Lý Bạch (701 - 762)
Ô dạ đề
Hoàng vân thành biên ô dục thê
Qui phi á á chi thượng đề
Cơ trung chức cẩm Tần Xuyên nữ
Bích sa như yên cách song ngữ
Đình thoa trướng nhiên tư viễn nhân
Độc túc cô phòng lệ như vũ.
Quạ kêu đêm (Người dịch: Tản Đà)
Mây vàng chiếc quạ bên thành
Nó bay tìm ngủ trên cành nó kêu
Tần Xuyên cô gái buồng thêu
Song sa khói toả như khêu chuyện ngoài
Dừng thoi buồn bã nhớ ai
Phòng không gối chiếc giọt dài tuôn rơi.
Cổ Phong 古風
Cô lan sinh u viên,
Chúng thảo cộng vu một.
Tuy chiếu dương xuân huy,
Phục bi cao thu nguyệt.
Phi sương tảo tích lịch,
Lục diễm khủng hưu tiết.
Nhược vô thanh phong xuy,
Hương khí vị thuỳ phát?
Thơ Cổ Phong
(diệp luyến hoa dịch)
Trong vườn lan lẻ bóng,
Cỏ hoang chẳng một cây.
Tuy ánh xuân đang chiếu,
Ngại lúc trăng thu gầy.
Sương sớm giọt thánh thót,
E sắc biếc phôi phai.
Nếu gió xuân không thổi,
Hương khí bạn cùng ai?
Đoản ca hành
Bạch nhật hà đoản đoản,
Bách niên khổ dị mãn.
Thương khung hạo mang mang,
Vạn kiếp thái cực trường.
Ma cô thuỳ lưỡng mấn,
Nhất bán dĩ thành sương.
Thiên công kiến Ngọc Nữ,
Đại tiếu ức thiên trường.
Ngô dục lãm lục long,
Hồi xa quải phù tang.
Bắc Đẩu chước mỹ tửu,
Khuyến long các nhất trường.
Phú quý phi sở nguyện,
Dữ nhân trú nhan quang.
Khúc ca ngắn (Người dịch: Ngô Văn Phú)
Ngày sao cứ ngắn lại
Trăm năm khổ ứ đầy
Trời mênh mang thăm thẳm
Muôn kiếp thái cực dài
Ma cô xoã mái tóc
Một nửa thành sương mai
Thợ trời gặp Ngọc Nữ
Cười lớn muôn nghìn nơi
Sáu rồng ta muốn ngó
Quay xe, treo cây trời
Bắc Đẩu, chuốc rượu quý
Trước rồng, chén lớn mời
Giàu sang ta chẳng ước
Náu dưới gương mặt người
Anh Vũ châu
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh ?
Bãi Anh Vũ (Người dịch: Lê Nguyễn Lưu)
Sóng Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!
Trường tương tư kỳ 1
Trường tương tư,
Tại Tràng An.
Lạc vi thu đề kim tỉnh lan,
Vi sương thê thê đàm sắc hàn.
Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt,
Quyển duy vọng nguyệt không trường thán.
Mỹ nhân như hoa cách vân đoan,
Thượng hữu thanh mạc chi trường thiên,
Hạ hữu lục thuỷ chi ba lan.
Thiên trường địa viễn hồn phi khổ,
Mộng hồn bất đáo quan san nan.
Trường tương tư,
Tồi tâm can.
Trường tương tư kỳ 1 (Người dịch: Ngô Văn Phú)
Nhớ nhau hoài
Ở Tràng An
Sẹt sành kêu thu ran giếng vàng
Sương mỏng buốt giá chiếu hoa lạnh
Đèn lẻ hắt hiu lòng trống vắng
Cuốn rèm nhìn trăng, buột thở than
Người đẹp hiện lên sau mây ngàn
Trên có tầng xanh, trời mênh mang
Dưới có nước biếc, sóng hồ lan
Trời cao đất rộng hồn bay nhọc
Mộng hồn khôn đến được quan san
Nhớ nhau hoài
Nẫu ruột gan
- Ẩn dịch nghĩa
Nhớ nhau hoài,
Ở Trường An.
Sẹt sành kêu thu bên giếng vàng,
Sương mỏng lạnh lẽo sắc chiếu lạnh.
Đèn lẻ loi không sáng nỗi nhớ càng nung nấu,
Cuốn rèm ngắm trăng ngửa mặt lên trời than dài.
Người đẹp như hoa hiện lên sau sắc mây,
Trên có giải xanh trời cao thăm thẳm,
Dước có nước xanh sóng nhẹ đưa.
Trời cao đất rộng hồn thêm khổ,
Mộng hồn bay đến nơi quan san kia cũng khó.
Nhớ nhau hoài,
Đứt ruột gan.
Trường tương tư kỳ 2
Nhật sắc dục tận hoa hàm yên,
Nguyệt minh như tố sầu bất miên.
Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ,
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền.
Thử khúc hữu ý vô nhân truyền,
Nguyện tuỳ xân phong ký Yên Nhiên.
Ức quân thiều thiều cách thanh thiên,
Tích thì hoành ba mục,
Kim tác lưu lệ tuyền.
Bất tín thiếp trường đoạn,
Qui lai khán thủ minh kính tiền.
Trường tương tư kỳ 2 (Người dịch: Lê Nguyễn Lưu)
Mặt trời sắp tắt khói lồng hoa
Buồn thương thao thức ngắm trăng ngà
Triệu sắt vừa nghe cung phượng dứt
Thục cầm đã trỗi phím uyên hoà
Khúc này có ý chẳng ai ca !
Yên Nhiên xin gởi gió xuân ra
Nhớ chàng dằng dặc cách trời xa
Mắt xưa làn sóng gợn
Nay thành suối lệ sa
Không tin lòng thiếp khổ
Xin chàng về ngắm tấm gương nhà!
-dịch nghĩa
Mặt trời sắp tắt, hoa ngậm khói sương,
Trắng sáng như lụa, nỗi sầu không sao ngủ được.
Đàn sắt Triệu vừa ngừng dây phụng hoàng,
Đàn cầm Thục đã dục tấu khúc uyên ương.
Khúc này có ý nghĩa sao không có ai lưu truyền ?,
Mong theo ngọn gió xuân gửi đến Yên Nhiên.
Nhớ chàng nơi xa cách trời xanh,
Xưa thì mắt đưa ngang làn sóng,
Nay thành suối lệ tuôn rơi.
Không tin thiếp buồn đứt ruột,
Xin [chàng] hãy về mà ngắm trong tấm gương sáng.
Xuân Dạ Yến Ðào Lý Viên Tự
Vòng trời đất chẳng qua quán trọ
Còn thời gian, khách của trăm đời
Phù sinh giấc mộng hỡi ơi !
Ði tìm hoan lạc hỏi người bao lâu ?
Nghĩ người trước chơi đêm cầm đuốc
Ta ngày nay hiểu được nguyên nhân !
Huống chi gặp tiết đương Xuân
Lại thêm cảnh khói ân cần gọi ta,
Trời đất cấp tài hoa làm lãi
Lấy văn chương mà đãi đằng mình
Vườn thơm đào lý yến canh
Tiệc vui chẳng mở sao đành Trích Tiên !
