ly luan 3

CHƯƠNG VI 

SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤTVÀ QUY LUẬT PHÁT TRIỂN 

CA  NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

I.         SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.   Tính tất yếu lịch sử

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, Cách mạng vô sản và sự ra đời của

nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định bới

những mâu thuẫn nội tại phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính trong

lòng xã hội tư bản đã chứa đựng các yếu rố làm tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã

hội chủ nghĩa: tiền đề về kinh tế, chính trị và xã hội.

a.   Những tiền đề về kinh tế

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã

làm cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tỏ ra bất lực trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế và cứu vãn nền kinh tế. Để bảo vệ sở hữu tư nhân của các nhà tư sản và để thu được nhiều giá trị thặng dư giai cấp tư sản đã ra sức duy trì các quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa theo kiểu truyền thống, chính vì thế nó càng thúc đẩy mâu thuẫn

giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Với sự tập trung tư bản đã làm cho lực

lượng sản xuất phát triển đến một trình độ cao, công nhân gia tăng về mặt số lượng

với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản xuất ở trình độ cao này đòi hỏi phải có sự

cải biến về quan hệ sản xuất cho phù hợp, sự cải biến này phải được thực hiện thông

qua một cuộc cách mạng xã hội, cuộc cách mạng này tất yếu dẫn đến sự thay thế

kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà nước mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

b.  Tiền đề về xã hội

Đặc điểm của quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định đặc điểm của nhà nước.

Với đặc điểm  quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là chiếm hữu tư nhân về tư liệu

sản xuất  và bóc lột giá trị thặng dư tối đa đã quy định bản chất của nhà nước tư sản

là nhà nước chuyên chính tư sản.

Sự tích luỹ và tập trung tư bản đã đẩy phần đông giai cấp công nhân đi vào con

đường bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa lao động làm thuê và tư bản ngày càng trở nên

gay gắt, sự bất công trong xã hội cùng với những chính sách phản động, phản dân chủ

đã đưa xã hội tư bản tới sự phân chia sâu sắc.

Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với nền đại công nghiệp đã làm tăng

đội ngũ công nhân lên đông đảo. Đội ngũ này không chỉ đông về số lượng mà còn phát

triển cả về chất lượng và thêm vào đó là tính tổ chức kỷ luật cao do nền sản xuất

công nghiệp tạo thành. Chính điều này đã làm cho giai cấp công nhân trở thành giai

cấp tiên tiến trong xã hội và có vai trò lịch sử của mình là phải đứng lên lãnh đạo cách

mạng vô sản, thủ tiêu nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước của mình.

c.   Tiền đề tư tưởng - chính trị

Giai cấp công nhân có vũ khí tư tưởng  và lý luận sắc bén là chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận

động và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch

sử là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức và tiến hành cách mạng, xây dựng

nhà nước và xã hội của mình.

Trong cuộc đấu tranh này hạt nhân lãnh đạo thuộc về các đảng cộng sản là đội

quân tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng

và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng vô sản.

Ngoài những tiền đề về kinh tế - xã hội, tư tưởng, chính trị chung của cả thế

giới, ở mỗi nước với đặc thù riêng của mình có những yếu tố ảnh hưởng đến cách

mạng vô sản. Vì thế, ở những quốc gia khác nhau, cách mạng vô sản diễn ra ở những

thời điểm khác nhau là không hoàn toàn giống nhau về hình thức. Cách mạng vô sản

diễn ra nhanh hay chậm là do nhiều yếu tố ảnh hưởng đến, đó là những điều kiện về

kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng và yếu tố thời đại, yếu tố dân tộc...

2.   Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vô sản

Những tiền đề về kinh tế, chính trị và tư tưởng mới là những nguyên nhân dẫn

đến cuộc cách mạng vô sản. Nhưng cách mạng vô sản nổ ra như thế nào hay nói cách

khác là giai cấp vô sản sẽ tiến hành cách mạng vô sản như thế nào  để đưa cách mạng

đến thành công lại là một vấn đề khác.

Về vấn đề này Lênin nhận định: “Vấn đề của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền”. Mục đích của giai cấp vô sản là sau khi làm cách mạng vô sản lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản  thì thiết lập luôn nhà nước của mình, nhà nước của

giai cấp vô sản.

