ly luan 4
CHƯƠNG VIII
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. KHÁI NIỆM BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương xuống đến địa phương, được tổ chức và hoạt động dựa trên những nguyên tắc
chung nhất định tạo thành một cơ chế đồng bộ
của nhà nước.
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
Xuất phát từ bản chất của mình, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có những
đặc điểm sau đây:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm sự thống nhất, tập trung quyền lực. Tính
thống nhất quyền lực xuất phát từ nguồn gốc quyền lực thuộc về nhân dân. Trong bộ
máy nhà nước xã hội chủ nghĩa không có sự phân chia quyền lực nhưng có sự phân
công các nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách hợp lý cho các hệ
thống cơ quan tương ứng, bảo đảm cho việc thực hiện thống nhất quyền lực nhân
dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng các hình thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp, trong đó hình thức dân chủ đại diện thông qua hoạt động của các cơ
quan dân cử là hình thức quan trọng nhất. Các cơ quan nhà nước khác đều bắt nguồn
từ hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và phải chịu trách nhiệm và báo cáo hoạt
động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước.
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có chức năng thống nhất quản lý mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Để thực hiện chức năng này nhà nước thiết lập các hệ thống
cơ quan tương ứng, bao gồm: các cơ quan cưỡng chế, các cơ quan quản lý kinh tế, các
cơ quan quản lý các lĩnh vực khác của đời sống xã hội...
- Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nắm giữ các quyền lực: kinh tế, chính trị
và tinh thần.
+ Về quyền lực kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể của những cơ
sở kinh tế, cơ sở vật chất quan trọng nhất của quốc gia: đất đai, rừng núi, sông ngòi,
tài nguyên thiên nhiên... Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn là chủ sở hữu của
những tư liệu sản xuất quan trọng khác được quy định trong pháp luật như: bưu chính
- viễn thông, các trung tâm công nghiệp, điện lực, tài chính... của quốc gia.
+ Về quyền lực chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như các kiểu nhà
nước khác là trung tâm của hệ thống chính trị. Với đặc trưng tiêu biểu là chủ thể duy
nhất nắm giữ quyền lực công cộng đặc biệt và là chủ thể của chủ quyền quốc gia,
nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vai trò là quyền lực chính trị trung tâm.
+ Về quyền lực tinh thần, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng hệ tư tưởng
thống soái là hệ tư tưởng Mác - Lênin. Ơ Việt Nam ta bên cạnh hệ tư tưởng Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam trong việc xây dựng một hệ tư tưởng
thống nhất, là nhân tố bảo đảm động viên sức mạnh toàn Đảng, toàn dân chung sức
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
2. Cơ quan nhà nước
Cơ quan nhà nước là tổ chức mang tính quyền lực nhà nước, là bộ phận cấu
thành của bộ máy nhà nước.
Cơ quan nhà nước có những đặc điểm sau:
- Các cơ quan nhà nước được thành lập và hoạt động theo thẩm quyền được
pháp luật quy định.
- Căn cứ trên thẩm quyền được pháp luật quy định, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản áp dụng pháp luật. Các
văn bản này có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể đã được nó xác định.
- Trong hoạt động của mình các cơ quan nhà nước được sử dụng cả 2 phương
pháp: thuyết phục và cưỡng chế để đảm bảo cho hoạt động của mình đạt hiệu quả.
- Các cơ quan nhà nước có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản
pháp luật đã ban hành.
Xuất phát từ
đặc điểm về cơ cấu tổ chức, phương thức thực hiện quyền lực
nhà nước được phân công, có thể phân chia các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo
nhiều cách khác nhau: có thể chia thành cơ quan trung ương và cơ quan địa phương; cơ
quan chịu trách nhiệm trước cử tri và cơ quan vừa chịu trách nhiệm trước cử tri, vừa
chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên... Cách phân chia thông thường nhất
thường được áp dụng là căn cứ vào tính chất công việc đảm nhiệm để phân các cơ
quan thành: các cơ quan đại diện, Nguyên thủ quốc gia, các cơ quan hành chính nhà
nước, các cơ quan xét xử, các cơ quan kiểm sát.
sau:
II. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa thông thường có các hệ thống cơ quan như
1. Các cơ quan quyền lực nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.
a. Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, quốc phòng, an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ
xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Về cơ cấu tổ chức, Quốc hội các nước xã hội chủ nghĩa có thể tổ chức theo
chế độ nhiều viện và cũng có thể tổ chức theo chế độ một viện, tuỳ thuộc vào thực
tiễn của mối nước.
