ly luan 10
CHƯƠNG XVIII
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
I. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định những khả
năng xử sự của mọi cá nhân, tổ chức. Khả năng đó chỉ trở thành hiện thực trong đời
sống khi các chủ thể pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của quản lý
nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào
cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Chính vì
vậy, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Nhà nước sử dụng pháp luật như là phương tiện để thực hiện sự quản lý
đối với xã hôị, và đây là nguyên tắc hiến định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật” (Điều 12 Hiến pháp năm 1992).
Qua các luận điểm trên cho thấy, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Nói cách khác, việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật, đó là bằng hành
vi cụ thể của mình, các chủ thể pháp luật khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, đã
bằng các hành vi của mình thực hiện các quy phạm pháp luật phù hợp với các quy định
đã được đưa ra.
Các quy phạm pháp luật hết sức phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng
cũng rất phong phú. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học
pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật
Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế
không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi
hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật
dưới dạng không hành động, ví dụ như không tiến hành những hành vi trôm cắp tài
sản, cướp của, giết người...chính là đã tuân thủ pháp luật.
- Thi hành pháp luật
Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Khác với tuân thủ pháp luật, trong hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi chủ thể
phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới dạng hành động tích cực, chẳng hạn như cá
nhân thực hiện nghĩa vụ quân sự, ghi tên vào danh sách nhập ngũ, hoặc người kinhn
doanh thực hiện nghĩa vụ thuế... chính là đã thi hành pháp luật.
- Sử dụng pháp luật
Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện
quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực
hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ
không bị bắt buộc phải thực hiện, chẳng hạn như công dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo...
- Áp dụng pháp luật
Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp
luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những
quan hệ pháp luật cụ thể.
Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là những hình
thức thực hiện pháp luật mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức luôn luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan nhà nước
hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một hình thức rất quan
trọng của thực hiện pháp luật liên quan đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
vì thế cần thiết phải đi sâu nghiên cứu.
II. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Áp dụng pháp luật là một hoạt động có tổ chức mang tính quyền lực nhà nước
của các cơ quan, người có thẩm quyền, nhằm thực hiện trong thực tế các quy phạm
pháp luật trong mọi tình huống cụ thể của cuộc sống.
Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
a. Khi những quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ cụ thể không
mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
b. Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.
c. Khi cần áp dụng các biện pháp chế tài được nhà nước quy định trong các quy
phạm pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
d. Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc nhà nước xác
nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc, sự kiện thực tế.
Ap dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức nhà nước tổ chức cho
các chủ thể thực hiện pháp luật.
Ap dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước, cụ thể,
hoạt động này chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền
tiến hành. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ
yếu theo ý chí đơn
phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không bị phụ thuộc vào ý chí của chủ
thể bị áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực
hiện đối với những cá nhân, tổ chức có liên quan.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo thủ tục do pháp
luật quy định chặt chẽ. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các bên có liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ
tục.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các
quan hệ xã hội. Đối tượng của áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội cần đến sự
điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật.
Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt
hoá, cụ thể hoá đối với những trường hợp cụ thể.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp
luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách phải nghiên cứu kỹ lưỡng
vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản
áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Từ sự phân tích trên cho thấy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ
chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông quan những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, nhà chức trách, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao
quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối
với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Hình thức thể hiện chính thức của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp
dụng pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật có một số đặc điểm sau:
1.Văn bản áp dụng pháp luật do những cơ quan (nhà chức trách, tổ chức) có
thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
2.Văn bản áp dụng pháp luật có tính chất cá biệt, chỉ áp dụng một lần đối với
các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trường hợp xác định.
3.Văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Nó phải
phù hợp với luật và dựa trên những quy phạm pháp luật cụ thể. Nếu không phù hợp
với các căn cứ pháp lý được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật thì văn
bản áp dụng pháp luật sẽ bị đình chỉ hoặc huỷ bỏ.
4. Văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những hình thức pháp lý xác
định như: bản án, quyết định, lệnh...
5. Văn bản áp dụng pháp luật là một yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp,
thiếu nó, nhiều quy phạm pháp luật không thể thực hiện được.
Như vậy, văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính
quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức
xã hội được trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm xác
định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định
những biện pháp chế tài đối với chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
III. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
Để áp dụng pháp luật chính xác, đạt hiệu quả cao cần phải tiến hành những
bước sau:
1. Phân tích, đánh giá đúng, chính xác những tình tiết, hoàn cảnh, điều
kiện của vụ việc thực tế đã xảy ra.
Để giải quyết đúng đắn sự việc cụ thể có tính chất pháp lý, nhất thiết phải
hiểu đúng bản chất của sự việc và cần tìm hiểu tất cả các tình huống, chứng cứ của
sự việc đúng như thực tế của nó.
