Lục Vân Tiên
1
Mục lục
Tác giả, tác phẩm......................................................................................2
Lục Vân Tiên.............................................................................................5
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 2
Tác giả, tác phẩm
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là một nhà nho yêu nước chân chính tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ XIX.
Cùng chung số phận với nhiều văn thi hào và sĩ phu kiệt hiệt khác như Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Trương Định..., Nguyễn Đình Chiểu sống vào một giai đoạn vô cùng đen tối của lịch sử dân tộc. Triều đình nhà Nguyễn (với những ông vua thủ cựu như Tự Đức...) đang trên đà suy sụp, đã mất hẳn khả năng lãnh đạo nhân dân kể cả trong công cuộc xây dựng cũng như công cuộc bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Xã hội Việt Nam thời đó rơi vào tình trạng ngưng trệ và lạc hậu thảm hại. Rốt cuộc, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, cái triều đình ươn hèn, bất lực đó đã không thể đối phó, không thể lập được "thế cân bằng" với ngoại bang, và đã để đất nước ta rơi trọn vào tay chúng.
Trước vận mệnh bi đát của đất nước, trước cảnh "sinh dân nghiêng nghèo" ấy, Nguyễn Đình Chiểu cũng như bao người hiền tài khác, đã đau lòng nhức óc biết là nhường nào!
Trước kia Nguyễn Trãi đã từng nhận định rằng trên đất nước ta, các thời đại "tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt không bao giờ thiếu" (Bình Ngô đại cáo).
3
Nguyễn Đình Chiểu là một người con hào kiệt của vùng đồng bằ ng Nam Bộ , là một nhân cách lớn mà sự nghiệp và tên tuổi của ông sẽ mãi mãi sáng ngời. Là nhà thơ suốt đời bị mù loà, nhưng không những ông là tác giả của tác phẩm bất hủ Lục Vân Tiên, của "Ngư tiều y thuật vấn đáp", "Dương Từ Hà Mậu"..., ông còn là tác giả của những bài thơ, những bài văn tế nổi tiếng, trong đó ông đã tưới máu và nước mắt của mình hoà chung với những bi kịch mà nhân dân anh hùng bất khuất và đau thương của ông phải chịu đựng khi chống trả bọn xâm lượ c. Có những câu thơ của ông đã khắc sâu vào lòng người:
Chở bao nhiêu đạ o thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Lịch sử văn học đã xác nhận Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn, nhà thơ tiên khu vĩ đại, người mở đầu cho dòng văn học yêu nước và cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Lục Vân Tiên là tác phẩm "tiểu thuyết bằng thơ nôm" sau chót của văn học Việt Nam, được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác ngay trong thời kì cận đại. Đó là điểm son cuối cùng của loại hình tác "truyện nôm", "diễn ca nôm" như Chinh phụ ngâm, cung oán ngâm khúc, Hoa Tiên, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Bần nữ thán, Truyện Kiều, truyện nôm khuyết danh...
Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác Lục Vân Tiên với động cơ gì? Như trên đã nói, trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, xã hội Việt Nam, trong cơ chế của một chế độ phong kiến phương Đông ngưng trệ , lạc hậu, đương trượt dài trên con đường suy thoái. Khắp đất nước phơi bày tình cảnh nghèo đói xác xơ, đạo đức con người cũng như phong hoá dân tộc ngày một sa sút.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho chân chính, cho nên trong lòng ông lúc nào cũng đau đáu những ý tưởng về sự "kinh bang tế thế". Do hạn chế về lịch sử, ông chưa nhận thức được rằng những ý tưởng của những sĩ phu phong kiến như ông muốn khôi phục lại một xã hội lý tưởng thời Nghiêu - Thuấn, thực ra đã lỗi thời rồi...
Tuy nhiên với tâm huyết sôi sục của một con người nhập thế tích cực, nhất thiết ông phải hành động để phụng sự đất nước và
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 4
dân tộc ông. Chính vì thiết tha muốn "đem lời nói đốt cháy lòng thiên hạ" (thơ Puskin) mà ông viết Lục Vân Tiên. Với ông, trong lúc đời đang suy, việc viết một tác phẩm đứng đắn và mang đầy nhiệt huyết như Lục Vân Tiên chính là một diệu kế, khả dĩ cứu vãn được sự suy thoái của đất nước và chấn hưng được phong hoá của dân tộc.
Lục Vân Tiên là bản trường ca đề cập về luân lí đạo đức của con người, nói cách khác: về "Đạo lý Việt Nam".
Đạo lý ấy rất giản dị: Trai thì trung với nước, hiếu với cha mẹ, có chí tiến thủ, giúp nước cứu dân; gái thì tiết hạnh và cao quý; đồng bào ăn ở với nhau thì có thuỷ có chung, luôn luôn sẵn sàng cứu giúp nhau trong những cơn hoạn nạn, không vì danh lợi mà chà đạp lên tình người, không vì những đố kị và oán hận riêng tây mà hại người, không nên "hành" những nghề lừa bịp tức cười như lang băm, thầy bói, thầy pháp nhảm nhí...
Cái đạo lý rất mực dân dã ấy thực ra lại là rường cột của nền đạo đức của cả một dân tộc, là cội nguồn của hạnh phúc con người. Cái kết thúc "có hậu" của Lục Vân Tiên phản ánh quan niệm của nhân dân đối với những ai biết giữ gìn đạo đức (như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh...). Ngược lại, những nhân vật như Võ Công, mẹ con Thể Loan, Trịnh Hâm, đã phải trả giá đắt chỉ vì họ đã vứt bỏ cái đạo làm người đó.
Là tác phẩm viết cho quảng đại quần chúng, chuyên luận bàn về luân lí đạo đức, Lục Vân Tiên được sáng tác, cốt truyện mạch lạc và hấp dẫn, đậm đà màu sắc văn hoá Nam Bộ.
Đọc Lục Vân Tiên chúng ta cảm nhận được cái tinh thần đạo đức cao quý và tình người chan chứa hiện ra phơi phới trong mỗi trang thơ.
Các nhân vật chính như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Tiểu Đồng, và các nhân vật phụ như Thể Loan, Kiều Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm... được tác giả miêu tả nkhá sinh động, có cá tính.
Đặc biệt nữ nhân vật Kiều Nguyệt Nga - người con gái Việt Nam đức hạnh nết na - rõ ràng có một cuộc sống nội tâm khá phong phú, sâu sắc, một sự thông minh dễ thương và một đức kiên trinh
5
đáng khâm phụ c, khiến chúng ta không thể không xúc độ ng và yêu quý nàng.
Tất cả những điều đó giải thích vì sao Lục Vân Tiên đã được đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Nam Bộ , mến mộ suốt hơn mộ t thế kỷ qua; vì sao đã đi vào ca dao: Vân Tiên Vân Tiển Vân Tiền
Cho tôi mộ t tiền, tôi kể Vân Tiên...
Thiên Chương
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 6
(Nguyễn Đình Chiểu)
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga Trước đèn xem truyệ n Tây minh, (1) Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le. Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quậ n Đông Thành, Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền. Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.(2) Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao (3) Văn đà khởi phung đằng giao, (4)
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì. Xảy nghe mở hội khoa thi, Vân tiên vào tạ tôn sư xin về: "Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lạ i xuê tinh thần. Nay đà gặp hộ i long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này. Chí lăm bắn nhạn ven mây, (5)
7
Danh tôi đặ ng rạ ng tiếng thầy bay xa.(6)
Làm trai trong cõi người ta, Trước là báo bổ sau là hiển vang".(7)
Tôn sư khi ấy luậ n bàn: "Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời chẳng dám nói ra,(8) Xui thầy thương tới xót xa trong lòng. Sau dầu tỏ nỗi đục trong.
Phải toan mộ t phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần, Thầy cho hai đạ o phù thần đem theo.(9)
Chẳng may mà gặp lúc nghèo, (10) Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an". Tôn sư trở lạ i hậ u đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn trong lòng sinh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi, Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà, Hay là đức bạ c hay là tài sơ? Bấy lâu lòng những ước mơ
Hộ i này chẳng gặp còn chờ hộ i nao?
Nên hư chẳng biết làm sao, Chi bằng hỏi lạ i lẽ nào cho minh.
Đặ ng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặ m đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than, Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng : "Vạ n lý trường đồ, Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn mộ t việc khoa kì ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
Song đường tuổi hạ c đã cao,(11) Xin thầy nói lạ i âm hao con tường".(12)
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 8
Tôn sư nghe nói thêm thương, Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng.
Nhân cơ tàng sự dặ n rằng:(13)
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọ i nơi, Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này, Lựa là con phải hỏi thầy làm chi.
Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạ ng tử vi thêm loà.(14)
Hiềm vì ngựa chạy đường xa, Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan.(15)
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuộ t ra đàng con mới nên danh.
Sau dầu đặ ng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.(16) Trong cơ bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn". Vân Tiên vộ i vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn mọ i lời.
Ra đi vừa rạ ng chân trời,
Ngùi ngùi nhớ lạ i nhớ nơi họ c đường. Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương.(17) Thầy đeo đoản thảm tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên.(18) Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặ ng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay".(19) Kể từ lướt dặ m tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương. Đoái nhìn phong cảnh thêm thương, Vơi vơi dặ m cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia, Trước là tìm bạ n sau là nghỉ chân.
9
Việc chi than khóc tưng bừng, Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con, Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?" Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
Hay là một đảng sơn đài theo tao?"(20)
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao, Xin ngừng vài bước sẽtrao một lời".
Dân nghe tiếng nói khoan thai, Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua: "Nhơn rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệ u là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn sơn đài, Người đều sợ nó có tài khôn đương. Bây giờ xuống cướp thôn hương. Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi, Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn. Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạ nh lùng.(21) E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.(22)
Thôi thôi chẳng dám nói lâu, Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình".(23) Vân Tiên nổi giậ n lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao? Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này". Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậ u thơ ngây đã đành.(24) E khi hoạ hổ bất thành(25)
Khi không mình lạ i xô mình xuống hang".(26) Vân Tiên ghé lạ i bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô. Kêu rằng: "Bớ lũ hung đồ,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 10
Chớ quen làm thói hồ đồ hạ i dân". Phong Lai mặ t đỏ phừng phừng: "Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ tạ i mầy. Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng". Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệ u Tử phá vòng Đương Dương.(27) Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên mộ t gậy thác rày thân vong.
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong, Hỏi: "Ai than thóc ở trong xe này?" Thưa rằng: "Tôi thiệ t người ngay, Sa cơ nên mới làm tay hung đồ.
Trong xe chậ t hẹp khôn phô, Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng".
Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phậ n gái ta là phận trai. Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi, Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ này, (28)
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra". Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con này tì thiếp tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quậ n Tây Xuyên, Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thơ về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con đâu dám cãi cha,
11
Ví dầu ngàn dặ m đường xa cũng đành. Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi. Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trăm năm cũng bỏ đi mộ t hồi.
Trước xe quân tử tạ m ngồi, Xin cho tiệ n thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi yếu liễu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụ i dơ đã phần. Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền chẳng có bạ c vàng thì không.
Gẫm câu báo đức thù công,(29) Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Vân Tiên nghe nói liền cười: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặ ng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.(30) Đó mà biết chữ thỉ chung,
Lựa là đây phải theo cùng làm chi".
Nguyệ t Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ mộ t khi cho tường. Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường, Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao, Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha: "Đông Thành vốn thiệ t quê ta, Họ là Lục thị tên là Vân Tiên". Nguyệ t Nga vốn đấng thuyền quyên, Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm, Xin đưa mộ t vậ t để cầm làm tin".
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 12
Vân Tiên ngơ mặ t chẳng nhìn, Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na: (31) "Vậy chi mộ t chút gọ i là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ. Của này là của vất vơ,(32)
Lòng chê cũng phải lòng ngơ sao đành".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh, Chữ ân buộc lạ i chữ tình lây dây.(33)
Than rằng: "Đó khéo trêu đây, Ơn kia đã mấy của này rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Mộ t lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai. Nhớ câu trọ ng ngãi khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì". Thưa rằng: "Chút phậ n nữ nhi, Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đứng anh hùng, Thấy trâm thôi lạ i thẹn cùng cây trâm". Riêng than: "Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ao cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ, Thiếp xin đưa mộ t bài thơ giã từ".
Vân Tiên ngó lạ i rằng: "ừ, Làm thơ cho kịp bấy chừ chẳng lâu".
Nguyệ t Nga ứng tiếng xin hầu, Xuống tay liền tả tám câu văn vần:
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộ ng văn nhân thế nào?" Vân Tiên xem thấy ngạ t ngào,(34)
Ai dè sức gái tài cao bực này.
Đã mau mà lạ i thêm hay, Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi.(35) Thơ ngâm dũ xuất dũ kì,(36)
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
13
Như vầy ai lạ i thua ai,
Vân Tiên hoạ lạ i mộ t bài trao ra. Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vậ n điểu, điểu hoà vậ n mai(37) Có câu xúc cảnh hứng hoài,(38) Đường xa vòi vọ i dặ m dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạ n lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi, Nguyệ t Nga than thở: "Tình ôi là tình.
Nghĩ mình mà ngán cho mình, Nỗi ân chưa trả nỗi tình lạ i vương.
Nặ ng nề hai chữ uyên ương. Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyệ t cùng Nguyệ t lão hỡi ông, Trăm năm cho vẹ n chữ tùng mới an.(39)
Hữu tình chi bấy Ngưu lang, (40) Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên, Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê,(41) Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặ ng vuông tròn, Trăm năm cho trọ n lòng son với chàng. Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi.
Hỏi rằng: "Nào kẻ tuỳ nhi,(42)
Cớ sao nên nỗi con đi mộ t mình?" Nguyệ t Nga thưa việc tiền trình,(43) Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệ t Nga dạ hãy bùi ngùi, Nghĩ mình thôi lạ i sụ t sùi đòi cơn:(44) "Lao đao phậ n trẻ chi sờn,
No nao trả đặ ng công ơn cho chàng".(45) Kiều công nghe nói liền can,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 14
Chú thích
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng. Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân đến đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chày,(46) Cha nguyền trả đặ ng ơn nầy thời thôi.
Hậ u đường con hãy tạ m lui, Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
Tây lầu trống điểm sang ba, Nguyệ t Nga còn hãy xót xa phậ n mình.
Dời chân ra chốn hoa đình,(47) Xem trăng rồi lạ i chạ nh tình cố nhơn.
Than rằng: "Lưu thuỷ cao sơn, Ngày nào nghe đặ ng tiếng đờn tri âm. Chữ tình càng tưởng càng thâm,(48) Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộ ng trời dài, Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền".
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặ t bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Hoạ ra mộ t bức tượng hình Vân Tiên. Than rằng: "Ngàn dặ m sơn xuyên,(49) Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu".
(1) Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạ o hiếu và đạ o nhân, do Trương Tái làm.
(2) Hai tám: 16 tuổi
(3) Sân Trình: Chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Tống nho nổi tiếng.
(4) Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài.
15
(5) ý nói quyết thi đỗ.
(6) Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ (Vân Tiên nói nhún)
(7) Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy
(8) Máy trời: thiên cơ (cơ trời huyền bí)
(9) Phù thần: bùa hộ mệnh
(10) Hiểm nghèo
(11) Song đường: xuân đường, huyên đường (cha mẹ). Tuổi hạc: tuổi thọ.
(12) âm hao: tin tức
(13) Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn (do xem trăng sao mà biết)
(14) Sao Thiên Khôi (sao văn học, thi cử) và sao Tử vi (thân mệnh) đều sáng rỡ
(15) Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận (mão xung dậu)
(16) Tiền trình: con đường phía trước
(17) Mỗi người một phương trời
(18) Tử Lộ , Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.
(19) Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua.
(20) Đảng sơn đài: Đảng cướp núi.
(21) Dung nhan lạnh lùng (tiếng cổ): sắc đẹp tuyệt vời.
(22) Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ.
(23) âu (ưu): lo
(24) Qua: ta; bậu: ngươi (bạn, anh bạn).
(25) Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại.
(26) khi không: không dưng.
(27) Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 16
(28) Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn.
(29) Báo trả ơn đức, đền đáp công lao.
(30) Luận ngữ: "kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là : Thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng.
(31) Thìn: răn, giữ.
(32) Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị.
(33) Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào.
(34) Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm.
(35) Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ , người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ.
(36) Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ
(37) Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hoà. Đây nói thơ xướng hoạ , tinh ý rất xứng hợp nhau.
(38) Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ.
(39) Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ (theo chồng).
(40) Ngưu lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ.
(41) Dấu thỏ đường dê: nơi xa xôi hẻo lánh, không vết chân người, chỉ có dấu chân thỏ, chân dê rừng.
(42) Tuỳ nhi: trẻ theo hầu.
(43) Tiền trình: việc đi đường vừa rồi.
(44) Đòi cơn: nhiều cơn.
(45) No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào.
(46) Sao sao: dù thế nào.
(47) Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa.
(48) Thâm: sâu
(49) Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở.
17
Truyệ n nàng sau hãy còn lâu, Truyệ n chàng xin nối thứ đầu chép ra.(50)
Vân Tiên từ cách Nguyệ t Nga, Giữa đường lạ i gặp người ra kinh kì.
Xa xem mặ t mũi đen xì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung. Nhớ câu bình thuỷ tương phùng,(51) Anh hùng lạ i gặp anh hùng mộ t khi:
"Chẳng hay danh tánh là chi, Mộ t mình mang gói ra đi việc gì".
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi, Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà
Vân Tiên biết lẽ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao. Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao,(52) Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.
Nên rừng há dễ mộ t cây, Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kìa nơi võ miếu hầu gần, Hai ta vào đó nghỉ chưn một hồi".
Cùng nhau bày họ tên rồi, Hai chàng từ tạ đều lui ra đường. Hớn Minh đi trước tựu trường,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 18
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà. Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông. Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng: "Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim. Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi"(53) Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lạ i lo non nước xa xôi nghàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặ n cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên, Cùng quan hưu trí ởmiền Hàn Giang, Con người là Võ Thể Loan.
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.(54) Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55)
Con đi qua đó trao qua thơ này. Con dầu bước đặ ng thang mây, Dưới chưn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong, Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.
a đi tách dặm băng chừng, Gió nam rày đã đưa xuân sang hè.
Lạ i xem dặm liễu đường hoè, Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy, Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim hót dưới ao cá cười.
Quậ n thành nhắm cảnh coi người, Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi.(56) Hàn Giang phút đã tới nơi,
19
Vân Tiên ra mắt mộ t hồi trình thơ.
Võ công lấy đọ c bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặ ng liền.(57) Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ c Lụ c phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụ ng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân. Những e kẻ Tấn người Tần,(58)
Nào hay chữ ngẫu đặ ng gần chữ giai.(59) Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng(60)
Công rằng: "Ngãi tế mới sang,(61) Muốn lo việc nước phải toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạ c gia, Đạ i khoa dầu đặ ng tiểu khoa lo gì".(62)
Công rằng: "Con dốc xuống thi, Sao không kết bạ n mà đi tự u trường? Gần đây có mộ t họ Vương,
Tên là Trử Trực văn chương tót đời.(63)
Cha đà sai trẻ qua mời, Rằng con cùng gã thử chơi mộ t bài. Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạ n cùng mai mới mầu".(64) Xảy đâu Trử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặ t mộ t bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con,
Thơ hay làm đặ ng rượu ngon thưởng liền. Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề".(65)
Song song hai gã giao kề,(66) Lụ c Vương hai họ đua nghề mộ t khi Cho hay kì lạ i gặp kì,(67)
Bạ ch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.(68)
Công rằng : "Đơn quế đôi nhành, Bảng vàng thẻ bạ c đã đành danh nêu.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 20
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu, Ngọ n đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình. Thiệ t trang lương đống đã đành,(69) Khá khen hai họ tài lành hoà hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộ c sánh vai mộ t bầy?(70) Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực này xin nhượng Tiên này làm anh. Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau".(71)
Phút xem trăng đã đứng đầu, Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lạ i hậ u đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọ i lời:
"Ngày mai vừa rạ ng chưn trời, Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.(72)
Gọ i là chút nghĩa tống tình.(73) Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu, Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành. Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.(74)
Thưa rằng: "Quân tử phó công,(75) Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa,(76) Đường xa ngàn dặ m xin đưa mộ t lời.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụ ng gặp nơi ngô đồng.(77)
Quản bao chút phậ n má hồng. Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương,(78) Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng.(79)
Xin đừng tham đó bỏ đăng,(80) Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
21
Tiên rằng : "Như lửa mới nhen, Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phô,(81)
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần"(82) Thể Loan vộ i vã lui chân,
Vân Tiên từ biệ t trông chừng Tràng An. Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi.(83) Trải qua thuỷ tú sơn kì,(84)
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay.(85)
Người hay lại gặp cảnh hay, Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài, (86) N?m ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ mộ t giờ nhảy qua. (87) Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệ nh xưa hoà ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88) Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89)
Mảng còn trò chuyệ n với nhau, Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)
Chênh vênh vừa xế mặt trời, Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì. Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quậ n Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn. Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệ m tác chừng đôi mươi. (91) Hai người lại gặp hai người,
Đều vào mộ t quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệ m rằng: "Nghe tiếng anh Tiên, Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 22
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao, Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:".
Bèn kêu ông quán nói rằng: "Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92) Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93)
Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94) Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng". Bốn người ngồi lạ i mộ t vòng làm thơ.
Kiệ m Hâm còn hãy ngẩn ngơ, Phút thơ Tiên Trực mộ t giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)
Chẳng hay ông quán cười chi, Vỗ tay xuống chiếu mộ t khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?" Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98) Trực rằng : "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99)
Quán rằng: "Kinh sử đã từng, Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa. Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100)
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?" Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101) Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm. Ghét đời Kiệ t Trụ mê dâm, (102)
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. Ghét đời U Lệ đa đoan, (103)
23
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân, (104) Chuộ ng bể dối trá làm dân nhọ c nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng, (105) Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106) Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107) Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh. Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạ t đã đành phui pha. (108) Thương thầy Đồng tử cao xa, (109)
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi. Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110)
Lỡ bề giúp nước lạ i lui về cày. Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111)
Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa. Thương thầy Liêm Lạ c đã ra, (112) Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lạ i ghét nửa phần lạ i thương". Trực rằng: "Chùa rách Phậ t vàng, (113) Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?" Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115) Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116) Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117)
Mộ t mình mộ t núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài, (118)
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu. Thái Công xưa mộ t cần câu, (119) Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi. Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120)
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 24
Cày mây câu nguyệ t tả tơi áo cầu. (121) Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)
Gió trăng mộ t túi công hầu chiêm bao,(123)
Người nay có khác xưa nào, Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng, Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phậ n gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao". Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào, ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lộ i thảnh thơi, Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu, Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lạ i bảy người Trước Lâm.(124) Cùng nhau kết bạ n đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi. Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng. Rừng nhu biển thánh minh mông,(125) Dù ai lặn lộ i cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạ n rượu này thưởng cho". Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công, Hâm dầu có đậ u cũng không xong rồi. Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường, Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la.
25
Vân Tiên vừa bước chân ra, Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ,(126) Mình gieo xuống đất dậ t dờ hồn hoa. Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạ n trường.
Anh em ai nấy đều thương, Trời ơi há nỡ lấp đường công danh. Những lăm công toạ i danh thành, Nào hay từ mẫu u minh sớm đời!
Gắng vào trong quán yên nơi,
Tớ thầy than thở liệ u lời quy lai.(127)
Tiểu đồng than vắn than dài: "Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay".
Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậ u hãy làm khuây giải phiền. Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục nộ i ngày cho xong. Dây rơm mũ bạc áo thùng.
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm".(128)
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam, Nước non vòi vọ i đã cam lỗi nghì. Trong mình không cánh không vi, Lấy chi lướt dặ m lấy chi bớt đàng.
Vào trong phút lạ i gặp tang, Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vậ t đổi còn gì mà trông. Hai hàng lụy ngọ c ròng ròng, Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu, Ngàn trùng biển rộ ng chín chìu ruộ t đau. Thương thay chín chữ cù lao.(129)
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 26
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".(130) Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương".(131)
Ai ai trông thấy cũng thương, Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dẫu cho chước quỷ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai. éo le ai khéo đặ t bày,
Chữ tài liền với chữ tai mộ t vần. Đường đi hơn tháng chẳng gần, Khi qua khi lạ i mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạ n tác vừa ra,(132) Trực cùng Hâm Kiệ m xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền, Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau. Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Mộ t vừng mây bạ c dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường, Trịnh Hâm ngó lạ i đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa mộ t dặ m đường xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng. Quán rằng: "Thương đấng anh hùng, Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân. Đương khi quá đói thuốc thần cũng no". Tiên rằng: "Cúi độ i ơn cho,
Tấm lòng ngài ngạ i hãy lo xa gần".(133)
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng, Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.(134)
Non xanh nước biếc vui vầy, Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn, Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi". Nói rồi quày quả ra đi,(135)
27
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng. Trông chừng dặm cũ thẳng xông, Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn:
"Nên, hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành.(136)
Mang câu bất hiếu đã đành, Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son, Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi, Nào hay phậ n bạc như vôi thế này.
Mộ t mình ngơ ngẩn đường mây, Khác nào chiếc nhạ n lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường, Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua: "Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu, Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng, Trong non khó liệ u giừa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan, Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu,(137) Chưa đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay, Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau. Mộ t mình nhắm trước nhắm sau, Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây, Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng, Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 28
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn,(138)
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệ u Ngang. Ngang rằng: "Khá tạ m nghỉ an,
Rạ ng ngày coi mạ ch đầu thang mới đành.(139) Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạ c tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạ c chẳng nhiều, Xin thầy nghĩ lượng đặ ng điều thuốc thang. May mà bịnh ấy đặ ng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
Ngang rằng: "Ta ở chốn này, Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nộ i kinh đã sẵn ngoạ i khoa thêm mầu. Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y.(140)
Gẫm trong Ngân hải tinh vi,(141) Cùng là Cang mụ c thua gì Thanh nang.(142) Gẫm trong Tập nghiệ m lương phang.(143) Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân.(144)
Vị chi sẵn đặ t quân thần,(145) Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146)
Mạch thời đọ c phú Lư san,(147)
Đặ t vào tay bịnh biết đàng tử sanh
Lục quân tứ vậ t thanh danh.(148) Thập toàn Bát vị sẵn dành nộ i thương.(149)
Lạ i thông Bát trậ n tân phương.(150) Lâm nhằm ngoạ i cảm đầu thang Ngũ sài.(151)
|Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạ ch luậ n bài thuốc chi. Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,(152) Bộ quan bên tả mạ ch đi phù hồng.(153)
Cứ trong kinh lạc mà thông,(154)
Mạ ng môn tướng hoả đã xông lên đầu.(155)
29
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm.(156) Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,(157) Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.(158)
Ngoài thời cho điểm vạ n linh,(159) Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.(160) Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng, Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai".(161)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài, Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào, Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm.
Tiên sư mách bảo mộ t điềm chiêm bao.(162) Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?(163) Tiểu đồng, người khá qua cầu,(164) Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền, Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi, Bói hay đã dậy người coi đã đầy. Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm, Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.(165)
Huỳnh kim Dã hạc sách cao,(166)
Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.(167)
Can, chi đều ở trong tay,(168) Đã thông trời đất lại hay việc người. Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 30
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành".
Thầy bèn gieo đặ ng quẻ linh, Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi.(169)
ứng vào rùa với cỏ thi, (170)
Rồi thầy coi quẻ mộ t khi mới tường". Đồng rằng: "Người ở đông phương, Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an. Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây".
Bói rằng: "Đinh sửu năm nay, Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.
Mạ ng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời. Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta". Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Mộ t giao hai sách lạ i ba hào trùng.(171)
Trang thành là quẻ lục xung,(172) Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn, (173)
Lạ i thêm thế độ ng khắc dồn hào quan.(174) Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho quẻ ấy đặ ng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày. Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?" Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay dậy tiếng đồn xa, Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn".
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào. Chợ đông buôn bán lao xao,
31
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa. Đồng đi mộ t buổi tới nhà,
Đạ o sĩ xem thấy lòng mà mừng thay. Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây, Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ân đã cao tay,(175) Lạ i thêm phù chú xưa nay ai bì.(176) Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa. Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vậ t trâu.
Pháp hay miệ ng niệ m mộ t câu,
Tóm thâu muôn vậ t vào bầu hồ linh.(177)
Pháp hay sái đậ u thành binh,(178) Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.
Pháp hay đạ o hoả phó thang, (179)
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.(180) Có ba lượng bạ c trao sang,
Đặ ng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo, Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu. Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạ c dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bịnh ấy đặ ng an, Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây, Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra". Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rồi trao phù về". Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,(181) Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 32
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền, Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài". Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vộ i vã nằm dài chữa chuyên. Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng.(182)
Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên,(183) Thỉnh bà Võ hậ u đều liền đến đây.(184) Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây,(185) Cùng bà Vương mẫu sum vầy mộ t khi.(186) Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phậ t phù trì giúp công.
Lạ i mời công chúa Ngũ Long, (187) Bình Nam ngũ hổ hộ i đồng an dinh.(188)
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh, Cùng là tam phủ Độ ng Đình Xích Lân.(189)
Thỉnh trong khắp hết quỷ thần, Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi. Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời, Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang: "Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao, Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây, Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệ u Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:(190) "ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che". Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
33
Những lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tậ t còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này.(191)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau".(192) Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.(193)
Đương khi mưa gió luông tuồng,(194) Người buồn lạ i gặp cảnh buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặ m trường lao đao. Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn". Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi". Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm: "Anh về nay đã hai rằm,(195)
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?"
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậ u cao, Tôi cùng Bùi Kiệ m đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau. Đương cơn hoạ n nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quậ n Đông Thành, Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong? Lần hồi đến chốn giang trung,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 34
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
Hâm rằng: "Anh tạ m ngồi đây, Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoạ i khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kì". Tiểu đồng vộ i vã ra đi
Muốn cho đặ ng việ c quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hạ i Tiên phải dụ ng mưu này mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp?n.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.(196)
Bấy lâu đất khách lưu linh, Mộ t thầy mộ t tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau, Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình".
Hâm rằng: "Anh chớ ngạ i tình, Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi".
Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi mộ t bề. Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phậ n mình đã mắc tai nàn, Cám thương họ Lụ c suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dậ t dờ, Đò giang nào biết bụ i bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm". Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
35
Đêm khuya ngồi dựa cộ i tùng ngủ quên.
Sơn quân ghé lạ i mộ t bên,(197) Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.(198)
Nửa mừng nửa lạ i sợ thay, Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.
Mặ t trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộ n nhàng. Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang chăng là?"(199)
Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vộ i vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Mộ t gã con trai, ở đâu không biết lạc loài tới đây.
Chưn tay mặ t mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than mộ t hồi.
Người đều xem thấy thương ôi, Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng. Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọ n bề. Mộ t mình ở đất Đạ i Đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm.(200) Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọ n nghĩa thác thơm danh hiền.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 36
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phậ n tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông, Riêng than mộ t tấm cô bồng ngẩn ngơ.(201) Đêm khuya lặ ng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọ c mịt mờ sương bay.(202) Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.(203) Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.(204)
Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lụ c xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng, Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày, Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa mộ t giờ,(205) Ông hơ bụ ng dạ mụ hơ mặ t mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặ ng ngồi dương gian. Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọ i đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui".(206)
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi, Thân tôi như thể trái mùi trên cây.(207)
May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
37
Nước trong rửa ruộ t sạ ch trơn, Mộ t câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,(208) Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài lưới mệ t quăng câu dầm. Nghêu ngao nay chích mai đầm,(209) Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời. Thuyền nan mộ t chiếc ở đời.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang". Tiên rằng: "Vậy cũng mộ t làng,
Võ Công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần, Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi". Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạ o tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọ n ân tình, Đương khi hoạ n nạ n ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu,(210) Xin đem tới đó trước sau cho tròn".
Ngư rằng: "Làm đạ o rể con, Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậ m bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặ ng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi? Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu? Đã ba thứ tóc trên đầu,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 38
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời". Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang.(211) Dắt Tiên vào chốn hậ u đàng,
Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi. Chẳng qua sợ thế gian cười,
Mộ t lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa,
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn". Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn, Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Nhớ xưa trong núi Lư San,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.(212) Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạ ng Võ qua miền Ô Giang.(213)
Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn". Mộ t lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.
Võ Công không ngớt lòng phiền, Ân tình, thế lợi khó tuyền đặ ng vay. Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây, Cho ta trở lạ i sau này liệ u toan". Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
Mặc con toan liệ u làm sao, Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn. Ai cho sen muống mộ t bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê?(214) Thà không chót chịu mộ t bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu! Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
39
Rể đâu có rể đui mù thế ni? Đã nghe người nói hộ i này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa. Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương, họ Võ mộ t nhà mới xinh".
Công rằng muốn trọ n việ c mình, Phải toan mộ t chước dứt tình mới xong. Nghe rằng trong núi Thương Tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông Thành ngàn dặ m còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than.(215) Võ Công ra trước dỗ chàng,
Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành. Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.(216)
Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
Ghi lòng dốc trọ n thảo ngay,
Mộ t phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lắng nghe vẳng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng, Nghĩ ra mới biết Võ Công hạ i mình.
Nực cười con tạo trớ trinh,(217) Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạ n biết bao, Mới lên khỏi biển lạ i vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo.(218) Trong hang sau trước quạ nh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 40
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhân gian,
Dựa mình vào chốn thạ ch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọ n gió thổi lò, Sương sa lác đác mưa tro lạ nh lùng.(219)
Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần xem thấy ai hoài,(220) Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên. Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra.
Khỏi hang mộ t dặ m vừa xa, Đến nơi đạ i lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lạ i sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man. Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng. Tới nơi đạ i lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than. Hay là yêu quái tà gian,
Rung cây nhát lão làm đàng hạ i nhân.
Lão tiều liền bước tới gần, Thiệt là mộ t gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vộ i vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gậ t đầu thở than:
"ít người trong tuyết đưa than,(221) Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dậ t biết đường thảo ngay:
41
"Ngửa trông lượng cả cao dầy, Cứu trong mộ t buổi ơn tày tái sinh.
Mai sau về tới Đông Thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lạ i trông người sao hay.
Già hay thương kẻ thảo ngay, Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng: "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi.(222)
Lạ i thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi". Lão tiều vộ i ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệ ng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp mộ t chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lậ t đậ t bôn trình,(223) Hớn Minh theo hỏi sự tình mộ t khi. Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vộ i mừng bạ n cũ còn nghi nỗi mình. Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh,(224) Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?"
Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi, Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi, Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luậ n bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên." Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặ ng Vân Tiên bạ n lành, Này hai lượng bạ c trong mình,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 42
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không. Mộ t mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai, Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong, Trăng thanh giómát bạ n cùng hươu nai. Công hầu phú quí mặc ai,
Lộ c rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay, Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn. Lão tiều trở lạ i lâm sơn,
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.(225) Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọ c hữu ở đây làm gì?" Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi, Gặp nơi miếu võ đều đi mộ t lần. Anh thời về trước tỉnh thân.(226) Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyệ n Loan Minh,
Gặp con quan huyệ n Đặ ng Sinh là chàng. Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì.(227) Tôi bèn nổi giậ n mộ t khi,
Vậ t chàng xuống đó bẻ đi mộ t giò. Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyệ n đàng. án đày ra quậ n Sóc Phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây. Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương, Lạ i bày mộ t khúc tai ương phậ n mình. Minh nghe Tiên nói độ ng tình,
43
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng. Tiên rằng: "Thượng cộ i xuân huyên,(228) Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
Trông con như hạn trông dào, Mình này trôi nổi phương nào biết đâu. Vừng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành.(229)
Hữu tam bất hiếu đã đành.(230) Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruộ t gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần". Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan. Thấp cao vàng biết tuổi vàng, Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê. Thôi thôi anh chớ vội về,
ở đây nương náu toan bề thuốc thang. Bao giờ hết lúc tai nàn,
Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La sớm gặp cũng xinh,(231)
Muộ n mà Khương Tử cũng vinh một đời.(232) Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong".(233) Vân Tiên khi ấy yên lòng,
ở nơi am tự bạ n cùng Hớn Minh. Võ công làm việc trớ trinh,(234) Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hạ i chàng, Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi, Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền, Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi.(235)
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 44
Thương chàng phậ n bạ c trong đời, Cũng vì Nguyệ t lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạ nh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạ nh nhớ linh xưa, Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình. Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn. Cùng nhau chưa đặ ng vuông tròn. Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạ o mấy người đồng tâm".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm, Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang.(236)
Thôi thôi khuyên chớ thở than, Đây đà tính đặ ng mộ t đàng rất hay. Tới đây thời ở lạ i đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia.(237) Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên. Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên,(238) Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau. Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạ n dám đâu lỗi nghì!
Chẳng hay người họ c sách chi, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe? Hay là họ c thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công?(239)
Hay là họ c thói Đường cung,(240) Vợ người Tiều Lạ c sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần, Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm?(241)
Nói sao chẳng biết hổ thầm, Người ta há phải là cầm thú sao?
45
Võ Công hổ thẹ n xiết bao, Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra.
Miệ ng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn. Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,(242) Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây, Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng".
Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi.(243)
Chú thích
Mồ chồng ngọ n cỏ còn tươi, Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệ t hoa.
Hổ hang vậy cũng người ta, So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri, Suối vàng có biết sự ni chăng là?" Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành.
Võ Công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bệ nh thất tình chết oan(244)
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang, Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
(50) Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu.
(51) Bình thuỷ tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờmà gặp.
(52) Bằng hữu chi giao : tình bạn bè.
(53) Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên.
(54) Hai bảy: mười bốn
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 46
(55) Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) kẻ Việt (phía Nam) chung một nhà.
(56) Dồi: trau dồi son phấn.
(57) Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hoà thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hoà nhau).
(58) Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả.
(59) Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹ p), chỉ vợ chồng tốt đôi.
(60) Dâu nam giản: Người con dâu trung hậ u, đảm đang, lấy ý từ kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việ c nội trợ . Trai đồng sàng: chỉ chàng rể tốt.
(61) Ngãi tế: con rể.
(62) Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ .
(63) Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người.
(64) Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai.
(65) Bình thuỷ hữu duyên: bèo nước có duyên.
(66) Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau.
(67) Kì: chỉ người tài giỏi khác thường.
(68) Bạ ch Hàm Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ v?n,tài h oa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến.
(69) Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việ c nước.
(70) én hộ c: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)
(71) Thượng trình: lên đường.
(72) Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lên đình: Sân có trồng lê.
(73) Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm.
(74) Liễm dung: Nghiêm chỉnh dáng điệ u để tỏ ý tôn trọng.
47
(75) Phó công: đi thi lập công danh.
(76) Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động.
(77) Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng.
(78) Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt.
(79) Tào Khương: Tấm Cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn.
(80) Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đăng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá.
(81) May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ , lẽ đó bày ra rành rành.
(82) Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ . Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú.
(83) Vầy đoàn: họp lại thành đoàn.
(84) Sông đẹp núi lạ , nói cảnh đẹp.
(85) Gặp thời, thoả lòng đua sức đua tài."
(86) Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng.
(87) Cửa Võ: Mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hoá rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi vượt qua Vũ môn.
(88) Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng.
(89) Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn.
(90) Kinh địa: đất kinh đô.
(91) Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng.
(92) Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề.
(93) Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm.
(94) Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: Lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon. Cúc hương: hương hoa cúc.
(95) Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất.
(96) Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 48
(97) Bất tài đồ thơ: không có tài năng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức họ c kém cỏi.
(98) Tôn Tẩn là bạn họ c binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để gìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẩn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lự a chọn).
(99) Tuyền: trọn đủ cả. ý cả câu: ông có thông thuộ c cả kinh sử hay không?
(100) Hay ghét hay thương: biết ghét và biết thương.
(101) Tầm phào: vu vơ, hão huyền.
(102) Kiệt Trụ : Vua Kiệt nhà Hạ , vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạ o ngượ c, vô đạ o, hoang dâm.
103 U Lệ : U vương và Lệ vương thời nhà Chu làm nhiều việ c bạ o ngược, vô đạ o. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối.
104 Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, năm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn.
105 Đời thúc quý: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân băng: chia lìa. Sớm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lạ i đánh.
106 Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học.
107 Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử.
108 Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành.
109 Đồng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán.
110 Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn.
111 Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung,
49
ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu.
112 Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học.
113 Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn.
114 Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước.
115 Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân.
116 Sào Phủ Hứa Do: Hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu.
117 Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi thú dương hái rau vi màăn, không chịu ăn thóc nhà Chu. Chăng khứng: không chịu.
Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả. 118 Hai đại công thần nhà Thương.
119 Thái Công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ vương dựng nghiệp nhà Chu.
120 Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ.
121 Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh cao ẩn dật. áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát.
122 Trần Đoàn: học rộng, tinh thông kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên.
123 Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao.
124 Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền).
125 Rừng nhu biển thánh: đạo nho dày như rừng, rộng như biển. 126 Khai phong: mở phong thư.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 50
Sự cơ: sự tình, nông nỗi.
127 Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết)
128 Sách Văn Công: Sách qui định nghi lễ về tang ma cưới xin. 129 Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con. 130 Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm.
131 Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài n?ng lỗilạc củaVân Tiên.
132 Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa.
133 Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao. 134 Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn.
135 Quày quã: vội quay phắt ngay đi.
136 Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người.
137 Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù. 138 Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối. 139 Đầu thang: bốc thuốc.
140 Y học, Thọ thế, Đông y các bộ sách y học cổ truyền. 141 Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt.
142 Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai.
143 Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng. 144 Ngự Toản; Hồi xuân: các sách thuốc cổ.
145 Xuân thần: Vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y. 146 Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận.
147 Lư san: bài phú dạy phép xem mạch.
148 Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết. 149 Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy. 150 Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn.
51
151 Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài. 152 Lục bộ : sáu bộ mạch.
153 Phù hồng: mạch nổi.
154 Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người. 155 Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hoả: dương khí (thận hoả).
156 Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hoả). Tư âm: làm vượng âm lên.
157 Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng.
158 Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại.
159 Vạn linh: thuốc chữa mắt đau.
160 Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra.
161 Đòi cuộc đòi đàn: Đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước. 162 Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc.
163 E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỉ thần nên bị quỉ thần phạt.
164 Cẫu: cầu xin giúp.
165 Châu Diệc; kinh dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán.
166 Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán. 167 Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán. 168 Can, chi: (trong khoa lí số).
169 Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường.
170 Rùa thi: mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói.
171 Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa.
172 Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau. 173 Quẻ du hồn: quỉ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 52
174 Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở. 175 ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp.
176 Phù chú: lá bùa và câu thần chú.
177 Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất.
178 Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hoá thành binh lính. 179 Đạo hoả: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi. 180 Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất.
181 Hề: hề đồng
182 Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Toạ tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho.
183 Tôn Ngộ Không.
184 Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương. 185 Vị tướng đời Đường.
186 Bà tiên cai quản tiên nữ.
187 Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương.
188 Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại.
189 Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân.
190 Tráo chác: lừa dối, trở mặt.
191 Thon von: cô đơn sa sút gian nguy. 192 Khuyên giáo: đi xin của bố thí.
193 Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hoà). 194 Luông tuồng: tơi bời.
195 Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng. 196 Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn.
197 Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ. 198 Ràng ràng: rành rành.
199 Người tang: người bận áo tang.
53
200 Quảy đơm: cúng lễ.
201 Cô Bồng: con thuyền lẻ loi.
202 Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào. 203 Vời: khoảng nước rộng, lòng sông.
204 Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện. 205 Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa.
206 Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo. 207 Trái mùi: trái chín nục.
208 Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông. 209 Chích, đầm: ao hồ.
210 Cứu tử: cứu cho khỏi chết. 211 Chẳng đã: cực chẳng đã.
212 Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông.
213 Hạng Võ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Võ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát).
214 Phồn: giống, thứ hạng.
215 Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính. 216 Gay: vặn quai chèo chặt vào cọc chèo.
217 Trớ trinh: trớ trêu.
218 Cheo: loài nai xạ hương.
219 Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi. Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn
220 Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian.
221 Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi.
222 Không hoà mùi chi: không ?n uống gì. 223 Bôn trình: lên đường.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 54
224 Nhơn huynh: người anh tốt.
225 Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh. 226 Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ.
227 Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa. 228 Xuân huyên: cha mẹ.
229 Để tang ba năm cũng chưa đủ báo đáp công sinh thành của cha mạ.
230 Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu. 231 Cam La: mưu sĩ thời Chiến quốc. 232 Khương Tử Nha (xem CT 119).
233 Bôn chôn: nôn vội. 234 Lừa dối.
235 Huỳnh tuyền: suối vàng. 236 Sắt cầm: tình duyên.
237 Thất gia: chỉ vợ chồng.
238 Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó.
239 Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em. 240 Đường cung: cung vua Đường.
241 Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần Vương (Tần Thủy Hoàng).
242 Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa. Nằng nằng: quyết mộ t bề không đổi.
243 Điêu Thuyền dùng kế mĩ nhân quyến rũ Lã Bố và Đổng Trác, khiến Bố giết Trác.
244 Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộn.
55
Kiều Nguyệt Nga
Đoạ n này đến thứ Nguyệ t Nga, Hà Khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều Công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyệ n Đông Thành chăn dân.(245) Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời, Lục ông vâng lệ nh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi chuyệ n Vân Tiên. Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang, Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
Biệt tin từ ấy nhẫn nay,(246) Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang.
Kiều công trong dạ bàng hoàng, Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lạ i cùng cha,
Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo. Riêng than chút phậ n tơ điều,(247) Hán Giang chưa gặp Ô Kiều lại rơi".(248)
Nàng rằng: "Phải thiệt như lời, Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 56
Nguyệ t Nga đứng dựa bên phòng, Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa, Nguyệ t Nga con khá đem đưa người nhìn". Lụ c ông mộ t buổi ngồi nhìn,
Tay chân mặ t mũi giống in con mình. Chuyệ n trò sau trước phân minh, Lục ông khi ấy sự tình mới hay: Thương con phậ n bạc lắm thay, Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?" Nguyệ t Nga chi xiết nỗi sầu,
Lụ c ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng: "Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du,(249) Sớm còn tối mất công phu lỡ làng,(250) Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,(251) Cũng chưa nên nghĩa tào khương đâu mà.
Cũng như cửa sổ ngựa qua, Nghĩ nào mà ủ mặ t hoa cho phiền". Nàng rằng trước đã trọ n nguyền, Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng chút nặ ng tình xưa, Bèn đem tiền bạ c tạ đưa cho người. Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi. Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này. Bây giờ con lạ i thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặ ng nào.
Ngửa trông đất rộ ng trời cao, Tre còn măng mất lẽ nào cho cân". Lục ông từ tạ lui chân,
Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
57
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than, N?m canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng, Chưa nguôi nỗi thảm lạ i vương lấy sầu. Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi. Biết nhau chưa đặ ng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đứng anh tài, Việc văn việc võ nào ai dám bì. Thương vì đèn sách lòng ghi, Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu.