Quốc hội nước ta hiện nay được tổ chức theo chế độ một viện, do nhân dân
trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc trực tiếp, phổ thông đầu phiếu. Nhiệm kỳ của Quốc
hội là 5 năm. Quốc hội mỗi năm họp hai kỳ, do Uỷ ban thường vụ quốc hội triệu tập.
Uỷ ban thường vụ quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Thành viên của Uỷ
ban thường vụ quốc hội gồm có: Chủ tịch quốc hội, các Phó chủ tịch quốc hội và các
uỷ viên.
b. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Ở nước ta, Hội đồng nhân dân được tổ chức theo 3 cấp: tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, xã phường thị trấn.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
hiện hành, hội đồng nhân dân căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cấp
mình, xuất phát từ lợi ích chung của đất nước và địa phương quyết định những chủ
trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng quan trọng của địa phương, xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, nâng
cao đời sống của nhân dân địa phương, làm nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Khi quyết nghị những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, Hội đồng nhân dân ban
hành nghị quyết. Những Nghị quyết về các vấn đề mà theo quy định của pháp luật
phải có sự phê chuẩn của cấp trên thì trước khi thi hành phải được trình lên cấp có
thẩm quyền phê chuẩn. Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Thường trực hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp.
Hội đồng nhân dân bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân
dân, chủ tịch, các phó chủ tịch và các thành viên khác của uỷ ban nhân dân, trưởng ban
và các thành viên khác của các ban của hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân bầu,
miền nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân cùng cấp theo quy định
của pháp luật. hội đồng nhân dân có thẩm quyền bãi bỏ những quyết định sai trái của
uỷ ban nhân dân cùng cấp, những nghị quyết sai trái của hội đồng nhân dân cấp dưới
trực tiếp. Hội đồng nhân dân có thể quyết định giải tán hội đồng nhân dân cấp dưới
trực tiếp trong trường hợp hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi
ích của nhân dân. Nghị quyết giải tán hội đồng nhân dân cấp dưới phải được sự phê
chuẩn của hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp khi thi hành. Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh giải tán hội đồng nhân dân cấp dưới phải được sự phê chuẩn
của Uỷ ban thường vụ quốc hội trước khi thi hành.
2. Nguyên thủ quốc gia
Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu nhà nước xã hội chủ nghĩa, là người
thay mặt nhà nước trong các quan hệ đối ngoại, đối nội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong các giai đoạn phát triển cụ thể, nguyên thủ
quốc gia có lúc là cơ quan tập thể (Hội đồng nhà nước như ở Việt Nam theo Hiến
pháp năm 1980). Có lúc là cá nhân (Chủ tịch nước). Dù là cơ quan tập thể hay cá nhân,
nguyên thủ quốc gia của các nước xã hội chủ nghĩa cũng được hình thành từ Quốc hội
và có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Ở Việt nam hiện nay, nguyên thủ quốc gia phải được bầu trong số các đại
biểu quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo hoạt động của mình trước
Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước có trên cả 3 nhánh: lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
3. Các cơ quan hành chính nhà nước
Các cơ quan hành chính nhà nước là những cơ quan có thẩm quyền quản lý mọi
mặt hoạt động của quốc gia. Các cơ quan này vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan
quyền lực cùng cấp, vừa là cơ quan quản lý nhà nước.
a. Chính phủ: là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất.
Về cơ cấu tổ chức chính phủ, các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong các giai
đoạn phát triển khác nhau có sự tổ chức khác nhau, có lúc chính phủ được tổ chức
dưới hình thức đề cao trách nhiệm tập thể (như Hội đồng bộ trưởng ở Việt Nam theo
Hiến pháp 1980, Liên Xô cũ theo Hiến pháp 1977), có lúc tổ chức theo hình thức tôn
trọng bàn bạc tập thể nhưng đề cao trách nhiệm cá nhân.
Chính phủ nước ta hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ
sung năm 2001, là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của đất nước. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Chính phủ
bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến cơ sở, đảm bảo
việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đảm bảo ổn định
và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chính phủ chịu trách nhiệm
trước Quốc hội, và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và
Chủ tịch nước (Điều 110 - Hiến pháp năm 1992).
