Luật CK
LUẬT CHỨNG KHOÁN
Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật Chứng khoán đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Ngày 12 tháng 7 năm 2006 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật Chứng khoán.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT CHỨNG KHOÁN
Sau 5 năm kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương hoạt động (20/7/2000), thị trường chứng khoán đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Quy mô của thị trường ngày càng được mở rộng, thu hút được sự tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước, huy động được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư và phát triển...
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể, song hoạt động của thị trường còn có những khó khăn, hạn chế nhất định. Thị trường chứng khoán còn nhỏ bé, chưa trở thành một kênh huy động vốn dài hạn có hiệu quả cho đầu tư phát triển; thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán... nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường; chất lượng hoạt động, cung cấp dịch vụ trên thị trường chứng khoán chưa cao, tính minh bạch và hiệu quả còn hạn chế.
Những hạn chế của thị trường chứng khoán nói trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó khuôn khổ pháp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán là Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ (Nghị định 144), sau 5 năm vận hành cho thấy hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán còn hạn chế, chưa đầy đủ và đồng bộ, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về việc phát hành chứng khoán ra công chúng: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường sơ cấp, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng.
Thứ hai, về thị trường giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán, do vậy, các giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do đang diễn ra khá sôi động mà không có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ ba, về tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán: Nghị định 144 quy định Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, điều này là không phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, các Trung tâm giao dịch chứng khoán thường tổ chức theo mô hình công ty. Tính độc lập của Trung tâm giao dịch chứng khoán không cao, đặc biệt là công tác quản trị điều hành còn mang tính hành chính, thẩm quyền về giám sát các hoạt động giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán còn hạn chế.
Thứ tư, về giám sát và xử lý vi phạm: Nghị định 144 không bao hàm hết các hành vi vi phạm và chưa xác định rõ nguyên tắc xử phạt cũng như thẩm quyền xử phạt vi phạm trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hạn chế này có ảnh hưởng đến sự công khai, minh bạch của khuôn khổ pháp lý trên phương diện quản lý nhà nước cũng như bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ năm, về khả năng phát triển thị trường và hội nhập: Nghị định 144 có những quy định chưa được rõ ràng và chuẩn mực theo nguyên tắc thị trường, vì vậy sẽ có khó khăn khi thị trường phát triển ở trình độ cao và khi Việt Nam hội nhập với thị trường vốn quốc tế.
Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi hỏi phi phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô thị trường chứng khoán từ 10 - 15% GDP vào năm 2010 (khoảng 10 - 15 tỷ USD), đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán. Từ thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam nói trên, có thể thấy rằng việc ban hành Luật Chứng khoán mang tính cần thiết khách quan thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X.
2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư.
3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính phủ, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo cơ hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân chuẩn vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch. Điều này góp phần làm cho nền kinh tế của chúng ta minh bạch.
5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thị trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO TRONG VIỆC XÂY DỰNG LUẬT CHỨNG KHOÁN
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của việc xây dựng Luật Chứng khoán là phải bảo đảm các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng thời phù hợp với khuôn khổ pháp luật cũng như tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, có phạm vi điều chỉnh rộng nhằm tạo ra khuôn khổ pháp luật đầy đủ, đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính bảo đảm tổ chức, vận hành thị trường hoạt động trật tự, công khai, minh bạch; tăng cường giám sát, cưỡng chế thực thi, việc xây dựng Luật Chứng khoán được thực hiện dựa trên những quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Đảm bảo thể chế hoá các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nói chung cũng như lĩnh vực thị trường chứng khoán nói riêng.
- Bảo đảm đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Thanh tra và Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Quy định chi tiết đến mức tối đa nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt các văn bản hướng dẫn dưới Luật.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo đảm điều chỉnh hoạt động của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài theo một quy định thống nhất. Mức độ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ do Chính phủ quy định phù hợp với lộ trình hội nhập.
III. CƠ CẤU VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
A. CƠ CẤU CỦA LUẬT
Luật chứng khoán gồm 11 chương, 136 điều.
- Chương I: Những quy định chung, gồm 9 điều, từ Điều 1 đến Điều 9;
- Chương II: Chào bán chứng khoán ra công chúng, gồm 15 điều, từ Điều 10 đến Điều 24;
- Chương III: Công ty đại chúng, gồm 8 điều từ Điều 25 đến Điều 32;
- Chương IV: Thị trường giao dịch chứng khoán, gồm 9 điều, từ Điều 33 đến Điều 41;
- Chương V: Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, gồm 17 điều, từ Điều 42 đến Điều 58;
- Chương VI: Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, gồm 23 điều, từ Điều 59 đến Điều 81;
- Chương VII: Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và ngân hàng giám sát, gồm 18 điều, từ Điều 82 đến Điều 99;
- Chương VIII: Công bố thông tin, gồm 8 điều, từ Điều 100 đến 107;
- Chương IX: Thanh tra và xử lý vi phạm, gồm 23 điều, từ Điều 108 đến Điều 130;
- Chương X: Giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường thiệt hại, gồm 3 điều, từ Điều 131 đến Điều 133;
- Chương XI: Điều khoản thi hành, gồm 3 điều, từ Điều 134 đến Điều 136.
B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Chương I: Những quy định chung
Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, việc áp dụng Luật, pháp luật có liên quan và Điều ước quốc tế, nguyên tắc hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, chính sách phát triển thị trường chứng khoán, giải thích từ ngữ, quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán và các hành vi bị cấm.
a) Về phạm vi và đối tượng điều chỉnh
So với phạm vi điều chỉnh của Nghị định 144, Luật Chứng khoán có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao gồm quy định về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán và các dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Đối tượng áp dụng của Luật chứng khoán là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Luật Chứng khoán được áp dụng chung cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; tuy nhiên có quy định trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng Điều ước quốc tế đó.
b) Về giải thích từ ngữ
Luật Chứng khoán đưa ra những khái niệm, thuật ngữ cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, bao gồm: khái niệm về chứng khoán, thị trường giao dịch chứng khoán, chào bán chứng khoán ra công chúng, kinh doanh chứng khoán... Những khái niệm này được xây dựng trên cơ sở tham khảo Luật Chứng khoán của một số nước, tư vấn của các chuyên gia nước ngoài để bảo đảm chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế, đồng thời phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Theo quy định của Luật Chứng khoán, khái niệm chứng khoán được hiểu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Khái niệm này nhằm phân biệt chứng khoán với các giấy tờ có giá khác trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
c) Về chính sách phát triển thị trường chứng khoán.
Luật Chứng khoán đã cụ thể hoá các chính sách của Nhà nước về phát triển thị trường chứng khoán như khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán; quản lý, giám sát bảo đảm thị trường hoạt động công bằng, an toàn, hiệu quả và có chính sách hiện đại hoá cơ sở hạ tầng cho hoạt động của thị trường chứng khoán.
d) Về quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Luật Chứng khoán thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cấp các loại Giấy phép, Giấy chứng nhận, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán. Trong Luật quy định rõ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) là cơ quan thuộc Bộ Tài chính nhưng được thực hiện một số chức năng và thẩm quyền nhất định như cấp các loại giấy phép, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán... nhằm bảo đảm tính độc lập cần thiết và thực quyền của UBCKNN trong việc quản lý cũng như thực hiện các vấn đề nghiệp vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính thực hiện chức năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền và chỉ đạo UBCKNN thực hiện chiến lược, kế hoạch, chính sách, chế độ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
đ) Các hành vi bị cấm
Để tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh, ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán, bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, Luật Chứng khoán quy định cấm các hành vi: gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật, bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu lầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động niêm yết, giao dịch, kinh doanh đầu tư chứng khoán, chào bán chứng khoán ra công chúng .... Cấm công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường. Cấm hành vi tiết lộ, cung cấp, sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho bản thân hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán. Cấm thông đồng để thực hiện mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo để thao túng giá chứng khoán.
2. Chương II: Chào bán chứng khoán ra công chúng
Chương này quy định về mệnh giá chứng khoán, hình thức, điều kiện, đăng ký, hồ sơ, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng; quy định về Bản cáo bạch; hiệu lực đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng; phân phối chứng khoán; đình chỉ, huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng, nghĩa vụ của tổ chức phát hành và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng.
Do Nghị định 144/2003/NĐ-CP chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành của các công ty cổ phần nên việc phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, phát hành chứng khoán của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật khác nhau với các quy định riêng về thủ tục, điều kiện phát hành. Điều này gây ra một số hạn chế nhất định đối với sự phát triển của thị trường đồng thời không đảm bảo được hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Cũng theo thông lệ quốc tế thì hoạt động phát hành cũng chỉ là một trong các khâu trong quá trình mời chào, phát hành và bán chứng khoán. Các hoạt động này được gọi chung là "chào bán chứng khoán". Do vậy, để phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai, đồng thời khắc phục những quy định còn hạn chế, vướng mắc trong Nghị định 144, Luật Chứng khoán thống nhất điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, quy định cụ thể về điều kiện chào bán cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng. Đồng thời Luật quy định giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể về điều kiện chào bán chứng khoán đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; về chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác.
Riêng đối với việc phát hành trái phiếu Chính phủ hiện nay được điều chỉnh bởi Luật Ngân sách. Do vậy, tại Luật này không điều chỉnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, việc niêm yết, giao dịch trái phiếu Chính phủ trên Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo quy định của Luật Chứng khoán.
3. Chương III: Công ty đại chúng
Chương này quy định về hồ sơ công ty đại chúng; quyền và nghĩa vụ của công ty đại chúng; về nguyên tắc quản trị công ty; báo cáo về sở hữu của cổ đông lớn; chào mua công khai; công ty đại chúng mua lại cổ phiếu của chính mình; thu hồi lợi nhuận đối với các giao dịch không công bằng.
Điều 25 Luật Chứng khoán quy định: "Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây:
a) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
b) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;
c) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên"
Các quy định về công ty đại chúng và nghĩa vụ công ty đại chúng phải tuân thủ là nội dung mới của Luật Chứng khoán. Việc đặt ra các quy định về công ty đại chúng nhằm đảm bảo tất cả các doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi (kể cả các doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng từ trước khi Luật Chứng khoán có hiệu lực hoặc phát hành riêng lẻ nhiều lần theo quy định của Luật Doanh nghiệp mà trở thành công ty đại chúng) phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Về hoạt động chào mua công khai, để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc chào mua thâu tóm doanh nghiệp, tránh việc các công ty đại chúng bị thâu tóm một cách không công bằng, không công khai và bảo vệ các cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp bị thâu tóm, Luật Chứng khoán quy định việc chào mua công khai phải báo cáo UBCKNN và chỉ được thực hiện sau khi UBCKNN chấp thuận và đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.
4. Chương IV: Thị trường giao dịch chứng khoán
Chương này quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán; tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán; bộ máy quản lý, điều hành của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán; điều lệ Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán; quyền và nghĩa vụ của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán; thành viên giao dịch; niêm yết và giao dịch chứng khoán.
Khác với quy định tại Nghị định 144 xác định Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc UBCKNN, Luật Chứng khoán đadx quy định Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Quy định này làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán, tạo vai trò độc lập với cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức và hình thức sở hữu theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Mô hình tổ chức và hoạt động giữa Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán cơ bản là giống nhau, chỉ khác nhau về hàng hoá và phương thức giao dịch.
Luật quy định Sở giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh tập trung và phương thức giao dịch khác được quy định tại Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho các chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán theo phương thức thoả thuận và các phương thức giao dịch khác được quy định tại Quy chế giao dịch chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán được giao dịch tại công ty chứng khoán là thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán theo quy chế của Trung tâm.
Về điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán, trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về điều kiện niêm yết; còn quy định cụ thể về mức vốn điều lệ, số năm có lãi, số lượng cổ đông nắm giữ... do Chính phủ hướng dẫn vì theo kinh nghiệm của các nước, tiêu chuẩn niêm yết là do Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán quy định sau khi được Uỷ ban Chứng khoán chấp thuận. Đồng thời, trong điều kiện của Việt Nam, tiêu chuẩn niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán có thể thay đổi trong thời gian tới, nếu quy định cứng trong Luật sẽ khó khăn trong việc điều chỉnh khi điều kiện thị trường thay đổi.
5. Chương V: Đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán
Chương này quy định về tổ chức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của Trung tâm lưu ký chứng khoán; thành viên của Trung tâm lưu ký chứng khoán; thời hạn cấp Giấy chứng nhận, đình chỉ, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán; các nghiệp vụ về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán và các quy định về bảo vệ tài sản của khách hàng, bảo mật, quỹ hỗ trợ thanh toán.
Về tổ chức và hoạt động của Trung tâm lưu ký chứng khoán: Giống như Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán cũng được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Chứng khoán, có chức năng tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
Thành viên lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán là các ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam, công ty chứng khoán đáp ứng đủ các điều kiện như về trang thiết bị, về hoạt động kinh doanh... được UBCKNN cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán.
Luật quy định chứng khoán của các công ty đại chúng phải được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Quy định như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế về đăng ký và lưu ký tập trung, khắc phục được tình trạng các nhà đầu tư nắm giữ trực tiếp chứng chỉ chứng khoán. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi biến động sở hữu, cũng như thuận tiện cho việc giao dịch, thanh toán và tiến tới thực hiện chính sách phi vật chất chứng khoán như một số nước đã tiến hành.
6. Chương VI: Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Chương này quy định về điều kiện, hồ sơ, thủ tục thành lập và hoạt động công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, chi nhánh, văn phòng đại diện công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam; chứng chỉ hành nghề chứng khoán và trách nhiệm của người hành nghề chứng khoán...
- Luật quy định công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 do UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động. Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thay cho hai giấy như hiện nay.
- Các điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được quy định rõ ràng, chi tiết trong Luật theo hướng đơn giản hơn so với Nghị định 144, loại bỏ những điều kiện mang tính định tính, theo đó chỉ bao gồm điều kiện về trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, có đủ số vốn pháp định và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Riêng điều kiện về mức vốn pháp định sẽ do Chính phủ quy định cụ thể vì đây là chỉ tiêu định lượng có thể thay đổi theo tình hình phát triển của thị trường.
Về thời hạn cấp Giấy phép: Luật Chứng khoán của đa số các nước đều quy định thời hạn cấp Giấy phép này là 30 đến 45 ngày. Tuy nhiên, để phù hợp với quá trình cải cách thủ tục cấp phép đối với các doanh nghiệp, thời hạn cấp phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, chi nhánh công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài đã được rút ngắn hơn so với Nghị định 144, chỉ còn 30 ngày.
- Về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: Luật quy định công ty chứng khoán được thực hiện các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán; công ty quản lý quỹ được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Một điểm khác so với Nghị định 144 là để tránh xung đột lợi ích và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, Luật Chứng khoán quy định công ty chứng khoán không được thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. Đối với công ty chứng khoán hiện nay đang thực hiện nghiệp vụ này, tại Điều 134 Luật quy định trong thời hạn 01 năm kể từ khi Luật có hiệu lực thi hành, các công ty này phải làm thủ tục đổi lại Giấy phép.
- Chứng chỉ hành nghề chứng khoán được cấp cho các cá nhân có đủ điều kiện (đây cũng là một điểm mới so với cơ chế hiện hành). Chứng chỉ hành nghề không có thời hạn và chỉ có giá trị khi người có chứng chỉ hành nghề làm việc tại một công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ. Luật quy định trách nhiệm của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải báo cáo UBCKNN về những người hành nghề tại công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đó và định kỳ các cá nhân hành nghề phải bồi dưỡng, đào tạo chứng khoán để cập nhật những quy định, những nghiệp vụ mới.
7. Chương VII: Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và ngân hàng giám sát
Nội dung của chương này bao gồm các quy định về loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; thành lập quỹ đầu tư chứng khoán; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; Đại hội nhà đầu tư; Điều lệ quỹ; giải thể quỹ; các quy định hạn chế đối với quỹ đại chúng; quy định về quỹ mở, quỹ đóng; quy định về thành lập và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán; ngân hàng giám sát và những hạn chế đối với ngân hàng giám sát...
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường, đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, Luật Chứng khoán quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán (thực chất là quỹ đầu tư chứng khoán dạng pháp nhân) được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 để đầu tư vào chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán trong Luật này là loại hình công ty mới, hiện chưa có ở Việt Nam, tổ chức và bộ máy của công ty này mang tính đặc thù cao, do vậy trong Luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về việc thành lập và hoạt động của loại hình công ty này còn các nội dung cụ thể sẽ do Chính phủ hướng dẫn để đảm bảo tính thực thi và phù hợp với tình hình thực tế.
Về ngân hàng giám sát, Luật Chứng khoán không đặt ra các quy định về cấp phép đối với ngân hàng giám sát như tại Nghị định 144 mà chỉ quy định ngân hàng giám sát thực hiện giám sát việc quản lý quỹ đại chúng khi có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán.
8. Chương VIII: Công bố thông tin
Luật Chứng khoán dành một chương quy định về đối tượng và phương thức công bố thông tin; nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán. Các đối tượng này khi công bố thông tin phải đồng thời báo cáo UBCKNN về nội dung thông tin được công bố. Nội dung và phương thức công bố thông tin của từng đối tượng do Bộ Tài chính quy định.
9. Chương IX: Thanh tra và xử lý vi phạm
Để bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi vi phạm và hạn chế rủi ro trên thị trường chứng khoán, trong Luật quy định rõ quyền hạn của UBCKNN trong việc thực hiện các biện pháp thanh tra thị trường và xử lý các hành vi vi phạm, theo đó quy định rõ các căn cứ, điều kiện, biện pháp tiến hành thanh tra về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của đối tượng chịu sự thanh tra thị trường chứng khoán.
Theo quy định của Luật Chứng khoán, Thanh tra chứng khoán là thanh tra chuyên ngành về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Thanh tra chứng khoán do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định.
Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán bị xử lý theo một trong các hình thức sau:
- Xử lý kỷ luật.
- Xử phạt hành chính
- Xử phạt về hình sự
- Bồi thường nếu gây thiệt hại
Riêng về mức tiền trong xử phạt hành chính được quy định trong văn bản dưới Luật cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ.
10. Chương X: Giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường thiệt hại
Luật Chứng khoán quy định nội dung và nguyên tắc giải quyết tranh chấp; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, quy định cụ thể về trách nhiệm của UBCKNN trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo; tổ chức, cá nhân bị thiệt hại về kinh tế do việc vi phạm pháp luật chứng khoán có quyền khởi kiện để yêu cầu tổ chức, cá nhân gây thiệt hại phải bồi thường.
11. Chương XI: Điều khoản thi hành
Luật Chứng khoán có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Đối với tổ chức đã hoạt động trước ngày Luật có hiệu lực thi hành, Luật dành Điều 134 để hướng dẫn cụ thể và quy định thời hạn chuyển đổi đối với một số tổ chức.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Theo quy định của Luật Chứng khoán, Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật này. Vì vậy, để đảm bảo có thể thực hiện ngay các quy định khi Luật Chứng khoán có hiệu lực, Bộ Tài chính đang tiến hành dự thảo 03 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán, bao gồm: Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, Nghị định quy định về tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành của UBCKNN; Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình Chính phủ ban hành. Dự kiến các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán sẽ được hoàn chỉnh trình Chính phủ trong tháng 11/2006. Đồng thời Bộ Tài chính cũng đang soạn thảo các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền dưới hình thức Thông tư hoặc Quyết định ban hành quy chế đối với những vấn đề cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, tập trung và hiệu lực thực thi của các quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy nhiều doanh nghiệp cũng như công chúng đầu tư hiểu biết còn rất ít hoặc còn hiểu chưa rõ ràng về chứng khoán cũng như thị trường chứng khoán. Để Luật có thể dễ dàng đi vào cuộc sống, Bộ Tài chính (trực tiếp là UBCKNN) dự kiến tổ chức tập huấn trong phạm vi toàn quốc về nội dung của Luật Chứng khoán cho các Bộ, ngành, các thành viên thị trường và các tổ chức có liên quan. Ngoài đối tượng trên, UBCKNN còn phối hợp với các báo, đài của Trung ương và địa phương, các tổ chức, Hiệp hội giới thiệu về Luật Chứng khoán, tăng cường tuyên truyền, phổ biến để đông đảo nhân dân, các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp hiểu và biết đến chứng khoán nhiều hơn.
----------------------------
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top