Trên thực tế giai cấp thống trị không bao giờ tự nguyện dời bỏ địa vị thống trị

của mình cùng với những đặc quyền, đặc lợi mà mình đang chiếm giữ, vì vậy giai cấp

vô sản muốn lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chính quyền vô sản thì buộc phải

thông qua con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng có thể là khởi nghĩa vũ

trang, cũng có thể là khởi nghĩa vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị.

Về bản chất, cách mạng vô sản phải khác hẳn với các cuộc cách mạng trước

đó. Nếu các cuộc cách mạng trước làm hoàn thiện bộ máy nhà nước của giai cấp

thống trị là thiểu số trong xã hội thì cách mạng vô sản phải đập tan bộ máy nhà nước

cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội.

Nhận thức về vấn đề này, Đảng ta ngay từ

Hội nghị trung ương lần thứ VIII (năm

1941) đã xác định: ”Cách mạng Việt Nam muốn dành được thắng lợi thì nhất thiết

phải vũ trang khởi nghĩa dành chính quyền và sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp,

Nhật sẽ thành lập một Chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,

chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do quốc dân đại hội cử lên”.

Về vấn đề phá bỏ bộ máy nhà nước cũ  sau khi giành chính quyền:

- Cần thiết phải thủ tiêu ngay bộ máy quân sự quan liêu bao gồm những công

cụ bạo lực của nhà nước tư sản cũ như quân đội, cảnh sát, nhà tù, toà án, viện kiểm

sát cùng với bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương và đồng thời ngăn

cấm hoạt động của các tổ chức phản động khác là chỗ dựa cho chính quyền tư sản cũ.

- Xoá bỏ những chế định pháp luật không còn phù hợp, bảo vệ lợi ích cho giai

cấp tư sản.

- Cùng với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước tư sản phải chú ý phân biệt bộ máy

hành chính quân sự - quan liêu với những tổ chức và cơ sở thực hiện chức năng xã hội

như: ngân hàng, bưu điện, bệnh viện... và các chế định pháp luật xuất phát từ bản

chất xã hội hoặc do nhượng bộ giai cấp vô sản như: quyền bình đẳng công dân trước

pháp luật, chế định quyền bào chữa, chế định xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật

của toà án.

- Song song với việc xoá bỏ bộ máy nhà nước và pháp luật tư sản thì giai cấp

vô sản phải nhanh chóng xây dựng  và hoàn thiện bộ máy nhà nước và pháp luật của

giai cấp mình để bảo vệ thành quả mà giai cấp mình vừa dành được. Trấn áp sự phản

kháng của giai cấp thống tị vừa bị lật đổ cùng những phần tử phản cách mạng khác.

II.       BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Xét về nguyên tắc, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản

chất khác hẳn với các kiểu nhà nước trước đó. Bản chất này là do cơ sở kinh tế -

chính trị và các đặc điểm của việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị trong chế

độ xã hội chủ nghĩa quy định.

Về bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân

lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông

dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các

đặc trưng sau:

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị - hành chính, một bộ máy

cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội của nhân dân lao động, nó

không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước ”.

- Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ

nghĩa với bản chất là nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, nhà

nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực:

chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân... Thông qua các quy định của pháp

luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều hơn các quyền con người

thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực

hiện các quyền dân chủ. 

- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: Nhân dân với tính cách

là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều

hình thức khác nhau như:

+ Nhân dân thông qua bầu cử dân chủ lập ra hệ thống cơ quan đại diện;

+ Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động

của các cơ quan nhà nước ;

+ Nhân dân trực tiếp làm việc, phục vụ trong các cơ quan nhà nước;

+ Nhân dân thực hiên quyền lực thông qua các hoạt động đưa ra những yêu

cầu, kiến nghị. 

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm thể hiện

bản chất chung giống bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa  thì còn có những đặc điểm

riêng thể hiện nét riêng có của mình, cụ thể: Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các

dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; Nhà nước ta được tổ chức và hoạt

động trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và

công dân; Nhà nước mang tính nhân đạo sâu sắc, tất cả vì giá trị con người; Nhà nước

ta mở rộng chính sách đối ngoại, hướng tới việc góp phần xây dựng một thế giới hoà

bình, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau.

Những đặc điểm của Nhà nước ta được thể hiện nhất quán trong các chức

năng, nhiệm vụ của nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước   và được

pháp luật quy định một cách chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

III.     QUY  LUẬT  PHÁT  TRIỂN  CỦA  NHÀ  NƯỚC  XÃ  HỘI  CHỦ 

NGHĨA -  VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 

Nhà nước là một hiện tượng xã hội - lịch sử, vì vậy sự phát triển của nó phải

tuân theo các quy luật vân động và phát triển của xã hội.

Là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng, do đó nhà nước phải thay đổi

phù hợp với sự phát triển của cơ sở kinh tế và phù hợp với các bộ phận khác của kiến

trúc thượng tầng xã hội.

Đòi hỏi để đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây

dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nhu cầu xây dựng

một xã hội dân chủ, nhân đạo, công bằng, bác ái là phải xây dựng một nhà nước pháp

quyền. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khâu trọng yếu  trong đổi

mới hệ thống chính trị.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền phải xuất phát từ các luận điểm sau:

- Nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và

pháp luật  để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

- Tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tiến bộ và kinh nghiệm quản lý hiện

đại của thế giới.

- Kế thừa và phát huy truyền thống và những kinh nghiệm quản lý quý báu của

dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử của đất nước.

góc đ khái quát nht nhà nưc pháp quyn có nhng đc đim như 

sau: 

- Là một nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật

đóng vai trò tối thượng.

- Là nhà nước trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ

trách nhiệm lẫn nhau.

-  Là nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của con

người được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn.

- Là nhà nước trong đó 3 nhánh quyển: lập pháp, hành pháp và tư pháp được

phân định hợp lý và rõ ràng cho 3 hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân

bằng, đối trọng và chế ước lẫn nhau tạo cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất

quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.

- Là nhà nước mà trong đó các chủ thể đều phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiến

pháp và pháp luật, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. 

CHƯNG VII 

HÌNH THC VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

I.         HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

1.   Khái niệm hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa 

Hình thức nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận chung về

nhà nước và pháp luật, có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ giữa

bản chất và hình thức nhà nước thì bản chất là yếu tố có ý nghĩa quyết định, nhưng

hình thức nhà nước có tác động tích cực lên quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã

hội mới. 

Một vấn đề có tính quan trọng   là sau khi dành được chính quyền việc cấp

thiết là phải định ra mô hình tổ chức nhà nước, phương thức tổ chức và thực hiện

quyền lực nhà nước. 

Ở bình diện chung nhất, khái niệm “hình thức nhà nước” gồm 3 yếu tố cấu

thành: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

Các nhà nước xã hội chủ nghĩa do có cùng bản chất dân chủ nên về cơ bản

đều có những đặc điểm giống nhau về hình thức nhà nước, cụ thể:

- Về hình thức chính thể: Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều được tổ

chức theo hình thức cộng hoà dân chủ, dù tên gọi ở mỗi nước có khác nhau.

- Về hình thức cấu trúc nhà nước: Các nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được

cấu trúc dưới hình thức nhà nước liên bang, cũng có thể dưới hình thức cấu trúc nhà

nước đơn nhất.

- Về chế độ chính trị: Trong tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có chế

độ chính trị dân chủ, với việc mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội tới đông đảo tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.

2.   Các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa 

a.   Hình thức chính thể của nhà nước xã hội chủ nghĩa 

   Công xã Pari:

Công xã Pari là hình thức nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, ra đời trong

cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 18/3/1871 của công nhân thủ đô Pari đã chiến thắng

quân đội chính phủ Thiers. Công xã Pari có những đặc trưng sau:

- Công xã xoá bỏ chế độ đại nghị tư sản, thiết lập hệ thống cơ quan đại diện

mới. Hội đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất, các uỷ viên trong hội đồng

được bầu theo nguyên tắc phổ thông và phần lớn xuất thân từ thành phần công nhân.

Các uỷ viên có thể bị bãi miễn nếu họ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không còn uy

tín. 

