còn có luật, lệ riêng của lãnh chúa phong kiến.

Tuy vậy, ở những nước phong kiến trung ương tập quyền, chính quyền trung

ương phát triển mạnh, hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng phát triển với sự ra

đời của nhiều bộ luật công phu. Ví dụ: Nhà nước phong kiến Việt Nam có bộ Quốc


Triều  hình  luật (Bộ


luật Hồng  Đức)  biên  soạn  năm 1483,  Bộ


Hoàng  triều  luật lệ


(Luật Gia Long) biên soạn năm 1815. Tuy nhiên, các bộ luật ở thời kỳ này chưa mang

tính chất pháp điển hoá cao, bộ luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau như: hình sự,

dân sự, hành chính, hôn nhân-gia đình, tố tụng, tài chính...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: