Vai trò của toàn cầu hóa đối với nền kinh tế việt nam
Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với những thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng đến bất cứ quốc gia nào và cá nhân nào.
Trong hai mươi năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta, đồng bào đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước vuợt qua tình trạng trì trệ kém phát triển trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh và liên tục, an ninh chính trị ổn định trong nhiều năm qua.
Thành tựu hai mươi năm đổi mới vừa qua chính là nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội để Việt Nam vươn mình trở thành một nước công nghiệp phát triển hùng mạnh, thật sự "sánh vai với các cường quốc năm châu" như lời tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Trong những năm tháng có vai trò quyết định hiện nay, chúng ta sẽ phải có những quyết định mang tính lịch sử liên quan đến tương lai, sự phát triển, và bản sắc của quốc gia Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa việc dám chủ động thi đua, cạnh tranh với các nước trên khu vực và quốc tế - hay thỏa mãn với những thành quả bước đầu khi so sánh những kết quả trong quá khứ của chúng ta. Chúng ta sẽ phải lựa chọn hội nhập chủ động và toàn cầu hóa - hay bị động theo xu hướng chung của thế giới và phụ thuộc vì sức cạnh tranh của nền kinh tế không được cải thiện, vị thế quốc gia không được nâng cao. Chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa chủ động tiếp thu những giá trị văn hóa của thế giới trên cơ sở phát huy bản sắc của truyền thống văn hóa Việt Nam - hay tiếp thu tràn lan, thiếu chọn lọc, dẫn đến bị mất bản sắc văn hóa, bị hòa tan vào trong thế giới toàn cầu hóa.
Tất cả những lựa chọn mang tính chiến lược nêu trên là quyết định của toàn thể dân tộc ta, của hơn 80 triệu công dân Việt Nam và hơn 3 triệu kiều bào trên toàn thế giới. Đảng và Nhà nước là những đại diện trung thành, là công cụ hiệu quả để tập hợp, đoàn kết và phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ và nguồn lực của toàn thể đại gia đình dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, tận dụng vận hội mới. Nói cách khác, sự phát triển của Việt Nam không phải là công việc của riêng một tổ chức, cá nhân nào; mà đó là quyền lợi và trách nhiệm của mọi công dân, mọi kiều bào tâm huyết. Ở đây cần đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của tầng lớp thanh niên, của thế hệ tri thức trẻ; chính các bạn là những chủ nhân tương lai của đất nước, quyết định sự phồn thịnh, vị thế của quốc gia, của dân tộc và của chính bản thân các bạn.
Mục tiêu chung của tất cả chúng ta hẳn là phải nỗ lực hết mình để Việt Nam phát triển nhanh mạnh và bền vững trong một thế giới hòa bình và ổn định. Không còn cách nào khác, chúng ta phải chủ động và hội nhập có hiệu quả vào xu thế toàn cầu hóa. Hơn thế nữa, chúng ta không những chỉ biết tranh thủ cái lợi, hạn chế cái hại trong quá trình hội nhập, mà còn phải biết tác động vào diễn trình toàn cầu hóa.
Để đạt được điều đó chúng ta phải có một chiến lược ngoại giao tích cực, chủ động, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ; làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển của cả nhân loại.
Trong diễn trình toàn cầu hóa, đường lối đối ngoại đó sẽ được cụ thế hóa rõ nét nhất bằng việc tham gia vào các tổ chức kinh tế - chính trị trên thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),... Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ), Diễn đàn hợp tác Á - Âu ( ASEM ), của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Và sự kiện vô cùng quan trọng là chúng ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho đất nước phát triển, nhưng cũng đồng thời là thách thức lớn nếu ta chưa có một nội lực đủ mạnh. Chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước phát triển. Nỗi đau tụt hậu, chậm phát triển, thua kém bạn bè quốc tế là không của riêng ai, mà là của toàn thể những con người mang trong mình dòng máu Lạc Hồng trên toàn thế giới. Chúng ta cần nhận thức rõ mối nguy chung này để biến thành những nội lực mạnh mẽ của Việt Nam, trước hết là tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết; sau là nhiệm vụ phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà, song song với việc phát triển văn hóa - xã hội, nhằm tạo nên một mô hình phát triển nhanh, mạnh, hài hòa và bền vững.
Như vậy, tinh thần hội nhập, tinh thần đoàn kết sẽ được đặt lên trước tiên. Đặc biệt là khả năng nhận thức trọng trách đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay của mọi công dân đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong thời gian vừa qua, đã có những hoạt động chính trị - xã hội khơi dậy, huy động và phát lộ được tinh thần, nhiệt huyết của thế hệ trẻ nói riêng và cả dân tộc nói chung đối với Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Những hoạt động như: Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Diễn đàn "Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ ?" của Báo Thanh Niên, chuyên mục "Chào cờ sáng thứ hai" của Báo Tuổi Trẻ. Chúng ta cũng sẽ cần phải có nhiều phong trào mạnh mẽ hơn nữa, thực tế hơn nữa, để chấn hưng dân khí, đại đoàn kết toàn dân, hiến kế đúng đắn, hành động thiết thực vì một nước Việt Nam chung.
Với một quốc gia có xuất phát điểm về kinh tế thấp như Việt Nam, để có thể chuẩn bị nội lực đầy đủ cho hội nhập, hướng chính sách đối ngoại sẽ phải đảm bảo ủng hộ và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo thời điểm mở thị trường thích hợp để chúng ta có thể chuẩn bị hạ tầng kinh tế - kỹ thuật chủ động và bền vững.
Cần phải nhận thức rõ ràng rằng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở sự đúng đắn, phù hợp của chiến lược phát triển kinh tế quốc gia có đóng góp được cho thế giới hay không, có tạo được sự tín nhiệm đối với thế giới hay không, có tạo ra được những sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu ngang tầm thế giới hay không. Tóm lại, chúng ta phải biết rõ, phải có sự đồng thuận cao về Việt Nam sẽ đi về đâu, sẽ đóng vai trò gì trong thế giới đang biến đổi ngày một nhanh chóng và đa dạng như hiện nay.
Nói theo ngôn ngữ của hội nhập, phải có định vị quốc gia, chiến lược tổng quốc gia phù hợp với ý nguyện của dân tộc, với tiềm năng của đất nước, với xu hướng phát triển của thời đại. Định vị đó sẽ là Việt Nam trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới dựa trên nền kinh tế phát triển hài hòa, có ưu thế trong kinh tế tri thức như là một trung tâm sáng tạo mới của thế giới; Việt Nam có xã hội công bằng, văn minh, phồn thịnh nơi các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần được tôn trọng và sẽ là tấm gương cho các nước thế giới thứ hai và thứ ba vươn lên theo kịp sự phát triển chung của nhân loại.
Để nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế nên bắt đầu từ việc quy hoạch phát triển nền kinh tế dựa trên một định vị quốc gia nhất quán. Chúng ta cần phải nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Nâng cao sức cạnh tranh ở đây không có nghĩa là đầu tư tràn lan, thiếu trọng điểm, mà ngược lại đó là phát huy lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Cụ thể hơn, một mặt, phải ý thức được sự cần thiết phải giữ vững và phát triển các ngành kinh tế có ý nghĩa sống còn, đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế đất nước; mặt khác phải biết đầu tư những ngành mũi nhọn có thể tạo ra đột phá cho Việt Nam trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp, với khoảng 75% dân số sống ở nông thôn và sống bằng nông nghiệp. Năm 2006 này, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước có thể đạt mức 38 tỉ USD, vượt mục tiêu mà Quốc hội giao cho. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và cơ cấu giá trị trong mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu sẽ thấy có nhiều mặt hàng chủ lực nếu chúng ta càng xuất khẩu được nhiều thì càng thiệt thòi. Ngành nông nghiệp này sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề khi Việt Nam gia nhập WTO, nông sản Việt Nam có nguy cơ thua ngay trên sân nhà, tình trạng càng xuất khẩu càng thua thiệt sẽ ngày càng trầm trọng. Đây là những nghịch lý không thể chấp nhận được đối với một đất nước có đầy tiềm năng như Việt Nam; trong khi đó, nhìn ra thế giới, những nước có điều kiện tự nhiên vô cùng kém thuận lợi so với Việt Nam lại có nền nông nghiệp rất phát triển như Nhật Bản, Israel. Ngay khi so với các nước cùng phát triển thì thu nhập của người nông dân Việt Nam thấp hơn nhiều so với Thái Lan. "Phi nông bất ổn", nông nghiệp chính là ngành tạo ra sự ổn định, làm nền tảng cho đất nước phát triển; tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các mô hình nông nghiệp hàng đầu thế giới, và tiềm năng của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể làm được nhiều hơn thế, tạo nên một ngành nông nghiệp Việt Nam hàng đầu thế giới.
Sức cạnh tranh của nền công nghiệp chúng ta cũng có rất nhiều vấn đề. Công nghiệp nặng không hiệu quả, công nghiệp nhẹ chủ yếu là gia công, hàm lượng khoa học công nghệ thấp tạo ra giá trị gia tăng rất thấp. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO báo hiệu sẽ gây ra nhiều tác động lớn đến các lĩnh vực dệt may, chế biến nông hải sản,... đòi hỏi công nghiệp phải có những bước chuyển mình căn bản hơn nữa, tốc độ cao hơn nữa. Chúng ta cần thoát khỏi nguy cơ trở thành bãi thải công nghiệp, trở thành một đất nước chuyên xuất thô và cung cấp lao động phổ thông giá trị thấp; nguy cơ phá sản cả một ngành, một lĩnh vực kinh doanh.
Để không ngừng nâng cao và phát triển sức cạnh tranh cho nền kinh tế, Việt Nam cần có một nguồn năng lượng phù hợp và chủ động. Việc hoạch định và thực thi một chiến lược quốc gia dài hạn về năng lượng là một yêu cầu bức thiết. Trong đó, phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản là hướng đến khai thác bền vững những nguồn tài nguyên là thế mạnh của Việt Nam như tài nguyên nước, than đá, dầu mỏ...; sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn nguyên liệu hiện có, khắc phục tình trạng lãng phí, chảy máu tài nguyên nhiên liệu.
Chúng ta cần phải biết khai thác tốt những lợi thế mà thiên nhiên ban tặng cho Việt Nam. Do vậy, ngành du lịch sẽ là một trong những trọng tâm để phát triển, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn hóa.
Trong một thời gian dài vừa qua, chúng ta chưa thực sự chú ý tới việc phát triển lợi thế của kinh tế biển. Thảm họa bão Chanchu chính là một lời cảnh báo cho sự quan tâm dưới mức cần thiết đối với một lĩnh vực có thể mang lại giá trị kinh tế cao, nâng cao vị thế của quốc gia như kinh tế biển.
Thương mại và dịch vụ chính là lĩnh vực sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất khi Việt Nam gia nhập WTO, khi thị trường trong nước nhanh chóng được mở cửa tự do. Đặc biệt là ngành thương mại, phân phối hàng hóa, đó chính là động mạch chủ của nền kinh tế nước nhà. Chúng ta cần chung sức tạo nên những hệ thống phân phối mạnh phục vụ cho lợi ích của Việt Nam. Cần giữ vững sự tự chủ trong các ngành ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm, viễn thông, công nghệ thông tin, giao nhận và vận chuyển hàng hóa; bởi đó cũng là những động mạch quan trọng của nền kinh tế nước nhà.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp, nông nghiệp, và các ngành thương mại và dịch vụ tiên tiến cao, cần phải phát triển khoa học kỹ thuật. Cả nông nghiệp và công nghiệp đều phải dựa trên những công nghệ phù hợp và tiên tiến để phát triển, trong đó công nghệ sẽ là ưu tiên hàng đầu, đó là phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiên tiến để có thể đi tắt đón đầu. Chúng ta sẽ tạo ra bước đột phá trong công nghệ bằng một hành động rất đơn giản mà hiệu quả là ngay lập tức gắn kết những viện nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng dụng; từng bước tham gia vào thị trường sở hữu trí tuệ của khu vực và quốc tế; đặt mục tiêu chiến lược phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức đang vận động ngày một nhanh.
Như vậy, việc tạo nên những liên kết nội ngành, liên ngành là một nội dung quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước. Hơn nữa, cần phải ý thức rằng, liên kết không chỉ đơn thuần là tạo ra các liên minh lớn hơn trong nước mà phải hướng đến hiệu quả đích thực, phải xem xét đến việc liên kết chiến lược để hấp thu tinh hoa quản trị, bí quyết công nghệ, lợi thế tài chính của nước ngoài, nhưng vẫn giữ được sự tự chủ trong phát triển.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải mở rộng nhiều thị trường hơn cho tất cả các hàng hóa mà Việt Nam chế tạo ra hoặc trồng trọt được. Do vậy, vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại là rất quan trọng, đòi hỏi ngay lập tức phải có cách nghĩ khác, cách làm khác, thiết thực hơn, hiệu quả hơn. Theo đó, mục tiêu và thành quả của các tổ chức xúc tiến thương mại phải gắn liền với nhu cầu và phục vụ đầy đủ, nhiệt tình, chi tiết những nhu cầu chính đáng của mọi doanh nghiệp trong nước. Đổi lại, doanh nghiệp Việt Nam phải nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng nhất là phải giới thiệu, phát triển bằng đường hàng hóa và văn hóa của nước nhà trên thị trường thế giới.
Một lần nữa vai trò của nhà nước, đặc biệt là vai trò điều hành, thực thi pháp luật của Chính phủ ngày càng trở thành một nhân tố cốt yếu để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chúng ta cần có một chính phủ hiệu quả hơn dựa trên nền tảng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sẽ phải hiệu quả hơn trong các lĩnh vực quan trọng như: đối ngoại, hoàn thiện tổ chức, chống tham nhũng, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần thiết phải có những hoạt động thiết thực và hiệu quả hơn nữa để giáo dục pháp luật, nghĩa vụ công dân đến toàn thể đồng bào.
Trong quá trình gia nhập WTO chúng ta sẽ phải mau chóng dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng nhập khẩu. Vậy nếu muốn đảm bảo, duy trì và phát triển nội lực kinh tế của nước nhà, nhà sản xuất trong nước phải mau chóng tự hoàn thiện mình, đáp ứng tốt nhất người tiêu dùng trong và ngoài nước. Đồng thời, cộng đồng người tiêu dùng Việt Nam phải ý thức được việc ủng hộ ngành sản xuất, thương mại, dịch vụ trong nước là trách nhiệm và vinh dự của một người công dân Việt Nam. Chúng ta hợp sức tạo ra một vài thương hiệu Việt, doanh nghiệp Việt, tập đoàn kinh tế Việt mang tính tiên phong, đủ sức cạnh tranh ở tầm mức khu vực và thế giới, nhằm tạo ra điển hình, khơi dậy niềm tin, khát vọng, lòng tự hào của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp thi đua phát triển kinh tế với thế giới.
Để có thể thực hiện toàn bộ những lộ trình tốt đẹp nêu trên, yếu tố con người là then chốt. Chúng ta phải nhanh chóng "nâng cấp" người Việt Nam lên cả về thể chất lẫn tri thức; vật chất lẫn tinh thần.
Chúng ta cần phải đảm bảo việc chăm sóc y tế, nâng cao sức mạnh thể chất của người dân Việt Nam như một yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng nhất của y tế không phải là khám chữa bệnh, mà là phát triển thể chất Việt Nam. Để thực hiện được điều đó, chúng ta phải tuyên truyền, vận động, và tổ chức các hình thức y tế, sức khỏe cộng đồng; đưa kiến thức phòng bệnh, chữa bệnh đến toàn dân. Đó là bước đầu tiên và cơ bản nhất của việc xã hội hóa ngành y tế. Bước tiếp theo mới là huy động các nguồn lực ở trong dân, trong ngành, và của quốc tế để mở ra nhiều hơn nữa những bệnh viện, trạm xá nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh. Phối hợp với các tổ chức y tế thế giới, trong khu vực để giải quyết các vấn đề dịch họa toàn cầu như đại dịch HIV/AIDS, dịch cúm gia cầm,...
Với xu hướng phục hưng của các giá trị văn hóa Á Đông, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm tự nhiên; cộng với truyền thống và tinh hoa hàng ngàn năm của nền y học cổ truyền nước nhà; chúng ta hoàn toàn có đủ những điều kiện cần thiết để phát triển ngành y học cổ truyền dân tộc thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, vừa góp phần nâng cao tố chất của dân tộc, vừa góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa, vừa tạo ra những sản phẩm - dịch vụ độc đáo của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chúng ta cần thật sự thực hiện phương châm "giáo dục là quốc sách hàng đầu", thực hiện lời dạy "vì lợi ích trăm năm trồng người" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng nên một nền giáo dục có tính toàn diện: từ thể chất, đến tinh thần, đạo đức, và tri thức; giáo dục toàn dân: xã hội hóa giáo dục; và một nền giáo dục trọn đời, một xã hội học tập. Chúng ta cần phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém trầm kha nhiều năm qua của nền giáo dục nước nhà. Đảng, Nhà nước, và toàn thể cộng đồng hãy cùng hưởng ứng thiết thực phong trào xóa bỏ tiêu cực trong giáo dục, tôn vinh giá trị thực học. Chúng ta phải phát huy truyền thống cần cù, thông minh, hiếu học của dân tộc; biến đó thành một lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức. Trở lại lịch sử, ngay từ thế kỷ thứ 18 nhà bác học Lê Quý Đôn đã có một nhận xét hết sức đúng đắn "Phi nông bất ổn, phi thương bất hoạt, phi công bất phú, phi trí bất hưng". Như vậy, cha ông ta đã ý thức rất rõ tri thức sẽ đóng vai trò quyết định đến sự hưng thịnh và hùng mạnh của quốc gia. Điều đó chúng ta hoàn toàn có thể làm được.
Một đất nước phát triển bền vững khi vật chất ngày một sung túc, các giá trị đạo đức tinh thần ngày được bồi đắp. Một xã hội chỉ biết chạy theo những giá trị vật chất sẽ là một xã hội hỗn loạn, bất ổn; là môi trường tốt cho nhiều tệ nạn xấu xa và nguy hiểm phát sinh và hoành hành. Chúng ta cần đoàn kết, huy động trách nhiệm và nỗ lực của toàn dân tộc, của cả cộng đồng quốc tế để đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống tiêu cực, tham nhũng, chống các hành vi làm băng hoại đạo đức xã hội. Đoàn kết để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, khắc phục hậu quả của thiên tai, dịch họa tại Việt Nam cũng như trên thế giới, thể hiện rõ nét truyền thống nhân đạo, tương thân, tương ái của dân tộc.
Chúng ta hoàn toàn nhận thức rõ trách nhiệm phát triển một nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến, giữ được bản sắc dân tộc sẽ vừa là động lực vừa là phương pháp để phát triển kinh tế đất nước. Nói cách khác, phát triển kinh tế phải song song với phát triển xã hội, phải biết chắt lọc, sắp xếp, gắn kết và giới thiệu các giá trị văn hóa Việt Nam vào với các hoạt động kinh tế kinh doanh. Cùng với xu hướng trỗi dậy của các giá trị văn hóa châu Á, được minh chứng bằng con đường và thành tựu phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ,... chúng ta hoàn toàn có khả năng và cần thiết phải tạo ra các sản phẩm, thương hiệu có giá trị cao, mang trong mình giá trị văn hóa Việt. Ngược lại, chính những thành tựu kinh tế sẽ là nguồn lực, làm điều kiện để giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tổng kết lại, chúng ta đang hội đủ những điều kiện bên trong lẫn bên ngoài để có thể chung tay đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước trở nên hùng mạnh, đóng góp vào sự phát triển hòa bình và thịnh vượng của toàn thể nhân loại. Để có được cơ hội này, chúng ta luôn biết ơn những sự hy sinh của cha ông từ ngàn đời nay mới có thể tạo nên vận hội to lớn để chúng ta tiếp bước, chúng ta phải luôn hiểu được trách nhiệm của mình đối với thế hệ tương lai của đất nước. Vậy nên, chúng ta một lần nữa sẽ phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, nhân ái của dân tộc để tự tin vững bước khẳng định mình trong thế giới toàn cầu hóa vì sự phát triển của mỗi cá nhân, của quốc gia, của dân tộc, và sự tiến bộ chung của toàn thể nhân loại.
N.V.H
Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
***************************************************************************
Một số thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối với Việt Nam hiện nay
TS. Phạm Văn Đức
Tạp chí Triết học
06:02' PM - Thứ ba, 01/08/2006Toàn cầu hoá hiện đang là xu thế tất yếu, khách quan, tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia, dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như cuộc sống của mỗi con người. Toàn cầu hoá không chỉ tạo ra cho các nước những cơ hội, mà cả những thách thức to lớn. Trong các thách thức đó thì thách thức về văn hoá, về việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, các giá trị truyền thống được coi là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam, thách thức đó không phải là ngoại lệ. Vân đề đặt ra với chúng ta là làm thế nào để vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa loại bỏ được những truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu và tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm phát huy bản sắc dân tộc trong xu thế toàn cần hoá hiện nay. Đó là chủ đề của Seminar "Giá trị truyền thống và những thách thức của toàn cầu hoá" do Viện Triết học và Hội đồng Nghiên cứu triết học và giá trị của Mỹ phối hợp tổ chức tại Việt Nam trong 2 ngày 14 và 15/5/2001.
Seminar thu hút hơn 40 học giả đều từ Việt Nam, Mỹ, Callada, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, Philipin.
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, nó đã xuất hiện ở thế kỷ XVI và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Nhưng trong thời đại hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội đung với những nét đặc thù mới. Một số học giả gọi toàn cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình đó đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn.
Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia, dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc sống của từng con người. Song những gì mà toàn cầu hóa mang lại cho con người trong những thập kỷ qua đã làm cho không ít các quốc gia băn khoăn, lo lắng. Báo cáo phát triển người của UNDP năm 1999 đã phác họa một bức tranh khá không bình đẳng giữa các nước, cũng như giữa những tầng lớp người khác nhau. Theo báo cáo đó, vào cuối những năm 90, một phần năm dân số thế giới sống trong những nước có thu nhập cao nhất chiếm tới: 86% GDP của thế giới, 82% các thị trường xuất khẩu thế giới, 68% đầu tư nước ngoài trực tiếp, 74% số máy điện thoại thế giới; trong khi đó, một phần năm dân số sống trong những nước có thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 1% các chỉ số nói trên. Cũng theo báo cáo này, trong một thập niên vừa qua sự tập trung ngày càng mạnh mẽ về thu nhập, về các nguồn lực và của cải đang diễn ra. Chẳng hạn, các nước OECD với 19% dân số toàn cầu chiếm tới 71% thương mại toàn cầu về hàng hóa và dịch vụ, 58% đầu tư nước ngoài và 91% tổng số người sử dụng Internet, 200 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi tài sản ròng của họ trong 4 năm, đến năm 1998 lên tới hơn 1000 tỷ USD. Tài sản của 3 tỷ phú hàng đầu nhiều hơn tổng GNP của tất cả các nước kém phát triển với 600 triệu dân của họ...
Trong những năm gần đây, nhiều học giả trong và ngoài nước đã tập trung phân tích nội dung và thực chất của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới. Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới để trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ. Thực tế trong mấy thập kỷ qua đã khẳng định rằng, nhờ tranh thủ được cơ hội toàn cầu hóa, nhiều nước ở Châu Á vốn có nền kinh tế kém phát triển tạo ra được tốc độ tăng trưởng kỷ lục về kinh tế và trở thành những "con rồng" Châu Á.
Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là ở chỗ, cơ hội mà toàn cầu hóa đem lại cho các nước khác nhau, các dân tộc khác nhau không phải lúc nào cũng như nhau. Xét một cách đại thể, các nước phát triển hơn về kinh tế, giàu có hơn sẽ được chia sẻ cơ hội nhiều hơn các nước nghèo. Điều đó cũng có nghĩa là, toàn cầu hóa sẽ đem lại cho các nước nghèo, đang phát triển nhiều thách thức hơn so với cơ hội. Theo bảng xếp hạng của UNDP năm 1999 về chỉ số phát triển người, Việt Nam được xếp thứ 110/144 nước, thuộc nhóm nước đang phát triển. Vì vậy, những thách thức trong quá trình toàn cầu hóa đối với nước ta là hết sức lớn.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam có lẽ là thách thức về kinh tế . Bởi vì nói đến quá trình toàn cầu hóa, trước hết phải nói đến toàn cầu hóa về kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế là cơ sở của quá trình toàn cầu hóa nói chung.
Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986. Theo tính toán của các nhà kinh tế, từ năm 1998 đến năm 1997, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng hơn 9% một năm. Đó là một thành tựu rất đáng phấn khởi. Tuy nhiên, từ năm 1997 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nền kinh tế nước ta bắt đầu gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng giảm xuống.
Ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo của Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tê. Để tránh nguy cơ đó, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện xuất phát thấp về kinh tế, về cơ sở hạ tầng và trình độ quản lí của con người. Do vậy, những khó khăn của việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa là không nhỏ. Chẳng hạn, xét về mặt cơ cấu tủa nền kinh tế, nước ta vẫn là nước nông nghiệp. Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở 2 đầu của đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Mặt khác, do sự thay đổi của cơ chế quản lý, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo đài. Các sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.
Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nếu như trong vài năm tới nước ta từng bước hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị loại trừ hay không, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và sự chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập.
Cùng với thách thức về kinh tế, toàn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta những thách thức lớn về mặt xã hội.
Trước hết là nạn thất nghiệp và thiếu việc làm. Kể từ khi nước ta bắt đầu hội nhập, nền kinh tế trở nên năng động hơn. Các thành phần kinh tế có cơ sở phát triển mạnh mẽ, nhưng sự cạnh tranh giữa chúng có phần quyết liệt hơn. Chính sự cạnh tranh đó đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, nhiều cơ sở sản xuất phải tiến hành tinh giản biên chế. Tình trạng đó làm tăng thêm đội ngũ những người không có việc làm hoặc có việc làm không đầy đủ. Theo số liệu thống kê từ đầu những năm 90, nước ta có khoảng 3 triệu người không có việc làm và một bộ phận không nhỏ có việc làm không đầy đủ. Thêm vào đó, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một năm có khoảng 1 tỷ ngày công lao động đã thừa trong thời điểm nông nhàn, nếu qui đổi sẽ tương đương với 5 triệu lao động/năm. Trong lĩnh vực sản xuất địch vụ phi nông nghiệp, số người thiếu việc làm tương đương khoảng 1 triệu lao động. Đó là chưa kể tới số bộ đội xuất ngũ, học sinh, sinh viên ra trường chưa có việc làm. Như vậy, ước tính hàng năm nước ta có khoảng 9 triệu lao động, kể cả qui đổi chưa có việc làm. Trong khi đó, khả năng giải quyết việc làm ở nước ta mới chỉ đạt được 1 triệu lao động/ năm. Số việc làm được tạo ra hàng năm chỉ đủ giải quyết số lao động bổ sung do tốc độ gia tăng dân số.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, quá trình hội nhập sẽ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam không được đào tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lý thì tình trạng thất nghiệp không những không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao.
Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo - cái trục của sự phân tầng xã hội. Thực ra, sự phân hóa giàu nghèo là kết quả tất yếu của cơ chế thị trường. Qua kết quả điều tra xã hội học ở nhiều tỉnh trong cả nước, chúng ta thấy rằng, đại bộ phận người được hỏi cho rằng phân hóa giàu nghèo là hiện tượng bình thường. Một số học giả cho rằng phân hoá giàu nghèo hiện nay ở Việt Nam là hệ quả của việc công bằng xã hội được lập lại. Theo chúng tôi , ý kiến này chỉ đúng khi nói đến sự phân hoá giàu nghèo được thực hiện một cách bình đẳng. Điều đó có nghĩa là, trong nền kinh tế thị trường, người nào lao động giỏi , biết tính 'toán, nhạy bén thì giàu lên một cách chính đáng; trái lại, người nào lười lao động, không có vốn, không biết làm ăn thì nghèo đi.
Nhưng ở Việt Nam, trong những năm qua ngoài số người giàu có một cách hợp pháp, còn có không ít những kẻ giàu lên nhờ những hành vi tham nhũng, buôn gian bán lậu, làm ăn theo kiểu chụp giật trong giai đoạn "tranh tối, tranh sáng" của cơ chế thị trường. Điều đáng lo ngại là, số người giàu lên theo kiểu này không ít. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà tham nhũng đã được xem như là "quốc nạn" ở Việt Nam. Nếu như cách làm giàu hợp pháp là rất đáng khuyến khích thì cách làm giàu bất hợp pháp cần phải nhanh chóng được loại bỏ. Bởi lẽ, hành vi đó không những bòn rút tiền của, làm suy yếu nền kinh tế, mà còn làm đảo lộn các giá trị xã hội.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ở Việt Nam trong những năm qua tăng không đáng kể. Tuy nhiên, nếu như nạn tham nhũng không được đẩy lùi và Nhà nước không có những biện pháp hữu hiệu hỗ trợ cho người nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động thì trong thập kỷ tới, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo có thể sẽ tăng một cách đáng kể.
Tình trạng thiếu việc làm, sự phân hóa giàu nghèo lại là một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Bên cạnh tình trạng thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo có nguy cơ ngày càng tăng, tệ nạn xã hội và tội phạm cũng là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Theo số liệu thống kê của các cơ quan chức năng, có thể rút ra nhận định một cách khái quát rằng, kể từ năm 1986 đến nay, tệ nạn xã hội ở Việt Nam phát triển mạnh về quy mô và số lượng, tính chất hoạt đồng của các tệ nạn xã hội này ngày càng tinh vi. Tình hình tội phạm hình sự có nhiều biểu hiện phức tạp. Tổng số vụ phạm pháp hình sự tuy không gia tăng đột biến, nhưng số vụ trọng án tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao.
Điều đáng lưu ý là, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển giao lưu kinh tế quốc tế, các hoạt động tội phạm có yếu tố nước ngoài cũng phát triển mạnh mẽ. Đó là hiện tượng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài. Một số loại tội phạm nguy hiểm trước đây chưa từng thấy ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện như: tội buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới Trung Quốc và Campuchia, tội vận chuyển và buôn bán chất ma tuý từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước khác, tội cướp biển, cướp máy bay, tội rửa tiền, tội khủng bố, bắt cóc con tin... Do mở rộng giao lưu, việc xuất nhập cảnh vào Việt Nam thuận lợi hơn trước nên nhiều tên tội phạm gây án ở nước ngoài rồi tìm cách chạy vào Việt Nam để ẩn náu, thậm chí nhiều tên còn tiếp tục gây án tại Việt Nam. Trái lại, một số tên tội phạm đã gây ra những vụ án nghiêm trọng ở Việt Nam rồi tìm cách chạy trốn ra nước ngoài hòng lẩn tránh sự trừng trị của pháp luật Việt Nam. Trong những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phát hiện được hàng trăm vụ phạm tội do người nước ngoài từ hơn 20 quốc tịch khác nhau gây ra ở Việt Nam và hàng chục người Việt Nam gây án ở nước ngoài được xử lý và dẫn độ về Việt Nam.
Cùng với quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế, tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự là một thách thức không nhỏ với Việt Nam.
Ngoài thách thức về kinh tế và' xã hội, Việt Nam còn phải đối mặt với thách thức không nhỏ về văn hóa. Thực ra, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, sự lo ngại về khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát triển. Một số học giả cho rằng, những luồng văn hóa ngày nay đang bị mất cân bằng, thiên mạnh theo hướng từ những nước giàu tới chuyển sang và gây áp lực đối với những nước nghèo. Người ta cũng nói nhiều đến thứ "hàng hoá không trọng lượng" với hàm lượng tri thức cao, chứ không phải là hàm lượng vật chất. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất hiện nay của Mỹ không phải là máy bay hay ôtô, mà là ngành vui chơi giải trí - phim của Hollywood. Ngành này có tổng thu nhập lên tới 30 tỉ USD năm 1997. Nhờ các mạng lưới thông tin đại chúng trên toàn cầu và công nghệ truyền thông qua vệ tinh, những phương tiện thông tin đại chúng có sức bành trướng khắp toàn cầu. Những mạng lưới này đã đưa Hollywood tới tận những làng quê hẻo lánh. "Sự hiện diện khắp nơi của những nhãn hiệu Nike, Sony đang thiết lập nên những chuẩn mực xã hội mới từ Đêli đến Vacsava, tới Riađơ Janeira. Những cuộc tấn công dữ dội đó của văn hóa nước ngoài có thể đe doạ tính đa dạng văn hóa, và khiến cho dân chúng lo sợ đánh mất bản sắc văn hóa của mình".
Rõ ràng là sự lo sợ đánh mất bản sắc là có cơ sở. Ngay ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều nhà lãnh đạo cũng như nhiều học giả đã rất quan tâm tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi lẽ, Việt Nam là nước có truyền thống văn hóa lâu đời Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, truyền thống văn hóa đó đã trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Trong suốt quá trình lịch sử, nền văn hóa Việt Nam không những không bị mất bản sắc mà còn tiếp thu hoàn thiện thêm bởi các nền văn hóa nước ngoài như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Pháp, văn hóa Nga và cả văn hóa Mỹ. Mặc dù vậy, không ai và không có gì có thể đảm bảo được rằng con người Việt Nam sẽ không đánh mất bản sắc của mình trước xu thế toàn cầu hóa, nếu như mỗi người Việt Nam cũng như mỗi cơ quan, tổ chức không có những hành động cần thiết. Bởi lẽ, văn hóa bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể một mặt, là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội, và mặt khác, luôn chịu sự tác động của chính bản thân văn hóa.
Trên đây là một số thách thức mà Việt Nam đã và đang gặp trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, nói tới những thách thức điều đó không có nghĩa là chúng ta hãy đóng cửa lại để từ bỏ con đường hội nhập với thế giới. Như trên chúng tôi đã trình bày, toàn cầu hóa hoá là xu hướng tất yếu. Do vậy, đóng cửa sẽ không phải là giải pháp tất. Phải khẳng định trong thời đại ngày nay, nếu nước nào đóng cửa thì tất yếu sẽ bị cô lập và bị bật ra khỏi qũy đạo phát triển của thế giới. Những sai lầm của Trung Quốc trong thời Khang Hy và những năm tiến hành cách mạng văn hóa, cũng như thực tiễn những năm xây đựng đất nước trước đổi mới ở Việt Nam là những bài học vô cùng bổ ích đối với chúng ta.
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng chủ động hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ hội và vượt qua những thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Đúng như Mahatma Gandhi đã khẳng định một cách hùng hồn rằng: "Tôi không muốn ngôi nhà của tôi bị bao quanh bốn phía và các cửa sổ bị đóng kín. Tôi muốn làn gió văn hóa của tất cả các xứ sở thổi quanh nhà tôi một cách tự do đến mức có thể. Song tôi không cho phép bất kỳ điều gì làm nghiêng ngả đôi chân của mình". Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để vẫn hội nhập vào xu thế phát triển của thế giới, nhưng vẫn giữ được cái riêng của dân tộc mình, không tự đánh mất mình.
Lúc sinh thời, C.Mác đã từng khẳng định rằng xã hội chẳng qua chỉ là những con người theo đuổi mục đích của bản thân mình, con người vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên của vở kịch về chính bản thân mình. Điều đó có nghĩa là, bất kỳ sự biến đổi và phát triển nào trong xã hội, suy cho đến cùng, cũng đó con người quyết định. Vì vậy, đế tranh thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức của toàn cầu hóa, việc chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá trình hội nhập là hết sức quan trọng.
Khi nói đến quá trình nuôi dưỡng và chuẩn bị nguồn nhân lực, người ta thường nói tới vai trò của giáo dục và đào tạo. Bởi vì, nói đến nguồn lực con người đóng vai trò quyết định thì không phải là nói đến số lượng của nguồn lực đó, mà điều quan trọng hơn là chất lượng của nó, tức là nói đến những con người đã qua giáo dục, đào tạo.
Thực tế, ngày nay không một quốc gia nào trên thế giới không nói đến vai trò của giáo đục và đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc phát triển giáo dục, đào tạo theo hướng nào lại tuỳ thuộc điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước.
Trong những năm gần đây, ở nước ta người ta nói nhiều đến lợi ích của giáo đục, đào tạo trong việc nâng cao dân trí, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trong nội dung của giáo dục và đào tạo, cái được nhấn mạnh hơn cả là ưu tiên giáo dục khoa học, kỹ thuật, công nghệ nhằm tạo ra khả năng thích ứng và tiếp nhận công nghệ. Sự nhấn mạnh như vậy là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn, nhất là đối với một nước mà đại bộ phận lực lượng lao động vẫn còn là lao động phổ thông như nước ta.
Tuy nhiên, một trong những nội dung giáo dục và đào tạo cần quan tâm đó chính là vấn đề giáo dục và phát huy truyền thông của dân tộc, giáo dục ý thức, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Tổ quốc. Trong suất lịch sử dân tộc, đặc biệt là trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chúng ta đã phát huy tốt các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc của mỗi công dân. Song trong những năm qua, dường như việc giáo dục truyền thống và ý thức công dân chưa được chú ý đúng mức.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tạo được những con người vừa có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại, vừa có trách nhiệm cao với Tổ quốc, với đất nước. Chỉ có như vậy, đất nước ta mới tránh được các nguy cơ tụt hậu và sánh vai được với các cường quốc năm châu như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.
Nguồn: Tạp chí Triết học
*****************************************************************************
Toàn cầu hóa và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Đinh Quang Ty
Tạp chí Cộng sản
08:03' AM - Thứ tư, 15/08/2007Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số khía cạnh về ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế đến quan hệ cạnh tranh.
1. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây.
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là "trò chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại và đầu tư quốc tế. Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập.
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà họ thu được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước phát triển.
Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả các nước. Trong tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là : sự ra đời của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế; sự xuất hiện liên tục của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường xuyên sức ép trên thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt pháp lý... Ngày nay, bất kỳ chủ thể nào muốn trụ vững và giành thắng lợi trên thị trường khu vực và thế giới, đều phải tính toán đầy đủ các nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.
2. Về một số vấn đề liên quan đến ViệtNam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu rõ, phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển... Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ". Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa qua (2001 - 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sức cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp. Từ đó nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại... Năm 2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc thực hiện cam kết về lộ trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) và phát triển các quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm trở thành thành viên của tổ chức này".
Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức.
Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng loạt vấn đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại? Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp định đa phương, khu vực và song phương, thông qua việc đơn phương tự do hóa, hay thông qua việc kết hợp các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những biện pháp nào?
Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng cạnh tranh.
Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch (bao gồm kim ngạch xuất khẩu; kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người; tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người, thu nhập từ du lịch tính theo đầu người; tổng kim ngạch dịch vụ xuất khẩu).
Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan đến các chỉ số: hoàn thành vốn gộp, tổng đầu tư cố định của tư nhân, tăng trưởng tổng đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài thuần-tính theo tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội địa của Việt Nam đạt tỷ lệ 25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực ASEAN (23 - 24%), nhưng đầu tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất nhiều so với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở mức cao.
Về khu vực tài chính (liên quan đến các chỉ số: tiền và tiền tương đương được tính bằng % của GDP; tín dụng trong nước từ khu vực ngân hàng; tín dụng cấp cho khu vực tư nhân; đánh giá mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế ; tổng tiết kiệm trong nước). Tuy nhiên, khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức 79/127 nước.
Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số: lạm phát, thâm hụt ngân sách, tổng thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu từ tư nhân hóa): Phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức 26% - mức quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường kinh doanh (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng doanh nghiệp mới thành lập, về xử phạt hành chính; chỉ số về nhận thức tham nhũng, chỉ số về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về xử lý quan liêu của Chính phủ, mức độ hoạt động của kinh tế ngầm, chỉ số về tự do kinh tế) : Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở cửa của nền kinh tế. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ứng được các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, "xin cho" và các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh. Những hạn chế này cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng và tiêu cực vốn còn đang rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng, số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu dân, tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ.
Về công nghệ thông tin và truyền thông (bao gồm các chỉ tiêu: số máy tính cá nhân trên 1000 người; số thuê bao internet; chi phí gọi điện thoại trong nước và quốc tế; xếp hạng về sự sẵn sàng trong kinh doanh điện tử...): Nếu so với trước đây, tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh; nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao...
Về kết cấu hạ tầng (bao gồm các chỉ số như đường đã được lát nhựa hoặc bê-tông hóa trên tổng số đường hiện có; số km2 đường được lát tính bình quân theo đầu người, mật độ điện thoại cố định, mật độ điện thoại di động; tiêu thụ điện năng trên đầu người...): Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước, chỉ số về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391 kWh (trong khi Canada là 17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung Quốc là 926 kWh/năm, Hồng Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200 kWh/năm, Malaysia là 2.800 kWh, Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100 kWh, Campuchia 20 kWh).
Về nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển con người, tỷ lệ lao động nữ, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ không được vào trung học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất xám ra nước ngoài): Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối bảng.
3. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình hình là do Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết trong hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình thành và phát triển của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa đủ sức kiểm soát và ngăn chặn được các "thị trường ngầm" gây nhiều tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng lợi ích và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những hình thái biến tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm khả năng phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc phục. Trong một số lĩnh vực, sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu hết sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá quốc tế, dẫn đến làm tăng chi phí "đầu vào" của các doanh nghiệp. Trong khi đó, chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng. Áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn "đủng đỉnh" để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn không có hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp nhìn chung vẫn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ qua hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của mình. Biểu hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực, chưa xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thống nhất phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất lãng phí - nhất là đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân sách...
Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chủ yếu.
Trước hết, cần thống nhất nhận thức ưu thế lớn nhất của nền kinh tế thị trường chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của nó. Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định pháp luật minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh. Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và Nhà nước; đồng thời, hình thành được hệ thống thị trường đồng bộ và hoàn thiện.
Ba là, có "công nghệ" xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn mực hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Theo đó, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với kinh tế và biện pháp hành chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác định rõ chủ thể thị trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt chẽ để bảo đảm các chủ thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện quan trọng hàng đầu để duy trì cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời phải chú trọng tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với trật tự thị trường, thúc đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh và chống độc quyền - làm cho luật này của Việt Nam ăn khớp với các quy tắc thống nhất của khu vực và thế giới. Về các biện pháp kinh tế, cần bảo đảm nguyên tắc không mâu thuẫn với các biện pháp pháp chế, trên cơ sở đó xây dựng những nguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng... để thúc đẩy cạnh tranh, đồng thời, tất cả các chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh, như chính sách phát triển các ngành, chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách việc làm và tiền lương... Về các biện pháp hành chính, cần chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các biện pháp pháp chế và các biện pháp kinh tế; trên cơ sở đó, xác định rõ chức năng và quyền hạn của các cơ quan chuyên trách và các chủ thể khác khi họ trực tiếp dùng quyền lực hành chính để can thiệp, giám sát và quản lý các hành vi thị trường của các doanh nghiệp. Các chức năng và quyền hạn đó đều phải được quy định rõ ràng trong luật hành chính và có những điều khoản tương ứng trong Luật Cạnh tranh.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách cạnh tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức chuyên trách xây dựng luật và chính sách cạnh tranh. Trong quá trình này, cần chú trọng tính quốc tế hóa của luật và chính sách cạnh tranh của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD...), đồng thời, đặc biệt lưu ý đến mối quan hệ giữa chính sách và Luật Cạnh tranh của Việt Nam với cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO...
Nguồn: Tạp chí Cộng sản
Tác động của toàn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam
Mai Thị Quý
Tạp chí Triết học
10:08' AM - Thứ năm, 23/12/2010Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị truyền thông, trong đó có đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đó theo những chiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. Khi đất nước còn nghèo, hơn nữa, còn phải vượt qua muôn vàn thách thức mà quá trình toàn cầu hoá đặt ra, chúng.ta cần tiếp tục phát huy đặc tính cần cù và tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm. Đó vừa là cách đê chúng ta khẳng đinh và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa là phương thức tăng cường nội lực nhằm tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
Có vẻ sẽ thật là ngớ ngẩn nếu như mỗi một người trong chúng ta lại không tự trả lời được những câu hỏi, như chúng ta là ai? chúng ta sinh ra từ cội nguồn nào? chúng ta thuộc về dân tộc nào và chúng ta có gì giống cũng như có gì khác với những con người ở các dân tộc khác?... Thế nhưng, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản như vậy lại khó có thể trả lời một cách dễ dàng, chính xác.
Trước tiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, mỗi một dân tộc trên thế giới đều sinh sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội không hoàn toàn giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy, ở mỗi dân tộc sẽ hình thành một nền văn hoá khác nhau với những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen, truyền thống, chuẩn mực đạo đức, lối sống, tư tưởng... (tức là những ý thức xã hội) khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội của chính dân tộc đó.
Trước toàn cầu hoá, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra nhưng chủ yếu còn mang tính cá biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi khi toàn cầu hoá xuất hiện, đặc biệt là toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu (Internet), thế giới dường như được thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối. Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều có thể "cho" và "nhận", nghĩa là họ có thể học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình.
Tuy nhiên, giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể, vì vậy, một hiện tượng nào đó có thể có giá trị đối với cộng đồng người này mà không có giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với cộng đồng người khác. Nhưng, trong toàn cầu hoá, các giá trị riêng của "thế giới người giàu vẫn được áp đặt lên "thế giới người nghèo", buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác mà lối sống thực dụng, hưởng thụ xa hoa là một điển hình. Chính nó đã tác động mạnh mẽ đến những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, trong đó có đức tính cần cù tiết kiệm.
Cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã phải chống chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại xâm giày xéo liên miên. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính cần cù "một nắng, hai sương" và tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh "ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng", "cày đồng đang buổi ban trưa", hay "tát nước đêm trăng" đã trở nên quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó không chỉ là những hình ảnh đẹp, mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của nhân dân ta.
Với tính cách một giá trị, cần cù có thể được hiểu là sự nhiệt tình với nghề nghiệp, lòng yêu lao động, yêu công việc, là tinh thần trách nhiệm đối với công việc, là đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động... nhằm đạt được kết quả lao động tất nhất. Trên bình diện xã hội, giá trị cần cù được hiểu là sự đề cao tinh thần yêu lao động đề cao tính năng động, sáng tạo trong lao động, đề cao hiệu quả của lao động… của cả cộng đồng.
Trong thời kỳ trước đổi mới, những sai lầm trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và sự nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến đức tính cần cù truyền thống của người lao động. Tình trạng "cha chung không ai khóc", “lắm vãi không ai đóng cửa chùa", đi làm theo kiểu "tối ngày đầy công"... trở nên phổ biến. Cơ chế phân phối bình quân, cào bằng đã khiến cho người lao động thờ ơ, không thiết tha với công việc và không quan tâm đến kết quả lao động của mình, hiện tượng lãng phí của công, lãng phí thời gian diễn ra khắp nơi dẫn đến sức lao động bị giảm sút, năng suất lao động thấp kém, nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với việc giải quyết đúng đắn một loạt các vấn đề về sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối và cùng với đó là việc tăng cường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động... tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi người dân đã được kích thích mạnh mẽ. Qua đó, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó cũng được phát huy ở mức độ cao. Với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mọi người dân đã chủ động, tích cực, tự giác hăng say lao động với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả lao động cao.
Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhưng về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn, đời sống của đại đa số người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, một thách thức lớn mà toàn cầu hoá kinh tế đặt ra là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Hiện nay, ngay cả ở những nước phát triển những nước có năng lực cạnh tranh tốt, sự tích cực, khẩn trương trong lao động nhằm đạt năng suất và hiệu quả lao động cao vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, phẩm chất cần cù của người lao động Việt Nam là một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo những chiều hướng khác nhau, vừa tích cực, vừa tiêu cực. Trước hết, toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu và tạo điều kiện để phát huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trong toàn cầu hoá, các quốc gia, các chủ thể kinh tế phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt mà muốn thắng lợi, trước hết cần phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, lao động với cường độ cao. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay. Nhưng, nếu không đáp được yêu cầu đó cũng có nghĩa là chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi toàn cầu hoá.
Thứ hai, trong toàn cầu hoá, các chi nhánh của các Công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ngày càng nhiều ở Việt Nam và sử dụng một lực lượng lao động không nhỏ. Phải thừa nhận rằng, các Công ty, xí nghiệp này có cơ chế quản lý lao động và phân phối hợp lý theo kiểu tư bản nên luôn tạo ra được sự khẩn trương, tích cực, năng động và tự giác của người lao động. Đây là một đòi hỏi không chỉ của các chủ thể sử dụng lao động, mà còn là yêu cầu bên trong của mỗi người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ.
Thứ ba, toàn cầu hoá cũng đem đến cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao ở trong nước, cũng như nước ngoài tuỳ vào khả năng của mỗi người. Khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, người lao động sẽ tích cực lao động hơn, hạn chế cảnh "nhàn cư vi bất thiện" vẫn thường xảy ra khi họ không có hoặc thiếu việc làm.
Thứ tư, trong quá trình toàn cầu hoá, điều kiện lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn được cải thiện tất hơn trước rất nhiều, những thành tựu của khoa học công nghệ được ứng đụng vào sản xuất làm cho lao động nặng nhọc giảm dần, trong khi năng suất lao động lại tăng lên. Người lao động có điều kiện để yêu thích và say mê đối với công việc của mình và do vậy, nhịp sống cũng như không khí lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn đã trở nên sôi động hơn nhiều. Theo Tổng cục thống kê, năm 2001, ở nông thôn, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 21,02 giờ, lúc cao điểm lên tới 54,92 giờ. Đối với những lao động phi nông nghiệp, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 44,77 giờ. Ngay cả những người trên 60 tuổi cũng làm việc tới 26 - 38 giờ/tuần. Số giờ lao động trung bình như vậy là khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo chúng tôi, đó là một trong những dấu hiệu tích cực, chỉ báo giá trị cần cù của người dân Việt Nam hiện nay.
Mặt khác, toàn cầu hóa cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức truyền thống cần cù của dân tộc. Có thể thấy rằng, mặc dù tạo cơ hội có việc làm cho không ít người, nhưng toàn cầu hoá cũng có thể khiến nhiều người không có hoặc mất việc làm do hạn chế về trình độ, không đáp ứng được yêu cầu của công việc hay do Công ty bị phá sản, thua lỗ, khủng hoảng trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Trong điều kiện như vậy, người lao động nếu có muốn cần cù e rằng cũng khó, bởi lẽ, họ đã bị mất việc làm, hoặc khó tìm được việc làm.
Thêm nữa, do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ từ bên ngoài tràn vào, một bộ phận lớp trẻ ngày nay quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, thích ăn chơi hưởng thụ xa hoa, lười lao động, hay đòi hỏi mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, với xã hội, chỉ muốn “làm chơi" nhưng "ăn thật", thậm chí không làm mà vẫn có thật nhiều tiền để tiêu xài những thứ tiện nghi sang trọng, đắt tiền.
Một bộ phận sinh viện thời nay rất lười học, học chỉ mang tính chất đối phó, không ít sinh việc đã đua đòi mà dẫn đến hư hỏng. Một số thanh, thiếu niên không lo học tập, lao động mà thích sống buông thả với ma tuý, với thuốc lắc... Gần đây, tình trạng này đang ở mức báo động. Thậm chí, ngay cả ở các công sở, trong giờ làm việc, nhân viên vẫn có thể "nhởn nhơ" ngoài đường, ở các quán trà hoặc ngồi chơi game trên máy tính. Nhiều thanh thiếu niên có thể ngồi hàng giờ trên mạng, nhưng cũng phải để học tập hay cập nhật những thông tin cần thiết, mà là để "chat" những chuyện không đâu với những người "quen ảo” một cách vô bổ. Hiện tượng lãng phí thời gian diễn ra khá phổ biến. Đã xuất hiện những suy nghĩ lệch lạc cho rằng, cuộc sống thật là ngắn ngủi, vì vậy cần phải sống gấp, phải hưởng thụ để sau này khỏi phải hối tiếc, không việc gì phải "nai lưng làm quần quật" cho khổ. Suy nghĩ đó, lối sống đó đã thực sự trở thành nỗi lo ngại đối với tương lai của dân tộc.
Tất nhiên, bản thân việc sử đụng những hàng hoá chất lượng cao hay nhu cầu được sử dụng những hàng hoá đó là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với sự phát triển của xã hội cùng với nhu cầu ngày càng cao của con người. Nhưng, không phải lúc nào và ở đâu, tư tưởng tiêu thụ cũng mang ý nghĩa tích cực. Với những quốc gia mà ở đó, người dân có thu nhập cho thì nhu cầu tiêu thụ vừa nâng cao mức sống của người dân, vừa là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển và trong điều kiện như vậy, nó là một giá trị. Ngược lại, đối với những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp như các nước đang phát triển và kém phát triển hiện nay, việc “bắt chước" lối sống của một xã hội tiêu thụ lại là không phù hợp. Sẽ có không ít vấn đề tiêu cực về kinh tế, xã hội, tâm lý, tư tưởng... xảy ra khi người dân có nhu cầu tiêu dùng rất cao, thậm chí là quá cao vượt lên gấp nhiều khả năng thanh toán của họ.
Chính vì vậy, cần phải làm sao cho mọi người dân hiểu rằng, giữa nước ta với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới còn có một khoảng cách rất xa. Bởi thế, để rút ngắn khoảng cách lạc hậu này, chỉ có cách là trong khi thế giới "đi" được một bước thì chúng ta "phải" chạy được hai hoặc ba bước, nếu không chúng ta sẽ lâm vào tình trạng "đi lên trong một cầu thang chạy xuống" mà thôi. Trong điều kiện đó, trước tiên cần phát huy đức tính cần cù vốn có của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải chăm chỉ hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn trong lao động, học tập, công tác để làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Theo chúng tôi, bài học của trong Malaixia là rất có giá trị đối với Việt Nam sinh trong quá trình hội nhập. M.Mohamed như từng nhấn mạnh: "Thế giới đã không hạ cố đến chúng tôi. Chúng tôi đã phải nắm cổ thế giới và đưa thế giới đến với mình. Chúng tôi đã phải làm việc không mệt mỏi. Việc chúng tôi có một nền kinh tế thông thoáng đến như vậy và một xã hội mở cửa dẫn đến như vậy là kết quả của những chính sách thận trọng, của sự quyết tâm bền bỉ và của cả một đại dương mồ hôi nước cả mắt".
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chỉ cần cù thôi thì chưa đủ, nó cần phải gắn với sáng tạo và nắm bắt được những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất.
Nếu trước đây cha ông ta nói "năng nhặt, chặt bị", thì bây giờ chúng ta cần bổ sung rằng: không chỉ "năng nhặt”, mà còn phải "biết nhặt” nữa mới có thể “chặt bị" được. Trong truyền thống của dân tộc ta, cần cù luôn gắn liền với tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người việt Nam rằng, mỗi người phải có trách nhiệm với mình, với gia đình, xã hội và các thế hệ mai sau. Hơn nữa, do cuộc sống quá khó khăn lại không ổn định, nên người Việt Nam thường có tâm lý đành dụm đề phòng những trường hợp bất trắc xảy ra theo kiểu "tích cốc phòng cơ, tích y phong hàn" và ghét thói xa hoa phù phiếm "vung tay quá trán", "ném tiền qua cửa sổ", "bóc ngắn, cắn dài" hay "kiếm củi ba năm thiêu một giờ”…
Trong những năm gần đây, do đời sống của đại đa số người dân đã được cái thiện cộng với ảnh hưởng của lối sống phương Tây, nên đã xuất hiện xu hướng lao vào hưởng thụ, tiêu xài lãng phí, xa hoa cả trong sinh hoạt cá nhân cũng như trong sinh hoạt tập thể. Các nhà hàng mọc lên như nấm với đủ loại "đặc sản". Người ta kéo đến các nhà hàng ngày càng đông. Có người đến để thưởng thức, nhưng cũng không ít người đến đó chỉ vì muốn chơi sang và thể hiện "đẳng cấp" của mình. Ăn uống không hết thì đổ đi, thậm chí không dùng vẫn gọi chơi cho oai. Cưới xin, ma chay, sinh nhật, giỗ chạp... thì tổ chức linh đình, tốn kém, lãng phí và vì vậy, làm mất cả ý nghĩa tất đẹp của nó. Nhiều người thấy sợ mỗi khi cầm trong tay một tấm thiệp mời, thay vì thấy mừng cho đôi bạn trẻ. Đó là một thực tế đã và đang xảy ra ở nước ta hiện nay. Thực tế này không những có ảnh hưởng không tốt đến lối sống tiết kiệm vốn có của nhân dân ta, mà còn là một trong những nguyên nhân thúc đẩy con người phải kiếm tiền bằng mọi cách để hưởng thụ, kể cả vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo đức.
Đặc biệt, hiện tượng lãng phí của công, tham nhũng để ăn chơi phè phỡn, tiêu "tiền chùa" đang nổi lên như một quốc nạn. Về vấn đề này, Đảng ta đã nhận định: "Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tất cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, đồn vốn cho đầu tư phát triển". Ông LL Houng Lee, Trưởng đại điện Quỹ tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam, đã nhận định rằng, Việt Nam có thể phải mất 197 năm để đuổi kịp Singapo nếu như hai nước cùng giữ mức độ tăng trưởng như hiện nay, rằng, Việt Nam cần phải tiết kiệm hơn nữa để có thể hỗ trợ thêm cho các khoản đầu tư nếu không muốn lệ thuộc hoàn toàn vào vốn nước ngoài. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phải khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa lãng phí. Đó là một trong những nhân tố quyết định thành công trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
Cần phải nhận thức rằng, tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn. Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ: “Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm" và nhắc nhở chúng ta rằng: "Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng".
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể, nhưng Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta không thể bắt chước lối sống tiêu xài phung phí khi điều kiện chưa cho phép. Vì vậy, cần phải tích cực động viên người tiết kiệm hơn nữa trong tiêu dùng, cũng như trong sản xuất. Để tăng hiệu quả sản xuất, cần tránh hiện tượng lãng phí thời gian và tiền của đang diễn ra tràn lan ở các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế Nhà nước thành phần kinh tế được coi là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Nhà nước cần phải có kế hoạch, biện pháp tích cực nhằm tạo ra nhiều việc làm mới hơn nữa, đồng thời, phải có cơ chế thuận lợi để người dân tự tạo được việc làm nhằm giảm tới mức thấp nhất lực lượng lao động đã thừa trong xã hội. Các dự án đầu tư cần phải được lựa chọn kỹ càng, đúng hướng, tránh đầu tư tràn lan làm giảm hiệu quả sử đụng vấn.
Tuy vậy, vẫn phải mạnh dạn đầu tư vốn vào những đề án thực sự cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần phải tiếp tục tăng cường chống tham nhũng, chống lãng phí của công hoặc làm thất thoát tiền của của Nhà nước. Thực hiện tất tiết kiệm trong sản xuất sẽ làm giảm chi phí đầu vào của hàng hoá, tức là sẽ hạ được giá thành sản phẩm và như vậy, cũng có nghĩa là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, góp phần khẳng định và nâng cao vị thế của nước ta trong quá trình hội nhập.
Cần phải nhấn mạnh rằng, trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, mỗi người Việt Nam không được phép quên đi truyền thống cần cù, tiết kiệm đã có từ bao đời nay của dân tộc để chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa. Điều đó không chỉ khẳng định bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, mà quan trọng hơn, còn tăng thêm nội lực cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.
Nguồn: Tạp chí Triết học
Văn hóa và lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
PGS.TS. Phạm Hồng Tung
Đại học Quốc gia Hà Nội
03:20' PM - Thứ năm, 27/08/2009
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này chúng tôi không đi sâu phân tích và trình bày kỹ về những vấn đề lý thuyết và cách tiếp cận đối với các đối tượng nghiên cứu phức tạp là thanh niên, văn hóa thanh niên và lối sống thanh niên. Tuy nhiên, để bước đầu xây dựng những nguyên tắc cho cách tiếp cận đối với chủ đề chính và góp phần nhận diện những xu hướng biến đổi của văn hóa và lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, trong khuôn khổ của bài viết này chúng tôi xin đề cập tới một số khái niệm công cụ và khía cạnh phương pháp luận của các vấn đề nghiên cứu.
1. Thanh niên, tiếp cận từ góc độ xã hội học - dân cư có thể định nghĩa là một bộ phận phức hợp của dân cư của một quốc gia - dân tộc bao gồm tất cả các cá thể ở trong độ tuổi từ 15 đến 29. Như vậy, bộ phận dân cư được gọi là “thanh niên” này chỉ phân biệt một cách tương đối với các bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân tộc ấy trên một tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi. Nếu sử dụng thuật ngữ “nhóm xã hội” để chỉ tập hợp xã hội – dân cư “thanh niên” này thì có thể thấy “nhóm” này có đường ranh giới nhóm (group boundary) rất mong manh, chẳng khác nào hai sợi dây ảo chắn giữa hai đầu một khúc sông luôn luôn chảy, bởi lẽ các thành viên của nhóm liên tục vào ở đầu này và ra ở đầu kia do quy luật vận động tự nhiên của sự “lớn lên” hay “già đi” của các thành viên. Và điều này cho thấy “thanh niên” là một nhóm xã hội - dân cư “động” chứ không phải là một nhóm “tĩnh”, ổn định. Đặc trưng này hàm chứa cả những ưu điểm và cả những nhược điểm của nhóm xã hội - dân cư “thanh niên”. Một mặt, nhờ quy luật là nhóm “động” thường xuyên cho nên nó luôn là chủ thể chuyển tải liên tục các giá trị liên thế hệ, nhưng mặt khác nó rất khó xác lập cho mình những giá trị xác định có thể tạo nên một bản sắc nhóm bền vững (sustainable group identity). Vì vậy, việc nghiên cứu, khám phá những định hướng giá trị, xác định những chiều cạnh khách quan và chủ quan của văn hóa và lối sống của nhóm này hết sức khó khăn và luôn hàm chứa độ dung sai và rủi ro cao.
Với tính cách là một nhóm xã hội - dân cư, “thanh niên” không chỉ “động” và phức hợp xét theo chiều dọc mà còn hết sức phức hợp theo chiều phẳng ngang, bởi lẽ nó hàm chứa trong đó những cá thể ở độ tuổi thanh niên có nguồn gốc xuất thân khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội, với các trình độ học vấn, tôn giáo, sắc tộc, giới tính, thành thị và nông thôn và với nhiều ngành nghề khác nhau, dưới sự tác động của nhiều định hướng ý thức hệ, tư tưởng, truyền thống, mô hình ứng xử và với nhiều loại thói quen, tập tục vv... khác nhau. Hơn nữa, xét riêng về độ tuổi thì nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” cũng chỉ là một nhóm lớn, bao gồm trong đó nhiều nhóm nhỏ thuộc các độ tuổi khác nhau. Một số người chia “thanh niên” thành 3 tiểu nhóm (subgroup) ở các độ tuổi 14-17, 18-21, 22-25 (ở đây giới hạn cho tuổi “vị thành niên và thanh niên” được tính từ 14 đến 25).1 Trong khi đó một số nhà nghiên cứu khác lại chia “thanh niên” thành các tiểu nhóm theo các độ tuổi 15- 19, 20-24 và 25-29.2 Trong một chuyên khảo xuất bản gần đây, Đặng Cảnh Khanh lại chia “dân số thanh niên” thành hai nhóm lớn theo các độ tuổi, 15 - 24 và 25 - 34 (ở đây giới hạn độ tuổi của thanh niên được tính từ 15 đến 34).3
Ngoài tiêu chí độ tuổi, nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” còn có thể được chia thành các tiểu nhóm khác nhau, như thanh niên thành thị, thanh niên nông thôn (nếu lấy địa bàn cư trú làm tiêu chí phân biệt), hay thanh niên công nhân, thanh niên nông dân hoặc thanh niên trí thức (nếu lấy nghề nghiệp làm tiêu chí phân biệt)... Ngoài ra, các yếu tố khác như tộc người, tôn giáo, giới tính, giàu - nghèo... cũng có thể được coi là tiêu chí để phân biệt các tiểu nhóm trong nhóm lớn “thanh niên”.
Qua đó có thể thấy “thanh niên” là một nhóm xã hội dân cư có tính phức hợp(hetrogenousness) rất cao, hàm chứa trong đó nhiều sự đa dạng (diversities) về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, định hướng giá trị, lợi ích, tâm linh và các mô hình ứng xử (modes of behaviors) và lựa chọn xã hội (social preferences)... Vì vậy, trong nghiên cứu về văn hóa thanh niên và lối sống thanh niên cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp và tính đa dạng cao của nhóm xã hội - dân cư này, đồng thời phải luôn luôn đặt nhóm đó trong mối liên hệ với các nhóm xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp, xã hội - giai cấp hoặc những cộng đồng dân cư khác nhau để xem xét, tham chiếu. Để khám phá và nhận diện đầy đủ hơn tính phức hợp và đa dạng trong cấu trúc xã hội, trong định hướng giá trị, trong mô thức ứng xử và trong lối sống của thanh niên thì nhất định các nghiên cứu, khảo sát về thanh niên cần phải dựa trên hai cách tiếp cận căn bản là tiếp cận đa chiều (multi-dimensional approach) và liên ngành (multi-disciplinary approach). Đây là một đòi hỏi có tính phương pháp luận trong nghiên cứu về thanh niên, và thực tế đây là một đòi hỏi rất khó khăn mà nhà nghiên cứu không dễ gì đáp ứng được, cho dù họ có ý thức đầy đủ và rõ ràng về tính chính đáng của đòi hỏi này.
Dù là nhóm xã hội - dân cư có tính phức hợp và đa dạng rất cao như đã chỉ ra ở trên, “thanh niên” vẫn có những đặc điểm, đặc trưng chung, tạo nên tính thống nhất (unity), những sự tương đồng (similarities) là cơ sở cho độ cố kết của nhóm (group cohesion).
Cái chung, cái thống nhất căn bản nhất của “thanh niên” chính là ở tuổi trẻ, ở độ tuổi “thanh niên” của tất cả các thành viên. Trong cuộc đời của mỗi con người thì tuổi thanh niên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm - sinh lý thì đây là giai đoạn con người chuyển biến từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm - sinh lý, tình cảm rất điển hình của “tuổi dậy thì”. Xét từ góc độ “con người -xã hội” thì tuổi thanh niên chính là giai đọan mỗi con người chuẩn bị hành trang cho toàn bộ cuộc đời mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh nghiệm, lối sống trên cở sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành công dân thực thụ với đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định, lựa chọn bạn đời và lập gia đình (hay không lập gia đình)...
Với ý nghĩa nhóm xã hội - dân cư thì thanh niên cũng có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Hồ Chí Minh từng nói: “Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc.” Thanh niên là nhóm xã hội - dân cư có sứ mệnh đón nhận sự “trao truyền” giá trị, bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi gắm niềm tin của thế hệ đi trước (thế hệ già đã và đang giữ vai trò lãnh đạo gia đình - cộng đồng - quốc gia dân tộc). Vì vậy, có thể nói thanh niên chính là tương lai của toàn cộng đồng, dân tộc. Nếu thế hệ thanh niên không được chuẩn bị chu đáo để tiếp nhận sự bàn giao sứ mệnh, kế tục các thế hệ đi trước thì số phận và tương lai của toàn bộ cộng đồng quốc gia - dân tộc sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.
Chính vì vậy mà các thế hệ đi trước (của tất cả các dân tộc và trong nhiều thời đại lịch sử) đều thường rất quan tâm tới việc đào tạo, rèn luyện, gây ảnh hưởng với thanh niên bằng nhiều phương thức khác nhau, chuẩn bị để họ nhận lãnh trách nhiệm với dân tộc và cộng đồng, kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước. Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và nhân dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.4
Do tầm quan trọng của mối quan hệ liên thế hệ này mà sự giao phó - nhận lãnh, bàn giao - kế tục, trao truyền - tiếp nhận giữa các thế hệ “già” và thanh niên cũng luôn luôn nảy ra những xung đột phức tạp, đôi khi khá gay gắt. Về phía các thế hệ “già”, họ thường có xu hướng trở nên bảo thủ, coi những lựa chọn, những chế định và những mô hình, chính sách, quan niệm... của thế hệ đi trước là tuyệt đối đúng, lo ngại thế hệ kế tục sẽ chỉnh sửa hoặc thay đổi, phủ nhận tất cả, mà quên rằng đó là lựa chọn và quyết định có tính lịch sử của thế hệ của họ mà thôi. Hơn nữa, họ cũng thường coi thanh niên là những người non nớt, không đủ bản lĩnh và kinh nghiệm để thay thế cho thế hệ của họ, cho dù họ cũng từng trải qua thời thanh niên và ý thức đầy đủ được rằng việc họ nhường chỗ cho thế hệ trẻ hơn là một tất yếu khách quan.
Về phía thanh niên thì không được quên rằng sứ mệnh của họ là người kế tục, nhận lãnh trách nhiệm, sứ mệnh và các giá trị của các thế hệ già. Tuy nhiên, vì họ là thế hệ của những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời đại mà họ đang sống chứ không phải thuần túy chỉ là sản phẩm đào tạo, bồi dưỡng của thế hệ “già”. Vì vậy họ là lớp người vô cùng năng động, không bị động mà luôn luôn chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân mình và của quốc gia - dân tộc. Vì vậy, bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước thì họ luôn luôn có lựa chọn của riêng mình và thế hệ mình. Ngoài ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia - dân tộc, trong thời đại toàn cầu hóa, họ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên thường có xu hướng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Và vì vậy, phần đông thanh niên thường có xu hướng hoài nghi, kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong ứng xử văn hóa của thanh niên. Khi những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên án thì thanh niên sẽ rơi vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội.
Tính trẻ, năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột với thế hệ đi trước chính là mẫu số chung, là đặc điểm chung của thanh niên ở mọi thời đại, mọi quốc gia - dân tộc. Hơn nữa, càng về sau và càng ở các quốc gia - dân tộc văn minh, hiện đại, tình trạng này càng bộc lộ rõ, phức tạp và gay gắt hơn. (Trong các xã hội thời cổ đại và trung đại thì khoảng thời gian dành cho tuổi “thanh niên” của con người thường rất ngắn, bởi khi đó con người “chưa kịp lớn đã phải già”, vừa bước qua tuổi vị thành niên đã buộc phải làm người lớn với đầy đủ chức phận của mình. Còn ở các nước chậm phát triển hiện nay thì nhìn chung tốc độ thay đổi tri thức, kinh nghiệm, kinh tế và văn hóa là chậm hơn so với các nước phát triển. Vì vậy sự khác biệt thế hệ giữa thanh niên và thế hệ già thường nhỏ hơn, đơn giản hơn nên các “xung đột thế hệ” cũng dường như ít gay gắt và phức tạp hơn.)
Qua những phân tích ở trên thì có thể khẳng định tính trẻ và năng động là một trong những đặc trưng chung của thanh niên ở tất cả các quốc gia - dân tộc và trong các thời đại lịch sử khác nhau. Lịch sử đã chứng minh rằng các hệ tư tưởng, tôn giáo, học thuyết, chính sách, chế định, pháp luật và luật tục thường là sản phẩm của các thế hệ lớn tuổi, nhưng các khởi xướng (initiative) xã hội, văn hóa, lối sống các trào lưu và các phản kháng xã hội – chính trị, các giáo phái, các dòng thời trang và âm nhạc… thường xuất hiện trong thanh niên, bắt nguồn từ thanh niên. Cuối cùng đời sống các cộng đồng, các quốc gia - dân tộc và toàn nhân loại chỉ tái lập được sự ổn định tương đối, sự hài hòa và phát triển bền vững khi sự tương tác liên thế hệ và giữa thanh niên và nhóm người “già” tìm được tiếng nói chung và đạt được những sự nhân nhượng thích hợp (rational compromise), đồng thời những xung đột “bề ngang” giữa các giai cấp và các nhóm xã hội khác nhau tìm được sự thỏa thuận về lợi ích. Ngoài đặc trưng chung có tính bao trùm nói trên, trong mỗi cộng đồng cư dân và mỗi quốc gia - dân tộc và ở từng thời kỳ lịch sử thanh niên còn có những đặc điểm chung khác. Để khám phá những đặc điểm chung này cần có những khảo sát liên ngành cụ thể.
2. Văn hóa thanh niên cũng là một phạm trù được bàn luận khá sôi nổi trên văn đàn khoa học ở Việt Nam và nước ngoài. Mặc dù phần đông các nhà nghiên cứu đều có thể đồng ý với nhau về sự tồn tại khách quan của văn hóa thanh niên, nhưng cách tiếp cận và định nghĩa về văn hóa thanh niên thì lại rất khác nhau.
Một cách tiếp cận và quan niệm được chấp nhận khá rộng rãi hiện nay là coi văn hóa thanh niên là một loại “tiểu văn hóa” (subculture).5 Người khởi xướng cách tiếp cận này chính là nhà xã hội học người Anh Dick Hebdige với tác phẩm Subculture in the Meaning of Style (Tiểu văn hóa trong ý nghĩa của phong cách) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1979.6 Sau đó, một số học giả khác cũng công bố những nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo hướng tiếp cận này. Có thể kể đến các công trình sau đây là tiêu biểu nhất: Brake, Michael (1985) Comparative Youth Culture: The sociology of youth culture and youth subcultures in America, Britain and Canada, Routledge, New York; Hall, Stuart & Jefferson, Tony (1993) Resistance Through Rituals: Youth Subcultures in Post-war Britain, Routledge, London và công trình của R. White, Youth Subculture: Theory, History and the Australian Experience xuất bản tại Australia năm 1993.
Xuất phát từ những khảo sát về phong trào “Punk” xuất hiện trong thanh niên Anh vào những năm 70 của thế kỷ trước, Hebdige cho rằng văn hóa thanh niên là một loại tiểu văn hóa được nhận biết bởi tính đặc trưng của phong cách, ứng xử và các sở thích. Theo Hebdige thì các thành viên của tiểu văn hóa này thường báo hiệu/ bộc lộ tư cách thành viên của mình thông qua những lựa chọn vật thể / hữu hình có tính biểu tượng và rất điển hình vềphong cách ăn mặc, đầu tóc và giày dép… Bên cạnh đó các yếu tố phi vật thể/ vô hình như sở thích chung, phương ngữ, tiếng lóng, loại hình âm nhạc và cả những không gian tụ tập được ưa thích cũng đều là những yếu tố nhận biết quan trọng.
Theo Michael Brake thì các “tiểu văn hóa thanh niên” có thể được định nghĩa là những hệ thống biểu đạt ý nghĩa (meaning systems), những mô thức tự bộc lộ bản thân mình (modes of expression) hay phong cách sống (lifestyle) do các nhóm yếu thế trong xã hội tạo nên nhằm để đối phó với các hệ thống đang chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội - và điều này phản ánh những nỗ lực nhằm giải quyết những mâu thuẫn có tính cấu trúc hình thành từ những môi trường xã hội rộng lớn hơn.7 Cũng theo hướng này Stuart Hall và Tonny Jefferson cho rằng các tiểu văn hóa thanh niên là các nỗ lực có tính nghi lễ và biểu tượng phản kháng lại quyền uy của bá quyền tư sản (power of bourgeois hegemony) thông qua việc tiếp nhận một cách có ý thức những cách ứng xử tỏ ra có thể đe dọa tới sự tồn tại của trật tự hiện tồn.8
Do vậy, các nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo cách tiếp cận đối tượng này với tính cách là một loại hình “tiểu văn hóa” thường tập trung vào phân tích các biểu tượng văn hóa gắn với cách phục trang, loại hình âm nhạc được ưa thích hoặc là những tác động hữu hình lên các thành viên của tiểu văn hóa đó. Đôi khi người ta cũng so sánh tác động và ý nghĩa của những biểu tượng văn hóa đó đối với các thành viên của nền văn hóa chủ đạo. Đây là cách tiếp cận và thao tác nghiên cứu của trường phái xã hội học chức năng (functionalist sociology) khá thịnh hành ở phương Tây sau Thế chiến II.
Lý thuyết về tiểu văn hóa và cách tiếp cận này đã mang lại cho việc nghiên cứu và những khảo sát có tính thực chứng về thanh niên nói chung và văn hóa thanh niên nói riêng một cơ sở học thuật và công cụ phân tích khá sắc bén, đặc biệt là khi đề cập tới những trào lưu mới lạ xuất hiện trong giới trẻ phương Tây như phong trào hippies, punk, skinheads, kể cả phong trào hòa bình, phản chiến và những dòng nhạc pop, rock, techno…
Tuy nhiên, từ khi xuất hiện cho tới nay lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận này trong nghiên cứu thanh niên đã ngày càng bị phê phán mạnh mẽ. Có thể nhận thấy ngay một số “tử huyệt” của lý thuyết về tiểu văn hóa thanh niên. Thứ nhất, theo cách tiếp cận này thì bản chất của “tiểu văn hóa thanh niên” chỉ là sự phản kháng xã hội của thanh niên đối với những chế định hiện tồn, hàm ý do thế hệ “già” áp đặt cho xã hội. Đó là cách tiếp cận sẽ dẫn đến những ngộ nhận về xung đột thế hệ như đã phân tích ở trên. Những xung đột mang tính phản kháng đó là có thực, không ít khi hiện hữu bởi những phong trào thanh niên rộng lớn, nhưng đó chỉ là một mặt của mối quan hệ liên thế hệ giữa thanh niên và các thế hệ đi trước. Bên cạnh mặt phản kháng, phủ nhận, chối bỏ thì xu hướng tiếp nhận có chọn lọc vẫn là xu hướng mang tính chủ đạo. Nếu không thừa nhận hoặc xem nhẹ xu hướng này thì người ta sẽ không hiểu được tính liên tục của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc nói riêng, từ truyền thống tới hiện đại, từ quá khứ đến tương lai và thậm chí cũng không phân tích được tính liên tục và tính đứt đoạn trong sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Hơn nữa, như Shane Blackman chỉ ra trong một bài nghiên cứu gần đây, rằng cách tiếp cận này không thể chỉ ra những biến đổi có tính cấu trúc của thanh niên và văn hóa thanh niên. Như đã phân tích ở trên, mỗi thanh niên không chỉ mang trong mình “tư cách” là một thanh niên, mà đồng thời anh/ chị ta còn đại diện cho gia đình mình, cộng đồng mình, tôn giáo mình, sắc tộc của mình và giai cấp của mình. Vì vậy, thật là sai lầm nếu quan niệm thanh niên chỉ là thanh niên, và chỉ là sản phẩm, đồng thời là đại diện của “tiểu văn hóa thanh niên”.
Thứ ba, lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận này dường như chỉ quan tâm tới những yếu tố bề mặt của văn hóa thanh niên, như cách phục trang, ngôn ngữ, loại hình vui chơi và một số phong cách sống điển hình... Như vậy, những nghiên cứu theo hướng này tuy có làm được việc rất tốt là nhận dạng thanh niên và sự biến đổi của văn hóa và lối sống thanh niên. Nhưng dường như cách tiếp cận này không cho phép người ta khám phá những chiều sâu của văn hóa thanh niên, đặc biệt là sự biến đổi của hệ giá trị văn hóa và các yếu tố làm nảy sinh và định hướng các xu hướng biến đổi đó.
Do những “tử huyệt” như trên mà lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận văn hóa thanh niên dựa trên cơ sở của lý thuyết này chỉ có thể được coi như một hướng bổ trợ đặc biệt. Theo chúng tôi, văn hóa thanh niên trước hết phải được coi là một bộ phận không tách rời của văn hóa dân tộc. Nó có mối liên hệ hữu cơ với các bộ phận và các thành tố khác của văn hóa dân tộc (suy rộng ra là cả nền văn hóa nhân loại) theo cả ba chiều: chiều dọc, chiều phẳng ngang và chiều sâu. Văn hóa thanh niên, vì vậy, trước hết cũng phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, với những đặc điểm chung của nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thanh niên là một nhóm xã hội - dân cư đặc thù của cộng đồng quốc gia - dân tộc. Vì vậy nó cũng còn có những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của nó. Tuy nhiên, trước khi nói về cái riêng, cái đặc thù của văn hóa thanh niên thì cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, rằng văn hóa thanh niên là một bộ phận hữu cơ của văn hóa dân tộc, xét theo tất cả các chiều cạnh.
Những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của văn hóa thanh niên bắt nguồn từ chính vị thế đặc biệt của nhóm xã hội - dân cư thanh niên. Như đã chỉ ra ở trên, nhóm này có đặc điểm là trẻ và năng động, nơi hệ giá trị chưa định hình và đang kiểm nghiệm và thử nghiệm những gì họ nhận được từ thế hệ đi trước, tiếp thu được từ thế giới bên ngoài, cọ xát lẫn nhau để sáng tạo ra hệ giá trị mới, mô thức ứng xử mới, với những lựa chọn sống luôn luôn mới. Tất cả những quá trình và hiện tượng này cũng xuất hiện ở các nhóm xã hội – dân cư khác, kể cả nhóm người già, nhưng không tiêu biểu như ở thanh niên.
Đặc điểm này khiến cho những nhà nghiên cứu, đặc biệt là những người theo lý thuyết “tiểu văn hóa”, ngộ nhận, cho rằng văn hóa thanh niên là một lọai hình khu biệt, thậm chí tương phản đối với nền văn hóa chủ đạo của quốc gia - dân tộc.
Một vấn đề có tính quy luật là: bất cứ nền văn hóa nào cũng luôn luôn biến đổi cùng với thời gian, bởi văn hóa vừa là sản phẩm, lại vừa là nền tảng và phương tiện cho hoạt động sáng tạo không ngừng của nhân loại. Trong quá trình biến đổi đó, những hệ giá trị văn hóa luôn luôn được kiểm nghiệm và thử thách. Trong khi một số giá trị và hệ giá trị này được duy trì, hoàn thiện thì những giá trị khác, hệ giá trị khác có thể bị xói mòn, thậm chí biến mất hoàn toàn. Sự thay đổi hệ giá trị văn hóa vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của sự biến đổi của ứng xử văn hóa.
Tuy nhiên, sự biến đổi đó không ngang bằng nhất lọat về cường độ và không diễn ra dưới những hình thức giống nhau trong các nhóm xã hội - dân cư. Riêng ở thanh niên thì quá trình này bộc lộ ra rõ nét hơn, nhất là tại các xã hội chuyển đổi như xã hội Việt Nam hiện nay. Bởi vậy nên mật độ của những thử nghiệm, kiểm nghiệm, phủ nhận và tiếp thu các giá trị văn hóa thông qua sự thay đổi đa dạng của ứng xử văn hóa tỏ ra dày đặc và sôi nổi, gay gắt hơn ở thanh niên. Văn hóa thanh niên chính là cầu nối giao lưu, là bộ phận tiên phong của nền văn hóa dân tộc trong quá trình “tự làm mới bản thân” của nền văn hóa đó.
Qua đó, có thể thấy trong nghiên cứu về văn hóa thanh niên, vừa phải đặt nó trong mối liên hệ hữu cơ với nền văn hoá dân tộc, vừa phải đặc biệt chú trọng đến việc khám phá những cái riêng, cái đặc thù của văn hóa thanh niên.
Về lối sống thanh niên
Do có những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu về thanh niên và văn hóa thanh niên nên cách tiếp cận, nhận diện và phân tích về lối sống thanh niên cũng rất khác nhau. Trước hết là cách định nghĩa và tiếp cận trong nghiên cứu về lối sống nói chung. Ở đây cũng có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi với nhiều kiến giải và đề xuất khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan điểm của những người đi trước, trong một nghiên cứu gần đây tôi đã đề xuất một định nghĩa mới về lối sống như sau: “Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua họat động sống của con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng”.9
Điểm cốt lõi trong cách tiếp cận của tôi ở đây là việc chỉ ra cái ranh giới mong manh, tương đối giữa lối sống và văn hóa. Theo tôi, lối sống chỉ là những chiều cạnh chủ quan (subjective dimensions) của văn hóa được bộc lộ ra trong quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Như vậy, lối sống chỉ là những giá trị văn hóa, những mô hình và phương thức ứng xử được đa số cá thể của một cộng đồng người xác định nào đó chấp nhận (cái được lựa chọn) và hiện thực hóa trong hoạt động sống hằng ngày của họ. Trong số đó có cả những giá trị, những truyền thống và những cách ứng xử được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng cũng bao gồm cả những giá trị ngoại sinh, những cách ứng xử và những biểu tượng… ngoại nhập.
Vận dụng cách tiếp cận trên khi nghiên cứu về lối sống và các xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa với tốc độ ngày càng gia tăng hiện nay, một mặt cần chú ý đến tác động và ảnh hưởng của những giá trị văn hóa, chế định và phương thức ứng xử truyền thống đối với các nhóm thanh niên hiện nay. Mặt khác, cần phải đặc biệt chú trọng việc khảo sát và phân tích ảnh hưởng của các giá trị và các phương thức ứng xử văn hóa từ bên ngoài đối với các nhóm thanh niên Việt Nam. Đồng thời cần phải đặt tất cả những sự khảo sát và phân tích đó trong mối liên hệ ba chiều: chiều dọc: nhằm khám phá tác động của những yếu tố đó và sự hiện thực hóa các tác động đó trong từng “tiểu nhóm” của thanh niên Việt Nam được phân chia theo độ tuổi; chiều phẳng ngang: nhằm tiếp cận và khám phá tác động của các yếu tố văn hóa truyền thống - nội sinh và các yếu tố hiện đại - ngoại nhập đối với mỗi tiểu nhóm thanh niên chia theo địa bàn cư trú, nghề nghiệp, sắc tộc hay tôn giáo; và chiều sâu: nhằm khám phá mối liên hệ giữa những biến đổi của hệ giá trị văn hóa với những biến đổi “bề mặt” của lối ứng xử, lối phục trang, ngôn ngữ, lối lao động… của thanh niên. Trên cơ sở của cả ba cách tiếp cận đó sẽ cho phép nhận diện và đánh giá xu hướng và mức độ biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top