- Công xã Pari thực hiện việc đập tan bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản,

xây dựng bộ máy nhà nước mới của giai cấp công nhân. Sắc lệng đầu tiên được ban

hành là sắc lệnh về xoá bỏ quân đội thường trực thay thế bằng chế độ toàn dân vũ

trang. Công xã cũng thực hiện việc giải tán lực lượng cảnh sát cũ, thành lập lực lượng

an ninh mới, giải tán các toà án và viện công tố , thành lập toà án và viện công tố mới,

thành lập toà án đặc biệt... Đến ngày 19/4/1871 Công xã đã thiết lập được Chính phủ

của giai cấp công nhân. 

- Công xã đã xoá bỏ những nguyên tắc tổ chức cuẩ bộ máy nhà nước tư sản,

xác lập các nguyên tắc mới về tổ chức bộ máy nhà nước mới của giai cấp vô sản.

- Công xã Pari thiết lập một chế độ dân chủ mới với nhiều biện pháp nhằm thu

hút, tạo điều kiện cho nhân dân lao động tham gia quản lý công xã và xã hội đồng thời

bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân

- Công xã Pari đã thi hành các biện pháp cưỡng chế đối với các phần tử phản

cách mạng. 

Những  đặc điểm trên  cho  thấy  Công xã Pari đã là một hình  thức nhà nước

chuyên chính vô sản, mặc dù nó còn sơ khai và thời gian tồn tại không lâu,  như V.I

LêNin đã nói, nó thực chất là “một hình mẫu phác thảo” cho việc tổ chức và xây dựng

chính quyền của giai cấp vô sản và thực chất nó là chính phủ của giai cấp công nhân,

là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp của những người lao động chống

lại giai cấp những người chiếm hữu. 

*Cng hoà Xô Viết 

Xuất hiện lần đầu trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành phố Pêtrôgrát

năm 1905 với tư cách là Hội đồng đại biểu công nhân. Đến cuộc cách mạng tháng 2 -

1917,  Xô viết hiện diện bên cạnh Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản với tư cách

là tổ chức quyền lực của giai cấp công nhân và binh lính Nga. Trên cơ sở nghiên cứu

thực tiễn tình hình nước Nga,V.I. Lênin khẳng định hình thức Xô Viết là hình thức

thích hợp nhất cho điều kiện nước Nga lúc bấy giờ. Chính vì vậy, sau khi tiến hành

thành công Cách mạng Tháng 10, hình thức Xô viết đã trở thành hình thức chính thể

được áp dụng ở nước Nga và sau là Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Hình thức

Cộng hoà Xô Viết có những đặc trưng sau:

- Cộng hoà Xô Viết là tổ chức quyền lực của quần chúng, thể hiện ý chí và

nguyện vọng của quần chúng. Ở xô Viết có sự kết hợp giữa sự quản lý nhà nước và

sự tự quản của nhân dân (Xô Viết đại diện cho cả giai cấp công nhân, nông dân và

binh lính Nga).

- Các Xô Viết tạo thành một hệ thống cơ quan được tổ chức và hoạt động dựa

trên nguyên tắc tập trung - dân chủ, biểu hiện: Các cơ quan quyền lực từ trung ương

xuống đến địa phượng đề hình thành bằng con đường bầu cử; Các cơ quan này phải

chịu trách nhiệm báo cáo trước dân; Các quyết định của cơ quan cấp trên có hiệu lực

bắt buộc với cơ quan cấp dưới; Kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sáng kiến và hoạt

động sáng tạo ở cơ sở; Thực hiện chế độ trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và

cá nhân đối với công việc được giao. 

- Cộng hoà Xô Viết tập trung trong tay Xô Viết cả quyền lập pháp và hành 

pháp. 

- Cộng hoà Xô Viết không có sự thoả hiệp giữa các đảng trong việc tham gia 

chính quyền. Nhà nước được xây dựng trên cơ sở sự lãnh đạo của một đảng chính trị

duy nhất - Đảng Bônsêvích.

-  Chế độ dân chủ trong Nhà nước Xô Viết thể hiện tính giai cấp công khai và

không khoan nhượng, thể hiện: quyền bầu cử chỉ thuộc về những người lao động, các

phần tử phản động không những chỉ bị tước quyền bầu cử mà còn bị hạn chế những

quyền chính trị khác như cấm hội họp, cấm tự do báo chí và ngôn luận; giữa giai cấp

công nhân và giai cấp nông dân cũng không có sự bình đẳng trong việc bầu các đại

biểu của mình vào đại hội Xô Viết. Để bầu vào Xô Viết toàn Nga, các Xô Viết thành

phố cứ 25 000 cử tri được bầu 1 đại biểu trong khi các Xô Viết nông thôn thì 125 000

cử tri mới được bầu 1 đại biểu.

Liên bang   Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời trên cơ sở Hiệp ước

thành lập liên bang năm 1922. Qua các bản Hiến pháp 1924, 1936, 1977 đã từng bước

hoàn thiện cách tổ chức, cơ cấu và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Hiến pháp

1977 bộ máy nhà nước được tổ chức như sau:

- Xô Viết tối cao là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất gồm 2 viện:  Viện

dân tộc và Viện liên bang. 

- Cơ quan thường trực của Xô Viết tối cao là Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao -

cơ quan quyền lực cao nhất giữa 2 kỳ họp Xô Viết tối cao.

-  Chính  phủ (Hội đồng  bộ trưởng)  là cơ

quan chấp  hành và điều  hành của

quyền lực nhà nước do Xô Viết tối cao bầu ra và chịu trách nhiệm trước Xô Viết tối

cao.

- Toà án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.

- Tổng kiểm sát trưởng (Viện kiểm sát tối cao) là cơ quan giữ quyền công tố,

kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Cả

Toà án và Viện kiểm sát đều do Xô Viết tối cao thành lập và chịu trách nhiệm trước

Xô Viết tối cao.

Trong công cuộc cải tổ do Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ XXVII

khởi xướng, cơ cấu nhà nước có sự thay đổi mạnh, cụ thể: Đại hội đại biểu nhân dân

Liên Xô được thành lập và là cơ quan quyền lực tối cao; Xô Viết tối cao được Đại hội

bầu ra là cơ quan hoạt động thường xuyên; chế định tổng thống được thành lập và là

người đứng đầu nhà nước; Uỷ ban Hiến pháp cũng được thành lập.

Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nên Nhà nước Xô

Viết đã không dành được thắng lợi trong công cuộc cải tổ và đi đến sụp đổ vào năng

1991.

   Nhà nước dân chủ nhân dân

Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau Đại chiến thế giới II, hình

thức này có những đặc trưng sau:

- Nhà nước dân chủ nhân dân (trừ Việt Nam và Bungari) có đặc điểm chung là

sử dụng kết hợp phương pháp hoà bình và bạo lực để dành và tổ chức chính quyền,

thực hiện bước chuyển tiếp từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội

chủ nghĩa.

- Trong tất cả các nước đều tồn tại hình thức mặt trận đoàn kết dân tộc  với sự

tham gia rộng rãi của các đảng phái chính trị và tổ chức quần chúng, đặt dưới sự lãnh

đạo của đảng cộng sản các nước. Mặt trận giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia

vào thành lập, củng cố bộ máy chính quyền.

- Nhà nước dân chủ nhân dân trong thời kỳ đầu mới thành lập có sử dụng một

số chế định pháp lý cũ nhưng không trái với nguyên tắc của chế độ mới và có bổ sung

thêm những nội dung mới.

- Thực hiện nguyên tắc bầu cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín

để thành lập cơ quan quyền lực nhà nước.

- Cơ sở xã hội của Nhà nước dân chủ nhân dân rộng rãi hơn nhiều so với cơ sở

xã hội trong Nhà nước Xô Viết.

- Tổ chức cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được hình thành tương tự như

hình thức hình thành các cơ quan tương ứng trong chế độ cũ, tuy có sự thay đổi về bản

chất và nội dung hoạt động cho thích ứng với xu hướng chính trị mới.

- Chế định nguyên thủ quốc gia có lúc, có nơi là cơ quan tập thể với tên gọi là

Hội đồng nhà nước hoặc Đoàn chủ tịch cơ quan quyền lực nhà nước tối cao.

Trong những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các nhà

nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đã không kịp thời đổi mới cho thích ứng với tình

hình trong nước và thế giới vì thế đã dẫn đến hậu quả là sụp đổ vào năm 1990 - 1991.

3.   Hình thức cấu trúc nhà nước xã hội chủ nghĩa

Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai hình thức cấu trúc nhà nước cơ bản: nhà

nước đơn nhất và nhà nước liên bang

a.   Nhà nước đơn nhất

Nhà nước đơn nhất được biểu hiện qua các đặc điểm, cụ thể:

- Thể hiện sự thống nhất cao của nhà nước, các đơn vị hợp thành chỉ là những

đơn vị hành chính - lãnh thổ không có dấu hiệu chủ quyền quốc gia.