Khi cần điều tra xem xét cần bảo đảm tính khách quan, công bằng đối với các
tổ chức và cá nhân liên quan đến vụ việc.
Việc xem xét các tình tiết thực tế của vụ việc cũng đòi hỏi phải nghiên cứu
xác định vụ việc đó thực sự có ý nghiã pháp lý hay không? Không thể áp dụng pháp
luật đối với những vụ việc không có đặc trưng pháp lý. Do đó, giai đoạn này yêu cầu:
- Nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết của vụ việc.
- Xác đinh đặc trưng pháp lý của vụ việc.
- Tuân thủ tất cả các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
Sau khi xem xét tất cả những tình tiết của vụ việc, nếu xác địng vụ việc có
đặc trưng pháp lý cần áp dụng pháp luật thì chuyển sang giai đoạn thứ hai.
2. Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm sáng tỏ nội
dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng.
Trước tiên, phải xác định ngành luật nào điều chỉnh vụ việc này, sau đến lựa
chọn quy phạm pháp luật cụ thể thích ứng với vụ việc. Tiếp theo, phải làm sáng tỏ
nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Điều này có mục đích
bảo đảm áp dụng đúng đắn pháp luật.
Tóm lại, giai đoạn thứ hai của quá trình áp dụng pháp luật yêu cầu: a, lựa chon
đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; b, xác định quy phạm pháp
luật đang có hiệu lực và không mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác; c,
nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật.
3. Ra văn bản áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật. Ở giai đoạn này,
những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những biện
pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm được ấn định.
Khi ra văn bản áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người
có thẩm quyền không thể xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc quan hệ riêng tư. Văn
bản áp dụng pháp luật phù hợp với lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân được thể
hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có
cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng mẫu đã quy định. Nội dung của văn bản phải
rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể và chỉ được thực hiện
một lần.
4. Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. Giai đoạn này gồm
những hoạt động tổ chức nhằm đảm bảo về mặt vật chất, kỹ thuật cho việc thực
hiện đúng văn bản áp dụng pháp luật hiện hành. Ví dụ: Tổ chức thi hành bản án đã
tuyên, dẫn người bị kết án tới trại cải tạo...Đồng thời cũng cần tiến hành các hoạt
động kiểm tra, giám sát việc thi hành quyết định áp dụng pháp luật. Đó là một trong
những bảo đảm quan trọng để quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời
sống.
IV. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TƯƠNG TỰ
Trong thực tế, nhiều trường hợp xảy ra không tìm ra được các quy phạm pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Mặc dù nhu cầu của đời sống xã hội đòi hỏi
các cơ quan nhà nước phải giải quyết các vấn đề đó ngay lập tức để bảo đảm lợi ích
của người lao động, của các tổ chức, của nhà nước. Giải pháp cho những tình huống
nêu trên là áp dụng pháp luật tương tự.
Áp dụng pháp luật tương tự có 2 loại: tương tự quy phạm pháp luật và tương
tự pháp luật.
- Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là giải quyết một vụ việc thực tế cụ
thể nào đó chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh, vì thế người áp dụng
pháp luật đã dựa trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh một trường hợp khác có
nội dung gần giống như vậy để giải quyết vụ việc xảy ra.
- Áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết một vụ việc thực tế, cụ thể nào đó
chưa có pháp luật điều chỉnh, và việc giải quyết vụ việc xảy ra dựa trên cơ sở những
nguyên tắc chung và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Các điều kiện chung để áp dụng pháp luật tương tự bao gồm:
- Vụ việc được xem xét phải có liên quan và có ảnh hưởng lớn tới quyền, lợi
ích của Nhà nước, của xã hội hoặc của cá nhân đoi hỏi nhà nước phải xem xét, giải
quyết.
- Phải chứng minh một cách chắc chắn rằng vụ việc cần xem xét, giải quyết
đó đã không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh.
Ngoài điều kiện chung nói trên với mỗi loại áp dụng pháp luật tương tự lại có
những điều kiện riêng:
- Đối với áp dụng tương tự quy phạm pháp luật phải xác định được quy phạm
pháp luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy.
- Đối với áp dụng pháp luật tương tự pháp luật cần phải xác định là không có
quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc tương tự với vụ việc giải quyết. Chỉ ra được
nguyên tắc pháp luật hay quan điểm pháp lý nào đó được áp dụng để
trường hợp cụ thể đó.
giải quyết
V. GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm và hình thức giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của
các quy phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, thống
nhất pháp luật.