Quây quần như Huệ - Liên họ Tạ
Vẻ khôi ngô thiên hạ ai bằng ?
Vịnh ca tiếng đã gọi rằng
Họa là có thẹn với Khang lạc hầu !
Thú u nhã biết đâu cùng tận ?
Lời cao đàm chuyển hẳn thành thanh
Tiệc hoa ngồi lẫn trong cành
Với trăng, tay cất chén quỳnh say sưa
Không giai tác đẩy đưa nhã thú
Giải làm sao nỗi nhớ niềm mong ?
Bằng thơ nếu viết chẳng xong
Rượu vườn, Kim cốc thạch Sùng, uống đi !
Trường Can hành kỳ 1
Thiếp phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Bài hát Trường Can kỳ 1
(Người dịch: (Không rõ))
Trán thiếp tóc che nửa
Hái hoa chơi trước cửa
Chàng cưỡi ngựa tre lên
Đùa mai ở giường bên
Trường Can chung một xóm
Đôi trẻ rất hồn nhiên
Mười bốn về làm vợ
Thẹn e dấu mặt liền
Cúi đầu vào vách tối
Nghìn gọi chẳng nhìn lên
Mười lăm mày mới nở
Nguyện gắn bó lâu bền
Tin chàng thường giữ cột
Vọng Phu thiếp chẳng nguyền
Mười sáu chàng đi mãi
Cù Diễm cách đôi miền
Tháng năm không tới được
Trời cao tiếng vượn truyền
Dấu chân ngoài ngõ cũ
Rêu biệc phủ mờ nguyên
Rêu dày không thể quét
Gió thu lá rụng hết
Tháng tám bướm vàng bay
Vườn tây từng cặp kết
Cám cảnh thiếp đau lòng
Má hồng già thảm thiết
Chàng hễ xuống Tam Ba
Xin nhắn ngay về nhà
Dù xa, em sẽ đón
Thẳng đến Trường Phong Sa
Bản dịch của Trần Trọng San
Khi tóc vừa buông trán
Hái hoa trước cổng chơi
Chàng cưỡi ngựa tre đến
Quanh giường tung trái mai
Trường Can cùng chung xóm
Cả hai đều thơ ngây
Mười bốn, về làm vợ
Thiếp còn e lệ hoài
Cúi đầu vào vách tối,
Gọi mãi, chẳng buồn quay
Mười lăm, mới hết thẹn
Thề cát bụi không rời
Bền vững lòng son sắt
Há lên Vọng phu đài
Mười sáu, chàng đi xa
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Tháng năm không đến được
Vượn buồn kêu trên trời
Trước cổng vết chân cũ
Rêu xanh mọc um đầy
Rêu nhiều không quét hết
Gió thổi, lá vàng rơi
Tháng tám bươm bướm vàng
Trên cỏ vườn bay đôi
Cảnh ấy đau lòng thiếp
Má hồn buồn phôi pha
Khi chàng xuống Tam Ba
Nhớ gởi thư về nhà
Thiếp sẽ mau đi đón
Đến thẳng Trường Phong Sa.
Bản dịch của Trúc Khê
Tóc em mới kín trán,
Trước cửa bẻ hoa đùa.
Chàng cưỡi ngựa trúc lại,
Quanh ghế tung mơ chua.
Cùng ở xóm Trường Can,
Đôi trẻ vui tha hồ,
Mười bốn làm vợ chàng,
Thơ ngây em hổ thẹn
Bên vách cúi gầm đầu,
Mặc cho chàng gọi đến.
Mười lăm mới bạo dạn,
Quấn nhau không muốn rời.
Ôm cột nguyền giữ ước,
Vọng Phu chẳng lên đài.
Mười sáu chàng đi xa
Tháp Cổ, hòn Diễm Dự,
Nước lớn đương tháng năm...
Vượn kêu buồn lắm nữa.
Vết giày in trước cửa,
Xanh xanh rêu mọc đầy.
Rêu nhiều không thể quét,
Lá rụng gió thu lay.
Tháng tám bươm bướm vàng,
Bay đôi trên áng cỏ
Xúc cảm em đau lòng,
Héo già thương má đỏ.
Chàng sớm rời Tam Ba
Báo trước thư về nhà,
Đón chàng em há quản
Đến tận Trường Phong Sa.
Trường Can hành kỳ 2
Ức thiếp thâm khuê lý
Yên trần bất tằng thức
Giá dữ Trường Can nhân
Sa đầu hậu phong sắc
Ngũ nguyệt nam phong hưng
Tư quân há Ba Lăng
Bát nguyệt tây phong khởi
Tưởng quân phát Dương Tử
Khứ lai bi như hà ?
Kiến thiểu biệt ly đa!
Tương Đàm kỷ nhật đáo ?
Thiếp mộng việt phong ba
Tạc dạ cuồng phong độ
Xuy chiết giang đầu thụ
Diễu diễu ám vô biên
Hành quân tại hà xứ ?
Bắc khách chân vương công,
Chu y mãn giang trung.
Nhật mộ lai đầu túc,
Sổ triêu bất khẳng đông.
Hảo thừa phù vân thông
Giai kỳ Lan chử đông
Uyên ương lục bồ thượng
Phí thuý cẩm bình trung
Tự liên thập ngũ dư
Nhan sắc đào lý hồng
Na tác thương nhân phụ
Sầu thuỷ phục sầu phong!
Bài hát Trường Can kỳ 2
(Người dịch: (Không rõ))
Phòng the xưa nhớ rõ
Khói bụi chưa từng ngõ
Làm vợ khách Trường Can
Cứ ra bờ ngóng gió
Tháng năm gió nam giăng
Chàng chắc xuống Ba Lăng
Tháng tám, gió tây trở
Chàng hẳn rời Dương Tử
Đi lại buồn bao nhiêu ?
Gặp ít, cách xa nhiều
Tương Đàm mấy buổi tới ?
Em mơ vượt sóng liều
Đêm qua cơn bão đến
Thổi ngã cây ngoài bến
Mênh mông nước mịt mờ
Người đi, đâu chốn hẹn ?
Em mơ cõi ngựa mây
Hẹn gặp bến Lan ngay
Bồ thắm uyên ương đậu
Màn nhung phỉ thuý bay
Thương đã mười năm lẻ
Đào lý sắc hây hây
Làm vợ người buôn bán
Gió nước những buồn lây
Bản dịch của hahuyen
hahuyen
Nhớ xưa thiếp ở khuê phòng
Khói lam chưa bén bụi hồng chửa cam
Từ theo người đất Trường Can
Thường lên đầu núi ngóm xem gió mùa
Tháng năm mùa nổi gió nam
Nghĩ chàng xuống huyện Ba Lăng đâu rồi
Tháng tám mùa nổi gió tây
Đến sông Dương Tử bao ngày chàng qua
Đến nay đau khổ thế nào?
Gần nhau thời ít xa nhau thời nhiều
Tương Đàm ngày đến bao nhiêu
Mà trong mộng thiếp gặp nhiều phong ba
Cuồn phong thổi trận đêm qua
Bẻ cây xơ xã thổi bừa đầu sông
Chàng bên gió tối mịt mùng
Bước chân không biết đâu vùng đâu nơi!
Thiếp mong cưỡi ngựa mây trôi
Hẹn nhau tìm gặp chân trời bãi Lan
Như uyên ương cỏ Bồ xanh
Và đôi phỉ thúy đậu cành bình phong
Cảm thương thiếp tuổi trăng tròn
Hồng nhan như đóa đào hồng mởn mơ
Mà nay là vợ thương cơ
Hết sầu vì nước lại sầu gió qua.
Tương tiến tửu
Quân bất kiến Hoàng hà chi thuỷ
thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến cao đường minh kính bi
bạch phát,
Triêu như thanh ti mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử,
Đan Khâu sinh.
Tương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
"Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tinh!
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần Vương tích thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước".
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
Dịch nghĩa:
Anh có thấy nước sông Hoàng Hà từ
trời cao tuôn xuống
Cuồn cuộn đổ ra biển khơi mà không
hề trở lại?
Anh có thấy cha mẹ xưa trông gương
thấy đầu bạc mà buồn đau đó sao?
Sáng như tơ xanh chiều đã thành tuyết bạc.
Đời người có dịp nên tận hưởng niềm vui,
Chớ nên để chén vàng suông bóng nguyệt
Trời cho ta tài tất nhiên không phải để bỏ đi,
Nghìn vàng tiêu hết rồi lại có
Mổ dê giết trâu để rồi cùng vui say,
Mỗi lần uống đủ 300 chén rượu,
Này Bác Sầm và Bác Đan Khâu!
Sắp mời rượu, chớ nên ngừng chén.
Ta vì các người mà hát một bài
Xin hãy vì ta mà lắng tai nghe.
Nhạc hầu và món ngon là thứ chi chi
Sao bằng say hoài không mong tỉnh.
Xưa nay thánh hiền đều im bặt
Chỉ có kẻ say là tiếng để muôn đời.
Trần Vương xưa mở tiệc tại cung Bình Lạc
cũng vậy,
Rượu ngon đáng nghìn đồng một đấu mà
vẫn tươi cười thoải mái,
Ai bảo ta ít tiền?
Hãy mau mua rượu về để ta cùng nhau uống cạn
Ngựa năm sắc, áo nghìn vàng
Này con ơi hãy mang đổi lấy rượu ngon
Để ta cùng các bạn diệt tan nỗi sầu.
Bản dịch của Tchya (Đái Đức Tuấn)
Há chẳng thấy trên trời sa xuống
Nước Hoàng Hà cuồn cuộn tung xuôi
Một đi đi mãi ra khơi
Có bao giờ lại phản hồi nữa đâu
Lại chẳng thấy trên lầu gương tỏ
Mái tóc càng soi rõ mầu sương
Sáng như tơ chửa nhuộm vàng
Chiều đà như tuyết nghĩ thương thân già
Cho nên gặp lúc ta đắc ý
Phải chơi cho phỉ chí con người
Chén vàng chớ để cho vơi
Đáy không nhìn bóng trăng soi bẽ bang
Sinh ta có tài năng chí khí
Ắt trời không bỏ phí không dùng
Ngàn vàng không cũng là không
Tiêu đi lại có mất xong lại về
Thì hãy mổ trâu dê mà khoái
Tụ cho đông uống mãi cho say
Rót ba trăm chén rượu đầy
Một lần tu cạn một hơi mới đành
Nào Sầm tử Đan sinh đâu tá
Chớ ngừng tay rót nữa đừng thôi
Vì mình ta hát khúc chơi
Vì ta mình hãy lắng lời mà nghe
Dẫu soạn ngọc chẳng gì đáng quý
Chỉ cầu cho túy lý mà thôi
Thánh hiền chết cũng lập vùi
Còn tên để lại họa người say sưa
Yên Bình lạc ngày xưa vui thú
Trần Vương mời rượu hũ thập niên
Chủ nhân hãy uống chớ phiền
Cớ sao than nỗi không tiền với ta
Này đây ngựa năm hoa một cỗ
Này ngàn vàng cả bộ áo lông
Trẻ đâu: Đổi lấy rượu nồng
Cùng người cùng giải sầu đong vạn đời
Bản dịch của Hữu Loan
Thấy chăng ai Hoàng Hà như thác dốc tự
trời cao
Cuồn cuộn về khơi tráo ngược lại làm sao?
Thấy chăng nữa cao gương sáng thương
cho tóc
Sáng mới tơ xanh chiều đà như tuyết!
Người đời ơi! Đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo nậm vàng khuya trăng ngó!
Trời sinh ta "tài không để bỏ"
Nghìn vàng vung tay trắng xoè lại có!
Nướng dê, mổ trâu nhắm tuyệt vời!
Nâng chén mời nhau ba trăm chén một hơi
Này Sầm phu tử!
Người Đan Khâu ơi!
Đã uống thì luôn tay chén chớ rời
Cùng người ta hát khúc...
Nghiêng tai này bác lắng nghe tôi:
Thức ngọc mâm vàng, trống chiêng sao đủ quý?
Ai tỉnh thì ai say suốt đời thề tuý luý!
Thánh hiền xưa nay các cái thảy im lìm
Duy đấng làng say danh lừng để
Trần vương ban yến xưa Bình Lạc
Rượu đấu mười ngàn
Khách mê say khướt
Nghe như chủ nhân thì thào thiếu tiền?
- Uống cấm lại vò!
- Dốc nốt ta cùng!
- Mời tôi!
- Mời bác!
- Cởi hồ cừu, ngàn vàng!
- Đóng ngựa hoa năm sắc!
Hò trẻ em luôn rượu trứ danh sang tất
- Cùng uống say tan
"Muôn kiếp - sầu - đời"!
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Bác chẳng thấy
Sông Hoàng từ trời nước đổ xuôi
Một mạch xuống biển không hề lui?
Lại chẳng thấy
Gương sáng lầu cao buồn tóc bạc
Sớm mới xanh tơ, chiều đã tuyết?
Người sinh đắc ý vui tràn đi
Chớ để chén vàng trơ với nguyệt.
Trời đã sinh ta là có dụng
Ngàn vàng phóng sạch rồi trở lui.
Ninh dê, mổ trâu, rứa mới hả.
Chén nhập ba trăm làm một hơi.
Bác Sầm hỡi! Bác Đan ơi!
Chớ ngưng chén rượu đây mời.
Cùng bác ta ca hát
Vì ta bác hãy lắng nghe chơi
Chuông trống cổ bàn chưa đủ qúy
Hay chi hòng tỉnh, ước say dài!
Xưa nay thánh hiền đều bặt tiếng
Chỉ có bọn rượu danh lừng thôi!
Trần Vương thuở xưa tiệc Bình Lạc
Đấu rượu mười ngàn vui thỏa thích
Chủ nhân cớ sao kêu thiếu tiền,
Dốc túi cùng ta chén thù tạc.
Ngựa năm bớt
Áo ngàn vàng
Trẻ đâu! Cho đổi rượu ngon tất,
Ta cạn muôn đời sầu thế gian!
Khương Hữu Dụng, 1996. Thơ Đường,
Nhà Xuất bản Đà Nẵng, trang 42-44
Sắp mời rượu (Người dịch: Hoàng Tạo, Tương Như)
Há chẳng thấy, nước sông Hoàng từ trời
tuôn xuống
Chảy nhanh ra biển, chẳng quay về,
Lại chẳng thấy, thềm cao gương soi rầu tóc
bạc
Sớm như tơ xanh, chiều tựa tuyết ?
Đời người đắc ý hãy vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!
Trời sinh thân ta, hẳn có dùng,
Nghìn vàng tiêu hết rồi lại đến.
Mổ dê, giết trâu, cứ vui đi,
Uống liền một mạch ba trăm chén!
Bác Sầm ơi,
Bác Đan ơi!
Sắp mời rượu,
Chớ có thôi!
Vì nhau tôi xin hát,
Hãy vì tôi hai bác nghe cùng:
"Này cỗ ngọc, nhạc rung, chẳng chuộng,
Muốn say hoài, chẳng muốn tỉnh chi !
Thánh hiền tên tuổi bặt đi,
Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời !
Xưa Trần Vương yến nơi Bình Lạc,
Rượu tiền muôn đùa cợt tha hồ"
Chủ nhân kêu thiếu tiền ru ?
Để cùng dốc chén, ta mua đi nào !
Đây ngựa gấm,
Đây áo cừu,
Này con, đổi rượu hết,
Cùng nhau ta giết cái sầu nghìn thu
Bản dịch của Ngô Văn Phú
Thấy chăng anh
Nước Hoàng Hà từ trời tuôn xuống
Chảy băng ra biển chẳng quay về.
Lại chẳng thấy
Lầu cao gương sáng thương đầu bạc
Sớm tựa tơ xanh, chiều đã tuyết
Đời khi đắc ý hãy nên vui
Chớ để chén vàng trơ trước nguyệt.
Trời sinh ta tài ắt phải chọn
Nghìn vàng tiêu hết rồi có thôi
Mổ dê, giết trâu lại vui nữa
Đủ ba trăm chén một lần mời.
Sầm Phu Tử
Đan Khâu Sinh
Nào kèo rượu, chén chớ dừng!
Cùng người ca một khúc
Xin người nghiêng tai hãy lắng nghe
Tiệc lớn chuông trống dạo chẳng qúy
Không được tỉnh đâu, phải say nhè
Thánh hiền từ xưa đà lạnh ngắt
Lưu danh thiên hạ kẻ ôm be
Trần Vương thuở trước yến Bình Lạc
Đấu rượu vạn tiền say một cuộc
Chủ nhân xin đừng nói thiếu tiền
Mai kiếm rượu về lại cùng chuốc
Áo cừu ngựa qúy của ta đâu
Hãy sai hầu trẻ đem đổi rượu
Cùng uống cho tan vạn cổ sầu.
Ngô Văn Phú, 2005. Thơ Lý Bạch trang 53-56
Bản dịch của Nguyễn phước Hậu
Anh chẳng thấy sao ?
Hoàng Hà sóng nước tự trời tuôn
Cuồn cuộn ra khơi ở lại luôn.
Sáng tóc tơ xanh, chiều tuyết bạc,
Mẹ Cha tóc trắng ngắm gương buồn!
Đời người còn dịp nên vui hưởng,
Chớ để chén vàng thẹn nguyệt suông.
Tài giỏi trời cho dùng đúng chỗ
Nghìn vàng tiêu hết có tiền muôn.
Mỗi lần uống đủ ba trăm chén,
Giết mổ dê trâu yến ẩm thường.
Này ông Sầm, bác Đan Khâu
Cùng mời uống rượu, dừng đâu chén mời.
Có anh ta hát một bài
Xin bạn vì ta hãy lắng tai,
Món quý nhạc hầu là thứ yếu
Không mong tỉnh rượu chỉ mong say.
Xưa nay hiền thánh đều im bặt
Chỉ có kẻ say để tiếng đời
Xưa tiệc Trần Vương cung Bích Lạc
Nghìn đồng một đấu uống vui cười..
Đố ai dám bảo nghèo tiền bạc,
Mua rượu về mau chuốc chén mời!
Ngựa năm sắc, áo vàng thoi
Con ơi đổi lấy một vò rượu ngon.
Bản dịch của Hoa Sơn
SẮP MỜI RƯỢU
Người có thấy Hoàng Hà nước đổ
Cuộn ra khơi nào trở về đâu?
Lầu soi gương tóc hôm nào
Buồn tơ xanh sớm, chiều sao trắng ngần.
Khi đắc ý vui tràn, đừng hẹn
Chớ để ly vàng thẹn bóng trăng?
Tài ta đâu lẽ nằm khan
Dù cho tiêu sạch ngàn vàng, có ngay.
Mổ trâu dê vui vầy chúng bạn
Uống ba trăm chén cạn cùng nhau
Bác Sầm ơi, Bác Đan Khâu
Hãy mau nâng chén, tránh câu khước từ.
Vì bạn hữu, ta chừ hát tặng
Hãy vì ta mà lắng tai nghe
Nhạc hầu món lạ ích chi?
Sao bằng say mãi thiết gì thế gian!
Danh hiền đức ai màng đến nhỉ?
Chỉ kẻ say tiếng để muôn đời
Trần Vương, Bình Lạc yến mời
Mười nghìn một đấu, ca vui đêm ngày.
Người đừng nghĩ tiền đây không đủ
Mang rượu ra trăm hũ cho mau
Áo cừu ngựa quí, con đâu?
Đem đi đổi rượu quên sầu nghìn thu!
Bản dịch của Võ Thị Xuân Đào
Chàng chẳng thấy Hoàng Hà nước đổ
Từ trời cao biển cả không về
Lầu cao gương tóc bạc phơ
Sáng xanh tơ biếc chiều mơ tuyết trời
Hãy vui sống trong cơn đắc ý
Chén Hòang Kim múc lấy trăng vàng
Trời cho tài giỏi ngang tàng
Ngàn vàng tiêu hết ngàn vàng lại sinh
Giết trâu ngựa cùng vui hãy tính
Uống ba trăm chén tỉnh say nầy
Kính Sầm Phu Tử Đan khâu
Tiệc bày sắp sẳn cùng nhau chớ dừng
Tay nâng chén bài ca tửu hứng
Chàng vì ta xin lắng nghe cùng
Sơn hào hải vị vì chưng
Nguyện say say mãi dẫu rằng ngữa nghiêng
Xưa tịch mịch thánh hiền nổi tiếng
Chỉ riêng ta tửu lượng ghi đời
Trần Vương Bình Lạc yến mời
Mười nghìn một đấu rượu cười thỏa thê
Đừng lo lắng gì ta kém thế
Uống chưa say ta sẽ mang về
Áo nghìn vàng với ngựa hoa
Bảo con đổi lấy cho ta rượu đào
Say cho tiêu vạn cổ sầu
* Vũ Thị Thiên Thư
Bản dịch của Trần Nhất Lang
BÀI CA MỜI RƯỢU
Người có thấy
Sông Hoàng Hà nước chảy từ trên trời
Tuôn ra biển và không trôi trở lại
Thấy chăng, tóc đài gương soi trắng mái
Sớm xanh tơ, chiều tối tựa tuyết sương.
Cứ vui đi, khi đắc ý chớ lo lường
Sao nỡ để chén vàng suông nguyệt giãi
Tài sẵn có ắt ông xanh hậu đãi
Ngàn vàng kia tiêu hết lại có ngay.
Hãy mổ trâu, dê cùng bạn hữu vui vầy
Lúc cao hứng hãy cạn ngay ba trăm cốc
Bác Sầm ơi, bác Đan xin nhập cuộc
Mời nâng ly, cùng nhau chuốc liền tay.
Vì bạn thân ta hát một khúc này
Xin các bạn lắng tai nghe cho kỹ
Đâu phải tiệc trống chuông, ngọc vàng là quý
Chỉ muốn say, say tuý luý mà thôi.
Từ ngàn xưa hiền thánh tên chẳng để đời
Duy kẻ say rượu mọi người còn nhắc
Nhớ Trần Vương mở tiệc xưa Bình Lạc
Mười ngàn chung cho mặc sức vui cười.
Này chủ nhân sao lại chê túi bạc ta vơi
Mua ngay rượu để vui chơi chúng bạn
Trẻ đâu, ngựa ngũ hoa, áo cừu ngàn lạng
Đổi rượu ngon say quên lãng kiếp sầu.
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn--
Người chẳng thấy
Nước Hoàng Hà từ trời cao tuôn chảy
Nhập biển Đông rồi đã chẳng quay về
Trên thềm cao soi gương tóc phai đi
Sáng óng mượt . . .
chiều . . . pha mầu sương tuyết
Hãy vui hưởng cuộc đời
Chớ để bình vàng không bóng nguyệt
Trời sinh ta để vui hưởng cuộc đời
Tiêu nghìn vàng trời cũng lại cho thôi
Trâu, dê giết, cứ vui …quên bờ bến
Hãy uống đi. . .một hơi vài trăm chén
Này Sầm, Đan hai lão bạn ta ơi
Uống cho mau, rượu ta lại sắp mời
Vì hai bác, ta ngân vang lời hát
Cùng nghe nhé:
Nào soạn ngọc, cổ chung tấu nhạc
Hãy say hoài ,tỉnh để mà chi
Thánh hiền kia tên tuổi cũng phai đi
Ta thánh rượu, muôn đời Ông-ngất-ngưởng
Nơi Bình Lạc, Trần Vương xưa yến hưởng
Rượu, tiền dư bừa phứa cứ vui chơi
À ... chủ nhân nghĩ ta cạn túi rồi
Đâu dễ vậy, ta mua thêm, uống nữa
Lấy ngựa gấm
lấy áo cừu đổi phứa
Uống cho say quên phứt thế nhân sầu
Lạc Thủy Ðỗ Quý bái dịch:
SỬA SOẠN DÂNG RƯỢU
Anh chưa thấy nước trời trút xuống
theo sông Hoàng cuồn cuộn ra khơi
Ầm ầm chớp dậy sóng nhồi
Băng băng chảy tới có lui khi nào !
Anh có thấy lầu cao gương ngắm
Mẹ cha buồn khi trắng mái đầu ?
Tóc Xanh buổi sớm bao lâu
Chiều tà tuyết bạc phếch màu thời gian
Khi đắc ý hân hoan hưởng thụ
Ðể vừng trăng đừng ngó chén không
Có tài tất có chỗ dùng
Ngàn vàng sạch túi lưu thông lại về
Mổ trâu béo , giết dê đãi tiệc
Ba trăm ly cạn hết mới thôi
Này ông Sầm ! Chú Khâu ơi !
Rượu dâng còn phải khuyên mời cạn sao !
Xin vì bạn cất cao tiếng hát !
Xin vì ta các bác lắng tai !
Món ngon chuông khánh gác ngoài
Nguyện cùng say khướt ,Tỉnh rồi ích chi ?
Bao hiền thánh xưa kia mai một
Duy bợm say tiếng tốt để đời
Vua Trần , Bình Lạc tiệc vui
Mười ngàn- bầu rượu- ban mời thỏa thuê
Ông chủ hỡi !Chớ e tiền cạn !
Kiếm rượu về xả láng cùng nhau .
Áo cừu vàng, ngựa hoa đâu ?
Sai con đổi rượu quý mau đợi gì ?
Chén tôi bác tì tì uống mãi
Tiêu tan sầu vạn đại mới thôi !
Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Nâng chén rượu hỏi trăng (Người dịch: Hoa Sơn)
Trăng kia đến tự thuở nào?
Nay ta ngưng chén rượu đào hỏi trăng!
Người không vin được trăng vàng,
Trăng cùng người mãi dặm ngàn có đôi.
Gương trăng vút tận cõi trời,
Trăng tan khói biếc, rạng ngời muôn nơi.
Biển đêm người thấy trăng soi,
Đâu hay mai sớm trăng côi tạ từ.
Thỏ còn giã thuốc xuân, thu,
Hằng Nga đơn bóng thẩn thờ gió mây.
Vầng trăng cổ tích ai hay?
Trăng này từng chiếu mấy đời cổ nhân.
Người xưa nay, tựa nước nguồn
Đã từng chung ngắm trăng non một thời
Ta say ca hát rượu mời
Mong vầng trăng toả sáng soi chén vàng.
Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu
Trời xanh trăng sáng tự bao lâu ?
Ngừng uống nay ta hỏi một câu !
Trăng sáng nào ai vin đến được ,
Ta đi trăng lại mãi theo nhau ?
Gương trăng bàng bạc sáng lầu son
Khói biếc tan đi , vóc dáng tròn
Chỉ thấy đêm về trăng tắm biển
Nào hay sớm lại biến đi luôn .
Thỏ cắp thuốc thang đã mấy xuân ?
Thường nga bầu bạn được bao lần ?
Người nay đâu thấy vầng trăng cũ
Trăng vẫn từng soi dáng cố nhân .
Xưa nay người tựa nước trôi xuôi
Cùng ngắm bao đêm ánh nguyệt rồi
Mong ước ca say trong tiệc rượu
Chén vàng rượu ngọt có trăng soi .
*
Bản dịch của NguyễnTâm Hàn
Nâng Chén Rượu Hỏi Trăng
Này trăng, ta hỏi trăng nghe
Trên trời một bóng đi về lâu chưa ?
Ta nào tới được trăng mơ
Mà trăng mãi vẫn đón đưa quanh người
Cửa son ánh toả rạng ngời
Khói xanh vừa biến, lả lơi ánh vàng
Biết trăng từ biển trôi ngang
Khi vừng dương tơí vội vàng ra đi
Tháng ngày bóng thỏ ê chề
Hằng Nga vàng võ đêm khuya một mình
Ta,
trần gian . . .
chẳng vô tình
Nhưng sao thấy được bóng hình trăng xưa
Biết từ thiên cổ đến giờ
Trăng vàng đã mãi say sưa cùng người
Nhân gian tựa nước trôi xuôi
Ngày qua tháng lại dưới trời cùng trăng
Ca, say giữa cuộc mơ màng
Trăng ơi !
mãi chiếu chén vàng dùm ta
*
--Bản dịch của Tương Như (Nam Trân)--
Trời xanh có trăng từ thuở nào ?
Ngừng chén đêm này hỏi một câu.
Người với lên trăng, vin chẳng được,
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.
Trăng như gương lượn bên đan khuyết,
Xóa sạch mây xanh, soi vằng vặc.
Chỉ thấy đêm từ mặt biển lên,
Hay đâu đến sáng vào mây khuất.
Thỏ ngọc giã thuốc thu lại xuân,
Thường Nga quạnh hưu ai người gần ?
Người nay chẳng thấy trăng thời trước,
Người trước, trăng nay soi đã từng.
Người trước, người nay như nước chảy,
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy.
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh,
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi.
- dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt
Hải khách đàm Doanh Châu,
Yên đào vi mang tín nan cầu
Việt nhân ngữ Thiên Mụ,
Vân hà minh diệt hoặc khả đổ.
Thiên Mụ liên thiên hướng thiên hoành,
Thế bạt Ngũ Nhạc, yểm Xích Thành.
Thiên Thai tứ vạn bát thiên trượng,
Đối thử dục đảo đông nam khuynh.
Ngã dục nhân chi mộng Ngô Việt,
Nhất dạ phi đô kính hồ nguyệt.
Hồ nguyệt chiếu ngã ảnh,
Tống ngã chí Diễm Khê.
Tạ công túc xứ kim thượng tại,
Lục thuỷ đãng dạng thanh viên đề.
Cước trước Tạ công lý
Thân đăng thanh vân thê.
Bán bích kiến hải nhật
Không trung văn thiên kê
Thiên nham vạn hác lộ bất định,
Mê hoa ỷ thạch hốt dĩ mính,
Hùng bào long ngâm âm nham tuyền.
Lật thâm lâm hề kinh tằng điên.
Vân thanh thanh hề dục vũ,
Thuỷ đạm đạm hề sinh yên.
Liệt khuyết tích lịch,
Khâu loan băng tồi.
Động thiên thạch phi,
Hoanh nhiên trung khai.
Thanh minh hạo đãng bất kiến để,
Nhật nguyệt chiếu diệu kim ngân đài.
Nghê vi y hề phong vi mã,
Vân chi quân hề, phân phân nhi lai hạ.
Hổ cổ sắt hề loan hồi xa,
Tiên chi nhân hề liệt như ma.
Hốt hồn quý dĩ phách động,
Hoảng kinh khởi nhi trường ta.
Duy giác thì chi chẩm tịch,
Thất hướng lai chi yên hà.
Thế gian hành lạc diệc như thử.
Cổ lai vạn sự đông lưu thuỷ,
Biệt quân khứ hề hà thì hoàn ?
Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian.
Tu hành tức kỵ phỏng danh sơn.
An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quý,
Sử ngã bất đắc khai tâm nhan !
Dịch Nghĩa
Mơ đi chơi núi Thiên Mụ, làm thơ để lại lúc từ biệt
Khách đi biển kháo nhau về Doanh Châu,
Khói sóng mù mịt, tin rằng khó tìm được.
Nay người Việt nói về núi Thiên Mụ,
Mây ráng khi tỏ khi mờ cũng có thể nhìn thấy.
Thiên Mụ liền trời mà vươn chắn ngang trời,
Có cái thế vượt Ngũ Nhạc, ép cả Xích Thành.
Núi Thiên Thai cao bốn vạn tám nghìn trượng,
Trước nó cũng bị áp đảo mà nghiêng về đông nam.
Ta muốn nhân đó mơ về Ngô Việt,
Một đêm bay qua vầng trăng hồ Kính.
Trăng hồ soi bóng ta,
Đưa ta đến Diễm Khê.
Ở đấy nay vẫn còn nhà của Tạ Linh Vận,
Nước biếc rập rờn, vượn kêu lanh lảnh.
Chân mang giày Tạ công,
Mình đi lên thang mây xanh.
Đến lưng chừng vách núi thấy mặt trời ngoài biển,
Nghe gà trời gáy vang không trung.
Nghìn núi muôn khe, khó xác định đường đi,
Say mê ngắm hoa đứng tựa núi đá, bỗng trời sập tối.
Gấu thét rồng gào vang dội núi đá, suối khe,
Rừng sâu chấn động, núi thẳm kinh hoàng.
Mây xanh xanh chừng sắp mưa,
Nước mờ mờ như bốc khói.
Chớp giật sấm vang,
Núi tan gò lở.
Động trời cửa đá
Rầm rầm mở ra ở giữa.
Xanh mờ thăm thẳm không thấy đáy,
Mặt trời mặt trăng lấp lánh soi lầu vàng gác bạc.
Cầu vồng làm áo, gió làm ngựa,
Thần mây bời bời bay xuống.
Cọp gảy đàn, loan kéo xe,
Người tiên đông như cỏ gai.
Bỗng hồn kinh phách động,
Tỉnh dậy sợ hãi mà than dài...
Chỉ thấy chăn gối lúc đó,
Khói ráng vừa qua biến mất.
Những cuộc vui trên đời cũng như vậy thôi !
Mọi việc xưa nay trôi qua như nước chảy về đông.
Giã từ anh ra đi, biết bao giờ trở lại ?
Hãy thả con hươu trắng nơi ghềnh núi xanh.
Hễ cần thì cỡi ngay ngựa, thăm núi nổi tiếng,
Chứ sao lại cúi mày khom lưng thờ bọn quyền quý,
Khiến ta không sao mở lòng mở mặt !
-- Bản dịch của Khương Hữu Dụng --
Khách biển đồn Doanh Châu,
Khói sóng mịt mù tìm được đâu!
Người Việt nói Thiên Mụ,
Mây ráng tỏ mờ nay thấy đó.
Thiên Mụ liền trời chân trời xanh,
Thế lay Ngũ Nhạc, đổ Xích Thành.
Thiên Thai một vạn tám nghìn trượng,
Đứng trước Thiên Mụ cũng nghiêng mình.
Ta muốn nhân đây mộng Ngô Việt,
Một đêm nương trăng Kinh Hồ vượt.
Trăng hồ rọi bóng ta,
Đưa ta đến Diễm Khê.
Tạ công chốn cũ nay còn đó,
Trong veo tiếng vượn, nước xanh lè.
Xỏ chân dép họ Tạ,
Cất mình thay mây đi.
Vừng đông, nửa vách thấy,
Gà trời, giữa lừng nghe.
Núi ngàn ngoắt ngoéo đường lắm hướng,
Mê hoa tựa đá bỗng tối om.
Beo gầm rồng kêu núi khe dồn,
Run rừng sâu hề rợn từng non.
Mây xanh xanh hề mừa chớm,
Nước mờ mờ hề khói un.
Sét đánh chớp lòa,
Gò nhào cồn tan.
Động trời cửa đá,
Ầm ầm mở toang.
Xanh mờ thăm thẳm chẳng thấy đáy,
Ánh trời ánh trăng ngấn bạc vàng.
Mặc áo ráng hề cưỡi ngựa gió,
Thần trong mây hề bời bời bay xuống đó.
Hổ đánh đàn hề loan đẩy xe,
Người tiên đông hề đông gớm ghê.
Bỗng hồn kinh mà phách động,
Hoảng vùng dậy mà than dài.
Tan khói mây lúc nãy,
Trơ chăn gối mình đây.
Cuộc vui trên đời nào khác vậy,
Xưa nay muôn việc xuôi nước chảy!
Giã người đi hề bao giờ lui?
Toan thả hươu trắng núi xanh khơi,
Cần đi hẳn cưỡi dạo non chơi.
Dễ đâu cúi đầu gãy lưng phụng quyền quý,
Khiến ta chẳng được mặt mày tươi.
--Bản dịch của Hoa Sơn--
Mơ đi chơi núi Thiên Mụ, làm thơ để lại lúc từ biệt
Lời khách biển Doanh Châu nức tiếng
Giữa bao la sóng quyện chập trùng
Việt rằng Thiên Mụ lẫy lừng
Mây chiều mờ ảo cũng thường thấy nhau
Trông Thiên Mụ ngang trời vượt thác
Bỏ Xích Thành, Ngũ Nhạc lung lay
Thiên Thai vạn trượng vút mây
Cũng đành thấp thoảng hướng ngoài đông nam
Ta vì thế mơ về Ngô Việt
Một đêm bay nương nguyệt Kính Hồ
Đêm khuya soi bóng trăng mơ
Diễm Khê say cõi trời thơ hữu tình
Nhà họ Tạ còn lưu dấu cũ
Nước biếc rờn vượn hú thảm thương
Chân mang giày cỏ Tạ công
Mình ta bạt gió mấy tầng mây xanh
Lưng chừng núi sáng ngời mây nước
Tiếng gà trời gáy vượt không trung
Muôn khe vạn nẻo khó lường
Say sưa tựa vách thưởng ngàn hoa xinh
Rồi chẳng biết trời chiều sập tối
Dã thú gầm vang dội suối khe
Mây đen giăng phủ bốn bề
Hình như mưa sắp lê thê trần phù
Nước mù mịt tựa rồng phun khói
Sấm liên hồi nghe nhói tâm cang
Núi tan đất lở kinh hoàng
Đầu non cửa động mở toang giữa trời
Xanh xanh thẳm mờ không thấy đáy
Nhật nguyệt cung lấp láy bạc vàng
Cầu treo áo gió ngựa đường
Thần mây hạ giới, ngọc hoàng xuống chơi
Xe loan phụng, cọp đàn réo rắt
Bầy tiên ma, vũ nhạc, thiên binh
Chợt hồn phách động thất kinh
Giựt mình thức giấc tự tình thở than
Giờ chỉ thấy chăn đơn gối chiếc
Ráng mây chiều sớm biếc rồi phai
Cuộc vui như gió mây trôi
Việc đời theo nước chảy hoài về đông
Từ giả bạn bao giờ trở lại?
Hãy thả hươu trắng tại núi xanh
Vui thì cưỡi ngựa thăm non
Há chi cúi lạy đám quan cường quyền
-Khiến lòng ta không sao vui đặng!
Bản dịch của NguyễnTâmHàn
Mộng đi chơi núi Thiên Mụ
Khách thường ghé vùng Doanh Châu ngoạn cảnh
Khói sóng mờ nào chắc đã tìm ra
Theo lời đồn vùng Thiên Mụ xa mờ
Mây ráng phủ vẫn còn nhìn thấy rõ
Núi liền trời vươn chắn ngang hùng vĩ
Xem còn hơn cả Ngũ Nhạc, Xích Thành
Rặng Thiên Thai cao ngất tận trời xanh
Mà cũng lép, nghiêng đông nam lẩn tránh
Ta mơ về Ngô Việt
Qua vầng trăng hồ Kính
Sáng mơ màng đưa ta đến Diễm Khê
Chắc vẫn còn Tạ Linh Vận nhà xưa
Sóng nước dập dồn, vang vang vượn hú
Giầy Tạ Công …
À …
thây kệ…ta mang đỡ
Bước lên chơi lần theo bậc thang mây
Ngang lưng chừng, trời đã muốn về ngày
Gà gáy sáng vang khắp miền đồi núi
Khe mờ mịt
Núi điệp trùng vời vợi
Giữa mơ màng trời vụt phủ màn đêm
Gấu thét vang
Rồng gầm hú vang rền
Cả rừng thẳm, núi đồi cơn hoảng loạn
Mây mịt mùng
Trời chuyển mưa đen xạm
Khói mơ hồ, hơi nước toả màn sương
Chớp xé trời
Sấm gầm thét kinh hoàng
Núi tan vỡ . . .
Cửa động trời vụt mở
Vùng xanh thẳm chẳng biết đâu cửa ngõ
Lầu bạc vàng lấp lánh giữa thiên hà
Cưỡi gió trời,
áo ngũ sắc chói lòa
Khí hăm hở lão thần mây kéo tới
Loan kéo xe, cọp gẩy đàn vang dội
Tiên hội về đông chẳng khác cỏ gai
Chợt giật mình cả hồn,phách tả tơi
Choàng mắt dậy giữa lạnh lùng chăn gối
Vui trần thế . . . cũng thế thôi một mối
Việc xưa nay theo nước chẩy về đông
Tiễn người đi đâu biết phút tương phùng
Theo hươu trắng nhởn nhơ ghềnh núi biếc
Hay yên ngựa lấy núi rừng thân thiết
Chả bao giờ luồn cúi bọn giầu sang
Để cho đời khỏi cúi mặt . . . bẽ bàng
Vương Chiêu Quân
Hán gia Tần địa nguyệt
Lưu ảnh chiếu Minh Phi
Nhất thướng Ngọc Quan đạo
Thiên nhai khứ bất qui
Hán nguyệt hoàn tòng Đông Hải xuất
Minh Phi tây giá vô lai nhật
Yên Chi trường hàn tuyết tác hoa
Nga mi tiều tuỵ một Hồ sa
Sinh phạp hoàng kim uổng đồ hoạ
Tử lưu thanh trủng sử nhân ta.
*
Dịch Nghĩa:
Vầng trăng Hán ở đất Tần
Đưa bóng chiếu Minh Phi
Một lần lên đường đến Ngọc Quan
Đường trời một đi không trở lại
Vẫn vầng trăng đất Hán nhô phía biển Đông
Minh Phi sang phía tây không trở lại
Xứ Yên Chi lạnh buốt, tuyết bay vào đoá hoa
Mày ngài tiều tuỵ vùi đi trong cát xứ Hồ
Sống thiếu cân vàng nên bức vẽ bị hỏng
Đến chết còn lại nấm mộ xanh làm não lòng người.
Vương Chiêu Quân kỳ 2
Chiêu Quân phất ngọc an,
Thượng mã đề hồng giáp.
Kim nhật Hán cung nhân,
Minh triêu Hồ địa thiếp.
Vương Chiêu Quân kỳ 2 (Người dịch: phanlang @www.tvvn.org)
Tay tiên nhẹ phủi yên cương
Chiêu Quân lên ngựa lệ vương má hồng
Hôm nay là Hán cung nhân
Ngày mai làm thiếp đem thân xứ Hồ.
Dịch thơ :
Trăng Hán soi Tần quốc,
Minh phi bóng ngậm ngùi.
Ngọc Môn ngang qua đó,
Chân trời đi mãi thôi.
Trăng Hán vẫn lên từ Đông hải,
Tây vực Minh phi không lối ra.
Yên Chi lạnh buốt bay hoa tuyết,
Mày ngài tiều tụy cát Hồ sa.
Sống thiếu phân vàng chân dung uổng,
Chết xanh mồ cỏ não người qua.
Hạt Cát
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Trăng Hán ở đất Tần
Bóng chiếu Vương Chiêu Quân .
Chân trời đi không lại
Dong ruỗi quá Ngọc quan.
Biển đông trăng Hán vẫn còn nhô
Tây cống Minh Phi biệt đế đô
Lạnh buốt Yên Chi hoa phủ tuyết
Mày ngài tiều tụy cát nhà Hồ
Thiếu vàng bức họa đành cam hỏng
Buồn thảm vùi xanh một nấm mồ .
-- Bản dịch của Song Nguyễn HànTú --
Kìa vầng trăng Hán đất Tần
Nghiêng nghiêng soi bóng Chiêu Quân mơ màng
Một lần đi đến Ngọc Quan
Đường trời thăm thẳm dặm ngàn khôn lui
Biển Đông trăng Hán sáng soi
Minh Phi biền biệt vùng trời phía tây
Yên Chi giá lạnh tuyết bay
Xứ Hồ tiều tụy tháng ngày tội thân
Chẳng mua nét vẽ thanh xuân
Ngọc tan lưu nấm mộ phần xót thương
Quan San Nguyệt
Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán hạ Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
Trăng nơi quan ải (Người dịch:Cao Nguyên)
Vầng trăng nhô lên khỏi núi Thiên San,
Giữa khoảng trời mây nước biển mênh mang.
Gió thổi lan xa mấy vạn dặm,
Qua cửa ải Ngọc Môn.
Quân Hán kéo xuống con đường dẫn tới thành Bạch Đăng.
Rợ Hồ dòm ngó vịnh Thanh Hải.
Xưa nay từ nơi chiến địa,
Không thấy có người về.
Người lính thú ngắm nhìn cảnh sắc nơi biên giới,
Lòng nhớ nhà vì nghĩa đến ngày về nên vẻ mặt có nhiều nét đau khổ.
Đêm nay trên lầu cao (có người),
Hẳn cũng than thở hoài không thôi.
Cao Nguyên dịch
Trăng quan san (Người dịch: Tản Đà)
Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vùng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người ?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
Xuân Tứ
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi .
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi .
Dịch thơ
XUÂN TỨ
Cỏ Yên tơ biếc màu,
Dâu Tần xanh cúi đầu.
Ngày về khi chàng nhớ,
Là lúc lòng thiếp đau .
Gió xuân không quen biết,
Màn the sao len vào ?
hdt vctd 12-05-2009 .
MT xin phép HDT cho gửi vào một chút nỗi niềm hoà theo ý của bài XUÂN TỨ:
Cỏ Yên mềm mượt như tơ,
Dâu Tần xanh biếc ngẩn ngơ xuân về...
Chàng đi biền biệt sơn khê,
Ngóng trông, lòng thiếp não nề nhớ thương.
Gió xuân rả rích đêm trường,
Phòng loan len lỏi trêu buồn hồn ai...
Nguyệt dạ độc chước kỳ 1
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ diểu Vân Hán.
Một mình uống rượu đêm trăng kỳ 1
(Người dịch: Tương Như)
Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời Trăng sáng,
Mình với Bóng là ba.
Trăng đã không biết uống,
Bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng Trăng với Bóng,
Chơi xuân cho kịp mà !
Ta hát, Trăng bồi hồi,
Ta múa, Bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui,
Say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình,
Hẹn nhau tít Vân Hán.
Nguyệt dạ độc chước kỳ 2
Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô tửu tuyền.
Thiên địa ký ái tửu,
Ái tửu bất quý thiên.
Dĩ văn thanh tỷ thánh,
Phục đạo trọc như hiền.
Hiền thánh ký dĩ ẩm,
Hà tất cầu thần tiên.
Tam bôi thông đại đạo,
Nhất đấu hợp tự nhiên.
Đản đắc túy trung thú,
Vật vi tỉnh giả truyền.
Uống rượu một mình dưới trăng kỳ 2
(Người dịch: Trần Trọng San)
Nếu trời không thích rượu
Sao Rượu ở chi trời ?
Nếu đất không thích rượu
Suối rượu ở chi đời ?
Trời đất đã thích rượu
Thích rượu không thẹn trời.
Đã nghe trong tựa thánh
Lại nói đục như hiền
Thánh hiền đều uống rượu
Cầu mà chi thần tiên ?
Ba ly hiểu đạo lớn
Một đấu hợp tự nhiên
Chỉ mong được thú say
Kẻ tỉnh mặc ai khen.
- dịch nghĩa
Nếu trời mà không thích rượu,
Thì sao rượu không có ở trên trời.
Nếu đất mà không thích rượu,
Thì suối rượu hẳn phải không có ở dưới đất.
Trời đất kia đã thích rượu,
Thì ta thích rượu là không hổ thẹn với trời.
Đã nghe nói rằng người uống rượu mà trong thì được ví với bậc thánh. Lại nghe nói rằng người uống rượu mà đục thì giống như bậc hiền.
Các bậc thánh hiền đều đã uống rượu,
Thì ta hà tất phải cầu thần tiên ?
Uống ba chén thì thông hiểu đạo lớn,
Uống một đấu thì hợp với tự nhiên.
Chỉ mong có được cái thú trong lúc say,
Chứ không muốn để lại tiếng tăm là người tỉnh.
Nguyệt dạ độc chước kỳ 4
Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai.
Sở dĩ tri tửu thánh,
Tửu hàm tâm tự khai.
Từ túc ngọa Thú Dương,
Lũ không cơ Nhan Hồi.
Đang đại bất lạc ẩm,
Hư danh an dụng tai.
Giải ngao tức kim dịch,
Tao khâu thị Bồng Lai.
Thả tu ẩm mỹ tửu,
Thừa nguyệt túy cao đài.
Uống rượu một mình dưới trăng kỳ 4
(Người dịch: Khái Hưng)
Sầu lớn nghìn muôn mối
Ba trăm chén rượu ngon !
Sầu nhiều, rượu tuy ít
Rượu nghiêng sầu phải bon.
Sở dĩ biết rượu thánh
Rượu say mơ lòng son
Bá Di không nhận thóc
Nhan Hồi đói chết mòn
Thời ấy không thích uống
Hư danh sao vẫn còn ?
Cua tôm là châu báu
Gò nem là cõi Bồng.
Và cần uống rượu tốt,
Gác cao cưỡi trăng tròn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top