Cơ cấu của Chính phủ gồm có: Thủ tướng, các Phó thủ tướng, các bộ trưởng
và các thành viên khác thuộc Chính phủ. Ngoài Thủ tướng chính phủ các thành viên
khác của chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu chính phủ do Quốc hội bầu ra. Thủ
tướng chịu trách nhiệm trước quốc hội và báo công tác với quốc hội, uỷ ban thường
vụ quốc hội và Chủ tịch nước.
b. Bộ và cơ quan ngang bộ là các cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước. Bộ
trưởng và các thành viện thuộc chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh
vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm các quyền tự chủ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào
Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ
tướng chính phủ
để ban hành các quyết định, chỉ thị hoặc thông tư và kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó ở các ngành, địa phương và cơ sở. Bộ trưởng và các thành viên
của chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về các lĩnh
vực, ngành mình phụ trách. Theo Luật tổ chức chính phủ năm 2001, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ
có quyền kiến nghị với Thủ tướng đình chỉ việc thi hành
nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với các
văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh vực
do bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách (Điều 26), đồng thời có quyền đình chỉ việc thi
hành, đề nghị Thủ tướng bãi bỏ những quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương trái với các văn bản của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh
vực do bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách và chịu trách nhiệm về quyết định đình chỉ đó
(Điều 27).
c.Uỷ ban nhân dân các cấp: do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Uỷ ban nhân dân trong phạm vi chức năng, quyền
hạn do pháp luật quy định ra quyết định, chỉ thị
và kiểm tra việc thi hành những văn
bản đó. Chủ tịch uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của uỷ ban nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp 1992, khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa
phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Chủ tịch
uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái
của uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của hội đồng nhân
dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cùng cấp bãi bỏ những nghị quyết
đó.
4. Cơ quan xét xử
Toà án là cơ quan xét xử của nhà nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống toà án xã hội
chủ nghĩa hoạt động trên các nguyên tắc:
- Xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật;
- Xét xử có sự tham gia của hội thẩm nhân dân;
- Xét xử theo 2 cấp.
Hệ thống Toà án nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: Toà án
nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự các cấp, các toà chuyên
trách khác.
Các toà thực hiện chức năng xét xử theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
5.Viện kiểm sát
Viện kiểm sát là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuỳ theo từng giai đoạn cụ thể mà thẩm quyền của Viện kiểm sát có sự quy định khác
nhau. Giai đoạn trước đây, ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa cơ quan kiểm sát là cơ quan kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cán bộ, viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân
trong việc thực hiện pháp luật. Viện kiểm sát đồng thời cũng là cơ quan giữ thẩm
quyền công tố.
Ở nước ta hiện nay, hệ thống cơ quan kiểm sát bao gồm: Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự các cấp. Theo
quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Viện kiểm sát
có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp và giữ quyền
công tố tại phiên toà.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔ
MÁY NHÀ NƯỚC
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là
những nguyên lý chủ đạo, xuyên suốt trong việc tổ chức và hoạt động hệ thống các cơ
quan nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương, xuất phát từ bản chất của nhà
nước.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta, bộ máy nhà nước ta tổ chức và hoạt
động trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Đảng
cộng sản lãnh đạo nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc bảo đảm sự
đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc và nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1. Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Đây là là một trong những nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nguyên tắc này bảo đảm sự lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia công việc
quản lý nhà nước, tập trung sức mạnh trí tuệ, sức lực của nhân dân và công việc của
nhà nước.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi): “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức”.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình dưới các hình thức trực tiếp hoặc gián
tiếp như: bầu các đại diện của mình vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, trực
tiếp làm việc tại các cơ quan nhà nước, thảo luận, đóng góp ý kiến cho các dự án luật,
các văn kiện nhà nước, tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước và đặc biệt là thông qua hình thức trưng cầu ý dân, nhân dân
trực tiếp quyết định các công việc quan trọng nhất của nhà nước.
Ngoài quy định tại Điều 2, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) còn quy định nguyên
tắc này tại các điều: Điều 3, Điều 6, Điều 11, Điều 53, cụ thể Điều 6 ghi: “Nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và
chịu trách nhiệm ttrước nhân dân”; Điều 53 ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân”.
2. Nguyên tắc bảo đảm sự
nước
lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thông qua đó Đảng cộng sản thực hiện
sự lãnh đạo đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm
giữ vững bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, giữ vai trò quyết định trong việc
xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại Điều
4, Hiến pháp năm 1992: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể
hiện ở các mặt chủ yếu: Đảng đề ra đường lối chính trị, chủ trương, chính sách lớn
cho hoạt động của nhà nước; đào tạo cán bộ đảng viên có phẩm chất chính trị, năng
lực chuyên môn để giới thiệu ứng cử vào giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước;
lãnh đạo nhà nước trong việc thể
chế
hoá chủ
trương, đường lối, chính sách của
Đảng thành pháp luật; thực hiện sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; Đảng lãnh đạo thông qua việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức
đảng cơ sở tại các cơ quan nhà nước; thông qua sự gương mẫu, tiên phong của cán bộ
đảng viên.
Đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng không cai
trị Nhà nước, không bao biện làm thay các chức năng của Nhà nước. Mọi tổ chức của
Đảng và các đảng viên hoạt động trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp
luật.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ được tất cả các Nhà nước xã hội chủ nghĩa sử
dụng rộng rãi và vì thế được ghi nhận trong Hiến pháp của tất cả các nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, tại Điều 6
đã ghi nhận: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo tập trung,
thống nhất của cơ quan nhà nước cấp trên và sự bảo đảm quyền dân chủ rộng rãi
nhằm đảm bảo phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới nhằm đạt hiệu quả cao
trong quản lý nhà nước.
Nguyên tắc tập trungdân chủ thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Tất cả các cơ quan đại diện đều do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc
phổ thông, đầu phiếu. Trong hoạt động của mình, theo định kỳ các cơ quan đại diện
phải báo cáo hoạt động của mình trước cử tri, cử tri có quyền giám sát các đại biểu do
mình bầu ra trong cơ quan đại diện.
- Cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước cấp trên, các
quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên có hiệu lực bắt buộc đối với cơ quan nhà
nước cấp dưới.
- Các văn bản do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành không được trái về nội
dung với những văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành.
- Trong quá trình thực hiện các quyết định của cấp trên, cơ quan nhà nước cấp
dưới có quyền phát huy tính chủ động, sáng tạo phù hợp với tình hình cụ thể ở cơ sở
trên cơ
sở bảo đảm sự
phân công, phân cấp rành mạch về
chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm cuả mỗi cấp.
- Các cơ quan nhà nước cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các quyết định của mình của cơ quan nhà nước cấp dưới. Thực hiện chế độ
thông tin hai chiều thông suốt phục vụ cho công tác lãnh đạo kịp thời của cấp trên và
giám sát hoạt động của cấp dưới, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được Hiến pháp của tất cả
các nhà
nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận. Điều 12, Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam ghi:
“Nhà nước quản lý xã hội và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tập thể
và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật ”.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung quan trọng nhất của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này đòi hỏi:
- Việc thành lập và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước đều phải tuyệt
đối tuân theo các quy định của pháp luật. Trong quá trình thi hành thẩm quyền, tất cả
các cơ quan nhà nước, mọi cán bộ, viên chức nhà nước phải thực hiện theo đúng thẩm
quyền và chức trách luật định.
- Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải nhanh chóng được phát hiện và xử lý
nghiêm minh.
Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở để bảo đảm sự hoạt động đồng bộ, có năng suất, hiệu quả cao của bộ máy nhà nước, đảm bảo sự công bằng của xã hội
5. Nguyên tắc đảm bảo sự đoàn kết và bình đẳng của các dân tộc
Các nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện rộng rãi sự đoàn kết dân tộc. Tất cả
các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ đều bình đẳng. Trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước ta, nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, Hiến pháp 1992:
“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.
Nguyên tắc đảm bảo sự đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc luôn được
nhấn mạnh trong suốt các giai đoạn lịch sử của Nhà nước ta. Chính sách đoàn kết và
bình đẳng giữa các dân tộc luôn được Nhà nước xác định là chính sách quan trọng hàng
đầu trong lĩnh vực chức năng đối nội.
Để đảm bảo sự đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc, Nhà nước ta hiện nay
đang thi hành nhiều chính sách nhằm giúp các dân tộc thiểu số phát triển về kinh tế,
chính trị, văn hoá, khoa học và công nghệ, nâng cao mức sống của nhân dân các dân tộc
thiểu số. Mặt khác, Nhà nước cũng thực hiện nhiều chính sách nhằm bảo lưu, gìn giữ
những vốn văn hoá truyền thống quý báu của các dân tộc thiểu số.