-  Mối quan hệ

quyền lực giữa chính  quyền  trung ương  và chính  quyền  địa

phương mang tính trực thuộc rõ ràng, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục

tùng trung ương.

- Nhà nước và xã hội tổ chức và hoạt động trên cơ sở 1 hiến pháp và 1 hệ

thống pháp luật thống nhất, trong đó các đạo luật chỉ do cơ quan quyền lực tối cao ban

hành

Ngày nay, trong môi trường dân chủ và đổi mới, ở các nước xã hội chủ nghĩa

đều có xu hướng tăng tính chủ động, sáng tạo cho chính quyền cơ sở, địa phương

được mở rộng quyền hạn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội; trung ương tập

trung  giải quyết những  vấn đề lớn,  những vấn đề liên  ngành,  có tính  chiến  lược,

hướng dần tới việc chuyển dần dịch vụ hành chính cho cá nhân, tổ chức xã hội thực

hiện.

b.   Nhà nước liên bang

Do sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, ngày nay

trong các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới không có nhà nước nào có cấu trúc nhà

nước liên bang. Trong quá khứ, Nhà nước liên bang xã hội chủ nghĩa có những đặc

điểm sau:

- Nhà nước liên bang xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở của nguyên

tắc tự nguyện, bình đẳng của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Bản thân mỗi nước

cộng hoà là những cấu trúc nhà nước hoàn chỉnh, có tổ chức bộ máy riêng, có hiến

pháp và hệ thống pháp luật riêng.

- Trong nhà nước liên bang tồn tại hai hình thức quyền lực nhà nước: chính

quyền liên bang và chính quyền của các nước cộng hoà.

- Các đạo luật của liên bang là cơ sở pháp lý có tính nguyên tắc cho việc ban

hành các đạo luật ở các nước cộng hoà.

- Nhà nước tổ hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung - dân chủ.

- Nhà nước liên bang thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc.

- Khi còn tự nguyên đứng trong nhà nước liên bang các nước cộng hoà không

phải là chủ thể độc lập của các quan hệ quốc tế, mặc dù họ vẫn có quyền tham gia

vào các quan hệ quốc tế.

- Các nước cộng hoà có thể ra khỏi nhà nước liên bang để trở thành nhà nước

độc lập.

4.   Chế độ chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có chung một đặc điểm trong chế

độ chính trị là nó mang tính dân chủ cao, thể hiện và bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân

dân lao động trong xã hội. Phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước của nhà nước

xã hội chủ nghĩa chủ yếu là thuyết phục, giáo dục, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham

gia quản lý nhà nước và xã hội, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

Xem xét về mối quan hệ giữa hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản

chất nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới góc độ triết học duy vật thì đó chính là mối quan

hệ giữa nội dung và hình thức, trong mối quan hệ này thì nội dung nào  hình thức ấy

và hình thức như thế nào thì phản ánh nội dung như thế ấy. Song xét cho cùng thì

trong mối quan hệ này bao giờ hình thức cũng do nội dung quyết định, bản chất của

nhà nước chính là nội dung vì vậy nó đóng vai trò quyết định, do đó, mặc dù có nhiều

hình thức nhà nước nhưng xét đến cùng những hình thức nhà nước đều có những đặc

điểm chung giống nhau.  Tuy vậy, mỗi nhà nước xã hội chủ nghĩa, phụ thuộc vào các

yếu tố tự nhiên, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể đều tự chọn cho mình một hình thức

nhà nước phù hợp, ở mỗi hình thức đó vừa có những đặc điểm chung của nhà nước xã

hội chủ nghĩa lại vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với hoàn cảnh của nước

mình. Như V. I. Lênin đã nhận định: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã

hội đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội

không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình

vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác

của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã

hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.1

II.       CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.   Khái niệm chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định các chức năng cơ bản của

mình. Trong đời sống xã hội có nhà nước, căn cứ trên tình hình thực tế của từng giai

đoạn cụ thể đã quy định các phương hướng hoạt động của nhà nước trong từng giai

đoạn đó, các phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong khoa học pháp lý

được gọi là chức năng của nhà nước .

Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng hoạt động

cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong các

giai đoạn phát triển cụ thể.

Về bản chất, việc thực hiện các chức năng nhà nước bao giờ

cũng là hoạt

động thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời

sống xã hội. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa việc thực hiện chức năng nhà nước

luôn gắn chặt với việc thực hiện quyền lực nhân dân.

Là một bộ phận hợp thành của đời sống xã hội có nhà nước, cũng như bất kỳ

một hiện tượng xã hội nào chức năng của nhà nước không đứng im mà nó luôn có sự

vận động và phát triển. Trong đời sống, căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước

ở từng giai đoạn cụ thể mà tương ứng với nó nhà nước có những chức năng khác

nhau, ngay cả một chức năng cũng có sự thay đổi về nội dung để phù hợp với đời

sống xã hội.

Mặc dù chức năng của nhà nước là những hoạt động riêng, nhưng giữa các

chức năng có sự tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau cùng hướng tới việc thực hiện

1  V.I.LêNin toàn tập, Tập 30. NXB Sự thật 1981

mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, vì thế chức năng của nhà nước hợp thành một hệ

thống thống nhất có ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, thể hiện sự nhất quán và đồng bộ.

Để thực hiện hệ thống chức năng này một bộ máy nhà nước với những cơ quan tương

ứng đã được thiết lập.

Về nguyên tắc, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có những chức năng giống

nhau, song do xuất phát từ đặc điểm riêng biệt về các phương diện cụ thể của đời

sống xã hội trong từng nước không giống nhau mà theo đó trong mỗi nước có những

sự khác biệt về mức độ, phạm vi và phương pháp thực hiện chức năng.

2.   Các chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Cũng như bất kỳ kiểu nhà nước nào trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa

trong hoạt động đối nội của mình đều phải tiến hành những hoạt động nhằm bảo

đảm vị trí thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là giai cấp đang lãnh

đạo xã hội; bảo vệ cơ sở kinh tế nền tảng cho sự tồn tại của nhà nước; bảo vệ vai trò

thống trị về tư tưởng của nhân dân lao động trong xã hội. Tuy nhiên ngoài những chức

năng nói trên khi xem xét các chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa thấy

nổi bật lên hai chức năng sau:

a.   Chức năng kinh tế

Chức năng kinh tế

là chức năng cơ bản, đặc thù của nhà nước xã hội chủ

nghĩa, chức năng này xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ

là một bộ máy hành chính - cưỡng chế mà còn là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội

của nhân dân.

Trong từng giai đoạn phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa chức năng kinh

tế có những biểu hiện cụ thể tuỳ thuộc vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước ở trong

giai đoạn phát triển cụ thể. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, để thực hiện chức

năng kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tự biến mình thành một tổ chức siêu kinh tế,

không chỉ dừng lại ở hoạt động quản lý, nhà nước còn tham gia trực tiếp vào hoạt

động sản xuất và phân phối sản phẩm. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, đa thành

phần kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế của nhà nước xã hội

chủ nghĩa hướng tới các nhiệm vụ sau:

- Tạo lập, bảo đảm môi trường lành mạnh để giải phóng các tiềm năng phát

triển kinh tế , xây dựng và bảo đảm các điều kiện chính trị, pháp luật , xã hội, tổ chức

ổn định cho sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế.

- Củng cố, phát triển các hình thức sở hữu trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo

của hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.

- Tạo các tiền đề cần thiết cho sự hội nhập của các thành phần kinh tế trong

nước vào thị trường kinh tế quốc tế.

Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, chức năng kinh tế của nhà nước hướng

tới các nội dung sau:

- Xây dựng chiến lược, chương trình, chính sách phát triển kinh tế định hướng

cho nền kinh tế quốc dân phát triển trong nền kinh tế thị trường.

- Xây dựng, thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ hợp lý, bảo đảm sự lành

mạnh của nền tài chính quốc gia.

- Phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những mặt tiêu cực của

nền kinh tế thị trường.

- Điều tiết những lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp

ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm công bằng xã hội.

-Phương pháp quản lý kinh tế chủ yếu là các biện pháp kinh tế và pháp luật.