Thương vì hai tám tuổi đầu, Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chưa đặ ng hiển vang, Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau.(252)
Năm canh chẳng ngớt giọ t châu, Mặ t nhìn bức tượng ruộ t đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặ ng gần, Âm cung biết có thành thân chăng là".
Kiều công thức dậy bước ra, Nghe con than khóc xót xa lòng vàng. Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang, Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy cánh giữa đường chẳng hay. Nay đà loan phụ ng lẻ bầy,
Niệ m nghiêng gối chích phậ n này đã cam. Tr?m n?m thềchẳng lòngphàm,(253)
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 58
Sông Ngân đưa bạ n Cầu Lam rước người.
Thân con còn đứng giữa trời, Xin thờ bức tượng trọ n đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui: "Con đành giữ tiết trọ n đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọ ng trong trào sắc phong. Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương. Thái sư dùng lễ vậ t sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia.(254) Kiều công khôn ép Nguyệ t Nga,
Lễ nghi đưa lạ i về nhà thái sư. Thái sư chẳng biết rộ ng suy, Đem điều oán hậ n sớm ghi vào lòng. Xảy đâu giặ c mọ i hành hung,
Ô Qua quốc hiệ u binh nhung dấy loàn.(255) Đánh vào tới ải Đồng Quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
"Sao cho vững nước an dân, Các quan ai biết mưu thần bày ra?" Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vộ i vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng: "Thuở xưa giặc mọ i dấy loàn,
Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.
Muốn cho khỏi giặ c Ô Qua, Đưa con gái tốt giao hoà thời xong.
Nguyệ t Nga là gái Kiều Công, Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
Nàng đà có sắc khuynh thành, Lạ i thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô Qua, Phiên vương ưng dạ chắc là bãi binh". Sở vương nghe tấu thuậ n tình,
59
Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.
Sắc phong Kiều lão thái khanh: "Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
Nguyệ t Nga nàng ấy nên người, Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
Kiều công vâng lệ nh nhà vua, Lẽ nào mà dám nói phô điều nào?
Nguyệ t Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài, Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo: "Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ hoạ đồ gây nên(256)
Hạ nh Ngươn xưa cũng chẳng yên, Bởi chưng Lư Kỉ cự u hiềm còn nghi.(257)
Hai nàng chẳng đã phải đi,
Mộ t vì ngay chúa mộ t vì thảo cha. Chiêu Quân nhảy xuống giang hà, Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạ nh Ngươn nhảy xuống Trì Linh, Thương người Lương Ngọ c duyên lành phui pha. Tới nay phậ n bạc là ta,
Nguyệ n cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần, Nghĩa xa cũng trọ n ơn gần cũng nên.
Nghĩa tình nặ ng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lạ i quên ơn chồng.
Sao sao mộ t thác thời xong,(258) Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
Kiều công thương gối đương lo, Nghe con than thở mấy câu thêm phiền. Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh:(259)
"Chẳng qua là việc triều đình, Nào cha có muốn ép tình chi con".
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 60
Nàng rằng: "Con kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
Thương cha tuổi hạc đã cao, E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu, Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?" Công rằng: "Chẳng sá việc nhà, Hãy an dạ trẻmà qua nước người.
Hôm nay đã tới mùng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
Nàng rằng: "Việc ấy đã đành, Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọ n cùng Vân Tiên.
Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền.
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
Kiều công biết nghĩ trước sau, Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi, Nguyệt Nga vào đặ t lễ nghi sẵn sàng. Ngày lành giờ ngọ đăng đàn.
ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệ t Nga cất tiếng khóc than: "Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay".
Bảy ngày rồi việc ma chay,
Lạ i đem tiền bạc tạ rày Lục ông: "Trông chồng mà chẳng thấy chồng, Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọ i là dâu, Muốn lo việc nước phải âu việc nhà.
61
Mộ t ngày mộ t bước mộ t xa, Của này để lạ i cho cha dưỡng già ".
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa, Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe giá bộ n bề, Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.
Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền. Nguyệ t Nga vộ i khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua. Công rằ ng: "Thậ t dạ xót xa,
Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
Nàng rằ ng non nước cao sâu, Từ đây xa cách con hầu thấy cha. Thân con về nước Ô Qua,
Đã đành mộ t nỗi làm ma đất người.
Hai phương Nam Bắc cách vời, Chút xin gởi lạ i mộ t lời làm khuây.
Hiu hiu gió thổi ngọ n cây, ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
Kiều công lụy ngọ c nhỏ sa,
Các quan ai nấy cũng là đều thương.
Chẳng qua việ c ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xôi. Buồm trương thuyền vộ i tách vời, Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông. Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộ ng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào, Bóng trăng vằ ng vặ c bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặ ng lẽ như tờ, Nguyệ t Nga nhỡ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằ ng nọ nước kìa non, Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?" Quân hầu đều ngủ đã lâu,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 62
Lén ra mở bức rèm châu mộ t mình: "Vắng người có bóng trăng thanh, Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay,
Thiếp nguyền mộ t tấm lòng ngay với chàng".
Than rồi lấy tượng vai mang, Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Kim Liên thức dậy mới hay, Cùng quân thể nữ mộ t bầy đều lo. Cùng nhau lặng chẳng dám hô, Thầm toan mưu kế chẳng cho lộ tình: "Việc này là việc triều đình,
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệ m trăm đàng, Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệ t Nga. Trá hôn về nước Ô Qua,
Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?" Tính rồi xong xả chước mầu, Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan. Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệ u trương lọ ng phụ ng rước nàng về Phiên. Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặ ng làm hoàng hậ u nước Phiên mộ t đời. Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời, Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọ n cây, Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông, Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay. Quan âm thương đấng thảo ngay, Bèn đem nàng lạ i bỏ rày vườn hoa. Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga, Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày. Đôi ba năm nữa gần đây,
63
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi, Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao. Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân? Một mình luống những bâng khuâng, Phút đâu trời đã rạ ng hừng vừng đông. Mộ t mình mang bức tượng chồng, Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương, Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
Nàng rằng: "Trậ n gió hôm qua, Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
Tối tăm sẩy bước tới đây,
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
Bùi ông đừng ngắm tướng nàng. Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
Đầu đuôi han hỏi sự tình, Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con. Rằng: "Ta sanh đặ ng chồi non,
Tên là Bùi Kiệ m hãy còn ở kinh. Trong nhà không gái hậ u sinh, Ngày nay đặ ng gặp minh linh phước trời". Nguyệ t Nga ở đã yên nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa. Một lo về nước Ô Qua,
E vua bắt tội cha già rất oan. Hai lo phậ n gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì.(260) Nguyệ t Nga luống những sầu bi, Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Từ ngày thấy mặ t Nguyệt Nga, Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 64
Thấy nàng thờ bức tượng nhân, Nghiệ m trong tình ý dần lân hỏi liền:(261)
"Tượng này sao giống Vân Tiên. Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?"
Nàng rằng: "Làm phậ n nữ nhi,
Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng.(262)
Trăm năm cho vẹ n đạo tòng, Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi, Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa.
Làm người trong cõi gió mưa,
Bảy mươi, mất mặt người xưa thấy nào? Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần!
Chúa đông ra khỏi vườn xuân, Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang! ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân mòn hết, ngàn vàng khôn mua.(263) Hay chi như vãi ở chùa,
Một căn cửa khép bốn mùa lạ nh tanh?
Linh đinh một chiếc thuyền tình, Mười hai bến nước biết mình vào đâu? Ai từng mặc áo không bâu,(264)
ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau, Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệ t mình".
Nàng rằng: "Xưa học sử kinh, Làm thân con gái chữ trinh làm đầu. Chẳng phen thói nước Trịnh đâu,(265) Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình". Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
Sao không soi xét, để mình ngồi không? Hồ Dương xưa mới goá chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa.(266)
65
Hạ Cơ lớn nhỏ đều ưa,
Sớm đưa Doãn, Phủ tối ngừa Trần Quân.(267)
Hớn xưa Lữ Hậ u thanh xuân, Còn vừa Cao Tổ mới đành Dị Ki.(268) Đường xưa Võ Hậ u thiệ t gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già.(269) Cứ trong sách vở nói ra,
Mộ t đời sung sướng cũng qua mộ t đời! Ai ai cũng ở trong trời
Chính chuyên, chắc nết, chết thời cũng ma.(270)
Người ta chẳng lấy người ta, Người ta đâu lấy những là tượng nhân? Cho nên tiếc phậ n hồng nhan,
Học đời Như ý vẽ chàng Văn Quân".(271)
Nguyệ t Nga biết đức tiểu nhân, Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi. Bùi ông ngon ngọ t trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình: "Làm người chấp nhứt sao đành,(272) Hễ là lịch sự có kinh có quyền.(273)
Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
Nhớ câu xuân bất tái lai, Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn. Làm chi thiệt phậ n hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạ nh lùng?
Vọ ng Phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phui pha. Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi".(274)
Nguyệ t Nga giả dạ ng mừng vui, Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy. Tôi xin dám gởi lòng này,
Hãy tua chậ m chậm sẽ vầy nhơn duyên.(275) Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 66
Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung". Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọ n nhà sửa chỗđộ ng phòng cho xuê. Chiếu hoa gối sạ ch bộ n bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.(276)
Xảy vừa tới lúc canh ba, Nguyệ t Nga lấy bút đề và câu thơ.
Dán trên vách phấn mộ t tờ, Vai mang bức tượng mộ t giờ ra đi. Hai bên bờ bụ i rậ m rì,
Đêm khuay vắng vẻ gặp khi trăng lờ. Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo. Qua truông rồi lạ i lên đèo,
Dế kêu dắng dỏi sương gieo lạ nh lùng. Giày sành, đạp sỏi thẳng xông,(277) Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặ ng hồi lâu,
Tìm nơi bàn thạ ch ngõ hầu nghỉ chân.
Người ngay trời phậ t cũng vâng, Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệ t Nga, Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta.(278)
Khi khuya nằm thấy Phậ t bà, Người đà mách bảo nên già tới đây".
Nguyệ t Nga bán tín bán nghi, Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà. Bước vào thấy những đàn bà, Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệ t Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm ra chốn Ô Sào,
Quan san mấy dặ m đi vào tới nơi.(279)
67
Chú thích
245 Chăn dân: trị dân, cho dân yên ổn làm ăn. 246 Nhẫn nay: đến nay, tới bây giờ.
247 Tơ điều: tơ đỏ xe duyên.
248 Nguyệt Nga chưa nên nghĩa vợ chồng với Vân Tiên, cũng như Chức nữ, Ngưu lang chưa kịp gặ p nhau trên sông Ngân mà nhịp cầu Ô đã rơi mất, không bao giờ gặ p lại được nữa.
249 Phù du: con vờ.
250 Công phu lỡ làng: bỏ sức ra làm dang dở.
251 Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu. 252 Vùa hương bát nước: bát hương và chén nước thờ.
253 Vừa đưa chồng về lại bên kia sông Ngân, thì đã lại đến Cầu Lam rước người tình khác. ý nói mất chồng này tìm chồng khác.
254 Mai chước: người làm mối.
255 Ô Qua: tên ngầm chỉ giặ c Qua Oa ở bể vào cướp phá miền Châu Đốc, Hà Tiên.
256 Chiêu Quân thời Hán Nguyên đế bị tuyển làm cung nữ. Nàng không chịu đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị y vẽ xấu đi, vua không vời đến. Về sau bị chọn tiến vua Hung Nô.
257 Hạnh Ngươn: Nhân vật truyện Nhị Độ Mai. 258 Sao sao: dù thế nào đi nữa.
259 Thân danh: thân mình và danh dự .
260 E rằ ng người che chở và nuôi nấng mình có mưu toan gì? 261 Dần lân: lân la dần dần.
262 Chánh tiết: trinh tiết, ngay thẳng. 263 Ba xuân: ba tháng xuân, tuổi xuân. 264 Bâu: cổ áo.
265 Chẳng phen: chẳng bắt chước. Thói nước Trịnh: thói tà dâm như trai gái nước Trịnh trèo tường đón ngõ rủ rê nhau ra nơi đồng nội để thoả lòng dục.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 68
266 Công chúa Hồ Dương chồng chết, phải lòng Tống Hoằng.
267 Hạ Cơ: Con gái Trịnh Mục Công, xinh đẹp, lẳng lơ, có chồng mà vẫn một lúc ngoại tình với nhiều người.
268 Lữ Hậu: vợ Hán Cao Tổ mất, Lữ Hậu tư thông với Dị Ki (Thẩm Tự Cơ) cho Tự Cơ làm tả thừa tướng để tiện bề chung chạ .
269 Võ Hậu thông tình với hai anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi. (Tức Di Tôn, Tam Tư).
270 Chính chuyên: một bề tiết hạnh. Trắc nết: mất nết.
271 Nàng Như ý sau khi cứu V?n Quân thoát nạn, đem lòng yêu chàng, vẽ hình chàng. Sau hai người lấy nhau (tuồng cổ).
272 Chấp nhứt: câu nệ về một lẽ.
273 Hễ là người trải đời thì phải biết cả chấp kinh (tuân thủ nguyên tắc) lẫn tòng quyền (vượt ngoài nguyên tắc).
274 Vầy: sum họp. 275 Tua: nên phải.
276 Gối sách: gối gấp nhiều lớp, có thể chồng lên nhau mà ngồi dựa.
Bát bửu: tám vậ t quý là gươm, giáo, búa... bằng đồng hay bạ c để bày cho thêm sang trọ ng.
277 Giầy xéo lên sành, đạp lên sỏi. 278 Khá tua: phải nên.
279 Nguyệt Nga đã trôi giạt tới chốn cửa ải và núi non, xa xôi cách trở.
69
Vân Tiên - Nguyệt Nga
Đoạn này tới thứ ra đời, (280) Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kẽ từ nhuốm bệnh đường xa, Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm. Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạ nh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa. Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặ m đường. Tiên rằng : "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay". Minh rằng : "Tôi vốn chẳng may, Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi. Dám đâu bày mặt ra thi,
Đã đành hai chữ quy y chùa này". (281)
Tiên rằng : "Phước gặp khoa này, Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau, (282) Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người chử dạ cho bền thảo ngay".
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 70
Hớn Minh trở lạ i am mây,
Vân Tiên về mộ t tháng chầy tới nơi. Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè con sống trên đời thấy cha !
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chậ t nhà hỏi thăm. Ông rằng : "Kể đã mấy năm,
Con mang bệnh tật ăn nằm nơi nao ?"
Thưa rằng : "Hoạ n nạ n xiết bao, Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an ".
Đặ t bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh : (283)
"Suối vàng hồn mẹ có linh, Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bền nguồn nước cộ i cây, (284)
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng. (285) Suy trang nằm giá, khóc măng, (286)
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa". (287) Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà. Ông rằng : "Có nàng Nguyệt Nga, Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê. Nhờ nàng nên mới ra bề, (288) Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi, Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu. Hỏi rằng : "Nàng ấy ở đâu,
Đặ ng con đến đó đáp câu ân tình".
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
"Kiều công rày ở Tây Xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra". (289) Tiên rằng : "Cám nghĩa Nguyệ t Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng.
71
Tây Xuyên ngàn dặ m thẳng xông, Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền:
"Nguyệ t Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặ ng đoàn viên cùng chàng ? Mấy thu Hồ Việt đôi phang, (290) Cũng vì máy tạ o én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lạ i thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành. (291)
Hẹp hòi đặ ng chút nữ sanh.
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn". (292)
Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn: "Cũng vì mộ t sự oán hờn nên gây. Thôi con ở lạ i bên này,
Hôm mai thấy mặ t cho khuây lòng già". Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lệ nh mở khoa thi, Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn dặ m mộ t đường thẳng ra. (293)
Vân Tiên dự trúng khôi khoa, (294) Đương trong nhâm tí thiệ t là năm nay. Nhớ lời thầy nói thậ t hay,
Bắc phương gặp chuộ t hẳn rày nên danh.
Vân Tiên vào tạ triều đình, Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặ c Ô Qua,
Phủ vây quan ải, quân ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng:
Chỉ sai quốc trạ ng dẹp loàn bầy ong. (295) Trạ ng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng mộ t tướng anh hùng đề binh. (296) Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạ ng Võ mạ nh kình Trương Phi. Ngày xưa mắc án trốn đi,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 72
Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
Sở vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tộ i Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phótướng bình di, (297) Tiên Minh tương hộ i xiết gì mừng vui. (298)
Nhất thanh phấn phát oai lôi, (299) Tiên phong hậ u tập trống hồi tấn binh. (300)
Quan sơn ngàn dặ m đăng trình, Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. (301) Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha, ngay chúa, mới là tài danh. Phút đầu binh đáo quan thành, (302)
Ô Qua xem thấy, xuất hành cự đang. (303) Tướng Phiên hai gã đường đường,
Mộ t chàng Hoả Hổ mộ t chàng Thần Long.
Lạ i thêm Cốt Độ t nguyên nhung, Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong, Đánh cùng Hoả Hổ Thần Long mộ t hồi. Hớn Minh chùy giáng dường lôi, (304) Hai chàng đều bị mộ t hồi mạ ng vong.
Nguyên nhung Cốt Độ t nổi xung, Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình, Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui. Vân Tiên đầu độ i kim khôi,
Tay cầm siêu bạ c mình ngồi ngựa ô. (305)
Mộ t mình lướt trậ n xông vô, Thấy người Cốt Độ t biển hô yêu tà.
Vộ i vàng trở ngựa lui ra, Truyền đem máu chó đều thoa ngọ n cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ, Yêu ma xem thấy mộ t giờ vỡ tan. Phép tà Cốt Độ t hết phương,
73
Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên. Trung, tiền, tả, hữu, lưỡng biên,
Trạ ng nguyên - Cốt Đột đánh liên tối ngày. Sa cơ Cốt Độ t chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kíp rày đuổi theo. Đuổi qua mới đặ ng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao. (306)
Chạy ngang qua núi Ô Sào, Phút đâu con ngựa sao hào thương ôi. Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng, Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh. (307) Mộ t mình trong chốn non xanh, Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.
Đoạ n này tới thứ Nguyệt Nga,
ở đây tính đã hơn ba năm rồi. Đêm khuya trong ngọ n đèn ngồi, Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi: "Quân âm thuở trước nói chi,
éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài. Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
Không trông mồng bảy đêm thu, Không trông bầy quạ độ i cầu đưa sao. (308) Phải chi hỏi đặ ng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau ?" Nguyệ t Nga gượng giải cơn sầu, Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà, Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệ t Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 74
Lão bà lật đật hỏi chào :
"ở đâu mà tới rừng cao một mình ?"
Vân Tiên mới nói sự tình : "Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô Qua,
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây". Lão bà nghe nói sợ thay :
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già ". Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệ t Nga, Lạ i xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi, Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình. Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường ".
Lão bà chẳng dám lời gian : "Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng : "Nàng xách lại đây, Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè, Mặt thời giống mặt, còn e lạ người. Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng : "Sao nàng chẳng nói đi, Hay là ta hỏi động chi chăng là ?" Nguyệ t Nga khép nép thưa qua : "Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đàng về chốn cửu tuyền, Thiếp lăm trọ n đạo, lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn : "Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi ?"
Nàng bèn tỏ thiệ t mộ t khi,
Vân Tiên vộ i vã xuống quì vòng tay. Thưa rằng : "May gặp nhau đây, Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
75
Để lời thệ hải minh sơn, (309) Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệ t là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ". Nguyệ t Nga bảng lảng bơ lơ, (310) Nửa tin rằng bạ n, nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng : "Đã thiệt tên ngài, Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua". (311)
Vân Tiên dẫn tích xưa ra, Nguyệ t Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa, Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xa nghe quân ó vang dầy, Bốn bề rừng bụ i khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra, Thấy cờ đề chữ hiệ u là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh, Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau. Minh rằng : "Tẩu tẩu ở đâu, (312) Cho em ra mắt chị dâu thế nào".
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệ t Nga đứng dậy miệ ng chào có duyên.
Minh rằng : "Tưởng chị ở Phiên, Quyết đem binh mã sang miền Ô Qua.
May đâu sum hiệp một nhà, Giặc đà an giặc khải ca hồi trào". Tiên rằng : "Nàng tính thế nào ?" Nàng rằng : "Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên, Lịnh tha tội trước mới nên về nhà ".
Tiên, Minh trở ngựa đều ra, Đem binh trở lạ i triều ca đề huề. (313)
Sở vương nghe trạ ng nguyên về, Sai quan tiếp rước vào kề bên ngai. Sở vương bước xuống kim ngai,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 76
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạ ng nguyên. Phán rằng : "Trẫm sợ nước Phiên,
Có người Cốt Độ t phép tiên lạ lùng. Nay đà trừ Cốt Độ t xong,
Thiệ t trời sanh trạ ng giúp trong nước nhà. Phải chi trước có trạ ng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệ t Nga cống Hồ ".
Lệ nh truyền mở yến triều đô, Rày mừng trừ đặ ng giặ c Ô Qua rồi.
Trạ ng nguyên quì tấu mộ t hồi, Nguyệ t Nga các việ c khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng.
Phán rằng : "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạ ng nguyên, Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu ". Thái sư trước bệ quì tâu :
"Ô Qua dấy độ ng qua mâu cũng vì, (314) Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệ t Nga nàng thiệt tội thì khi quân"
Trạ ng nguyên mặ t đỏ phừng phừng, Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng : "Nguyệ t Nga trinh tiết ví bằng người xưa.
Thái sư trước chẳng lo lừa, Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng ?
Dầu cho nhựt nguyệ t rõ ràng.
Không soi chậ u úp cũng mang tiếng đời. (315)
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan ". Trạ ng nguyên tâu trước triều đàng : "Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà. Trịnh Hâm là đứa gian tà,
Hạ i tôi buổi trước cũng đà ghe phen ". (316) Sở vương phán trước bệ tiền :
77
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (317) Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng. (318)
Hớn xưa có gã Đổng công, (319) Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng họ Lưu. Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa ? Thấy người trung chánh chẳng ưa, Rắp tâm kế độc lập lừa mưu sâu. Trịnh Hâm tộ i đáng chém đầu, ấy là mới hết người sau gian tà ".
Sở vương phán trước triều ca : "Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạ o thần,
Giao cho quốc trạ ng xử phân pháp hình. Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quậ n chúa hiển vinh rỡ ràng. Kiều công xưa mắc tộ i oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành.
Trạ ng nguyên dẹp giặ c đã bình, Kiệ u vàng tán bạc hiển vinh về nhà ". Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạ ng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi. Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạ ng nguyên mới hỏi mộ t lời : "Trịnh Hâm tộ i ấy các người tính sao ?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào, Mặ t nhìn khắp hết miệng chào các anh.
Minh rằng : "Ai mượn kêu anh, Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi. Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan ". Trực rằng : "Minh nóng nói ngang, Giết ruồi ai dụ ng gươm vàng làm chi
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 78
Xưa nay mấy đứa vô nghì, Dẫu cho có sống, làm gì nên thân ?" Hâm rằng : "Nhờ lượng cố nhân, Vốn em mới dại một lần xin dung ". Trạ ng rằng : "Hễ đứng anh hùng, Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy, Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi ".
Trịnh Hâm khỏi giết rất vui, Vội vàng cúi lạy chân lui ra về. Còn người Bùi Kiệ m máu dê, Ngồi chai bề mặ t như sề thịt trâu.
Hớn Minh - Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kíp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi, Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạ ng nguyên xe giá chỉnh tề, Sai quân hộ vệ rước về Nguyệ t Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành. Võng điều gươm bạc lọ ng xanh,
Trạ ng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng, Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệ t trời báo ứng lẽ này rất ưng. Thấy vầy nên dửng dừng dưng, (320) Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần, Ngày qua tháng lạ i đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm. Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta, Còn đương thơ thẩn vào ra Đạ i Đề.
79
Trạ ng nguyên khi ấy đi về, Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng :
"Tiểu đồng hồn bậ u có thiêng, Thoả tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay". Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọ c tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phậ t độ ng lòng, Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạ ng nguyên còn hãy sụ t sùi, Ngó lên bài vị lạ i xui lòng phiền. (321) Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng : "Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì ? Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan ?"
Trạ ng nguyên khi ấy hỏi chàng : "Phải người đồng tử mắc màn chốn ni ?" Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn (322)
Ai dè còn thấy bổn quan, (323) Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi . Trạ ng nguyên khi ấy mừng vui, Tớ thầy sum họp tạ i nơi Đạ i Đề.
Đoạ n thôi xe giá ra về,
Tuần dư phút đã gần kề Hàn Giang. (324) Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu. Mẹ con những mảng lo âu ;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh. Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may".
Loan rằng : "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng : "Con có hồng nhan, Cho chàng thấy mặ t thời chàng ắt ưa. Dầu chàng còn nhớ tích xưa,
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 80
Mẹ con ta lạ i đổ thừa Võ công". Cùng nhau bàn luậ n đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên . (325)
Nay đà tới thứ trạ ng nguyên, Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân. Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạ ng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều. Ngư tiều nay đặ ng danh biêu, (326) Ơn ra mộ t buổi của nhiều trăm xe.
Trạ ng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân. Trang rằng : "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạ ng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
Xin thương lấy chút thuyền quyên phậ n này".
Trạ ng rằng : "Bưng bát nước đầy, Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong ? Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi". (327) Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng : "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹ n lòng, Còn mang mặ t đến đèo bòng nỗi chi ?
Ca ca sao chẳng chịu đi, (328) Về cho tẩu tẩu, để khi xách giày ?"
Mẹ con đứng thẹ n thùng thay, Vộ i vàng cúi lạy, chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp nhảy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lạ i bỏ trong hang Thương Tòng. Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc không trông ra rồi. Trời kia quả báo mấy hồi,
81
Chú thích
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết nghĩa sâu, Gặp cơn hoạ n nạ n cùng nhau cho tròn.
Chớ đừng theo thói mẹ con, Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh. Trạng nguyên về tới Đông Thành, Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng, (329)
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệ t Nga. Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ mộ t nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần, Sinh con sau nối gót lân đời đời. (330)
280 Ra đời: ra hoạt động, giúp đời. 281 Quy y: đi tu.
282 Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo.
283 Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng.
284 Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc. 285 Chín trăng: chín tháng (mẹ mang thai con chín tháng).
286 Nằm giá: Nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh.
Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc.
287 Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa. 288 Ra bề: ra bề thế.
289 Biếm quyền: giáng chức quan.
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 82
290 Hồ phương Bắc, Việt phương Nam. 291 Chia Bâu: chia li.
292 Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay.
293 Kinh sư: kinh đô.
294 Khôi khoa: đỗ đầu (trạng nguyên).
295 Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn.
296 Đề binh: đem binh đi đánh giặc. 297 Binh di: dẹp giặc.
298 Tương hội: cùng hội họp với nhau.
299 Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm phấn khởi mọi người.
300 Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậ u tập: quân đánh bọ c mặ t sau.
301 Bình tặc: dẹp yên giặc.
302 Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành. 303 Ra quân, chống trả.
304 Dường lôi: như sấm sét đánh.
305 Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen. 306 Không quản hiểm nghèo.
307 Tam canh: canh ba
308 Nguyệt Nga không mong gặ p đượ c Vân Tiên như Chức nữ gặ p Ngưu lang.
309 Thề bể hẹn non, bền chặt.
310 Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạ c ngẩn người. 311 Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình.
312 Tẩu tẩu: chị dâu.
313 Triều ca: buổi thiết triều.
83
Đề huề: dắt tay nhau cùng đi. 314 Qua mâu: binh khí thời xưa.
315 Chậu úp: nói nơi tối t?m, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ.
316 Ghe phen: nhiều phen.
317 Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và kẻ bề tôi hiền. 318 Chín trùng: vua.
319 Đổng công: tức Đổng Trác. 320 ý nói thản nhiên như không.
321 Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ.
322 Các thứ lớp từ trước đến nay. 323 Chỉ Vân Tiên.
324 Tuần dư: hơn mười ngày. 325 Phòng: hóng chờ.
326 Biêu: nêu lên cho mọi người biết.
327 ý câu: Vân tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức Vân Tiên trả xong nợ rồi. 328 Ca ca: anh. Chịu đi: ưng thuận đi.
329 Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa. 330 Gót lân: chỉ con cháu có tài có đức.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top