Trên đây là các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Ngoài các nguyên tắc cơ bản kể trên, bộ máy nhà nước xã hội
chủ
nghĩa còn được tổ
chức và hoạt động dựa trên những nguyên tắc khác như:
Nguyên tắc kế hoạch hoá, nguyên tắc tiết kiệm...Đây chính là những nguyên tắc để
đảm bảo cho việc xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tiến tới
mục đích xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
nước.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm bộ máy nhà nước.
2. Nêu các loại cơ quan của bộ máy nhà nước.
3. Phân tích các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
CHƯƠNG IX
NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh nhà nước còn có các thiết chế chính trị - xã
hội cùng tồn tại với nhà nước, toàn bộ những thiết chế chính trị - xã hội này hợp thành
nhân tố thực hiện quyền lực chính trị, trong đó đường lối chính trị của giai cấp thống
trị giữ vai trò quyết định sự điều chỉnh của quan hệ trong hệ thống chính trị.
Hiện nay trên thế giới, dù là nhà nước có chế độ chính trị tư sản hay chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, trong đời sống chính trị xã hội luôn có sự hiện diện của các
đảng phái chính trị (kể cả các đảng phái đối lập như trong một số nước tư sản), các tổ
chức chính trị - xã hội và nhà nước.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là toàn bộ các thiết chế chính trị gắn bó
hữu cơ, tác động lẫn nhau cùng thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Khi xem xét, nghiên cứu về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, cần phải xem
xét dưới hai bình diện:
- Về hình thức, nó là hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã
hội hoạt động trong chế độ xã hội chủ nghĩa với những hình thức và chức năng nhất
định.
- Về nội dung, là cách thức tổ chức các quan hệ chính trị trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, là cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thể hiện những đặc điểm, bản chất và quy
luật hình thành và phát triển của chế độ chính trị mới. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa hoạt động với tư cách là một hệ thống thống nhất các thiết chế và quan hệ chính trị.
Ở nước ta, hệ thống chính trị ra đời sau thành công của Cách mạng tháng Tám
cùng với sự thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân. Cùng với quá trình xây dựng và
phát triển của chế độ mới qua các giai đoạn lịch sử, Hệ thống chính trị của nước ta
ngày càng trở nên hoàn thiện. Mục tiêu của Hệ thống chính trị nước ta là hướng tới
việc xây dựng một xã hội giàu mạnh, văn minh, phát huy rộng rãi quyền con người.
Hiện nay, xét về mặt cấu trúc Hệ thống chính trị nước ta gồm có các bộ phận
cấu thành sau: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính tri, xã hội như: Liên đoàn lao
động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh
niện cộng sản Hồ Chí Minh...
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
- Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chặt chặt chẽ, có tính
thống nhất nội tại cao, điều này được thể hiện ở chỗ mỗi một thành viên trong Hệ
thống chính trị của nước ta đều được phân định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ. Tính
tổ chức cao của hệ thống chính trị nước ta được đảm bảo bởi các nguyên tắc chỉ đạo
như: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, tập trung dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất về lợi ích lâu
dài và mục tiêu. Tính thống nhất này bắt nguồn từ sự thống nhất về kinh tế, chính trị
và tư tưởng trong xã hội nước ta. Các thiết chế trong Hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tuy có vị trí, vai trò và chức năng khác nhau nhưng đều hướng tới mục
đích phục vụ lợi ích của nhân dân.
- Hệ thống chính trị nước ta có tính dân chủ rộng rãi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
vừa là mục tiêu, động lực, vừa là phương thức để tổ chức, vận hành hệ thống chính
trị. Các thiết chế cấu thành Hệ thống chính trị đều là các thể chế của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Các tổ chức này được lập ra nhằm thực hiện và bảo đảm các lợi ích,
nhu cầu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; các tổ chức trên đều được tổ
chức và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, nhằm bảo đảm tính tập
trung, thống nhất, vừa tạo điều kiện cho các bộ phận của tổ chức đó phát huy tính chủ
động, sáng tạo trong giải quyết các công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Mối quan hệ giữa các thiết chế là mói quan hệ bình đẳng. Mọi vấn đề nảy sinh trong
quá trình vận hành của Hệ thống trong đời sống xã hội được giải quyết theo một cơ
chế dân chủ.
