Văn minh SH
Văn minh sông Hồng(từ đầu Thiên niên kỷ thứ II trướcCông Nguyênđến cuốithế kỷ 15) đang ngày một có nhiều sự quan tâm của các học giả xã hội và các nhàkhảo cổ học.Đồng bằng Bắc Bộkhá rộng lớn và hàng năm đón nhận một lượngphù sakhổng lồ từ miền namTrung Quốcchảy qua lưu vựcsông Hồngvà đi rabiển Đông. Điều kiện địa hình cũng được bao bọc bởi nhiều núi đồi cộng với một khí hậunhiệt đớigió mùathuận lợi cho sự đa dạng sinh học, động thực vật sinh sôi nảy nở. Về khoáng sản thì có các mỏđồng,sắt,thiếc,chì,bạc,vàng... thuận lợi cho thủ công nghiệp và nghềluyện kimvà chế tác đồ đồng phát triển sớm.
Tổng quan:
Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời và là một xã hội đã hình thànhnhà nướcsớm nhất ởĐông Nam Á.
Văn hóa Sơn ViVĩnh Phúthuộc hậu kỳ thời đại đá cũ, có niên đại cách đây 11-18 nghìn năm, phân bố rất rộng trong các hang động và thềm sông cổ từLào CaiđếnNghệ An. Những nhóm cư dân nguyên thủy này sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.
Cách ngày nay khoảng 11.000 năm đến 2.000 trước Công Nguyên các cư dân Việt cổ đã tụ cư đông đúc tại khu vựctrung duBắc BộViệt Namphát triển sinh sôi bằng săn bắn hái lượm trên một vùng bán sơn địa dồi dào sản vật: muông thú, các loài chim, các sản vật động thực vật của các vùng sông nước lưu vực sông Hồng ngập nước và rút khô, theo các mùa trong năm.
Những di chỉ khảo cổ phát hiện ở các hang độngHòa Bìnhrất phong phú và khá dày đặc tạo thành thuật ngữ:Văn hóa Hòa Bình. Hòa Bình, một địa danh bên dòngsông Đà, là nơi đầu tiên các nhàkhảo cổ họckhám phá ra một nền văn hóa thuộc cuối thời đồ đá cũ đến thời đồ đá mới trên một vùng ảnh hưởng rộng lớn thuộc Đông Nam Á và NamTrung Quốc.
Văn hóa Đông Sơnlà một giai đoạn trong nền văn minh sông Hồng, kế thừa và phát triển từVăn hóa Hòa Bình,Văn hóa Phùng Nguyên,Văn hóa Đồng ĐậuvàVăn hóa Gò Mun. Văn hoá Đông Sơn có những nét độc đáo riêng đồng thời vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á và nềnVăn minh lúa nước. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng làng và siêu làng.
Các nhà khảo cổ học đã khám phá ra một nền văn hóa gồm nhiều di vật rất sớm. Các công cụ bằngđồng, bằngđồ gốmcùng với di chỉ những khu luyện đúc đồng thời xa xưa trên đất Việt cổ. Thời kỳ đầu của văn hóa Đông Sơn, các cư dân người Việt cổ phát triển và giao lưu trong phạm vi hạn chế do đặc điểm rừng rậmnhiệt đới, sản vật và thức ăn dồi dào nên chưa chịu ảnh hưởng nhiều của các nền văn hóa ngoài. Việc khai pháđồng bằng sông Hồngchưa đặt ra cấp thiết do dân cư chưa đông đúc và nhu cầu kiếm sống và sinh hoạt chưa ra khỏi vùng trung du Bắc Bộ. Chính yếu tố đó đã giúpngười Việthình thành một cộng đồng có tính thuần nhất, họ chính là tổ tiên của người Việt hiện đại.
Trên lưu vực sông Hồng, các nhà khảo cổ học đã xác lập chắc chắn được một phổ hệ gồm 3 giai đoạn trước Văn hóa Đông Sơn và sau Văn hóa Hòa Bình diễn ra trong thiên niên kỷ thứ II đến thế kỷ thứ 1 trước Công Nguyên:
·Giai đoạnVăn hóa Phùng Nguyênthuộc sơ kỳ đồng thau.
·Giai đoạnVăn hóa Đồng Đậuthuộc trung kỳ đồng thau.
·Giai đoạnVăn hóa Gò Munthuộc hậu kỳ đồng thau.
Các nhà sử học đồng ý ở một điểm: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ hai trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ 15 củaĐại Việt.
Sơ lược lịch sử:
Giai đoạn Văn hóa Hòa Bình
Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày30 tháng 1năm1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tạiHà Nộithông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới.
Qua thời gian, tất nhiên, cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là miền Bắc Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây. Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem "Văn hóa Hòa Bình" vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đếnVăn hóa Hòa BìnhởMiến Điện,Kampuchia,Lào,Malaysia,Sumatra,Thái Lan,Ấn Độ,Tứ Xuyên... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đếnPhilippines,Nhật Bản, phía Tây đếnThái Lan, phía Nam đến tậnAustraliavà phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn. Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Australia có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằngcácbonC14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970. Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:
·Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TCN).
·Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).
·Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
·Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên
Việc phát hiện ra di chỉ ở Phùng Nguyên thuộc về các nhà khảo cổ học Việt Nam (năm1959). Giai đoạn này các nhà khảo cổ học chưa tìm thấy nhiều các hiện vật bằng đồng. Di vật ở lớp văn hóa Phùng Nguyên chủ yếu là các công cụ đá mài sắc sảo, có vai và đặc biệt khá nhiều đồ trang sức bằng đá. Có thể liệt kê số di vật tìm thấy ở các lần khai quật di chỉ Phùng Nguyên là:1.138 rìu, 59 đục, 3 giáo, 2 mũi nhọn, 7 mũi tên, 1 cưa, 189 bàn mài; 540 vòng tay, 8 khuyên tai, 34 hạt chuỗi, 3 đồ trang sức và hàng chục vạn mảnh đồ gốm1.
Theo đánh giá của giới khoa học, cư dân Phùng Nguyên là những người đã định cư ổn định và sống theo từng cụm dân cư làng xã chặt chẽ và đã thực sự có những khu vực sản xuất thủ công, mỹ nghệ.
Văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển liên tục vào khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên tức cách đây khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm. Những kết quả phân tích phóng xạ đồng vị C14 củacarbonđã xác định là những truyền thuyết vềkỷ Hồng Bàngkhoảng 4000 năm xưa là có cơ sở
Giai đoạnVăn hóa Đồng Đậu
Giai đoạn Đồng Đậu, căn cứ vào di chỉ khảo cổ Đồng ĐậuVĩnh Phúcphát hiện năm 1964 có niên đại là 3070 ± 100 năm cách ngày nay (nửa sau thiên niên kỷ II trước công nguyên).
Giai đoạnVăn hóa Gò Mun
Giai đoạn Văn hóa Gò Mun căn cứ vào di chỉ Gò Mun thuộcPhú Thọ, phát hiện năm 1961 tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, có niên đại C14 là: 3045 ± 120 năm cách năm 1950[4]thuộc văn hóa Gò Mun. Đặc điểm của giai đoạn này là kỹ thuật luyện kim khá phát triển, công cụ bằng đồng thau chiếm ưu thế (52%).
Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn
Giai đoạn Đông Sơn căn cứ vào hiện vật thuộc di chỉ Đông SơnThanh Hóacó niên đại sớm là 2820 ± 120 năm[5]. Ngoài ra còn nhiều di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn có niên đại kế tiếp nhau như Việt Khuê, Làng Vạc, Châu Can đã được phát hiện.
Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển rực rỡ của đồ đồng đạt đến mức hoàn hảo cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật sang sơ kỳ đồ sắt. Giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vài ba thế kỷ sau Công nguyên.
Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc
Quá trình thống nhấtVăn hóa Đông Sơncũng là quá trình liên kết các nhóm cư dân Việt cổ - ngườiLạc Việtthành một quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nướcVăn LangđờiHùng Vương. Theo đánh giá của các chuyên gia khảo cổ học thì nhà nước Văn Lang hình thành vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên, tức là cách ngày nay gần 5.000 năm. Nước Văn Lang chuyển giao "hòa bình" thành nước Âu Lạc. An Dương Vương dời Đô từ Phong Châu về Cổ Loa.
Nước Văn Lang ra đời trên một nền tảng kinh tế đã phát triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùnglưỡi càybằng đồng thau và sức kéo củatrâu,bò. Chăn nuôi cóchó,lợn,gà,vịt, trâu, bò,voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát, mộc, dệt, sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa còn được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng.
Tuy đồ đồng tìm thấy ở Đông Sơn đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà muộn nhất trong nềnvăn hóa Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó kế thừa di sản từVăn hóa Phùng Nguyên,Văn hóa Đồng Đậu,Văn hóa Gò Muntrước khi đến Đông Sơn,Thanh Hóa.
Thời kỳ này ở khu vực đồng bằng trung du Bắc Bộ là đất đai, lãnh thổ củaVua Hùngtên làLạc Việt(quốc hiệu là Văn Lang). Vào khoảng thế kỷ thứ III TCN Thục Phán người vương quốcÂu Việtgiành vương quyền của nước Văn Lang trong "hòa bình", rời Đô từPhong ChâuvềCổ Loa(Hà Nội ngày nay) đặt tên vương quốcÂu Lạc.
Vương quốc Nam Việt(207 TCN - 111 TCN)
Triệu Đàsau nhiều lần đánh chiếm quốc giaÂu Lạcthất bại, đã dùng mưu kế đánh bại được Thục Phán An Dương Vương vào năm 207 TCN và gộp lãnh thổQuảng Châuvào với lãnh thổÂu Lạcđặt tên nước làNam Việt.
Thời kỳ Bắc thuộc(111 TCN - 939)
Thời kỳ Bắc Thuộc cung là thời kỳ nền Văn minh sông Hồng được tiếp thêm sức mạnh từ việc du nhập những yếu tố còn khiếm khuyết của mình như,chữ Hán, tư tưởng và các luồngtôn giáo. Thời kỳ Bắc Thuộc cũng là thời kỳ Văn hóa Đông Sơn hình thành một tầng lớp giai cấp mới:Nho học(hay còn gọi là Sỹ Phu).
Các bậc vua chúa của kẻ xâm lược rất muốn đồng hóa một nền văn minh lớn như Đông Sơn, nhưng thất bại. Cư dân Đông sơn vẫn giữ được tiếng nói, phong tục tập quán, các quan hệ làng xã và siêu làng bền chặt. Có lẽ câu thành ngữ "phép vua thua lệ làng" ra đời từ thời kỳ Bắc Thuộc.
Sự giao thoavăn hoácũng là yếu tố làm mạnh mẽ và tăng thêm các giá trị tiên tiến bằng sự bổ sung những thiếu hụt giữa các nền văn hoá. Thời kỳ Bắc Thuộc cũng góp phần cho một sự vùng dậy mạnh mẽ của một nền văn hóa bản địa Đông Sơn lâu đời và là tiền đề để những cư dân Việt tạo ra một thời kỳ hoàng kim sau này làĐại Việt.
Giai đoạn Hoàng kim -Đại Việt
Lịch sử của dân tộc Việt là một chặng dài đầy biến cố nhưng cũng là một trong những dân tộc kiên cường trước các cuộc xâm lăng về lãnh thổ, đồng thời sức kháng cự của một nền văn hóa lâu đời Đông Sơn đã không để cho các triều đại phong kiến phương Bắc hùng mạnh đồng hóa.
Năm931, người đặt nền móng cho sự kháng cự với triều đạiNam HánlàDương Đình Nghệ. Chiến thắng quân Nam Hán, nhưng Dương Đình Nghệ chưa thể đủ uy lực để phục quốc mà vẫn tự phong chứcTiết độ sứ.
·Trận chiến Bạch Đằng Giang củaNgô Quyền
Năm937, Dương Đình Nghệ bịKiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Lúc bấy giờ,Ngô Quyềnlà con rể của Dương Đình Nghệ, tập hợp được đông đảo dân chúng chiếm thành Đại La, (NamHà Nộingày nay).
Triều đìnhNam Hánrất muốn đưa quân sang để thu hồi đấtGiao Chỉvà đã cửHoằng Tháocùng với đội thuyền chiến đi theo đường biển tiến về đồng bằng Bắc Bộ. Kết cục, cả một đoàn binh thuyền lớn của quânNam Hánvừa vượt biển tiến vào mạn sông Bạch Đằng đã được nhử vào thế trận đã bày sẵn và bị tiêu diệt gọn trong một thời gian rất ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán bị đánh đắm, hầu hết quân xâm lược bị tiêu diệt. Chủ soái của giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng bị giết tại trận.
Sau chiến thắng chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc,Ngô Quyềnbắt đầu xây dựng quốc gia độc lập. Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, định đô ởCổ Loa(Đông Anh,Hà Nội). Ông đặt ra chức quan văn, võ, nghi lễ trong triều. Nhưng đáng tiếc thời gian tại ngôi của ông thật ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944).
Xem thêm:Trận chiến Bạch Đằng Giang 938
Triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, quaNgô Xương Ngập,Ngô Xương VănđếnNgô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí trong nước có tất cả 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm.
Những sứ quân ấy giành dật lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau,Đinh Bộ LĩnhởHoa Lưdẹp loạn12 sứ quân, quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệpnhà Đinh. Triều Ngô kết thúc năm965và bắt đầu triều đạinhà Đinh(968-980).Đinh Tiên Hoànglàm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.
Tiếp đến là triều đạinhà Tiền Lê(980-1009) khởi đầu từLê Đại Hànhvà kết thức bởi ông vua bạo ngượcLê Long Đĩnh.
·Củng cố độc lập - chiến tranh vệ quốc
Theo các nhà sử học và qua các tài liệu cổ, Văn minh sông Hồng thực sự nhận được sức bật lần thứ hai là bắt đầu bởitriều Lý(1010-1225). Thời kỳ này Đại Việt dưới triều Lý thăng hoa như tên gọithủ đôcủa triều Lý -Thăng Long.
Thành tựuvăn hóavà tư tưởng cũng nhưtôn giáođều phát triển nhanh chóng và xã hội Đại Việt sống trong cảnh thanh bình, giàu có kéo dài hơn 200năm. Xã hội Đại Việt có trật tự và đạo đức, kinh tế, quân sự và văn hóa đều phát triển nhanh chóng và ổn định. Thời kỳ này đã xây đắp một nền móng vứng chắc cho triều đạinhà Trầnsau này đã chiến thắng 3 lần quân xâm lượcNguyên-Mông, mà bản thân triều đìnhnhà Tốngkhông làm được.
Triều đạinhà Trần(1225-1400) kế thừa di sản rực rỡ hơn 200 năm củanhà Lý. Nhà Trần đã để lại cho lịch sửĐại Việtnhững di sản như những bản anh hùng ca về sự hùng mạnh và văn minh của hơn 400 năm xây dựng nhà nước độc lập, chống trả và đánh lùi những đạo quân xâm lược hùng mạnh nhất trong lịch sử thời Trung cổ.
Xem thêm:Nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên Mông
Triều đạinhà Hồ:
Sau khi bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi củaTrần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu làĐại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Triều đìnhnhà Minh(Trung Quốc) rất muốn chinh phạt Đại Việt, nhân cơ hội Hồ Quý Ly đảo chính, cướp ngôi nhà Trần, nên vào năm1407quân nhà Minh tràn vào đất Đại Việt. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407, Hồ Quý Ly cùng con traiHồ Nguyên Trừngbị bắt và vương quốc Đại Ngu sụp đổ.
Giai đoạn suy sụp của thời kỳ Bắc Thuộc ngắn ngủi, nhưng lại nuôi một sự trỗi dậy mạnh mẽ của người Việt khi bị triều đìnhnhà MinhHán hóa có chủ đích và quyết liệt. 20 năm dưới sự cai trị của nhà Minh, Đại Việt bị tàn phá nặng nề, các di sản, các báu vật bị cướp, người tài và các học gia bị bắt đưa về Trung Quốc, chùa chiền, miếu mạo bị đốt phá. Tất cả những gì quân xâm lược làm là có chủ đích tận diệt ý chí phản kháng và sự nuối tiếc một nền văn minh sông hành. Dân Việt đoàn kết đứng đậy để cứu nền văn minh của mình và mở ra triềunhà Hậu Lêrực rỡ.
Mùa xuân nămMậu Tuất1418,Lê Lợiđã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng nhưNguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, v.v… chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước.
Kết thúc cuộc chiến bằng cuộc vây hãm Vương Thông ởĐông Quanvà tiêu diệt viện binh nhà Minh tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm1427.
Sau khi đuổi hết quân xâm lược nhà Minh về nước, Lê Lợi lên ngôihoàng đếnăm1428, dựng lên vương triều Lê. Lê Lợi ở ngôi được 5 năm thì mất (năm1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu làLê Thái Tổ.
Trải qua các đời trị vì của cácvua nhà Hậu Lêkể từLê Thái Tổcho đến thời cai trị của Hoàng ĐếLê Thánh TôngvàLê Hiến Tông, Đại Việt phát tiển mạnh mẽ và dân chúng sống trong yên vui, đất nước thịnh trị, mở mang bờ cõi về phương Nam, lãnh thổĐại Việtkéo dài từ ải Nam Quan vào đến Thạch Bi Sơn (thuộcPhú Yênngày nay).
Thành tựu văn hóa-nghệ thuật
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn hóa thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng trên 1000 năm trước Công nguyên tên Vương quốcVăn Lang, sau đó đổi tên làÂu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ấu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài mười thế kỷ đã không bẻ gẫy và không đồng hoá được nền văn hoá Việt.
Một điều đương nhiên, khi kẻ đi xâm lược không bẻ gãy được nền văn hóa hùng mạnh bản địa thì tức thì kẻ xâm lược và trực tiếp ở lại cai trị lại bị chính nền văn hóa đó đồng hóa. Nhưng cũng phải kể đến ảnh hưởng văn hóa của kẻ đi xâm lược cũng có mặt tích cực cho văn hóa bản địa. Thực tế chứng minh qua nhiều nền văn hóa trên thế giới cho thấy điều này hoàn toàn đúng. Một ví dụ cho nền văn hóa Trung Hoa, đó là dân tộc Hán suốt trong chiều dài lịch sử của mình thường xuyên bị những cư dân du mục phía Bắc xâm lược và đô hộ, nhưng những kẻ xâm lược và ở lại cai trị từ phương BắcTrung Quốcmất dần văn hóa của mình để hòa mình vàovăn hóa Trung Hoa. Điều này nói lên để khẳng định lại một lần nữa cho Văn minh Sông Hồng phát triển càng rực rỡ và hùng mạnh hơn ở thời kỳ hoàng kim - Đế chếĐại Việtcủa Hoàng đếLê Thánh Tông.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top