Giải thích pháp luật nhằm giúp việc thực hiện pháp luật được đầy đủ, chính
xác, góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Chính vì vậy, giải thích pháp
luật được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng pháp luật, quá trình thực
hiện và áp dụng pháp luật. Giải thích pháp luật là hoạt động có tác động tích cực đối
với việc tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.
Phụ thuộc vào chủ thể tiến hành giải thích và đặc trưng của sự giải thích, có
thể chia giải thích pháp luật ra làm 2 loại (hình thức): Giải thích chính thức và giải
thích không chính thức.
Giải thích không chính thức:
là sự
giải thích tư
tưởng, nội dung của quy
phạm pháp luật nhưng không mang tính chất bắt buộc phải xử sự theo cách giải thích
đó. Loại giải thích này có thể được tiến hành bởi mọi cá nhân, tổ chức bất kỳ. Nội
dung lời giải thích không chính thức không có ý nghĩa về mặt pháp lý, chỉ có tính chất
giúp mọi người hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật.
Giải thích chính thức: là giải thích do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành và được ghi nhận trong các văn bản chính thức. Giải thích chính thức có tính
đặc trưng, thể hiện ở chỗ: a, nó được tiến hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b, là sự giải thích có hiệu lực bắt buộc; c, nó được ghi nhận trong văn bản giải thích
pháp luật.
Giải thích chính thức gồm: giải thích mang tính quy phạm và giải thích cho
những vụ việc cụ thể.
Giải thích chính thức mang tính quy phạm: là sự giải thích có tính bắt buộc
chung, hình thành từ kết quả của sự khái quát hoá thực tế thực hiện và áp dụng pháp
luật, từ đó xác định sự thực hiện, áp dụng thống nhất pháp luật.
Giải thích chính thức cụ thể: có hiệu lực đối với một vụ việc pháp lý cụ thể.
Còn đối với vụ việc pháp lý khác nó không có giá trị.
Ở nước ta Ủy ban thường vụ quốc hội có quyền giải thích chính thức luật,
pháp lệnh. Còn đối với văn bản pháp luật khác, về nguyên tắc, cơ quan nào có thẩm
quyền ban hành thì có quyền chính thức giải thích văn bản đó.
2. Các phương pháp giải thích pháp luật
Để làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật, khoa học pháp lý
đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau:
Phương pháp lô gíc: là phương pháp sử dụng những suy đoán lô gíc để làm
sáng tỏ nội dung quy phạm pháp luật, được sử dụng trong trường hợp lời văn của quy
phạm không trực tiếp nói đến các yêu cầu của nhà nước.
Phương pháp giải thích văn phạm: là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của quy
phạm pháp luật bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu và xác định mối liên hệ
ngữ pháp giữa chúng.
Phương pháp này được chia ra:
- Phương pháp giải thích từ ngữ. Ý nghĩa của văn bản được giải thích theo ý
nghĩa của từng từ riêng biệt.
- Phương pháp giải thích cú pháp. Bằng cách thông qua việc đặt dấu chấm,
dấu phẩy... mối liên hệ giữa các từ trong câu được phân tích, tính toán kỹ lưỡng.
Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử: là phương pháp tìm hiểu nội dung,
tư tưởng quy phạm pháp luật thông qua việc nghiên cứu các điều kiện chính trị, lịch
sử đã dẫn đến việc ban hành văn bản có chứa quy phạm đó.
Phương pháp giải thích hệ thống: là làm rõ nội dung, tư tưởng quy phạm
pháp luật thông qua đối chiếu nó với các quy phạm khác; xác định vị trí quy phạm đó
trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Về mặt nguyên tắc, pháp luật phải được giải thích đúng nguyên văn. Theo cách
này, nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu theo đúng từng câu, từng chữ
của nó. Đây là cách giải thích phổ biến nhất trong thực tế.
Tuy nhiên, có những trường hợp cần giải thích theo cách phát triển mở rộng,
hoặc giải thích hạn chế.
Giải thích theo cách phát triển mở rộng là giải thích nội dung văn bản quy
phạm pháp luật rộng hơn so với nghĩa của từ ngữ trong văn bản sao cho đúng với
nghĩa thực mà nhà làm luật muốn thể hiện trong quy phạm.
Giải thích hạn chế là cách giải thích nội dung văn bản pháp luật hẹp hơn so
với nghĩa của từ ngữ trong văn bản sao cho đúng với nghĩa thực mà nhà làm luật muốn
thể hiện trong quy phạm.
Trong thực tế, tất cả các hình thức phương pháp giải thích pháp luật đã nêu ở
trên không phải áp dụng tách biệt mà phối hợp với nhau. Trong nhiều trường hợp,
chúng ta cần phải tiến hành đồng thời các phương pháp để loại trừ cách nhận thức
không đúng pháp luật.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top