II.VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vị trí trung tâm, đặc biệt quan trọng trong Hệ
thống chính trị, vị trí, vai trò của nhà nước không có một thiết chế nào có thể thay thế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là biểu hiện tập trung của quyền lực nhân dân và là thiết
chế hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực này.
Sở dĩ Nhà nước xã hội chủ nghĩa có được vị trí này là vì:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện chính thức của các giai cấp và
tầng lớp trong xã hội. Chính điều này làm cho nhà nước có một cơ sở xã hội rộng rãi
nhất để có thể triển khai một cách nhanh chóng và hữu hiệu những quyết định và
chính sách của mình.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể của quyền lực chính trị, có một bộ máy
đặc biệt để quản lý xã hội và thực hiện sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, điều này
đảm bảo cho nhà nước hoạt động có hiệu quả cao.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chính trị mang chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính pháp lý riêng có của nhà nước. Biểu hiện cao nhất
của thuộc tính này là quyền tự quyết, chỉ có nhà nước mới có quyền thay mặt nhân
dân quyết định các công việc đối nội và đối ngoại của đất nước; chỉ có nhà nước mới
trở thành chủ thể độc lập trong quan hệ quốc tế, trở thành thành viên chính thức của
các tổ chức quốc tế.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất trong hệ thống chính trị có
quyền ban hành pháp luật - hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Nhà
nước không chỉ dừng lại ở việc ban hành pháp luật mà còn sử dụng pháp luật để quản
lý quá trình xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước triển khai các chủ trương, chính
sách của mình một cách rộng khắp trên quy mô toàn quốc.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ sở hữu đại diện đối với các tư liệu sản
xuất quan trọng của xã hội. Thông qua việc nắm giữ các cơ sở vật chất này, nhà nước
thực hiện được sự điều tiết vỹ mô đối với nền kinh tế, bảo đảm định hướng phát
triển cho nền kinh tế nhằm mục đích phục vụ nhân dân. Mặt khác, nhờ nắm trong tay
nguồn lực vật chất này, nhà nước có được các phương tiện vật chất để vân hành hoạt
động của toàn bộ bộ máy nhà nước và bảo đảm cho các tổ chức chính trị xã hội hoạt
động.
Tất cả những ưu thế trên là ưu thế riêng có của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà
không có một thiết chế chính trị nào khác có thể có được. Chính điều này đã quy định
vị trí, vai trò trung tâm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
III. ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản luôn giữ vai trò lãnh
đạo. Với bản chất là đội tiên phong của giai cấp công nhân, các đảng cộng sản luôn
trung thành với mục tiêu, lợi ích lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mặt khác, các đảng cộng sản có phương pháp luận đúng đắn trong nhận thức và hoạt
động của mình là Học thuyết Mác - Lê Nin. Chính những ưu thế này đã quy định vai
trò của các Đảng cộng sản trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị Việt Nam theo chế độ nhất nguyên chính trị vì thế không
tồn tại các đảng phái đối lập. Lịch sử Việt Nam qua các giai đoạn phát triển cách
mạng luôn gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng minh khả năng lãnh đạo to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam. Vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi nhận tại Điều 4 - Hiến pháp năm
1992: “ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”.
Sở dĩ Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo đối với các tổ chức trong
hệ thống chính trị bởi vì:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam gồm những người tiên tiến được vũ trang
bởi thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ
sở của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích một cách khoa học,
khách quan điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, Đảng có khả năng vạch ra đường
lối, chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả những chính sách, đường
lối ấy trong thực tiễn.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam là tổ chức được Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Nhà lãnh đạo thiên tài của cách mạng Việt Nam trực tiếp sáng lập và rèn luyện. Tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành quan trọng trong kho tàng
tri thức lý luận của Đảng. Tư tưởng của Người là một di sản quý báu về lý luận cách
mạng mà ngày nay Đảng ta được kế thừa và phát huy.
Thứ ba, Đảng cộng sản là lực lượng có khả năng tổ chức, tập hợp to lớn.
Bằng khả năng và uy tín của mình, Đảng có thể huy động, tập hợp nhân dân thực hiện
các mục tiêu, đường lối mà Đảng đã đề ra. Khả năng tổ chức và lãnh đạo của Đảng
đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, Đảng cộng sản Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu đấu tranh vì sự
nghiệp hoà bình, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân tiến bộ trên thế giới. Điều này đã tạo ra uy tín quốc tế rộng lớn
của Đảng ta, điều này giúp cho Đảng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các chính
đảng từ phía phong trào cộng sản và công nhân trên quốc tế, điều này góp phần củng
cố vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng trong nước.
Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo của mình dưới các hình thức
và phương pháp sau:
- Đảng hoạch địch đường lối, chính sách chủ trương lớn mang tính chiến lược
định hướng cho hoạt động của Nhà nước và xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hiện nay, Đảng ta đang dành sự quan tâm cho việc xác định các nguyên tắc cơ
bản, định ra những phương hướng để lãnh đạo Nhà nước xây dựng thành công Nhà
nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.
- Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ có phẩm chất, năng lực để giới
thiệu vào các vị trí quan trọng của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội thông qua con
đường bầu cử dân chủ. Việc giới thiệu của Đảng không mang tính áp đặt đối với các
cơ quan nhà nước.
- Đảng tiến hành kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Thông qua
công tác kiểm tra, giám sát, Đảng kịp thời phát hiện những thiếu sót trong hoạt động
quản lý nhà nước, những sai lầm trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình,
kịp thời đưa ra những biện pháp khắc phục. Công tác kiểm tra của Đảng được thực
hiện theo những nguyên tắc của tổ chức Đảng, trên cơ sở chức năng, quyền hạn và
tính độc lập của các cơ quan nhà nước.
- Các tổ
chức cơ
sở đảng, các đảng viên gương mẫu trong việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là một trong những
biểu hiện quan trọng để
lôi cuốn, thu hút nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với các thiết chế
khác trong hệ
thống chính trị
bằng những phương pháp nhất định. Khác với phương pháp quản lý
nhà nước, phương pháp lãnh đạo của Đảng không sử dụng biện pháp cưỡng chế.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng dựa trên cơ sở của sự thuyết phục, giáo dục, thông
qua các hoạt động tuyên truyền sâu rộng đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng
tới các tầng lớp nhân dân, từ đó để nhân dân nhận thức đúng đắn đường lối, chính
sách, chủ trương của đảng, tự giác thực hiện trên thực tế cuộc sống.
IV. CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng
Nhà nước, mà còn thông qua các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội đóng vai trò quan
trọng trong quá trình thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Địa vị pháp lý của các tổ
chức xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật.
Các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay rất phong phú và ngày càng có nhiều tổ
chức mới được thành lập. Đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội là
các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, Đoàn thanh niện cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân...
Các tổ chức xã hội có những đặc điểm cơ bản sau:
- Được hình thành trên cơ sở của nguyên tắc tự nguyện, hoạt động theo điều lệ
nhằm thoả mãn lợi ích của các thành viên.
- Các tổ chức hoạt động bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và các biện
pháp tác động xã hội, không áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Các quyết định của các tổ chức chỉ có hiệu lực tác động tới các thành viên của
tổ chức mình, không có hiệu lực đối với những người ở ngoài tổ chức đó.
- Tài sản của các tổ chức xã hội hình thành từ sự đóng góp của các thành viên,
do tự tổ chức kinh doanh, do sự tài trợ của các tổ chức khác, kể cả tổ chức quốc tế,
Nhà nước chỉ tài trợ một phần.
- Các tổ chức tham gia vào việc quyết định những vấn đề chính trị quan trọng
của đất nước, tham gia vào các lĩnh vực quản lý nhà nước ở các mức độ khác nhau.
Ngoài các đặc điểm chung như trên, mỗi tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ của mình, vào phạm vi hoạt động và vị trí của mình trong hệ thống chính trị
còn có những đặc điểm riêng, cụ thể:
a. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân.
Mặt trận là tổ chức có tính chất yêu nước, có nhiệm vụ củng cố khối đoàn kết
toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội, động viên toàn
dân xây dựng đất nước.
Mặt trận đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bộ máy nhà nước, trên
cơ sở nguyên tắc hiệp thương, thông qua việc hiệp thương trong bầu cử, mặt trận góp
phần hình thành nên hệ thống cơ quan dân cử.
b. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính
trị nước ta. Là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, cán bộ, viên
chức, là trường học thực tế, là trường quản lý kinh tế, quản lý nhà nước của giai cấp
công nhân và người lao động Việt Nam. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có mối
quan hệ chặt chẽ với Nhà nước và các tổ chức xã hội khác trong hệ thống chính trị.
Các tổ chức của Tổng liên đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc xây
dựng các chủ trương, kế hoạch kinh tế - xã hội và trực tiếp tham gia thực hiện các
chủ trương kế hoạch.
Tổng liên đoàn quan tâm đến đời sống vật chất của các thành viên thuộc tổ
chức mình, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.
c. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức đoàn kết rộng rãi của các tầng lớp
phụ nữ nước ta. Hội có nhiệm vụ giáo dục các thành viên của Hội hiểu rõ trách nhiệm
của người phụ nữ đối với đất nước. Bên cạnh đó, Hội góp phần hình thành ở phụ nữ
tinh thần phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực công tác xã hội.
Hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, là tổ chức
hoạt động với mục đích nâng cao mức sống cho phụ nữ, góp phần tạo lập sự bình
đẳng về giới.
d. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh là tầng lớp rộng rãi của tầng lớp thanh
niên, là nơi rèn luyện và giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn là lực lượng năng động, nhiệt tình,
luôn đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
e. Hội nông dân Việt Nam
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức đại diện cho giai cấp nông dân nước ta. Hội
có nhiệm vụ giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực là chủ cho giai cấp nông dân, động
viên nông dân tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, tham gia quản lý nhà nước
và xã hội.
V. VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nước hiện nay, để xây dựng thành công một
xã hội nhân đạo, công bằng, bình đẳng, tất cả vì giá trị của con người, bên cạnh công
cuộc cải cách bộ máy nhà nước còn cần thiết phải tiến hành đổi mới hệ thống chính
trị.
Vấn đề đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị chiếm vai trò quan trọng trong
toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Đổi mới hệ thống chính trị đòi hỏi phải được tiến hành từ
việc đổi mới từng thiết chế trong hệ thống, vì thế Văn kiện đại đội Đảng cộng sản
Việt Nam lầ thứ IX đã xác định: “ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ”[1], “Kiện toàn hệ thống
tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ máy của các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể chính trị - xã hội”.[21]
Đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải được tiến hành
trên cơ sở của những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, việc đổi mới hệ thống chính trị không làm mất ổn định chính trị.
Thứ hai, đổi mới hệ thống chính trị nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ cho nhân dân lao động.
Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản trên, hoạt động đổi mới hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa tiến hành trên các hướng cơ bản sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với
vấn đề đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để lãnh
đạo thắng lợi công cuộc đổi mới, trước tiên, đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, chỉnh đốn
đảng, đổi mới nội dung, phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn
thể hệ thống chính trị. Để công cuộc đổi mới Đảng thu được thành công, Đảng cần
phải khắc phục những yếu kém và khuyết điểm như trong Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra: “chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về
tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được
chỉnh đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết;
chất lượng sinh hoạt đảng giảm sút. Công tác lý luận, công tác tư tưởng còn yếu kém,
bất cập; công tác tổ chức, cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ”.[1]Để khắc phục những
yếu kém đã nêu ở trên Đảng cần hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện
toàn các tổ chức đảng, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng, tăng cường công tác
giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội.
Cần thiết phải phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của
Nhà nước; xác định rõ Đảng không quản lý thay Nhà nước nhưng có quyền can thiệp
vào công việc của Nhà nước thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng từ phía Nhà nước.
[1] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc Gia,
Hà Nội 2001, tr.144
[2]Sách đã dẫn, tr. 145
1
[1] Sách đã dẫn, tr. 138
- Tăng cường hiệu quả công tác quản lý của Nhà nước là một vấn đề không
kém phần quan trọng trong hoạt động đổi mới hệ thống chính trị, bởi Nhà nước giữ vị
trí trung tâm trong hệ thống chính trị. Nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
chúng ta cần phải xây dựng nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo
hướng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật ”[2]
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên với vai trò là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân cũng phải được tiếp tục đổi mới để góp phần thực
hiện nền dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhân dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Để làm được điều đó, các tổ chức cần mở rộng và đa dạng hoá các
hình thức tập hợp nhân dân tham gia vào các tổ chức, đoàn thể . Tiếp tục đổi mới hình
thức hoạt động, tránh tình trạng hành chính hoá, phô trương, hình thức, quan liêu, xa
dân. Cần thiết lập quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức với Đảng và Nhà nước; Nhà
nước phải thể chế rõ hơn quyền hạn, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, phối hợp chặt chẽ và
hiệu quả hoạt động của các đoàn thể với nhau và với cơ quan nhà nước.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top