Trong đó pháp luật phải trở thành chuẩn mực cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh,

làm cơ sở cho các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước hoạt

động.

b.   Chức năng xã hội

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quan trọng là giải quyết tốt những đòi

hỏi, nhu cầu xuất phát từ đời sống, hướng tới việc xây dựng một xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh, tất cả vì giá trị con người. Nền kinh tế thị trường được thiết lập

trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại nhiều thành tựu nhưng cũng đã đặt ra

nhiều vấn đề như: văn hoá, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, việc làm... đòi hỏi phải giải

quyết. Chính vì vậy, một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ

nghĩa là giải quyết các nhiệm vụ mà xã hội đặt ra, hướng tới sự phát triển bền vững

trong đó con người là trung tâm.

Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể

khía quát ở các hướng chính sau:

- Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.

- Nhà nước xác định khoa học - công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc, tiếp thu

có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại.

- Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

- Nhà nước tạo điều kiện để mỗi công dân đều có việc làm, khuyến khích mở

rộng  sản  xuất,  thu  hút  sức  lao  động;  tích  cực  trong  việc  giải  quyết  vấn  đề

nghiệp...

thất

- Nhà nước xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu nhập giữa

những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các chính sách

về thuế.

- Nhà nước xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời sống vật

chất và tinh thần đối với những người có công, người về hưu, người già yếu cô đơn...

- Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như

ma tuý, mãi dâm...

c.   Chức năng giữ vững an ninh - chính trị, bảo vệ trật tự an toàn xã hội,

bo v các quyn t do, dân ch ca công dân.

Đây là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

trong tất cả các giai đoạn phát triển.

Nội dung của chức năng này thể hiện ở những mặt cơ bản sau:

- Nhà nước phải tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sử dụng các hình thức và

phương pháp để giữ vững sự ổn định chính trị, kiên quyết chống lại những ý đồ, hành

vi nhằm gây mất ổn định an ninh - chính trị của đất nước.

- Bảo vệ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Không ngừng mở rộng việc ghi nhận các quyền con người thành các quyền công dân; xác lập cơ chế pháp lý hữu hiệu nhằm bảo đảm cho các quyền tự do, dân chủ của công dân được

thực hiện trên thực tế; phát hiện nhanh chóng,  xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi

xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân.

- Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, thiết lập trật tự pháp luật. Để thực hiện điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước

phải tích cực chủ động trong hoạt động của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động xây

dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, kết hợp sức mạnh của

nhà nước với sức mạnh của xã hội để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật đặc

biệt là tội phạm.

3.   Các chức năng đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa

a.   Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Đây  là  một  trong  những  chức  năng  cơ

bản  của  nhà nước  xã hội  chủ

nghĩa

nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia, bảo đảm sự ổn định cho quốc gia.

Để thực hiện chức năng này các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều tập trung xây dựng

một quân đội chính quy hiện đại có đủ khả năng đối phó với các mưu đồ can thiệp

bằng vũ trang từ bên ngoài vào các nhà nước.

Nhà nước Việt Nam, để thực hiện tốt chức năng bảo vệ tổ quốc, bên cạnh

việc xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, có khả năng chiến đấu cao còn

xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, thực hiện chính sách giáo dục quốc phòng và

an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện chính sách hậu

phương - quân đội.

b.   Chức  năng  củng  cố,  mở

rộng  quan  hệ

hu  nghị

và  hợp  tác  với  các

nưc theo ngun tc nh đng cùng có li, không can thiệp vào công

vic ni bộ của nhau.

Mục đích của chức năng này nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo

điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ

quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào việc thiết lập một thế giới dân chủ và

tiến bộ.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp hiện nay, với sự phát

triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới,

hoạt động đối ngoại của nhà nước ngày càng trở nên đa dạng về hình thức, phong phú

về nội dung. Hiện nay nhà nước ta thực hiện chính sách mở cửa, quan hệ với tất cả các   nước, mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế, chính   trị, văn hoá, khoa học và kỹ thuật theo các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.

Hiện nay Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế. Trên các diễn đàn

quốc tế và khu vực Nhà nước ta luôn tỏ rõ thiện chí và nỗ lực nhằm góp phần xây

dựng một thế giới ổn định, hòa bình, phát triển. Do vậy, vị trí và ảnh hưởng của Việt

Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: