quyển 6

QUYẾT CHIẾN HỒ TIÊN TỀ - CỪU MA CƯỠI ĐẠI PHÁ BÔN XẠ SƠN HÌNH ÁP

Chương 1: Lại trí trá

Một vạt trắng rộng lớn tràn xuống từ đỉnh đồi rợp cỏ, âm thầm mà chóng vánh.

Gã cao lớn đứng gần đỉnh đồi nhất, bởi vậy, hắn cũng là kẻ đầu tiên nhận ra vạt trắng kia là một bầy cừu, là giống cừu lông dài Trác Khách Duy. Đặc trưng nổi bật của giống cừu này chính là bộ lông dài một cách khác thường, đến lúc xén lông, phải dài tới hơn hai thước. Trong quá trình mọc, những sợi lông dài sẽ tự xoăn tít thành lọn. Một đặc trưng nữa là chất lông cừu đặc biệt dai bền, dây tết từ lông cừu đủ sức ghìm chân con ngựa đang phi nước đại.

Tuy trước mặt chỉ là bầy cừu chứ không phải bầy sói, song gã cao lớn vẫn đứng yên không dám nhúc nhích. Bởi lẽ hắn đã nhận ra, đàn cừu trước mặt tuyệt đối không phải tầm thường. Trước hết, chúng chạy quá nhanh, hắn chưa bao giờ nhìn thấy giống cừu nào có thể chạy nhanh như vậy. Hơn nữa, trên mình chúng đang toả khói, một thứ khói rất nhạt và nhẹ.

o O o

Lớp lớp mây xám nặng nề đè trĩu xuống đỉnh đầu. Người đã ra khỏi cửa tây, bầu trời cũng như muốn sập. Từ nơi rất đỗi xa xăm phía tận cùng trời đất, bất đồ thổi tới một hơi gió mát, làm dịu bớt cái nóng nực đang quấn riết quanh cơ thể, cũng giúp tâm tư được tĩnh lặng thêm vài phần. Kẻ cầm đầu đội kỵ mã chính là Chu Chân Mệnh. Hắn ngẩng đầu nhìn về phía trước, ghì chặt con ngựa đang mũi miệng phì phì bọt trắng.

Bốn ngày trước, sau khi đã bố trí chu đáo mọi việc trước ba gò đất sập, hắn đích thân dẫn theo một đám cao thủ truy đuổi về phía tây bắc không quản ngày đêm. Phương pháp truyền tin của Chu gia còn nhanh chóng hơn cả tốc độ ngựa phi nước đại. Trời còn chưa sáng, các đường khẩu trên tuyến đường tây bắc đều đã nhận được chỉ lệnh của môn chủ. Chưa qua giờ Ngọ, mọi băng đảng giang hồ phía tây bắc, chính tây và chính bắc cũng đều nhận được thiếp giang hồ và lệnh treo thưởng.

Buổi chiều ngày thứ hai sau khi Chu Chân Mệnh xuất phát, rất nhiều tin tức đã được phản hồi về chỗ Chu Chân Mệnh thông qua các đường khẩu của Chu gia. Nói rằng có một toán người bịt mặt, ruổi ngựa rất nhanh từ tuyến đường Lan Châu ra khỏi vùng tây bắc, trước sau đã giao đấu với rất nhiều băng đảng cản đường. Dọc đường đi, chúng còn phá tan trận xe ngựa đồng không người đánh, gai mọc trên đất của Tư Liệt đường phía Chu gia. Ngay trong đêm đó, còn phá được đám bóng người do Chu gia bố trí ở bãi Thảm Xanh.

Sau khi thông tin về bóng người bị phá được truyền tới, Chu Chân Mệnh trong thâm tâm đã đoán chắc đến tám, chín phần đó là đám Lỗ Nhất Khí. Bóng người của Chu gia không phải là những bóng ma dật dờ trong truyền thuyết, mà là những người thoắt ẩn thoắt hiện tựa bóng ma. Những người này là các loại cao thủ trong giang hồ đã bi ngâm qua độc dược, không những bản lĩnh phi thường, mà còn không sợ chết, không sợ đau. "Bóng người" có lẽ tương tự như công nhân zombie bị các nhà truyền giáo châu Âu điều khiển tại châu Phi. Sử dụng dược phẩm được chế tạo từ tetrodotoxin pha trộn với các nguyên liệu khác cho uống một thời gian, sẽ khiến thần kinh con người tê liệt, không còn biết suy nghĩ, bảo gì làm nấy, không biết mệt mỏi hay đau đớn, giống hệt như xác chết. Khảm diện Như ẩn hiện do bọn bóng người này bố trí, phải là nhân tài làu thông thuật số và mệnh lý âm dương mới có thể phá giải. Trong ấn tượng của Chu Chân Mệnh, những cao thủ có khả năng này chỉ đếm trên đầu ngón tay, song Lỗ Nhất Khí có lẽ nằm trong số đó.

Còn tin tức mới được truyền đến trong chiều nay đã khiến Chu Chân Mệnh hưng phấn trở lại. Tin báo rằng, đám người bịt mặt kia khi tới hõm Sa Đà bên ngoài cửa Xạ Lang đã bị Xạ Lang đường của Chu gia liên kết với nhóm thương nhân bang Dương Sa chuyên nghề cướp bóc chém giết, dùng hai khảm Nắng cháy thác cát và Chồn sắt xuyên cát hợp sức phục kích, giết chết hơn một nửa số người của đối phương, bắt sống ba người, chỉ còn bốn, năm người chạy được vào trong Tàng Ma Hải Tử[1], hiện đã bị bao vây, đợi điều động thêm nhân mã sẽ nhanh chóng xông vào tìm kiếm. Tàng Ma Hải Tử địa hình kỳ dị khắc nghiệt, nếu không có người bản địa dẫn đường, đi lại sẽ hết sức khó khăn, nên cũng không cần phải quá lo lắng.

- Thưa môn trưởng, phía trước không xa chính là hõm Sa Đà, từ đây đi về phía bắc hơn ba dặm nữa sẽ tới Tàng Ma Hải Tử! - Một gã trẻ măng mặt mày thanh tú hệt như con gái lên tiếng nhắc nhở Chu Chân Mệnh. Hắn lập tức rũ bỏ những suy tư rối loạn, lập tức dẫn thuộc hạ gấp rút phi nước đại thẳng tiến lên phía trước.

Song vừa tới phía trước hõm Sa Đà, Chu Chân Mệnh lại một lần nữa ghì chặt dây cương, ngạc nhiên quan sát một lượt địa hình địa thế xung quanh. Hõm Sa Đà trông giống hệt một chiếc chậu lớn không có viền mép, bốn bề đều bị vây kín, là một vùng đất lý tưởng để bố trí khảm diện phục kích.

- Các ngươi có ai biết đối thủ lần lượt xuất chiêu giao thủ ở những chỗ nào không? – Chu Chân Mệnh hỏi những người bên cạnh.

- Thưa môn trưởng, giao tranh với Tư Liệt đường của chúng ta trên núi Thảo Bối, còn phá bóng người là ở bãi Thảm Xanh! - Một gã thân hình cao to lừng lững bên cạnh đáp lời.

- Giao tranh với các băng đảng khác lần lượt ở núi Bán Nhai, đụn Quỵ Mã, sông cạn Cổ Mã và bến Vô Thuỷ! - Trả lời câu này lại là gã trai nom xinh xắn hệt như con gái.

Chu Chân Mệnh nhất thời trầm ngâm không nói năng gì, nỗi hoài nghi như lớp mây đen giăng kín trong trí não. Tại sao những trận giao đấu đều nổ ra ở những vùng hiểm yếu, nơi hội tụ của các băng đảng thổ phỉ? Những vùng đất này, người trong giang hồ đa phần đều biết đến, là nơi ngày không độc hành đêm không dám đi, nếu không cũng phải tìm kiếm mối quan hệ giang hồ từ trước, cống nạp đầy đủ rồi mới dám đi qua. Còn hõm Sa Đà, mới liếc mắt qua đã biết là nơi không thể đi bừa, vì sao bọn chúng lại tự lao đầu vào trong đó?

Tới khi nhìn thấy ba kẻ bị bắt sống, Chu Chân Mệnh lập tức khẳng định mình đã bị lừa. Ba kẻ đó đều trong trang phục cưỡi ngựa và áo choàng màu vàng sáng. Với lối trang phục bắt mắt như vậy, làm sao có thể là những kẻ muốn che giấu hành tung!

- Đã hỏi xem chúng là người ở đâu chưa! – Chu Chân Mệnh đã không còn hứng thú đích thân thẩm vấn.

Trước khi Chu Chân Mệnh tới, bọn thuộc hạ Chu gia tại đây đã tra hỏi kỹ lưỡng ba người này, bởi vậy lập tức có kẻ trình lên hắn kết quả thẩm vấn. Hai trong số ba tên là tiêu khách thuê về từ tiêu cục Bình Phúc ở Lan Châu, tên còn lại là kỹ sĩ chuyên nghề đuổi dắt trâu ngựa đường dài được thuê về từ chợ Đại Hoắc Bố.

Bỏ tiền ra thuê chúng là hai người, một lão già lưng đeo kiếm và một kẻ trông giống thầy lang. Hai người này đã đưa cho chúng rất nhiều tiền, còn nói rằng chỉ cần dẫn họ tới Đáp Cáp Mộc trong thời gian ngắn nhất, sẽ trả cho chúng số tiền gấp đôi. Tuy đường tới Đáp Cáp Mộc vô cùng hiểm trở, hơn nữa nếu muốn đi nhanh, cần chọn đường tắt, lại phải băng qua mấy cửa ải do phỉ cướp trấn giữ, song nhìn thấy món thù lao hậu hĩnh, chúng đều không thể cưỡng lại lòng tham mà đồng ý mạo hiểm. Trên đường đi, quả nhiên bọn họ đã phải trải qua vô số nguy hiểm đến vỡ tim, nhưng không ngờ lão già và gã thầy lang đều là hàng cao thủ tuyệt đỉnh. Cướp phỉ, côn đồ gặp trên đường đi đều do hai người đó xử lý, còn những kẻ được thuê về với giá thù lao ngất ngưởng lại chẳng phải động đến tay chân. Chu Chân Mệnh không biết lão già đeo kiếm là ai, song nhắc tới tay thầy lang, hắn lập tức đoán ra đó là cao thủ từng tập kích mình bằng kim bạc trong hầm mộ.

Chỉ có hai trợ thủ của Lỗ gia, song lại thuê nguyên một đám người ra mặt xông pha nguy hiểm, dụ bọn Chu Chân Mệnh đuổi theo. Còn chủ nhân thực sự Lỗ Nhất Khí lại bốc hơi không còn tăm tích. Đúng là "giương cờ nghi binh", chiêu số quả nhiên lợi hại!

Chu Chân Mệnh khẽ thở dài. Có vị máu tanh xộc ra khỏi miệng, song hắn lại không để ý tới. Lúc này, hắn chỉ cấp thiết vắt óc nghĩ xem làm thế nào để tìm ra Lỗ Nhất Khí. Trước hết phải tóm lấy hai tay trợ thủ Lỗ gia đang trốn trong Tàng Ma Hải Tử, may ra có thể moi được chút ít thông tin về Lỗ Nhất Khí từ miệng chúng. Song muốn bắt được hai kẻ này đâu phải dễ dàng, nhìn vào cách chúng liên tiếp phá vỡ các khảm diện kỳ quái và các bố cục ngáng chân hiểm ác, đủ biết chúng khó nhằn đến mức nào.

Vào đúng lúc này, lại thấy vó ngựa cuốn bụi tung trời phi tới, mang đến cho Chu Chân Mệnh một ống thư gỡ từ chân chim bồ câu. Đọc xong, Chu Chân Mệnh lập tức phấn chấn trở lại.

- Môn trưởng, hẳn là tin tức tốt đẹp? – Gã thiếu niên xinh đẹp lên tiếng hỏi.

- Đúng vậy! Lỗ Nhất Khí đã xuất hiện, đang ở thị trấn Tịch Dương trên đường đến đất Tạng.

- Tai mắt nơi đó có thể khẳng định chắc chắn là hắn không?

- Chí ít có đến trên trăm người nhận ra, giống y hệt trong tranh, cụt bàn tay phải, trong ngực áo có quấn chiếc túi vỏ sui.

- Tại sao hắn lại chạy tới đó?

- Đúng vậy! Theo lý mà nói, đáng lẽ hắn phải chạy về phía tây bắc mới đúng, như vậy mới sử dụng được món bảo bối giết rồng đã cướp của gia tộc ta. Song hắn lại đi về hướng chính tây, đồng thời bố trí một nhóm người khác lừa chúng ta chạy lên phía tây bắc. Ý đồ của hắn là đợi tới khi chúng ta biết mình mắc lừa rồi đổi hướng đi tìm hắn, hắn sẽ lợi dụng khoảng thời gian này để vòng về tây bắc, ung dung mang bảo bối trấn hung huyệt! – Chu Chân Mệnh biết phân tích này của mình đã muộn mất một bước. Song may mà Lỗ Nhất Khí đã không thể che giấu tung tích thành công, may mà ba băng đảng của thị trấn Tịch Dương phát hiện kịp thời, lại cũng may là thị trấn Tịch Dương cách nơi này không xa lắm. Nếu hắn phóng ngựa thật nhanh, đổi ngựa liên tục, tối đa ba ngày sẽ đuổi kịp bọn chúng.

- Gấp rút gửi thư tới các chốt trạm trên đường chính tây chuẩn bị ngựa tốt để đổi, cục diện nơi đây để lại cho bang Dương Sa xử lý, những người còn lại đều đi theo ta! - Sắp xếp xong xuôi, Chu Chân Mệnh lại thở hắt ra một hơi dài.

Sự hưng phấn trong lòng chỉ duy trì trong khoảnh khắc, mùi tanh nồng phả ra theo hơi thở khiến Chu Chân Mệnh giật mình kinh ngạc, bất giác cau tít đôi mày. Lúc này hắn mới phát hiện ra, nỗi mệt mỏi tích luỹ sau nhiều ngày bôn ba đường trường không nghỉ và tâm tư vui giận thất thường đã khiến cho nội thương của hắn càng thêm trầm trọng.

Khi vầng mặt trời ban sớm lại một lần nữa đối diện với tảng đá tròn đỏ rực mang hình vầng tịch dương, trong ánh nắng mai tinh khiết, một cỗ xe bốn ngựa to lớn cuốn tung thảm cỏ dại thưa thớt, chậm rãi băng qua cánh đồng hoang cách thị trấn Tịch Dương chừng trăm dặm.

Thùng xe rất rộng, chứa đến bảy tám người mà vẫn còn thừa chỗ. Lỗ Nhất Khí vẫn giữ thói quen ngồi ở cuối xe, tay mân mê tấm thẻ ngọc, suy nghĩ rối bời.

Hạ Táo Hoa cũng chen xuống ngồi trên gióng gỗ phía cuối xe, ngây ra nhìn Lỗ Nhất Khí. Trong đầu cô lúc này đang trở đi trở lại một câu nói mà năm xưa Lỗ Thịnh Hiếu đã nhắn nhủ với mình: " Cháu gái, lớn lên làm con dâu của Lỗ gia ta nhé".

Hạ Táo Hoa chen xuống đuôi xe, nhìn Lỗ Nhất Khí chăm chú như có điều gì muốn nói. Song Lỗ Nhất Khí lại không hề hay biết. Cậu đang chìm đắm trong những suy nghĩ miên man về tấm thẻ ngọc.

Tuy các tự dạng trên tấm thẻ ngọc không thể đọc hiểu hoàn toàn, song đã lần lượt mang tới cho cậu rất nhiều gợi ý quan trọng. Vả lại mấy hôm nay, trên đường tới đất Tạng, nhờ vào những gợi ý đến từ chữ viết trên bia lộ giới ven đường, cậu lại nhận thêm được vài con chữ nữa. Những con chữ này nằm ở phía sau hào tượng của quẻ Chấn Mộc trong Tiên thiên Bát quái, tượng trưng cho phương vị chính tây trên tấm thẻ ngọc, là năm con chữ "Điên chi uyên" và "thê khởi" xuất hiện trong cả một câu dài.

Song sau khi đọc được năm con chữ này, Lỗ Nhất Khí lại cảm thấy không ổn thoả. Ngay từ lúc Mạc Thiên Quy kể cho cậu biết tình hình của bảo cấu, phản ứng đầu tiên của cậu chính là nơi đó không thích hợp để cất giấu bảo bối. Xét theo phong thuỷ học, nơi đó gọi là "nội hợp khí thông", tức là không hấp thụ được tinh hoa nhật nguyệt, không tích tụ được bốn tịnh gió, mưa, sương, tuyết, chỉ có khí trên dưới lưu thông, song vẫn là tán khí mà không tụ khí. Tương truyền chân núi phía dưới vị trí này lại là vùng cát địa nhật nguyệt soi chiếu, tứ tịnh tích tụ, về sau người ta còn xây dựng một ngôi chùa Lạt ma Mật Tông Tây Tạng tại nơi đó.

Mà lúc này, nhìn vào những chữ đã nhận ra, không hề thấy Mạc Thiên Quy đề cập tới chuyện gì có liên quan tới ba chữ "điên chi uyên". Còn hai chữ "thê khởi", Mạc Thiên Quy có nói phía sau chùa Lạt ma có một đường bậc thang, là do tổ tiên Mặc gia tạo ra khi xây dựng ám cấu cất giấu bảo bối. Đây cũng là con đường duy nhất để leo lên đỉnh núi. Tuy nhiên, không biết tự bao giờ, tất cả những người từng leo lên bậc thang này đều biến mất không còn dấu tích. Bởi vậy dân cư nơi đây đã gọi bậc thang này là "thiên thê". tức thang trời, cho rằng đó là bậc thang nối thông lên trời. Như vậy, chữ "thê" ở đây có thể lý giải là thang trời. Vậy "thê khởi" phải chăng là điểm khởi đầu của "thang trời", cũng chính là vị trí của ngôi chùa Lạt ma.

- Cậu cả! Phía trước sắp tới khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ rồi! Ở đó có ba con đường vòng quanh núi, đều xuôi xuống, có thể đi về phía nam, phía tây nam và phía tây bắc. Có hai con đường băng qua đỉnh núi, đi về phía tây và phía bắc. Em cảm thấy đối thủ đã truy đuổi tới gần, hay là đến đấy ta sẽ dùng chiêu che mắt rồi thuận thế ẩn mình?

- Ồ! - Lỗ Nhất Khí choàng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ, vừa quay đầu lập tức chạm phải đôi mắt sáng long lanh của Hạ Táo Hoa đang chăm chú nhìn mình, bất giác cảm thấy nhịp tim hơi rối loạn.

Hạ Táo Hoa không hề né tránh ánh mắt của Lỗ Nhất Khí, vẫn nhìn cậu chăm chú. Con gái của Tây Bắc tặc vương quả thực khác hẳn người thường, dám nghĩ, dám nhìn, song không biết có phải cũng dám nói, dám làm hay không.

Nhưng Lỗ Nhất Khí thì việc gì cũng không dám. Cậu vội vã lẩn tránh ánh mắt của cô, hấp tấp trả lời:

- Tôi không hiểu rõ tình hình quanh đây, cô bàn bạc với chú Hạ xem sao!

Lão mù chớp đảo tròng mắt trắng dã, suy nghĩ một hồi rồi lên tiếng:

- Tiếp tục tiến lên phía trước xem có chỗ nào ẩn náu được không!

- Không còn chỗ nào tốt hơn nữa đâu. Bởi vì ở khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ có một trạm xe ngựa rất lớn, các đoàn súc vật chở hàng vào đất Tạng đều đến đó để đổi vật chở, ăn uống lấy nước. Có thể đến đó kiếm lấy vài cái ghế biết đi (vật cưỡi)! - Biện Mạc Cập nói.

- Vậy thì phải xem khoảng cách với bọn đang đuổi tới sau lưng có thích hợp không! – Lão mù lại nói.

Biện Mạc Cập tung người nhảy xuống xe ngựa, chạy ngược về phía sau xe hơn hai chục bước, rồi nằm phục xuống, áp tai sát đất nghe ngóng một chốc. Sau đó mau chóng chạy trở lại, nhảy phắt lên xe.

- Đều thích hợp, cứ làm như vậy đi! - Lần này Biện Mạc Cập không còn trưng cầu ý kiến nữa.

- Chỉ tiếc cỗ xe và ngựa kéo của ngươi thôi! – Dương Tiểu Đao bất giác thấy xót ruột thay cho Biện Mạc Cập.

-Chỉ cần đối thủ không nhòm ngó tới thì bốn chú ngựa này sẽ tự biết trở về đàn cũ! - Biện Mạc Cập dường như không có vẻ gì lo lắng.

Mới qua lại có vài câu, đã tới khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ. Quỷ Nhãn Tam xuống xe đầu tiên, hắn treo chiếc túi vải sui mà Lỗ Nhất Khí vừa đưa lên một tảng đá nhọn chìa ra bên cạnh khe núi.

Khi mọi người đều đã xuống cả, Biện Mạc Cập liền đánh xe theo con đường dốc xuống chạy về phía tây bắc, sau đó vung roi quất lên không trung thành hai tiếng thật vang. Bốn con ngựa đã qua huấn luyện kỹ càng lập tức tung vó lao băng băng về phía trước. Chắc chắn cỗ xe này sẽ không dừng lại trước khi trời tối.

Đám người vừa bước xuống xe tiến về phía trạm xe ngựa một cách âm thầm mà chóng vánh. Tới khi những người ở trong trạm xe nghe thấy tiếng roi quất, đoàn người đã đến sát bức tường ngoài nhà trạm.

Rèm cửa vén lên, một người bước ra, bị đầu gậy của lão mù gõ nhẹ vào sau gáy, lập tức lăn quay trên đất chết giấc. Một người đàn bà vừa ghé mắt qua ô cửa sổ nhìn ra ngoài, bàn tay của Hạ Táo Hoa đã lao vụt vào, chỉ thấy cườm tay xoa nhẹ lên trán người đàn bà một cái, mụ ta liền ngã vật ra không kịp kêu lấy một tiếng. Hứa Tiểu Chỉ trèo qua tường sau nhảy vào, người còn lơ lửng đã nhìn thấy một gã trai đang cắm đầu băm cỏ. Chân vừa chạm đất, hắn lập tức vọt đến sau lưng gã trai nhanh như chớp xẹt, cong lưng vòng tay, ngón trỏ và ngón cái tạo thành hình miệng rắn bấm lấy yết hầu gã, bóp chặt khí mạch vừa hay tới điểm tắc nghẽn một nửa. Người này lập tức ngất lịm.

- Mau dắt gia súc, đi lối cửa sau! - Biện Mạc Cập là người sau cùng bước vào trong trạm, lên tiếng giục giã.

- Khoan đã! Khoắng hết tiền trong túi, lấy thêm chút lương thực nước uống! – Lão mù quả là kinh nghiệm trộm cắp đầy mình – Bày cho chúng một cục diện rối tinh rối mù, ít nhất cũng cầm chân chúng được nửa ngày trời.

Đến khi tiền bạc vơ vét xong xuôi, lương thực nước uống đã gom đủ, cũng vừa hay lão Lợi, Hứa Tiểu Chỉ và Niên Thiết Cao kịp dắt ngựa và la ra khỏi cửa sâu sau.

Trong chuồng gia súc của trạm xe chủ yếu là lạc đà và bò Tây Tạng. Gom toàn bộ số la và ngựa trong chuồng, vẫn thiếu mất một con. Thế là Hạ Táo Hoa không chút ngần ngừ tung mình nhảy vụt lên, nhẹ nhàng đáp xuống lưng ngựa phía sau Lỗ Nhất Khí. Hai người bọn họ cùng cưỡi chung con ngựa cao lớn lông đỏ móng trắng.

- Cái con ranh này, không biết xấu hổ! – Lão mù tủm tỉm cười, mắng khẽ một câu, sau đó cưỡi lên con la xanh, dẫn đầu đoàn người ngựa chạy theo con đường núi phía tây. Những người khác bám sát theo sau.

Song con ngựa chở Lỗ Nhất Khí vẫn đứng im. Hạ Táo Hoa vừa đáp xuống lưng ngựa, đã vòng tay ôm ngang người Lỗ Nhất Khí, hai khối căng tròn săn chắc trước ngực cũng áp sát vào lưng cậu. Cảm giác mềm mại ấm áp như bông lập tức mang đến cho cậu một mối xao động vô cùng mãnh liệt và chân thực, khiến cậu hồi hộp tới mức toàn thân cứng nhắc, quên mất cả thục ngựa đi.

Nhìn thấy mọi người đều đã đi cả, Hạ Táo Hoa thúc hai chân vào bụng ngựa, giục ngựa đuổi lên.

Họ vừa đi khỏi, từ trong đống rơm bên cạnh chuồng ngựa hé ra một cặp mắt đen lay láy, là một đôi mắt trẻ thơ đang hoang mang sợ hãi dõi theo đám ngựa la đang cuốn bụi mà đi. Cả đám cao thủ giang hồ lão luyện đã bỏ qua một đứa trẻ ngủ vùi trong đống rơm.

Khi nhìn thấy chiếc túi bằng vỏ sui đung đưa trên mỏm đá nhọn, trong đầu Chu Chân mệnh chỉ vụt lên hai chữ "giở trò" và "khiêu khích". Một khối tanh nồng bất giác cuộn lên dữ dội giữa khoảng ngực bụng, không thể kiềm chế. Phải một lúc lâu sau, hắn mới điều hoà được hơi thở, thu lại luồng khí tán loạn về đan điền.

- Có vết bánh của xe ngựa lớn chạy xuôi xuống, là đi về phía tây bắc! – Gã trai xinh đẹp bẩm báo với Chu Chân Mệnh.

- Người trong trạm đều bị đánh ngất, không ai nhìn thấy kẻ đột kích. Tiền bạc trong trạm đều bị vơ vét sạch trơn, lương thực và nước uống cũng bị lấy đi rất nhiều. Ở cửa sau có vết móng ngựa và la, nhìn vào hướng đi, thấy là đi về phía tây. Song ra khỏi cửa ba mươi bước đều là đường núi đá cứng, không thể tìm ra vết tích. – Tên cao lớn sau khi thị sát một lượt cũng quay lại bẩm báo.

Chu Chân Mệnh trầm ngâm không nói, ngón tay vê mạnh đám râu đen nhánh dưới cằm hết lần này đến lần khác. Xung quanh im lặng như tờ, ngoài tiếng gió thỉnh thoảng lướt qua và tiếng ngựa thở phì phò, chỉ còn nghe tiếng gào khóc thống thiết của mụ chủ trạm xe ngựa. Tiền bạc, ngựa, la đều bị cuỗm sạch, mụ ta đau đớn ruột gan chẳng khác gì chết cha chết mẹ.

- Trạm xe ngựa này hàng ngày đều có ngựa, la ra vào, ngươi hãy nhìn cho chính xác. Vết móng có phủ bụi[2] được không? – Gã trai xinh đẹp cao giọng hỏi, nghe ngữ khí thì biết trong Chu gia, gã có địa vị cao hơn hẳn tên cao lớn kia.

- Có phủ bụi, có lẽ chưa đi lâu! – Tên cao lớn trả lời.

- Xem ra chúng muốn dùng xe ngựa dụ chúng ta đi về phía tây bắc, còn thực tế lại cướp ngựa và la đi về phía tây.

- Không chắc! – Sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng Chu Chân Mệnh đã lên tiếng - Dụng ý của việc treo túi vỏ cây lên tảng đá là để chúng ta biết người ở phía trước chính là chủ nhân của Lỗ gia. Cướp bóc tiền bạc của trạm xe ngựa, là cố ý ra vẻ là hành động của phường trộm cướp. Song lệnh giang hồ của Chu gia đã truyền đi, làm gì có băng trộm cướp thổ phỉ nào dám cả gan kiếm ăn trên đoạn đường mà ta sẽ đi qua? Chuyện này đám cáo già của Lỗ gia không thể không biết. Còn những vết móng có thể phủ bụi, các ngươi cảm thấy đám cáo già kia có thể bỏ qua tiểu tiết này ư? Là chúng lại giở trò, muốn dụ chúng ta tiếp tục tiêu tốn thời gian mà thôi.

- Vậy sự thực là thế nào? – Tên cao lớn vẫn chưa hiểu.

Chu Chân Mệnh lại trầm ngâm suy nghĩ, hắn không ngờ việc lựa chọn giữa hai con đường lại khó khăn đến vậy. Có lẽ không chỉ có hai sự lựa chọn, chẳng phải còn có ba con đường không hề có vết tích hay sao? Chỉ một nước cờ đơn giản, ai cũng phải tính toán đến mấy tầng nước bước, nhưng cái khó là không biết đối thủ sẽ biến chiêu ở nước nào?

- Bé Đen ơi, bé Đen! - Từ trong trạm xe ngựa lại vọng ra tiếng réo gọi rối loạn. Ông bố bà mẹ đang khóc lóc vì bị khoắng sạch tiền nong đến giờ mới nhận ra đứa con đã biến mất.

Nghe thấy tiếng gọi, đứa trẻ liền chui ra khỏi đống rơm, sự xuất hiện của nó khiến cho kẻ làm cha mẹ cũng cảm thấy được bù đắp phần nào tổn thất. Lời nói thật thà của đứa trẻ cũng không còn gì phải nghi ngờ, đám người kia quả thực đã cưỡi ngựa cưỡi la ra khỏi cổng sau đi về phía tây, trong đám có một người cụt mất bàn tay, còn cưỡi chung ngựa với một cô gái bận trang phục đỏ. Có được thông tin chính xác, Chu Chân Mệnh ra hiệu thuộc hạ thưởng cho đứa trẻ một vốc bạc lớn.

Chu Chân Mệnh dẫn đầu đoàn người đuổi theo con đường núi phía sau. Công bằng mà nói, nếu không có đứa trẻ kia, phán đoán cuối cùng của hắn rất có thể đã sai. Người Lỗ gia ngay cả một giao lộ cũng tiến hành sắp đặt một cách phức tạp khó lường đến thế, vậy trước đó liệu hắn có mắc sai lầm tương tự trong những lần "chọn một trong hai" khác hay không?

- Môn trưởng, thuộc hạ đã gửi thông báo tới Cứ Điên đường gần đây nhất, lệnh cho họ tìm một nơi thích hợp ở phía trước để bố trí khảm diện Bôn xạ sơn hình áp[3], kết hợp với chúng ta để bao vây người Lỗ gia. – Gã trai xinh đẹp bước tới bên Chu Chân Mệnh bẩm báo.

- Ở đâu? – Chu Chân Mệnh trầm giọng hỏi.

- Hồ Tiên Tề...

Đám Lỗ Nhất Khí chạy liền một mạch hơn một canh giờ, tới khi ngựa la mũi thở phì phò, miệng sùi bọt trắng mới từ từ đi chậm lại. Tiếng vó ngựa vừa nhỏ bớt, Biện Mạc Cập đột nhiên mặt mày biến sắc, lập tức nghiêng người trượt xuống khỏi lưng ngựa, đổ sấp xuống đất, nghiêng tai nghe ngóng.

- Đuổi tới rồi! Mồi nhử không hiệu quả! - Biện Mạc Cập nói.

- Không thể nào! Chúng ta đã cuỗm sạch tiền bạc lại cố tình để lại vết móng ngựa, là để chúng cảm thấy chúng ta cố ý dụ chúng đi sang bên này. Lại thêm có ba con đường khác không hề có vết tích, người Chu gia đa nghi như vậy, dù có suy đoán ra được, cũng không thể nhanh chóng đến thế! – Lão mù cũng cảm thấy quái lạ.

- Chu gia có cao thủ! - Quỷ Nhãn Tam nói gọn lỏn.

- Theo tôi, chắc bọn chúng chẳng thèm nghĩ ngợi gì cho mất công, mà đã rút đại cái thăm hay tung đồng xu để quyết định nên đuổi theo hướng nào! – Ý kiến của Hạ Táo Hoa nghe qua có vẻ giống người ngoại đạo, song kỳ thực lại là phương pháp mà nhiều kẻ giang hồ thạo phương thuật, pháp thuật thường dùng.

Ngay từ lúc bỏ xe cưỡi ngựa, Lỗ Nhất Khí đã nghĩ đến kết quả này. Trong Chu môn, có quá nhiều cao nhân dị sĩ kỳ lạ khó lường, tìm ra chính xác hướng đi của họ không phải chuyện gì đáng kinh ngạc. Trong lúc này, việc cấp bách nhất chính là thoát khỏi bọn chúng.

- Ở đây có con đường nào khác để cắt đuôi bọn chúng không? - Lỗ Nhất Khí hỏi nhỏ Hạ Táo Hoa.

Hạ Táo Hoa thường qua lại vùng đất này, khá thông thạo địa hình nơi đây, suy nghĩ một lát thì nhớ tới một nơi:

- Đi tiếp vài chục dặm nữa sẽ gặp hồ Tiên Tề, xung quanh là đồng cỏ rộng lớn. Nơi đây nối liền với vài con đường mòn trong khe núi, do nhiều bộ lạc du mục cùng tới đây lấy nước lâu này mà tạo thành đường mòn. Đến nơi đó có thể tìm cách đối phó được với bọn bám đuôi.

Hồ Tiên Tề, tức là rốn tiên, người đất Tạng cũng gọi nó là hồ Rốn. Nhìn từ trên cao xuống, nước hồ xanh thăm thẳm, không giống cái rốn tẹo nào, mà hệt như con mắt biếc của thiếu nữ vùng sơn cước.

Lỗ Nhất Khí đứng trên sườn đồi đầy cỏ cách mép hồ không xa, nhìn mặt nước hồ không chớp mắt. Cậu đang băn khoăn nghi hoặc, không hiểu tại sao bỗng cảm thấy rất đỗi hoang mang, nhưng không biết chắc đó là tướng hư hay khí thực. Đột nhiên, cậu ý thức ra một điều gì, bèn ngẩng phắt đầu lên, nhìn về một phía xa xăm trên hồ Tiên Tề.

- Dừng lại. Quan sát chút đã rồi hãy đi! - Giọng Lỗ Nhất Khí không lớn, song tất cả mọi người đều ghì dây cương dừng ngay lại. Họ đã quen với việc nhận ra mối nguy hiểm và căng thẳng từ trong giọng nói bình thản của cậu.

Cũng chính vào lúc này, thanh đao mặt quỷ trên lưng lão Lợi bỗng rung lên những tiếng "u u" trầm lạnh, vuông nhiễu đỏ buộc ở chuôi đao cũng bay lên phần phật.

- Có sát khí? – Lão mù hỏi lão Lợi. Lão đã nghe thấy tiếng đao rung và tiếng vải lật phật.

- Còn nữa! – Lão Lợi đáp.

- Còn thứ gì nữa? – Lão mù cảm thấy quái lạ.

- Có mùi phân ngựa mới, rất nhiều, còn có mùi thịt thối nồng nặc. – Dương Tiểu Đao từng giết không biết bao nhiêu trâu bò ngựa dê, nên đã nhận ra hai thứ mùi hết sức quen thuộc với hắn.

- Còn nữa! – Lão Lợi lại nói.

- Vẫn còn nữa ư? - Đến lượt Dương Tiểu Đao ngạc nhiên.

- Còn có mùi người, cả người sống lẫn người chết! - Cổ họng Quỷ Nhãn Tam đã bị hơi nóng xông bỏng, giọng nói cũng trở nên méo mó, song mọi người đều nghe hiểu.

- Đúng vậy! Còn có súc vật và những con người không bằng cả súc vật! – Lão Lợi bổ sung. Phán đoán của lão bắt nguồn từ thanh đao trên lưng. Lúc này thanh đao dường như đã cảm giác thấy sự tồn tại của một thanh đao khác, thanh đao đó cũng là đao giết người, không những giết người sống, mà người chết cũng không tha.

Lão Lợi chưa từng nhìn thấy thanh đao đó, song cha ông lão đã từng căn dặn rằng, nếu gặp thanh đao đó phải lập tức tránh xa, đao mặt quỷ cười hoàn toàn không phải là đối thủ của nó. Trong khi lúc này, thanh đao đáng sợ kia đang ở ngay phía trước không xa.

Lỗ Nhất Khí thì thầm với Hạ Táo Hoa:

- Cô có nhìn thấy bóng núi đen phản chiếu dưới nước không? – Hơi thở nóng hổi từ miệng cậu phả vào tai Hạ Táo Hoa, lay động những sợi tóc tơ mảnh nhẹ, khiến vành tai nhạy cảm của cô nhồn nhột.

- Ừm! – Câu trả lời của Hạ Táo Hoa giống như một tiếng thở đầy thư thái.

- Nhưng tại sao tôi không nhìn thấy ngọn núi đâu nhỉ? – Đây chính là mối nghi ngờ của Lỗ Nhất Khí.

- Đó là núi Quy Giới, phải đi vòng qua đồi cỏ phía trước mới nhìn thấy. Địa thế nơi đây thoạt nhìn tưởng như liền mạch, song kỳ thực lại có khe núi ngăn cách. Bởi vậy, các đồi cỏ ở đây đều lấy hồ làm trung tâm, rồi xoáy vòng xung quanh như các nếp da xoáy về quanh rốn. Đứng tại một điểm không thể nhìn thấy toàn bộ núi bao quanh. Núi tuy không nhìn thấy, song có lẽ vẫn nhìn thấy bóng in dưới mặt hồ.

- Núi Quy Giới thật khác biệt với các đồi cỏ xung quanh, đá đen lởm chởm, vách sắc như đao, nhìn không thấy có đường lên. - Lỗ Nhất Khí lại thì thầm.

- Bởi vậy mới có tên là núi Quy Giới. Có thuyết cho rằng người dân du mục nếu gặp phải núi này hãy nhanh chóng quay đầu trở về nhà, bởi lẽ không có đường leo lên, cũng không có cỏ cho gia súc. Cũng có thuyết cho rằng nếu ai muốn lên núi này, chẳng khác gì tự tìm đến cái chết. Có điều trên núi không phải là không có người leo lên, không có người sinh sống, nghe nói có một vị thiên táng sư[4] sống ở lưng chừng núi, dân Tạng gần đó còn thường xuyên mời ông ta hành lễ thiên táng ở trên núi. Ranh giới quy tiên, lấy trời mà táng, nếu nói từ khía cạnh này, em cảm thấy tên núi rất phù hợp với thực tế! - Hạ Táo Hoa nói rất nhỏ nhẹ, trái ngược hẳn với tính cách của cô.

- Đúng rồi, em gái, cô vừa nói núi non quanh đây có khe núi ngăn cách, các khe núi lấy hồ làm trung tâm mà xoay quanh, vậy chỗ này chẳng phải là vùng đất cối xay trong phong thuỷ học ư? – Dương Tiểu Đao đột nhiên xen ngang một câu, rõ ràng gã đã nghe lén được câu chuyện giữa hai người.

- Không phải là vùng đất cối xay, mà là vùng đất thớt cối, xuất phát từ trong "Kham dư trạch tị pháp"[5] của Đào Ninh Chi cuối đời Hán, có nghĩa là "cối xay thớt đè", thuộc vào sáu loại đất sát phạt, khí bay hồn tán, không thích hợp cho cả dương trạch lẫn âm trạch. Tuy nhiên trong binh pháp, lại là vùng đất lý tưởng để bài binh bố trận, có thể tấn công, có thể phòng thủ, có thể mai phục, xuất quân như rồng cuộn thuỷ triều, lui quân như rùa rụt vào mai. - Hạ Táo Hoa càng nói càng thể hiện được vốn kiến thức phong phú.

- Một vùng đất như vậy, liệu đối thủ có bố trí khảm nút ở đây không nhỉ? - Sự lo lắng của Biện Mạc Cập không phải không có lý.

- Có lẽ là không. Thứ nhất là đối thủ không có đủ một lượng lớn người ngựa đã qua huấn luyện kỹ càng. Thứ hai là trong vùng đất thớt cối nơi đây, hồ nước rộng mênh mông, hình bờ hồ bất quy tắc, nếu vận hành khảm diện quy mô lớn, dễ có nhiều khiếm khuyết.

Phân tích của Hạ Táo Hoa rất có căn cứ. Song cô đã bỏ qua một chi tiết, nếu đối thủ chỉ bao vây mà không tấn công, thì bọn họ biết chạy đường nào?

- Có nhất thiết phải đi qua nơi này không? - Lỗ Nhất Khí cảm thấy có điều gì bất ổn.

- Có chứ! Muốn cắt đuôi đám người đang đuổi theo phía sau hay muốn tiếp tục đi về phía tây, chúng ta đều phải đi qua khe núi phía bên kia. - Hạ Táo Hoa trả lời.

- Cũng nhất thiết phải đi qua núi Quy Giới ư? - Lỗ Nhất Khí lại hỏi.

- Không hẳn! Có cả thảy ba khe núi dẫn tới đồng cỏ Bố Khách Xích, có thể tránh được ngọn núi kia. Sao thế, anh thấy ngọn núi có gì không ổn chăng? - Hạ Táo Hoa cảm thấy Lỗ Nhất Khí đang lăn tăn chuyện gì đó trong lòng.

Cậu không nói, chỉ gật đầu.

Tuy sườn đồi không thật dốc, song bầy ngựa, la đều bước rất chậm rãi và thận trọng. Bọn chúng đều đã mệt nhoài, những bước chân rệu rã muốn đi vững vàng trên dốc cỏ trơn mượt, chỉ còn cách dò dẫm lần từng bước một.

Cuối cùng đã xuống tới chân đồi. Lỗ Nhất Khí thình lình hét lên thật lớn:

- Không phải!

Rồi lập tức lăn nhào xuống ngựa. Đến Hạ Táo Hoa thân thủ tinh nhanh như chớp cũng không kịp túm lấy cậu.

Lỗ Nhất Khí vừa tiếp đất, lập tức chạy như bay tới bên hồ, Hạ Táo Hoa chẳng hiểu đầu cua tai ốc ra sao, chỉ biết bám sát theo sau.

Chú thích

[1] "Hải" hay "hải tử" trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là hổ, đầm. Đây là một vùng đất có địa mạo rất đặc biệt trong vùng sa mạc Tây Bắc, cồn cát nối nhau như sóng, đồi cát lừng lững như thành luỹ, chất cát bắt đầu hoá cứng.

[2] Một phương pháp đơn giản để phán đoán thời gian xuất hiện vết móng ngựa. Thổi vào bên cạnh vết móng ngựa, nếu có bụi bay lên phủ kín vết móng ngựa cho thấy là vết móng mới.

[3] Có nghĩa là hình núi di chuyển ép tới.

[4] Thiên táng là một cách thức an táng người chết phổ biến của người Tây Tạng. Xác chết được đưa đến nơi vắng vẻ, xả ra từng mảnh để cho chim kền kền ăn. Người Tạng cho rằng kền kền là sứ giả của thiên giới, sau khi ăn thịt người chết, chúng sẽ bay về trời, và linh hồn người chết sẽ được lên thiên đàng. Đây cũng được coi là một phương pháp bố thí, tức bố thí thân xác cho chúng sinh. Những người chuyên đảm nhiệm việc xử lý thi hài người chết và thực hiện những nghi lễ liên quan được gọi là thiên táng sư.

[5] Có nghĩa là phương pháp lấy, bỏ, chọn, tránh trong phong thuỷ học.

Chương 2: Sơn hình áp

Lỗ Nhất Khí dừng lại bên mép nước, ánh mắt đầy hoang mang và bất lực, hết nhìn nước hồ, lại ngẩng đầu nhìn về phía xa xăm. Lúc này, màn đêm đã bắt đầu buông xuống.

Bằng một bước xoay khéo léo, Hạ Táo Hoa đã nhẹ nhàng tới bên Lỗ Nhất Khí:

- Anh Nhất Khí, có chỗ nào không ổn ư?

- Không ổn! Chắc chắn là không ổn! Táo Hoa, cô thử nhìn xem, có phải bóng núi trong nước đang biến động phải không? Có một bộ phận trên trái núi đột nhiên tan ra, biến thành một đám mây đen! - Lỗ Nhất Khí tựa như đang mơ ngủ.

- Núi nào? - Hạ Táo Hoa ngớ người ra.

- Chính là núi Quy Giới!

- Để ý tới nó làm gì, dù sao chúng ta cũng không đi qua phía đó! – Phương pháp loại trừ bất ổn của Hạ Táo Hoa rất đơn giản, song ngữ khí của cô cho thấy cô không hề tin vào lời nói của Lỗ Nhất Khí.

- Không đi qua phía nào thế? – Đám người phía sau đã đuổi kịp đến nơi, lão mù nghe Hạ Táo Hoa nói vậy, thuận miệng hỏi luôn.

- Phía nào cũng không qua được! – Câu nói chứa đầy tuyệt vọng, là của Biện Mạc Cập. Lời nói vừa dứt, khắp bốn bề lập tức vó ngựa dập dồn như nước lũ, từ xa nhanh chóng ập lại gần. Trong tiếng vó ngựa còn xen lẫn cả tiếng kim loại và đập loảng xoảng, giống như tiếng chuông ngựa, song tuyệt đối không phải là chuông ngựa.

Lỗ Nhất Khí tụ khí ngưng thần, chốc lát đã rơi vào trạng thái siêu nhiên. Sát khí! Sát khí vô cùng tận! Dù là tiếng vó ngựa hay tiếng kim loại, đều bừng bừng một khí thế tàn sát có thể huỷ diệt mọi sinh linh.

- Chạy! Tản ra mà chạy! – Lão mù kinh nghiệm phong phú, hiểu rằng đứng trước sự vây ráp của đội kỵ mã quy mô lớn như thế này, cách tốt nhất chính là phân tán mà chạy, khiến vòng vây của đối thủ kín chỗ này hổng chỗ kia, như vậy người bị bao vây mới có được cơ hội đột phá xông ra.

Hành động nhanh nhất chính là Hạ Táo Hoa. Cô lao vọt đi hệt như một mũi tên đỏ rực, phóng thẳng về hướng có tiếng vó ngựa thưa thớt nhất. Tiếp đến là lão mù và Biện Mạc Cập, công phu khinh công của lão mù không thua kém gì con gái, còn Biện Mạc Cập thường ngày hay chạy theo xe ngựa thồ hàng, nên lực đạo của đôi chân không hề tầm thường. Những người khác cũng đã hành động, tuy chậm hơn một chút, song đều cắm đầu cắm cổ chạy tản mát ra bốn phía, nhanh chóng như đã qua diễn tập.

Bọn họ vừa hành động, đội kỵ mã đã xuất hiện, nối đuôi nhau ào ra từ trong các khe núi xung quanh hồ Tiên Tế. Đội kỵ mã nhìn không hề giống đội kỵ mã, mà hệt như từng khối vách sắt tường đồng.

Là ngựa thiết giáp! Nhìn vào chiều cao mà suy đoán, có lẽ đây là loại ngựa Tây Dương ở Tây Vực, lưng cao cổ ngỏng, móng thô bước dài, trên mình khoác áo giáp bằng lá sắt bắt khoá dưới bụng. Những kẻ cưỡi ngựa dáng người gầy gò nhỏ thó, song trên đầu sùm sụp mũ trụ bằng đồng che kín mặt, cơ thể chụp kín trong tấm áo giáp sắt bốn mảnh liền, trông có phần nặng nề cứng nhắc.

Biện Mạc Cập là người đầu tiên va chạm với đội kỵ mã. Hắn biết muốn thoát khỏi vòng vây, cần phải nhanh chóng lách qua khe hở giữa hai con ngựa thiết giáp phía trước và phía sau. Phương pháp mạo hiểm này đòi hỏi tốc độ phải nhanh, tiếp đến là thời cơ phải chính xác, nếu không sẽ bị ngựa thiết giáp xô ngã, giày xéo đến lục phủ ngũ tạng nát nhừ như cám.

Đội kỵ mã đang phi nước đại dù được huấn luyện tốt tới đâu, do sự khác biệt về địa hình, địa mạo, giữa hai con trước sau nhất định sẽ có khoảng cách. Biện Mạc Cập đã tìm thấy cơ hội, tung người vọt ra.

Khoảng cách giữa hai con ngựa đã không thu lại thì chớ, mà còn nhanh chóng kéo giãn ra. Biện Mạc Cập cảm thấy bất thường, vội vã thu lại ba phần lực đạo.

Chớp mắt, máu tươi bắn ra tung toé, Biện Mạc Cập lộn nhào ngã bật trở ra, lăn tròn trên dốc cỏ để lại một vệt máu rộng ướt đẫm. Biện Mạc Cập toàn thân đầm đìa những máu, vừa lăn xuống dưới, vừa hét lên đến lạc giọng:

- Đừng chui qua khe móng! Có dây gai sắc!

Nghe thấy tiếng hét của Biện Mạc Cập, lão mù lập tức xoay tít người trên đầu mũi chân, giống như một con quay, tiết hết lực đạo xông lên, rồi trượt ngay về phía sau, tốc độ giật lùi không hề thua kém tốc độ lao lên.

Cũng chính vào lúc này, hình thái của đội kỵ mã nhanh chóng biến đổi, khoảng cách phải trái, trước sau giữa những con ngựa mau chóng kéo giãn ra, giữa chúng xuất hiện ba vệt sáng loá đến chói mắt.

Xích mũi dao, xuất hiện sớm nhất trong "Binh phạt công giới tập"[6] của bộ Công đời Minh, chủ yéu dùng trong phòng vệ và vây giết. Khi xích thu về, có thể xếp chồng thành một chiếc hộp; khi kéo dài ra, rộng khoảng một thước, còn chiều dài sẽ được chế tạo dựa theo yêu cầu thực tế. Trên dây xích, cứ cách một thước lại lắp năm lưỡi dao sắc bén xoè ra như hình hoa mai. Nếu chạm phải dao trên xích, chốt lẫy trên xích sẽ co kéo, khiến mũi dao chui sâu vào da thịt, chọc ngoáy xoáy vặn, cho tới khi cổ đứt tay lìa, bụng ngực thủng lỗ mới thôi.

Ba đường xích mũi dao giăng thành ba tầng trên giữa và dưới, bịt kín hoàn toàn các khe hở, tựa như một bức tường dao.

Biện Mạc Cập quả là đen đủi, tuy tốc độ không bằng Hạ Táo Hoa và lão mù, song lại đụng đầu với đội kỵ mã đầu tiên. Nhưng dù sao hắn vẫn còn may mắn, vào thời khắc cuối cùng đã kịp thu lại ba phần lực đạo, bởi vậy các mũi dao chưa kịp đâm sâu vào trong, hắn đã kịp dựa vào lực thu lẫy để tung người thoát ra. Tuy có trúng thương đến hơn mười chỗ, song đều chỉ là vết thương ngoài da.

Động tác của Hạ Táo Hoa nhanh nhất, phương hướng cũng rất chuẩn xác, bởi vậy chỉ có cô là không bị đội kỵ mã bao vây hoàn toàn. Lúc này, cô đang thi triển công phu khinh công để tranh giành một khe hở thoát thân cuối cùng với đội kỵ mã đang sải vó điên cuồng. Cô chỉ cần đảm bảo tốc độ hiện tại, lao đi hơi chênh chếch thuận theo hướng ngựa phi, chắc chắn sẽ có thể chạy thoát trước khi đội kỵ mã kịp khép kín vòng vây.

Nhìn thấy Hạ Táo Hoa đã sắp đột phá khỏi vòng vây, mấy tên kỵ sĩ chạy trên cùng của đội kỵ mã bỗng nhấc cánh tay thiết giáp nặng nề lên, từ trong mỗi cánh tay bay vọt ra vài chục mũi tên lông vũ ba cạnh. Cơn mưa tên lập tức đan chéo thành một tấm lưới chằng chịt chặn ngang lỗ hổng phía trước, phong kín đường thoát của cô.

Trong tiếng vó ngựa và thiết giáp huyên náo hỗn độn, bỗng vang lên một tràng súng nổ. Lỗ Nhất Khí muốn giúp Hạ Táo Hoa thoát khỏi vòng vây. Đạn của cậu đã bắn trúng đầu đám kỵ sĩ kia, song chỉ có thể làm toé lên từng chuỗi hoa lửa trên mũ trụ đồng.

Lại có thêm rất nhiều kỵ sĩ đồng loạt bắn tên, đây là sự đáp trả trước tiếng súng của Lỗ Nhất Khí. Cơn mưa tên đã chặn đứng hoàn toàn bước chân của Hạ Táo Hoa, khe hở cuối cùng đã khép chặt lại.

- Rút lui tới bên hồ, dựa vào bờ nước, không để chúng vây kín! – Lão Lợi hét lên. Thế là đoàn người dắt theo ngựa, la, vội vã chạy lao tới bên hồ, cùng dừng lại tại một khe lõm bên bờ.

Đám Dương Tiểu Đao xếp la ngựa chắn vòng trước mặt, song sự che chắn này chỉ là hình thức, chắc chắn không thể chịu nổi một đòn.

Tới nước này, Lỗ Nhất Khí lại càng trở nên điềm tĩnh, nhìn đội kỵ mã thiết giáp với con mắt thản nhiên. Từ trong khe núi, đoàn ngựa vẫn tiếp tục đổ ra, mỗi lúc một đông đảo, hàng ngũ cứ kéo dài mãi không dứt, lần lượt nối thành vòng tròn, hết vòng này tới vòng khác. Từ trong ra ngoài đã có tới hơn sáu, bảy tầng, trùng trùng vây bủa lấy mấy con người và cả hồ Tiên Tề, quả là nước văng không lọt.

- Nhầm to rồi! Thế là hết đời rồi! - Hạ Táo Hoa biết mình đã nhầm, đối thủ không những có một lượng lớn người ngựa được huấn luyện kỹ càng, mà còn bày được cả một khảm diện ngựa thiết giáp quy mô lớn – Không thoát được rồi, anh Nhất Khí ơi, chúng ta phải chết chung là chắc!

- Đừng nói bừa! - Giọng Lỗ Nhất Khí vẫn rất bình thản, song ngữ điệu mơ hồ như lời than thở trong mơ.

Chu Chân Mệnh rất hài lòng với cảnh tượng trước mắt. Bôn xạ sơn hình áp của Cứ Điên đường quả nhiên đã lập công lớn, nhốt chặt được cả đám người giảo hoạt như lươn khó tìm khó bắt kia. Chu Chân Mệnh không vội tiếp cận khảm diện ngay, mà xuống ngựa, đứng chắp tay sau lưng trên đỉnh đồi cỏ. Hắn im lặng quan sát khảm diện trùng trùng như tường đồng vách sắt trước mắt, ngắm nghía những con mồi bị khoá kín bên trong, điệu bộ giống như là đang thưởng thức một kiệt tác do chính tay mình tạo ra.

Trên đời có rất nhiều kiệt tác không thể ngắm kỹ, không thể ngắm lâu, vì ngắm lâu sẽ lộ ra khiếm khuyết, thậm chí sẽ nhận ra đó chỉ là hàng giả.

Chu Chân Mệnh cũng như vậy. Càng nhìn ngắm bức "kiệt tác", hắn càng cảm thấy có gì đó bất ổn, càng cảm thấy không đủ hoàn mỹ. Có khiếm khuyết ở chỗ nào chăng? Hắn liên tục tự hỏi mình.

Là khảm diện không chặt chẽ? Không phải! Là đối thủ có lẫy ngược? Cũng không phải! Vậy là cái gì? Hay là khảm diện chưa bao vây kín kẽ, khiến hình khảm thành ra hư giả?

Đúng vậy, quá hư giả! Có điều không phải là ở hình khảm mà là khí tướng! Trong đó đã thiếu vắng làn khí tướng chết chóc hừng hực của vũ khí giết rồng?

- Không nhìn thấy vật phải đoạt về? – Chu Chân Mệnh hỏi nhỏ một câu, dường như e sợ gây kinh động tới người trong khảm diện.

- Thưa chủ nhân, quả thực không có. Nếu không chúng tôi đã sớm vận hành khảm diện cướp về. Cũng chính vì vậy nên mới phải bao vây chúng lại, đợi môn trưởng tới định đoạt! - Đường chủ Cao Bôn Lôi của Cứ Điên đường thận trọng hồi đáp.

- Đám "dưa đần" trong khảm không lọt lưới đứa nào chứ? – Chu Chân Mệnh lại hỏi.

- Thưa môn trưởng, một người cũng không lọt! Trong phạm vi hai mươi dặm bên ngoài, chúng tôi đã bố trí tai mắt theo dõi sát sao. Toàn bộ đều đã được tóm gọn! – Cao Bôn Lôi cung kính trả lời.

- Ừ! – Chu Chân Mệnh gật đầu.

- Thưa môn trưởng, bảo bối chưa lộ diện, chắc chắn là được giấu ở một nơi nào khác. Hãy bắt sống bọn chúng, tra khảo từng tên một! – Gã trai xinh đẹp chen ngang một câu.

Chu Chân Mệnh không nói gì. Hắn cảm thấy dường như mình đã sơ suất ở một khâu nào trước đó, khiến hắn bỏ lỡ mất thứ mà hắn đang lùng sục.

- Ngay từ đầu Lỗ Nhất Khí đã khiến chúng ta ngộ nhận, làm chúng ta cứ nghĩ rằng bảo bối luôn ở trên mình hắn. Song kỳ thực, hắn đã dùng chính hắn làm mồi nhử, dụ chúng ta tách khỏi con đường truy tìm vũ khí giết rồng! – Chu Chân Mệnh rất hiếm khi thừa nhận sai lầm một cách thẳng thắn như vậy.

- Hay là bọn chúng đã bày kế lừa phỉnh chúng ta ở khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ, dùng hầu hết số người để dụ chúng ta tới đây, chỉ giữ lại một hai tên thân tín mang theo bảo bối giết rồng đi theo cỗ xe ngựa ban đầu? – Tên cao lớn phân tích không phải là không có lý, song Chu Chân Mệnh lại lắc đầu.

- Chắc chắn không phải là giở trò ở khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ. Hoặc là sớm hơn, hoặc là sau đó cảm thấy không chạy thoát khỏi sự bao vây của chúng ta, nên mới tìm cách giấu đi. – Phân tích của gã trai xinh đẹp nghe cũng có lý.

- Tại sao? – Tay cao lớn hỏi

Gã trai xinh đẹp liếc nhìn Chu Chân Mệnh, thấy hắn khép hờ đôi mắt, vân vê chòm râu, ra vẻ chăm chú lắng nghe, bèn nói tiếp:

- Cách bọn chúng bố trí ở khe núi Đức Tát Ngạch Nhĩ kỳ thực là cách cục chia đôi. Chúng không thể chắc chắn chúng ta sẽ đuổi theo đường nào, nên sẽ tuyệt đối không mạo hiểm để một hai người mang bảo vật đi. Nếu như chúng ta chọn đường kia, chúng càng không thể ứng phó. Hơn nữa, đồ vật nằm trong tay mình vẫn là yên tâm nhất, thì tại sao hắn lại không dùng một hai người làm mồi nhử dụ chúng ta đuổi theo, còn bản thân mang bảo vật chạy trốn?

Chu Chân Mệnh khẽ gật đầu, xem ra hắn rất hài lòng với phân tích của gã trai xinh đẹp.

- Thế nhưng đoạn đường mà chúng ta đã chọn, xét về địa thế địa mạo, đều không có chỗ nào thích hợp để cất giấu bảo bối giết rồng. Những nơi đó đều cằn cỗi hoang vu, lại càng dễ hiển lộ khí thế tàn sát của bảo bối. – Tên cao lớn vẫn kiên trì với quan điểm của mình.

- Ngươi nói thế là không đúng! Nơi cằn cỗi hoang vu vốn dĩ đã có khí tướng âm trầm, chết chóc. Bị một trường khí như vậy che phủ, khí thế của vũ khí giết rồng sẽ không dễ hiển lộ. Giống như Tàng Ma Hải Tử mà chúng ta đã gặp trước đó, khí thế nơi đó càng có vẻ hung hãn chết chóc hơn, cồn cát liên miên, nóng khô như đốt, không có lấy một giọt nước. Bản thân nó đã là một món vũ khí nguy hiểm tàn sát vô số sinh linh, tác dụng của nó cũng tương tự với món vũ khí giết rồng trong môn phái chúng ta, hai thứ dung hoà vào nhau, ắt không thể hiển lộ. – Gã trai xinh đẹp nói.

Đôi mắt khép hờ của Chu Chân Mệnh đột nhiên mở choàng, chiếu ra hai luồng sáng quắc như muốn rạch toang cả bầu trời đen thẳm.

Chú thích

[6] Có nghĩa là tập hợp ghi chép về những loại thiết bị, máy móc dùng trong đán.

Chương 3: Khó xem thường

Chu Chân Mệnh cất giọng điềm tĩnh:

- Tàng Ma Hải Tử có tác dụng tương tự với vũ khí giết rồng của gia tộc ta?

Gã trai xinh đẹp gật đầu một cách vô thức. Trước sự uy hiếp của luồng sáng chiếu ra từ ánh mắt kia, gã bỗng đờ ra như thể trúng tà.

Sắc mặt của Chu Chân Mệnh vụt tối sầm tựa như núi Quy Giới trong đêm đen, song đôi mắt vẫn như hai vì sao ngoan cường chớp loé sau các tầng mây u ám. Mọi manh mối đang được xâu chuỗi trong trí não, và một số chi tiết rời rạc đã được khớp lại với nhau, một số thủ đoạn quen thuộc đã được tiến hành quy nạp.

Đó là một kết quả mà Chu Chân Mệnh lo sợ nhất, một kết quả khiến hắn khó mà chấp nhận nổi. Nếu đúng là như vậy, thì Lỗ Nhất Khí lại một lần nữa đã giăng khảm nút ngay từ đầu, vào một thời điểm mà hắn chưa kịp ý thức ra.

Đi về phía tây bắc là Mạc Thiên Quy và Dịch Huyệt Mạch, dẫn theo một đám kỵ sĩ và bảo tiêu do bọn họ thuê về, nghênh ngang phá vây vượt hiểm, song ý đồ thực sự lại không phải là để dụ người Chu gia đuổi về phía tây bắc, mà là muốn người Chu gia hiểu lầm, cho rằng bọn họ chỉ là mồi nhử.

Thế nhưng mồi nhử thực sự lại chính là đám Lỗ Nhất Khí đi về phía chính tây. Bọn họ đàng hoàng xuất hiện ở thị trấn Tịch Dương, công khai để lộ chiếc túi vỏ sui, sau khi bỏ chạy cũng không che giấu hành tung, mà tiến lên chậm rãi với nhịp độ rất vừa phải. Tất cả những điều đó đều là để dụ Chu Chân Mệnh đuổi về hướng chính tây, tạo cơ hội cho Mạc Thiên Quy và Dịch Huyệt Mạch.

Một nhóm người chạy về phía tây bắc, không có nhân vật chính, hơn nữa chỉ nhìn vào phục trang và hành động của chúng, có thể đoán chắc chúng là mồi nhử. Một nhóm người khác xuất hiện nhân vật chính, dẫn theo phần lớn cao thủ, còn mang theo cả chiếc túi vỏ sui, Chu Chân Mệnh đương nhiên sẽ cho rằng món bảo bối cần tìm đang ở trong tay Lỗ Nhất Khí.

Lại là một cục trong cục, khảm trongkhảm. Thời cơ và địa điểm đều được lựa chọn rất hợp lý. Vũ khí giết rồng không ở trong tay Lỗ Nhất Khí, mà ở trong Tàng Ma Hải Tử, trong tay những kẻ đang lẩn trốn trong Tàng Ma Hải Tử. Tại một chốn chết chóc của tự nhiên, một không gian cô cằn tuyệt diệt, khí tướng tàn sát của vũ khí giết rồng sẽ hoàn toàn dung hoà trong đó, không thể hiển lộ. Bởi vậy, Chu Chân Mệnh tuy đã tới Tàng Ma Hải Tử, song vẫn không thể cảm nhận thấy sự tồn tại của Đồ long chuỷ.

Khi chân tướng thực sự đã hiện hình trong tư duy của Chu Chân Mệnh, hắn lại thấy một khối tanh nồng ngòn ngọt dâng trào lên gốc lưỡi. Hắn bèn hít vào qua mũi một hơi khí trong lành, để trấn áp cảm giác nhộn nhạo trong lồng ngực, gắng gượng nuốt lại khối tanh nồng sâu xuống cổ họng.

Cuối cùng hắn cũng thốt ra một cậu sặc sụa mùi máu tanh:

- Hoả tốc truyền tin cho băng Cuồng Sa, phải bắt sống bằng được toàn bộ số người trong Tàng Ma Hải Tử! – Nói xong, hắn vội mím chặt môi, điều hoà một lát mới nói tiếp được – Không bắt sống được, giết chết lấy xác!

Giọng nói vừa dứt, chợt vẳng lại một tiếng rít chói tai, từ khoảng không phía xa lao thẳng xuống.

- Là cú đưa thư! – Gã trai mặt mày xinh đẹp đưa ngón tay lên miêng, huýt trả một tiếng chói tai không kém. Cánh tay gã vừa giơ lên, con cú đưa thư liền nhẹ nhàng đáp xuống.

Ống thư được làm bằng trúc đốm tía được mở ra, bên trong có một lá thư viết trên lụa mỡ gà cuộn tròn. Gã trai xinh đẹp chưa vội trình lên Chu Chân Mệnh, mà cẩn thận đọc qua một lượt.

- Có phải chuyện ở tây bắc không? – Chu Chân Mệnh nheo mắt hỏi. Hắn cảm thấy việc hắn không mong muốn nhất rất có thể đã thành sự thực.

- Vâng! – Gã trai xinh đẹp khẽ giọng trả lời.

- Phải chăng vũ khí giết rồng đã xuất hiện ở tây bắc? – Chu Chân Mệnh hít vào một hơi thật sâu.

- Vâng! – Có vẻ như gã đang cố gắng giữ cho giọng nói được bình tĩnh.

- Đã nhập hung huyệt chưa? – Đây là niềm hy vọng và sự cầu may cuối cùng.

-...

Không có câu trả lời.

Một tiếng thở hắt nặng nề. Hơi máu tanh đã đặc quánh tới mức có thể xe thành sợi máu dài bất tận.

- Thật là hổ thẹn với tổ tiên! Không những chưa hoàn thành được tâm nguyện của tổ tiên, lại đánh mất cả bảo vật tổ truyền! – Chu Chân Mệnh chưa bao giờ kích động như lúc này, lộ rõ thần tình thê thảm, bên khoé mắt trào ra từng giọt long lanh.

Chu Chân Mệnh vừa tới, Lỗ Nhất Khí đã biết. Cậu nhủ thầm trong bụng, tay môn trưởng Chu môn này quả nhiên không bỏ cuộc dễ dàng.

Kỳ thực, Lỗ Nhất Khí trong thâm tâm vô cùng mâu thuẫn. Cậu hy vọng được gặp Chu Chân Mệnh, bởi lẽ sự xuất hiện của hắn cho thấy khảm diện mà mình bố trí đã thành công, tuyến đường kia đã tẩu thoát thuận lợi, cậu vẫn còn hy vọng có thể thoát khỏi khảm diện rộng lớn nơi đây. Song cậu quả thực không hề muốn đối mặt với Chu Chân Mệnh. Một đối thủ nguy hiểm như vậy, chẳng ai lại muốn đụng đầu.

Bởi vậy, Lỗ Nhất Khí đang nỗ lực điều chỉnh trạng thái của mình. Nằm dài trên bãi cỏ mướt xanh mềm mại, hít ngửi hương hoa dại thoang thoảng, lắng nghe tiếng sóng hồ lao xao, cậu đã quên bẵng tất cả những nỗi phiền muộn lo âu, quên bẵng tất cả hiểm nguy và giết chóc. Tâm não cậu đã được gột rửa sạch không, mỗi sợi thần kinh nối liền với tâm não đều trở nên nhạy cảm cao độ.

Từ lúc Chu Chân Mệnh tới đây, mỗi một cung bậc lên xuống của cảm xúc trong lòng hắn đều không thể lọt qua cảm giác của cậu.

Thời cơ đã tới! Lỗ Nhất Khí tiếp tục duy trì trạng thái ban đầu, song nụ cười vẫn không kìm được mà bừng lên trên nét mặt. Chu Chân Mệnh đã là một con đê sắp vỡ, đây chính là thời điểm thích hợp để tặng thêm cho hắn một đòn tấn công quyết định, đẩy nhanh tốc độ vỡ bờ.

Lỗ Nhất Khí chậm rãi đứng dậy. Trong toàn bộ quá trình này, cậu vẫn tiếp tục tụ khí ngưng thần, cố gắng duy trì vẻ ung dung và tự tại cho mọi động tác, đưa tâm cảnh tới trạng thái không linh. Cậu hiểu rất rõ, chỉ cần bản thân có một chút xíu rối loạn hay sợ hãi, sẽ lập tức bị đối phương nhìn thấu ý đồ.

- Chu môn trưởng, tới rồi ư! - Giọng nói lạnh tanh không một chút tình người.

- Tới rồi ngươi mới biết sao? – Trong câu trả lời đã thấy sắc mùi đao kiếm.

Khoảng cách giữa Chu Chân Mệnh và Lỗ Nhất Khí khá xa, song họ không cần thiết phải nói lớn. Xung quanh lặng phắc như tờ, hai người vừa mở miệng, chẳng ai còn dám thở mạnh. Ngay cả bầy súc vật dường như cũng bị một loại sức mạnh vô hình áp chế, một tiếng phì phò khe khẽ cũng không dám bật ra.

- Tới rồi là tốt, đỡ phải thắc thỏm trong lòng, xong một việc đỡ một việc! - Giọng Lỗ Nhất Khí như khuyên nhủ.

- Không phải xong việc, mà là vừa lòng ngươi! – Tuy Chu Chân Mệnh cũng muốn giữ bình tĩnh, song luồng khí lên xuống nhộn nhạo trong lồng ngực đã không thể khống chế.

- Chuyện đến nước này cũng vì không còn cách nào khác. Trong thiên hạ có vô số bảo bối, song chỉ có món vũ khí giết rồng của gia tộc ông được ở bên Hoả bảo suốt nghìn năm, đã thấm nhiễm linh khí của Hoả bảo. Hơn nữa ngũ âm kỳ khiếu trên vũ khí giết rồng cũng phù hợp với lý số "nhận khí phát âm", là thánh vật kỳ tuyệt để hấp thu và tích tụ bảo khí. Ban đầu là Hoả bảo nhả ra, đồ long chuỷ nhận lấy, về sau bảo khí của hai thứ mới được cân bằng. Đây cũng chính là nguyên do vì sao Chu gia tuy có Hoả bảo để nương tựa, song vẫn phải nhờ vào sát phạt mới có được thiên hạ. Ngoài bảo bối này, làm gì còn vật nào có thể thay thế Hoả bảo trấn hung huyệt tây bắc?

Những lời của Lỗ Nhất Khí đã giúp Chu Chân Mệnh càng hiểu rõ hơn về món bảo bối giết rồng của gia tộc hắn là một thánh vật linh thiêng thế nào. Nếu bảo vật này không bị chi mạch của hắn mang đi, chưa biết chừng dựa vào bảo khí của nó còn có thể duy trì hoàng triều họ Chu thêm vài trăm năm nữa. Hơn nữa, sau khi chi mạch của hắn mang đi, cũng không biết cách ứng dụng cho tốt, đến lúc này lại càng không thể tìm về. Nghĩ tới đây, vết thương trầm trọng nhất trong lòng hắn lại phải chịu thêm một đòn đả kích.

- Khó khăn lắm mới được Chu môn trưởng nhân theo đạo nghĩa của trời, nhường lại cho bọn ta món bảo bối này để trấn hung huyệt tây bắc. Quả là một việc tốt lành tạo phúc đức cho đời đời con cháu, chỉ người đạo hạnh cao thâm, tâm địa nhân từ như Chu môn trưởng đây mới có thể làm được, thực khâm phục muôn phần! Lần giao dịch này với Chu môn trưởng, ta thực sự đã thu hoạch không ít! - Mỗi câu nói của Lỗ Nhất Khí đều như lưỡi dao sắc cứa vào ruột gan Chu Chân Mệnh.

Lúc này, Chu Chân Mệnh không những cảm thấy khí huyết trong cổ sắp sửa phun trào, mà ngay cả lục phủ ngũ tạng cũng như muốn nổ tung. Lúc này, chỉ có giết chết đối thủ tức khắc, hắn mới có thể hả giận.

Chu Chân Mệnh loạng choạng lao xuống dốc cỏ vài bước, cơn nhộn nhạo dữ dội trong khoảng ngực bụng đã không thể khống chế nổi nữa, huyết khí tắc nghẽn nơi cổ họng đột ngột phun trào dữ dội. Hắn vội vã xoay người kéo áo bào che mặt, để ngụm máu tươi phun hết vào bên trong áo, rồi mới từ từ hạ tấm áo xuống, tiện thể chùi sạch vết máu còn dính bên mép. Khi hắn xoay người trở lại, chỉ thấy sắc mặt đã ngả màu xanh tái.

Khí huyết phun ra, cũng đã giải phóng khối uất kết trong lồng ngực, khiến hơi thở bế tắc lại được lưu thông. Tâm tư bình lặng cũng khiến suy nghĩ linh hoạt trở lại, hắn đã ý thức được rằng mình không nên vì những lời nói của Lỗ Nhất Khí mà phẫn nộ.

Chu Chân Mệnh không nhìn Lỗ Nhất Khí nữa, mà từ từ đưa tay lên, ra hiệu cho gã trai xinh đẹp đưa cho hắn xem lá thư vừa nhận được.

- Chu môn trưởng ông chớ nên kích động. Cuộc giao dịch lần này đã thành công mỹ mãn, cũng có nghĩa là có thể mở ra một cuộc giao dịch khác. Từ đây đi về phía tây, còn có Thiên bảo ẩn giấu vẫn chưa khai quật. Ông hãy giúp tôi lấy bảo bối đó lên, sau đó tôi sẽ cho ông mượn để tích tụ lại linh tướng của Hoả bảo đã nổ tung, phục hồi gia nghiệp... - Lỗ Nhất Khí vẫn tiếp tục nói, song đã nhanh chóng dừng lời, bởi lẽ cậu phát hiện thấy Chu Chân Mệnh không hề lắng nghe.

Chu Chân Mệnh cầm lá thư lên xem một hồi lâu. Hắn thấy ngạc nhiên, rốt cuộc cao thủ ẩn nấp trong Tàng Ma Hải Tử là nhân vật thế nào? Mà sao chỉ trong vòng bốn ngày ngắn ngủi, đã có thể thoát khỏi Tàng Ma Hải Tử, xuyên qua sa mạc hàng trăm dặm, tới được thành Băng Phong, tức hung huyệt phía tây bắc.

Hoả bảo đã nổ tung, bảo bối chôn giấu ở vùng đông bắc, đông nam đều đã nhập vào hung huyệt, bây giờ đến cả bảo bối giết rồng cũng bị lừa lấy đi trấn vào hung huyệt tây bắc. Trong tay Chu gia không còn vật gì để nương tựa, Lỗ Nhất Khí đã trở thành manh mối duy nhất để tìm ra bảo bối tiếp theo. Cách đây chưa lâu, Lỗ gia còn bị Chu môn truy lùng đuổi giết khác nào một bầy sẻ đồng chuột phố, vậy mà giờ đây Chu gia đâu đâu cũng rơi vào vòng kiểm soát của Lỗ gia, đã lại sảy ra sai sót ở đâu chăng?

Vừa nghĩ tới đây, trong trí não u ám của Chu Chân Mệnh bỗng như bừng lên một tia sáng. Suy nghĩ của hắn vùn vụt đảo ngược, quay trở về khởi điểm, quay trở về một nơi mà hắn chưa từng xem trọng: viện trong viện ở Bắc Bình.

- Ngươi vừa nói gì? – Chu Chân Mệnh cuối cùng đã lên tiếng.

- Ta đang nói tới vụ giao dịch tiếp theo! - Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng đã yên tâm đôi chút.

- Vụ giao dịch trước đã xong rồi ư? – Câu hỏi của Chu Chân Mệnh rất lạ lùng.

- Sao thế? Chu môn trưởng cảm thấy vẫn còn mẻ hàng chiều nào chưa vét ư?

- Ngươi nghĩ ta sẽ dễ dàng tin rằng người của ngươi có thể tới thành Băng Phong nhanh như vậy ư?

- Ồ! - Lỗ Nhất Khí đã hiểu. Chu Chân Mệnh vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Xem ra nếu cậu muốn thuận lợi thực thi kế hoạch tiếp theo, thoát khỏi sát khảm trước mắt một cách an toàn, thì trước hết phải khiến hắn mất hết hy vọng vào vũ khí giết rồng.

- Từ Tàng Ma Hải Tử tới bãi Quỷ Hống là sa mạc lòng máng xuôi gió xuôi chiều, dùng ngựa lùn Hà Sáo kéo xe trượt cát, chỉ trong ngày là tới nơi. Từ bãi Quỷ Hống đến thành Lang Yên là các bãi đá vụn và mười chín đầm lầy cỏ mọc. Trên đoạn đường này, bọn ta đã mời sẵn một tay dẫn đường chuyên nghề dẫn gia súc đường dài, chuẩn bị bè cỏ, còn mua sẵn hai con cáo đầm lầy đã qua huấn luyện để dò đường. Lộ trình này tuy có chậm hơn, song vẫn có thể đi thẳng mà qua.

Chu Chân Mệnh khe khẽ gật gù. Kinh nghiệm giang hồ đã khiến hắn tin rằng những điều này là thật.

- Sau khi qua thành Lang Yên, toàn là đường núi gập ghềnh và thảo nguyên hoang vu không một bóng người, cần chú ý nhất là tuyết đọng quanh năm tại sườn sau núi, đề phòng tuyết lở. Lộ trình này có thể dùng khoảng hơn chục "thuyền nhẹ đi cạn"[7] đặc sắc của người Duy Ngô Nhĩ, liên tục thay đổi mà tiến lên, chỉ cần mang đủ nước và lương thực, thì trong một ngày đêm đã có thể tới thành Băng Phong trên núi Khắc Y Táp Nhĩ Nạp (núi Huyễn Tượng). Người được ta uỷ thác biết rõ hung huyệt ở đâu, đến được đó sẽ lập tức đi thẳng đến nơi cần đến.

Lỗ Nhất Khí nói nghe có vẻ dễ dàng, song trong thực tế, trên suốt chặng đường này, Mạc Thiên Quy và Dịch Huyệt Mạch đã phải trải qua vô số gian nan hiểm trở, miệt mài đi suốt ngày đêm, mệt mỏi đến mức mấy độ đã tưởng chừng không thể trụ nổi. Bọn họ đã phải dốc hết sức lực mới gắng gượng đến được đích cuối, để hoàn thành công việc cần làm.

- Ta vẫn không tin! Người của ngươi có được bản lĩnh cao thâm đến vậy ư? – Với thân phận của Chu Chân Mệnh, đáng lẽ hắn không nên bảo thủ một cách vô lý như vậy. Song không ai chú ý tới một nét cười âm hiểm vừa lộ ra bên khoé miệng hắn.

- Tất cả những điều này, ta đã bày mưu tính kế kỹ lưỡng với họ từ trước khi xuất phát! - Lỗ Nhất Khí đang nói dối, toàn bộ lộ trình này đều là do Mạc Thiên Quy vạch ra với cậu. Sở dĩ cậu nói dối, là vì mong muốn Chu Chân Mệnh tin vào năng lực của mình, tin rằng mình hoàn toàn có đủ khả năng khai quật Thiên bảo phía chính tây.

- Được rồi! Tạm thời không nói chuyện phía tây bắc, bây giờ hãy bàn bạc vụ giao dịch phía chính tây. Ta muốn xem ngươi còn món gì đáng giá. – Lúc này cán cân đang nằm trong tay Chu Chân Mệnh, bởi vậy vụ trao đổi này có thực hiện được hay không, và thực hiện như thế nào, vẫn là do hắn định đoạt.

Lỗ Nhất Khí đã cảm giác thấy có chút gì đó bất ổn, song nhất thời không thể phán đoán ra sai sót ở đâu.

- Lỗ môn trưởng, thôi đừng có lải nhải nữa. Chỉ biết khua môi múa mép nói suông, có đưa ra được thứ gì ra hồn đâu? – Gã trai mặt mày xinh đẹp cũng lên tiếng khích bác Lỗ Nhất Khí.

- Một ngôi chùa, một chiếc thang. Không tu Phật, theo ý trời. Có lòng leo thang tìm bảo bối. Ai hay đâu, lên trời không có đường, tìm bảo không có lối. Ta giữ nghìn năm cũng không biết, ngươi dò trăm năm cũng chẳng ra. - Những lời này cũng đều do Mạc Thiên Quy nói cho cậu biết. Nơi cất giấu bảo bối phía chính tây do Mặc gia đời đời canh giữ. Một trăm năm trước, tại nơi đây dựng lên một ngôi chùa Lạt ma. Tuy các Lạt ma trong chùa bình thường cũng tụng kinh niệm Phật, song hậu duệ của Mặc gia lại phát hiện thấy bọn họ âm thầm tổ chức tìm kiếm khắp xung quanh. Do vậy, Mạc Thiên Quy đoán rằng Chu gia đánh hơi thấy mùi Thiên bảo, nên đã cho xây dựng cứ điểm ngầm ở đây.

- Chỉ dựa vào chút manh mối vụn vặt này, giao dịch không thể thực thi. Những gì ngươi nói, ta cũng đã biết! – Chu Chân Mệnh còn chưa kịp lên tiếng, gã trai xinh đẹp đã thay hắn gạt phăng đi.

- Nhưng nếu ta nói cho các người biết, trời là trời điên đảo, lên trời không cần thang, các ngươi cảm thấy vụ giao dịch này có nên tiến hành hay không? – Đây hoàn toàn là những suy luận tuỳ hứng của Lỗ Nhất Khí đối với năm chữ "điên chi uyên" và "thê khởi" trên tấm thẻ ngọc.

- Ta tin! Nhưng ngươi dựa vào đâu mà biết được? – Chu Chân Mệnh trả lời rất dứt khoát, mà hỏi lại cũng rất nhanh.

Trong trí não Lỗ Nhất Khí chợt hiện lên hình bóng của tấm thẻ ngọc, cùng những con chữ đã nhận biết được trên đó. Song cậu chỉ nói:

- Chu môn trưởng hỏi nhiều quá rồi! Chỉ cần ông tin là được.

Con mắt trên khuôn mặt xinh xắn của gã trai đứng cạnh loé lên một tia sáng quái lạ, hắn lập tức cười lên khanh khách. Nghe tiếng cười của gã, Chu Chân Mệnh cũng cười, có điều nụ cười của hắn thâm trầm hơn rất nhiều.

Trái tim Lỗ Nhất Khí bỗng nảy ngược lên, cậu kêu thầm trong dạ:

- Mắc lừa rồi!

Chú thích

[7] Một giống lừa da xanh, tốc độ nhanh, rất bền bỉ.

Chương 4: Hạ sát lệnh

Đúng là đã bị mắc lừa, hơn nữa, còn là một cú lừa trí mạng. Bởi Lỗ Nhất Khí không biết, gã trai xinh đẹp kia chính là Thức Bảo linh đồng.

Thức Bảo linh đồng! Thể loại dị nhân này từng xuất hiện vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, khi đó được gọi là "Thức Bảo hầu". Họ có thể nhìn ra vị trí của bảo bối, còn nhận biết được chủng loại của bảo bối. Khác với Lỗ Nhất Khí, bọn họ nhận biết bằng mắt thường, chứ không phải bằng cảm giác như cậu. Cũng chính vì nhìn mà không phải là cảm giác, nên họ không thể nhìn thấy những bảo bối ở quá sâu.

Nhãn lực của loại người này vẫn luôn là một câu đố. Bọn họ nhìn bằng cách nào, vẫn chưa có ai hiểu nổi.

Có người nói rằng, bọn họ nhìn vào ánh sáng của bảo bối. Ánh sáng của bảo bối là thứ rất khó che giấu bởi ngoại vật, đó cũng chính là lý do mà một số người có thể nhìn thấy hào quang quái lạ trong đêm tối, sáng hôm sau tiến hành đào bới, thường sẽ khai quật được báu vật.

Cũng có người nói rằng bọn họ nhìn vào sự chuyển động của bảo bối. Bảo bối thành linh, là quá trình từ chết hồi sinh, từ sinh thành thánh. Bảo bối sau khi thành linh có thể di động. Mới đầu chưa thực sự di động, gọi là "ý động". Tới một giai đoạn nhất định, mới thực sự di chuyển. Bởi vậy, có người tuy nhìn thấy ánh sáng bảo bối, song khi đào lên lại không thấy bảo bối đâu. Hay có người đào sâm phát hiện ra cây sâm quý to lớn, phải buộc dây đỏ xung quanh, đề phòng sâm chạy, nguyên lý cũng tương tự như vậy.

Song lại có người nói rằng, bọn họ nhìn vào bảo tướng. Bảo tướng được chia thành ba tầng: bản tướng, sinh tướng và thần tướng. Bản tướng là thực thể của vật, sinh tướng là thứ ẩn phục, linh động ở xung quanh vật thực, là sắc màu sinh động hiện bên ngoài bản tướng; thần tướng là thứ bay bổng lan xa bên ngoài vật thực, là biểu hiện ngoại tại của bảo bối dùng để đẩy lùi tà ma, hướng tới thần thánh. Trong các tầng bảo tướng, bản tướng có thể quan sát bằng mắt tinh, sinh tướng có thể quan sát bằng trí tuệ, còn thần tướng chỉ có những kẻ linh thông giống như Thức Bảo linh đồng mới có thể quan sát thấy. Còn như khí tướng bảo bối mà Lỗ Nhất Khí cảm giác được, cũng mới chỉ ở khoảng giữa sinh tướng và thần tướng.

Bản lĩnh của Thức Bảo linh đồng có bảy phần là bẩm sinh, ba phần là rèn luyện. Gã Thức Bảo linh đồng của Chu gia ban đầu được tuyển chọn làm linh đồng tế lễ. Có cao nhân phán rằng gã có mạch tượng "mục linh liên khiếu", có thể giao tiếp với hồn ma tại thế giới khác. Song Chu Chân Mệnh lại vô tình phát hiện ra nhãn lực siêu phàm của gã đối với bảo bối. Mà với Chu gia, đây mới là thứ quan trọng nhất. Thế là hắn vận dụng mọi phương pháp để tập trung bồi dưỡng gã trên lĩnh vực này, đồng thời đích thân truyền thụ cho gã võ nghệ và kiến thức và khảm diện. Nói một cách chính xác, có thể coi gã Thức Bảo linh đồng kia là đệ tử chân truyền của Chu Chân Mệnh, bởi vậy địa vị của hắn trong Chu gia không ai sánh bằng.

Lỗ Nhất Khí đã mắc lừa. Chính vì cậu đã hết lần này đến lần khác lừa Chu Chân Mệnh vào tròng ngay từ đầu, nên ngược lại, cũng đã gợi ý cho Chu Chân Mệnh cần phải tìm ra cơ hội phản kích từ điểm nào. Chu Chân Mệnh nhớ tới viện trong viện ở Bắc Bình, Lỗ Nhất Khí đã liều mạng xông vào rồi lại trở ra, chắc chắn đã lấy được thứ mà người khác không tìm thấy.

Lỗ Nhất Khí đã quá khinh suất. Vì muốn Chu Chân Mệnh tin rằng cậu có khả năng lấy được Thiên bảo ở chính tây, không những đã khai hết toàn bộ những gì Mạc Thiên Quy đã nói với cậu, lại còn nhận bừa công lao của vụ vượt đường tây bắc, trong khi bảo cấu phía chính tây và tây bắc đều là nhiệm vụ của Mặc gia. Tất cả đã khiến Chu Chân Mệnh ngộ nhận rằng, trong tay Lỗ Nhất Khí đang nắm giữ một thứ có thể chỉ ra vị trí của tất cả mọi bảo cấu, và rất có khả năng được lấy ra từ viện trong viện ở Bắc Bình.

Bị dẫn dụ bởi lời nói của Chu Chân Mệnh, Lỗ Nhất Khí đã vô thức nghĩ tới tấm thẻ ngọc. Cảm giác siêu phàm của cậu đương nhiên sẽ dẫn dụ bảo tướng của tấm thẻ bùng lên, thần tướng vụt hiện, khiến Thức Bảo linh đồng ngay lập tức bắt được hơi thở của báu vật.

Tiếng cười của Thức Bảo linh đồng còn chưa dứt, cánh tay của Chu Chân Mệnh đã quyết liệt vung lên. Đường chủ Cao Bôn Lôi của Cứ Điên đường lập tức múa tít hai chiếc đèn da bò trong tay, chỉ đưa ra một ám hiệu duy nhất: "Giết!".

Chu Chân Mệnh quyết định không cho Lỗ Nhất Khí thêm một cơ hội nào nữa. Vì nếu như vậy, hắn sợ rằng sẽ khiến mình lỡ mất cơ hội cuối cùng.

Lỗ Nhất Khí đã hết cách. Cậu không biết rằng cơ hội thực ra ở ngay trên người mình, cũng không biết sở dĩ người Chu gia phát động tấn công chóng vánh như vậy, chính vì sợ cậu sẽ dùng kế sách doạ huỷ thẻ ngọc để uy hiếp, đổi lấy cơ hội thoát thân.

Nhận được chỉ lệnh, khảm diện Bôn xạ sơn hình áp lập tức di chuyển, biến hình. Những kỵ sĩ thiết giáp đối diện với Lỗ Nhất Khí tại mỗi vòng đã thúc ngựa lao lên phía trước, đội hình tấn công được hình thành từ nhiều vòng kỵ mã thiết giáp nhô hẳn lên, trông hệt như vô số đỉnh núi chồng chất lên nhau.

Bầy ngựa, la của đám Lỗ Nhất Khí dường như đã ý thức được điều gì, cuống quýt xoay vòng tại chỗ, hí lên ầm ĩ, cuối cùng thậm chí là ỉa đái mất kiểm soát. Có lẽ trong cơn kinh hoàng trước cái chết, phản ứng của mọi sinh linh đều như nhau.

Hạ Táo Hoa đứng chắn ngang phía trước Lỗ Nhất Khí, chiếc túi da huơu dài hẹp trên lưng đã cầm ngang trong tay. Những người khác cũng đều lăm lăm binh khí, sẵn sàng cho cuộc liều mạng cuối cùng. Song đối mặt với một khảm diện khổng lồ quá sức tưởng tượng, tâm lý của bọn họ đã hoàn toàn suy sụp.

Đúng vào thời khắc này, sắc mặt của Lỗ Nhất Khí đột nhiên trở nên vô cùng kinh dị, ánh mắt cũng xoay chuyển sang một hướng khó mà hiểu nổi. Nhưng ở đó là bầu trời vô tận, là đồi cỏ không một bóng người.

Trong đám kỵ sĩ thiết giáp, có kẻ hú lên một tiếng vang dội. Ngay lập tức, toàn bộ hình núi rùng rùng chuyển động, song tốc độ không nhanh. Bôn xạ sơn hình áp đã khởi động, khí thế như núi ấp tới.

Dưới áp lực vô hình và hữu hình, đám người cố gắng lùi hẳn xuống mép hồ. Lỗ Nhất Khí lùi lại, cậu đứng chôn chân tại chỗ, ánh mắt vẫn nhìn như hút về phía đồi cỏ.

Hạ Táo Hoa thoáng ngạc nhiên, song đã kiên định đứng lại bên cạnh Lỗ Nhất Khí, giống như đang bảo vệ một tín niệm từ kiếp trước.

Một âm thanh sắc lạnh rít lên điếc óc, con cú đưa thư đang đậu trên vai Thức Bảo linh đồng hoảng hốt bay vụt lên, tựa như bị ác ma trong bóng đêm rứt trộm lông cánh. Đám thuộc hạ đứng bên Chu Chân Mệnh đột nhiên vã mồ hôi lạnh, lông tóc dựng đứng, hàn khí ngoằn ngoèo chạy dọc sống lưng.

- Có tà ma! Rất âm hàn! – Tên cao lớn đã từng trải qua cảm giác này, tay trái lập tức kết ấn quyết Thủ tâm chỉ, tay phải quặt về phía bao kiếm da rắn vẩy trắng treo ngang sau hông, bật ra một thanh kiếm lưỡi rộng không ngù khảm hình ô tước phi vân. Sau đó tay trái lật lại, xoay ngược ấn quyết đặt trước trán, tay phải đâm xéo kiếm xuống dưới, hai chân đạp bước nhỏ lướt trên mặt cỏ, lao nhanh về phía một đỉnh đồi chênh chếch sau lưng.

Chu Chân Mệnh chỉ từ từ quay người lại. Hắn cũng đã cảm nhận được có sự bất thường ở phía sau, song càng cảm nhận được rõ hơn sự bất thường trong cơ thể. Tâm khí Đạo gia có được sau bao năm khổ luyện và khí sát phạt vào thời khắc này đã xung đột dữ dội đến sắp vỡ tung, thân tâm đã bạc nhược như tờ giấy. Để tránh tẩu hoả nhập ma, hắn tuyệt đối không cho phép bản thân tức giận thêm lần nào nữa. Lúc này, nhất thiết phải điều chỉnh tâm cảnh hướng tới cảnh giới cực cao.

Cùng với tiếng nổ rền vang động, một chùm sáng chói loá bay vọt lên cao. Trong bóng đêm tĩnh lặng, trong sơn cốc âm u, tiếng nổ long trời và ánh sáng thình lình đã khiến cho tất cả phải chấn động sững sờ.

Tên cao lớn đang lao vụt về phía đỉnh đồi lập tức dừng chân, hạ thấp thân người, kiếm che trước ngực, đứng lặng phắc như một pho tượng.

Toàn bộ hình núi Bôn xạ sơn hình áp còn chưa lao lên được hai thân ngựa, đã bị tiếng nổ dữ dội và ánh sáng chói loà chặn đứng bước chân, bởi lẽ bản tính của ngựa vốn sợ lửa và sợ âm thanh lớn. Song trong tình huống bất thình lình này, bầy ngựa vẫn không đến nỗi cuống cuồng hoảng loạn, vẫn đứng im tại chỗ chờ đợi sự thay đổi, chứng tỏ chúng đã được huấn luyện đến mức độ cực kỳ siêu việt.

Lỗ Nhất Khí bình tĩnh ngắm nhìn chùm sáng bay lên, nở xoè và tưng bừng phun ra hàng chùm tia sáng. Đã từng này tuổi đầu, song cậu chưa bao giờ nhìn thấy thứ pháo hoa nào rực rỡ và cháy lâu đến thế.

Đã có người hành động, bởi lẽ tình huống xuất hiện bất ngờ đã khiến họ cảm thấy đây chính là cơ hội. Thế là vài thân hình linh hoạt mau lẹ đã lợi dụng bóng tối do đỉnh đồi đổ xuống và bầy ngựa la đang khiếp vía làm yểm hộ, lao thẳng tới Bôn xạ sơn hình áp.

Lần này, Dương Tiểu Đao chạy lên đầu tiên. Dưới ánh sáng rực rỡ của pháo hoa, gã đã nhìn thấy rõ những cẳng chân ngựa to khoẻ san sát như rừng...

Pháo hoa đã nổ tung thành một chùm xoè rộng. Sau khi chùm sáng loà loà vụt tắt, bóng tối ập xuống sẽ khiến mắt người ta không thể thích ứng ngay trong chốc lát, bởi vậy đây chính là thời khắc tấn công tốt nhất. Dương Tiểu Đao đối chiếu tốc độ với kế hoạch đã tính toán sẵn, gã muốn chớp lấy cơ hội này để xuất kích. Bởi vì động tác đã tính toán kỹ lưỡng vẫn có thể thực hiện suôn sẻ trong bóng tối. Trong mắt Dương Tiểu Đao, những bộ vó kia dường như đã bị lột sạch da thịt, chỉ còn trơ lại xương, khớp xương và đám gân mạch lằng nhằng, hơn nữa, vị trí khớp gối ngựa đã hình thành một đồ hình liền mạch trong tâm trí gã. Lúc này, chỉ cần thực hiện đúng theo trình tự đã tính toán, áp sát tới đội kỵ mã, múa đao vun vút đúng như động tác đã mường tượng trong đầu, bằng cách thao tác gảy, cứa, gọt, đâm, khoét, sẽ dễ dàng khoét rời, cứa đứt cả đám lớn khớp xương, gân mạch.

Chùm sáng muôn màu lộng lẫy trong không trung đã bung ra thành vô số đốm lửa li ti, bay dạt về phía đám Lỗ Nhất Khí, rồi theo nhau tắt lịm. Sau đó là khoảnh khắc tối sầm, điều này không nằm ngoài dự đoán, song cơn lạnh lẽo ập đến ngay sau đó đã khiếp mọi người phải bất ngờ. Vài luồng gió âm hàn từ trên đỉnh đồi xoáy tròn lao xuống, cuốn theo cái lạnh ghê buốt thấu tận tim gan. Trong gió còn ẩn chứa một lực đạo ma quái, tên cao lớn đang đứng như trời trồng trên sườn dốc đã bị luồng lực đạo xô thẳng xuống phía dưới.

Đám thuộc hạ bên cạnh Chu Chân Mệnh đều đã rút sẵn binh khí, một nửa số người tạo thành trận hình "vây đánh ba mặt", xông thẳng lên đỉnh đồi. Nửa còn lại dàn thành trận thế phòng thủ với hai nhóm "hổ phục giương vuốt" phía trước Chu Chân Mệnh, tư thế cảnh giác cao độ.

Hàng người ngựa sau cùng trong khảm diện Bôn xạ sơn hình áp có vẻ hơi nhộn nhạo. Cả ngựa và kỵ sĩ đều đã cảm giác được cơn ớn lạnh mà đợt gió âm hàn cuốn tới, cũng cảm nhận được luồng áp lực ma quái âm tà. Đám kỵ sĩ bỗng chốc hồn phách hoang mang, động tác và phản ứng đều trở nên trì độn. Bầy ngựa được huấn luyện kỹ càng cũng hoảng sợ run rẩy, nếu không phải có xích mũi dao nối liền, có lẽ chúng đã cuống cuồng bỏ chạy.

Lỗ Nhất Khí đang ngưng thần để cảm giác. Từ trong những trận gió âm hàn, cậu đã nhìn hấy những bộ mặt mà người khác không nhìn thấy. Mặt ma! Nhưng những bộ mặt ma này chắc chắn không phải do Dưỡng Quỷ Tỳ điều khiển, bởi lẽ nét mặt của chúng quái đản hơn, khủng khiếp hơn, hung tợn hơn rất nhiều. Sắc mặt cũng không trắng xanh, mà là sắc lục sẫm đến ngả đen. Một số bộ mặt còn rách mướp đến ghê sợ, tai xẻ miệng toạc, mắt lủng lẳng treo bên ngoài hốc. Những bộ mặt ma này lướt đi với tốc độ cực nhanh, hệt như đâm thẳng mà tới. Lỗ Nhất Khí lập tức nhớ tới một cao thủ với năng lực điều khiển hồn ma cao siêu hơn nữa: Dưỡng Quỷ Nương. Dưỡng Quỷ Nương là cao thủ hiếm có của Chu gia, chỉ có người như Chu Chân Mệnh mới có thể thu phục được. Song nếu như đúng là bà ta, tại sao lại quay giáo phản kích chính khảm diện của Chu gia?

- Lui! – Lão mù đang ngăn cản Dương Tiểu Đao. Lão đã nghe thấy tiếng lẫy bật.

Song Dương Tiểu Đao lại thiếu nhạy cảm trước tiếng quát của lão mù, may thay sau lưng gã còn có Quỷ Nhãn Tam. Quỷ Nhãn Tam thuận thế đẩy Dương Tiểu Đao ngã chúi xuống dưới bụng một con la to khoẻ, tay còn lại xoay tít cây xẻng lưỡi cày, đánh văng một đám lớn tên nỏ.

Cứ Điên đường của Chu gia là một đường khẩu bên ngoài, lăn lộn giang hồ đã lâu. Tuy rằng năng lực của mỗi cá nhân không thể sánh kịp cao thủ của tổng đường, song khả năng ứng biến và chiến đấu thực tế lại hơn hẳn. Bởi vậy sự biến bất ngờ phía sau lưng tuy có khiến một số kỵ sĩ phải hoang mang kinh hãi, song cũng là một lời nhắc nhở với bọn chúng, trách nhiệm của bọn chúng bây giờ chính là phải mau chóng diệt gọn các mục tiêu trong khảm diện, không để bọn họ có một mảy may cơ hội để phản kích và đột phá vòng vây, sau đó mới quay lại tấn công mối uy hiếp phía sau lưng. Bởi vậy, không cần đến mệnh lệnh, không cần đến chỉ huy, các ống nỏ bắn dàn hàng đã tự động giương lên, mũi tên lông vũ ba cạnh bắn ra tới tấp như mưa rào.

Dương Tiểu Đao vừa ngã xuống đất, lập tức lăn lông lốc về phía sau, song vẫn bị một mũi tên lông vũ ba cạnh găm trúng hông.

Quỷ Nhãn Tam vừa múa tít cây xẻng lưỡi cày, vừa rút Vũ Kim Cương trên lưng xuống. Vừa nãy hắn định nhanh chóng tập kích nên mới sử dụng xẻng lưỡi cày, lúc này muốn chắn đỡ trận mưa tên, đương nhiên không gì bằng Vũ Kim Cương. Cây Vũ Kim Cương của hắn đã bị mất trong hành trình tìm kiếm Kim bảo ở đông bắc, còn cây Vũ Kim Cương này là của Nghê Thất. Tuy hình dáng và trọng lượng như nhau, song sử dụng vẫn cảm thấy không thực thuận tay. Nếu không, trong khoảnh khắc bật Vũ Kim Cương, hắn đã không bị một mũi tên ngắn găm trúng vai trái.

Sau một đợt tên bắn, khảm diện lại bắt đầu di chuyển về phía trước. Ngay sau đó, đợt mưa tên thứ hai lại bắt đầu.

- Lùi lại! Mau lùi lại! - Quỷ Nhãn Tam đang che chắn bên cạnh Lỗ Nhất Khí hét lớn. Chỉ mình hắn có thể nhìn rõ trận mưa tên đang ào ào vụt tới. Song phía sau đã hết đường lui, Hứa Tiểu Chỉ và Niên Thiết Cao đã lọt cả xuống hồ nước.

Đúng vào lúc đó, trên đỉnh đồi cỏ lại có pháo hoa vọt lên. Lần này không phải là một quầng sáng, mà là cả chuỗi sáng xoáy tròn, nhanh như chớp lao vụt tới mé sau của khảm diện, rồi mới nổ bùng, xoè thành một chùm sáng lạnh lẽo với vô số đốm lửa li ti lơ lửng mãi không tàn.

- Có mê chướng! Nín thở, ngậm thuốc! - Thức Bảo linh đồng kêu ré lên. Tuy chất lượng thuốc mê cực tốt, mùi vị cực nhẹ, trộn lẫn trong mùi thuốc pháo, gần như không thể ngửi thấy, song Thức Bảo linh đồng vẫn đánh hơi ra.

Song bọn kỵ sĩ thiết giáp vừa bị cơn âm phong thổi cho đờ đẫn, lại thêm đầy mình giáp trụ cồng kềnh, nên đã không thể kịp thời lấy ra thuốc chống độc.

Thuốc mê trong pháo hoa không nặng, đám kỵ sĩ hít phải thuốc không ngã xuống ngay, chút ý thức còn lại vẫn đủ để chúng gắng gượng nằm gục trên lưng ngựa. Song pháo hoa đã bay thành chuỗi vào trong khảm diện, khiến cả một hàng dài kỵ sĩ nối đuôi nhau hít phải thuốc mê, tựa như đã xẻ ra một rãnh khuyết trên khảm diện như hình thớt cối.

Đám kỵ sĩ phía trước ý thức được tình hình nguy cấp phía sau lưng, chúng đã không còn kịp quan tâm đến hình khảm chỉnh thể của Sơn hình áp, mau chóng hối thúc đội kỵ mã đang trong cơn trì trệ xông lên, muốn tiêu diệt toàn bộ mục tiêu trước khi sự việc trở nên tồi tệ hơn nữa.

Một vạt trắng rộng lớn tràn xuống từ đỉnh đồi rợp cỏ, âm thầm mà chóng vánh.

Gã cao lớn đứng gần đỉnh đồi nhất, bởi vậy, hắn cũng là kẻ đầu tiên nhận ra vạt trắng kia là một bầy cừu, là giống cừu lông dài Trác Khách Duy. Đặc trưng nổi bật của giống cừu này chính là bộ lông dài một cách khác thường, đến lúc xén lông, phải dài tới hơn hai thước. Trong quá trình mọc, những sợi lông dài sẽ tự xoăn tít thành lọn. Một đặc trưng nữa là chất lông cừu đặc biệt dai bền, dây tết từ lông cừu đủ sức ghìm chân con ngựa đang phi nước đại.

Tuy trước mặt chỉ là bầy cừu chứ không phải bầy sói, song gã cao lớn vẫn đứng yên không dám nhúc nhích. Bởi lẽ hắn đã nhận ra, đàn cừu trước mặt tuyệt đối không phải tầm thường. Trước hết, chúng chạy quá nhanh, hắn chưa bao giờ nhìn thấy giống cừu nào có thể chạy nhanh như vậy. Hơn nữa, trên mình chúng đang toả khói, một thứ khói rất nhạt và nhẹ.

Trận hình "vây đánh ba mặt" đã khựng lại, trận thế phòng thủ "hổ phục giơ vuốt" càng trở nên kín kẽ hơn. Ngay cả Chu Chân Mệnh cũng gắng gượng đề khí, ngưng tụ tinh thần để quan sát bầy cừu.

Bầy cừu mau chóng né qua đám người bất động, tựa như chạy vòng qua đống đá. Rồi chúng xông thẳng vào trong khảm diện trùng trùng vách sắt tường đồng, chẳng khác gì một thùng sữa tươi tạt thẳng đến.

Trận mưa tên nhằm vào Lỗ Nhất Khí đã có Quỷ Nhãn Tam và Hạ Táo Hoa ứng phó, cậu chỉ có việc ung dung thưởng ngoạn những cảnh tượng đang diễn ra trên đồi cỏ. Trên một chừng mực nào đó, khảm diện cũng giống như một bức thư hoạ hay một áng văn chương, đều cần có người thưởng thức. Song nếu như một tác phẩm ngay trong quá trình sáng tác đã có người tán thưởng, thì người đó hoặc là kẻ tri âm hiểu thấu tâm can tác giả, hoặc là bậc kỳ tài, bởi lẽ cậu có năng lực cảm nhận siêu phàm, bởi lẽ cậu đã khắc cốt ghi âm "Cơ xảo tập". Vừa nhìn thấy bầy cừu lông trắng, cậu đã không kìm nổi hào hứng và khâm phục mà thốt lên:

- Hay quá! Vách khảm lay, cừu ma cưỡi, như tơ quấn, rắc thuốc bay.

- Anh lảm nhảm cái gì thế? - Hạ Táo Hoa không phải lúc nào cũng hiểu được những hành vi kỳ quặc của Lỗ Nhất Khí.

- Đừng vội, xem kìa! Có thứ rất hay!

Chu Chân Mệnh lúc này đang đứng trên sườn đồi, mũi miệng như cùng rên lên ba tiếng:

- Cừu ma cưỡi!

Ba chữ vừa bật ra, khí huyết lại cuồn cuộn trong ngực như nước thuỷ triều.

Cừu ma cưỡi từng xuất hiện ở rất nhiều nơi. Thường khi đêm xuống, cừu không về chuồng, mà đi lang thang về phía đồng hoang. Hơn nữa, chúng đột nhiên mất đi bản tính hiền lành cố hữu, lao đi như bay, không ai có thể đuổi kịp. Có người nói rằng, đó là hiện tượng cừu bị ma nhập, cũng có người cho rằng loài cừu này do ma hoang hoá thành. Song cừu ma cưỡi ở đây lại không thuộc hai trường hợp trên, mà là dùng ma lực đã tích luỹ để điều khiển bầy cừu.

Nút lẫy ma tung ra đầu tiên, khiến đám kỵ sĩ trở nên đờ đẫn không kịp lấy thuốc chống độc. Thuốc độc toả ra từ pháo hoa đã khiến cả một đám lớn kỵ sĩ bên trong khảm diện hôn mê mà mất đi ý thức. Vì thế, khi bầy cừu xông vào khảm diện, bọn chúng đã không thể bắn tên ngăn cản, cũng không thể điều khiển đội ngựa để biến hình khảm diện. Kỵ sĩ không bắn tên, ngựa thiết giáp không cử động, kích thước của bầy cừu lông dài lại vô cùng thích hợp, bọn chúng nhanh chóng chui qua chân, luồn dưới bụng ngựa, xông thẳng vào trong khảm diện.

Chương 5: Cuồng quấn giết

Nhìn thấy cừu ma cưỡi, cũng nhận ra hướng tiến của bầy cừu, Chu Chân Mệnh lập tức hiểu ra tình huống này có ý nghĩa gì. Song hắn không nói nổi thành lời, bởi lẽ khí mạch nội nguyên đã bị công phá và tắc nghẽn bởi cơn phẫn nộ khủng khiếp.

Nếu không ngăn cản được bầy cừu, mọi nỗ lực trước đây đều sẽ tan thành mây khói. Vừa nghĩ tới đây, Chu Chân Mệnh gắng gượng lắm mới chỉ hộc lên một tiếng khẽ, phun ra một búng máu tươi. Máu vọt thành tia bắn tung toé sau gáy Thức Bảo linh đồng.

Thức Bảo linh đồng giật nảy mình quay ngoắt lại, và nhìn thấy Chu Chân Mệnh đang ra hiệu bằng tay. Gã lập tức gầm lên với Cao Bôn Lôi:

- Cho phần đầu Sơn hình lùi lại! Đội lưng núi khép chặt! Đội sau cùng giãn rộng hết cỡ, không liên kết với nhau!

Chu Chân Mệnh quả nhiên lợi hại. Bầy cừu vừa lao xuống đồi, hắn đã nhìn ra cách thức dùng cừu ma cưỡi để phá giải Bôn xạ sơn hình áp. Chỉ trong chớp mắt, hắn đã dùng động tác tay ra hiệu để bố trí phương án bổ cứu, không cho bầy cừu phá vỡ khảm diện.

Song đã muộn rồi. Dẫu rằng chỉ muộn một chút xíu, song thực sự đã muộn rồi. Bôn xạ sơn hình áp trong chớp mắt đã biến thành một trái núi sạt lở, rồi vỡ tan tành một cách mau chóng hơn nữa, trực tiếp hơn nữa.

Thoáng chốc, máu phun như mưa dội, đồi cỏ như tưới máu, hồ Tiên Tề đỏ rực như son.

Vẫn chăm chú quan sát từ đầu tới giờ, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, nhân vật kỳ bí trên đỉnh đồi cỏ không những thạo nghề nuôi ma, điều khiển ma, mà còn vô cùng thông thạo nguyên lý của khảm diện Bôn xạ sơn hình áp. Dưới sự điều khiển của ma lực, tốc độ của đàn cừu lông dài đã đạt đến cực điểm, phương vị di chuyển cũng chính xác tuyệt đối. Hai cú tập kích của âm phong và pháo hoa đã khiến một bộ phận kỵ sĩ phải mê man rũ rượi, cũng khiến cho bộ phận đỉnh núi của Sơn hình tăng tốc công sát. Như vậy, trước sau phải trái không thể phối hợp nhịp nhàng, khoảng cách giữa các hàng bị kéo giãn, xích mũi dao đang thu lại đã bị kéo căng. Nhờ đó, bầy cừu lông dài bị ma lực điều khiển mau chóng ken kín khoảng cách giữa các hàng trước sau.

Thời cơ được lựa chọn vô cùng hợp lý, cao thủ điều khiển cừu ma cưỡi dường như đã đoán ra Chu Chân Mệnh sẽ chọn phương pháp thoái lui, thu hẹp cự ly để giải cứu. Đã để lỡ thời cơ mà vẫn tiến hành giải cứu là một sai lầm cực lớn. Cừu lông dài đã ken kín khảm diện, lúc này nếu thu hẹp hình khảm, lũ cừu không những sẽ gây vướng víu cho chân ngựa, mà còn bị mắc vào xích mũi dao. Những lọn lông cừu dài ngoẵng sẽ quấn chặt lấy các mũi dao, khó mà gỡ nổi. Xích mũi dao bị vướng vào đàn cừu, cũng mất luôn tính năng kéo rút.

Biến cố xuất hiện quá đường đột, đám kỵ sĩ trong khảm diện còn chưa ý thức được bầy cừu tại sao lại lao tới, thì cừu ma cưỡi và Sơn hình áp đã hoàn toàn quấn rối vào nhau thành một khối bùng nhùng.

Song chiêu thức lợi hại nhất của cừu ma cưỡi đến Lỗ Nhất Khí cũng không nhìn ra, chính là làn sương nhàn nhạt toả ra quanh mình cừu. Trên mình lũ cừu đều ẩn giấu những khối bùi nhùi được vê từ cỏ phong ma, ngọn lửa cực nhỏ, ngún lâu và toả khói bền.

Cỏ phong ma, hay còn gọi là cỏ ngựa điên, là giống thực vật chỉ có ở đất Tạng.

Trong "Tạng dược bí y" có ghi chép về cỏ phong ma như sau: "Ăn vào là ngủ, sống hay chết mấy ngày sau mới biết. Bị khói hun sẽ phát cuồng, sức lực tăng gấp mấy lần, đi không nghỉ".

Trong "Diệt Phật chiến lục" có câu chuyện viết rằng, để thúc ngựa đưa thư đi nhanh, người ta đốt hoa ngựa điên khiến ngựa phi như phát cuồng, cho tới khi mệt đứt hơi mà chết mới thôi. Loại hoa ngựa điên này cũng chính là cỏ phong ma.

Trên mình bầy cừu có mang theo những cục bùi nhùi vê bằng cỏ phong ma, đây mới là điều kiện quan trọng khiến cho Bôn xạ sơn hình áp bị phá huỷ hoàn toàn, cũng chính là vật đảm bảo cuối cùng trong trường hợp những phương pháp trước đó không may gặp trục trặc ngoài dự đoán.

Hình khảm to lớn vững vàng như núi bắt đầu trồi sụt nhấp nhô, bắt đầu chòng chành chao đảo, bắt đầu xô dạt tán loạn. Ngựa thiết giáp dần dần trở nên điên loạn, từ ít đến nhiều, sức lực vụt tăng mà xô trái đâm phải, vùng chạy như điên, rào rào hất văng đám kỵ sĩ xuống đất. Đám kỵ sĩ đầy mình giáp trụ nặng nề vừa rơi xuống lập tức bị móng ngựa giày xéo, hoặc bị cuốn vào xích mũi dao. Xích mũi dao mắc vào những con cừu béo mập không thể rút lại. Đám ngựa phát cuồng lôi theo xích mũi dao quấn nháo nhào vào những con ngựa chưa phát điên và chưa kịp phát điên thành một khối rối loạn. Đám ngựa còn tỉnh táo đau đớn vì bị dao sắc cứa cắt đâm chọc cũng trở nên điên loạn, ra sức quẫy đạp hòng thoát khỏi những lưỡi dao gớm ghiếc, và cứ như thế, tiếp túc cuốn những con ngựa khác ở đầu xích xa hơn nhập vào vòng hỗn độn.

Nếu nói rằng khảm diện Bôn xạ sơn hình áp là một mái chèo vận hành theo đường xoáy ốc với sức mạnh kinh hoàng, thì bầy cừu ma cưỡi khác nào một đám rong rêu rối bời hay một tấm lưới cá rách nát, còn đám bùi nhùi bằng cỏ phong ma lại là động lực kích thích mái chèo đã bị vướng rong rêu càng xoay vòng nhanh chóng hơn. Trước động lực này, một khảm diện với khí thế lừng lững như núi chớp mắt đã biến thành một biển máu thịt tơi bời. Máu tươi tuôn trào như suối chảy, thịt người, thịt cừu, thịt ngựa tan tành lẫn lộn vào nhau, khí tanh dậy đất, quả thực thảm thương không nỡ nghe nhìn. Tiếng kêu rú, tiếng gào thét, tiếng rên xiết, tiếng hí rền rĩ dằng dặc như không dứt, rất lâu sau mới rời rạc dần, rồi chỉ còn râm ran yếu ớt.

Chỉ có một số rất ít kỵ sĩ và ngựa thiết giáp đối diện hồ nước là kịp thời dứt khỏi xích mũi dao, vội vàng chạy tít ra xa, hồn vía lên mây tay chân bủn rủn nhìn cảnh máu thịt tơi bời, nước hồ nhuộm máu.

Toàn bộ đám người Chu gia đều chết sững trên đồi cỏ. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, quá đột ngột, khiến bọn chúng không còn tin nổi vào mắt mình.

Chu Chân Mệnh cũng đã chảy máu. Một giọt, chỉ một giọt, rỉ ra từ trong mũi. Sắc máu thẫm đen, lăn xuống dọc theo đám ria mềm mại được chăm chút chỉnh tề của hắn, rồi ngưng đọng dưới cằm trái lúc này đã trắng bệch. Đây là khối máu huyết đã nín nhịn quá lâu trong khoảng ngực bụng, tuy hắn gắng mím môi thật chặt không cho chúng phun ra, song vẫn có một giọt tràn vào khoang mũi, âm thầm ứa ra ngoài.

Lại một quả pháo hoa bay vụt lên, lần này không phải ở trên đỉnh đồi, mà là ở lưng chừng một sườn dốc phía bắc hồ Tiên Tề. Nếu như phát pháo hoa này và chuỗi pháo hoa ban nãy là do cùng một người bắn ra, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đã di chuyển được một quãng đường xa đến thế, hẳn công phu phải thuộc hàng thượng thừa. Lần này chùm pháo không lớn, không bùng nổ, nở xoè, song rất sáng, thời gian cháy sáng trên không trung rất dài, khá giống với loại pháo sáng tín hiệu do Chúc Dung tổ thất ở Hà Bắc và Hoả Tước quán ở Lưu Dương, Hồ Nam sáng chế ra, chứ không giống pháo hoa.

Dưới ánh pháo sáng rực, mọi người càng nhìn thấy rõ thảm cảnh tan hoang của khảm diện sau khi bị vỡ. Song có người không hề quan tâm tới khảm diện trước mắt, mà đang tìm kiếm để phát hiện ra những nguy cơ mới và cơ hội sống còn mới.

Nhờ chùm ánh sáng, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy một người, một người mà cậu vẫn thường bất giác âm thầm tưởng nhớ trong tâm. Cũng nhờ ánh pháo sáng rực, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra một sự thay đổi: quanh người Dưỡng Quỷ Tỳ đã không còn ma khí nữa. Điều này khiến cậu không khỏi sửng sốt.

Nhìn thấy Dưỡng Quỷ Tỳ, trong tâm trí Lỗ Nhất Khí bỗng khởi lên vô số cảm giác phức tạp. Song những sự việc vừa mới trải qua đã nhắc nhở cậu rằng, còn rất nhiều việc phải làm, điều cần thiết lúc này không phải là tình cảm, mà là cảm giác. Nguy hiểm trước mắt tuy đã được loại bỏ, song đối thủ rất có thể vẫn còn quân chi việc phía sau, Chu Chân Mệnh có lẽ cũng đang tính toán để bố trí thêm một khảm diện tàn độc, tinh vi hơn nữa. Mối nguy hiểm kế tiếp có lẽ sẽ ập đến tức thì.

Tụ khí ngưng thần, cảm giác của Lỗ Nhất Khí đang tung hoành ngang dọc trong vô số loại khí tướng giăng đầy quanh hồ Tiên Tề, giữa trùng trùng huyết khí, tử khí, oán khí và sát khí dày đặc. Bởi vậy, cậu cần phân biệt, tìm kiếm, đột kích để kịp thời cảm giác ra một con đường thoát thân không có nguy hiểm rình rập.

Chùm pháo hoa trên không trung dần dần rơi rụng và tắt lịm. Khi tất cả một lần nữa lại chìm nghỉm vào bóng tối, Chu Chân Mệnh nãy giờ vẫn im lìm như đá tảng đã bất ngờ hành động, như một ánh chớp xẹt lướt vụt qua trận hình bảo vệ, lao thẳng lên đỉnh đồi. Trong quá trình di chuyển chớp nhoáng, hắn đã mở miệng phun ra hàng bụm máu ứ tím bầm.

Khi Chu Chân Mệnh nhẹ nhàng tung mình nhảy vọt lên đỉnh đồi, thì từ sườn bên kia của đồi cỏ cũng vừa hay có một cái bóng xanh đen hạ xuống còn nhẹ nhàng hơn thế nữa. Người này nhìn không rõ mặt, vì đã bị khăn bao hồn phủ kín, chỉ còn nhìn thấy một cặp mắt, một cặp mắt cong vút sáng trắng như trăng lưỡi liềm, không hề thấy con ngươi.

- Quả nhiên là ngươi, Dưỡng Quỷ Nương! - Giọng Chu Chân Mệnh vẫn điềm tĩnh.

- Là tôi đây, môn trưởng! – Hơi thở phả ra từ Dưỡng Quỷ Nương dường như cũng mang sắc đen pha lục.

- Tại sao lại làm như vậy?

- Không còn cách nào khác. Cũng phải đến hôm nay tôi mới biết, việc khó khăn nhất trên đời này là chuyện của con cái!

- Là vì hắn? – Chu Chân Mệnh biết, chỉ có thể là vì Lỗ Nhất Khí.

- Càng là vì con bé! – Trong giọng nói của Dưỡng Quỷ Nương có chút bất đắc dĩ.

- Suy nghĩ thấu đáo chưa? – Chu Chân Mệnh vẫn hỏi một cách bình thản.

- Thấu đáo rồi! - Vầng trăng lưỡi liềm trên mặt Dưỡng Quỷ Nương càng cong vút - Trước đây quả thực tôi đã có món nợ ân tình với môn trưởng, song cũng đã vì môn trưởng mà làm rất nhiều việc, dư sức hoàn trả món nợ ân tình, phần còn dư coi như khấu trừ vào món nợ hôm nay. Tỳ Nhi từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, mà tôi lại không con không cái, chính tay tôi đã nuôi nấng Tỳ Nhi lớn khôn. Song ngược lại, nó cũng đã chăm sóc tôi hơn chục năm qua, mối thân tình này cũng dùng món nợ hôm nay để chấm dứt. Từ nay trở đi, bất kể là chuyện của môn trưởng hay chuyện của nó, tôi cũng sẽ không nhúng tay vào.

- Kẻ nuôi ma, mánh làm ăn cũng thực ma mãnh! – Chu Chân Mệnh mỉa mai.

- Đều là học được từ môn trưởng! - Dưỡng Quỷ Nương ra vẻ khiêm tốn, song lại là châm chọc Chu Chân Mệnh.

- Đã nghĩ tới hậu quả chưa? - Giọng Chu Chân Mệnh đột nhiên trở nên âm hiểm.

- Nghĩ rồi! Nhưng chí ít hôm nay sẽ không phải lãnh hậu quả. - Dưỡng Quỷ Nương không hề sợ hãi.

- Tại sao? – Chu Chân Mệnh tuy hỏi vậy, song kỳ thực trong lòng đã rõ đến tám, chín phần.

- Muốn tôi nói toạc ra ư? Môn trưởng không cảm thấy ngay cả việc ngừng ngắt trong lúc nói năng cũng đã trở nên chệch choạc hay sao? Kỳ thực có rất nhiều kiểu tẩu hoả nhập ma không thể giải quyết được bằng cách bài trừ ứ tắc củng cố bản nguyên, mà ngược lại, làm như thế càng khiến nội thương phát nhanh hơn. Công lực của môn trưởng lấy trầm ổn vững vàng làm trọng yếu, song lúc này lại trở nên chập chờn hư phù, là tướng phá công. Nội khí đã tán rồi! - Giọng nói của Dưỡng Quỷ Nương có chút gì như đáng tiếc.

Chu Chân Mệnh không trả lời.

- Tính không bằng tin, làm không bằng nhìn. Tuy tôi làm việc ma quỷ, song lại nói tiếng người. Suy nghĩ đã thấu đáo, lời cũng đã nói xong, đã đến lúc tôi phải ra đi. Chỉ xin môn trưởng chớ lôi kéo tôi vào trong những tính toán của người! - Dưỡng Quỷ Nương nói đi là đi, cái bóng xanh đen thoắt cái đã biến mất sau đồi cỏ.

Người đã đi rồi, song lời còn chưa nói hết. Dưỡng Quỷ Nương dùng công phu "tiếng ma vọng tường", nói lớn một lời gan ruột, văng vẳng khắp mọi ngóc ngách của các khe rãnh quanh hồ Tiên Tề:

- Con gái! Là phúc hay hoạ, mẹ cũng giúp con toại ý. Lỗ môn trưởng, con bé kia vì cậu mà sống hay chết, từ nay trở đi sẽ là chuyện của giang hồ. Nhưng nếu cậu phụ nó, sẽ là chuyện của nhà ta. Cậu hãy nhớ cho kỹ!

Dư âm giọng nói còn chưa dứt, Dưỡng Quỷ Tỳ đã cất cao giọng lanh lảnh đáp lời:

- Sư phụ... Mẹ... hãy bảo trọng!

Lại một chùm pháo hoa vụt lên, song lần này không phải là phóng thẳng lên trời, mà lao về phía một khe núi rợp cỏ đối diện hồ Tiên Tề.

- Đúng rồi, chính là chỗ đó! – Không biết Lỗ Nhất Khí có nghe thấy lời dặn dò của Dưỡng Quỷ Nương trước lúc rời đi hay không, chỉ thấy cậu chăm chú trỏ về hướng đó – Trong khe núi và sau sườn đồi bốn phía xung quanh đều ẩn tàng sát khí, đối thủ đã bố trí xong khảm kế tiếp. Chỉ có lối kia sát khí yếu nhất, có thể đột phá xông ra!

Mới nói được nửa câu, Lỗ Nhất Khí đã co cẳng chạy vụt đi, men theo bờ hồ chạy lao về hướng đó. Cậu biết mình sức chạy yếu kém, chỉ có chạy trước mới không bị tụt lại làm liên luỵ đến mọi người. Hơn nữa, cậu cũng muốn nhân cơ hội này để thoát khỏi ánh mắt bỏng rát của Hạ Táo Hoa. Những lời Dưỡng Quỷ Nương vừa nói một người thông minh lanh lợi như Hạ Táo Hoa làm gì có chuyện không nhận ra ẩn ý bên trong.

Lỗ Nhất Khí có chạy nhanh tới đâu, Hạ Táo Hoa cũng chỉ lắc người hai cái đã vượt qua cậu. Khi băng qua bên người cậu, đôi mắt long lanh của cô còn liếc cậu một cái đầy ẩn ý. Lỗ Nhất Khí muốn cười với cô, song lại ngượng ngùng luống cuống mà thành ra chỉ khẽ nhếch bên khoé miệng.

Hạ Táo Hoa có chạy nhanh tới đâu, vẫn không thể nhanh hơn câu nói của Chu Chân mệnh, cũng không thể nhanh hơn mũi tên sáo rít bắn ra từ tay Cao Bôn Lôi.

Cùng với tiếng mũi tên rít lên nhức óc xé toạc bầu trời đêm, từ trong khe núi sau đồi cỏ bốn xung quanh bỗng rộ lên tiếng reo hò dậy đất, ngựa hí vang rền.

Đám Lỗ Nhất Khí chưa chạy được nửa đường, thì tiếng vó ngựa đã ào ào lao thẳng về phía họ như sấm rền sóng cuộn. Không có đội hình trận pháp, không có vũ khí hỗ trợ, bởi vậy đây không phải là khảm ngoài khảm mà là "giết lần hai".

"Giết lần hai" hay còn gọi là "hàng rào thứ hai", xét theo nghĩa rộng thì nó được coi là một bộ phận cấu thành của khảm diện, được bố trí bên ngoài khảm diện, dùng để tận diệt những kẻ lọt lưới, hoặc là trực tiếp tiêu diệt đối thủ. Như vậy, "giết lần hai" chính là nút giết bổ sung cho khảm diện phía trước, cũng là nút giết dự phòng của khảm diện tiếp theo.

Trong bố trí "giết lần hai" của Chu gia, xong tới ở vị trí đầu tiên là những kẻ chưa bị tiêu diệt trong khảm diện trước đó, đang nóng lòng lấy công đền tội. Tuy rằng đám kỵ sĩ ít ỏi còn sót lại của Bôn xạ sơn hình áp vẫn chưa hết hãi hùng trước kết cục bi thảm khi khảm bị phá, song mệnh lệnh "giết lần hai" vừa đưa ra, chúng lập tức thúc ngựa lao thẳng về phía trước, dũng mãnh như không màng sống chết.

Trong đám Lỗ Nhất Khí, lao lên đầu tiên là Hạ Táo Hoa. Có thể nhận ra tâm trạng của cô vô cùng tệ hại, một luồng khí oán hờn đang cuồn cuộn trong lồng ngực, chỉ muốn tìm nơi phát tiết. Đối mặt với đám ngựa thiết giáp và xạ thủ thiết giáp đang lao đến, cô không những không chùn bước, mà còn đột ngột tăng tốc. Song đây không phải là điên cuồng trút giận, mà là cách thức sáng suốt nhất của cao thủ thực chiến. Tên nỏ của kỵ sĩ thiết giáp là vũ khí tấn công tầm xa, đối phó với kẻ địch kiểu này, nhất thiết vừa phải né tránh đường tên, vừa phải áp sát đối thủ trong thời gian ngắn nhất.

Hạ Táo Hoa vừa lao đi như tên bắn, vừa rút binh khí ra khỏi chiếc túi da hươu, đó là một khúc côn dài ngang cạnh bàn[8], nồng nặc mùi thi khí.

Song khúc côn còn có đầu sắc nhọn và máng dẫn máu, trên thân côn là những đường rãnh tam giác thẳng tắp, kéo dài suốt đầu đuôi. Phần đầu mũi sắc nhọn cũng không phải có hình nón tròn như thông thường, mà có hình ba cạnh, trên đỉnh toẽ ra làm ba mũi, mài thành phần lưỡi lượn tròn như trăng khuyết. Đáng nói nhất là chiếc gậy này do "Quan Ngoại kỳ công" Nhậm Hoả Cuồng nung chảy sợi xích sắt lạnh khảm vàng dùng để trói Cương Thi Vương mà rèn thành. Đây là một tuyệt tác mà ông đã phải bỏ ra rất nhiều tâm lực, cũng được ông vô cùng tâm đắc, đặt tên là "Liệt phách phượng chuỷ thích"[9].

Vì sao món binh khí này được gọi là "Liệt phách phượng chuỷ thích"? Là vì tạo hình của nó, cũng là vì lực sát thương của nó. Ba cạnh nhọn hoắt, mài lưỡi trăng khuyết, hệt như mỏ chim phượng hoàng. Khắp thân côn là rãnh dẫn máu, đâm vào hay rút ra đều hết sức nhẹ nhàng, đã xuất chiêu là phá tan hồn phách. Hơn nữa, do tạo hình đặc biệt, nên sau khi đâm vào cơ thể, miệng vết thương không thể khép lại, dù có đắp cả đống thuốc kim sang cũng vô dụng, chỉ còn cách khâu kín vết thương bằng thủ pháp Tây y. Trong một thời đại mà không mấy ai biết tới Tây y, thì món vũ khí này quả thực vô cùng đáng sợ.

Trong quá trình di chuyển, Hạ Táo Hoa chỉ hơi hạ thấp thân người, đã né tránh được một loạt mũi tên rào rào bắn tới. Khi tên kỵ sĩ tiếp tục xoay chốt gạt lẫy, nạp đầy tên vào ống nỏ, chuẩn bị bắn tiếp, thì cô đã vùn vụt áp sát, chỉ còn cách hắn hai bước.

Không có đâm chọc, cũng không có chặt chém, chỉ thấy cây Liệt phách phượng chuỷ thích trông hệt như một cây đoản côn chỉ thẳng vào tên kỵ sĩ, rồi lập tức bật dài gấp đôi tựa như có phép thần, lao thẳng vào tấm sắt che mặt của tên kỵ sĩ vẫn chưa kịp chuẩn bị để tránh né hay tiếp chiêu, xuyên thấu hộp sọ và cả mũ trụ của hắn.

Chiêu thức võ nghệ của Hạ Táo Hoa là gia truyền, nên Quan Ngoại kỳ công Nhậm Hoả Cuồng đương nhiên sẽ không thể chế tạo cho cô một cây côn mũi nhọn hoắt hơn cây gậy thép của lão mù quá nhiều. Bởi vậy, khi muốn biến nó trở thành món vũ khí sát phạt thực thụ, chỉ cần bấm chốt lẫy, cây đoản côn lập tức vụt dài ra, dài hơn cả cây gậy mù, trở thành một binh khí lợi hại trong những trận chiến quy mô lớn.

Đầu nhọn của Liệt phách phượng chuỷ thích chỉ loé sáng lên sau gáy tên kỵ sĩ một khoảnh khắc rồi biến mất, vì sau khi đã đâm xuyên hộp sọ, Hạ Táo Hoa lập tức rút ngay về, xoay sang bên cạnh. Lúc này, trong tay cô đã là một ngọn trường mâu thực sự. Mũi nhọn khẽ rung đã lại cắm phập vào lỗ tai của tên kỵ sĩ bên cạnh, xuyên thấu tới tận đầu kia.

Trận thảm sát đã bắt đầu. Người ta thường nói, sát tâm khởi dậy trong lòng người phụ nữ vừa bị tổn thương trong tình cảm là ghê gớm bậc nhất trên đời.

Chú thích

[8] Khoảng một mét.

[9] Có nghĩa là cây thích mỏ phượng đâm toạc hồn phách.

Chương 6: Lửa độc cháy

Tuy Hạ Táo Hoa thân thủ cực nhanh, phạm vi triển khai chiêu thức cũng rất rộng, song dựa vào một mình cô, hoàn toàn không đủ sức ngăn chặn đoàn ngựa thiết giáp. Hơn nữa đám kỵ sĩ giàu kinh nghiệm đều đã mau chóng tránh xa ngọn mâu, vòng qua phạm vi công sát của cô mà xông thẳng tới đám người phía sau. Cũng có tên sau khi vòng qua cô liền quay ngựa lại, nhằm ngăn cách cô với những người khác.

- Vây chặn để giết, dàn ngang mở rộng, đối diện đánh thẳng. Không được để chúng phân cách vây chặn! – Lão mù là Tây Bắc tặc vương, chỉ nghe tiếng vó ngựa, lão đã nhận ra kế hoạch công sát của đối thủ.

Song đám người phía Lỗ gia đều đi bộ, đa phần dùng binh khí ngắn, như Hứa Tiểu Chỉ đến binh khí cũng không có. Mà "dàn ngang đánh thẳng" như lão mù vừa nói là chiến thuật đối trận của đội kỵ mã, nếu ứng phó theo cách của lão, đối thủ chẳng cần phải dùng đến tên nỏ, chỉ cần thúc ngựa thiết giáp lao thẳng tới, bọn họ đã không có khả năng chống đỡ.

Biện pháp khả thi trong lúc này, hoặc là có đội kỵ mã với số lượng tương đương xông lên cản trở trực diện đoàn ngựa thiết giáp, hoặc là có người đủ sức ngăn chặn được toàn bộ bầy ngựa thiết giáp đang lao lên trong chốc lát. Song cả hai giả thiết này đều là hoang tưởng, hoạ có thần tiên mới giúp được họ lúc này.

Lỗ Nhất Khí không hề hoảng loạn. Cậu lớn tiếng hỏi Dương Tiểu Đao một câu gì đó, Dương Tiểu Đao lập tức hô lớn đáp lời.

Cũng chính vào lúc này, từ trên đỉnh đồi cỏ bên trái bỗng có hai bóng người vùn vụt lao xuống. Một người là Dưỡng Quỷ Tỳ, cô đang lao thẳng về phía Lỗ Nhất Khí. Bóng người còn lại chạy thẳng về mé bên kia của hồ Tiên Tề, dáng vẻ tuy nặng nề phục phịch, song tốc độ không hề chậm chạp. Rất rõ ràng, ông ta đang lao về phía đội kỵ mã "giết lần hai" vừa xông ra từ nơi ẩn nấp. Đám người ngựa vô cùng đông đảo, còn đông hơn cả số lượng của toàn bộ khảm diện Bôn xạ sơn hình áp. Song kỵ sĩ không mang giáp trụ, mà mặc áo Tạng chéo vai, lộ hẳn một bên vai tay để sử dụng mã đao được dễ dàng. Ngựa cũng không mang giáp sắt, nên tốc độ càng nhanh, hoạt động càng linh hoạt. Cả đoàn người ngựa ồ ạt tràn tới, thế tựa thuỷ triều, mà người kia lại một thân một mình lao lên xung trận, lẽ nào không sợ bị ngựa giày đao chém nát bấy như bùn?

Cơn lũ người ngựa đã sắp nuốt chửng kẻ liều mạng kia đến nơi, ánh hàn quang loa loá từ lưỡi mã đao cũng chiếu ngang dọc lên khuôn mặt một màu xám xịt. Chính vào thời khắc đó, từ khối bùi nhùi trong lòng bàn tay ông ta bỗng vọt lên một ngọn lửa, liền lúc châm cháy vài chục ống pháo. Chỉ thấy những tiếng xì xì lao thẳng vào giữa bầy ngựa, sau đó là những tiếng nổ dữ dội, chớp lửa bung xoè.

Lỗ Nhất Khí cũng biết mình nên làm gì. Cậu lập tức tụ khí ngưng thần, trong cảm giác của cậu, cả rừng vó ngựa đang phi nước đại đều đã chậm lại, đều đã kéo sát lại gần. Cậu dự đoán vị trí và động tác của bước sải vó kế tiếp, kết hợp với tốc độ của đạn, xác định điểm gặp nhau giữa vó ngựa và đường đạn.

Súng đã nổ, cự ly đường đạn xa hơn tên nỏ rất nhiều, bởi vậy đám kỵ sĩ còn chưa tới phạm vi có thể bắn tên, đã lần lượt ngã nhào khỏi lưng ngựa. Hai mươi viên đạn trong ổ đã xả sạch, hai mươi con ngựa theo nhau khuỵu gối, toàn bộ số đạn đều găm chuẩn xác vào đầu gối ngựa. Đầu gối tổn thương, toàn bộ cẳng chân sẽ mất đi tri giác và chức năng. Đây chính là câu trả lời mà Dương Tiểu Đao vừa hô lên với Lỗ Nhất Khí.

Những con ngựa vừa khuỵu ngã là ngựa thiết giáp, đám kỵ sĩ ngã ngựa cũng đầy mình giáp trụ cồng kềnh. Người ngựa lăn lộn quẫy đạp thành một đám nháo nhào trên mặt đất, đã làm cản trở bước tiến của đàn ngựa đang xông tới từ phía sau. Một số con chạy quá nhanh đã không kịp dừng lại, vướng chân ngã lộn nhào vào trong mớ người ngựa hỗn độn phía trước.

Đám kỵ sĩ thiết giáp đã khủng khoảng đến cực độ, bởi những kẻ thành thạo bắn nỏ sẽ càng hiểu rõ mức độ ghê gớm của lực sát thương tầm xa đến từ Lỗ Nhất Khí. Đứng trước một cao thủ như vậy, bọn chúng đã mất hết niềm tin và ý chí chiến đấu.

Đám lão mù, Quỷ Nhãn Tam ào ào xông tới, bất kể là kẻ dưới đất hay trên lưng ngựa, đã xuất chiêu là đoạt mạng. Nếu không muốn để bản thân thịt nát xương tan, dứt khoát không thể để địch thủ có cơ may hồi phục.

Hạ Táo Hoa đã quay trở lại, với chiêu thức cực kỳ tàn độc, chỉ cần một chiêu đã kết liễu sinh mệnh của đối phương.

Dưỡng Quỷ Tỳ đánh vào từ bên cạnh, dải lụa dài lồng lộng bay tới, tựa như một bàn tay vô hình nhấc bổng đám kỵ sĩ lên quăng vụt đi. Có điều chiêu pháp của cô lại nhân từ nhất, kẻ trúng chiêu chỉ bị thương chứ không thiệt mạng.

Cứ như vậy, tình thế cục bộ về cơ bản đã thay đổi. Đám kỵ sĩ thiết giáp vốn có ý định "vây chặn giết" đám Lỗ Nhất Khí đã phải hứng chịu đòn hợp kích từ ba mặt. Trong đội ngũ tấn công bịt bùng thiết giáp, cuối cùng chỉ có vài kẻ may mắn chạy thoát.

- Mau lên! Chạy vào khe cỏ phía tây bắc! - Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, song câu nói đầu tiên với cậu lại tràn đầy kinh hãi. Bởi Chu Chân Mệnh đã dẫn theo đám thuộc hạ cao thủ ào ào xông đến.

"Giết lần hai" đã thảm bại một cách hết sức bất ngờ. Người ngựa cuồn cuộn như thuỷ triều, chỉ chốc lát đã như nước đổ vào cát nóng, chỉ còn lại những thân xác cháy đen lăn lộn, những tiếng gào khóc rú trời xanh.

Cao thủ đốt pháo một mình địch cả trăm người, khiến "Giết lần hai" hoàn toàn tan vỡ.

Ngay từ trước khi lao xuống khỏi lưng chừng đồi, cao thủ pháo hoa đã biết mình không thể đối phó với cả đoàn ngựa thiết giáp. Tuy trong những quả pháo "Ngân hà rợp đất" của ông có chứa đựng "Lửa quỷ dính", song thứ này không có tác dụng với giáp sắt. Bởi vậy ông ta mới tách khỏi Dưỡng Quỷ Tỳ, một mình xông lên đối mặt với cả đoàn kỵ mã hùng hậu không mang thiết giáp.

Lửa quỷ dính ban đầu có tên là "sâu lửa bám xương", xuất hiện đầu tiên vào cuối đời Tống, do một người vùng Tứ Xuyên tên là Quý Đắc Nhĩ chế tạo. Có thuyết cho rằng Quý Đắc Nhĩ là đồ đệ bị đuổi đi của Đường môn Tứ Xuyên, song sau khi rời khỏi Đường môn, lại liên tiếp sáng chế ra thuật lạ, danh tiếng lẫy lừng, thậm chí lấn át cả Đường môn. Nhưng sau này lại đột nhiên ẩn tích, cứ như đã bốc hơi khỏi giang hồ. Quý Đắc Nhĩ để lại một cuốn sách có tên "Đắc Nhĩ kỳ nhất", ghi chép một phần những bí quyết về kỳ thuật của ông, "sâu lửa bám xương" cũng nằm trong số đó. Trong Chu môn có cất giấu rất nhiều sách vở bí mật vơ vét từ hai xưởng Đông, Tây triều Minh, trong đó có bản "Đắc Nhĩ kỳ nhất" tàn khuyết. Dưỡng Quỷ Nương đã chép lại công thức bào chế thuốc nổ từ trong bản tàn khuyết đó.

Điểm lợi hại của Lửa quỷ dính là trong lửa có chất ăn mòn, trong thuốc nổ mang độc tố, dính vào người không thể rơi ra, song khuyết điểm là không dính được vào kim loại, sứ đá.

Song lũ sát thủ của "Giết lần hai" đều mặc áo Tạng chéo vai, để lộ cả cánh tay và bả vai không gì che chắn, những con ngựa mà chúng cưỡi cũng không có bất cứ thứ gì bảo vệ, do vậy cao thủ pháo hoa hoàn toàn tin tưởng có thể đối phó được với lũ sát thủ này.

"Ngân hà rợp đất" giống hệt như một dải ngân hà rực rỡ với vô số đốm lửa li ti như đom đóm, đã phủ rợp cả một mé hồ Tiên Tề. Đám sát thủ của "Giết lần hai" đã từng xông pha nơi lửa cháy rực trời, nên chẳng thèm để mắt tới những tàn lửa yếu ớt kia. Đến khi những đốm sáng tựa lân tinh dính lên da thịt và quần áo, bọn chúng lập tức mất đi lý trí. Vì những tàn lửa bỗng nhiên vụt cháy, biến thành những ngọn lửa xanh len lét. Lửa lan cực nhanh, đám ngựa dính phải tàn lửa lập tức hí lên thảm thiết, vùng chạy cuống cuồng. Đám kỵ sĩ chẳng còn hơi sức đâu để ý tới lũ ngựa, bởi lẽ chúng cũng đang lăn lộn với cơn bỏng rát dữ dội.

Bầy ngựa trúng thương nhảy chồm chồm, tung vó đá loạn xạ, không những va phải đám sát thủ và những con ngựa khác, mà còn khiến Lửa quỷ dính bắt cả sang chúng.

Nhiều sát thủ ngã nhào xuống đất, không ngừng lăn lộn, gào thét xé tai. Sau khi bị Lửa quỷ dính vào người, chúng điên cuồng lấy tay phủi xuống, hoặc vung vẩy loạn xạ, càng khiến lửa nhanh chóng lan sang các bộ phận khác. Một vài sát thủ dính quá nhiều Lửa quỷ, bị thiêu đốt đến tri giác tê liệt, thậm chí còn không kịp cả kêu gào.

Cũng có một vài sát thủ kinh nghiệm phong phú, vừa cảm thấy đau rát khác thường, đã lập tức vung đao gọt phăng phần da thịt dính "Lửa quỷ", cởi bỏ quần áo vứt đi. Nếu bề mặt dính "Lửa quỷ" quá rộng, chúng còn dứt khoát chặt đứt cả cổ tay, thậm chí cả cánh tay, thà chịu tàn tật còn hơn phải chết.

Khi Lỗ Nhất Khí băng qua vùng đất khét lẹt mùi thịt cháy, số người và ngựa còn đủ sức quẫy đạp chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy vẫn có một số đang co giật, đang cào bới, song vẫn tiếp tục bị ngọn lửa dần dần thiêu đốt thành tro.

Lỗ Nhất Khí chỉ muốn nôn oẹ. Song chưa kịp mở miệng, một bóng đen thù lù đã chắn ngang trước mặt, một cặp mắt đầy vẻ hiếu kỳ và soi mói quét từ đầu tới chân cậu.

- Đây là cha nuôi của tôi, Viêm Hoá Lôi người Lưu Đường. - Dưỡng Quỷ Tỳ giới thiệu một cách gọn lỏn và lạnh nhạt, bởi lẽ cô không hiểu về lễ nghi thông thường.

- Cửu thiên hoả ưng Viêm Hoá Lôi? – Lão mù lên tiếng hỏi, giọng đầy kinh ngạc.

- Chính tại hạ! Ngưỡng mộ danh tiếng Tây Bắc tặc vương bấy lâu, hôm nay gặp mặt, quả là may mắn ba đời! – Viêm Hoá Lôi dốc ra một tràng văn hoa, tựa như một ông đồ lắm chữ.

- Các người còn dông dài gì nữa, có chạy mau lên không! - Biện Mạc Cập thúc giục.

- Con bé Quỷ kia, dẫn các vị đây chạy vào trong khe núi phía trước! – Viêm Hoá Lôi không hề vội vã, giọng nói rất mực điềm tĩnh.

Khi Lỗ Nhất Khí chạy qua bên cạnh Viêm Hoá Lôi, cậu đã nhìn rõ hán tử này khoảng năm chục tuổi, da mặt đỏ au rỗ chằng chịt tựa vỏ cam sành, bộ râu vàng cháy lơ thơ xoăn tít, mình mặc trang phục dân tộc Tương, đeo đủ thứ linh tinh lủng lẳng. Trong bàn tay trái của ông ta lúc nào cũng thấy khói nhạt toả ra, có lẽ là đang cầm bùi nhùi giữ lửa.

Chu Chân Mệnh và đám cao thủ đã đuổi tới. Viêm Hoá Lôi đang nhẩm tính bộ pháp, cự ly và tốc độ của bọn chúng. Khi bọn chúng còn cách khoảng một trăm hai mươi bước, ông ta lập tức lật bàn tay trái, từ trong vốc khói loé lên một đốm đỏ hồng, một vệt pháo sáng lao vọt khỏi bàn tay. Tiếp đó là đám "Chim sẻ chiếm đất" kéo theo ba vệt "Thác đổ đất bằng" rực rỡ như dải ngân hà từ trời đổ xuống.

Ba dòng thác lửa ào ào phun xuống, từ đỉnh đồi cỏ lan thẳng tới bên hồ, cảnh tượng vô cùng tráng lệ. Vị trí và khoảng cách giữa ba dòng thác lửa vô cùng hợp lý. Một đường trăm bước, một đường chín mươi lăm bước, một đường chín mươi hai bước. Điều này đòi hỏi lượng thuốc của "Chim sẻ chiếm đất" phải vô cùng chuẩn xác, thủ pháp phóng đốt khéo léo tuyệt luân mới có thể thực hiện được.

Song trong pháo hoa lần này lại không có "Lửa quỷ dính". Bởi lẽ loại thuốc này pha chế phức tạp, nguyên liệu khan hiếm, chỉ thi thoảng mới có để sử dụng. Viêm Hoá Lôi vừa phóng đi dòng thác lửa, lập tức quay người tháo chạy. Ông ta sợ cao thủ Chu gia phát hiện ra trong khảm lửa lần này không có "Lửa quỷ dính", sẽ nhanh chóng băng qua ba dòng thác lửa, xông đến vây giết.

Nhìn vào kỹ xảo và thủ pháp của Viêm Hoá Lôi và những tia pháo hoa bắn ra, Chu Chân Mệnh đã đoán được đây chính là cao thủ tuyệt đỉnh của Hoả Tước quán tại Lưu Dương, Hồ Nam. Khi Viêm Hoá Lôi phóng xong thuốc nổ lập tức quay người bỏ chạy, cũng đã khiến hắn phát hiện ra một sơ hở. Người chế tạo pháo hoa cả ngày tiếp xúc với thuốc nổ, đa phần tâm lý vững vàng, động tác hành vi vô cùng trầm ổn. Vậy mà tay cao thủ pháo hoa tuyệt đỉnh kia tại sao lại tỏ ra hoảng hốt mà gấp gáp tháo chạy?

Vừa nghĩ tới đây, Chu Chân Mệnh tiện tay tóm cổ một tên thuộc hạ đứng gần đó, nhẹ nhàng vung tay, quăng luôn tên này vào trong thác lửa.

- Á...! - Trước hết là một tiếng kêu thảm thiết, song không phải là đau đớn, mà là khiếp sợ.

- A! A! Không sao! Tôi không sao! Trong lửa không có độc! Trong lửa không có độc! - Tiếp đến là tiếng reo hò như phát cuồng của tên cao thủ, nghe còn điếc tai hơn cả tiếng kêu rú vừa rồi.

Thấy hắn chạm phải lửa mà không sao, tên cao lớn lập tức thúc ngựa xông lên, vung kiếm xuyên qua dòng thác lửa đang ào ào trút xuống, lao về phía trước. Đám cao thủ còn lại cũng bám sát phía sau, tên nào cũng khí thế hừng hực. Một số ít kỵ sĩ áo giáp và kỵ sĩ của "giết lần hai" còn sót lại cũng giụa ngựa lao theo.

Song Thức Bảo linh đồng vẫn đứng im, bởi Chu Chân Mệnh chưa hề di chuyển. Gã là kẻ thông minh, thừa hiểu rằng lúc nên hành động mà lại bất động, nghĩa là sẽ có thay đổi.

Chu Chân Mệnh không có ý định tiếp tục đuổi theo. Nói thực, lúc này, cho dù có đuổi kịp đám Lỗ Nhất Khí, chẳng qua cũng lại là một trường sát phạt rất bất lợi cho mình. Lỗ gia hiện có thêm hai trợ thủ, vả lại Dưỡng Quỷ Nương tuy miệng nói không nhúng tay vào, song loại đàn bà nói giọng ma không làm việc người này chưa biết chừng vẫn đang quanh quẩn theo dõi đâu đây, có thể lựa theo cục thế mà ra chiêu bất cứ lúc nào.

Không việc gì phải vội vã, sự việc sẽ giải quyết từ từ. Con đường trốn chạy của người Lỗ gia rất phù hợp với ý nguyện của Chu Chân Mệnh, hơn nữa, Chu gia còn cắm được một chiếc đinh ngầm cực tốt chưa hề lộ tẩy, cục thế trước mặt vẫn chưa phải là quá tệ với hắn. Nghĩ tới đây, Chu Chân Mệnh bèn lên tiếng:

- Truyền chỉ thị, lệnh cho Dương Thanh Phan (tên cao lớn) dẫn người đuổi sát bọn chúng không được buông tha, không được để chúng có cơ hội lấy sức. Lệnh cho Cao Bôn Lôi thông báo tới hai lão già ở khe Âm Thế, người đã qua cầu Nại Hà, bắt sống được là tốt nhất, không bắt sống được phải giữ nguyên xác. Gửi thư bay tới Phật sống Kim Đỉnh, bảo ông ta chuẩn bị cho tốt. Nếu đám Lỗ gia vượt qua được đường Âm Thế, cuối cùng chắc chắn sẽ đi tới chỗ ông ta. Ngươi làm xong mọi việc lập tức quay lại, dẫn thầy cúng đến đây, buông mồi dẫn nhổ đinh ngầm.

ĐƯỜNG CANH ÂM THẾ - CON ĐƯỜNG CHẾT CHÓC THÔNG TỚI NÚI THIÊN THÊ

Chương 7: Đường Âm Thế

Giấc mơ từ mặt đá đen trùi trũi áp dưới nơi gò má cứ thế lan rộng ra, men theo hai ngả rẽ tiến thẳng về phía trước. Thế là trên một ngả rẽ, cậu đã nhìn thấy một cung điện âm u chỉ có ở nơi địa phủ. Bên trong cung điện, đao quang chớp loá, hồn phách tan tành, máu thịt tơi tả, tiếng hồn ma gào khóc thê thảm thật không nỡ nghe. Còn lưỡi đao đang nằm trong tay một con ác quỷ đen đúa to cao lừng lững.

Truyền thuyết kể rằng tầng thứ tám của địa ngục Diêm La có địa ngục Bằm Nát, con quỷ cầm đao hành quyết ở nơi đó tên là Lợi Qua Sinh, là một con ác quỷ mình đen cao lớn.

Ác quỷ trong mơ tóc dài phủ mặt, lấp ló hai chiếc răng nanh trắng nhởn. Ác quỷ dường như đã phát giác ra sự xuất hiện của Lỗ Nhất Khí, lừ lừ quay đầu lại nhìn. Chỉ thấy răng nanh rung lên khe khẽ. Nó đang cười, cái cười rộng ngoác mà không thành tiếng.

o O o

Lỗ Nhất Khí hổn hà hổn hển chạy vào trong khe cỏ, cơ thể vừa chìm khuất trong bóng trùm của con dốc cỏ, cậu lập tức dừng lại, cậu đã sắp đứt hơi tới nơi. Viêm Hoá Lôi vọt thẳng vào cửa khe như chim ưng vồ mồi, suýt nữa đã đâm sầm phải cậu.

- Mau lên, chúng sắp đuổi tới rồi! – Viêm Hoá Lôi tuy động tác nhanh như chớp xẹt, song giọng nói lại có phần chậm rãi.

Thấy Lỗ Nhất Khí dừng bước, Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa cùng quay lại. Họ đều đến đứng bên cạnh Lỗ Nhất Khí, song không ai nói câu nào.

- Nghỉ chút đã, ở đây đã là bên trong khe cỏ, bọn chúng không thể bày khảm diện ở đây! - Lỗ Nhất Khí nói trong tiếng thở phì phò.

- Đường khe núi không thực sự có lợi cho chúng ta, địa hình ở đây phức tạp, chúng ta lại không mấy am hiểu, sẽ càng có lợi cho đối thủ vốn đã thông thuộc địa hình nơi đây phục kích đánh lén! - Hạ Táo Hoa nói.

Dưỡng Quỷ Tỳ khẽ gật đầu, liếc nhìn Hạ Táo Hoa với ánh mắt khâm phục.

- Vậy thì chỉ còn cách mau chóng tiến lên phía trước, chạy thoát khỏi nơi nguy hiểm này trước khi đối thủ kịp bố trí mai phục. - Lời Viêm Hoá Lôi rất có lý.

- Đúng vậy! Chúng ta mau chóng đi thôi. Cha nuôi, cha hãy tìm lấy một lối rẽ rồi độn hình quay về đi thôi! - Giọng của Dưỡng Quỷ Tỳ trong trẻo như tiếng khánh.

- Nói cái gì thế? Sợ cha nuôi gây phiền phức à? Sư phụ của con đã đi rồi, ta cũng đi nốt, lấy ai bảo vệ con? - Giọng Viêm Hoá Lôi thoạt nghe rất dữ dằn, song vẻ mặt lại toát lên vẻ yêu thương lo lắng.

Dưỡng Quỷ Tỳ quay đầu nhìn Lỗ Nhất Khí. Viêm Hoá Lôi lập tức hiểu ra ý tứ của cô:

- Con theo thằng oắt kia ta vẫn chưa yên tâm, đợi tới lúc ta nhìn thấu tim gan, công lực của hắn, tự khắc sẽ đi! – Nói đoạn, ông ta ngoắt người đi về phía trước.

Dưỡng Quỷ Tỳ không nói gì thêm nữa, chỉ ngoảnh đầu liếc về phía cửa khe, rồi lấy từ trong chiếc túi lụa bên mình ra một tập giấy trắng, tay trái xoè tập giấy thành hình nan quạt, tay phải chĩa thẳng ngón trỏ chỉ đất, chỉ núi, song không chỉ trời, chỉ người. Sau đó vẽ vạch trong không trung, hình vẽ cũng chỉ là nửa phía dưới của hình tròn. Trong lúc ngón tay vẽ vạch, miệng cô khẽ lẩm bẩm:

- Cô hồn dã quỷ, ở bên trái phải, Địa phủ theo tấu, Diêm lệnh trong tay, mượn nhờ âm lực, trả đường trốn chính...

Niệm một thôi một hồi, cuối cùng ngón trỏ chỉ thẳng vào "quạt giấy" và bắt đầu vạch vẽ loạn xạ. Tuy không có bút, ngón tay cũng không chạm vào giấy, song trên tất cả các tờ giấy đều có hình vẽ hiện lên, là những bộ mặt ma với diện mạo và biểu cảm hoàn toàn khác biệt.

- Ma vẽ bùa! - Hạ Táo Hoa đứng cạnh đó khẽ kêu lên kinh ngạc. Phương thuật này vốn đã thất truyền từ lâu, vậy mà Dưỡng Quỷ Tỳ lại đang thao tác một cách hết sức thuần thục.

Dưỡng Quỷ Tỳ không phải vung tay, từng tờ giấy trắng đã theo nhau bay ra khỏi tay cô. Khi chúng vừa chạm đất, những bộ mặt ma trên đó đều biến mất. Song Lỗ Nhất Khí vẫn cảm giác được những tờ giấy trắng lúc này đã bị bao phủ trong những khối khí trắng toát bồng bềnh. Những khối khí có to có nhỏ, ẩn chứa một loại sức mạnh vô cùng kỳ quái.

- Mấy ngày trước tôi đã thả hết những hồn ma đã nuôi dưỡng đi, bởi vậy chỉ có thể mượn đỡ sức mạnh của âm hồn tại nơi đây. Ở đây âm hồn ma khí không đủ, không thể dựng nên "ma đè tường", chỉ có thể tạo nên "ma vướng chân"! – Nói tới đây, Dưỡng Quỷ Tỳ cười bẽn lẽn, khẽ mím nhẹ đôi môi khô khốc.

Thảo nào ma khí trên người Dưỡng Quỷ Tỳ hầu như không thấy nữa, thì ra cô đã thả hết ma đi. Lỗ Nhất Khí đột nhiên hiểu ra một điều:

- Cô vẫn luôn bám theo tôi phải không, chỉ có điều không còn ma khí nên tôi không thể nhận ra.

Dưỡng Quỷ Tỳ không nói, chỉ mím miệng cười tủm tỉm. Vì không muốn gây tổn thương cho Lỗ Nhất Khí, cô đã phải rứt ruột thả hết những hồn ma đã nuôi dưỡng bấy lâu đi.

- Lúc nào rồi mà còn cà kê ở đó? Mau lên! – Là giọng của lão mù. Lão đã băng lên một đoạn, phát hiện thấy con gái và Lỗ Nhất Khí vẫn chưa chịu đi thì quay lại giục rối lên.

Chính vào lúc đó, trước cửa khe đã thấy rậm rịch tiếng bước chân và tiếng vó ngựa áp lại gần.

Lỗ Nhất Khí có chạy nhanh đến mấy cũng không thể sánh bằng ngựa phi, người ngựa phía Chu gia đã lại tập kết để truy sát. Lỗ Nhất Khí cảm thấy trốn chạy chẳng bằng quyết đấu, dựa vào tài bắn súng của cậu, cộng thêm sự trợ giúp của những cao thủ kia, lại lợi dụng địa hình của khe cỏ, dù phục kích hay ngăn cản, đám Lỗ Nhất Khí đều chiếm ưu thế.

Song trận đối đầu đã không xảy ra, tiếng vó ngựa phi dồn đã bị chặn lại ngay phía trước khe cỏ. Là "ma vướng chân" mà Dưỡng Quỷ Tỳ vừa rắc ra đã phát huy tác dụng, khi vó ngựa băng qua những tờ giấy trắng, dường như có một bàn tay vô hình thình lình vươn ra túm chặt, cả người và ngựa đều ngã lộn nhào.

Đám kỵ sĩ kinh hãi đến cứng người trước cảnh tượng quái đản. Hẳn là gặp ma rồi! Đúng là đã gặp ma rồi!

Nghe thấy tiếng ồn ào phía sau, Dưỡng Quỷ Tỳ bắt đầu tỏ ra gấp gáp, liên tục thúc giục mọi người chạy nhanh. Cô hiểu, tuy "ma vướng chân" đã phát huy tác dụng, song thời gian duy trì lại không lâu. Người ngựa của Chu gia tụ tập đông đảo trước cửa khe, sức mạnh dương khí mà chúng mang tới sẽ nhanh chóng tiêu tan ma khí đã tích tụ.

Biện Mạc Cập đi trước mở đường, dẫn đoàn người băng qua lưng chừng những sườn đồi có độ dốc cao, địa thế như vậy sẽ gây khó khăn cho đội kỵ mã đang truy kích. Hơn nữa, chỉ cần qua được đoạn khe cỏ, sẽ tới con đường núi đầy đá vụn vắt qua những sườn đá lởm chởm, ngựa không thể đi qua, như vậy sẽ có thể hoàn toàn thoát khỏi sự truy kích của đội kỵ mã phía Chu gia.

Đã đi hết khe cỏ, phía trước mặt quả nhiên là con đường đá vụn ngoằn ngoèo chạy sát vách núi.

Vừa giẫm lên mặt đường lổn nhổn đá vụn, Lỗ Nhất Khí nãy giờ vẫn cắm đầu cắm cổ thở dốc mà đi đột nhiên khựng lại. Cậu nín chặt hơi thở nặng nề, nhìn chằm chằm xuống dưới chân một lúc lâu, rồi mới từ từ ngẩng đầu lên.

Đúng vậy! Lối đi rợp cỏ đã đột ngột biến thành con đường đá vụn màu đen xỉn, ranh giới quá rõ ràng, không hề có một chỗ chuyển đổi hay quá độ, như thể là âm dương cách biệt, sinh tử hai đường. Cảm giác nguy hiểm vốn đã bị Lỗ Nhất Khí tạm gác sang một bên bỗng chốc dâng lên cuồn cuộn trong lòng. Sai rồi, chắc chắn đã sai rồi! Trong lúc trốn chạy, bản thân cậu đã bỏ qua một chi tiết vô cùng quan trọng! Song tại sao ngay cả Hạ Táo Hoa cũng quên bẵng mất điều này?

Lỗ Nhất Khí thầm cầu mong sau khi ngẩng đầu lên không phải nhìn thấy tình cảnh giống như trong dự đoán. Song sự thực vẫn thường phá huỷ không thương tiếc tâm hồn không mấy vững vàng của một số người.

Núi Quy Giới! Ngọn núi Quy Giới thẳng đứng đen trùi trũi, giống như một bàn tay ác quỷ vừa giơ lên chuẩn bị đập thẳng xuống, còn đám Lỗ Nhất Khí khác nào một bầy kiến nhép có thể bị lòng bàn tay kia đập cho bẹp dí bất cứ lúc nào.

Phía sau không còn nghe thấy tiếng người ngựa bám theo. Lỗ Nhất Khí thầm nghĩ, phải chăng bọn họ đã tới đúng nơi chúng muốn nên chúng không cần rượt đuổi nữa, hay là phía trước có thứ gì khiến chúng sợ hãi không dám đuổi theo? Con đường phía trước có lẽ gắn liền với chết chóc, song nếu quay lại, chắc chắn chỉ còn đường chết. Chu Chân Mệnh đã dẫn người tới chặn kín phía sau, cao thủ chi viện của mọi đường khẩu phía Chu gia cũng đang lũ lượt kéo đến tề tựu.

- Em sơ suất quá, đầu óc mụ mị mất rồi, không biết đã đi nhầm con đường này! - Hạ Táo Hoa đỏ bừng mặt, trong lòng cô hiểu rõ tại sao mình lại phạm phải sơ suất này.

- Không quay lại được nữa, chỉ còn cách tiến lên thôi. Không biết chừng là do tôi sợ bóng sợ vía, trong tâm có quỷ, lo sợ không đâu! - Lỗ Nhất Khí nói vậy thực ra chỉ là muốn an ủi Hạ Táo Hoa.

Nhưng câu nói vừa dứt, sắc mặt Hạ Táo Hoa lập tức đanh lại, cô lườm Lỗ Nhất Khí một cái sém mặt, dằn dỗi:

- Trong tâm anh thì chỉ có quỷ thôi! – Nói xong cắm đầu đi thẳng, không thèm đếm xỉa đến Lỗ Nhất Khí nữa.

Lỗ Nhất Khí bình thường gặp hiểm nguy cũng không đổi sắc mặt, vậy mà giờ đây mặt mũi nóng ran, trong lòng bối rối. Cậu tự nhủ với mình, phụ nữ còn nhạy cảm khó lường hơn cả khảm nút chốt lẫy, sau này chắc phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói mới được.

Đường mỗi lúc càng thêm khó đi, Biện Mạc Cập vừa nãy còn dẫn đầu giờ đã tụt xuống cuối cùng. Dù gì hắn cũng đã bị thương nhiều chỗ, mất máu nghiêm trọng. Hơn nữa, dẫn đầu trên con đường núi hiểm trở cheo leo là một nhiệm vụ rất khó khăn, phải cảnh giác cao độ từng giây từng phút, tâm lực và thể lực đều hao tổn nhanh chóng. Dương Tiểu Đao bèn hăng hái đi vượt lên đầu thay Biện Mạc Cập. So với Biện Mạc Cập, gã có ưu thế hơn hẳn, thương thế nhẹ, lại còn có lưỡi đao ngắn chém nhanh. Trên con đường chật hẹp này, sử dụng vũ khí ngắn sẽ dễ dàng ứng phó kịp thời trước sự tập kích thình lình của kẻ địch, muốn tấn công cũng hiệu quả hơn.

May mắn là trên con đường đá vụn lổn nhổn, hiểm trở gập ghềnh đã không xảy ra sự cố gì. Khi đi tới cuối con đường, họ đã nhìn thấy một tia bình minh loé ra sau một kẽ đá trên rặng núi nhấp nhô phía đằng đông. Cảnh tượng này đã khởi lên trong lòng bọn họ một tia hy vọng, vẻ phấn chấn lại trở về trên nét mặt. Duy chỉ Lỗ Nhất Khí vẫn mặt mũi lạnh tanh, đôi mắt khép hờ, dùng cảm giác siêu phàm liên tục rà soát khắp xung quanh, vẻ cảnh giác cao độ.

Con đường phía trước không thể gọi là đường đi, chỉ là một vết bào mòn lõm xuống, có lẽ là con đường nước chảy được hình thành sau một đợt biến động địa chất nào đó. Bề mặt nhẵn nhụi, không có lấy một gốc cỏ, chỉ có một lớp đá vụn do sườn núi bị phong hoá rơi xuống, rải lổn nhổn giữa lòng vết lõm.

Thế nhưng vết lõm trơ trụi này lại là con đường duy nhất mà họ có thể đi qua, bởi lẽ hai bên đá núi lởm chởm, dựng đứng như dao, phía trên không có đường trèo, phía dưới không có lối xuống. Chỉ cần sơ sẩy một chút sẽ ngã xuống vách núi cao đến vài chục trượng, không biết sẽ rơi vào trong khe đá, rãnh núi nào.

Đây cũng là một con đường tăm tối, vì nó men theo mặt sấp bóng của trái núi. Bóng núi đổ trùm u ám và sắc đá đen trùi trũi, khiến con đường chẳng sáng hơn là bao so với những đoạn đường đêm.

- Táo Hoa, cô nhìn thử xem, nơi đây có vẻ hơi giống như đường canh Âm Thế trong phong thuỷ học. - Lỗ Nhất Khí chủ động gợi chuyện với Hạ Táo Hoa, ý muốn xoa dịu không khí căng thẳng giữa hai người.

Hạ Táo Hoa không thèm để ý tới Lỗ Nhất Khí, chỉ im lặng quan sát xung quanh, lại đưa ngón tay vạch vẽ một lát, đúng là thủ pháp đo bằng ngón tay chính tông của Lỗ gia. Cuối cùng, cô còn ném đá vào một vài hướng, nghe ngóng tiếng đá rơi vọng lại, đây lại là phương pháp phán đoán độ cao của người dân vùng núi Thiên Sơn. Thực hiện xong mọi việc, cô quay đầu lại nói với lão mù:

- Cha, đúng là con đường canh Âm Thế. Đi theo đường này, với tốc độ đi của người bình thường thì từ đầu tới cuối lúc nào cũng ở trong bóng râm, bị bóng núi che phủ. Có điều từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn, phần mép bóng râm có phải vừa hay giao đúng vào điểm đầu đuôi của con đường này hay không, cần phải tới đầu kia mới biết.

- Thuyền về đường canh Âm Thế xuất phát từ khái niệm "Chung Quỳ tuần canh" trong "Thanh nang kinh", ý chỉ vận mệnh tối tăm xui xẻo, song những người hoả tính chí dương lại có thể lợi dụng kiểu phong thuỷ này để giúp vận mệnh hài hoà. – Lão mù quan tâm hơn tới tình hình thực tế - Đất phong thuỷ kiểu này còn hiếm gặp hơn cả long mạch thuần chính. Mọi người hãy nhìn xem, hình lõm vào ở mặt sau núi là kẹp đôi hay kẹp nhiều?

- Chẳng thấy gì, tối quá! Có điều trên đoạn đường phía trước thấy có rất nhiều chỗ rẽ ngoặt nhỏ, có lẽ có nhiều chỗ lõm vào trong. Song để chắc chắn thì cần đi thêm một đoạn nữa mới biết! - Hạ Táo Hoa trả lời.

- Vậy thì đi thôi, dù sao cũng chẳng còn đường nào khác! – Dương Tiểu Đao nói xong, liền đi trước mở đường. Song còn chưa đi nổi vài bước, một cây lao hai đầu cán ngắn không ngù đã xé toạc không trung lao vụt tới.

Biện Mạc Cập vội vung roi ngựa, chỉ nghe "tách" một tiếng giòn tan, cây lao đã bị quật gãy đôi. Song đây mới chỉ là khúc dạo đầu, liền ngay sau đó, vô số mũi phi lao không ngù xen lẫn mũi tên lông nhạn và gậy bật gai nhọn bay đến tới tấp như mưa rào.

- Phía sau đuổi tới rồi! Đi mau! - Dưỡng Quỷ Tỳ hai tay hai dải lụa trắng phất lên lồng lộng, xoay tròn thành hai vòng lớn. Mũi tên, gậy bật và phi lao theo nhau rụng xuống trước hai vòng tròn được cuộn bằng lụa trắng thướt tha, tựa như là bắn vào hai cánh cửa gắn đồng bọc thép.

Hạ Táo Hoa lúc này chẳng còn nghĩ đến chuyện giận dỗi nữa, đưa tay phải kéo giật Lỗ Nhất Khí lại, tranh phần xông vào đường canh Âm Thế đầu tiên.

Mặt đá trơn bóng, lại thêm đá vụn khấp khểnh vướng chân, khiến Lỗ Nhất Khí bước đi loạng choạng, chân trượt xoành xoạch suýt ngã mấy lần, đều nhờ Hạ Táo Hoa túm giữ mới có thể đứng vững. Dẫu rằng cuống quýt vội vàng, nhưng vừa bước vào trong bóng tối, Lỗ Nhất Khí vẫn cảm nhận rõ rệt một cơn giá lạnh rùng rợn ập lên da thịt, xuyên qua cổ áo và ống tay, luồn lách vào trong cơ thể, trước tiên đọng lại dọc xương sống, rồi từ đó lan toả khắp toàn thân, chạy đến tứ chi, buốt đến từng đầu ngón.

Nhờ sự che chắn của Dưỡng Quỷ Tỳ, mọi người đều đã chạy cả vào đường canh Âm Thế. Sau khi lẩn vào trong bóng tối, tên, lao không tìm được mục tiêu, cuộc công kích nhanh chóng dừng lại.

Cuộc truy sát chấm dứt, mọi người cũng đã vào được chỗ an toàn tạm thời. Tuy nhiên, không hiểu tại sao, cả đám cao thủ vốn giang hồ quen thói vẫy vùng chẳng sợ gì chém giết, lúc này quả tim cứ như treo ngược. Bóng tối và bầu tĩnh mịch càng bao trùm dày đặc, họ càng cảm thấy tim đập gấp gáp hơn, tiếng đập thùm thụp như trống.

Lỗ Nhất Khí cảm thấy cơn lạnh giá tích đọng thành một lớp nặng nề dọc cột sống, chèn ép lên cơ thể khiến cậu muốn ngạt thở. Mồ hôi lạnh buốt chảy ngoằn ngoèo như con giun ướt bò trong áo, bò mãi bò mãi không chịu dừng lại. Bàn tay cậu cảm nhận được lòng bàn tay Hạ Táo Hoa đã đẫm mồ hôi lạnh, cánh tay cũng run lên khe khẽ. Rõ ràng, ở đây tồn tại một sức mạnh vô hình, chèn ép lên cơ thể và tâm lý con người một áp lực không nhỏ. Lẽ nào đã tới gần hung huyệt chính tây?

- Hú... hú... hú...

Đúng lúc đó, lão Lợi bỗng nhiên quay mặt vào vách núi bên cạnh hú lên một tràng thật dài. Sau khi hú xong hơi thở của lão rõ ràng đã hồi phục rất nhiều:

- Nếu cảm thấy tim đập loạn nhịp, tức ngực khó chịu, hãy hét lớn lên!

Lão Lợi vừa dứt lời, những người khác gần như đồng loạt hét toáng lên. Luồng sức mạnh vô hình chèn ép khiến hơi thở của họ không thể lưu chuyển bình thường, hơi thở ngưng trệ lại gây bế tắc kinh huyệt huyết mạch, nên bọn họ đang rất muốn tìm ra một phương thức để phát tiết.

Cả một đám người cùng đồng thanh hú hét, âm thanh đáng lẽ phải vô cùng ồn ã. Song lúc này, tiếng hú gào của họ nghe thật yếu ớt loạc choạc, lại không hề khuấy động chút dư âm, tựa như một cục bông gòn rơi xuống vực sâu thăm thẳm.

Đợi mọi người đều đã hét xong, lão Lợi mới nói:

- Ở đây có tử khí rất mạnh, gây chèn ép khiến tim đập quá nhanh, khí huyết không lưu thông. Lần đầu tiên tôi cầm đao hành hình cũng có cảm giác này, khi đó cha tôi đã dạy tôi cách hét lên thật lớn để xả bớt áp lực bên trong.

Song Lỗ Nhất Khí không gào hú, bởi lẽ cậu cảm thấy tình trạng hiện tại rất giống với sự chèn ép của Ngũ quỷ thôi đảo sơn. Và cậu bèn thả lỏng cả thể xác lẫn tinh thần, thuận theo tự nhiên, và mọi cảm giác khó chịu đã dần dần tan biến.

- Trong "Thanh nang bổ di" có chép, nếu tại khu vực phong thuỷ đường canh Âm Thế từng có quá nhiều hung sát, thì khí hung sát tử vong sẽ tích tụ không tan, khiến cho người đi qua đây thân thể tổn thương, tinh thần suy kiệt. Mọi người hãy điều chỉnh huyết mạch và hơi thở, cố gắng di chuyển sức chú ý, đừng để bị trường khí dẫn dụ mà thành tâm chướng. - Lỗ Nhất Khí nói ra một nội dung trong sách mà cậu còn nhớ được để nhắc nhở mọi người.

- Còn nữa, nơi đây có quá nhiều hung sát, chắc hẳn có ẩn giấu một thứ vũ khí chém giết cực hung hoặc một kẻ tàn sát hung bạo. Mọi người cần hết sức đề phòng, nếu bị tập kích hãy cố gắng né tránh bỏ chạy, chớ ham đánh trả. Ra khỏi đường canh Âm Thế, coi như chúng ta đã thắng! – Trong giọng nói của Hạ Táo Hoa có vẻ gì như hối lỗi, vì cô cho rằng lần này đi sai đường hoàn toàn là do cô sơ suất, để tình cảm làm rối trí.

Đường đi rất lắt léo quanh co, lúc lên lúc xuống, men theo những chỗ lồi lõm thụt thò của vách núi, đây chính là một đặc điểm của đường canh Âm Thế. Với độ dài của đoạn đường này, theo tốc độ đi của người bình thường, có lẽ phải mất trọn một ngày, điều này cũng phù hợp với thuyết âm thế luân chuyển, lại là một đặc điểm khác của đường canh Âm Thế.

Trên núi Quy Giới có một vài đỉnh núi hơi nghiêng, tựa như một bàn tay đang chuẩn bị đập xuống. Vào lúc đám Lỗ Nhất Khí đang từ từ di chuyển, một đốt trên cùng của một "ngón tay" bỗng lung lay khe khẽ. Đúng vậy, đỉnh núi đen hắc ám, đá tảng đen hắc ám, chúng đã bắt đầu rung động.

Chu Chân Mệnh không đuổi theo Lỗ Nhất Khí vào núi Quy Giới. Hắn chỉ lệnh cho tên cao lớn Dương Thanh Phan dẫn người đuổi sát phía sau, còn bản thân đi theo đường khác. Tuy phải đi vòng xa hơn một chút, song có ngựa có xe, chắc chắn sẽ đến được con đường lớn phía chính tây trước đám Lỗ Nhất Khí, một lần nữa kịp thời bố trí lực lượng đón đầu vây giết. Đó là trong trường hợp Lỗ Nhất Khí có thể thắng được thủ đoạn ghê gớm của hai lão già trên đường Âm Thế, chạy thoát khỏi núi Quy Giới.

Sau vài canh giờ, Thức Bảo linh đồng cũng dẫn theo lão thầy cúng và ba cỗ xe ngựa lớn tới trước khe cỏ bên hồ Tiên Tề. Trong đó, hai cỗ xe ngựa đã chật ních những người, đó là bọn sát thủ đã bị thầy cúng thâu tóm hồn phách. Trên cỗ xe còn lại, ngoài những vật dụng cần thiết của lão thầy cúng, còn lốc nhốc một đám lồng chim, lọ chứa rắn, hộp đừng trùng.

Tới trước khe cỏ, xe ngựa không thể tiếp tục tiến vào trong được nữa. Thức Bảo linh đồng và thầy cúng xì xồ trao đổi với nhau bằng một thứ ngôn ngữ ngoại vực rất kỳ quặc, sau đó thầy cúng lôi xuống một chiếc lồng chim ưng mười ngăn từ cỗ xe ngựa thứ ba, thả năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch ra khỏi lồng. Năm con chim ưng liệng một vòng tròn, rồi răm rắp đỗ cả xuống càng xe. Trong lúc đám chim ưng đang chao liệng, thầy cúng hai tay nâng chiếc túi gấm kim tuyến, bắt đầu nhảy nhót hò hát rối loạn, hết vái trời lại vái đất. Sau khi nghi thức kết thúc, lão thầy cúng rút từ trong túi ra những ống nhỏ màu trắng, buộc vào chân từng con chim. Lũ chim ưng lại dang cánh bay vút lên không, rồi lao thẳng về phía núi Quy Giới.

Ở mé tây núi Quy Giới, trên con đường cái quan dẫn tới đất Tạng, có một vài kẻ mình mặc áo Tạng đang thúc ngựa chạy như bay về phía đông. Vầng dương mới nhú khỏi chân trời, ánh nắng sớm mai rọi thẳng vào khuôn mặt họ, khiến đám mồ hôi nhễ nhại cũng bắt sáng lấp loáng. Bọn họ đều là môn nhân của Mặc gia, nhận được thủ lệnh của Mạc Thiên Quy, đang hoả tốc tới tiếp ứng cho Lỗ Nhất Khí.

Dẫn đầu đoàn môn nhân Mặc gia là một hán tử trung niên, tuy trên người mặc trang phục Tạng, song là một người Hán đích thực. Hắn là đồ đệ của Mạc Thiên Quy, tên Lưu Chi Thủ, là người Nghiêu Sơn, Hà Nam. Nghiêu Sơn là đất tổ của Mặc môn, cũng là nơi khởi nguồn của dòng họ Lưu. Lưu Chi Thủ có biệt danh là "Sáu cánh tay", bởi vì kỹ thuật chế tạo nút lẫy của hắn đã đến trình độ xuất quỷ nhập thần. Hắn từng dùng hai nút lẫy "Cửa đao giật ngược" và "Ghế tiên say" tiêu diệt toàn bộ hai đại hộ pháp và sáu đại cao thủ của Trung Châu đường phía Chu gia.

Mạc Thiên Quy phái Lưu Chi Thủ tới đây từ trước để thăm dò tình hình bảo cấu, dọn sạch chướng ngại bên ngoài. Song sau khi tới đây, Lưu Chi Thủ phát hiện ra rằng lực lượng của Chu gia tại nơi này đã phát triển cực kỳ lớn mạnh. Chưa nói tới những nơi khác, chỉ tính riêng chùa Lạt ma Kim Đỉnh dưới núi Thiên Thê, bọn họ đến cơ hội lại gần cũng khó, chứ đừng nói là thăm dò bảo cấu, dọn sạch chướng ngại.

Chính vào lúc Lưu Chi Thủ băn khoăn không biết phải làm thế nào, thì nhận được thủ lệnh của Mạc Thiên Quy, nói rằng môn trưởng Lỗ gia là Lỗ Nhất Khí đang dẫn người tiến về phía tây, chuyện bảo cấu chính tây đều do người này quyết định, còn người Mặc gia toàn lực trợ giúp.

Sau khi nhận được thủ lệnh, ngay ngày hôm sau, Lưu Chi Thủ và những môn nhân khác của Mặc gia đều phát giác ra sự bất thường. Người của Cứ Điên đường vốn thường ngày phân bố khắp nơi, phần lớn bỗng đột nhiên lặn mất tăm. Chùa Lạt ma Kim Đỉnh dưới núi Thiên Thê từ chiều hôm đó cấm ngặt không cho phép tín đồ hay khách hành hương ra vào. Lưu Chi Thủ ý thức được rằng, Chu gia đã bắt đầu hành động. Thế là hắn chỉ để lại một số ít người tiếp tục theo dõi sát sao động tĩnh dưới núi Thiên Thê, còn mình dẫn theo những cao thủ thông thuộc đường vào đất Tạng cấp tốc tới phía đông tiếp ứng.

- Hắc Oa, nhìn xem nên đi về bên nào? – Lưu Chi Thủ biết, nếu muốn đón được Lỗ Nhất Khí trước người phía Chu gia, tuyệt đối không thể đi theo đường lớn, cần chọn một đường ngắn hơn nữa.

- Nhìn kìa, chim cắt máu đang bay về phía kia, bên đó có lẽ xảy ra chuyện rồi! - Tiếng Hán của Hắc Oa trọ trẹ rất khó nghe, song vẫn có thể hiểu được.

Lưu Chi Thủ nhìn theo hướng chỉ của Hắc Oa, quả nhiên có ba con chim cắt đỏ au đang vỗ cánh bay về phía đông. Chim cắt máu, báo tuyết, cáo ngũ sắc đều là những giống vật rất hiếm có của đất Tạng, đặc biệt là chim cắt máu. Giống chim này đã gần như tuyệt chủng, toàn bộ đất Tạng có lẽ chẳng còn nổi mười con. Loài chim này có sở trường đặc biệt là đánh hơi được mùi máu tanh và thịt rữa từ xa trăm dặm. Lúc này, có những ba con cắt máu cùng lao tới, nơi đó hẳn đang diễn ra một trường máu chảy thịt rơi ác liệt.

- Nơi đó là địa giới vùng nào? – Lưu Chi Thủ hỏi.

- Núi Quy Giới, hồ Tiên Tề!

- Núi Quy Giới! Lạy trời lạy Phật đừng để môn trưởng Lỗ gia đi vào đường canh Âm Thế! – Lưu Chi Thủ mặt đầy kinh hãi, ruột gan như lửa đốt.

Song lúc này, đám Lỗ Nhất Khí không những đã đi vào đường canh Âm Thế, mà còn qua được non nửa hành trình.

Chương 8: Đường Âm Thế mơ tên đá

Cảm giác chèn ép nặng nề mà đường canh Âm Thế gây ra cho con người lúc đứt lúc nối, lúc có lúc không. Ban đầu có lẽ là cảm giác tức ngực, bứt rứt, ngột ngạt khó thở, sau khi đi được một lúc, cơ thể cũng từ từ thích ứng. Song thích ứng với hoàn cảnh chưa hẳn đã là chuyện tốt, bởi lẽ trạng thái cảnh giác cũng theo đó mà lỏng lẻo ít nhiều.

Ngược lại, người vốn giỏi điều tiết cơ thể thích ứng với môi trường nhất là Lỗ Nhất Khí lúc này lại cảm thấy khó chịu hơn nhiều. Trước hết là đau đầu, ù tai, chóng mặt, lử đử muốn ngủ, tiếp đến là ngực tức như đá đè, buồn nôn, khó thở, nôn khan, đây đều là biểu hiện của hội chứng độ cao dữ dội. Sau khi qua hồ Tiên Tề, dù là vào khe cỏ hay lên núi Quy Giới, từ đầu tới cuối họ đều liên tục leo lên, nên lúc này bọn họ đã ở một vị trí rất cao so với mực nước biển. Lỗ Nhất Khí đã liên tục xuất hiện ảo giác, lúc thì thấy bị mây đen tấn công, lúc thì thấy đao khí ập thẳng vào trước mặt, lúc thì thấy có đường đi, song không thể nhấc nổi chân lên.

- Ồ! Đường canh Âm Thế sao lại có ngã ba nhỉ? - Hạ Táo Hoa kêu khẽ một tiếng khiến Lỗ Nhất Khí gắng gượng tỉnh lại từ trong cơn mụ mị.

- Thế ư? Lẽ nào đường canh Âm Thế ở đây chỉ có một nửa, vẫn chưa hoàn chỉnh? – Lão mù cũng cảm thấy quái lạ.

Quỷ Nhãn Tam rời khỏi Lỗ Nhất Khí, chạy lên phía trước quan sát kỹ lưỡng một hồi, rồi nói:

- Trong mộ cổ của Hiếu Tế Vương thời Hậu Hán ở núi Ma Nhai có đường hầm mộ chín khúc, thiết kế cuối cùng của đường hầm mộ chính là ngã rẽ đôi, một đường dẫn tới mộ thất thiên đình, gọi là đường thăng thiên; một đường dẫn tới mộ thất phàm cư, gọi là đường hoàn dương. Đường canh Âm Thế này liệu có phải cũng được thiết kế theo kiểu đó?

- Không thể! Tuyệt đối không thể! Đường canh Âm Thế thiên nhiên sẽ thay đổi theo canh giờ, và chỉ có sự thay đổi sắc trời sáng tối, tuyệt đối không chia nhánh hay giao cắt, lại càng không thể phân thành thăng thiên hay hoàn dương gì hết. Hơn nữa, cho dù đường canh Âm Thế có bị lợi dụng làm khảm diện, chúng ta mới chỉ đi được quá nửa, vẫn chưa tới vị trí tận cùng nơi dương xuất hiện, năm canh chấm dứt. Hạ Táo Hoa phủ định thẳng thừng ý kiến của Quỷ Nhãn Tam.

Lỗ Nhất Khí lên tiếng một cách khó khăn, hơi thở nặng nề:

- Trong "Kham dư Âm Dương hình hậu biện" có nói rằng, trong đường canh Âm Thế nếu có đường cùng tuyệt giáp trời chạm đất, có thể phân thành đường chính và đường phụ. Đường chính gọi là đường Tuần Luân (vòng tròn), đường phụ gọi là đường Vĩnh Luân (đắm chìm vĩnh viễn). Đường Tuần Luân có đường ra ánh sáng, còn đường Vĩnh Luân chính là đường tuyệt, đường tử. Tôi cảm thấy ngã ba này có lẽ sẽ chia thành hai ngả Tuần Luân và Vĩnh Luân.

- Cậu vừa nói trong hai ngả rẽ có một đường chết ư? – Viêm Hoá Lôi hỏi.

- Nói luôn là đi đường nào cho xong, lắm lời làm gì vô ích! – Dương Tiểu Đao đang rất nóng nảy. Cũng chẳng trách được gã, tự dưng rơi vào một chốn hệt như địa ngục, đối diện với sự lựa chọn giữa một bên là có thể chết và một bên là chắc chắn chết, liệu mấy ai còn giữ được bình tĩnh?

Lặng phắc như tờ. Câu hỏi của Dương Tiểu Đao vô cùng thực tế, song không ai có thể trả lời.

Lỗ Nhất Khí đờ đẫn nhìn về hai ngả rẽ phía trước, rồi nói:

- Tôi muốn nằm một lát! – Nói đoạn, lập tức cơ thể mềm nhũn, đổ vật xuống đất, nhanh đến mức người bên cạnh muốn đỡ cũng không kịp.

Từ khe núi cuộn ra từng cơn gió âm u lạnh thấu xương tuỷ, mái tóc và vạt áo của Lỗ Nhất Khí chẳng khác gì đám cỏ hoang bấy bớt đang run lên bần bật. Cậu đổ nghiêng xuống một tảng đá đen lạnh buốt như băng, song dáng vẻ lại rất thư thái mãn nguyện, tựa như đang được sà vào lòng người thân đang đợi sẵn ở quê nhà.

Hạ Táo Hoa và Hứa Tiểu Chỉ định chạy tới kéo cậu dậy, còn Niên Thiết Cao cởi ngay áo khoác ngoài, định đắp lên người cậu.

Dưỡng Quỷ Tỳ khẽ vẫy dải lụa trắng, ngăn bọn họ lại:

- Đừng động vào, để anh ta nhập tĩnh! - Giọng cô hết sức khẽ khàng, sợ đánh động đến Lỗ Nhất Khí.

Nghe vậy, mọi người đều dừng lại, cũng không ai nói gì. Tất cả đều chìm trong suy tư, song luồng suy tư xoay chuyển chóng vánh nhất lại chính là Lỗ Nhất Khí đang ngủ say sưa.

Lúc này, ở mặt bên kia của núi Quy Giới, năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch đang bay vụt lên cao tựa như năm bóng ma. Sau khi lượn qua đỉnh núi, chúng lại đồng loạt lao thẳng xuống, chớp mắt đã khuất dạng sau đám đá tảng đen trùi trũi.

Phía sau đám Lỗ Nhất Khí không xa, Dương Thanh Phan dẫn theo một đoàn người cầm đèn mà đi tới. Loài đèn chúng mang theo có lồng chụp bên ngoài, nên gió thổi không động, chao đảo cũng không tắt. Biểu tượng hình ba ngọn lửa của Chu gia trên lồng chụp nhờ ánh lửa phản chiếu càng sáng loà đến chói mắt. Song do đường đi quanh co khúc khuỷu, ánh sáng bị sườn núi thò thụt gồ ghề che lấp nên đám Lỗ Nhất Khí không nhìn thấy được.

Ở phía trước đám Lỗ Nhất Khí, Lưu Chi Thủ dẫn theo môn nhân thúc ngựa ra roi băng băng lao trên con đường tắt với tốc độ nhanh nhất có thể. Mức độ hung hiểm của vùng núi Quy Giới, hắn đã nghe thấy từ lâu, bản thân hắn và các cao thủ Mặc gia khác bình thường đều chọn đường vòng để đi, tuy xa hơn nhưng an toàn. Song hiện tại, hắn buộc phải liều mạng xông vào nguy hiểm. Môn trưởng Lỗ gia chính là điểm mấu chốt trong việc khai quật bảo bối chính tây, bằng bất cứ giá nào cũng phải cứu ra bằng được.

Lỗ Nhất Khí đang chìm vào giấc ngủ say sưa, một bên má áp sát vào mặt đá đen lạnh buốt, song cậu lại mơ hồ cảm giác thấy một niềm thân thiết lạ thường, tựa như đang được ôm lấy bạn bè, người thân đã lâu ngày không gặp mặt.

Một giấc mơ. Một giấc mơ của một thể xác đang ở trong địa ngục, khiến tất cả các dây thần kinh não bộ của cậu đều căng thẳng tựa dây đàn.

Giấc mơ từ mặt đá đen trùi trũi áp dưới nơi gò má cứ thế lan rộng ra, men theo hai ngả rẽ tiến thẳng về phía trước. Thế là trên một ngả rẽ, cậu đã nhìn thấy một cung điện âm u chỉ có ở nơi địa phủ. Bên trong cung điện, đao quang chớp loá, hồn phách tan tành, máu thịt tơi tả, tiếng hồn ma gào khóc thê thảm thật không nỡ nghe. Còn lưỡi đao đang nằm trong tay một con ác quỷ đen đúa to cao lừng lững.

Truyền thuyết kể rằng tầng thứ tám của địa ngục Diêm La có địa ngục Bằm Nát, con quỷ cầm đao hành quyết ở nơi đó tên là Lợi Qua Sinh, là một con ác quỷ mình đen cao lớn.

Ác quỷ trong mơ tóc dài phủ mặt, lấp ló hai chiếc răng nanh trắng nhởn. Ác quỷ dường như đã phát giác ra sự xuất hiện của Lỗ Nhất Khí, lừ lừ quay đầu lại nhìn. Chỉ thấy răng nanh rung lên khe khẽ. Nó đang cười, cái cười rộng ngoác mà không thành tiếng.

Lợi Qua Sinh vừa cười không thành tiếng, vừa tiến từng bước lại gần Lỗ Nhất Khí, chậm rãi giơ cánh tay đao phủ lên. Lỗ Nhất Khí muốn bỏ chạy, song cậu phát hiện ra mình không thể cử động được nữa. Lợi Qua Sinh mỗi lúc một gần, đã mặt đối mặt với cậu. Cậu chỉ biết giương mắt trừng trừng nhìn vệt đao quang đang bổ xuống đỉnh đầu, rú lên một tiếng khủng khiếp...

- Á...! - Lỗ Nhất Khí vừa rú lên lập tức choàng tỉnh.

- Sao thế? - Dưỡng Quỷ Tỳ nhẹ nhàng đỡ lấy vai cậu, thỏ thẻ lên tiếng hỏi.

- Mau đi theo hướng kia! - Giọng Lỗ Nhất Khí cực kỳ khiếp đảm, chỉ vội về ngả rẽ không có Lợi Qua Sinh trong giấc mơ.

Đám Dưỡng Quỷ Tỳ, Quỷ Nhãn Tam chưa bao giờ nhìn thấy Lỗ Nhất Khí hoảng hốt đến vậy, ngay cả những lúc cận kề cái chết. Mọi người lập tức lây nhiễm sự kinh hoảng của cậu, không ai nói câu nào, chỉ mau chóng dìu cậu dậy, chạy nhanh về phía con đường cậu vừa chỉ.

- Có khí đao!

- Có khí sắc bén!

Lão Lợi và Dương Tiểu Đao gần như đồng thanh hét tướng lên, trong tiếng hét còn kèm theo tiếng đao ngân lên u u.

Vuông nhiễu bọc đao của lão Lợi vụt bay lên lồng lộng, đao đầu quỷ hiện ra sáng loáng, rung lên bần bật từng hồi. Lưỡi đao nhỏ trong tay Dương Tiểu Đao tựa như bị vật gì sắc nhọn rạch thẳng từ gốc tới lưỡi, nghe "két" một tiếng ghê tai, tựa như huýt sáo.

- Đao khí dụ xung! – Lão Lợi trầm giọng nói.

Vẻ nghênh ngang bất cần đời lập tức biến mất trên khuôn mặt Dương Tiểu Đao, hắn lập tức nâng đao ngưng thần, hai mắt vụt ra những tia sáng quắc.

- Đi mau! Chúng ta ngăn chặn được! – Lão Lợi quay sang phía đám Lỗ Nhất Khí hét lớn, song khẩu khí rất yếu ớt, vì trong thâm tâm lão không chắc nổi đến một phần.

Ngay từ khi còn cách núi Quy Giới khá xa, lão Lợi đã cảm giác thấy sự tồn tại của một thứ đao khí vô cùng ghê gớm, đó là một thanh đao sẵn sàng tàn sát tất thảy. Sau khi bước vào đường canh Âm Thế, đao khí lại tàng ẩn không hiện, song lúc này bỗng thình lình bùng lên dữ dội, hơn nữa đã ở sát gần, đến thanh đao của lão cũng đã bị luồng nhẫn khí kia dẫn dụ xông ra, hoàn toàn không còn cơ hội né tránh. Thế nhưng tổ tiên lão đã từng nhắc nhở, tuyệt đối không nên đụng đầu với những đối thủ mang theo đao khí kiểu này, vì chắc chắn sẽ không thể chiến thắng.

Nên lão Lợi đã gửi gắm hy vọng vào Dương Tiểu Đao. Thanh đao của lão là đao trảm quyết, trong "Tiêu đao kỳ binh phả" quy loại đao này thuộc về loại vũ khí giết nhanh bằng cương mãnh. Còn lưỡi đao của Dương Tiểu Đao là kiểu đao khéo léo, thuộc loại vũ khí giết khéo bằng kỹ xảo. Lão Lợi liên thủ với Dương Tiểu Đao, chính là dùng sức mạnh và khéo léo bổ sung cho nhau, có lẽ sẽ cầm cự được một lát với thanh đao đáng sợ kia.

Dương Tiểu Đao không biết nhiều như lão Lợi, song cảm giác về đao của gã vô cùng chính xác. Đao khí vừa thình lình xuất hiện tại lối rẽ, gã đã nhận ra, mức độ sắc bén hung tàn của nó, cả đời gã chưa từng gặp phải. Gã lập tức điều chỉnh cơ thể ở trạng thái tốt nhất, từng sợi thần kinh đều kéo căng hết cỡ tựa dây cung.

- Tốt lắm! Hiếm khi giang hồ Trung Nguyên có được những đao thủ thế này! - Từ ngã rẽ không thể đi qua thình lình vẳng lại một giọng nói rất xa xăm, chất giọng oang oang vang dội, tựa như tiếng gõ trên mặt khánh đồng, từng chữ rời rạc, không lên không xuống, thoạt nghe cứ ngỡ không phải là tiếng người.

Cao độ của giọng nói và vị trí phát ra tiếng nói đều không hề có một mảy may biến động, tức là kẻ đang nói không hề xê dịch. Song thực tế lại không phải vậy, kẻ đó không những đang chuyển động, mà còn chuyển động với tốc độ cực nhanh. Từ lúc nhìn thấy bóng người cho đến khi thân hình kia đã lừng lững như trái núi phía trước lão Lợi và Dương Tiểu Đao hơn mười bước, chỉ bằng một cái chớp mắt.

Ngay từ khoảnh khắc bóng người xuất hiện, tất cả mọi người đều cảm thấy có một luồng kình đạo vô hình khoá cứng lấy thân tâm, tựa như bị lưỡi đao sắc nhọn dí sát cổ, tì chặt lấy yết hầu.

Lỗ Nhất Khí vùng khỏi tay Dưỡng Quỷ Tỳ và Quỷ Nhãn Tam, dấn lên hai bước về phía người kia. Cậu muốn nhìn thử xem, kẻ đó có phải là Lợi Qua Sinh mà mình vừa mới gặp trong giấc mộng hay không.

- Ồ! Hiếm có hiếm có! - Thấy Lỗ Nhất Khí tiến về phía mình, bóng người kia bỗng phấn khích thấy rõ, ngữ điệu cũng bắt đầu có sự lên xuống trầm bổng.

Tuy đường canh Âm Thế vách núi ken kín, khó thấy ánh mặt trời, song Lỗ Nhất Khí vẫn lờ mờ nhìn thấy diện mạo của kẻ này. Cũng nước da đen bóng như than, chẳng kém cạnh gì so với Lợi Qua Sinh; cũng tóc dài thõng thượt, song không che kín mặt như Lợi Qua Sinh, mà xoã dài rợp gáy kín tai, trước trán lại thấy buộc ngang một băng vải vàng. Do không bị tóc tai che khuất, nên có thể nhìn rõ bộ mặt ma quái cô hồn, với hốc mắt sâu hoắm, mũi khoằm như móc câu, gò má nhọn hoắt như dao gọt, vẻ độc địa vô cùng.

- Thiên táng sư? Nhưng theo truyền thuyết, Thiên táng sư của núi Quy Giới đã hơn chín mươi tuổi, còn người này trông trẻ hơn nhiều! - Hạ Táo Hoa đứng cạnh lẩm bẩm.

Áo choàng chéo vai, cổ đeo bùa xương, ngang lưng buộc tấm da bò, nhìn vào phục sức, đích thị là Thiên táng sư. Song nhìn vào dung mạo, thấy người này tóc tai đen bóng, da căng không một nếp nhăn, cùng lắm cũng chỉ ngoài bốn mươi, chưa tới năm chục. Là Hạ Táo Hoa trước đây đã nghe nhầm, hay Thiên táng sư này không phải là Thiên táng sư đó?

- Ngươi chưa nhìn thấy ta, đã biết ta ở đây, năng lực cảm nhận này ta chưa từng gặp! – Thiên táng sư lại cất giọng oang oang.

Lỗ Nhất Khí biết những lời này là nói với mình, song đối mặt với một cao thủ nhường ấy, cậu không dám tuỳ tiện đáp lời, mà chỉ tụ khí ngưng thần, âm thầm điều chỉnh bản thân.

- Xem ra ngươi đúng là người ta đang đợi! - Ngữ điệu của Thiên táng sư bắt đầu có vẻ giống con người.

Lỗ Nhất Khí vẫn không nói. Một con mồi đối diện với tên thợ săn đang chuẩn bị giết mình còn có thể nói được gì đây? Trong tình huống này, con mồi chỉ còn một phản ứng duy nhất là bỏ chạy. Bởi vậy, Lỗ Nhất Khí liền quay người đi luôn.

Thiên táng sư vẫn đứng im lìm, đến tận khi Lỗ Nhất Khí đi được khoảng hơn chục bước, lão mới lại lên tiếng.

- Đi luôn thế à? Không nói gì ư?

Ngữ điệu đã hoàn toàn giống tiếng người thường, song Lỗ Nhất Khí lại nghe như tiếng trống đồng vang dội đập thẳng vào tim não.

Lỗ Nhất Khí đột ngột dừng bước, nhưng không quay người lại, chỉ hơi cúi đầu xuống. Đứng bất động như thế một hồi lâu, cậu lại ngẩng đầu lên như bình thường, rồi kiên quyết lắc đầu thật mạnh.

Thiên táng sư hết sức kinh ngạc trong lòng, lão không ngờ "giọng nói vỡ tim" của mình chẳng hề có tác dụng gì với cậu thanh niên kia. Ban đầu, lão đã ẩn phục giấu mình, hy vọng đám người kia sẽ đi vào ngã rẽ đã giăng sẵn rất nhiều cạm bẫy như "Đường mặt đao chém nghiêng", "Núi đao đẩy đổ", "Lá vàng bay"... Song không ngờ cậu thanh niên kia có thể cảm nhận được mối nguy hiểm, hơn nữa còn dùng sức cảm tri mạnh mẽ tiếp xúc trực tiếp với bản tính của lão. Khi xuất đầu lộ diện, lão đã cố tình khuếch đại đao khí và tử khí đến cực điểm, song không ngờ cậu ta không những tiếp nhận một cách tự nhiên, mà còn toả ra một luồng khí tướng kỳ lạ để phản kích. Cuối cùng, lão dồn toàn bộ lực đạo của "giọng nói vỡ tim" lên cơ thể cậu ta, hy vọng có thể nửa đánh nửa dụ, khiến cho nội khí tắc nghẽn mà tẩu hoả nhập ma. Kết quả là cậu ta vẫn chẳng hề hấn gì. Nghiêm chỉnh mà nói, lão đã thất bại ba lần liên tiếp, quả là một mối đại nhục chưa từng có.

- Được! Được lắm! Đúng là một thủ lĩnh thực thụ! - Lời nói của Thiên táng sư lúc này đã tràn đầy cảm xúc, đây là một lời khen ngợi xuất phát tự đáy lòng.

- Ha ha! Có thể thoát qua trước lưỡi ma đao từng tuyệt sát bát đại gia trong giang hồ, mà chỉ ở mức "được" thôi sao? – Lão Lợi nhìn thấy Lỗ Nhất Khí bước đi, cũng đã trấn tĩnh trở lại.

Thiên táng sư quay mặt lại. Ngoài lão Lợi và Dương Tiểu Đao, Niên Thiết Cao cũng không đi, vì hắn và Dương Tiểu Đao tình cảm thắm thiết, sống chết có nhau. Ba người thủ thế nghiêm mật, triển khai chiêu thức nhắm vào Thiên táng sư.

- Châm đao Âm ma, coi giết người là thiên chức, coi đoạt mạng là niềm vui, lấy thịt người làm lương thực. Trong giang hồ khi nhắc tới ngươi, ai chẳng tim đập chân run, hồn xiêu phách lạc! – Lão Lợi nói.

- Thật ư? Sao ta thấy ba người các ngươi lại không có vẻ như thế? – Thiên táng sư vừa nói, vừa chậm rãi rút ra một thanh đao từ bên dưới vạt da bò, một thanh đao đầu đuôi vuông vức, lưỡi trắng sống đen, dài hơn một thước, rộng một gang tay. Hình đao thô vụng, chuôi ngắn bằng gỗ, bóng nhẫy một lớp mỡ dày, càng nhìn càng giống thứ dao phay chuyên chặt xương thái thịt.

Song thanh đao xấu xí thô thiển kia vừa xuất hiện, lưỡi đao đầu quỷ sáng quắc của lão Lợi đột nhiên biến sắc, bộ mặt quỷ cười chốc đã như khóc mếu, vuông nhiễu thấm đầy máu đỏ không gió mà run rẩy bay tung, kêu lên phần phật.

Thanh đao nhỏ của Dương Tiểu Đao cũng lập tức như phải chịu một sức xoắn vặn vô hình. Gã vội vã ngầm vận thêm lực vào cánh tay, cổ tay để giữ chặt cán đao. Cúi đầu nhìn xuống, thì thấy mũi đao đã hơi cong lại.

Trên ngón tay Niên Thiết Cao bật ra một tiếng ngân trầm trầm, tuy không lớn, song nghe khác nào tiếng rồng gầm. Đó là sợi tơ tằm lửa ẩn trong chiếc nhẫn hình rồng của gã đang rung lên kịch liệt.

Chương 9: Đường Âm Thế ba đao đối

Đã lâu lắm rồi, không ngờ lại có được một trận chiến như hôm nay! – Thiên táng sư lại cất giọng oang oang.

- Kỳ thực cuộc đại chiến này là không cần thiết! Ông là bậc tiền bối trong tiền bối, cao nhân trong cao nhân, còn bọn ta chỉ là những kẻ lừa kiếm miếng ăn ở xó giang hồ. Thôi ông nương tay cho bọn ta qua đi! – Tuy lời nói của Dương Tiểu Đao có vẻ khiếp nhược e dè, song tuyệt đối không phải là cầu xin.

- Đừng cố ra vẻ yếu hèn! Nếu nói rằng gặp cậu thanh niên kia là bất ngờ, thì gặp ba người các ngươi là ngoài sức tưởng tượng. Ta không nhìn lầm, thanh đao mặt quỷ kia gọi là đao Bách tuế trảm thủ, hay còn gọi là đao Bách toái. Mỗi khi chặt đủ chín mươi chín cái đầu, cần cho vào lò đúc lại. Nếu không, khi chặt tới cái đầu thứ một trăm, đao sẽ nổ tung, muôn mảnh sắc lẹm bắn đi vùn vụt, trong vòng hai mươi bước, không ai có thể may mắn thoát nạn.

- Ghê gớm vậy ư? Thế thì con dao mổ chó giết dê của tôi làm sao sánh kịp! – Dương Tiểu Đao vẫn giở giọng hạ mình, thế đao trong tay lại kín đáo chuyển thành thế đâm ngang, là thế đao dùng để đâm giết trâu dại đang chạy điên cuồng, cũng là thế đao "một đi không trở lại". Gã dự tính trong chiến cục này bản thân chỉ có một cơ hội ra chiêu, nếu dùng để phòng thủ, chỉ có đường chết, chi bằng xuất chiêu liều mạng.

- Đao của ngươi tuy nhỏ, hình đao lại rộng hẹp dày mỏng khác nhau. Mỗi bộ phận đều có cách dùng khéo léo đặc biệt, chiêu thức quỷ quyệt đa biến. Đây là đao Bào Đinh độc truyền của dòng họ Dương ở Quan Trung. Đao pháp tối cao của đao Bào Đinh là đao pháp Tích hào, có thể lóc thịt róc xương không đứt huyết mạch. Nếu ngươi đã luyện thành đao pháp Tích hào, vậy thì dùng sự khéo léo giảo quyệt của người, kết hợp với sức mạnh vũ bão của đao Bách toái, vẫn có thể giao tranh một trận với cây đao của ta! – Thiên táng sư am hiểu tường tận về thanh đao của lão Lợi và Dương Tiểu Đao, trong khi họ hầu như mù tịt về thanh châm đao Âm ma của lão, vì những kẻ đã từng có cơ hội giao đấu với châm đao Âm ma đều chẳng còn mạng mà kể lại.

Có thể giao tranh một trận, cũng có một ý nghĩa khác là chắc chắn không thể chiến thắng. Lão Lợi và Dương Tiểu Đao đều hiểu rõ.

Thiên táng sư từ đầu tới cuối không hề nhúc nhích. Không nhìn thấy ánh mắt của lão, cũng không nhìn rõ sắc mặt, không biết lão đang nghĩ gì.

Xung quanh tĩnh mịch như tờ, ngay cả những cơn gió âm hàn khi nãy thi thoảng còn xuất hiện, giờ cũng im hơi. Không khí chết chóc mỗi lúc càng thêm nặng nề, mấy con người đang ngưng thần bất động đều nghe rõ cả tiếng tim đập thình thịch, tiếng máu chảy rần rật trong cơ thể.

Niên Thiết Cao tuy đứng sau lưng Dương Tiểu Đao, song áp lực mà hắn cảm nhận được không hề thua kém hai người phía trước. Hai người phía trước đứng kề vai nhau, đao sắc lăm lăm đẩy ra phía trước, đao khí bừng bừng dữ dội, có thể giảm bớt đáng kể áp lực chết chóc đang ập đến. Còn hắn đứng một mình phía sau, tơ tằm lửa lại chưa kéo ra, không hề có đao khí để nương tựa. Hắn bèn âm thầm rút sợi tơ tằm lửa từ trong chiếc nhẫn hình rồng ra. Tuy động tác rất chậm rãi, rất nhẹ nhàng, song sợi tơ tằm vẫn rít lên một tiếng lanh lảnh. Bởi vì khi sợi tơ tằm lửa được rút ra, đã tạo thành ma sát. Là ma sát với thứ gì? Luồng khí! Lúc này, tử khí, đao khí, và luồng khí vận hành trong cơ thể đã ngưng kết thành một khối nặng nề dày đặc khác nào vật chất thể rắn.

Sợi tơ tằm lửa vừa được rút ra, Niên Thiết Cao lập tức cảm giác thấy khối áp lực nặng nề như đá tảng chèn trước ngực bỗng được cứa ra một lỗ, và lỗ này đang từ từ nứt toác, từ từ mở rộng.

Thiên táng sư hai chân vẫn bất động, song cánh tay cầm đao đã nâng lên, xoay đao ngang trước ngực.

Là muốn tấn công? Muốn rút lui? Muốn dụ dỗ? Muốn áp sát? Muốn mê hoặc? Không biết! Không ai có thể biết được. Bởi vậy, lão Lợi và Dương Tiểu Đao vẫn thủ thế bất động.

Xung quanh tĩnh lặng tuyệt đối, tới mức có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Chỉ có suy nghĩ và ý niệm đang cuồn cuộn sôi trào, đang lặng lẽ thăm dò, va chạm trong cảnh giới vô hình, vô thanh.

Một hồi lâu sau, cuối cùng đã có người lên tiếng:

- Các ngươi đi đi! - Người nói là Thiên táng sư. Lão từ từ thu lại thanh đao đang đặt ngang trước ngực, song khi thu được khoảng hai phần ba thì nghiêng đao đâm chếch xuống dưới, đặt trước bụng dưới năm tấc. Đây hoàn toàn là đao thức phòng thủ.

Đám lão Lợi vẫn không cử động. Tuy họ nhìn thấy Thiên táng sư đã chuyển thế đao từ tấn công sang phòng thủ, song đây là thanh châm đao Âm ma khét tiếng trong truyền thuyết, dù là về độ sắc bén hung tàn, hay âm trá quỷ quyệt, đều thuộc hàng tối thượng.

- Tuy rằng cuộc sát chiến hôm nay với ta là vô cùng hiếm có, cả đời này e rằng cũng chỉ có lần này, song ta chưa thể hoàn toàn chắc thắng. Đao Bách toái uy lực ghê gớm nhất là thế chém xuống, song chiêu "khoét" của châm đao ta phá được. Chiêu số tuyệt đỉnh nhất của đao Bào Đinh là lóc gân cứa mạch, song chiêu "bổ" của châm đao ta cũng có thể phá. Nhưng nếu hai đao cùng tấn công, ta chỉ có thể dùng chiêu "xoay" để ứng phó. Song lúc này, các ngươi không chỉ có hai đao, mà còn có thêm một sợi tơ tằm lửa trong chiếc nhẫn hình rồng. Trò này năm xưa tay Lâm Hàn Phong biệt hiệu "Một tơ treo núi" ở Thiên Đài, Hà Bắc cũng có một sợi, ta đã dùng chiêu "bằm" mà phá được. Có điều nhìn vào cách dùng của tơ tằm lửa, ta thấy rằng các chiêu thức quấn, vòng, trói, siết của nó lại chính là khắc tinh của chiêu "xoay". Bởi vậy ba người các ngươi hợp sức xông lên, chiêu số sẽ bất lợi cho ta. Ta đã gần trăm tuổi đầu, danh tiếng bị huỷ hoại sẽ không còn cơ hội lấy lại. Thôi đành bỏ vậy, các ngươi đi đi! – Thiên táng sư khẽ thở dài.

- Còn một điều nữa, ông không biết liệu đao của ta đã tới thời điểm "bách toái" hay chưa. Nếu như đã tới, ta chỉ cần quay lại chặt lấy thủ cấp của hai người kia. Khi máu phun đao nổ, ông đang ở trong vòng chiến cũng khó tránh kiếp nạn! – Lão Lợi lúc này chẳng còn đếm xỉa gì đến sống chết, nên lời nói càng trở nên điềm tĩnh lạnh lùng.

Thiên táng sư không nói gì, quả thực lão đã nghĩ tới chiêu này. Vừa rồi không nói ra, là vì không nghĩ rằng lão Lợi có thể tàn nhẫn đến vậy, sẵn sàng vung đao chặt cổ đồng bọn cho đao nổ tan tành, dùng ba mạng đổi lấy một mạng.

Dương Tiểu Đao và Niên Thiết Cao cũng đã nghe ra "hai người kia" là chỉ bọn họ, bất giác thấy rùng mình ớn lạnh trước kế hoạch tàn độc của lão Lợi.

- Các ngươi không phải là mục tiêu cuối cùng, cũng không đáng để ta liều mạng! - Giọng Thiên táng sư có vài phần khinh miệt.

Lúc này, Dương Tiểu Đao mới hiểu tại sao Lỗ Nhất Khí lại dứt khoát bỏ họ mà đi. Làm như vậy là để đối thủ mất đi mục tiêu cuối cùng, khiến cho việc tận diệt những kẻ cản trở lão tiếp cận với mục tiêu đã trở nên không cần thiết. Bởi vậy, Lỗ Nhất Khí bỏ đi, mối nguy hiểm đối với ba người họ cũng giảm bớt.

- Cũng chưa hẳn! – Khi nói câu này, bộ da mặt của Thiên táng sư rung lên khe khẽ, không biết có phải lão đang cười?

Câu nói đã khiến bọn lão Lợi đều giật nảy mình. Đúng vậy, tuy ba người họ có thể ngăn cản được sát thủ âm ma trước mặt, song lực lượng bảo vệ Lỗ Nhất Khí sẽ giảm mất một nửa. Buộc bọn họ phải lưu lại nơi đây, chưa biết chừng lại chính là âm mưu của đối thủ.

- Nếu các ngươi không muốn đi, thì ta đi vậy! – Thanh đao trong tay Thiên táng sư đột nhiên bừng lên một vệt hào quang rực rỡ. Là đao khí, càng là nội khí, đan khí, chỉ khi đạt đến cảnh giới dùng khí sử đao mới có thể biến khí thành hào quang hữu hình.

Châm đao Âm ma đã vung lên, khí toả tựa cầu vồng, thế hào hùng như núi. Lỗ Nhất Khí đã đi được một đoạn xa mà vẫn cảm nhận được thế đao xông lên rừng rực, kèm thêm một luồng sát khí úp chụp xuống đầu. Trận quyết đấu ở ngã ba đã bắt đầu rồi ư?

Châm đao Âm ma mới giơ qua đỉnh đầu đã hạ xuống, vạch thành một luồng sáng rực rỡ đến chói mắt, khiến đám lão Lợi không thể nhìn thẳng.

Đao quang vừa loé lên, Thiên táng sư đã thoái lui, thân hình lướt đi vùn vụt y như lúc lão đến. Đám lão Lợi lúc này mới dám thở phào, đường đao vừa rồi không phải là sát chiêu, mà là mượn thế lùi về, là để đề phòng bọn họ nhân thế tập kích.

Đao quang vừa loé lên, Lỗ Nhất Khí đã cảm thấy sát khí từ lưng trời ập xuống phủ đầu, thế như trời sập. Đường đao vừa chém ngang không trung chính là nhắm vào cậu, thanh ma đao có thể chém giết với cự ly xa đến thế ư?

Đao quang vừa loé lên, trong số những đỉnh núi trên núi Quy Giới, có một đỉnh núi âm thầm hạ xuống, lao thẳng xuống đầu mấy người bọn họ. Đỉnh núi đen kịt trong quá trình rơi xuống còn liên tục nở phình, biến thành một đám mây đen, một mảng trời đêm tối mịt, khiến người ta không biết ẩn nấp vào đâu.

- Nghê Tam! Mau nhìn xem! Phía trên có quạt bay[10] à? – Lão mù đã nghe thấy âm thanh khác lạ.

Quỷ Nhãn Tam lia ngược con mắt cú vọ lên cao:

- Quạt lớn (chim lớn), đen rợp, nhiều không đếm xuể!

- Là kền kền thần thông ý! Chúng có thể tấn công theo ý chủ nhân! - Dưỡng Quỷ Tỳ biết loài kền kền này.

Lời còn chưa dứt, đám kền kền thần đã hạ xuống! Trong lúc rơi xuống, chúng đều khép cánh lại, nên tốc độ rất nhanh song tiếng động cực nhỏ. Khi còn cách đỉnh đầu những người phía dưới chưa đầy ba trượng, chúng lập tức đồng loạt dang rộng cánh, vỗ phành phạch. Vô số con kền kền đồng thời đập cánh, tạo thành một luồng gió cực mạnh ập từ trên xuống, thổi cho đám người dưới đất ngả nghiêng chao đảo, đứng còn không vững. Song đây mới chỉ là bước khởi đầu, bầy kền kền không vội lao xuống tấn công ngay, mà duy trì độ cao, tiếp tục vẫy cánh. Luồng gió quạt xuống mỗi lúc càng thêm dữ dội. Đám người phía dưới đã bắt đầu ý thức được mối nguy hiểm. Lúc này, họ giống như gặp gió lốc ở cửa hút gió trong dãy núi hình cái túi, nếu cứ tiếp tục như vậy, chắc chắn sẽ bị thổi bay xuống vực sâu bên cạnh.

- Nằm rạp cả xuống! Bọn chúng xuống thấp thêm tí nữa sẽ không thể tạo ra gió mạnh! - Lỗ Nhất Khí biết rõ, một bầy kền kền khổng lồ nhường này đồng loạt vỗ cánh, cần phải có một khoảng không gian lưu thông khí rất lớn phía dưới. Nếu chúng hạ xuống thấp hơn, không gian phía dưới sẽ hẹp lại, luồng khí lưu thông không đủ, chúng sẽ tự khắc thu cánh mà đáp xuống.

Quả nhiên bầy kền kền mới chỉ hạ xuống thêm một chút, sức gió đã yếu hẳn đi. Mà không, nói đúng hơn là không còn nữa. Tất cả bầy chim gần như đồng loạt cụp cánh lại, gương vuốt sắt, chĩa mỏ thép, lao thẳng xuống đỉnh đầu đám người phía dưới.

Hạ Táo Hoa lập tức phản kích, chốt lẫy trên vũ khí vừa ấn, cả hai con kền kền lập tức bị xuyên táo vào đầu nhọn vừa thình lình vụt dài ra. Một cú đâm nữa, lại xuyên tiếp hai con khác. Song cô lập tức cảm thấy không ổn, vì đám kền kền trước mặt cứ như tự lao vào chỗ chết, đâm thẳng vào đầu gậy của cô. Hạ Táo Hoa không còn rảnh tay để vẩy những con kền kền đã bị xuyên chết đi, đến khi toàn bộ thân gậy đã đầy những xác kền kền, thì vũ khí đã mất hẳn tính sát thương, thậm chí đến chống đỡ cũng rất chật vật. Muốn di chuyển cây gậy xuyên đầy xác kền kền quả thực rất khó khăn.

Hứa Tiểu Chỉ dùng hai ngón tay kẹp gãy cổ một con kền kền vừa lao xuống, chỉ công phá vỏ của hắn hội tụ đủ các yếu tố nhanh, chuẩn, mạnh. Khi hắn bấm nát đầu con kền kền thứ hai, con vật đang giãy chết bỗng quạt nghiêng cánh, thân chim xoay ngang, bộ vuốt sắc nhọn lập tức cào phăng lớp áo trước ngực hắn, để lại bốn rãnh máu sâu hoắm.

Biện Mạc Cập vung roi ngựa lên quật mạnh, sau hai tiếng nổ giòn giã liên tiếp, chỉ thấy lông chim đen kịt bay tan tác. Song không thể nghe thấy tiếng vụt thứ ba, bởi lẽ có hai con kền kền thần đã bất ngờ ngậm chặt lấy đầu roi, khiến đầu roi nặng trĩu không thể đánh lên. Biện Mạc Cập mới chỉ khựng lại trong giây lát, lại thêm vài con kền kền nữa lao đến kẹp chặt lấy roi. Rất mau, cả đám kền kền gần như đã bu kín mít quanh roi ngựa, khiến cán roi oằn xuống tựa cung tên. Biện Mạc Cập phản ứng cực nhanh, lập tức vặn chóp cán roi, rút từ trong cán ra một chiếc roi cán ngắn. Chiếc roi cán ngắn này xem ra sử dụng khó khăn hơn rất nhiều, song cũng linh hoạt khó lường hơn. Nhưng dù là vậy, Biện Mạc Cập cũng không còn dám tuỳ tiện tấn công, chỉ đánh roi che chắn cơ thể.

Quỷ Nhãn Tam một tay cầm xẻng lưỡi cày, một tay giương Vũ Kim Cương. Cây Vũ Kim Cương che lấy đỉnh đầu hắn và Lỗ Nhất Khí, còn xẻng lưỡi cày để đối phó với bầy kền kền trên không trung...

Kền kền thông ý có thể cảm biết được ý đồ và tính toán của chủ nhân, chúng có thể độc chiến, có thể quần chiến, có thể sẵn sàng thí mạng, có thể ranh ma lừa miếng, tất cả đều theo suy nghĩ của chủ nhân. Cũng có nghĩa là đám Lỗ Nhất Khí kỳ thực đang giao chiến với chủ nhân của chúng, trong khi chủ nhân của chúng không thể bị tổn thương. Tuy mây thiết ưng đã rất lợi hại, nhưng đó chỉ là khảm diện, nên có điểm khớp, điểm khuyết. Trong khi mọi sát chiêu của kền kền thông ý đều là tuỳ cơ tuỳ hứng, không thể tìm ra quy luật. Hợp thì thành khảm, tách thì thành nút, dù thịt nát xương tan vẫn lao vào tấn công, so với mây thiết ưng còn cao hơn một bực.

Bầy kền kền ập đến đường đột, mọi người rối rít nghênh chiến, không còn rảnh rỗi giây nào để nhận ra phía trên bầy kền kền có năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch. Bọn chúng đang lao xuống như xé toạc không trung, kéo theo một tiếng rít chói tai dài dằng dặc trong khe núi tối sầm.

Trong đám người Lỗ gia, lợi hại nhất chính là Dưỡng Quỷ Tỳ. Dải lụa dài trong tay cô vung ngang thành một lưỡi dao dài, tung hoành trong một phạm vi khá rộng. Máu kền kền tung toé như mưa, nhuốm đỏ bộ trang phục trắng muốt của cô, hai dải lụa trắng tinh đã biến thành hai dải cầu vồng máu đỏ.

Người vụng về nhất lại là lão mù. Bốn xung quanh vuốt chim chụp loạn, mỏ thép như mưa, cánh vỗ phần phật, khiến thính giác của lão trở nên hỗn loạn. Đây cũng là nguyên nhân khiến năm xưa, sau khi bị mù, lão đã rút khỏi băng mã tặc, bởi lẽ chỉ dựa vào thính giác sẽ không thể đối phó được với những trận hỗn chiến. Trong tình hình này, lão mù đột nhiên trở nên cuống quýt, cơ thịt trên mặt co rút lại, tròng trắng mắt đảo lộn điên cuồng. Lão bỏ cả che chắn tự vệ, chĩa gậy xông thẳng về phía trước.

Lỗ Nhất Khí đứng ngay phía trước lão mù, đang lần mò sờ soạng trên người. Cậu muốn tìm ra một món vũ khí có thể phòng thân.

Lão mù đột nhiên lao vụt tới, tốc độ này Lỗ Nhất Khí không thể tránh kịp. Hứa Tiểu Chỉ đứng bên cạnh nhìn thấy, lập tức giật mạnh Lỗ Nhất Khí về phía mình, còn cơ thể hắn xoay ngang qua, lao lên đâm thẳng vào người lão mù.

Lão mù ngã ngồi xuống đất, tròng trắng vẫn chớp đảo liên hồi, đầu lắc lư ngật ngưỡng. Xem ra cú va đập khá nặng nề, khiến lão mù đang trong cơn bồn chồn thất thần càng trở nên quay cuồng mụ mị.

Hứa Tiểu Chỉ không ngã, vẫn đứng trơ trơ tại chỗ, cứ như hoá đá.

Mấy con kền kền thình lình nhào xuống, nhất loạt giương vuốt sắt quắp lấy Hứa Tiểu Chỉ, rồi vỗ cánh bay lên, nhấc bổng Hứa Tiểu Chỉ rời khỏi mặt đất. Song Hứa Tiểu Chỉ chỉ giãy khẽ vài cái, không hề có sự phản kháng nào đáng kể.

Lỗ Nhất Khí vội vã đưa tay túm chặt lấy thắt lưng và vạt áo của Hứa Tiểu Chỉ, song đám kền kền sức mạnh kinh người, Lỗ Nhất Khí cũng bị lôi tuột lên theo.

- Mau thả xuống! - Quỷ Nhãn Tam quát lớn rồi chạy lại, ôm ngang lưng Lỗ Nhất Khí kéo xuống. Song Lỗ Nhất Khí đã không thể lôi được Hứa Tiểu Chỉ, vì dây thắt lưng của hắn đã đứt tung. Vô số tiền xu bạc giắt bên lưng trộn lẫn với dòng máu tuôn xối xả từ vết thương trước ngựa trút rào rào xuống hai người đến tối tăm mặt mũi.

Bầy kền kền quắp theo Hứa Tiểu Chỉ bay đi một đoạn khá xa, sau đó đồng loạt buông vuốt, quăng hắn xuống khe đá sâu hun hút.

- Thác lửa! Châm thác lửa! - Lỗ Nhất Khí gào lên thật lớn với Viêm Hoá Lôi.

"Thác lửa" mà Lỗ Nhất Khí nói tới kỳ thực chính là loại pháo hoa "Thác đổ đất bằng" mà Viêm Hoá Lôi đã dùng để ngăn cản bọn Chu Chân Mệnh ở bên hồ Tiên Tề. Tuy cậu không biết tên gọi chính xác, song hai chữ này cũng khá gần với tên của pháo hoa.

Viêm Hoá Lôi vốn thông minh lanh lẹ, vừa nghe thấy một chữ "thác", đã lập tức nhớ ngay tới "Thác đổ đất bằng", bởi lẽ Lỗ Nhất Khí cũng mới chỉ nhìn thấy hai ba loại trong vô số chủng loại pháo hoa của ông.

Muốn phóng "Thác đổ đất bằng" cần phải sắp xếp các ống pháo hoa nối tiếp nhau. Song nghe thấy tiếng thét đến lạc giọng của Lỗ Nhất Khí, Viêm Hoá Lôi vốn dĩ tâm lý vững vàng như bàn thạch cũng thấy luống cuống rối loạn, nên đã trực tiếp châm ngòi nguyên cả bó pháo hoa.

Dòng lửa "Thác đổ đất bằng" lập tức phun lên dữ dội, biến thành một cột lửa to lớn cao hơn hai trượng, trên đỉnh cột hoa lửa bắn tung toé như suối phun trào. Thế nhưng cột lửa này lại không đủ sức gây uy hiếp tới bầy kền kền, chúng tiếp tục chao liệng, lao xuống, bay qua bay lại trong cột lửa.

Cột lửa vừa vọt lên, Lỗ Nhất Khí đã kịp móc ra một vật:

- Cầm lấy, thả vào trong cột lửa!

Viêm Hoá Lôi thò cánh tay dài như vượn chụp lấy vật này, chẳng kịp nghĩ ngợi, cũng chẳng kịp liếc nhìn, lẳng luôn vào trong miệng phun của bó "Thác lửa phun ngược". Cây cột lửa lập tức vỡ tan, biến thành vô số đốm lửa vọt ra tứ phía. Tiếp đó, từ vật kia phụt lên mấy tia lửa xanh biếc, mau chóng tụ lại một chỗ, rồi bay vụt lên trên.

Dòng "thác lửa phun ngược" đã thay đổi hoàn toàn. Trước hết là màu sắc, các đốm lửa bắn ra và vòng ngoài của cột lửa đều mang một màu xanh lam huyền hoặc, còn tâm cột lửa rực màu lam trắng chói chang. Cột lửa nhanh chóng nở rộng gấp mấy lần, độ cao cũng vọt lên gấp bốn, gấp năm, dưới chân chỉ to cỡ chum nước, song bên trên lại xoè ra thật rộng, hệt như một bó đuốc khổng lồ muốn thiêu cháy cả trời cao.

Trụ lửa màu xanh vừa xuất hiện, tất cả mọi người đều bưng mắt chạy dạt ra, không dám nhìn thẳng vào ánh lửa, cũng không thể chịu nổi cảm giác bỏng rát toả ra từ nó.

Đám kền kền lại càng không thể chống chọi nổi sức nóng của ngọn lửa. Trong chớp mắt, toàn bộ kền kền thần trên mặt đất, trong không trung đều kinh hãi bay vọt đi tán loạn, nhanh chóng tan vỡ giống như làn băng mỏng bị đao sắc khuấy vụn. Đám kền kền ở gần cột lửa lông cánh lập tức thành tro, những thân thể trụi lủi khét lẹt lộp độp rơi xuống, khác gì thiêu thân lao vào lửa. Con đường canh Âm Thế chốc lát đã chìm ngập trong thứ mùi cháy khét ghê tởm và những tiếng gào rít thê thảm nghe muốn thủng tai buốt óc.

Đây chính là viên thiên thạch mà Nhậm Hoả Cuồng đã tặng cho Lỗ Nhất Khí. Nó không những có thể tự cháy, đẩy mạnh sức cháy, mà còn có một đặc tính tuyệt diệu, đó là nếu được lửa dẫn, dù thứ lửa dẫn ban đầu có hình dạng ra sao, nó đều cháy theo hình dạng vốn có, chỉ có điều sẽ bùng lên dữ dội gấp nhiều lần so với nguồn lửa ban đầu.

Chủ nhân của bầy kền kền không những nhìn thấy cột lửa, mà thông qua cơ thể kền kền, lão còn cảm nhận được mức độ hung hãn bạo liệt của cột lửa. Lão lập tức vung đao truyền ý niệm, gọi bầy kền kền tức tốc rút về.

Khi ba người lão Lợi đuổi tới, Lỗ Nhất Khí đang đứng bên mép đường đá, đờ người nhìn như ngây dại xuống dưới vách núi. Không đau buồn rơi lệ, chỉ thẫn thờ như mất hồn. Hạ Táo Hoa ánh mắt mịt mờ, vẻ như đang nghĩ ngợi rất khổ sở.

Lỗ Nhất Khí đột ngột buông một câu:

- Đợi Dịch Huyệt Mạch tới rồi tính tiếp!

Nói đoạn, lập tức quay người bước về phía trước. Hạ Táo Hoa cũng đã định thần, hàm răng trắng muốt cắn chặt lấy môi, hít mũi thật mạnh một cái, rồi dứt khoát bước theo sau Lỗ Nhất Khí.

Chú thích

[10] Tiếng lóng trong giang hồ, chỉ loài chim.

Chương 10: Đường Âm Thế lại cản trở

Chu Chân Mệnh đã vòng qua ngọn núi Quy Giới. Trên đường đi, hắn đã đổi cưỡi ngựa thành đi xe ngựa. Ngồi trong mui xe kín mít, hắn có thể tranh thủ bình tâm tĩnh dưỡng, cũng có thể phân tích kỹ lưỡng tình thế hiện tại. Tuy Chu gia liên tục gặp bất lợi, song đại cục vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Đặc biệt là sau khi Thức Bảo linh đồng nhận ra Lỗ Nhất Khí có mang theo bảo bối chỉ rõ vị trí của bảo cấu, thì hy vọng lại một lần nữa nhen lên trong lòng hắn. Ngoài ra, còn một điều đáng mừng nữa là Lỗ Nhất Khí đã bước vào đường canh Âm Thế trên núi Quy Giới. Sự việc tiến triển tới bước này, Chu Chân Mệnh gần như đã có thể chắc chắn rằng, hắn chỉ cần tới được chùa Lạt ma Kim Đỉnh, sẽ có người mang bảo bối của Lỗ Nhất Khí dâng đến tận tay.

Còn Lỗ Nhất Khí vẫn đang trong cuộc trốn chạy đầy căng thẳng trên con đường mỗi lúc càng thêm tăm tối.

- Sắp tới cuối rồi. Càng tối thì càng tới gần điểm canh năm trời sáng! - Hạ Táo Hoa phấn chấn hẳn lên, tựa như người lênh đênh trên biển suốt bao ngày cuối cùng đã nhìn thấy bến cảng.

Lỗ Nhất Khí không nói câu nào.

Lão mù lảm nhảm câu gì đó, song chẳng ai nghe ra lão nói gì.

Năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch bất chợt lặng lẽ lướt tới từ một bên khe núi không một tiếng động, tựa như năm bóng ma lang thang trong đêm tối, âm thầm bám theo đám Lỗ Nhất Khí, song chẳng ai phát hiện thấy sự tồn tại của chúng.

Càng gần tới điểm canh năm, đường đi càng thêm hiểm trở, thế núi hai bên liên tục xuất hiện những vách đá dựng đứng trơn trượt nối tiếp nhau, mặt đá nhẵn như dao chém. Đám Lỗ Nhất Khí gần như phải lách mình qua khe đá mà đi.

Đến đoạn đường này, lão Lợi lại vượt lên trước dẫn đầu, thanh đao Bách toái siết chặt trong tay, toả ra hàn khí lẫm liệt. Đó là một thanh đao không sợ bất cứ thứ gì, gặp ma chém ma, gặp Phật chém Phật. Vượt qua quãng đường kẹp giữa hai bên vách đá dựng đứng trước mặt, là đã có thể thoát khỏi đường canh Âm Thế, xa xa đã thấy le lói ánh tàn dương hắt vào đoạn cuối con đường. Đúng vậy, đường canh Âm Thế đã xuất hiện ánh sáng canh năm, chính là lúc mặt trời lặn. Cuối cùng cũng đã kết thúc, tất cả mọi người đều không giấu nổi vẻ phấn khích hân hoan.

- Thứ gì kia? – Lão Lợi đột nhiên khựng lại.

Thứ khiến lão Lợi cảm thấy bất ổn đang hiện diện ở rất gần điểm canh năm trời sáng. Nhìn bề ngoài, trông cũng giống con người, song tư thế lại vô cùng quái đản, nửa thân trên gập về phía trước thành một góc vuông, song không hề thấy cơ bắp chuyển động hay hơi thở phập phồng, tựa như một tảng đá đen trũi.

Chính vào lúc đó, một bóng đen bất ngờ lướt tới sau lưng họ.

Lỗ Nhất Khí bỗng chốc cảm thấy lồng ngực đau tức, toàn thân như bị ép chặt. Gần như cùng lúc đó, tất cả những người khác cũng cảm nhận thấy luồng áp lực vô hình.

- Chỉ cần các ngươi tiến thêm hai bước, chắc chắn sẽ không được chết yên lành! - Một giọng nói oang oang vang lên, là Thiên táng sư đã đuổi tới.

Thế là hết! Tình hình phía trước lành ít dữ nhiều, sau lưng lại có cao thủ tuyệt thế chặn kín đường lui.

- Các ngươi không phải căng thẳng, ta chỉ tới để xem trò vui mà thôi! – Thiên táng sư đã đứng im bất động.

- Có lẽ lão ta nói thật đấy! – Dương Tiểu Đao thì thầm với Lỗ Nhất Khí.

- Tại sao? - Hạ Táo Hoa vội hỏi.

- Không có đao khí, lão ta đến đao cũng không mang theo!

- Các ngươi đứng đó rì rầm nãy giờ, hẳn đã nhận ra nơi đây là khảm diện "Vô địa tự dung" rồi chứ? – Thiên táng sư lại nói lớn.

- Lão già chết giẫm không biết nhục mặt kia, nhìn thấy sắp thua nên chạy tới phá rối đấy phỏng? - Một giọng nói khô khốc như tiếng cú rúc đột ngột vang lên, là đang chửi mắng Thiên táng sư.

Đám Lỗ Nhất Khí sửng sốt nhìn nhau, không ai nhận ra giọng nói vừa rồi từ đâu phát ra.

- Chẳng cần tôi phải phá đám. Dăm cái gai độc mà bà rải ra đúng là chả có kỹ xảo cóc khô gì cả! – Thiên táng sư trả lời.

- Còn nói là không phá đám. Chẳng thà nói quách cho chúng biết cách phá khảm nút của ta luôn cho xong, đúng là lão mặt dày đê tiện! - Giọng nói khô khốc gằn lên giận dữ.

- "Vô địa tự dung" là do Đường môn ở Tứ Xuyên sáng tạo ra. Dùng gai giẫm bật đàn hồi, phi tiêu tám vòng quanh người và chuỳ tam giác mưa rơi làm nút lẫy. Khảm này thông thường thiết kế ở nơi trái phải không có đường đi, ba nút lẫy lần lượt công sát tại ba tầng dưới, giữa và trên, người trúng phải không còn đường tháo chạy. "Vô địa tự dung" tức là không có đất dung bản thân mình, ý nói ngay cả người thiết kế khảm diện cũng không có chỗ dung thân trong khảm! - Lỗ Nhất Khí đã nhớ ra được những thông tin có liên quan.

- Khé khé khé! Thảo nào có thể thoát khỏi tay lão già mắc dịch kia, quả là có chút hiểu biết! - Tiếng cười ré lên xé tai, như thế moi tim móc ruột.

- Là tảng đá kia đang nói! Nó chuyển động rồi! Nó chuyển động rồi! - Quỷ Nhãn Tam đã nhìn thấy cái đầu trên tảng đá hình người gập đôi khẽ nhúc nhích một cái.

Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy tảng đá rất bất thường. Làn khí tướng của những đồ vật cũ kỹ, chết chóc mà nó mang theo đang dần dần trở nên sống động.

- Có điều kiến thức có nhiều tới đâu cũng không thể nhìn thấu bản chất của bà. Tuy rằng bà cũng xuất thân từ Đường môn, song lại không đi đường chính, trộm kỹ nghệ, trộm đồ đạc, lại trộm cả người. Hắn chỉ là con chim mới ra ràng, làm sao có thể mổ nổi bộ da mặt dày cộp của bà. - Giọng điệu Thiên táng sư giống hệt như đang đấu khẩu.

- Khé khé! Đúng vậy, thì sao? Lão già chết tiệt, muốn làm rối loạn tâm khí của ta ư? Đừng hòng! Lần này ta thắng là chắc! Ngươi có nói tuốt tuồn tuột mọi thứ về khảm nút của ta cũng chẳng sao, hắn có thể phá nổi không? Khé khé khé!

Lỗ Nhất Khí nghe Thiên táng sư nói người kia xuất thân từ Đường môn, mới như bừng tỉnh. Thứ khí tướng cũ kỹ, chết chóc mà cậu vừa cảm giác thấy chính là khí tướng của chất độc.

- Từ nãy tới giờ tôi không cảm nhận ra sát khí, té ra là vì tiền bối xuất thân từ Đường môn. Đường môn giỏi về chất độc, ám khí, dùng ám khí chất độc để giết người, tuyệt đối không thể để cho đối thủ lường trước được, bởi vậy đương nhiên sẽ phải thu khí tàng hình che giấu sát ý. Hơn nữa, tôi cũng không cảm giác thấy nhẫn khí, có nghĩa là các nút lẫy trong Vô địa tự dung ở đây đã được thay đổi. Tiền bối Thiên táng sư vừa nãy có nhắc tới gai độc, tôi nghĩ rằng nó được sử dụng để thay thế cho gai giẫm bật đàn hồi. Còn như phi tiêu tám vòng quanh người và chuỳ tam giác mưa rơi, tôi nghĩ cũng có thể dùng đá ở đây thay thế.

- Lão già băm thịt chết tiệt kia, con chim non này ở đâu ra thế? Được lắm! – Hình người vuông góc đã di chuyển thực sự, bước lại phía Lỗ Nhất Khí vài bước. Quả nhiên là một con người, một người với hình thù vô cùng quái đản.

Người đã di chuyển, song Lỗ Nhất Khí vẫn không cảm nhận thấy một mảy may sát khí, xem ra công phu thu khí tàng hình của kẻ này đã luyện dến cảnh giới thượng thừa.

- Đừng đi nữa, trước mặt bà chính là Vô địa tự dung, đừng làm tổn thương tới bản thân! – Ý tứ là quan tâm tới người khác, song giọng nói Lỗ Nhất Khí không hề mang chút biểu cảm, mà bình thản tựa như hơi thở.

- Khé khé khé, oắt con nhắc ta mới nhớ. Khảm diện đã bày ở đây, ta còn phải phí sức làm gì, cứ ngồi đợi là xong! – Tuy con người góc vuông kia nói là ngồi đợi, song lại không hề ngồi xuống.

- Là bà ta! Chắc chắn là bà ta! - Dưỡng Quỷ Tỳ đột nhiên kêu lên khe khẽ.

- Là ai thế? Con gái, con biết bà ta ư? – Viêm Hoá Lôi hỏi.

- Cha còn nhớ bảy mươi năm về trước, trong Đường môn Tứ Xuyên xảy ra chuyện lớn, dẫn tới Đường môn huỷ diệt!

- Con muốn nói tới chuyện "Bối phi tinh" ư?

- Đúng vậy! Bối phi tinh là thứ ám khí ghê gớm tàn độc nhất trên thế gian này, vốn được giấu kín ở trong động Diểu Độc của Đường môn. Không ngờ một nữ đệ tử bên ngoài của Đường môn đã quyến rũ môn trưởng, lấy trộm chìa khoá của động Diểu Độc, mở ra năm bộ khoá phân nhánh móc liền, ăn cắp Bối phi tinh mang đi. Đường môn tung ra toàn bộ cao thủ để truy bắt, một trận đại chiến nổ ra, cao thủ bị tàn sát gần hết. Còn nữ đồ đệ kia trong lúc cúi lưng bắn Bối phi tinh đã bị dùi tuyết mang đâm đứt một đường mạch ở sống lưng, may được cao thủ Chu gia cứu thoát mới bảo toàn được tính mạng. Có điều từ đó thành người tàn tật, không thể đứng thẳng lưng.

- Tại sao bà ta phải lấy trộm Bối phi tinh? – Dương Tiểu Đao tò mò hỏi.

- Châm đao Âm ma đã giết chết hai người anh em ruột của bà ta, bà ta muốn dùng vật này để báo thù.

- A, tôi biết rồi! Năm xưa châm đao Âm ma đột nhiên tuyệt tích giang hồ, té ra là bị một người đàn bà bức bách. - Dụng ý của Hạ Táo Hoa là dùng lời nói để kích động Thiên táng sư và hình người vuông góc kia giao đấu – Nhưng tại sao hai vị không quyết một trận sống mái, mà lại rủ nhau cùng ẩn mình tại chốn u tịch hoang lương này? Chẳng lẽ đánh đấm một hồi lại nảy sinh tình ý?

- Anh hùng trọng nhau, nam nữ sinh tình, khó tránh! - Quỷ Nhãn Tam chốt lại một câu gọn lỏn.

Đám Lỗ Nhất Khí mỗi người một câu nhao nhao cả lên, song Thiên táng sư và hình người vuông góc kia lại trầm ngâm không nói, không biết đang nghĩ ngợi gì.

Đột nhiên, từ chỗ hình người vuông góc, một ngọn đuốc dầu trẩu cháy bùng lên, ánh lửa xanh lam nổ lép bép liên hồi, tàn lửa bắn đi tung toé.

- Trong ngọn đuốc này có vật chất lạ, mọi người cẩn thận, đừng để trúng chiêu! – Viêm Hoá Lôi vừa liếc qua đã nhìn thấy vẻ bất thường trong ngọn đuốc.

Ngọn đuốc bùng sáng, mọi người lập tức nhìn rõ hình dáng của con người vuông góc kia, và tất thảy đều giật mình chết khiếp. Đó chính xác là một con người, điều này hẳn là không sai. Song tất cả những ai đã nhìn thấy tướng mạo của mụ ta đều khó lòng thừa nhận mụ ta là một con người.

Thứ không giống con người nhất ở mụ ta chính là bộ mặt. Đến cục phân trâu phơi khô còn sáng sủa hơn thế. Trên đầu trọc lốc không một sợi tóc, vô số múi da thịt nhũn nhẽo xệ xuống và những nếp nhăn sâu hoắm dọc ngang như khe rãnh đã che lấp toàn bộ ngũ quan trên khuôn mặt, chỉ còn hai đốm sáng he hé phía dưới một rãnh nhăn nằm ngang sát đỉnh đầu là bằng chứng cho sự tồn tại của đôi mắt.

Vừa nhìn thấy bộ mặt gớm guốc, Dương Tiểu Đao đã kêu lên:

- Nghê Tam, ngươi vừa nói cái gì mà nam nữ sinh tình? Với bộ dạng này, thì sinh cái nỗi gì?

- Phải rồi, châm đao Âm ma làm gì có chuyện nảy sinh tình cảm với một đống thịt da nhăn nhúm thế kia! – Câu nói của Hạ Táo Hoa khiến mọi người đều bật cười.

Lỗ Nhất Khí cũng suýt bật cười, song một cảm giác bất an đã kìm hãm ý cười lại. Không ổn! Hai cao thủ tuyệt đỉnh chắn trước chắn sau, lại thêm khảm diện Vô địa tự dung tà độc khó lường, trong tình thế nguy hiểm và căng thẳng này, tại sao mọi người lại thoải mái cười cợt như thế?

Lỗ Nhất Khí lập tức tụ khí ngưng thần, quên đi tất cả, đưa cảm giác đi đi lại lại trên đoạn đường ngắn ngủi trước mặt. Song cậu chẳng cảm giác được điều gì. Nhưng khi từ trạng thái ngưng thần trở lại bình thường, cậu phát hiện ra tất cả những người bên cạnh vẫn giữ nguyên nụ cười châm chọc trên môi, nhấc bước tiến về phía Vô địa tự dung.

- Khé khé khé! Lão già chết toi, bất ngờ phải không? Ta chỉ dùng một vũ khí phụ trợ, đã khiến bọn chúng từng đứa một tự đi vào chỗ chết.

- Bà đừng mừng vội! Tên quan trọng nhất vẫn chưa bị mê hoặc, không chừng sẽ biến nước cờ chỉ trong nháy mắt! – Thiên táng sư cất giọng oang oang.

"Vũ khí phụ trợ" - mấy tiếng này đã mang lại cho Lỗ Nhất Khí một lời gợi ý, cậu cấp tốc rà soát, lục lọi trong trí não.

Trong cuốn "Dị môn binh khí luận điểm" của Tân Tử Thanh đời Thanh có viết, vũ khí của Đường môn chủ yếu phân thành ba loại: vũ khí giết, vũ khí bắt và vũ khí phụ trợ. Vũ khí giết là chỉ những ám khí tàn độc bá đạo hoặc chứa chất kích độc; vũ khí bắt là chỉ ám khí dùng để bắt sống đối thủ; vũ khí phụ trợ là chỉ vũ khí có tác dụng trợ giúp cho vũ khí giết và vũ khí bắt, làm tê liệt hoặc mê hoặc đối thủ.

Trong cuốn "Diệu khí các tự" không rõ tác giả có một phần chuyên biệt nói về vũ khí phụ trợ của Đường môn, nói rằng vũ khí phụ trợ còn gọi là vũ khí mê hoặc, lợi dụng sự kết hợp khéo léo giữa hình, ánh sáng, âm thanh để đạt mục đích mê hoặc. Kỳ thực, nếu xét về mặt kỹ thuật chế tạo, thành quả cao nhất của Đường môn lại không phải là ám khí hay chất độc, mà là chế tạo vũ khí phụ trợ.

Là ngọn đuốc! Ánh lửa bập bùng, ánh sáng bất định, hoa lửa tứ tán, lại liên tục phát ra tiếng nổ lép bép. Đây chính là thứ vũ khí phụ trợ kết hợp bởi âm thanh, ánh sáng và hình để mê hoặc tâm trí con người, khiến con người vô thức muốn lại gần nó, có được nó.

Vậy tại sao Lỗ Nhất Khí lại không bị mê hoặc? Trong trước tác "Khiếu vật chế thực pháp biên chú" của Tưởng Trung Cương người Ngô Giang thời Minh có viết rằng: "Cách mê hoặc của vũ khí mê, chính là dẫn dắt mà nhập vào, khiến người ta sa vào cảnh giới mê hoặc trong vô thức. Nếu ý thức theo sự dẫn dắt mà đi, sẽ không rơi vào mê hoặc". Vào lúc bó đuốc bùng lên, trạng thái tinh thần thuận theo tự nhiên của Lỗ Nhất Khí đã đi theo ý mê hoặc của vũ khí mê, bởi vậy, ý thức chỉ xoay quanh sự mê hoặc mà không nhập vào mê hoặc.

Vừa rồi Thiên táng sư có nói, chỉ cần bước thêm hai bước sẽ chết tan thây. Bởi vậy, những người bị mê hoặc nhiều nhất chỉ có thể bước lên hai bước, cần phải lập tức ngăn họ lại. Nếu không, sẽ nhanh chóng chuyển từ mất hồn sang mất mạng.

Vào đúng thời khắc khẩn trương này, bỗng một đoạn văn chớp qua trong trí não Lỗ Nhất Khí: "Vũ khí mê hoặc, đâm vào cơ thể, kinh hãi tinh thần, đều vô dụng, tất phải kích động trái tim...". Đây là một đoạn trong chương "Thiên cơ" của "Cơ xảo tập". Theo ý nghĩa của chữ, có thể giải thích rằng, nếu bị gây mê hoặc, có thể làm thức tỉnh bằng cách đâm vào cơ thể thật đau hoặc làm cho tinh thần kinh hãi. Nếu làm như vậy cũng không được, cần phải "kích động trái tim". Nhưng thế nào mới là "kích động trái tim"?

"Kích động trái tim ư? Phải rồi! Như thế này sẽ có thể kích động đến trái tim!" Lỗ Nhất Khí chẳng kịp nghĩ ngợi gì thêm, đưa hai tay đỡ lấy khuôn mặt xinh đẹp của Dưỡng Quỷ Tỳ, hôn ngay lên đôi môi mềm mại của cô.

Cảm giác như bị điện giật, Lỗ Nhất Khí suýt nữa đã chìm đắm trong cơn si mê bất tận không thể dứt ra. Song khi ý niệm tự nhiên xoay chuyển một vòng quanh trí não, cậu lập tức hiểu rõ rằng, mình phải "kích động trái tim" đến tận cùng, cho đến khi Dưỡng Quỷ Tỳ tỉnh lại. Cậu bèn đưa đầu lưỡi vào qua đôi môi hé mở của Dưỡng Quỷ Tỳ.

Cậu cảm thấy đầu lưỡi của Dưỡng Quỷ Tỳ khẽ run lên, chuyển động, rồi quấn riết vào lưỡi cậu.

Lỗ Nhất Khí mở choàng đôi mắt khép hờ, cậu đã nhìn thấy ánh mắt thẹn thùng nhưng rất đỗi vui tươi của Dưỡng Quỷ Tỳ. Đã tỉnh lại rồi!

Lỗ Nhất Khí vội vã rời khỏi đôi môi cô, nói gấp:

- Mau nghĩ cách khiến họ dừng lại!

Dưỡng Quỷ Tỳ lúc này mới choàng tỉnh khỏi trạng thái hổ thẹn và ngây ngất, vội quay đầu nhìn những người còn lại, rồi lại nhìn khoảng cách bước chân, lập tức nhận ra tình thế đã cực kỳ nguy cấp. Cô vội đưa tay kéo lấy dái tai của Viêm Hoá Lôi day bấm vài cái, rồi thổi đánh phù vào lỗ tai ông ta.

Chiêu này gọi là "quỷ kinh mộng", là chiêu pháp đánh thức người hôn mê mà chỉ những người nuôi ma mới biết. Viêm Hoá Lôi tỉnh lại, Quỷ Nhãn Tam tỉnh lại... lần lượt từng người đều được Dưỡng Quỷ Tỳ đánh thức đúng vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc.

Chương 11: Đường Âm Thế luận thắng thua

Sau khi tỉnh dậy, mọi người nhìn cảnh tượng xung quanh, bất giác mồ hôi lạnh rịn ra đẫm áo.

Mụ già lưng gập thở khẽ một tiếng dài, tiếng thở lập tức dập tắt phụt ngọn đuốc:

- Chiêu "quỷ kinh mộng" kia không có gì đặc biệt, song lấy chữ tình để kích động trái tim, quả thực ta không ngờ tới!

- Đúng vậy! Công phu của bà và tôi đều khiếm khuyết ở một chữ tình này! – Thiên táng sư cũng thốt lên đầy cảm khái.

- Biết làm sao được! Năm xưa lão chém giết tuyệt tình, khiến bao người buộc phải tuyệt tình, nhất định muốn lấy mạng sống của lão mới hả lòng hả dạ.

- Nhưng bà đã nhầm rồi! Năm xưa nếu bà không lấy trộm Bối phi tinh, không dứt tuyệt tình người, nhờ vào dung mạo và thủ đoạn của Bạch Ngọc Thiên Chức Nữ là bà, chưa biết chừng đã có thể giết chết tôi! - Giọng Thiên táng sư tràn đầy nuối tiếc.

- Khé khé khé! Lão già chết toi kia, đừng có ở đó mà ăn nói ba vạ! Khi đó ngươi đã sát tâm thành đao, đao hoà sát tâm, làm gì có chuyện bị dung mạo với tình cảm làm mê hoặc?

- Cho nên bà mới làm như thế? - Giọng nói của Thiên táng sư nghe có phần khổ sở.

- Ta còn cách nào nữa ư? Sử dụng Bối phi tinh buộc phải tuyệt tình đoạn ý, nếu không sẽ khiến tâm vương ở mạch cột sống, huyệt không thông suốt, chất độc của Bối phi tinh xâm nhập ngược vào cơ thể. - Mụ già lưng gập vẻ đầy oán hận.

- Nhưng bà vẫn chưa thể tận tuyệt, nếu không, đã không đến nỗi mặt như chết trôi, da như than cháy thế kia.

- Ta chỉ là nhất thời sơ suất, giết nhầm một gã đệ tử Đường môn bình thường đối xử với ta rất tốt, trong lòng chỉ hơi áy náy, đã khiến một chút độc tố tàn dư của Bối phi tinh theo mạch cột sống mà tan vào máu. Nhưng vậy cũng tốt, với bộ mặt này, sẽ chẳng ai thức dậy được tình cảm trong lòng ta, vô tình vô tính là cực độc! Ngay cả lão, lão già chết tiệt kia, có đủ bản lĩnh thắng nổi ta không? - Nhắc lại chuyện cũ, mụ già lưng gập lại càng trở nên lạnh lẽo, vô tình.

Hành vi thân mật giữa Lỗ Nhất Khí và Dưỡng Quỷ Tỳ đã khuấy động tâm tư của hai đại cao thủ tuyệt thế. Những lời qua lại dông dài giữa họ, Lỗ Nhất Khí rất chăm chú lắng nghe. Cậu hy vọng có thể tìm ra sơ hở, tìm ra cơ hội trốn thoát từ trong đó.

- Không! Nếu chỉ luận thắng thua, thì lão tiền bối Thiên táng sư đây hoàn toàn có thể thắng bà! - Lỗ Nhất Khí đột nhiên chen vào một câu, giọng nói không lớn, song khác nào tiếng sấm động bên tai Thiên táng sư và mụ già lưng gập.

- Ngươi nói gì? Thằng oắt con miệng còn hơi sữa kia, ngươi có tư cách gì mà bình luận chuyện thắng thua của bọn ta? Ăn nói bừa bãi, một phường hồ đồ! – Mụ già lưng gập giận dữ chửi bới ầm ĩ, song khí thế đã bớt mất mấy phần.

- Không thể nói như vậy được! Chưa chắc, khó nói... – Thiên táng sư không phải là khiêm tốn, mà thực sự không chắc chắn.

Song Lỗ Nhất Khí không phải là nói bừa, cậu có căn cứ, có suy luận. Những lời qua lại giữa Thiên táng sư và mụ già lưng gập khi nãy đã khiến cậu nhớ đến hai tờ giấy ố vàng nhàu nhĩ, là hai tờ giấy sợi bông Thuận Vũ Triển cũ kỹ ghi chép về một số phương pháp luyện công và chế tạo thiết bị quái dị. Khi đó, Lỗ Thịnh Hiếu cho rằng đó là công phu bàng môn tả đạo và phương pháp chế tạo nút chết tàn độc nên đã thiêu huỷ chúng đi. Có điều trước đó, Lỗ Nhất Khí đã kịp ghi nhớ nội dung chép trong đó.

Còn "Bối phi tinh", Lỗ Nhất Khí chưa từng nghe nói tới, song cậu nhớ ra trên hai tờ giấy đó có chép về "bắn bằng ba mươi sáu Canh tinh", là phương pháp dùng công lực võ học làm nền tảng, lấy ba mươi sáu huyệt ở dọc cột sống làm chốt lẫy để bắn ra độc tố giết người.

Ngoài ra, Lỗ Nhất Khí còn nhớ tới một công phu có tên là "Thiên ti chức". Công phu này dùng thứ găng tay đặc chế có ẩn giấu tơ độc dùng để tấn công sát hại đối thủ. Thứ tơ độc đó mỏng mảnh như tơ nhện, gần như không nhìn thấy, vê ngón tay là phóng ra, độc lực kinh người, người trúng độc lập tức độc phát mà chết. Người sử dụng nếu thủ pháp cao siêu, có thể đồng thời vê ra rất nhiều sợi tơ độc, phun ra tựa lưới giăng. Mụ già lưng gập kia năm xưa được mệnh danh là "Bạch Ngọc Thiên Chức Nữ", Lỗ Nhất Khí ngờ rằng hẳn có liên quan tới công phu độc địa đó.

- Bối phi tinh chỉ là chất độc, còn nút lẫy thực sự chính là cơ thể người, dùng các huyệt mạch trên cơ thể để bắn chất độc đi. - Lỗ Nhất Khí thăm dò.

- Nói chính xác hơn, thì Bối phi tinh là một thứ chất lỏng kịch độc. – Thiên táng sư không hiểu là vô tình hay cố ý gợi ý cho Lỗ Nhất Khí.

- Lão già chết toi, chớ nhiều lời, để hắn nói tiếp! Ta muốn xem hắn khua môi múa mép kiểu gì để quy phần thắng về một kẻ chỉ biết trò xẻ thịt như lão!

Lời nói của Thiên táng sư khiến Lỗ Nhất Khí vững tin hơn. Cậu bắt đầu nói dõng dạc:

- Xung quanh cột sống lưng của cơ thể người có ba mươi sáu huyệt đạo với miệng huyệt hướng ra phía ngoài, tục gọi là ba mươi sáu Canh tinh cột sống. Mỗi huyệt đều thông với mạch chính, chịu sự điều khiển của gân cơ tại sống lưng. Bối phi tinh chính là đưa dịch độc vào trong ba mươi sáu huyệt này, sau đó lợi dụng sức mạnh của gân cơ sống lưng khi cúi gập để bắn chất độc ra ngoài, thành dạng giọt, dạng tia hoặc dạng sương mù, người trúng độc sẽ chết tức khắc. Bối phi tinh là chất độc trấn môn của Đường môn, cũng là thứ độc đệ nhất thiên hạ. Bởi vậy, kẻ phun độc muốn tránh chất độc xâm nhập ngược vào cơ thể, cần phải sử dụng công phu "Sa đà diện"[11] để bịt kín tai mắt mũi miệng của mình lại. Sa đà diện tức là lợi dụng sức mạnh của cơ bắp, làm biến dạng hoặc thu nhỏ da thịt, cơ bắp trên mặt, đạt đến mục đích bảo vệ thất khiếu. Song tiền bối năm xưa bị thương ở mạch sống lưng, dịch độc Bối phi tinh trực tiếp xâm nhập vào cơ thể, bởi vậy không những lưng không thể thẳng, da đen như than, mà công phu Sa đà diện còn chưa kịp tản ra, đã bị sung huyết mà định hình.

- Thằng oắt ngươi quả thực hiểu biết cũng kha khá, nhưng nói năng rườm rà quá! Ta muốn ngươi nói xem, lão già chết toi kia tại sao có thể thắng ta? - Mụ già lưng gập vẫn ra vẻ hùng hổ, song khẩu khí đã yếu đi thấy rõ.

- Đừng nên nóng vội, nếu tôi không nói rõ nguyên do, làm sao khiến bà tâm phục khẩu phục được. Trước tiên, tôi phải nói rằng, dù là trước đây hay hiện tại, nếu như hai vị tiền bối quyết đấu thực sự, đều sẽ là cục diện cùng chết chứ không phải một sống một còn.

- Vậy sao ngươi còn nói lão sẽ thắng ta?

- Tiền bối nóng nảy quá! Tôi chỉ nói là ông ta có thể thắng bà, chứ không nói ông ta sẽ không mất mạng. - Lỗ Nhất Khí càng nói càng trơn tru thong thả, bởi lẽ mụ già lưng gập đã bị miệng lưỡi của cậu dắt mũi đi.

- Nói vậy là có ý gì? - Đến Thiên táng sư cũng không nén nổi tò mò, lớn giọng hỏi.

Lỗ Nhất Khí chưa vội nói ngay, mà đột nhiên ngồi thụp xuống ngay trước khảm diện Vô địa tự dung, rồi tiến hành quan sát theo phương pháp "đo bằng ngón tay" của Lỗ gia.

- Đừng giở trò mèo nữa, không nói được lý do tại sao lão già chết tiệt kia thắng ta thì đừng có nhiều lời, ta cũng chẳng muốn nghe! - Mụ già lưng gập tuy nói vậy, song rõ ràng đang có ý thúc giục.

- Nếu sau khi tôi nói ra, bà cũng cho là hợp lý, thì có thể nói cho tôi biết chân tướng của một sự việc không? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

- Đó là điều kiện ư? - Mụ già lưng gập hỏi.

- Cứ cho là vậy đi!

- Nói trước xem là việc gì, ta muốn cân nhắc hơn thiệt.

- Khảm diện Vô địa tự dung ở đây phải chăng đã đổi hình, có ẩn tàng chỗ khuyết? Trong khảm đã có chỗ dung thân?

- Ngươi đã nhìn ra hay chỉ là suy đoán?

- Vừa nhìn, vừa đoán. Nhìn bằng mắt trong tâm, đoán bằng tâm trong mắt.

- Xem ra ngươi đã khẳng định, còn hỏi ta làm gì?

- Chơi trò rút thăm, cũng là tỏ ý kính lão. Nếu nói ra nguyên do bà phải thua, lại vô duyên vô cớ phá vỡ khảm diện của bà, e rằng sẽ khiến bà mất bình tĩnh. Người già tuy không sợ ngượng, song sợ tức giận! - Lời Lỗ Nhất Khí trở nên cuồng ngạo, hoàn toàn trái ngược với phong cách bình thường của cậu.

- Khé khé khé! Được lắm, quả nhiên là ngông cuồng! Nếu điều kiện chỉ là như vậy, thì ta sẽ nói luôn cho ngươi biết. Đúng là đã đổi, trong khảm có chỗ đặt chân. Hôm nay ta không chỉ muốn nghe ngươi nói tại sao ta lại thua, mà còn muốn xem thử ngươi làm thế nào để phá "Vô địa tự dung" của ta.

- Giống như tôi nghĩ thôi! Khảm diện đã được bố trí, nếu không có cách giải, phải chăng tiền bối cũng sẽ không đi qua được?

- Bớt rườm lời đi! Ngươi nói xong chuyện thứ nhất rồi tính!

- Vậy tiền bối nghe kỹ đây! Bà thua là thua ở hình thể. Bối phi tinh là dùng huyệt sống lưng để bắn chất độc đi, khi vận dụng trong tấn công tàn sát, cần tới ba tư thế là gập lưng, nghiêng người và quay lưng về phía đối phương mới có thể phóng độc thành công. Đối với những đối thủ không biết rằng bà có mang Bối phi tinh trên người, nhìn thấy ba tư thế này sẽ nghĩ rằng bà sơ hở, nên vội vã chớp lấy thời cơ mà lọt vào phạm vi tàn sát của bà. Song với những cao thủ biết rõ bà có Bối phi tinh, nếu nhìn thấy bà sử ra tư thế đó, chỉ cần kịp thời né tránh, bà sẽ không làm gì được. Đây chính là khiếm khuyết khi ám khí trở thành minh khí. Năm xưa tiền bối bị thương, nên hình thể luôn ở trạng thái gập lưng tấn công, với hình thể đó, bà chỉ còn lại một tư thế tấn công duy nhất, mà không thể nghiêng người hay quay lưng. Do đó, ba mươi sáu huyệt sống lưng không thể bắn độc ra tất cả mọi hướng. - Lỗ Nhất Khí biết chỉ cần nói đến đây, với đầu óc của mụ già lưng gập, chắc hẳn cũng đã hiểu rõ.

- Ngươi cho rằng ta chỉ có sát khí Bối phi tinh ư?

- Chắc chắn là không! Song có thể gây tổn thương tới tiền bối Thiên táng sư, chỉ có Bối phi tinh.

- Ta không tin! Ngươi nói rõ cho ta! - Mụ già lưng gập gào lên điên dại, khiến mọi người nghe mà thần kinh co giật.

Phản ứng của mụ già lưng gập dữ dội hơn nhiều so với tưởng tượng của Lỗ Nhất Khí. Song sự việc đã tới nước này, cậu buộc phải nói tiếp.

- Với trạng thái lưng còng vuông góc của bà lúc này, dù có xoay chuyển linh hoạt đến đâu, vẫn sẽ có một hướng không bao giờ bắn tới được, đó là xuống dưới. Tiền bối Thiên táng sư chỉ cần thình lình lăn tròn trên đất ra dao, hoặc phi thân sát đất, đánh thẳng vào bụng ngực của bà, thì bà ứng chiêu thế nào?

Không ai nói câu nào. Mọi người đều mải mường tượng về chiêu thức đó trong đầu.

Lỗ Nhất Khí nói tiếp:

- Năm xưa bà được mệnh danh là Bạch Ngọc Thiên Chức Nữ, nếu tôi đoán không nhầm, có lẽ bà còn thành thạo một tuyệt kỹ khác, đó là Thiên ti chức. Mức độ độc địa của Thiên ti chức, trong giang hồ cũng hiếm người địch nổi. Song nếu như mỗi sợi tơ của Thiên ti chức đều cứng bền như tơ tằm lửa, thì sát chiêu của tiền bối Thiên táng sư tuy gần trong gang tấc, vẫn có hai khả năng thành bại. Nhưng tơ của bà dù cực độc, độ bền lại không bằng cả sợi bông, làm sao có thể ngăn cản được thế đao và lực đạo của Thiên táng sư.

- Nói như ngươi thì lẽ ra ta đã phải chết dưới tay lão lâu rồi? - Mụ già lưng gập lại trở nên bình tĩnh.

- Bà chỉ thua ông ta thôi, nhưng ông ta sẽ không giết bà, trừ khi bản thân ông ta muốn chết. Xuất đao trong cự ly gần như vậy, sau khi bà trúng đao, dù chết ngay lập tức hay bị trọng thương, thì độc tố ẩn chứa trong ba mươi sáu huyệt mạch sống lưng lập tức phá huyệt phun ra, lẫn vào huyết mạch, độc tố của Bối phi tinh sẽ bao trùm trong phạm vi vài trượng, nên ông ta cũng không có cơ hội thoát thân.

Lỗ Nhất Khí không phải người học võ, phân tích về chiêu thức sát phạt chưa hẳn đã chính xác tuyệt đối, cách mô tả về chiêu thức cũng không thực sinh động, song những người có mặt nghe xong đều không khỏi chấn động trong lòng, dường như tận mắt nhìn thấy cảnh tượng máu phun độc tán đầy chết chóc.

- Ta thua rồi, thua rồi... - Mụ già lưng gập cất giọng rầu rĩ, song đột nhiên lại gắng gượng ngẩng đầu lên - Bởi vậy, chỉ cần ta tiêu diệt được các ngươi, thì ta vẫn ngang sức ngang tài với lão?

- Hà tất phải thế! – Thiên táng sư buồn bã thở dài.

- Hà tất phải thế! - Giọng Lỗ Nhất Khí vẫn điềm tĩnh – Sao bà cứ nhất thiết phải phân tranh thắng bại với ông ta? Năm xưa ông ta dụ bà tới nơi này, là vì không muốn để cho người đời nhìn thấy bộ dạng của bà, sợ bà càng thêm khổ sở. Bản thân ông ta lại dành hơn nửa quãng đời còn lại để ở đây cùng bà, không rời nửa bước, đối đầu mà không đánh, đánh mà không giận, là vì sao? Trên đời này có bao nhiêu cặp vợ chồng thề non hẹn biển, song có mấy người làm được như vậy?

Lỗ Nhất Khí không hề hay biết về ý đồ thực sự của Thiên táng sư, chỉ là tự suy diễn theo quan điểm của một người đàn ông tốt.

- Ngươi nói rất đúng! Nhưng phân tích của ngươi về trận phân tranh thắng bại đã sai rồi, ta không thẳng nổi bà ấy! - Lời của Thiên táng sư khiến mọi người đều vô cùng kinh ngạc.

- Năm xưa ta chịu ân huệ của Chu gia, vì họ mà tàn sát tám môn phái lớn, biến giang hồ thành biển máu. Trong trận chiến với phái Không Động, ta đã ngộ sát hai người anh em của bà ấy đang làm khách trong phái. Bà ấy đã tìm cách lấy trộm Bối phi tinh để tìm ta báo thù. Hồi đó, nhìn thấy dung mạo của bà ấy, ta kinh ngạc ngỡ là tiên nữ giáng trần, lại thêm vì ta có lỗi trước, nên ngay từ đầu đã không định quyết đấu với bà ấy, lúc nào cũng trong tình trạng trốn chạy. Sau này, bà ấy bị cao thủ Đường môn đánh bị thương, do ta không tiện ra mặt, nên đã cầu xin cao thủ Chu gia cứu bà ấy ra. Đợi khi vết thương bình phục, ta lại dụ bà ấy tới đây. Bà ấy quả thực hết sức đáng thương, nên ta đã quyết định theo bà ấy suốt đời. Sát chiêu mà ngươi vừa nói, ta cũng sớm nghĩ ra. Song sau khi nghĩ ra chiêu này, để đề phòng ta sử chiêu một cách vô thức trong khi đối đầu với bà ấy, ta đã chọc đứt hai mạch bên thắt lưng, nên không thể cúi gập người thực hiện đao pháp lăn tròn trên đất được nữa. Bởi vậy, ta vẫn không thể thắng nổi bà ấy!

Hoá ra là như vậy. Thảo nào Thiên táng sư luôn di chuyển trong tư thế thân người dựng đứng, lướt đi như một bóng ma. Mọi người đều không thể ngờ rằng hai cao thủ tàn ác tà độc nức tiếng kia lại có một chuyện tình éo le đến vậy, bất giác cảm khái trong lòng. Mụ già lưng gập cũng lặng đi không nói, dường như có điều xúc động trong lòng.

- Bà ấy rất đáng thương, song ông còn đáng thương hơn nữa! - Lỗ Nhất Khí thở dài một tiếng, sau đó quay về phía mụ già lưng gập – Bà mặt đối mặt với ông ấy ở đây hơn nửa cuộc đời, lẽ nào không có một chút động lòng ư?

- Đừng nói nữa! – Bà già góc vuông và Thiên táng sư đồng thanh kêu lên, chặn họng Lỗ Nhất Khí.

Giọng nói của mụ già lưng gập yếu ớt đến quái dị, như thể mặc bệnh đột ngột.

- Bà sao thế? – Trong giọng nói ông ổng của Thiên táng sư lộ rõ vẻ lo lắng – Có phải vừa nãy đã ngấm ngầm vận Bối phi tinh không?

- Đúng vậy! Lão già chết tiệt! Quân đồ tể! Lần này lão đắc ý lắm phải không? Chỉ mấy câu đã đủ giết chết ta rồi! - Mụ già lưng gập hạ thấp giọng chửi rủa, song không thấy có vẻ tức tối hay căm phẫn.

- Biết làm thế nào bây giờ! Suốt nhiều năm qua tôi luôn chửi rủa, mắng nhiếc bà, nhưng chưa bao giờ dám nói ra tâm sự trong lòng, vì sợ bà khi vận Bối phi tinh lại bị tình cảm níu kéo, khiến độc tố không kiểm soát nổi mà chạy ngược vào cơ thể. Hôm nay tình cảm khó nén, nhất thời buột miệng lỡ nói ra vài câu, lại gây ra tội lỗi rồi. Biết làm thế nào bây giờ? – Thiên táng sư bộ dạng cuống quýt, hoàn toàn đánh mất vẻ điềm tĩnh cần có của một cao thủ.

- Phải rồi! Giết chết bọn chúng! Chất độc của Bối phi tinh đã vận ra là không thể thu lại, cần phải phóng vào cơ thể sống mới không chạy ngược vào người. Bà dùng độc giết chết bọn chúng sẽ bình yên vô sự! – Thiên táng sư đã kịp bình tĩnh trở lại, giọng nói thoắt trở nên lạnh lùng tàn khốc – Tôi chắn ở đây, bọn chúng đã không còn đường rút. Bà hãy mở khảm diện rồi đi qua đây, dùng độc giết chết chúng đi. Mau lên!

- Lão già chết tiệt, đồ mặt dày không biết xấu hổ! Đừng tỏ ra quá tốt với ta, lão muốn ta chết ngay tức khắc hay sao. Hãy để ta lấy lại hơi, ổn định dịch độc trong huyệt, mới có thể mở khảm mà qua được!

Thiên táng sư không nói gì nữa, song luồng khí chết chóc vô hình chớp mắt đã cuồn cuộn tuôn trào, khiến mọi người ngột ngạt như muốn tắc thở.

Lỗ Nhất Khí ban đầu định khiêu khích để hai cao thủ tàn sát lẫn nhau, sau lại muốn khơi dậy tình cảm để họ không tàn sát nữa. Song cậu không thể ngờ được rằng đến cuối cùng lại thành ra hai cao thủ tuyệt thế hợp lực tàn sát phía mình.

Lão Lợi, Dương Tiểu Đao và Niên Thiết Cao đồng loạt xông về phía Thiên táng sư. Họ đã luận đao cùng Thiên táng sư, nên biết lão ta chưa chắc đã thắng nổi ba người họ. Song lần này không phải là cản giết thông thường, càng không phải là luận đao, mà là liên quan tới sự sống chết của một người mà lão đã che chở suốt hơn nửa quãng đời. Bởi vậy tuy Thiên táng sư hai tay trống không, song không lùi mà tiến, cơ thể hệt như một lưỡi đao sắc nhọn chém vào giữa ba người.

Hơi thở của mụ già lưng gập cũng đã hồi phục. Mụ ta từ từ bước tới một bên vách đá, moi móc cái gì đó ở dưới chân vách. Nhìn vào độ dài của toàn bộ khảm diện có thể phán đoán đây có lẽ là chốt lẫy của nút thứ ba trong khảm diện Vô địa tự dung.

Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi ngạc nhiên. Căn cứ theo nguyên lý của khảm diện Vô địa tự dung, đoạn khảm thứ ba dù là dùng mũi dùi nhọn hay đá, đều phải tiến hành tấn công từ phía trên mới đúng. Hơn nữa, để đảm bảo cho nút lẫy hoạt động ổn định, tổng huyền và chốt lẫy đều không nên cách nút quá xa, cũng hạn chế thiết kế ở phía dưới cùng, để đề phòng trong quá trình tấn công, nút sẽ gây tổn hại tới tổng huyền và chốt lẫy phía dưới, dẫn tới nút lẫy không thể bung ra hoàn toàn.

Mụ già lưng gập bắt đầu bước một cách chậm rãi và thận trọng sang bên này. Tuy bước đi rất ngắn, song lên xuống rõ ràng, tiếp đất dứt khoát không rề rà, dường như muốn giẫm chắc thứ gì xuống thật nhanh.

- Nhớ kỹ phương vị bước chân của bà ta, xem thử có quy luật gì không? - Lỗ Nhất Khí thì thầm với Quỷ Nhãn Tam. Song từ trước khi cậu nói, Quỷ Nhãn Tam và Hạ Táo Hoa đã âm thầm quan sát và ghi nhớ lại.

Thiên táng sư và đám lão Lợi vẫn chưa giao thủ. Tuy đám lão Lợi đã ghi nhớ nằm lòng những lời luận đao của Thiên táng sư, song đó chỉ là lý thuyết. Còn cách xuất chiêu cụ thể ra sao, phối hợp như thế nào, họ lại không biết. Thiên táng sư cũng không có ý định giết họ, chỉ là chặn đường rút lui đợi mụ già lưng gập kia tới giết.

Rất nhanh, mụ già lưng gập đã tới chính giữa khảm diện. Song mụ ta đột ngột khựng lại.

Có tiếng vó ngựa vẳng lại theo vách đá, tiếng móng gõ giòn giã trong vang.

Chú thích

[11] Có nghĩa là mặt sần sùi.

Chương 12: Khó dừng bước

Có ngựa đang leo lên núi Quy Giới từ đường Vọng Dương ư? Bên đó súc vật bình thường khó mà lên được! – Thiên táng sư rõ ràng vô cùng kinh ngạc.

- Nghe tiếng gõ móng, là móng "trại dương"[12] do Mặc gia sáng chế, có thể giúp ngựa leo trèo trên vách đá giống như linh dương! – Lão mù nãy giờ im như thóc, cuối cùng đã lên tiếng.

- Quân chi viện của Mặc môn đã tới? Chẳng phải họ đang đợi chúng ta ở dưới chân núi Thiên Thê ư? - Hạ Táo Hoa không vội khinh suất phán đoán lai lịch của người tới chỉ dựa vào tiếng vó ngựa.

Ánh hoàng hôn le lói cuối con đường canh Âm Thế bỗng chốc bị che lấp bởi một khối đen to lớn. Trong tiếng vó ngựa giòn giã, có tiếng người hô lên:

- Lập Nghiễn Trì đã tới, phía trước có phải nhà Ngư Thủ không?

"Lập Nghiễn Trì" ám chỉ Mặc gia, còn "nhà Ngư Thủ"[13] ám chỉ Lỗ gia. Lưu Chi Thủ biết bản thân đã xông vào một nơi cực kỳ hiểm ác, tuỳ tiện xuất đầu lộ diện là rất nguy hiểm, nên đã dùng ám ngữ.

- Một vạch của nhà Ngư Thủ đang bị chặn ở đây, mau tới tiếp ứng một tay! - Hạ Táo Hoa cũng dùng ám ngữ đáp trả lời, "một vạch của nhà Ngư Thủ" chính là ám chỉ môn trưởng của Lỗ gia.

Lưu Chi Thủ vừa nghe vậy, lập tức vọt ngựa lên đầu xông thẳng vào trong.

- Cẩn thận, có độc có nút, dừng lại! - Lỗ Nhất Khí không ngờ người vừa tới lại hành sự quá đường đột, vội vã cảnh báo.

Lỗ Nhất Khí vừa lên tiếng, mụ già lưng gập đột nhiên bay lướt trở lại, chớp mắt đã trở về đúng vị trí vừa đứng bên ngoài khảm diện. Rồi xoay lưng về phía đám người ngựa đang lao tới, im lìm bất động, như thể đã hoá đá.

Lưu Chi Thủ dẫn đầu nghe Lỗ Nhất Khí nói vậy, lại nhìn thấy một thân hình quái đản đột ngột bay vọt lên, lập tức tung người nhảy vọt lên cao, bị đẩy văng lên trên khảm diện theo quán tính ngựa phi. Hắn xoạc rộng hai chân, tì vào chỗ hẹp nhất ở hai bên vách đá, cố gắng ổn định cơ thể ở trên cao.

Ngựa của Lưu Chi Thủ đã khựng lại ngay phía trước thân hình gập đôi chừng một bước, như thể bị đóng băng trong chớp mắt. Ngay sau đó, đám người ngựa ngay phía sau cũng đồng loạt dừng lại, tựa như bị trúng tà. Chỉ có hai người cuối cùng có lẽ đã nghe thấy lời cảnh báo của Lỗ Nhất Khí, kịp thời ghìm ngựa lại.

- Hắc Oa, hai người lùi lại mau! Là chất độc Bối phi tinh, trúng phải sẽ lập tức đông máu mà chết. Độc xuyên trăm người, tính không hề giảm! – So với Lỗ gia, kiến thức giang hồ của Mặc gia phong phú hơn rất nhiều. Bối phi tinh vừa xuất hiện, Lưu Chi Thủ đã nhận ra ngay.

- Ha ha! Tốt quá, tốt quá, lại có kẻ tự dẫn xác tới, độc trong người bà đã truyền được sang người sống rồi! – Thiên táng sư vỗ tay đôm đốp, cười nói hớn hở, rồi lập tức lùi lại phía sau, trở về vị trí ban đầu.

Đám lão Lợi thở phào một hơi dài, lúc này bọn họ đã mồ hôi lạnh đẫm lưng, chảy thành vệt ròng ròng suốt từ cổ tới cạp quần.

- Này, thằng oắt họ Lỗ kia, ngươi kể ra cũng thật tốt số! Ở nơi này rồi mà vẫn còn có kẻ tới chết thay! - Mụ già lưng gập vừa nói vừa bước tới bên cạnh xác chết, áp sát đỉnh đầu trọc lốc vào cái xác.

- Đây là mệnh môn hồi độc, để thu lại dịch độc vừa bắn ra! - Hạ Táo Hoa nói khẽ với Lỗ Nhất Khí.

Xác chết bị hút lấy chất độc, không còn cương cứng nữa, lần lượt nhũn ra ngã sụp xuống đất.

- Ta liều mạng với mụ! - Hắc Oa và một đệ tử Mặc gia còn lại cùng gầm lên thật lớn, cùng xông bừa lên.

- Đứng lại! - Lỗ Nhất Khí không muốn lại có thêm người bị thương vong, buột miệng hét lên. Tuy giọng nói không to, song hai người kia lập tức dừng lại.

Mụ già lưng gập xoay người lại, đưa cặp mắt dò xét nhìn Lỗ Nhất Khí một hồi lâu, rồi than thở:

- Ta không tìm thấy một điểm sơ hở nào trên người ngươi. Khí tướng của ngươi tựa như một tảng đá tròn trơn bóng, nhu hoà tự nhiên, song khi cần thiết lại có thể ra đòn trí mạng cho đối thủ. Hơn nữa, ngươi còn có linh tính phi phàm, nhìn một biết mười, nhìn mặt biết tâm. Chỉ vài lời mà đã chỉ rõ mọi điều uẩn khúc và tâm tư của bọn ta. Nếu không có ngươi, e rằng cả đời này ta cũng không được nghe lão già chết tiệt kia nói được vài câu ra hồn người. Niệm đến điểm này, đáng lẽ ta nên thả các ngươi đi. Song việc Chu gia uỷ thác, ta lại không thể không làm. Thế này đi, chẳng phải ngươi đủ tự tin phá giải Vô địa tự dung của ta ư? Vừa rồi ta đã tự tháo một nút, đi thêm nửa nút, bây giờ để lại cho các ngươi một nút rưỡi. Là sống hay chết, hoàn toàn dựa vào bản lĩnh và số mệnh của ngươi!

- Phải đấy! Ngần này tuổi đầu rồi, hà tất còn chấp nhặt chuyện thắng thua. Tôi cũng đi đây! Đợi hôm nào rảnh rỗi, lại tới nghe bà kể mấy chuyện ỡm ờ không biết thẹn mặt! – Thiên táng sư lời còn chưa dứt, thân hình đã vùn vụt lướt đi.

- Lão già chết toi chết giẫm! Nghịch đao phạt luôn cả cái giống ác thối tha của lão đi! Mau về mà tự vằm mình thành thịt vụn đi mớm cho bầy ông nội của lão xực hết cho rồi... - Mụ già lưng gập cất lời chửi rủa cay độc, thân hình lắc một cái đã biến mất tăm, không biết đi bằng cách nào, cũng không biết đã đi về đâu.

Không còn nghe thấy tiếng chửi rủa nữa, bốn về thoắt đã im ắng rợn người, chỉ còn thi thoảng nghe thấy tiếng móng ngựa của Hắc Oa và gã đệ tử Mặc môn gõ lốc cốc xuống mặt đường.

- Vị nào là môn trưởng Lỗ gia? – Lưu Chi Thủ vẫn xoạc chân gác trên vách đá cao hỏi vọng xuống. Khảm nút chưa được phá giải, hắn không thể xuống được.

- Trăm nghiền nghìn đập rắn như vàng, đỏ nhuận mài ra thật mỡ màng. - Lỗ Nhất Khí cất giọng rành rọt đọc ra ám hiệu liên lạc mà Mạc Thiên Quy đã truyền lại cho cậu.

- Nhỏ trên vải lụa tươi hơn ráng, phê viết khuyên tô sách ngàn trang. – Lưu Chi Thủ đáp lời. Toàn bộ bài thơ miêu tả về mực, cũng chính là một chữ "Mặc".

- Tại hạ Lỗ Nhất Khí, nhận sự uỷ thác của tiền bối Mặc môn Mạc Thiên Quy, đi về phía tây quật bảo bối trấn hung huyệt.

- Mặc môn Lưu Chi Thủ, sau khi nhận được thư bồ câu của sư phụ, đã chờ đợi nghe ngóng suốt nhiều ngày qua. Hai hôm nay thấy giang hồ biến động, khắp dải hồ Tiên Tề máu tanh bốc đến tận trời, đoán rằng hẳn có liên quan tới Lỗ môn trưởng, nên dẫn người tới đây tiếp ứng.

- Vô cùng cảm tạ Lưu huynh. Trước mắt Lưu huynh hãy gắng bám trụ ở trên đó, đợi giải nốt một nút rưỡi còn lại mới có thể xuống được.

- Môn trưởng cứ yên tâm động thủ, không phải để ý đến tôi. Nếu cần tới tôi, cứ nói một tiếng!

Tuy chỉ còn lại một nút rưỡi, song muốn phá giải lại không phải chuyện dễ dàng. Vô địa tự dung ở đây đã không còn là khảm diện tuyệt sát không có đường đi, điều này kỳ thực càng tăng thêm độ khó cho việc phá giải. Bố trí của khảm tuyệt sát chỉ cần đưa nút lẫy chết xếp kín vào từng điểm, từng chỗ, sao cho kín kẽ đến độ giọt nước không qua, sẽ thành tuyệt sát. Khảm tuyệt sát lúc này đã đổi thành khảm bán sát, tức là bên trong có bố trí chỗ khuyết, có đường sống. Như vậy, cách thiết kế khảm nút sẽ phải tinh xảo hơn gấp nhiều lần, độ biến hoá cũng tầng tầng lớp lớp, phức tạp khó lường, về điểm này khảm tuyệt sát không thể nào bì kịp.

- Có nhớ vừa rồi mụ già đó đi như thế nào không? - Lỗ Nhất Khí hỏi Quỷ Nhãn Tam. Trong bóng tối dày đặc, chỉ có hắn là nhìn rõ nhất cách đi của mụ già lưng gập.

- Nhìn rõ rồi, không có quy luật! - Quỷ Nhãn Tam không thể nhớ hết toàn bộ các bước đi.

- Không đúng! Bước đi có quy luật, chỉ có điều mụ già kia chưa đi hết một vòng tuần hoàn! - Hạ Táo Hoa cũng đã quan sát kỹ càng, hiểu biết của cô ta xem ra hơn hẳn Quỷ Nhãn Tam.

- Bà ta đã đi được nửa đường rồi, thế mà đến một vòng tuần hoàn cũng không thấy xuất hiện. Hay là toàn bộ khảm diện này mới là một vòng bộ pháp? - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm trong miệng, như là tự nhủ với chính mình.

- Đúng vậy! - Hạ Táo Hoa khẳng định, song không nói rõ là bộ pháp thế nào, chỉ đưa mắt liếc sang Dưỡng Quỷ Tỳ. Cô đang muốn ngấm ngầm so tài với Dưỡng Quỷ Tỳ.

- Từ bên đó sang bên này, đại thể cần đi hơn bốn mươi bước. Cục tướng có nhiều bước chân như vậy rất ít, như "Thiên can địa chi", hay "Bốn mùa bảy mươi hai tiết khí". Song hai cách cục này có bố cục phân tán và vòng tròn, không thích hợp với nơi đây. Còn có "Độc số cửu cung" và "Tứ phương tinh tú", song "Tứ phương tinh tú" mỗi phương có hai mươi tám chòm sao, số bước quá nhiều.

- Không nhiều! Mụ ta tới giữa khảm diện đã bước năm mươi sáu bước. – Tuy Quỷ Nhãn Tam tuy không rõ bộ pháp, song đã nhớ kỹ số bước.

- Thế ư? Nếu là vậy, bố cục nhiều khả năng nhất chính là đi theo bộ số "Thiên Địa song Canh". - Lỗ Nhất Khí vẫn phủ định bộ pháp "Tứ phương tinh tú".

- Tại sao lại không phải là "Tứ phương tinh tú"? Cách sắp xếp của "Tứ phương tinh tú" không chỉ có một! - Lỗ Nhất Khí không hỏi Hạ Táo Hoa, song cô ta đã nôn nóng cướp lời hỏi lại.

Lỗ Nhất Khí cười mà nói:

- May mà có cô nhắc nhở. "Tứ phương tinh tú" có ba cách sắp xếp, thường gặp nhất là hai loại Thiên pháp và Phong thần pháp. Thiên pháp là phương pháp sắp xếp dựa theo vị trí thực tế của tinh tú trên trời. Còn Phong thần pháp là phương pháp sắp xếp theo vị trí phong thần của tinh tú. Ngoài ra còn có loại thứ ba là Củng thọ pháp, là phương pháp sắp xếp theo kiểu các tinh tú cùng bái chúc Vương Mẫu vạn thọ. Nếu ở đây đúng là "Tứ phương tinh tú", chắc chắn là loại thứ ba. Bởi lẽ người được bái là Tây Thiên Vương Mẫu, trong khi nơi này là điểm cực tây, người bố trí khảm diện lại là một bà lão.

- Anh thông minh quá đi mất! - Giọng Hạ Táo Hoa hệt như vợ tán dương chồng.

- Tôi muốn nhờ cô một việc! - Lỗ Nhất Khí hạ giọng thì thầm với Hạ Táo Hoa.

- Anh cũng có việc phải nhờ em ư? Việc gì thế? Anh nói đi! - Hạ Táo Hoa hơi bất ngờ, nên thoáng chút bối rối.

- Tôi không biết phương pháp sắp xếp của "Tứ phương tinh tú" loại thứ ba như thế nào?

Lỗ Nhất Khí không nói dối, vì đây quả thực là một phương thức bố trí hết sức bàng môn. Song có câu biết thì không khó, khó thì không biết, sau khi Hạ Táo Hoa nói qua về nguyên lý sắp xếp đại khái của "Tứ phương tinh tú", những người hiểu về khảm diện đều đã ngộ ra.

- Hay là để tôi đi trước, mọi người theo sau! - Hạ Táo Hoa chủ động đòi đi đầu tiên.

- Khoan đã! - Lỗ Nhất Khí ngăn cô lại.

- Sao thế?

- Tôi cảm thấy không đơn giản như vậy!

- Không sai đâu, chắc chắn là bộ pháp này! Trừ phi cố tình sắp xếp lệch đi. - Hạ Táo Hoa khẳng định.

- Chuyện sắp lệch vị trí thì không có, có điều, liệu có khả năng đảo lộn vị trí không?

- Em thấy anh có vẻ phức tạp hoá vấn đề rồi. Cách sắp xếp này đến anh còn không biết, thì mụ già kia việc quái gì phải bày vẽ thêm thắt gì nữa! - Hạ Táo Hoa khăng khăng tranh cãi đến cùng.

- Tuy là như vậy, song tôi vẫn cảm thấy không ổn, hơn nữa tư thế bước đi của mụ ta khi nãy trông rất kỳ quặc. - Lỗ Nhất Khí vẫn chưa bỏ được mối ngờ vực trong lòng.

- Cậu cả Lỗ gia nói đúng đấy. Kẻ xuất thân từ Đường môn tâm địa nham hiểm độc ác, cẩn thận vẫn hơn! – Viêm Hoá Lôi ngày càng tỏ ra đồng tình với Lỗ Nhất Khí.

Lưu Chi Thủ đang lơ lửng trên cao bỗng xen ngang một câu:

- Mụ già kia bước nào cũng kỳ quặc, hay chỉ thi thoảng mới có vài bước kỳ quặc? Nếu tất cả mọi bước đều kỳ quặc, có thể nhận biết chân tướng từ vị trí xuất phát của khảm diện.

- Mọi bước đều giống nhau! - Quỷ Nhãn Tam trả lời.

- Vậy thì có thể nhận biết chân tướng bằng phương pháp "đỡ tay gạt lớp".

Nghe Lưu Chi Thủ nói vậy, đám người bên dưới đều ngẩn người ra, chẳng ai biết được "đỡ tay gạt lớp" là gì. Lưu Chi Thủ cũng lập tức ý thức được rằng, thuật ngữ của Mặc gia, người Lỗ gia chưa chắc đã hiểu, bèn vội vàng giải thích:

- Tức là người đứng bên ngoài khảm, tìm ra chính xác vị trí hai bước đầu tiên. Sau đó vạch bới đất cát, kiểm tra xem chỗ giẫm chân có gì bất thường hay không. Khi kiểm tra, lấy một tấm ván cứng bằng phẳng đỡ dưới cánh tay, đề phòng động chạm đến nút khiến lẫy bật mũi nhọn phóng lên. Lại dùng đá bảo vệ quanh chân, đề phòng khảm nút vươn ra tận bên ngoài.

Không cần Lỗ Nhất Khí phân công, Quỷ Nhãn Tam, Dương Tiểu Đao đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ. Quỷ Nhãn Tam rút từ bắp chân ra một con dao nhỏ thường dùng để cắt lẫy khi trộm mộ, ngồi thụp xuống phía sau phiến đá, vươn tay tới vị trí bước đầu tiên. Lão Lợi đứng ở phía sau Quỷ Nhãn Tam, đao đầu quỷ xoay ngang, kê xuống bên dưới cánh tay cho Quỷ Nhãn Tam.

Vừa lật lên phiến đá đầu tiên, đã nhìn thấy huyền cơ ẩn giấu phía dưới.

- Có cái que! - Quỷ Nhãn Tam kêu lên.

- Để tôi xem! - Lỗ Nhất Khí bước lên phía trước. Song Quỷ Nhãn Tam vẫn quan sát kỹ lưỡng thêm một lúc, chắc chắn không có nguy hiểm gì mới nhường lại vị trí cho cậu.

Lỗ Nhất Khí lôi hòn đá huỳnh quang Ba Tư ra, quan sát cẩn thận. Đó là một cọng que bình thường, hơi cong một chút, song một đầu có một sợi cước bạc buộc quanh, còn sợi cước kéo dài tới đâu lại không rõ. Tiếp đó, Lỗ Nhất Khí lại quan sát kỹ lưỡng mặt đường xung quanh, song không thể tìm ra một cọng gai độc như trong dự đoán.

- Vô địa tự dung sao lại không có gai nhỉ? - Lỗ Nhất Khí tự hỏi trong lòng.

- Có chốt lẫy không? – Lưu Chi Thủ biết rằng họ đã phát hiện ra thứ gì đó.

- Có, nhưng chỉ thấy chốt lẫy, không thấy nút! - Lỗ Nhất Khí trả lời.

- Chốt lẫy có thể ẩn giấu, nút lại càng có thể ẩn giấu. Chốt lẫy động, nút mới xuất hiện. – Lưu Chi Thủ nói.

Nghe Lưu Chi Thủ nói vậy, những lộ số trong "Ban kinh" và huyền lý của "Cơ xảo tập" bỗng thay nhau hiện lên trong trí não Lỗ Nhất Khí, tựa như vô số nhát dao đang tiến hành giải phẫu cọng que, sợi cước và các phiến đá trước mặt cậu thành các bộ phận với đủ kích cỡ lớn nhỏ khác nhau, rồi tiếp tục mở ra, trải rộng...

- Tôi biết rồi! - Lỗ Nhất Khí vừa nói vừa từ từ đứng dậy – Tuy có chỗ khuyết, đường sống, song chỗ khuyết lại có lẫy. Bà già kia vẫn cố gắng hết sức để khảm diện phù hợp với tên gọi "Vô địa tự dung", nên mỗi bước đi đều nối liền với dây lẫy. Kỳ thực nếu chỉ mắc dây lẫy vào một, hai bước, sẽ càng kín đáo khó phát hiện hơn.

- Anh đang lẩm bẩm cái gì thế? Nói em nghe xem nào. - Hạ Táo Hoa nghe chẳng hiểu gì, nôn nóng hỏi lại.

- Đây là nút di chuyển vị trí. Giẫm vào đầu mút phía trước hoặc đoạn giữa của cọng que uốn cong, sẽ khiến cọng que bị đẩy về phía sau, làm cho sợi cước cũng bị kéo ra phía sau, chốt lẫy sẽ hoạt động.

- Hoạt động rồi sẽ ra sao? – Dương Tiểu Đao vẫn chưa nhìn ra được vấn đề.

- Khảm diện này đáng lẽ phải giăng đầy gai độc, song thực tế lại không hề nhìn thấy một cọng nào. Nhưng nếu như chốt lẫy hoạt động, gai độc sẽ đồng loạt bắn ra hoặc dựng đứng lên, đâm chết người giẫm khảm. Mụ già kia đã thiết kế những chốt lẫy như vậy trên mỗi một bước đi của mình.

Niên Thiết Cao đưa chân ra so qua so lại trên vị trí giẫm chân, rồi quay đầu lại hỏi:

- Với vị trí giẫm chân chỉ to bằng ngần này, kiểu gì cũng phải giẫm lên cọng que, thế thì có khác gì với khảm diện không có chỗ khuyết?

- Ngốc nghếch vừa thôi! Nếu không có chỗ khuyết, mụ già đen như than kia làm sao đi qua được? – Dương Tiểu Đao chụp được sai lầm của Niên Thiết Cao, tỏ ra rất khoái chí.

- Mấu chốt là ở phương pháp giẫm chân. Khi bàn chân giẫm lên cọng que, trước tiên phải giẫm thật chắc lên đầu mút phía sau sẽ không hề hấn gì.

- Ồ, thảo nào mụ già bước đi trông thật quái dị, té ra là tìm điểm giẫm chân. – Dương Tiểu Đao cuối cùng đã hiểu ra.

- Vậy chúng ta phải hạ gót chân xuống trước, giẫm chắc lấy đầu mút phía sau của cọng que! - Hạ Táo Hoa nói đoạn, xăm xăm định bước đi luôn.

- Không được! - Lỗ Nhất Khí lại chặn cô ta lại! – Gót chân hạ xuống quá nặng, phần sau mắt cá lại quá gần với đất, không ổn!

- Thế ý của anh là chúng ta sẽ đi giật lùi ư? Phải rồi, mụ già kia đi thẳng tới đây, có lẽ chúng ta nên giữ đúng theo hướng đó. - Hạ Táo Hoa nhanh chóng hiểu ra.

- Tôi đi trước. Nếu không sao mọi người hãy đi! - Quỷ Nhãn Tam điềm đạm nói.

Quỷ Nhãn Tam đã thay đổi rất nhiều. Khi ở Bắc Bình, hắn vẫn rất sợ chết. Tam canh hàn đẻ trứng vào cơ thể, hắn coi như đã chết một lần. Bị điện giật ở Mắt Cá Dương, lại chết thêm một lần nữa. Có điều sau này khi Dịch Huyệt Mạch khám cho hắn, thấy trứng tam canh hàn vẫn chưa phát tác, rất có thể đã bị điện giật chết từ trước đó. Sau chuyến đi tới vùng Đông Bắc, hắn coi như đã chết hoàn toàn, đến bộ dạng cũng chẳng khác gì ma quỷ. Song bộ dạng bây giờ cũng khiến hắn trở nên thờ ơ với sinh mệnh của mình, hiểm nguy nào cũng xung phong đi trước.

Lỗ Nhất Khí không từ chối yêu cầu của Quỷ Nhãn Tam. Bởi lẽ đây mới chỉ là một nửa nút. Cậu cần một người có thể quan sát mọi vật trong bóng tối bước đến giữa khảm, để quan sát tình trạng của nút còn lại. Mụ già lưng gập kia mới đi được một nửa đã đột ngột dừng lại, Lỗ Nhất Khí đã tính toán rất kỹ lưỡng, thời điểm dừng lại là trước khi tiếng vó ngựa của đám Lưu Chi Thủ vang lên. Vậy thì khả năng lớn nhất chính là mụ ta dừng lại để chuẩn bị tháo bỏ chốt lẫy của nút thứ hai.

Chú thích

[12] Có nghĩa là sánh ngang linh dương, tức loài dê núi leo trèo rất giỏi.

[13] "Lập nghiễn trì" tức đứng cạnh nghiên, ám chỉ mực, tức "Mặc" trong tiếng Hán. "Ngư thủ" là đầu cá, nửa trên đầu của chữ "Lỗ" (魯) là chữ "Ngư" (魚).

Chương 13: Tìm mối cắt

Nghề trộm mộ của Quỷ Nhãn Tam vốn phải thường xuyên tiếp xúc với các loại ám khí cạm bẫy, hơn nữa, hắn còn học được kỹ nghệ Phô thạch của Lỗ gia, bởi vậy vượt qua khảm diện hình đường đi như thế này không phải quá khó khăn với hắn. Hơn nữa còn có Hạ Táo Hoa có thể giúp hắn tìm ra vị trí chính xác.

- Mỗi một bước đều phải xác định chắc chắn không còn có dây, lẫy nào khác mới được hạ chân xuống! - Lỗ Nhất Khí vẫn vô cùng lo lắng.

Đã đi hết năm mươi sáu bước mà không hề có bất kỳ động tĩnh gì. Mà nửa đoạn đường còn lại, mụ già lưng gập đã đi qua, bởi vậy Quỷ Nhãn Tam rất thoải mái chuẩn bị bước lên bước thứ năm mươi bảy.

- Dừng lại! Trước hết hãy xem kỹ xung quanh có chốt lẫy ngầm nào nữa không? – May mà Lỗ Nhất Khí đã kịp thời ngăn cản, nên Quỷ Nhãn Tam lập tức khựng lại ngay đơ trong tư thế mũi chân chạm đất, chứ không phải cả lòng bàn chân tiếp đất.

- Sao thế? Giẫm phải phân à? – Dương Tiểu Đao cao giọng hỏi.

- Giẫm vào lông ngươi ấy! - Quỷ Nhãn Tam chửi trả Dương Tiểu Đao.

- Có mấy sợi? - Lỗ Nhất Khí bất ngờ đưa ra câu hỏi, chẳng lẽ lại giẫm lên dây lẫy thật ư?

- Nhìn qua là một, thực chất là ba dây quấn vào nhau. - Quỷ Nhãn Tam trả lời.

- Hai giả một thật. Chỉ khi cắt đứt dây thật, lực tác động của chốt lẫy tổng mới có thể buông chùng. Dây giả không được cắt, chắc chắn sẽ nối liền với chốt khởi động, nếu cắt đứt, toàn bộ khảm diện sẽ hoạt động! - Hạ Táo Hoa mỗi khi phân tích về khảm diện thường không cần suy nghĩ nhiều.

- Vậy có thể cắt đứt đồng thời cả ba sợi không? – Dương Tiểu Đao lại hỏi.

- Dây giả nhiều hơn dây thật một sợi, mục đích là để không thể cùng cắt một lượt. Hai sợi giả mắc với chốt lẫy đảo ngược, cùng cắt đứt thì sẽ phá vỡ thế cân bằng qua lại, cũng có thể khiến nút giết hoạt động.

- Giẫm hẳn xuống chưa? - Lỗ Nhất Khí quan tâm hơn tới sự an nguy của Quỷ Nhãn Tam.

- Chưa giẫm hẳn, tì dưới bàn chân. - Quỷ Nhãn Tam trả lời.

Lỗ Nhất Khí bất giác chau tít đôi mày. Trong tình trạng này, dây của chốt lẫy sẽ khó phân biệt thật giả nhất, bởi lẽ dây kéo trong trạng thái chịu lực một nửa sẽ liên tục rung động. Nếu lại tì bên dưới cơ thể con người, thì sự rung động còn chịu ảnh hưởng của hô hấp và nhịp tim.

- Nút này không dễ giải, hay là tìm lấy thứ gì thế chỗ cho Quỷ Nhãn Tam trước đã! - Nếu như so sánh, thì việc đưa Quỷ Nhãn Tam ra vẫn dễ dàng hơn, chỉ cần dùng vật có trọng lượng tương đương tì lên dây lẫy thay thế cho chân hắn.

- Chú Nghê Tam, chú áng chừng thử xem lực đạo dưới bàn chân nặng khoảng bao nhiêu? - Hạ Táo Hoa hiểu rõ nên làm như thế nào.

- Không được, quá nhẹ, không nhận ra.

Nghe Quỷ Nhãn Tam nói vậy, Hạ Táo Hoa bất lực ném mấy viên đá áng chừng đang cầm trong tay xuống.

- Vậy thì làm thế nào? Tay chột kia, ngươi chịu chết ở đó à? – Dương Tiểu Đao có vẻ hơi nôn nóng.

- Chú Dương, chú đừng rối lên như thế, không phải đã hết cách, mà là có hai việc khó khăn. - Hạ Táo Hoa giải thích với Dương Tiểu Đao.

- Việc khó gì, mau nói ra để mọi người cùng nghĩ cách. – Dương Tiểu Đao giục giã.

- Trước hết cần phân biệt đâu là sợi dây thật trong ba sợi dây quấn rối vào nhau, sau đó cắt đứt sợi dây thật trong tình trạng không được chạm vào hai sợi dây còn lại. Mà thôi, có nói với chú cũng vô ích! - Hạ Táo Hoa cũng bắt đầu tỏ ra bồn chồn.

- Nếu như có... Dịch Huyệt Mạch ở đây thì tốt quá. Ông ta thành thạo bắt mạch, chưa... chưa biết chừng có thể nhận ra độ căng chùng của ba sợi dây. - Biện Mạc Cập bị thương, mất máu rất nhiều, sau đó lại liên tục trốn chạy, giao đấu, lúc này đến cả lời nói nghe cũng yếu ớt, đứt đoạn.

- Cũng giống như trong ba sợi gân khều ra một sợi khác biệt phải không? Để cậu em Niên thử xem sao! – Dương Tiểu Đao nói.

Mọi người nghe vậy, đều mừng rỡ ra mặt.

- Ha ha! Chẳng phải hắn suốt ngày nắn vuốt một sợi gân ư? Nên tôi đoán là làm được! - Lời trêu chọc không đúng lúc của Dương Tiểu Đao khiến mọi người đều hụt hẫng ỉu xìu.

- Được hay không để tôi đến xem mới biết! – Niên Thiết Cao thường ngày rất ít khi mở miệng giờ đột ngột lên tiếng - Mọi người quan sát giúp tôi, nếu thấy tôi bước sai nhớ nhắc nhở ngay đấy. Xảy ra chuyện bất ổn, hãy mau mau lôi tôi về. – Niên Thiết Cao không phải là khảm tử gia, bây giờ phải bước chân vào một khảm diện có thể đoạt mạng trong nháy mắt, hắn không tránh khỏi căng thẳng, tự dưng cũng trở nên rườm lời.

Thực chất Niên Thiết Cao hành sự vô cùng thận trọng, mỗi bước đi đều chuẩn xác tới từng ly. Cũng giống như cách hắn bán bánh cắt, chỉ cần mắt liếc tay kéo, miếng bánh cắt ra sẽ giống hệt với trọng lượng yêu cầu, không sai đến một hoa.

Niên Thiết Cao mau chóng tới sau lưng Quỷ Nhãn Tam. Khi đã tới nơi, hắn chưa vội chạm vào dây lẫy ngay, mà dùng răng cắn chặt lấy đầu mút của sợi tơ tằm lửa bên trong chiếc nhẫn rồng, lần lượt kéo sợi tơ tằm lửa ra hai tấc, bốn tấc và sáu tấc. Sau đó dùng ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải lần lượt kẹp vào sợi tơ tằm tại những khoảng cách như trên, để cảm giác độ rung ở mỗi độ dài khác nhau. Hắn đang "khởi động" ngón tay, làm như vậy có thể đánh thức cảm giác của ngón tay trong thời gian ngắn nhất.

Sau khi cảm giác, trạng thái đều đã ổn định, Niên Thiết Cao hít vào một hơi thật sâu, hết sức thận trọng đưa ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải ra, nhẹ nhàng kẹp lấy ba sợi dây lẫy đang quấn vào nhau. Sau khi đã kẹp được vào tay, hắn liền nín thở, thuận theo nhịp tim đập để vê thật khẽ, thật chậm rãi hai đầu ngón tay với nhau, tựa như là đang vê xoa để kiểm tra thứ bột ngọc trai cực kỳ trơn tru nhỏ mịn.

Quỷ Nhãn Tam cố gắng nín chặt hơi thở, vì e sợ nhịp thở lên xuống sẽ gây ảnh hưởng tới phán đoán của Niên Thiết Cao.

Những người còn lại cũng căng thẳng đến không dám thở mạnh, đứng bất động mà nhìn Niên Thiết Cao không chớp mắt. Thời gian tựa như cũng ngừng trôi...

Niên Thiết Cao cuối cùng đã dừng hai ngón tay lại:

- Tôi nhìn không rõ, người anh em, anh thử nhìn xem, cái sợi mà tôi mò thấy là vị trí "Đinh" hay "Câu"[14].

Quỷ Nhãn Tam dùng con mắt cú vọ quan sát một hồi lâu, rồi nói:

- Là Câu!

Vị trí "Câu" thông thường ở dưới cùng, nhưng sợi dây ở đây lại hơi lệch sang bên cạnh. Nếu so sánh thì góc độ này là khuất nhất, rất khó xác định, khó ra tay. Nếu muốn cắt đứt nó mà không động tới hai sợi dây còn lại, đúng là đã khó càng thêm khó.

- Dây ở vị trí này rất khó cắt đứt! - Đến một người ngoại đạo về khảm tử như Niên Thiết Cao cũng đã nhận ra điểm khó khăn.

- Ngươi buông hai ngón tay ra, để ta nhìn thử xem! - Quỷ Nhãn Tam muốn Niên Thiết Cao buông tay ra để hắn nhìn dọc theo hướng đi của sợi dây xem có vị trí nào thích hợp hơn không.

Niên Thiết Cao thả ngón tay ra. Song hắn không để ý thấy trên đầu ngón tay trỏ và ngón tay cái loáng thoáng có hai vệt tím đen, chớp một cái đã biến mất tăm, chìm hút vào trong da thịt.

Quỷ Nhãn Tam vô cùng thất vọng khi nhìn thấy ba sợi dây quấn rối loạn vào nhau không theo trật tự gì, rời mắt khỏi vị trí Niên Thiết Cao vừa nắn lấy, lập tức không thể phân biệt được sợi nào với sợi nào.

- Có tìm thấy không? Sao mà ngốc thế nhỉ? – Dương Tiểu Đao đã không nhịn thêm được nữa, cố gắng ghìm giọng xuống mà hỏi.

- Thấy thì thấy rồi, song dây không dễ cắt! – Niên Thiết Cao đáp.

- Dễ cắt hay không phải để tôi xem chứ! Hai người cứ con cà con kê ở đó có tích sự quái gì! – Dương Tiểu Đao to tiếng quát lên.

Đúng vậy! Đao pháp Tích hào có thể róc xương lọc thịt mà không làm tổn thương tới huyết quản kinh mạch, nên chắc hẳn cũng có thể cắt đứt một sợi dây mà không động chạm tới hai sợi dây còn lại.

Niên Thiết Cao bèn lui về, Dương Tiểu Đao tiến lên thế chỗ. Sau khi hỏi rõ Quỷ Nhãn Tam vị trí của sợi dây, gã liền rút lưỡi đao nhỏ hình thù quái dị ra, vạch vẽ so đo một hồi để xác định xem nên dùng vị trí nào trên lưỡi đao để cắt dây lẫy chủ. Lưỡi đao của gã hình thù rất đặc biệt, có một vị trí lồi ra vừa hay rất thích hợp để cắt đứt sợi dây ở vị trí "Câu" hơi chếch về phía bên kia.

- Chắc chắn là sợi này chứ? – Dương Tiểu Đao hỏi lại một lần nữa, Quỷ Nhãn Tam và Niên Thiết Cao đã lùi về phía sau cùng gật đầu.

Dương Tiểu Đao cúi đầu lặng phắc. Một lúc sau, khi gã ngẩn đầu lên, mọi người lập tức nhìn thấy một Dương Tiểu Đao hoàn toàn khác. Vẻ nôn nóng, bồn chồn đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là vẻ mặt trầm tĩnh, ánh mắt sáng quắc như tia chớp, thân hình vững chãi tựa núi đá, hơi thở bình ổn như không thở. Cùng với nhịp tim đập nhịp nhàng, khí tướng quanh người gã cũng dập dờn lên xuống.

- Hự!

Dương Tiểu Đao thở ra một hơi trầm ngắn rồi xuất đao, đây chính là một đặc điểm của đao pháp Tích hào, có thể đạt đến mức độ khí tới lực tới, song không ảnh hưởng tới độ chuẩn xác của đao.

Theo lý mà nói, cắt đứt một sợi dây mỏng manh vốn không cần dùng đến quá nhiều sức lực. Nhưng ở đây lại khác, cần cắt đứt một sợi dây mà không động chạm tới hai sợi dây còn lại, bởi vậy không những phải vận lực, mà lực đạo còn phải lớn hơn khi đốn đẵn cây to rất nhiều. Chỉ có điều lực đạo này sẽ được phân tán thành nhiều phần là hư kình, huyền kình, thu kình.

Tiếng "hự" bật lên, lưỡi đao nhỏ vừa xẹt ra chớp mắt đã thu về, như chưa hề chạm vào bất cứ thứ gì. Sợi dây không hề có phản ứng nào, cả ba sợi vẫn quấn chặt lấy nhau như cũ.

- Hự!

Dương Tiểu Đao lại xẹt lưỡi đao ra một lần nữa. Tiếp đến là nhát thứ ba, thứ tư...

Đây là đao pháp cứa chậm. Mỗi lần xuất đao vừa chạm đã lập tức thu về, chỉ cứa vào sợi dây một ly, như vậy sẽ không động chạm tới những sợi dây khác. Thật không ngờ một sợi dây mỏng manh như vậy, gã vẫn có thể cắt làm mấy lần, thậm chí tới mấy chục lần.

Chốc lát sau, Quỷ Nhãn Tam đang đứng một bên đã hớn hở reo lên:

- Đứt rồi, dây lẫy thật đã đứt rồi!

Tiếng reo còn chưa dứt, hai bên vách đá đã rung lên bần bật, phát ra hàng tràng những tiếng nổ vô cùng quái đản. Tất cả mọi người đều giật bắn mình, hồn vía bắn tận mây xanh. Lưu Chi Thủ đang tì chân vào vách đá trên cao suýt nữa trượt chân ngã bổ nhào. Mấy con ngựa ở phía bên kia đường đều hoảng loạn hí vang, xoay tròn tại chỗ, móng sắt quẹt vào đá đến toé lửa.

Quỷ Nhãn Tam và Dương Tiểu Đao còn trong khảm diện vội vã gập lưng ôm đầu, tư thế như sẵn sàng chờ chết.

Một lát sau, những tiếng nổ vang đã dần biến mất. Nhìn lại sợi dây đang tì dưới lòng bàn chân Quỷ Nhãn Tam, thấy đều đã mềm oặt rơi trên mặt đất.

- A! Giải được rồi! Giải được rồi!

- A ha! Nút được giải rồi! Không sao rồi!

Tuy đều là những hán tử kiên cường không sợ chết, song có thể an toàn thoát khỏi một khảm diện hiểm ác hiếm có, hai người kia cũng không kìm được sung sướng mà hú hét lên ầm ĩ.

- Nút thứ hai đã được giải hoàn toàn rồi ư? - Lần này tới lượt Hạ Táo Hoa bán tín bán nghi – Nút thứ nhất "gai giẫm bật đàn hồi", gai độc xuyên suốt toàn bộ khảm diện; nút lẫy thứ hai đáng lẽ phải là "phi tiêu tám vòng quanh người", nút này khởi động ở vị trí giữa, sau đó bao trùm nửa sau của khảm diện. Nút thứ ba là "chuỳ tam giác mưa rơi", bố trí ở phía cuối khảm diện, là đòn tấn công cuối cùng. Song chốt lẫy của nút thứ hai bố trí quá sơ sài, chỉ dùng một vị trí giẫm. Theo lý thuyết thì mỗi một điểm trong khảm đều có thể khởi động mới phải.

- Anh Tam, anh giẫm sang vị trí bên trái rồi xem trên vách đá có gì khác thường không? - Lỗ Nhất Khí nhắc nhở.

Quỷ Nhãn Tam thu bước đổi vị trí, cẩn thận quan sát kỹ lưỡng vách đá bên trái. Sau đó lại bảo Dương Tiểu Đao lùi lại, rồi đổi chỗ tiếp tục quan sát vách đá bên phải, nhanh chóng trả lời:

- Có! Trên tường giăng đầy tơ màu đen, nhưng chốt lẫy đúng là mắc vào ba sợi dây kia.

- Tuyệt đối không được động chạm vào đám tơ đen. Như vậy đúng rồi, tôi cũng đoán rằng mụ già kia sẽ không dùng tới "phi tiêu tám vòng quanh người". Bà ta có biệt danh là "Bạch Ngọc Thiên Chức Nữ", nên đã dùng sợi tơ độc để thay thế cho phi tiêu. Chỉ có điều dây lẫy vẫn có vẻ như còn thiếu. - Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy quái lạ.

- Mọi người thử nhìn xem vị trí bước chân tiếp theo có dây lẫy không? – Lưu Chi Thủ từ trên cao cũng đã nhìn ra sự bất hợp lý.

Quỷ Nhãn Tam không đợi nhắc nhở, lập tức bước tới vị trí dây lẫy vừa đứt, xem xét tình hình tại bước chân tiếp theo.

- Phía đuôi cọng que ở đây có thêm một sợi tơ đen.

- Biết rồi, đây là lẫy liên hoàn. Bước đầu tiên chạm vào dây lẫy chủ, chốt lẫy trước sau đều động. Song nếu bước đầu tiên không chạm phải dây lẫy, thì mỗi bước tiếp theo đều là điểm khởi động. Khi phía sau vận hành, sẽ không dẫn động các bộ phận nút lẫy phía trước, như vậy, sức bật của dây lẫy càng lớn, tốc độ vận hành của nút cũng càng nhanh. – Lưu Chi Thủ dù sao cũng là một cao thủ thiết kế khảm nút, chỉ vài câu nói đã chỉ ra nguyên lý rõ ràng.

- Nói vậy là đã giải được hoàn toàn rồi ư? – Dương Tiểu Đao có vẻ nôn nóng hỏi lại Lưu Chi Thủ.

- Nút thứ hai coi như đã ổn thoả rồi. Kẻ thiết kế khảm diện rất tự tin, nên không hề tính đến trường hợp dây lẫy chủ bị cắt đứt, bởi vậy cũng không đặt ra biện pháp bổ cứu cho dây lẫy chủ. – Lưu Chi Thủ khẳng định chắc chắn.

- Tốt quá, vậy chúng ta đã có thể vượt khảm diện rồi! – Dương Tiểu Đao tỏ ý muốn Quỷ Nhãn Tam tiếp tục tiến lên.

- Khoan đã, vị trí buộc sợi tơ ở đoạn đường phía trước đã khác với lúc nãy, giẫm vào đâu đây? - Quỷ Nhãn Tam không đồng ý hành động mạo hiểm.

- Không phải quan tâm đến sợi tơ, toàn bộ nút thứ hai đã được giải. Vẫn đi như lúc trước. – Lưu Chi Thủ đáp.

Đúng vào lúc này, lão mù đột nhiên trợn ngược tròng mắt, hạ thấp giọng mà nói:

- Đuổi tới rồi!

Tất cả mọi người đều im bặt, dỏng tai nghe ngóng. Quả nhiên, có kẻ đang âm thầm áp sát tới chỗ họ, số lượng không hề ít ỏi.

- Mọi người mau qua khảm, tôi sẽ chặn chúng lại! – Lão Lợi một tay nắm lấy chuôi đao sau lưng, nghiêng người dán mình sát vách đá, lẩn vào trong bóng tối nhanh chóng chạy vọt đi.

Thấy lão Lợi một mình xông lên, Niên Thiết Cao cũng lập tức nép sát người vào bên vách đá còn lại, chạy lên theo.

Lão Lợi chạy đi khoảng ba bốn chục bước thì dừng lại, ẩn mình vào phía sau một mấu đá chìa ra. Lão vẫn nắm chặt lấy chuôi đao, song chưa rút ra.

Niên Thiết Cao dừng lại phía sau lão Lợi khoảng mười bước, cũng nép sát vách đá, nhẹ nhàng rút sợi tơ tằm lửa từ chiếc nhẫn hình rồng ra. Song hắn lập tức cảm thấy có điều bất ổn, không hiểu tại sao ngón cái và ngón trỏ tay phải đã trở nên tê dại, cứng đờ.

Niên Thiết Cao cho rằng vừa rồi trong lúc vê ngón tay tìm dây lẫy do quá căng thẳng nên huyết mạch không thông, lập tức vê xát thật mạnh ngón tay. Song hắn lập tức thấy ngay hậu quả, độc tố theo máu vận hành, chớp mắt từ ngón tay tới cổ tay đều bầm lại đen kịt, toàn bộ bàn tay và cẳng tay nhanh chóng cứng đờ như gỗ.

- Á! Trúng chiêu rồi! – Niên Thiết Cao kêu lên.

Chất độc mà Niên Thiết Cao đã trúng phải là "Lộ kiến dương" của Đường môn, dính vào da lập tức xâm nhập cơ thể, có màu tím đen, nhưng vào trong cơ thể lại thành vô hình. Song chỉ cần trong giai đoạn này cứa mạch nặn máu độc, hoặc chặt đứt tay chân, vẫn có thể giữ được tính mạng. Nhưng nếu để nó phát tác thật sự, khiến cơ da biến trở lại thành màu đen, có chặt cắt đến đâu cũng vô ích, bởi chất độc đã chạy khắp huyết mạch toàn thân.

Tơ tằm lửa đã được kéo ra một cách khó khăn, song bàn tay kéo sợi tơ tằm đã rung lên bần bật, không chỉ vì cứng đờ tê dại, mà còn vì sợ hãi.

Do run rẩy, nên sợi tơ tằm lửa hơi ngân lên khe khẽ và loé lên một chớp.

Đám người của Dương Thanh Phan đều là cao thủ, dễ dàng phát hiện thấy dấu hiệu bất thường ở phía trước. Thế là hai tên dẫn đầu lập tức tách ra, áp sát vào vách đá bất động. Những tên phía sau cũng vội vàng tìm chỗ ẩn nấp, cố gắng giấu mình một cách tối đa.

Sau một hồi lặng yên nghe ngóng, Dương Thanh Phan quyết định thăm dò. Gã đưa tay ra hiệu, hai tên ở trên cùng lập tức khom người bước nghiêng, một tay rê đao ra sau, dùng cơ thể che lấp đao quang, rồi thoăn thoắt lao lên một cách lặng lẽ.

Hành động của đám thuộc hạ Chu gia khiến Niên Thiết Cao ý thức được rằng mình đã bị bại lộ, tiếp tục ẩn nấp chi bằng sẵn sàng tấn công. Thế là hắn bước ra đứng xoay nghiêng giữa đường đi, tay hình thành thế giương cung kéo căng sợi tơ tằm lửa. Với chiêu thức này, có thể tấn công cả hai bên trái phải.

Niên Thiết Cao xuất hiện đã thu hút sự chú ý của hai cao thủ đang lao tới, khiến chúng lơ là những mối nguy hiểm khác. Đao phong đột ngột quét lên, mang theo nụ cười ác độc của khuôn mặt quỷ. Đao thức đơn giản mà cực kỳ dứt khoát, đao quang và huyết quang cùng vọt lên một lượt. Một đao hai mạng, hơn nữa lại là hai mạng của bậc cao thủ võ nghệ tuyệt luân, quả thực là thứ đao pháp chỉ có trong cơn ác mộng.

Đao đầu quỷ một chiêu đắc thủ, lão Lợi lập tức thu mình rút lui. Hành động rút lui của lão đã khiến cho Dương Thanh Phan đang bàng hoàng trong dạ bỗng cảm thấy hoài nghi. Sao lại phải rút lui? Lão ta đang đứng ở vị trí chật hẹp nhất, dựa vào đao pháp của lão, hoàn toàn có thể chiếm được ưu thế một người giữ cửa, trăm người khó qua. Từ bỏ một vị trí thuận lợi đến thế, khả năng duy nhất chính là thanh đao kia vừa mới giở trò gì mờ ám.

Song kỳ thực lão Lợi không hề giở trò gì, lão chỉ sử thế đao "Song trì trảm" mà mình thuần thục nhất. Nhưng ý nghĩa của "Song trì trảm" chỉ là hai tay cầm đao, chứ không phải là một đao hai mạng. Để giết được hai thuộc hạ phe đối thủ, thực chất lão Lợi đã xuất liền hai đao. Đao thứ nhất thực hiện giống như kiểu cách hành hình trảm thủ, trước khi xuất đao đã tính toán chu toàn từng tiểu tiết của toàn bộ quá trình. Khi xuất đao, dùng vuông nhiễu đỏ che kín đao quang; sau khi hạ đao, lại dùng vuông nhiễu bọc kín huyết quang. Còn đao thứ hai lại là thuận thế mà giết, nên không kịp đưa vuông nhiễu đỏ che chắn đao thức, khiến đao quang và huyết quang lộ ra. Bởi vậy, người khác chỉ nhìn thấy nhát đao thứ hai.

Dương Thanh Phan lại giơ tay ra hiệu, tiếp tục có hai tên rút binh khí lách người xông lên. Lúc này mục tiêu đã rõ ràng, song hành động của chúng lại càng thêm thận trọng và cảnh giác.

Chú thích

[14] Cách phân chia vị trí trong ngọc quyết tam giác. Ngọc quyết là miếng ngọc tròn dẹt có lỗ ở giữa và có khe cắt ngang từ ngoài đến lỗ đeo, nếu là ngọc quyết tam giác, bất kể là đặt theo kiểu nào, thì đỉnh nhọn trên cùng đều gọi là "Bính", cạnh dưới cùng là "Câu", ở giữa là "Đinh". Nếu trong đó có hai góc ngang nhau, thì góc bên trái là "Câu", góc bên phải là "Đinh", còn một góc còn lại gọi là "Bính".

Chương 14: Trận đá lở

Dương Thanh Phan thực không ngờ lần thăm dò thứ hai lại tiêu tốn nhiều thời gian tới vậy, vượt xa số lượng năm chiêu như gã đã dự tính.

Lão Lợi cũng không ngờ, trước chiêu tấn công đầu tiên của đối thủ, Niên Thiết Cao lại thoái lui về phía sau, tạo nên sơ hở trong phòng ngự. Hơn nữa động tác của Niên Thiết Cao rất lúng túng, vụng về, tư thế hai tay trước sau kéo tơ tằm lửa từ đầu tới cuối không hề thay đổi.

Đến chiêu thứ mười chín, bằng một thế chém, lão Lợi đã lấy mạng của một đối thủ. Đến chiêu thứ hai mươi, tuy thế kéo dây trước sau của Niên Thiết Cao vẫn không hề thay đổi, song nhờ vào sự di chuyển và biến hoá của thân hình, đã cắt đứt phăng cánh tay của đối thủ còn lại. Lão Lợi lập tức bồi thêm một đao kết liễu mạng hắn.

- Ngươi sao thế? – Lão Lợi biết đã xảy ra chuyện bất ổn.

- Trúng độc rồi, độc đã tới vai, cánh tay phải không cử động được nữa! – Cánh tay phải của Niên Thiết Cao từ vai trở xuống đã hoàn toàn không còn cảm giác, toàn bộ cánh tay cứng đờ như khúc củi.

Lão Lợi vội tiến sát lại xem, thấy toàn bộ cánh tay phải của Niên Thiết Cao đều đã bầm đen:

- Vậy ngươi mau lùi lại đi, để một mình ta ứng phó.

- E rằng không đi nổi nữa! Hay ông đi trước đi, để tôi chặn đường cho! – Niên Thiết Cao không phải là tráng sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hắn quyết định như vậy, vì hắn thực sự không bước nổi nữa. Cảm giác tê dại đã dần dần lan toả đến toàn thân.

Dương Thanh Phan lần này không vội hành động ngay. Cuộc giằng co kéo dài vừa nãy đã khiến gã sinh nghi, không hiểu hai cao thủ chặn đường kia đang định giở trò gì?

Chính vào lúc này, Biện Mạc Cập ở phía khảm diện đột nhiên gào toáng lên bằng giọng Tứ Xuyên:

- Rùa rụt tung vuốt! Là rùa rụt tung vuốt!

"Rùa rụt tung vuốt" vốn là một điển cố xuất hiện trong "Thục sự quái đàm"[15], kể về một người muốn bắt con rùa núi đã rụt mình vào trong mai, song vừa chạm vào thân rùa, con rùa đột nhiên giương vuốt cào cho rách tay. Loài rùa núi quái lạ này vuốt sắc như dao, lại chứa chất kịch độc, trúng phải sẽ chết ngay lập tức. Sau này người Tứ Xuyên thường dùng cụm từ "rùa rụt tung vuốt" để hình dung về việc dùng nhiều hiện tượng giả để che đậy một sự thực vô cùng tàn ác.

Tiếng gào thét của Biện Mạc Cập mới chỉ là khởi đầu, ngay sau đó vọng lại những tiếng kêu rú còn kinh hoàng hơn nữa. Cùng với những tiếng rú hãi hùng, từ phía khảm diện vọng lên những tiếng nổ vỡ trầm nặng, nhanh chóng lan rộng ra xung quanh, tựa như tiếng nứt vỡ liên tiếp của xương cốt trong cơ thể.

Những tiếng nứt vỡ tựa như một trận gió nhanh chóng ào qua rồi biến mất, song vách đá, mặt đường rung lắc kịch liệt liên hồi. Sau cùng, cả dãy núi rùng rùng chấn động, đá núi vỡ toác từng mảng. Tựa như dưới chân núi chôn vùi một gã khổng lồ, lúc này đang ra sức vùng vẫy, quẫy đạp, muốn lật tung tất cả để chồm dậy.

- Mau đi cứu Lỗ môn trưởng! – Niên Thiết Cao hét lên với lão Lợi.

Lão Lợi vừa nghe lọt tai ba chữ "Lỗ môn trưởng", lập tức quay người lao thẳng về phía khảm diện.

Ba chữ "Lỗ môn trưởng" cũng đã khiến Dương Thanh Phan choàng tỉnh, gã thẳng tay đẩy mạnh một tên thuộc hạ ở phía trước lao vọt về phía Niên Thiết Cao. Đây là hư chiêu trước khi gã đích thân xuất kích.

Độc tố trong người Niên Thiết Cao lúc này đã lan tới chân phải, chẳng mấy chốc sẽ vượt qua ranh giới huyết mạch chính giữa thân người mà vào tim nhập não. Tới lúc đó, chắc chắn sẽ hồn phách về trời.

Gã cao thủ của Chu gia thình lình bị đẩy vọt đi, trở nên hoảng hốt, đao trong tay khua khoắng loạn xạ, chỉ mong trụ vững thân hình, kìm bước chân lại.

Đao quang rối loạn ào ào ập tới. Niên Thiết Cao lúc này đã không thể né tránh, chỉ còn cách liều mạng chống trả. Hắn tuột chiếc nhẫn hình rồng ra khỏi ngón tay trái, kéo căng sợi tơ tằm lửa hết cỡ, tay phải giữ thật chắc đầu sợi tơ. Chiếc nhẫn hình rồng mang theo tơ tằm lửa bay ngang thành một vòng tròn với trung điểm là tay phải. Đây chính là chiêu cứu mạng của Niên Thiết Cao, có tên là "tháo nhẫn quăng tơ".

Thân thể gã cao thủ phía Chu gia chớp mắt đã rời thành hai khúc, máu tươi thịt vụn phun đẫm người đẫm mặt Niên Thiết Cao, khiến hắn không thể mở mắt ra được.

Chính vào lúc này, Dương Thanh Phan đạp chân vào vách đá lấy đà, tung người nhảy vọt lên, thanh kiếm ô tước phi vân lưỡi rộng vụt biến thành một dải rực rỡ tựa cầu vồng, lao thẳng tới Niên Thiết Cao.

Niên Thiết Cao nhìn thấy lại có người lao tới, sát khí còn ghê gớm hơn nữa, biết ngay là một cao thủ. Song hắn đã không thể lùi lại, nên chỉ biết thu tay trái về, cố gắng dùng hai tay trái phải kéo sợi tơ tằm giăng ngang trước mặt, rồi dùng răng cắn chặt sợi tơ tằm kéo thật lực ra phía sau. Đầu cổ hắn giật mạnh về phía sau, bộ dạng tựa như né tránh lưỡi kiếm của Dương Thanh Phan theo bản năng, song kỳ thực lại là đang cố gắng kéo căng hết cỡ tơ tằm lửa chuẩn bị cho cú bật giết ở cự ly gần.

Thân thủ của Dương Thanh Phan tuyệt đối không giống như cao thủ bình thường, gã không trực tiếp đáp xuống, mà khi còn cách Niên Thiết Cao khoảng năm bước, gã bất ngờ gập người lại, rồi vụt một cái trượt thẳng lên, mũi kiếm đâm xéo từ dưới lên trước ngực Niên Thiết Cao...

Khi Lỗ Nhất Khí lơ mơ tỉnh lại, một vệt ánh sáng rất hẹp đang chiếu thẳng vào mặt cậu. Vệt sáng rất ấm áp, là ánh lửa, hay là ánh nắng?

Lỗ Nhất Khí muốn đưa tay rờ lên mặt, song không tài nào nhấc được cánh tay. Hơn nữa, còn thức dậy những cơn đau đớn kịch liệt trên khắp cơ thể, đến hít thở cũng thấy khó khăn.

Bộ phận cử động được đầu tiên là cổ, điều này khiến cậu cảm thấy may mắn. Cổ vẫn cử động được, cho thấy cần cổ chưa bị đứt gãy, xem ra Diêm Vương vẫn chưa sờ tới mình. Thế là cậu từ từ xoay đầu hướng về phía vệt sáng đang chiếu tới. Đúng là ánh nắng!

Dưới ánh nắng soi rọi, tư duy của cậu dần dần hoạt động trở lại, trí nhớ cũng bắt đầu hồi phục từ từ.

Cậu đã trượt xuống theo vách đá đổ sập, Hạ Táo Hoa nhảy vọt xuống chụp lấy cổ tay cậu, Dưỡng Quỷ Tỳ cũng phóng dải lụa quấn chặt lấy cậu, song cuối cùng cậu vẫn rơi xuống cùng với những khối đá lớn nhỏ hỗn độn. Lúc này, cậu đang ở dưới vực ư? Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang ở đâu? Những người khác cũng đâu cả rồi?

Lỗ Nhất Khí nhắm mắt lại. Cậu muốn suy nghĩ, muốn cảm giác. Và từ trong ký ức đã dần dần lộ diện ra một sai lầm nghiêm trọng mà cậu đã phạm phải. Sai lầm này có một phần lớn nguyên nhân là do cậu đã nhẹ dạ tin vào một người không đáng tin, một kẻ địch nguy hiểm, chính là mụ Bạch Ngọc Thiên Chức Nữ với chiếc lưng gãy gập thước thợ.

Mụ già độc ác kia kỳ thực không hề từ bỏ ý muốn phải thắng Thiên táng sư bằng được, đồng thời mụ ta cũng không thật tự tin khi dùng Vô địa tự dung đã cải tạo để vây khốn đám Lỗ Nhất Khí. Bởi vậy, sau khi xuất liền hai chiêu hiển lộ, đã thuận thế bố trí, dùng vẻ ngoài khoan dung độ lượng che đậy ý đồ tàn sát thực sự bên trong. Đây cũng chính là chiêu "rùa rụt tung vuốt" như Biện Mạc Cập đã nói.

Theo như những gì Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy, thì mụ già kia đầu tiên xoay chuyển chốt lẫy, giải nút thứ ba rồi vượt khảm mà tới, với ý đồ truyền độc qua người bọn họ. Ở trong khảm, mụ bước đi theo bộ pháp "Tứ phương tinh tú", cố tình hiển lộ ra chỗ khuyết của gai độc. Sau đó lại dừng bước ở giữa khảm, là cố tình hiển lộ ra vị trí chốt lẫy của nút thứ hai là tơ độc quấn người.

Tuy nhiên Lỗ Nhất Khí đã hoàn toàn không ngờ được rằng, hành vi xoay chốt lẫy của mụ già trước khi vào khảm là đóng chứ không phải là giải. Mụ ta cực kỳ tự tin với khảm diện Vô địa tự dung đã được cải tạo, từ sau khi nó được bày ra, chưa ai có thể đi qua được nút thứ hai. Bởi vậy nút thứ ba chưa từng được sử dụng đến, bình thường đều trong trạng thái buông lỏng. Khi độc tố Bối phi tinh sắp sửa không thể kiểm soát, mụ ta nghĩ rằng, cho dù bản thân có xảy ra chuyện gì, cũng tuyệt đối không cho phép đám Lỗ Nhất Khí chạy thoát. Và việc đầu tiên của mụ là đóng chốt khởi động của nút thứ ba, sau đó mới giẫm khảm mà tới.

Sau khi độc tố đã được truyền qua người khác, mụ già không còn phải lo lắng về tính mạng, nên càng ung dung bày khảm "rùa rụt". Miệng nói chỉ để lại một nút rưỡi cho đám Lỗ Nhất Khí tự giải, song kỳ thực nút giết thứ ba chính là nút mang vuốt độc đã được đóng sẵn để chờ bọn họ.

Nút giết thứ ba không phải là "chuỳ mưa rơi" mà là "đá lở đè vào", được biến hoá từ tuyệt chiêu "Chức Nữ chặt khung cửi" của Đường môn. Trong nút này sẽ bố trí những tấm thép kéo căng ẩn sau vách đá, nếu chốt lẫy hoạt động, tấm thép sẽ đập vỡ tan vách đá hai bên, cùng đổ vào giáng xuống người trong khảm diện. Do nút lẫy này lợi dụng vách đá tự nhiên ở hai bên, sau khi hoạt động sẽ không thể bố trí lại, nên mụ già đó mới nâng niu tiếc rẻ, bình thường đến chốt khởi động cũng không nỡ đóng.

Có điều trong cái rủi có cái may. Khi chốt lẫy của nút thứ ba bật tung, Lưu Chi Thủ đang đứng xoạc chân tì vào hai bên vách đá. Chốt lẫy dạng bắn sập có đặc điểm là phương hướng tác động đầu tiên có thể bị thay đổi do ngoại lực. Sau khi chốt lẫy của nút thứ ba tích tụ đủ lực đạo, tấm thép đáng lẽ phải bắn vào bên trong để đập vỡ vách đá. Nhưng phía trên vách đá còn có Lưu Chi Thủ đang xoạc chân tì mạnh, vị trí của hắn vừa hay là điểm sập đầu tiên của chốt bật thứ nhất. Lực đạo giữa hai chân của một cao thủ luyện võ, lại cộng thêm cơ thể nặng hơn trăm cân[16], vừa hay đã khiến lực đạo của tấm thép vượt qua đỉnh điểm, bắn theo hướng ngược lại.

Phương hướng sát thương của nút lẫy thứ ba với sức công phá tựa trời long đất lở đã hoàn toàn đổi hướng. Cả hai vách đá sầm sập đổ ra phía ngoài, nên không gây ra tổn thương nghiêm trọng cho người trong khảm diện. Tuy nhiên, vách đá sập ra ngoài cũng kéo theo một phần thân núi và mặt đường sạt lở xuống cùng. Lỗ Nhất Khí đang đi trong khảm diện lập tức bị kéo tuột theo dòng đá lở ào ào, sinh mạng phó thác cho số phận may rủi.

Một dòng mát lạnh chảy thẳng vào khoé miệng Lỗ Nhất Khí, khiến cậu giật bắn mình, mở choàng mắt ra.

- A! Anh tỉnh lại rồi! – Bên tai cậu vang lên một tiếng reo mừng rỡ. Là Dưỡng Quỷ Tỳ, cô đang dùng một chiếc khăn tay vắt nước vào miệng cậu.

Ngay sau đó, lại có hai bộ mặt hớn hở nữa châu lại. Một là của Hạ Táo Hoa, và một là của một người đàn ông mà Lỗ Nhất Khí không hề quen biết.

- Lỗ môn trưởng, cuối cùng cũng tỉnh lại rồi! - Người đàn ông vừa lên tiếng, Lỗ Nhất Khí đã nhận ngay ra đó là Lưu Chi Thủ. Lúc trước, do ở khoảng cách quá xa, lại trong con đường canh Âm Thế tối mịt mù, nên cậu không nhìn rõ mặt hắn.

- Bây giờ là lúc nào?

- Môn trưởng đã hôn mê suốt một đêm rồi. Không dài lắm, sau khi chúng tôi lăn xuống cũng mê man hồi lâu mới tỉnh.

- Đây là đâu? - Lỗ Nhất Khí lại hỏi.

- Vẫn chưa kịp quan sát rõ! – Lưu Chi Thủ trả lời rất mực cung kính, như thể đang nói với sư phụ môn trưởng của mình.

- Mọi người lăn xuống cùng tôi ư?

- Tôi và môn trưởng cùng lăn xuống, còn hai cô kia vì cứu môn trưởng nên bị lôi xuống theo! – Lưu Chi Thủ vẫn rất mực lễ phép.

- Ai bảo anh cụt mất bàn tay, em chụp một lần không túm được! - Hạ Táo Hoa ra vẻ giận dỗi – Bác anh nói rằng anh sẽ cưới em làm vợ, em nhất định không để anh chạy thoát, đành phải theo xuống đây thôi!

- Còn tôi thì bị hai người kéo xuống! - Dưỡng Quỷ Tỳ ngượng nghịu nói.

Có lẽ do thuốc trị thương mà đám Dưỡng Quỷ Tỳ mang theo khá hiệu nghiệm, có lẽ ở trước hai cô gái đẹp khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy mình phải tỏ rõ khí chất đàn ông, bởi vậy gần tới trưa, cậu cố gắng nhẫn nhịn cơn đau đớn như dần mà ngồi dậy.

- Tôi có thể đi được, chỉ cần mọi người cho tôi vịn một chút! - Lỗ Nhất Khí cảm thấy nơi này không thực sự an toàn nên kiên quyết đòi đi.

Thế là Lưu Chi Thủ đi trước mở đường, Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa đi hai bên dìu Lỗ Nhất Khí, cả đám men theo khe đá tiến ra mé ngoài núi.

Đột nhiên, từ xa tít tắp phía trên đỉnh đầu vọng xuống một giọng hát vô cùng bi thiết:

- Anh đợi em mà em không tới, anh đành lẻ loi vượt tiếp dặm trường. Nước mắt cạn rồi tóc bạc trắng, đành hẹn gặp nhau ở đài Vọng Hương...

Giọng hát văng vẳng trong khe núi, dư âm ngân nga hồi lâu không dứt.

Khúc hát này là điệu "Tín thiên du"[17], nghe giọng có lẽ là Dương Tiểu Đao. Khuôn mặt Lỗ Nhất Khí bừng lên một niềm phấn khích chưa từng thấy:

- Họ vẫn sống! Họ không sao!

- Này! Chúng tôi đang ở đây! - Hạ Táo Hoa khum hai tay bắc loa lên miệng hướng lên phía trên hét thật lớn.

- Chỗ chúng ta quá chật hẹp, vách đá tầng tầng lớp lớp, sẽ hút âm, bọn họ không nghe thấy đâu! - Lỗ Nhất Khí bảo Hạ Táo Hoa.

- Lỗ môn trưởng, chúng ta vẫn nên gấp rút tìm đường tiến lên phía trước là hơn. Đợi ra được đường cái, có thể chờ họ ở đó, cũng có thể để lại thư tín thông báo cho họ. – Lưu Chi Thủ hơi lo lắng, bởi lẽ tiếng hát vừa nãy và tiếng hét của Hạ Táo Hoa rất có thể sẽ chỉ đường cho đối thủ tìm đến.

Lỗ Nhất Khí hiểu ý tốt của Lưu Chi Thủ, bèn đẩy nhanh nhịp bước tiếp tục men theo khe đá tiến về phía trước.

Dương Tiểu Đao nhờ có Biện Mạc Cập và Quỷ Nhãn Tam trợ giúp mới vòng qua được đoạn đường sạt lở. Khi gã mồ hôi lút mặt leo được lên đoạn đường canh Âm Thế chưa bị sập ở phía sau lưng, lập tức nhìn thấy Niên Thiết Cao. Niên Thiết Cao vẫn đứng trơ trơ ở đó, song đầu cúi gục, như không muốn nhìn ai. Dương Tiểu Đao không chạm vào người Niên Thiết Cao, song gã vẫn còn giữ được cho mình một chút lý trí. Dương Tiểu Đao chỉ ngồi thụp xuống, liếc nhìn lên khuôn mặt Niên Thiết Cao, khuôn mặt đã một nửa bầm đen, còn một nửa trắng bệch như sáp. Sau khi lão Lợi được cứu lên từ dưới vách đá đã kể lại với Dương Tiểu Đao, Niên Thiết Cao bị trúng độc, là một thứ độc tố lan toả rất nhanh. Nhìn vào hiện trạng của hắn, có lẽ đã bị giết chết vào lúc độc tố sắp ngấm vào tim.

Phía trước Niên Thiết Cao còn có một cái xác không đầu.

Dương Thanh Phan quả nhiên là cao thủ bất phàm, chỉ một nhát kiếm đã xuyên thấu lồng ngực Niên Thiết Cao. Niên Thiết Cao bị trúng thương, rú lên thê thảm, hai hàm răng đang nghiến chặt đột ngột há ra, sợi tơ tằm lửa đang kéo căng hết cỡ lập tức bật mạnh về phía trước, nhẹ nhàng cứa đứt tiện cần cổ của Dương Thanh Phan. Đầu gã rơi phịch xuống gọn gàng như một miếng bánh cắt.

Một thanh kiếm lưỡi rộng cán dài chống đỡ lấy hai thi thể đã cứng ngắc. Dương Tiểu Đao không phân tách bọn họ, chỉ gỡ lấy chiếc nhẫn Tằm lửa cuộn bụng rồng của Niên Thiết Cao, đào một cái hố dưới chân vách đá rồi chôn xuống. Sau đó, hắn vung đao khắc lên vách đá ba chữ "Niên Thiết Cao". Có lẽ Dương Tiểu Đao cảm thấy thi thể của Niên Thiết Cao giờ đây chỉ còn là một khối xác thịt vô hồn, còn linh hồn của hắn đã được ngưng tụ trong sợi tơ tằm lửa.

Khắc xong ba chữ, Dương Tiểu Đao hát rống lên một khúc "Tín thiên du", rồi gạt nước mắt, quay người bước thẳng về phía trước.

Dương Tiểu Đao rời đi chưa bao lâu, năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch lại nối đuôi nhau nem theo sườn núi lướt vụt qua, tựa như năm u hồn ẩn mình trong bóng tối.

Con đường canh Âm Thế mà đám Lỗ Nhất Khí vừa đi qua nay chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết của người Tạng. Vị trí ở gần núi Khoa Mộ Đức Nhĩ. Người Tạng gọi con đường này là con đường Ma Đêm hoặc con đường Đêm Tối. Về sau, do người ta phá núi mở đường vào đất Tạng và các nguyên nhân địa chất như núi lở đá sạt, con đường này đã không còn tồn tại nữa.

Chú thích

[15] Nghĩa là kể lại những câu chuyện quái lạ ở đất Thục.

[16] Một cân thời xưa tương đương khoảng 600g hiện nay.

[17] Một điệu dân ca phổ biến ở vùng Thiểm Tây, Sơn Tây và phía tây Nội Mông.

CHÙA KIM ĐỈNH - NƯỚC CỜ CUỐI CÙNG CỦA CHU GIA

Chương 15: Nhận tướng lạ

Lưu Chi Thủ giới thiệu rằng, nơi này tuy náo nhiệt, song không phải là một thị trấn thuộc phủ chế của đất Tạng. Song nơi đây đi về phía nam là vùng khai thác vàng, đi lên phía bắc là mỏ ngọc, đi về phía đông lại có các bãi chăn thả gia súc lý tưởng bên hồ Tiên Tề, nên ban đầu nơi đây là chỗ tụ họp của các băng đảng trộm cướp. Vài trăm năm trước, một đám Lạt ma đã đánh đuổi cướp phỉ đi, rồi xây dựng chùa Lạt ma Kim Đỉnh tại đây. Do núi Thiên Thê gắn liền với những truyền thuyết thần kỳ, nên nơi này đã trở thành vùng thánh địa cho tín đồ tìm về lễ bái. Nhân khí hội tụ, dần dần đã trở thành một khu chợ sầm uất chuyên buôn bán vàng, ngọc và súc vật. Nhưng đất này lại không thuộc sự quản lý của quan phủ, chủ nhân thực sự của nó có lẽ là vị Phật sống trong chùa.

Chùa Lạt ma Kim Đỉnh kỳ thực có tên là chùa Đạt Nặc, nhưng vì trong chùa có một toà tháp trắng cao lớn, trên đỉnh có cột phướn bảy tầng được đúc hoàn toàn bằng vàng mười, nên người Tạng quen gọi là chùa Kim Đỉnh.

o O o

Vùng Tây Tạng Phật giáo thịnh hành, chùa chiền đông đảo, Phật giáo Mật Tông Tây Tạng phân chia thành rất nhiều chi phái, mỗi phái một vẻ. Năm xưa khi công chúa Văn Thành vào đất Tạng đã dẫn theo ba nghìn ba trăm thợ khéo và nhân tài thuộc mọi ngành nghề, trong đó có vị cao nhân sau khi tìm hiểu về phong thuỷ đất Tạng đã phát hiện ra rằng, toàn bộ vùng đất Tạng có cách cục "Ma nữ sái thi"[18], nên nơi đây đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, địa hình hiểm trở. Vì muốn thay đổi cách cục phong thuỷ hung dữ, công chúa Văn Thành đã cho xây dựng chùa Phật tại các vị trí trọng yếu trên người Ma nữ như mắt, tim gan, tứ chi để trấn áp cục tướng phá bại. Ví dụ như chùa Đại Chiêu tại vị trí tim, cung Bố Đạt La ở vùng gan bụng.

Song kỳ lạ là ở chỗ, trong phá cục này có một vị trí cực kỳ hiểm yếu vẫn chưa được xây chùa trấn áp, đó chính là vị trí âm vật.

Khác với những phá cục Ma nữ thông thường, ở vị trí âm vật của Ma nữ sái thi trên đất Tạng có một ngọn núi, vị trí của nó thuộc âm, tính chất cũng thuộc âm, hơn nữa luận theo thế núi, là số âm đảo ngược, càng lên trên âm khí càng nặng. Bởi vậy, đám cao nhân này đoán định rằng nơi đây là "mầm âm chọc trời", là cửa huyệt mà Ma nữ dùng để hấp thu âm khí của trời đất.

Dưới chân núi "mầm âm chọc trời" là một cảnh tượng hoàn toàn khác biệt. Cây cỏ tốt tươi, dê béo ngựa tốt, phía nam có vàng, phía bắc có ngọc, là một vùng trù phú hiếm có của đất Tạng. Điều này hoàn toàn không phù hợp với cục tướng phong thuỷ nơi đây, nên rất khó lý giải. Bởi vậy, đội ngũ nhân tài thợ khéo người Hán e sợ đường đột động thổ sẽ làm đảo lộn toàn bộ cục diện, nên chưa xây dựng chùa chiền ở đây.

Trong sách vở xưa kia có chép rằng ngọn núi này tên là Khắc Mạc Đắc Nhã Đô, tương truyền đó là phiên âm tiếng Ba Tư cổ trong Mật Tông Tây Tạng, có nghĩa là "nơi tiếp giáp giữa thiên giới và địa ngục". Còn người đất Tạng lại gọi núi này là núi Thiên Thê, tức thang trời, vì trên núi có một dãy bậc thang thô sơ chạy tít đến mây mù, không nhìn thấy điểm kết thúc. Không hiểu sao những người leo lên núi bằng dãy bậc thang này đa phần đều mất tích, không rõ đã đi đâu; cũng có một số ít người rơi trở xuống chân núi. Các tín đồ người Tây Tạng đều tin rằng, những người mất tích là đã đắc đạo mà lên được thiên giới, còn những người rơi xuống là kẻ tội đồ bất kính lừa dối đức Phật.

Sau khi ra khỏi núi Quy Giới, Lỗ Nhất Khí và Hạ Táo Hoa vốn định đợi những người còn lại tới đủ mới tiếp tục đi đến núi Thiên Thê. Song Lưu Chi Thủ kiên quyết yêu cầu bốn người bọn họ nên đi trước, bởi lẽ hiện tại không ai biết được đám Lỗ Nhất Khí còn sống hay đã chết, như vậy, sẽ khiến người phía Chu gia lơ là cảnh giác. Những trợ thủ còn lại của Lỗ gia đã có Hắc Oa dẫn đường, vẫn có thể thuận lợi tới được nơi cần đến.

Khi vừa tới chân núi Thiên Thê, Lỗ Nhất Khí có chút hoài nghi, không biết đây có phải là nơi cất giấu bảo bối mà mình cần tìm không, bởi lẽ nơi này quá sầm uất náo nhiệt. Theo lý mà nói, dù là bảo cấu hay hung huyệt, đều nên ở nơi vắng vẻ tĩnh mịch, chứ không thể là nơi dân cư đông đúc như thế này.

Lưu Chi Thủ giới thiệu rằng, nơi này tuy náo nhiệt, song không phải là một thị trấn thuộc phủ chế của đất Tạng. Song nơi đây đi về phía nam là vùng khai thác vàng, đi lên phía bắc là mỏ ngọc, đi về phía đông lại có các bãi chăn thả gia súc lý tưởng bên hồ Tiên Tề, nên ban đầu nơi đây là chỗ tụ họp của các băng đảng trộm cướp. Vài trăm năm trước, một đám Lạt ma đã đánh đuổi cướp phỉ đi, rồi xây dựng chùa Lạt ma Kim Đỉnh tại đây. Do núi Thiên Thê gắn liền với những truyền thuyết thần kỳ, nên nơi này đã trở thành vùng thánh địa cho tín đồ tìm về lễ bái. Nhân khí hội tụ, dần dần đã trở thành một khu chợ sầm uất chuyên buôn bán vàng, ngọc và súc vật. Nhưng đất này lại không thuộc sự quản lý của quan phủ, chủ nhân thực sự của nó có lẽ là vị Phật sống trong chùa.

Chùa Lạt ma Kim Đỉnh kỳ thực có tên là chùa Đạt Nặc, nhưng vì trong chùa có một toà tháp trắng cao lớn, trên đỉnh có cột phướn bảy tầng được đúc hoàn toàn bằng vàng mười, nên người Tạng quen gọi là chùa Kim Đỉnh.

Sau khi ngôi chùa được xây dựng, truyền thuyết về thang trời nhập thiên giới cũng đã được thực chất hoá. Các tín đồ đua nhau tìm tới, cúng dường vô số kể. Lại có rất nhiều tín đồ vì muốn leo thang lên trời nên khi tới đây đã dâng cúng toàn bộ tài sản cho chùa, rồi một mình leo thang mà lên, sau đó không thấy trở về nữa.

Kỳ thực tín đồ cúng dường chỉ là một phần, các chợ buôn bán vàng, ngọc, lừa ngựa gia súc do Lạt ma quản lý, cùng các cửa hàng, cửa tiệm, xưởng sản xuất trong thị trấn mỗi mùa đều phải dâng nộp cho chùa một lượng lớn tiền thuế, do đó nguồn tài lực của chùa Kim Đỉnh dồi dào đến nỗi dư sức biến toàn bộ ngôi chùa thành vàng ròng.

Mặt trời đã nhô lên trên đỉnh núi phía xa xăm, dát ánh vàng kim rực rỡ lên ngôi chùa Kim Đỉnh trang nghiêm tĩnh lặng. Trong sắc nắng ban mai lấp lánh, có một điểm chói sáng khác thường, đó chính là cột phướn bảy tầng bằng vàng ròng trên đỉnh ngọn tháp trắng.

Lỗ Nhất Khí đứng bên vách núi Bán Bộ, từ vị trí này không những có thể bao quát toàn bộ chùa Lạt ma, mà còn có thể nhìn thấy quá nửa số chợ búa nhà cửa sầm uất xung quanh. Chợ bán vàng ngọc và chợ bán lừa ngựa nằm ở hai đầu thị trấn, được nối liền bằng một con đường lớn hình vòng cung chạy qua trước chùa Lạt ma. Đứng từ vị trí này cũng có thể quan sát được cả hai khu chợ.

Lỗ Nhất Khí đề xuất cần tìm vị trí thích hợp để nghiên cứu tổng thể tình hình nơi đây. Lưu Chi Thủ cũng không thông thạo địa hình vùng này cho lắm, nên chỉ còn cách một mình lẩn vào trong trấn tìm kiếm hậu duệ Mặc gia tại nơi này để hỏi thăm. Một bộ phận người Mặc gia đã toả đi nghe ngóng tình hình, ngay cả thủ lĩnh của đám hậu duệ Mặc gia là Sách Khố Lạt cũng không có mặt. Song Lưu Chi Thủ vẫn thu lượm được thông tin, trở về dẫn đám Lỗ Nhất Khí leo lên vách Bán Bộ của núi Nam Lĩnh đối diện với núi Thiên Thê.

- Con đường kia có vẻ không ổn! - Lỗ Nhất Khí chỉ về một con đường đối diện thẳng với cổng chính của chùa Lạt ma.

- Đó là một con đường nhỏ, thực ra cũng chưa thể gọi nó là đường, đó chỉ là một khe dài chật hẹp nằm giữa các ngôi nhà! – Lưu Chi Thủ nhận ra vị trí đó.

- Đường đối diện thẳng với cửa chính gọi là đường xung, con đường mòn này tuy nhỏ, song vẫn sẽ rò rỉ khí Phật. Trước cổng chính của chùa chiền trên đất Trung Nguyên không những không thể đối diện với đường thẳng, mà còn phải xây thêm một bức tường Phật hiệu. - Hạ Táo Hoa cũng đã nhận ra điểm bất hợp lý.

- Tôi ngờ rằng kiến trúc đất Tạng không coi trọng phong thuỷ. – Lưu Chi Thủ nói.

- Không phải! Ở đây có coi trọng, hơn nữa còn rất rất coi trọng là đằng khác! - Lỗ Nhất Khí lập tức phủ định - Mọi người hãy nhìn kỹ con đường kia, phần đầu rộng rãi, hẹp dần về phía đuôi, cho tới đầu cùng thì hợp lại nhọn hoắt. Còn trước cổng chùa có con đường lớn chạy ngang tạo thành hình vòng cung, một đầu nối với chợ vàng ngọc, một đầu nối với chợ lừa ngựa. Mọi người hãy nhìn tiếp phía trong chùa, có hình đài cao ba tầng, hành lang bánh xe kinh luân ngay ngắn ở giữa, tháp trắng ở sau đỉnh, hai điện dàn hàng. Xung quanh tường cao vây kín, chạy thẳng tới núi Thiên Thê.

- Đúng vậy, cách cục này hoàn toàn khác với chùa chiền thông thường. - Giọng điệu Lưu Chi Thủ tựa như đang làm chứng cho suy luận của Lỗ Nhất Khí.

- Bởi vì đây vốn dĩ không phải là cách cục phong thuỷ của chùa chiền, mà là cách cục phong thuỷ của nhà cự phú.

- Nhà cự phú? - Hạ Táo Hoa có vẻ bất ngờ.

- Cách cục kiến trúc này có tên là "Tỳ hưu thôn thực"[19], đa phần thấy ở dinh cơ của thương nhân Huy Châu. Nơi đây lấy cổng chùa làm miệng, đường nhỏ làm lưỡi, con đường lớn hình vòng cung nối liền hai chợ làm hai cánh tay, đài ba tầng lần lượt là môi, mũi, trán; tháp trắng là sừng tỳ hưu, hành lang bánh xe kinh luân ngay ngắn ở giữa là phần sống mũi chạy từ đầu mũi đến gốc mũi, hai điện dàn hàng ngang là mắt, tường cao nối liền với núi, là lấy núi Thiên Thê làm cơ thể tỳ hưu.

- Có lẽ là trùng hợp chăng? - Hạ Táo Hoa đọc rộng hiểu nhiều, người có kiến thức thường khó thuyết phục.

- Nhìn vào sự trơn tru của con đường nhỏ, sự đối xứng của hai khu chợ và các vị trí của kiến trúc trong chùa, có lẽ không phải là trùng hợp. - Lỗ Nhất Khí vẫn kiên trì quan điểm của mình – Hơn nữa, lối kiến trúc của chùa là đài cao bằng phẳng, bậc thang dốc đứng, hành lang xuyên suốt, tường bao kín mít, tất cả đều rất phù hợp với lối kiến trúc nhằm bố cục khảm nút của khảm tử gia.

- Đúng là không phải trùng hợp! - Dưỡng Quỷ Tỳ nãy giờ im lặng lúc này cũng khẽ khàng lên tiếng – Chu gia vì muốn khôi phục đế vị, đã cho xây dựng rất nhiều đường khẩu và các cứ điểm rõ, cứ điểm ngầm khắp mọi nơi nhằm vơ vét tiền bạc, của cải để trang trải cho việc lớn. Tôi từng nghe nói hàng năm tiến cống nhiều nhất là một ngôi chùa, có lẽ chính là ở đây.

- Nói như vậy thì chùa Lạt ma là sào huyệt ngầm của Chu gia ư? – Câu hỏi của Hạ Táo Hoa có phần ngô nghê.

- Trước đây tôi cứ nghĩ rằng Cứ Điên đường là lực lượng của Chu môn đóng tại nơi đây, còn chùa Lạt ma có lẽ đã bị chúng lợi dụng. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ Phật sống trong chùa cũng là người trong Chu môn! – Lưu Chi Thủ bất giác thấy ớn lạnh trong lòng, bởi lẽ nếu ngay cả Phật sống trong chùa cũng là người của Chu gia, cũng đồng nghĩa với việc trên vùng đất này, dù là dân tộc nào, bộ lạc nào, dù là người nghèo hay giàu, là dân du mục hay thương nhân, tất cả đều phải chịu sự kiểm soát và thao túng của Chu gia.

- Thôi nói nhiều mà làm gì, Chu gia trâu gia gì cũng mặc, cứ để anh Nhất Khí tìm ra vị trí chính xác của bảo cấu, chúng ta quật bảo trấn huyệt xong rồi chuồn cho lẹ!

Lời nói của Hạ Táo Hoa đã nhắc nhở Lỗ Nhất Khí, việc chính vẫn chưa thực hiện, đám tay chân tuần tra của Cứ Điên đường rất có thể chỉ lát nữa thôi sẽ ập tới.

Cậu bèn khép hờ hai mắt, bắt đầu tụ khí ngưng thần, để thân tâm cùng hướng theo tự nhiên, rồi huyễn hoá thành một Lỗ Nhất Khí vô hình thoát khỏi xác thân phàm tục, trôi về phía ngôi chùa đó, ngọn núi đó.

Cảm giác vô cùng mờ mịt, tựa như làn khói bếp bảng lảng dưới chân ngọn núi. Từ trong cảm giác mơ hồ, Lỗ Nhất Khí tìm kiếm một điểm sáng, một đốm khí động, một đốm hào quang, tựa như một đốm lửa bay dạt theo làn khói bếp.

- Nhìn thấy chưa? - Dưỡng Quỷ Tỳ đột nhiên lên tiếng hỏi, cũng không biết là đang hỏi ai.

- Cái gì?

- Nhìn thấy cái gì?

Hạ Táo Hoa và Lưu Chi Thủ đồng thanh hỏi lại.

Lỗ Nhất Khí không nói gì, cậu vẫn đang chìm đắm trong thế giới cảm giác của bản thân.

- Đốm lửa! - Dưỡng Quỷ Tỳ nói thật khẽ.

- Đốm lửa làm sao? - Trước những sự việc chưa hiểu rõ, Hạ Táo Hoa thường cật vấn cho đến đầu đến đũa.

- Bọn họ tới rồi! Tôi đi xem thử. - Dưỡng Quỷ Tỳ vẫn không chịu nói cho rõ ràng - Nếu tôi chưa quay lại ngay, mọi người hãy đợi tôi ở sau núi!

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa dứt lời, thân hình đã lướt đi, nhanh chóng băng xuống dưới núi.

Dưỡng Quỷ Tỳ đi rồi, Lưu Chi Thủ và Hạ Táo Hoa cũng bắt đầu sốt ruột, bởi Lỗ Nhất Khí mãi vẫn chưa tỉnh lại từ trong trạng thái mơ màng.

Xa xa đã nghe thấy tiếng lục lạc ngựa vẳng tới từ dưới chân núi, có lẽ đội tuần tra của Cứ Điên đường đã tới. Hạ Táo Hoa và Lưu Chi Thủ vội vã tìm chỗ thích hợp để ẩn nấp, chuẩn bị nghênh địch.

Cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn mơ màng nữa, chỉ có điều vẫn chưa thể thoát ra khỏi một cảnh giới khác. Và cậu đã sợ hãi, đã khiếp đảm, bất giác muốn vùng vẫy, muốn trốn chạy. Song tất cả những nỗ lực này chỉ có thể bật ra thành một tiếng gầm xé phổi, tựa như tiếng rống của một con thú lớn trúng thương.

Trong một gian phòng tại viện phía đông của chùa Lạt ma Kim Đỉnh, Chu Chân Mệnh đang ngồi xếp bằng vận khí, điều chỉnh nguyên khí nội đan.

Chu Chân Mệnh đã tới chùa Lạt ma Kim Đỉnh được nhiều ngày. Trong những ngày này, hắn đã sử dụng các vị thuốc mật chế của người Tạng và phương pháp vận khí của Đạo gia để tập trung điều trị nội thương. Hai ngày trước, tin tức từ núi Quy Giới truyền về, nói rằng khảm diện thần kỳ trên đường canh Âm Thế đã vận hành, núi đổ đường sập, đám người Lỗ gia đều đang kẹt trong khảm diện, vẫn chưa tìm ra dấu vết của Lỗ Nhất Khí. Điều này đã vượt ra ngoài dự tính của hắn. Cả người lẫn vật đều không lấy được, cũng có nghĩa là cả hai đầu mối đều đã đứt ngang. Bởi vậy, hắn lập tức điều hai kẻ có khả năng "sống thấy bảo bối, chết thấy hồn" là Thức Bảo linh đồng và thầy cúng đến đó tìm kiếm, như vậy Lỗ Nhất Khí có chạy lên trời cũng không thoát. Đồng thời lại lệnh cho cao thủ Chu môn ở mọi ngả đường đều tề tựu tại núi Quy Giới để cùng tìm kiếm.

Song đến tận bây giờ vẫn chưa nhận được tin tức gì từ Thức Bảo linh đồng và lão thầy cúng, khiến Chu Chân Mệnh đứng ngồi không yên.

Đúng vào lúc này, có một người hộc tốc chạy lên gian tĩnh thất phía trên, chính là có tin tức quan trọng cần bẩm báo với Phật sống Kim Đỉnh. Rất nhanh, một vị Lạt ma trung niên dẫn theo một Lạt ma trẻ tuổi đi thẳng tới cửa phòng của Chu Chân Mệnh. Vị Lạt ma trung niên là một trong những đệ tử chân truyền của Phật sống, còn Lạt ma trẻ tuổi là người chuyên thu đồ cúng ở cổng chùa. Lạt ma thu đồ cúng đồng thời cũng thu thập mọi loại thông tin, là một sợi dây liên lạc giữa tín đồ ngoài chùa và Phật sống.

Đệ tử của Phật sống gõ hai tiếng vào cửa phòng Chu Chân Mệnh, sau đó cúi người chắp tay, nói qua khe cửa bằng một thứ tiếng Hán lơ lớ:

- Tin tức từ ngoại đường, người Lỗ gia một nam hai nữ đã tới đây!

Khi Chu Chân Mệnh nghe được thông tin này, vừa hay nội khí chu thiên đã xoay vòng trở lại. Vòng vận khí vừa rồi đã khiến hắn cảm thấy thư thái nhẹ nhõm khắp xương cốt tứ chi:

- Tốt! Lệnh cho ngoại đường phong toả chặt chẽ những chốt trọng yếu, tung hết lực lượng do thám tản đi khắp nơi, tìm ra người cho ta!

Đệ tử của Phật sống dặn dò Lạt ma trẻ tuổi vài câu gì đó bằng tiếng Tạng, Lạt ma trẻ tuổi lập tức quay người lật đật chạy đi, vội vã y như lúc tới.

Chú thích

[18] Có nghĩa là ma nữ phơi thây.

[19] Có nghĩa là tỳ hưu nuốt thức ăn.

Chương 16: Hành tung lộ

Khi Dưỡng Quỷ Tỳ tới phía sau núi Nam Lĩnh, thấy Lỗ Nhất Khí vẫn đứng đờ đẫn như mất hồn, tay nắm chặt tấm thẻ ngọc có ghi phương vị hung huyệt. Vừa rồi cậu đột nhiên rống lên như phát cuồng rồi lăn ra chết giấc, Hạ Táo Hoa và Lưu Chi Thủ phải ba chân bốn cẳng cõng ngay Lỗ Nhất Khí chạy về phía sau núi, né tránh đội tuần tra của Cứ Điên đường.

Dưỡng Quỷ Tỳ không quay về một mình, đi cùng cô còn có Viêm Hoá Lôi. Đốm lửa bay theo làn khói bếp vừa rồi chính là ám hiệu "Phiêu phi tinh" riêng có của ông ta, song ông ta cũng không ngờ đã gọi được Dưỡng Quỷ Tỳ tới nhanh như vậy.

Viêm Hoá Lôi đã tới, song những người khác chẳng thấy một ai.

- Tan tác hết rồi! Mới có một ngày đã tan đàn xẻ nghé hết cả. Ngay từ đầu đã tranh cãi kịch liệt, vì không tìm thấy Lỗ môn trưởng, nên cách tiến thoái mỗi người một ý. Cuối cùng cũng thoả thuận được rằng trước hết hãy tới đây tìm kiếm một vòng, nếu tìm thấy Lỗ môn trưởng thì tốt, không tìm thấy thì đường ai nấy đi. – Viêm Hoá Lôi kể tới đây, lại thở dài thườn thượt.

- Vậy tại sao lại thành ra tan rã! - Hạ Táo Hoa hỏi.

- Là do hai gã trai của Mặc gia, một người bị giết chết ngay đêm ra khỏi núi Quy Giới. Còn lại gã trai đen đúa ngồi canh xác chết, kết quả là vào sáng hôm sau cũng bị người ta giết nốt.

- Vết thương có hình lỗ tròn, do vật sắc nhọn đâm vào! - Lỗ Nhất Khí đang đờ ra như ngây thộn đột ngột xen vào một câu, không biết cậu đã hồi tỉnh từ lúc nào.

- Không phải! Người thứ nhất có vẻ như bị kiếm sắc đâm thấu tim phổi, còn người thứ hai bị lưỡi sắc cứa đứt cần cổ. – Viêm Hoá Lôi lập tức phủ định phán đoán của Lỗ Nhất Khí.

Sự thật không đúng như Lỗ Nhất Khí đã dự liệu, lẽ nào phán đoán đầu tiên của cậu đã sai? Lỗ Nhất Khí liếc nhìn Hạ Táo Hoa, cô ta cũng đang cúi đầu vẻ như nghĩ ngợi.

- Sau đó thì sao? - Dưỡng Quỷ Tỳ khẽ hỏi.

- Sau đó thì tan tác cả. Mọi người đều nghi ngờ đối phương là do thám của Chu gia, không muốn kết bạn đi cùng, nên mạnh ai nấy đi.

- Chú Viêm chắc hẳn đã thành mục tiêu công kích của mọi người? - Lỗ Nhất Khí nói.

- Chính xác! Tôi vừa mới nhập bọn với mọi người, lại do con bé Quỷ kia dẫn đến, bị nghi ngờ cũng là đương nhiên. – Viêm Hoá Lôi xem ra rất thấu tình đạt lý.

- Thế nên chú đã tách khỏi mọi người đầu tiên, khi chú đi mấy người bọn họ vẫn ở cùng một chỗ?

- Không phải. Khi tôi bỏ đi, lão Lợi và Dương Tiểu Đao đã đi rồi. Ba người kia vẫn ở cùng nhau.

- Viêm tiền bối đã xuất hiện, song e rằng toàn bộ những người khác không còn xuất hiện được nữa. Như vậy những lời ông vừa nói sẽ không có ai đứng ra chứng thực! – Lưu Chi Thủ nói rất có lý. Nếu những người khác đều không xuất hiện, rất có khả năng đã bị Viêm Hoá Lôi ra tay sát hại.

- Không thể! Không có chuyện đó đâu! - Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhận ra sự nghi ngờ của Lưu Chi Thủ đối với Viêm Hoá Lôi.

- Sao cô biết là không có chuyện đó? - Hạ Táo Hoa vặc lại Dưỡng Quỷ Tỳ.

- Được thôi. Con gái, nếu đã như vậy, chúng ta cứ dẹp sang một bên chờ đợi, đến khi những người khác tới làm rõ trắng đen rồi hãy tính tiếp. Nếu thực sự không có cách nào làm sáng tỏ, chúng ta cũng chẳng tội gì phải ôm cục nợ này cho nhọc thân, con hãy theo ta trở về quê nhà Lưu Dương cho rồi. Thằng nhóc kia nếu còn nghĩ tới con tự khắc sẽ tìm tới. Bằng không đếm xỉa tới con, có đi theo hắn cũng hoài công! - Lời của Viêm Hoá Lôi tuy chậm rãi thong thả, song ý tứ rành mạch rõ ràng, rất có uy phong.

- Có lẽ tôi đã hơi quá lời, nhưng lòng người khó lường, ai mà đo đếm được? – Lưu Chi Thủ vẫn không chịu từ bỏ mối nghi ngờ.

Đúng vậy! Lòng người khó lường, vậy thì mỗi người đều có thể bị nghi ngờ. Tư duy của Lỗ Nhất Khí một lần nữa lại bị xới tung. Mấy lần khai quật bảo cấu trước đó, kẻ nằm vùng đều là những đối tượng không thể nào ngờ tới. Nếu Viêm Hoá Lôi là do thám của Chu gia, thì Lưu Chi Thủ cũng rất đáng ngờ. Tuy rằng những người mà hắn dẫn theo tới núi Quy Giới đều đã chết hết, song so với Bôn xạ sơn hình áp, số lượng thật chẳng thấm tháp vào đâu. Còn nữa, vì sao hắn nhất định muốn dẫn cậu theo đường vòng đi trước, mà không cho cậu đợi những người khác tới đủ để cùng đi? Lẽ nào hắn biết sẽ xuất hiện sơ hở?

Xem ra kế hoạch ban đầu đã không thể thực thi. Đã không thể nhận ra chân tướng của những người bên cạnh, vậy thì một số sự việc chỉ còn cách đích thân thực hiện. Song có rất nhiều mắt xích hệ trọng, liệu một mình cậu có thể hoàn thành hay không? Đối diện với câu hỏi này, trong trí não Lỗ Nhất Khí bỗng hiện lên hai chữ "đánh cược".

- Có người tới! - Dưỡng Quỷ Tỳ tâm tính đơn giản thuần nhất, nên khả năng phát hiện và mức độ cảnh giác tốt hơn hẳn người khác.

Có người đang tiến lên từ một con đường mòn ẩn khuất ở dãy núi phía sau, cả người và ngựa đều ngả nghiêng, bước chân chệnh choạng.

- Là Sách Khố Lạt! – Lưu Chi Thủ đã nhận ra, đó là thủ lĩnh đám hậu duệ của Mặc gia ở vùng đất này.

Đến khi Sách Khố Lạt xuất hiện ở phía trước, mọi người mới nhìn rõ, cả người lẫn ngựa đều đầy mình thương tích, vết thương còn chưa kịp băng bó, mặc cho máu tươi chảy ròng ròng.

- Anh thông báo với hắn là chúng ta ở đây ư? - Lỗ Nhất Khí biết chuyện này cần phải hỏi Lưu Chi Thủ.

- Không! – Lưu Chi Thủ trả lời dứt khoát.

- Vậy tại sao anh biết bọn ta ở đây? - Lỗ Nhất Khí quay qua hỏi Sách Khố Lạt.

- Tôi nhận được thông tin vội vã trở về, song phát hiện thấy người bên Cứ Điên đường có hành động khác thường, sau khi bám theo mới biết, thì ra bọn chúng đang xuống tay vây ráp chỗ cư trú của các môn thân Mặc gia và người nhà của họ. Tôi lén tới gần dò la, song đã bị phát hiện, khó khăn lắm mới chạy thoát khỏi sự truy sát của bọn chúng. – Sách Khố Lạt nói tiếng Hán rất sõi, thậm chí giọng nói còn pha chút khẩu âm Bắc Kinh.

- Vậy tại sao anh biết bọn ta ở đây? - Lỗ Nhất Khí một lần nữa nhấn mạnh vào câu hỏi.

- Tôi không biết mọi người ở đây. Tôi phát hiện thấy bọn chúng hành động theo một ký hiệu có hình bàn tay. Bởi vậy sau khi chạy thoát, nhìn thấy một dãy ký hiệu chưa thấy có người ngựa xuất hiện, định chạy lên xem thử là ai, cũng mong kịp thời thông báo cho họ chạy thoát. Nào ngờ chạy tới đây lại gặp mọi người. – Khi Sách Khố Lạt thuật lại, trong ánh mắt gã dường như có vẻ ngần ngừ, không biết là sợ mình nói sai, hay là cố tình che giấu điều gì đó.

- Anh nhận được tin tức gì mà phải chạy về? - Lần này là Hạ Táo Hoa hỏi.

- À, là một tin vui, nói rằng môn trưởng của chúng tôi dẫn theo người từ phía chính bắc trở về, đáng lẽ trong hai ngày nay sẽ về đến. Nhưng vì tuyết đọng trên núi Mộc Nột Á đang tan chảy, dòng suối lớn Tầm Bác Nhi Địa nước dâng đột ngột, khiến họ phải đi vòng qua hồ Kỳ Đáp Á, khoảng ba, bốn ngày nữa mới tới nơi.

- Vậy thì tốt quá! Sư phụ sắp về tới, rất nhiều sự việc đã có người chủ trì! – Nghe được thông tin, Lưu Chi Thủ tỏ ra mừng rỡ.

- Không thể đợi họ được! Việc ở đây không thể chờ đợi! - Lỗ Nhất Khí nói.

- Có phải gấp gáp đến thế không? – Lưu Chi Thủ hỏi.

- Cứ điểm ngầm của hậu duệ Mặc gia ở nơi đây mới chỉ một ngày đã bị tiêu diệt sạch trơn, tình hình này không gấp không được. - Lỗ Nhất Khí nói rất thành thực, song trong lòng lại đang tính toán một chuyện không rõ có được coi là thành thực hay không.

Trên vùng đất Tạng, trời vừa sẩm tối đã đen kịt như than, dãy núi Thiên Thê lừng lững ngay trước mặt cũng đã gần như không thể nhận ra. Song chùa Kim Đỉnh vẫn sáng rực rỡ đến chói mắt, nhờ hơn một trăm ngọn đèn dầu bơ và chum củi đang cháy rừng rực, hơn nữa còn cháy suốt đêm không tắt.

Tuy Lỗ Nhất Khí nói rằng sự việc ở đây rất cấp bách, song việc đầu tiên cậu muốn làm lại là leo lên vách núi Bán Bộ vào một khoảng thời gian hoàn toàn trái ngược so với lần đầu.

- Có một vài chỗ chưa nhận rõ, mọi người hãy giúp tôi xem thử. - Giọng Lỗ Nhất Khí nghe rất khách khí.

Lưu Chi Thủ nhìn theo hướng chỉ của Lỗ Nhất Khí, lần lượt trả lời:

- Dãy phía sau chùa sát cạnh chân núi là vườn thú, ở đó nuôi một vài con thú, cụ thể là giống gì thì không rõ.

- Thi thoảng cũng có người ở đó! – Sách Khố Lạt xen ngang – Khi trong chùa xây dựng sửa sang, đám thợ thuyền từ nơi khác đến sẽ ở đó.

Lưu Chi Thủ lại nói tiếp:

- Đám đá lộn xộn dưới chân núi phía tây gọi là bãi Thần Nô, toàn là đá lăn xuống khi núi sạt lở. Có điều khi có gió thổi qua, bãi đá vụn kia sẽ phát ra những âm thanh kỳ quái. Người Tạng cho rằng đó là lời hô gọi của thần linh, bởi vậy đây cũng là một nơi cúng dường trong chùa, bên cạnh có xây một gác Phật nhỏ. Các tín đồ thường mang tới đủ loại đá kỳ lạ để dâng cúng cho bãi đá, trong số được dâng cúng, nhiều nhất là bạch ngọc nguyên khối và đá khoáng vàng, đám Lạt ma cũng nhờ thế mà kiếm bộn. Để đề phòng người ngoài lấy trộm đá cúng dường, tường bao phía tây chùa đã được xây vòng ra, bao kín bãi đá lộn xộn kia.

- Phía đông là phủ đệ của Phật sống, rất ẩn khuất. Tôi đã nhiều lần vào trong chùa, song chưa bao giờ nhìn thấy có lối thông vào trong, có lẽ là thiết kế đường ngầm cửa ngầm.

Nói tới đây, bọn họ bỗng phát hiện tình hình trong chùa Kim Đỉnh đột nhiên bến động. Những ánh lửa đang rừng rực cháy sáng chợt theo nhau tắt phụt. Chùa Kim Đỉnh lập tức chìm nghỉm vào bóng tối, không thể nhìn rõ thứ gì. Bởi vậy, đèn đuốc của các hộ dân và cửa hiệu quanh chùa lại như sáng bừng lên.

- Xem ra có kẻ đã tiết lộ hành tung của chúng ta, trong chùa đã bắt đầu đề phòng. - Hạ Táo Hoa nói.

- Mới chỉ là bắt đầu thôi! - Lỗ Nhất Khí rất bình thản.

Quả nhiên, đèn lửa trong chùa vừa tắt, thì đèn đóm bên ngoài chùa cũng lần lượt tắt theo. Từ đó có thể thấy, thế lực của chùa Kim Đỉnh đã kiểm soát đến từng ngóc ngách của khu vực này, bởi vậy hậu duệ Mặc gia có thể ẩn phục tại đây suốt nhiều năm qua, rất có thể là do Chu gia cố tình buông lưới mà chưa kéo.

- Lũ chó chết kia quả là nham hiểm, thế này thì chúng ta chẳng nhìn thấy gì nữa! – Lưu Chi Thủ hậm hực nói.

- Thế là đủ rồi, tôi muốn định thần một lát! - Lỗ Nhất Khí nói xong, chẳng cần để ý tới bọn họ nữa, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên vách Bán Bộ.

Lần này, tâm cảnh nhập định của Lỗ Nhất Khí đã khác hẳn với buổi sáng. Tình hình xung quanh cậu đã thay đổi, tình hình của đối thủ cũng đã thay đổi, song ngược lại đã khiến cậu nhanh chóng cởi bỏ được nhiều gánh nặng, hành sự càng thảnh thơi hơn. Việc cậu cần làm lúc này chính là dùng toàn bộ thân tâm để cảm nhận, dùng cả tình mạng để hoàn thành việc cần làm.

Trong phủ đệ Phật sống, Chu Chân Mệnh kiểm tra lại một lượt kế hoạch của mình. Trước hết phải canh phòng nghiêm ngặt quanh chân núi Thiên Thê, sau đó điều động nhân lực lùng sục cho ra Lỗ Nhất Khí. Bắt được người cũng tốt, lấy được vật cũng tốt, đều là thượng sách. Nếu tình huống xấu hơn, cũng phải ép Lỗ Nhất Khí hấp tấp ra tay, như vậy hắn có thể rình sẵn một bên, chờ thời cơ cướp lấy bảo bối. Kế hoạch đã kín kẽ tuyệt đối, song không hiểu sao trong lòng hắn vẫn thấy thấp thỏm, thiếu đi sự tự tin cần có của kẻ bá vương, cũng thiếu đi sự tĩnh định của người tu đạo. Cũng chính vì Lỗ Nhất Khí là một thiên tài, song cũng là người quỷ kế khó lường, những việc hắn làm thường tương phản mâu thuẫn cực độ, không theo lối tư duy của người bình thường, cũng không phải là mánh khoé của kẻ giang hồ. Đối mặt với một đối thủ như vậy, Chu Chân Mệnh thực sự cảm thấy có đôi chút bất lực.

Trong lúc Chu Chân Mệnh đang mải mê suy nghĩ, thì một bóng áo đỏ bỗng hiện ra trước cửa phòng. Bước vào là Đại hộ pháp của Phật sống. Đại hộ pháp chắp tay hành lễ, sau đó bẩm báo tình hình bên ngoài với Chu Chân Mệnh:

- Theo dặn dò của môn trưởng, mọi đèn nến chiếu sáng trong ngoài chùa đều đã tắt hết, khảm nút ở các nơi cũng đã mở sẵn, các cửa ải quan trọng đã bố trí cao thủ canh giữ, thú lớn trong vườn thú đều đã thả ra. Thú Cơ nương nương đích thân canh giữ vị trí Thiên Thê sau chùa. Còn Phật sống cũng đã ra khỏi phòng kinh, nói là đêm nay sẽ gặp một người có duyên.

Phật sống của chùa Kim Đỉnh là một kỳ nhân tuyệt thế. Thú Cơ nương nương là cao thủ tuyệt đỉnh do Chu Chân Mệnh phái tới trấn giữ nơi này. Tay Đại hộ pháp trước mặt và hai vị Âm Dương Thiên Vương trong chùa, mỗi người đều có một sở trường đặc biệt. Song ngoại trừ mấy người này, Chu Chân Mệnh cảm thấy những kẻ được cho là cao thủ khác trong chùa đều không thể dùng được.

- Những người dùng được xem ra hơi ít ỏi. Thế này đi, ngươi truyền lệnh cho Cứ Điên đường phóng pháo hiệu liên châu gọi lực lượng ở núi Quy Giới trở về!

Pháo hiệu liên châu là một loại pháo hiệu dùng để truyền tin trong đêm tối, tương tự như đài phong hoả. Song nó không phải là truyền tiếp nối liền, mà là truyền tiếp theo dạng chiếu xạ. Sau khi phát pháo hiệu thứ nhất được bắn ra, các cứ điểm và trạm chốt khác nhìn thấy sẽ tiếp tục phóng pháo hiệu, cứ thể nối nhau mà truyền đi, có thể bao trùm toàn bộ phạm vi kiểm soát của Chu gia.

Chu Chân Mệnh nhẩm tính, tốc độ truyền tin của pháo hiệu liên châu tới núi Thiên Giới đại khái mất khoảng hai canh giờ. Sau đó, đội kỵ mã ở đấy rời núi tới chùa Kim Đỉnh, nhanh nhất cũng phải chiều tối hôm sau mới tới. Mà phân tích dựa theo thông tin hắn đã nhận được, Lỗ Nhất Khí lúc này mới bắt đầu điều tra xem xét, cho dù đã tìm ra vị trí của bảo cấu, cũng cần phải chuẩn bị mới có thể hành động. Đêm nay chắc chắn không thể kịp, ngày mai cũng không thể ra tay. Bọn họ lấy ít chọi nhiều mà đòi phá giải khảm nút giữa thanh thiên bạch nhật là vô cùng bất lợi. Bởi vậy, sớm nhất cũng phải đợi tới đêm mai mới có thể hành động. Tới lúc đó, người của hắn cũng đã kịp tới nơi.

Lần này, thời gian ngưng thần nhập định của Lỗ Nhất Khí không dài. Tiếng nổ giữa không trung và quầng sáng chói loà đã khiến cậu bừng tỉnh.

- Đó là pháo hiệu liên châu, Chu gia đang gấp rút truyền tin đi xa triệu tập lực lượng. – Viêm Hoá Lôi vừa nhìn thấy quả pháo hiệu liên châu đầu tiên đã khẳng định chắc chắn.

- Pháo hiệu lan về phía đông nhanh nhất, cũng dày đặc nhất, chẳng lẽ muốn gọi đôi yêu ma già ở núi Quy Giới về ư? - Hạ Táo Hoa bất giác rùng mình khi nghĩ tới Thiên táng sư và mụ già lưng gập ở núi Quy Giới.

Lỗ Nhất Khí không nói gì, song trong lòng cậu hiểu rõ cần phải hành động ngay lập tức, Chu Chân Mệnh đã ép cậu tới chân tường. Tuy nhiên, những biến động dưới chân núi xảy ra ngay sau đó đã khiến cho mức độ khả thi của kế hoạch mà cậu đã vạch ra trở thành một câu hỏi lớn.

Trong khuôn viên chùa tối đen như mực đột ngột bùng lên một đám lửa đuốc đông đảo, sau đó tản ra thành nhiều hàng ngũ ngoằn ngoèo trông như những con rồng lửa uốn lượn chạy đi dưới chân núi. Lửa đuốc cũng thình lình bùng lên trong những phố chợ tối tăm, nhanh chóng lan rộng tới hai mặt dãy núi và khe núi đông tây.

- Xem ra chúng định càn quét thị trấn, lùng sục trên núi, ép chúng ta không còn chỗ ẩn thân. – Lưu Chi Thủ nói.

- Không còn chỗ ẩn thân thì thôi không trốn nữa! – Câu nói của Lỗ Nhất Khí khiến mọi người ngơ ngác chẳng hiểu mô tê gì.

- Nhưng chỉ vài người chúng ta làm sao có thể đối đầu với chúng? – Sách Khố Lạt nói.

- Không tính tôi và chú ấy! - Vừa nói Lỗ Nhất Khí vừa giơ cánh tay cụt lên chỉ vào Viêm Hoá Lôi.

Lưu Chi Thủ không thể thích ứng với kiểu ăn nói của Lỗ Nhất Khí:

- Môn trưởng muốn vài người chúng tôi liều mạng với bọn chúng?

- Tôi không ngốc nghếch đến thế, các vị cũng không mù quáng đến vậy. Tôi chỉ muốn các vị dụ đám người đó đi! - Lỗ Nhất Khí trả lời – Chúng ta cũng học theo cách thức của pháo hiệu liên châu!

Bố trí của Lỗ Nhất Khí rất đơn giản, cậu bảo Dưỡng Quỷ Tỳ chạy về phía đông ba dặm, sau đó đốt lên một đống lửa ở một vị trí dễ nhận. Hạ Táo Hoa cũng chạy về phía đông tám dặm, sau khi đống lửa của Dưỡng Quỷ Tỳ cháy được nửa tuần hương thì cũng đốt lên một đống lửa. Sách Khố Lạt chạy về phía đông mười lăm dặm, đợi đống lửa của Hạ Táo Hoa cháy được nửa tuần hương, cũng đốt lên một đống lửa. Còn Lưu Chi Thủ cũng đi về phía đông khoảng hai mươi lăm dặm, cũng đốt lửa theo cách tương tự.

- Sau khi lửa đã đốt lên, mọi người hãy mau chóng nấp kỹ, tốt nhất là cách thật xa nơi đây! - Lỗ Nhất Khí sắp xếp như vậy, ẩn ý sâu xa là không muốn để cho bọn họ can dự vào kế hoạch tiếp theo.

- Thế anh ở đây làm gì? - Hạ Táo Hoa trong thâm tâm không muốn rời xa Lỗ Nhất Khí.

- Sau đó tới đâu để tìm anh? - Dưỡng Quỷ Tỳ cũng hỏi.

- Cũng chưa biết! Mọi người không phải tìm tôi, lúc nào cần gặp tự khắc sẽ gặp. - Lỗ Nhất Khí bình thản trả lời, song mọi người đều cảm nhận được vẻ kiên quyết từ trong đó. Một lời của cậu đã khiến Dưỡng Quỷ Tỳ lập tức hiểu rằng mình nên làm gì, quyết định của cô cũng kiên quyết y như vậy.

Không ai nói thêm một lời nào nữa, họ hiểu có nói nhiều cũng vô ích. Bọn họ lập tức chia đường hành động.

Kế sách này của Lỗ Nhất Khí kỳ thức vô cùng đơn giản, chính là đích thân đánh cược ba ván. Thế nhưng kế hoạch càng đơn giản, sơ suất sẽ càng nhiều. Bất kể sai sót xảy ra ở khâu nào cũng sẽ khiến cậu thua trắng.

Trên vách Bán Bộ chỉ còn lại Lỗ Nhất Khí và Viêm Hoá Lôi. Họ ngồi đối diện với nhau, nhìn thẳng vào nhau, song hồi lâu chẳng ai nói câu nào, chỉ im lặng lắng nghe tiếng gió thổi vi vút và tiếng người kêu ngựa hí dưới núi.

Dưỡng Quỷ Tỳ thân thủ nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc, đống lửa thứ nhất đã bùng lên rừng rực. Hàng đuốc sáng uốn lượn rùng rùng như suối chảy dưới chân núi đột nhiên khựng lại trong chốc lát, rồi lập tức tách ra một nhánh, đổ về phía đám cháy.

Ngay sau khi đống lửa được đốt lên, Lỗ Nhất Khí bỗng nở một nụ cười. Song vẻ cười rất nhạt nhẽo, rất hoang mang, bởi lẽ lúc này, cậu muốn đặt cược ván đầu tiên trong kế hoạch của mình: Viêm Hoá Lôi không phải tai mắt của Chu gia, hơn nữa, ông ta sẽ giúp mình và có thể giúp mình. Trong ván bạc thứ nhất, cậu đã đặt cược bằng kế hoạch quật bảo bối và chính bản thân cậu. Nếu thua ván bạc này, đại sự quật Thiên bảo trấn hung huyệt sẽ tan tành như bọt nước, còn bản thân cũng khó lòng thoát khỏi tay đối thủ.

- Chú Viêm, ở đây chỉ còn lại tôi và chú, tôi cũng không muốn giấu nữa. Đêm nay tôi sẽ đi khai quật bảo bối, song cần chú giúp một việc nhỏ.

Viêm Hoá Lôi nghe Lỗ Nhất Khí nói vậy, không hề tỏ ra quá ngạc nhiên, chỉ hỏi lại một câu:

- Cậu làm được chứ?

- Không biết, phải thử xem! Song nếu chú không giúp, chắc chắn sẽ không làm được.

- Cậu nói đi, giúp thế nào?

- Như thế này...

Viêm Hoá Lôi gật đầu lia lịa, ông đã hiểu mình cần phải làm gì. Thế nhưng về phần Lỗ Nhất Khí, cậu sẽ hành động thế nào, ông lại không thể đoán ra. Bởi lẽ việc mà Lỗ Nhất Khí giao cho ông làm, xem ra chẳng có liên quan gì tới việc khai quật bảo bối.

Đống lửa thứ hai ở phía đông cũng đã được nhóm lên, hoàn toàn đúng với yêu cầu của Lỗ Nhất Khí.

Lần này đám đuốc dưới núi không còn phân nhánh chạy tới nữa, chỉ có từ trong số đuốc đổ về phía đống lửa thứ nhất tách ra một đám tiếp tục tiến về phía đống lửa thứ hai. Điều này cũng nằm trong dự tính của Lỗ Nhất Khí, đối thủ đều là giang hồ lão luyện, hiểu rõ âm mưu trí trá, điệu hổ ly sơn.

Hạ Táo Hoa sau khi châm cháy đống lửa thứ hai, vốn định băng qua Nam Lĩnh tháo chạy, song đột nhiên phát hiện một bóng người quen thuộc lướt đánh vèo qua cách chỗ cô đứng không xa. Bóng người này cô rất muốn gặp song cũng rất sợ gặp, nhưng đã gặp rồi thì không thể bỏ qua. Cô bèn lập tức thi triển thân thủ bám đuổi theo sau.

Sách Khố Lạt châm xong đống lửa thứ ba cũng không bỏ chạy đi xa. Gã là thủ lĩnh của đám hậu duệ Mặc môn ở vùng đất này, những anh em đồng môn của gã và gia quyến của bọn họ đều đã bị đối thủ vây khốn, gã không thể cứ thế mà đi. Tại sao người của Mặc gia lại bị bại lộ, nhất định phải làm rõ nguyên nhân. Bởi vậy khi đống lửa còn chưa kịp cháy đượm, gã đã tức tốc chạy trở về theo một con đường mòn ẩn khuất.

Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí và Viêm Hoá Lôi đứng dậy chuẩn bị bước xuống núi, Lỗ Nhất Khí đột nhiên cảm giác thấy có một luồng khí tướng dị thường ập thẳng đến trước mặt:

- Nấp mau! Có kẻ binh khí đầy mình đang tới.

Lỗ Nhất Khí và Viêm Hoá Lôi vừa kịp ẩn mình phía sau một tảng đá kề sát vách Bán Bộ, người phía dưới đã lên tới nơi.

Những kẻ vừa lên tới lặng phắc như đá tảng, từ xa đã cảm nhận được một luồng khí âm hàn sắc lạnh xộc thẳng đến. Từ sau tảng đá, Viêm Hoá Lôi kín đáo hé một con mắt ra nhìn, ông thấy trong đám người trang phục đen sì, có một kẻ giống hết như lưỡi đao sắc bén. Người là đao, đao cũng là người, khí thế sắc lẹm không thể đương đầu. Chẳng lẽ đây chính là người đao mười sáu lưỡi trong truyền thuyết giang hồ?

- Không phát hiện ra vẫn còn một dãy ám hiệu chạy lên trên núi, bây giờ thì muộn mất rồi! – Có người lên tiếng.

- Vẫn chưa quá muộn, có lẽ chưa chạy bao xa. Chúng ta chia thành ba nhóm, một nhóm sang trái, một nhóm sang phải, một nhóm đuổi đến sau núi. Trên đường chú ý vết tích và những chỗ có thể ẩn náu. – Gã giống hệt lưỡi đao đang sắp đặt, giọng nói của gã hệt như những nhát đâm chém thẳng tay vào sinh mệnh.

Đợi đám người đi khuất, Viêm Hoá Lôi mới khẽ thở ra một hơi. May mà đã ẩn nấp tại chỗ, đối thủ không ngờ được rằng bọn họ đang ngồi ngay trước mặt chúng. Nếu mù quáng chạy trốn, hẳn là đã bị một trong ba nhóm kia túm cổ trên đường rồi.

- Kẻ vừa sắp xếp chính là người đao mười sáu lưỡi, sát thủ máu lạnh bậc nhất giang hồ. – Viêm Hoá Lôi đã đoán lầm, kẻ giống hệt lưỡi đao vừa nãy chính là thủ lĩnh của đám người đao mười sáu lưỡi, là Đao đầu Đao Thập Lục.

- Hắn ghê gớm cỡ nào cũng mặc, dù sao chúng ta cũng không phải đụng đầu với chúng! - Lỗ Nhất Khí bình tĩnh nói.

- Vậy tiếp theo chúng ta phải làm thế nào? – Viêm Hoá Lôi hỏi.

- Cứ theo kế hoạch cũ!

Khi trời gần sáng, Lỗ Nhất Khí một mình tới bên ngoài tường bao phía tây của chùa Kim Đỉnh. Trên người cậu đã có thêm một thứ, đó là một cặp túi lưới được bện bằng sợi da bò mảnh quết dầu trơn, được vắt lòng thòng hai bên cổ cậu bằng một sợi dây da. Trong mỗi chiếc túi lưới đựng một chiếc ấm sứ thô to hình bình da đựng nước. Trong ấm lèn chặt thuốc pháo, miệng vòi ấm có mồi đập diêm tiêu, nếu đập vào đó có thể kích nổ thuốc pháo trong ấm.

Có câu "Thợ khéo đi khắp gầm trời, mắt nhìn chỉ thấy những nơi hành nghề", tuy Viêm Hoá Lôi mới đến thị trấn chưa được bao lâu, song trong đầu ông ta đã kịp ghi nhớ kỹ lưỡng những địa điểm có thể lợi dụng được, như cửa hàng bán dầu, cửa hàng bán hoả khí, tiệm sắt, tiệm diêm tiêu. Bởi vậy, khi Lỗ Nhất Khí yêu cầu chế tạo một cặp bộc phá có sức công phá lớn, ông ta chẳng cần suy nghĩ đã đồng ý tắp lự.

Dụng cụ đã có đủ, lúc này chỉ cần chờ thời cơ. Mà thời cơ tốt nhất mà Lỗ Nhất Khí đang chờ đợi phải nhờ Viêm Hoá Lôi sáng tạo. Thời cơ tới, cậu có thể đặt cược ván thứ hai.

Viêm Hoá Lôi thực tình vẫn chưa hiểu tại sao Lỗ Nhất Khí lại đưa ra yêu cầu như vậy. Thứ nhất cần hạn chế tối đa làm tổn thương về người; thứ hai, khi bắt đầu phải cho cháy nổ liên tục, sau đó cháy ở nhiều điểm, từ giữa thị trấn lan dần ra hai bên. Tốc độ cháy không được quá nhanh, để người dân có thời gian tẩu tán. Song thế lửa cháy lại cần phải ổn định, khiến người ta không thể dập tắt. Với yêu cầu này, vốn dĩ phải cần tới hơn chục người mới có thể thực hiện được, song Viêm Hoá Lôi chỉ cần một mình cũng có thể hoàn thành xuất sắc.

Bắt đầu từ cửa hàng bán dầu và diêm tiêu, bùng lên một đám cháy nổ ổn ào, lửa bốc rừng rực. Sau đó, dùng thảm trên nóc nhà làm mồi dẫn, đưa lửa lan sang các xưởng thuộc da. Trong xưởng thuộc da, ngóc ngách nào cũng bám đầy mỡ động vật tích tụ lâu năm, tuy tốc độ bén lửa khá chậm, song sau khi đã bốc cháy thì rất khó dập tắt. Cuối cùng, dẫn lửa bén vào kho chứa cỏ và chuồng gia súc trong chợ lừa ngựa. Nhờ sự trợ giúp đắc lực của gió tây thổi vòng qua núi, cỏ cháy sẽ được thổi đi tung toé khắp thị trấn.

Để đề phòng vạn nhất có điều gì sơ suất, Viêm Hoá Lôi đã lựa chọn khá nhiều điểm phóng hoả. Dùng định hương dẫn cháy diêm tiêu, dùng pháo hoa dẫn cháy dầu mỡ.

Chương 17: Liều đặt cược

Khi Lỗ Nhất Khí một mình lẻn tới bên tường bao phía tây của chùa Lạt ma, Viêm Hoá Lôi đã sắp xếp xong xuôi mọi việc. Định hương đã đốt, ngòi pháo cũng đã châm cháy, chỉ đợi tới thời khắc mặt trời bình minh sắp sửa lộ diện.

Lỗ Nhất Khí hết sức thận trọng lôi hai quả bộc phá cỡ bự từ trong túi lưới ra, do chỉ còn lại một tay nên cậu thao tác khá chật vật. Tường chùa vô cùng vững chãi, điểm này Lỗ Nhất Khí sớm đã tính tới, bởi vậy mới chuẩn bị tới hai quả bộc phá. Một quả đặt ở chân tường, một quả cậu đỡ trên tay. Đợi tới đúng thời gian đã định, cậu sẽ quăng một quả bộc phá vào chân tường cho phát nổ. Quả bộc phá sẽ tạo nên một sức công phá dữ dội vào bức tường trước mặt, đồng thời cũng dẫn nổ quả bộc phá còn lại, như vậy mới có thể đảm bảo phá vỡ được vách tường.

Chân trời phía đông đã phai dần thành màu xanh thẫm, đỉnh núi Thiên Thê cũng hơi hửng lên chút sắc trắng nhàn nhạt, song dưới chân núi, cả thị trấn và ngôi chùa Kim Đỉnh vẫn chìm trong bóng tối dày đặc. Trên núi Nam Lĩnh, trong mấy đống lửa Lỗ Nhất Khí đã bố trí, chỉ còn đống ở xa nhất vẫn le lói cháy. Trong thị trấn, những dãy đuốc tuần tra ngoằn ngoèo như rồng lửa di chuyển có vẻ chậm chạp và ngưng trệ. Sau một đêm ngược xuôi không ngơi nghỉ, lúc này là chính thời điểm dễ mệt mỏi nhất, uể oải nhất.

Thình lình dội lên một tiếng nổ rền chát chúa, tiếp đến là những tiếng nổ dồn dập liên hồi, khiến cả dãy núi Thiên Thê cũng như rung chuyển. Trong lúc mọi người còn đang sững sờ chưa kịp phản ứng, lại thêm một tiếng nổ dữ dội nữa vang lên, rồi kéo theo hàng tràng những tiếng nổ kéo dài y hệt. Sau những tiếng nổ vang trời và những cơn rung động dữ dội, lửa lập tức bùng lên khắp thị trấn, tựa như có dòng thác lửa đột ngột từ trên trời đổ xuống, như có suối lửa bất đồ từ lòng đất phun lên.

Ngay khi chuỗi tiếng nổ thứ hai vang lên, Lỗ Nhất Khí đã quăng quả bộc phá trong chiếc ấm đi. Tiếng nổ tuy đinh tai nhức óc, song vẫn chìm nghỉm trong hàng tràng tiếng nổ dữ dội trong thị trấn. Nhưng vẫn có người nghe ra được âm thanh khác thường ở đây, hơn nữa, không chỉ có một người.

Sức công phá của quả bộc phá do Viêm Hoá Lôi chế tạo ghê gớm hơn rất nhiều so với tưởng tượng, bức tường bao kiên cố bên chùa Kim Đỉnh không thủng lỗ, mà là sập hẳn xuống một đoạn.

Lỗ Nhất Khí biết hành động của mình cần phải đồng bộ với tốc độ lan toả của ngọn lửa. Mà tốc độ lửa cháy đã được Viêm Hoá Lôi tính toán kỹ lưỡng, kiểm soát rất tốt. Trong khi bản thân cậu sẽ gặp phải chuyện gì, cậu lại không hề hay biết.

Lỗ Nhất Khí hít vào một hơi thật sâu, sau đó sải bước tiến về phía vị trí tường vừa sập xuống.

Chân vừa bước đi, cũng có nghĩa là cậu đã bắt đầu đặt cược ván thứ hai. Thứ dùng để đặt cược lần này chính là tính mạng của chính cậu.

Chu Chân Mệnh suốt đêm không ngủ, đầu óc căng thẳng không thể thả lỏng lấy một giây. Hắn nhẩm tính, toàn bộ khảm nút trong chùa đã được mở sẵn, cho dù Lỗ Nhất Khí có là thiên tài tuyệt tỉnh về phá giải khảm nút, chí ít cũng phải mất bốn năm canh giờ mới có thể tới được vị trí Thiên Thê. Dưới chân Thiên Thê có Phật sống Kim Đỉnh và Thú Cơ nương nương canh giữ, ngoài ra còn có đám thú dữ do Thú Cơ huấn luyện. Trong đám cao thủ đang lùng sục bên ngoài chùa, có thủ lĩnh Đao Thập Lục của đám người đao mười sáu lưỡi, đường chủ Cao Bôn Lôi của Cứ Điên đường. Trong chùa có Đại hộ pháp và hai Thiên Vương Âm, Dương, lại cộng thêm đám cao thủ tuỳ tùng và đội kỵ mã của Cứ Điên đường. Xét về thực lực, chắc chắn đã bỏ xa đám người Lỗ gia. Nếu đã như vậy, tại sao không thiết kế luôn một khảm mở miệng, dụ toàn bộ người Lỗ gia tự lao đầu vào rồi hốt trọn một mẻ? Bởi vậy, sáng tinh mơ hôm đó, Chu Chân Mệnh lại truyền đi chỉ lệnh mới, cho đoàn người cầm đuốc truy đuổi đám người đốt lửa tiếp tục chạy về phía đông tạo hiện tượng giả, các đội tuần tra trong thị trấn giảm bớt nhịp độ, điều Đao Thập Lục và Cao Bôn Lôi về chùa, còn đám cao thủ tuỳ tùng do hắn mang đến ẩn nấp quanh chùa sẵn sàng chờ lệnh. Truyền cho Cứ Điên đường rút cao thủ về tập trung ở chùa Kim Đỉnh.

Lỗ Nhất Khí đã không thể phát giác ra kế hoạch mới của Chu Chân Mệnh, nên vẫn hành động theo kế hoạch ban đầu.

Vào thời khắc dứt khoát bước qua bức tường đổ vào trong chùa, toàn bộ các dây thần kinh trên khắp cơ thể cậu đều căng cứng như dây đàn, sẵn sàng đón nhận một màn tàn sát tan xương nát thịt. Song không có, ngay cả một động tĩnh bất thường cũng không có.

Lỗ Nhất Khí thở hắt ra một cái, rồi tiến thêm bước thứ hai. Sau bước này, cậu không tiếp tục tiến lên nữa, mà từ từ ngồi xuống, thận trọng quan sát bãi đá xung quanh.

Rất dễ dàng phát hiện ra nút của chốt lẫy giữa những tảng đá. Cũng giống như nguyên lý của khảm diện thông thường, nơi không có đường chính là đường chết, ở đây giăng kín vô số khảm nút tuyệt sát. Nhưng bước đầu tiên và bước thứ hai của cậu đều không kích hoạt đến khảm nút. Điều này tuyệt đối không phải do cậu may mắn, cũng không phải do tường bị nổ sập khiến chốt lẫy bị phá, mà là phù hợp với một thiên cơ mà cậu biết được từ "Cơ xảo tập". Đây mới là nguyên nhân thực sự khiến Lỗ Nhất Khí quyết định đánh cược ván thứ hai.

Ván này cậu lại thắng cược! Lỗ Nhất Khí gắng kìm nén niềm hưng phấn trong lòng, từ từ đứng dậy, rồi tiếp tục tiến về phía trước với động tác hết sức tự nhiên, hoàn toàn đi theo cảm giác.

Ngoài đường phố lúc này náo loạn như ong vỡ tổ, khắp nơi người chạy táo tác, ồn ào tiếng hô hoán dập lửa, tiếng gào khóc, tiếng gọi mẹ tìm con. Song cổng chùa Kim Đỉnh vẫn đóng im ỉm, ngoài cổng cũng không một bóng người. Dòng người đang chạy nhốn nháo trên phố dường như đã quên bẵng mất sự tồn tại của chùa Kim Đỉnh.

Một cái bóng vụt đến trước cổng chùa Kim Đỉnh, nhìn trước ngó sau một thoáng, thấy không có ai chú ý tới mình, lập tức phóng lên bậc thang theo kiểu lên hai lùi một, lên đến bậc trên cùng, thoăn thoắt lần mép sờ khe, giải chốt lẫy trên cửa với thủ pháp vô cùng thuần thục. Cửa chùa mở ra một khe chật hẹp, người đó lập tức lách vào bên trong.

Người này vừa lọt vào trong chùa, từ con hẻm nhỏ rừng rực ánh lửa đối diện cổng chùa lập tức vọt ra một bóng người nữa, cũng đi theo bộ pháp tương tự, nhanh chóng áp sát cổng chùa, cũng giải chốt mở cổng với thủ pháp y hệt, rồi tiến vào trong.

Bóng người lách vào trước rất thông thạo đường đi lối lại trong chùa, sau vài ngã rẽ, liền chạy thẳng đến gian phòng bí mật nơi Chu Chân Mệnh đang ở.

Bóng người vào sau lặng lẽ bám sát gót người trước, khác là ở chỗ trong quá trình băng qua viện vào phòng, người này liên tục lia mắt quan sát khắp nơi, dường như đang tìm kiếm thứ gì đó.

Những tiếng nổ liên hồi đã khiến Chu Chân Mệnh mặt mày biến sắc. Đây chắc chắn là tín hiệu hành động của người Lỗ gia, song bọn chúng khởi sự có vẻ quá sớm. Nhưng ngay sau đó, hắn lập tức nghe ra sự bất thường trong chuỗi nổ tiếp theo, đương nhiên đó chính là tiếng bộc phá nổ tường của Lỗ Nhất Khí. Người Lỗ gia không những hành động chóng vánh, mà còn thay đổi hoàn toàn phong cách vốn có của họ.

Bỗng vụt lại một tiếng rít vang nhức óc, rồi một mũi phi tiêu ống sáo cắm phập lên trụ cửa phòng, rung lên u u.

Đại hộ pháp đẩy cửa lao vụt ra ngoài, vạt áo cà sa đỏ rực múa lên phần phật tạo thành một áng mây lực sĩ che kín cơ thể. Âm, Dương Thiên Vương và Đao Thập Lục lao theo bén gót, rồi nhanh chóng tách sang hai phía, tạo thành thế hợp sức bao vây người vừa xâm nhập. Thế nhưng người phóng phi tiêu đã biến mất tăm không còn dấu tích.

Tả Thiên Vương quấn vạt áo vào tay gỡ mũi phi tiêu từ trụ cửa xuống, đuôi mũi phi tiêu có buộc một miếng da dê màu trắng. Hắn hít ngửa miếng da một lúc, xác nhận không có thuốc độc mới đưa lại cho Chu Chân Mệnh.

- Tai mắt truyền tin, lửa cháy và tiếng nổ ngoài kia là hành vi che mắt của đối thủ. – Thông tin mà mũi phi tiêu mang tới đã chứng thực cho suy luận của Chu Chân Mệnh, đồng thời cũng chỉ ra cho hắn phương hướng hành động tiếp theo.

- Đại hộ pháp, ngươi dẫn theo Âm, Dương Thiên Vương lập tức ra khỏi chùa chạy sang phía tây, đối phương đang phá tường xâm nhập từ đó. Sau khi tới nơi, các ngươi chỉ cần canh chừng lỗ hổng, không cho phép bất cứ ai trở ra. Cao đường chủ, lập tức truyền tín hiệu, lệnh cho đám tuỳ tùng của ta tiến vào qua đường ngầm tại phủ đệ Phật sống, thẳng tới chân núi Thiên Thê! - Hắn vừa dứt lời, những kẻ được phân công lập tức hành động.

Chính vào lúc Chu Chân Mệnh đang sắp đặt thuộc hạ, trong dòng người nhốn nháo trên phố, lại vụt ra hai bóng người. Bọn họ lợi dụng chút bóng tối còn sót lại, mò mẫm một hồi trước cổng chùa, rồi cũng chui tọt vào trong.

Đại hộ pháp và hai Thiên Vương cấp tập ra khỏi chùa chạy về phía tây, trong lúc vội vàng đã bỏ qua hai điểm bất thường. Thứ nhất là hai gã giật dây canh gác bên cổng đã biến mất; thứ hai là thiết bị cảnh báo trên cổng chùa và chốt lẫy ổ khoá đều đã bị phá giải. Những hiện tượng này, nếu là Đao Thập Lục hoặc Cao Bôn Lôi thế nào cũng chú ý tới, song lúc này lại là Đại hộ pháp và hai Thiên Vương xưa nay chưa từng đi xa khỏi chùa, khuyết điểm lớn nhất chính là không có kinh nghiệm và tâm lý cảnh giác của kẻ giang hồ.

Lỗ Nhất Khí tiến về phía trước, bước đi một cách khoan thai nhẹ nhõm. Đúng thế, dù là ai cũng vậy, chỉ cần quên đi tất cả, quên đi bản thân, bước đi cũng sẽ vô cùng nhẹ nhõm. Áng chừng đã tới chính giữa bãi đá Thần Hô, Lỗ Nhất Khí bèn dừng lại. Lúc này, ở chân trời phía đông, vầng dương đỏ rực đã hiện lên tròn trịa, hắt một vệt hồng rạng rỡ trải dài trên bãi đá Thần Hô, trên sườn núi Thiên Thê.

- Trời sáng rồi! - Lỗ Nhất Khí bất giác tự lẩm bẩm một mình, bàng hoàng như vừa bừng tỉnh khỏi giấc mơ. Khuôn mặt cậu cũng đỏ rực, vì ánh bình minh phản chiếu, cũng vì ánh lửa rừng rực kín trời.

Nhìn từ khoảng cách gần, núi Thiên Thê càng hùng vĩ khó tả, với tầng tầng lớp lớp mây mù đen xám giăng ngang sườn núi. Dựa theo đặc điểm nhận dạng của bảo cấu mà Mạc Thiên Quy đã nói, lại kết hợp với đặc điểm "nội hợp khí thông", có lẽ bảo vật đang ở nơi mây mù bao phủ kia. Nhưng năm chữ "điên chi uyên" và "thê khởi" trên tấm thẻ ngọc lại hoàn toàn không liên quan gì tới chỗ "nội hợp khí thông" bên dưới lớp lớp mây mù.

Lỗ Nhất Khí đang mải suy nghĩ, thì từ trong bóng tối âm u dưới chân núi vọng lại vài tiếng gầm gừ trầm đục, còn thấp thoáng mấy đốm sáng lập loè. Chính là bầy thú dữ đã được thả ra trong chùa. Lỗ Nhất Khí vội đặt tay vào khẩu pạc-hoọc theo phản xạ, song lập tức lại thả tay ra. Đám muông thú kia từ đầu tới cuối nằm phục bất động, không hề có ý muốn tấn công cậu. Xem ra trong ván bạc này sẽ thắng được bao nhiêu, bản thân cậu cũng không thể ước đoán.

Đại hộ pháp dẫn theo hai vị Âm, Dương Thiên Vương mau chóng tiến về phía lỗ thủng trên vách tường phía tây. Với tốc độ của chúng, quãng đường ngắn ngủi này chỉ một loáng là đến nơi. Song trên thực tế, chúng đã không thể tới đích kịp thời như yêu cầu của Chu Chân Mệnh, vì đã có Dưỡng Quỷ Tỳ ngăn cản.

Trước khi đi đốt đống lửa đầu tiên, Dưỡng Quỷ Tỳ đã tính toán xong xuôi, tuyệt đối không để Lỗ Nhất Khí một mình mạo hiểm. Bởi vậy, khi lửa vừa nhóm xong, cô lập tức lướt xuống chân núi như một bóng ma, ẩn mình trong một căn nhà đổ nát bên lối vào thị trấn. Đợi đến khi Lỗ Nhất Khí và Viêm Hoá Lôi xuống núi, cô bèn lẳng lặng bám sát sau lưng Lỗ Nhất Khí.

Đại hộ pháp và hai gã Âm, Dương Thiên Vương đã khựng lại trước Dưỡng Quỷ Tỳ hơn chục bước. Chúng không biết mình đang phải đối mặt với một nhân vật như thế nào, song cảm nhận rõ ràng một mối uy hiếp ma quỷ.

Uy hiếp không chỉ ở một chỗ, mà phía sau căn nhà ở bên kia đường còn thấp thoáng hai luồng khí quái lạ, trong đó có một luồng khí cũng ghê gớm và ma quái y hệt như cô ả chặn đường. Không phải ma quỷ, mà là xác chết, vô số xác chết.

Một chặn rõ, hai ngầm phục, đây là chiêu tập kích điển hình trong giang hồ. Tuy bọn Đại hộ pháp ba người chưa từng qua lại giang hồ, song kiến thức cơ bản này chúng đã học thuộc nằm lòng từ lâu.

Dưỡng Quỷ Tỳ đứng bất động tại chỗ, mục đích của cô chỉ là không cho bọn chúng tiếp tục đi về phía tây. Bởi vậy chỉ cần đối phương dừng lại, cô cũng đã đạt được mục đích.

Đại hộ pháp cũng không cử động, trước khi chưa hiểu rõ mục đích của đối thủ và diễn biến tiếp theo, hành động khinh suất là vô cùng nguy hiểm.

Còn hai gã Âm, Dương Thiên Vương lại dàn thành vị trí "Thiên Vương cưỡi mây" phía trước ngôi nhà, đây là tư thế công thủ song toàn, vừa có thể ứng phó với mũi đột kích có thể xuất hiện từ sau căn nhà, vừa có thể đảm bảo rút lui chóng vánh.

Hai luồng khí quái dị phía sau căn nhà đã chuyển động. Đầu tiên là một thân hình gầy đét thủng thẳng bước ra, dưới ánh bình minh vừa hé rạng, trông chẳng khác gì một lá cờ rách tướp. Đó là lão mù. Song bước chân của lão không còn linh hoạt nữa, mà thân hình đổ xiêu đổ vẹo, ánh mắt vô hồn.

Đi sau lão mù là bóng dáng xinh đẹp trẻ trung của Hạ Táo Hoa. Ánh mắt của cô rất chăm chú, chỉ nhìn vào lão mù phía trước. Sự xuất hiện của Hạ Táo Hoa khiến hai gã Âm, Dương Thiên Vương và Đại hộ pháp đều giật mình khiếp đảm. Bởi lẽ cô vừa xuất hiện, luồng thi khí âm hàn đã xộc thẳng vào tận tim gan của bọn chúng. Hơn nữa, ngay cả dưới sự bao phủ của Phật quang nơi chùa Kim Đỉnh, luồng thi khí đậm đặc vẫn không hề suy giảm, vẫn nặng nề một cách đáng sợ.

Lão mù bước xéo về phía mảng vỡ trên bức tường phía tây, Hạ Táo Hoa bám sát sau lão, hai người như không hề nhìn thấy đám cao thủ đang lăm lăm thủ thế ngay trước mặt.

Dưỡng Quỷ Tỳ khẽ "ơ" lên một tiếng, song cô không nói gì, cũng không ngăn cản.

Đại hộ pháp mỉm cười vẻ rất từ bi. Lúc này, trong lòng hắn không hề lo lắng nữa. Bởi vì chỉ lệnh của Chu Chân Mệnh đã rất rõ ràng, có thể cho người vào, nhưng không được để người ra.

Lỗ Nhất Khí vẫn ngồi lom khom lần mò trên bãi đá, cậu phát hiện thấy đá trong bãi Thần Hô đa phần đều có lỗ thủng, hơn nữa, viền lỗ thủng đều rất trơn tru bằng phẳng, tựa như do con người tạo ra. Gió thổi vòng quanh núi, ào qua bãi Thần Hô, những lỗ thủng trên đá chẳng khác gì những chiếc còi đủ kiểu, phát ra những âm thanh quái dị.

Lỗ Nhất Khí nhặt hai hòn đá kích cỡ bằng nắm tay nhét vào trong túi lưới vừa đựng bộc phá, cậu đang chuẩn bị để trèo lên Thiên Thê, nhưng leo trèo chỉ với một bàn tay sẽ vô cùng chật vật. Khi học ở trường Tây, cậu từng đọc một cuốn sách viết rằng người Tây Dương khi leo lên vách núi cao thường mang theo một số quả cầu kim loại có buộc sẵn vòng dây thừng, có thể quăng gài vào khe đá, cũng có thể quấn buộc vào cây cối hoặc mấu đá để cố định cơ thể và mượn lực trèo lên. Lỗ Nhất Khí chỉ cần buộc chặt dây da nối liền hai túi lưới dưới nách, thì khác nào mọc thêm được hai tay, bổ sung cho khiếm khuyết của cơ thể.

Lỗ Nhất Khí đứng dậy, chỉnh sửa túi lưới và tảng đá xong xuôi, sau đó hít vào một hơi thật sâu, dứt khoát bước phăng phăng về phía trước. Cậu đang đi về phía bóng núi đổ trùm u ám, đi về phía những mối nguy hiểm đang giấu mình trong bóng tối.

Chu Chân Mệnh lệnh cho Đao Thập Lục đi một vòng xem xét tình hình các nơi trong chùa. Rất nhanh, Đao Thập Lục đã quay lại, thông tin đầu tiên mà gã mang về khiến Chu Chân Mệnh choáng váng đến không tin vào tai mình:

- Tại vị trí tường đổ phía tây chỉ có một người vào, toàn bộ khảm tuyệt sát đều không hoạt động. Chốt lẫy ngoài cổng chùa đã bị phá giải hoàn toàn, người canh gác chốt đầu tiên đã biến mất! – Đao Thập Lục là kẻ chuyên giết người, cũng là kẻ có thể bị giết bất cứ lúc nào, bởi vậy gã luôn chú ý tới mọi chi tiết bất hợp lý.

Chu Chân Mệnh lại một lần nữa cảm thấy mình đã đánh giá quá thấp đối thủ.

Chốt đầu tiên là Bậc cắt gối, chốt thứ hai là Phướn mê hồn bước lầm đều đã bị phá giải thuận lợi. Trong đó Bậc cắt gối là do con người điều khiển góc độ bật lên của mặt bậc tam cấp. Song lúc này, kẻ giật dây điều khiển ở đây đã biến mất không tăm tích.

Đi tiếp lên trên đài ba tầng. Tầng thứ nhất Giam chân sương đâm, là khảm cầm chân gây thương tích, tầng thứ hai Trụ mặt trâu phun lửa là khảm giết. Hai khảm này từng được bố trí ở Khu Mật đường, vị trí quân cơ trọng yếu trong phủ Thang Vương đầu thời Minh. Trong "Minh kinh phủ trúc mật yếu" có ghi chép về việc này. Tầng thứ ba Đá lật giếng đao là khảm tuyệt sát, do cao thủ Chu gia thiết kế phỏng theo khảm Ngói nóc lật trời của Âu Dương Từ đời Tống.

Tại vị trí khởi đầu của khảm diện Giam chân sương đâm tầng thứ nhất, ai đó đã đập vỡ vài khối đá lát, cắt đứt sợi gân chính của lẫy ngầm bên dưới. Cách thức của kẻ đó là phá, được hoàn thành chỉ trong chớp mắt. Nhìn vào vết tích đập phá đào cắt, có thể thấy kẻ này dùng kiếm, song độ cứng rắn và sắc bén của thanh kiếm quả thực hiếm thấy trên thế gian, kẻ phá hoại cũng sở hữu một lực độ phi thường.

Khảm diện Trụ mặt trâu phun lửa ở tầng thứ hai chưa hề hoạt động, nhất thời chưa thể nhận ra người vượt khảm đã băng qua bằng cách nào. Về lý mà nói, đây là khảm diện vận hành nhạy bén nhất, chỉ cần chạm vào những sợi cỏ khô giả song giống hệt như thật ở dưới chân trụ lan can và những viên đá nhỏ có mắc nối với những sợi dây mảnh rải trên bề mặt, khảm diện sẽ lập tức hoạt động. Nếu như có người đi qua bên cạnh lan can, để cho bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể làm rung động đến cỏ khô, đá vụn, thậm chí cả luồng gió phật ra khi di chuyển nhanh chóng, cũng sẽ khởi động nút "mặt trâu phun lửa" trên lan can, khiến nó phun ra hàng vòi mỡ trâu Tây Tạng cháy rừng rực, dính vào người không thể dập tắt.

Chu Chân Mệnh muốn gấp rút đi tiếp, nên không kịp nghiên cứu cẩn thận nguyên nhân khiến khảm diện không hoạt động. Kỳ thực, trên con mắt của những mặt trâu, đều có một chiếc kim bạc mảnh như lông bò men theo mí mắt xuyên vào khoé mắt. Tại khoé mắt trâu có một lỗ nhỏ, dùng để khêu dây lẫy mắc vào tấm chặn khi lắp đặt chốt lẫy bên trong. Chiếc kim đâm vào vừa hay đã chèn cứng vị trí cần giữ ở bên dưới tấm chặn, khiến tấm chặn không thể di chuyển.

Khảm tuyệt sát Đá lật hầm đao ở tầng thứ ba đã hoạt động hoàn toàn, toàn bộ ba mươi sáu miệng giếng hình lục giác bài trí hệt như tổ ong đều đã mở ra hết, song kỳ lạ là sau khi hoạt động, lại không thể phục hồi vị trí. Chu Chân Mệnh mau chóng tìm ra nguyên nhân, nắp lật của hai miệng giếng đã được chống chắc bằng chiếc giá hình hai tam giác đối đỉnh làm từ gỗ tần bì cứng. Tuy chỉ có hai miệng giếng, song hoạt động của chốt lẫy lại là thống nhất, hai giếng bị chống chặt, cũng chính là đã chống giữ nắp xoay của toàn bộ các miệng giếng. Trong một miệng giếng không có giá chống là một Lạt ma với cơ thể bị đâm lỗ chỗ như tổ ong, dáng vẻ rất giống kẻ điều khiển Bậc cắt gối. Thảo nào không thấy tăm hơi, té ra đã bị lôi tới đây làm vật dò đường. Song kỳ quặc là trên mặt của tay Lạt ma này vẫn giữ nguyên nụ cười, không biết sức mạnh kỳ quái nào đã khiến gã đón nhận cái chết một cách vui vẻ đến vậy.

Chương 18: Hai lực chạm

Sau đài ba tầng là bậc thang không lan can mười bước, theo đó mà lên sẽ vào đến hành lang kinh luân. Trên đỉnh của dãy bậc thang mười bước có hai bức tượng Hàng Ma tôn giả bằng sắt. Hai pho tượng được đúc rời từng bộ phận, rồi ráp nối với nhau bằng đoạn thép có rãnh khớp với hai đầu tròn. Thân tượng có ẩn giấu các sợi gân lò xo, nên thực chất chính là khảm tượng do con người điều khiển. Phía sau mỗi pho tượng Hàng Ma tôn giả ba bước lại có một chum đồng. Hai chiếc chum đồng vốn để đựng nước, phòng khi hạn hán hoặc hoả hoạn, song ở đây lại là nơi ẩn thân cho kẻ điều khiển khảm tượng.

Cuối cùng, Chu Chân Mệnh đã nhìn thấy dấu tích ẩu đả. Trên mặt đất, trên tượng tôn giả, trên chum đồng, đâu đâu cũng thấy vết máu tung toé. Là máu của một trong hai kẻ giật dây, đầu hắn bị bổ toác làm đôi, cú xuống đòn này còn để lại trên mép chum đồng một vết chém sâu hoắm. Tên giật dây trong chum đồng còn lại không nhìn thấy vết thương nào trên cơ thể, không hiểu tại sao lại chết.

- Người ở phía trước! – Đao Thập Lục kêu khẽ.

Chu Chân Mệnh và Cao Bôn Lôi vội ngẩng lên nhìn, quả nhiên phía cuối hành lang kinh luân có hai bóng người vụt qua, lao về phía toà điện hai bên.

- Cao đường chủ, ngươi theo ta đi đến dãy phòng ở bên dưới hành lang phía tây, giải khảm rồi vòng qua đó. Bọn chúng còn phải qua hai điện và tháp trắng, chúng ta hãy vòng lên trước chặn đầu. Đao đầu, ngươi hãy đuổi sát phía sau, chớ vội vã tấn công, đợi người ta gọi tới tề tựu đông đủ mới được hành động! – Tình huống càng gấp rút, tư duy và cách bố trí của Chu Chân Mệnh lại càng kín kẽ.

Ba người lập tức phân thành hai đường hành sự. Mọi hành động đều bình tĩnh tuần tự, bọn họ rất tự tin có thể xoay chuyển tình thế tiến triển của sự việc.

Những đốm sáng âm u lạnh lẽo đang lập loè bên rìa bãi đá quả nhiên là mắt của những con thú lớn. Song Lỗ Nhất Khí vẫn tiến thẳng về phía chúng không hề do dự.

Gần cậu nhất là một con báo tuyết. Nó nằm phủ phục giữa đám đá vụn bên rìa bãi Thần Hô, ánh mắt rực lên hoang dã, nhô vai thóp bụng, thế như sẵn sàng chồm tới.

Con báo tuyết nhe nanh gầm gừ vài tiếng về phía Lỗ Nhất Khí, thè lưỡi liếm một vòng quanh mép. Con báo tuyết đã bị bỏ đói khá lâu, song lúc này trông phè phỡn cứ như vừa được ăn căng bụng, chầm chậm xoay mình, bước đủng đỉnh sang bên cạnh nhường đường.

Lỗ Nhất Khí kín đáo buông lỏng bàn tay đang nắm chặt báng súng, vẻ mặt lại không tỏ ra quá vui mừng. Bởi lẽ thứ khiến cậu khiếp sợ thực sự không phải là muông thú, mà là con người. Nhân tính bị che phủ dưới tầng tầng lớp lớp tục niệm phàm trần, còn lâu mới có được linh giác như thú tính, không biết liệu có phải nó đã nhận được một sức cảm ứng thần kỳ nào đó hay chăng? Song cho dù kết quả cuối cùng có ra sao, lúc này cậu cũng đã không thể lùi bước.

Lão mù đã bước vào qua đoạn tường đổ, bước chân cũng đã nhanh dần. Hạ Táo Hoa bám sát sau lưng, song sắc mặt mỗi lúc một khó coi, tựa như có một tai hoạ khủng khiếp sắp sửa đổ ập xuống đầu.

Năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch đột nhiên bay vụt ra từ trong đám lửa khói mịt mù bên ngoài chùa, chao đi sát sạt qua đầu tường phía tây, lao thẳng tới núi Thiên Thê. Đúng vào thời khắc sắp đâm sầm vào núi, chúng lại đột nhiên chuyển hướng, tách thành một nhóm hai con, một nhóm ba con bay dạt sang hai bên.

Lỗ Nhất Khí không nhìn thấy lão mù và Hạ Táo Hoa, cậu tập trung toàn bộ sức lực và tinh thần để bước lên phía trước. Tuy cậu vẫn bước đi như bình thường, song có đôi khi, đó lại là một việc khó khăn nhất trên đời.

- Chốn này chẳng phải là Cực Lạc, vì khổ nghiệt chi lại muốn đi? – Khi Lỗ Nhất Khí sắp bước tới gian gác Phật, đột nhiên nghe thấy có người ngâm nga hai câu kệ.

Lỗ Nhất Khí giật mình khựng lại, bởi lẽ cậu không hề cảm thấy nơi này có người. Dù là cao thủ tài giỏi cỡ nào, cậu vẫn có thể nhận ra ít nhiều khí tướng. Song người vừa niệm kệ không hề có khí tướng. Hẳn là đã đạt đến đạo hạnh không linh hư ảo tựa thần tiên.

Song giờ đây, Lỗ Nhất Khí đã không còn giống như khi mới bước chân vào giang hồ nữa. Cơn kinh hãi mau chóng qua đi, cậu lập tức tu khí ngưng thần, dùng cảm giác siêu phàm nhanh chóng tìm kiếm. Không phải là không có khí tướng, mà là một khí tướng khác thường. Trong gian gác nhỏ toả ra một luồng Phật quang thanh khiết.

Lỗ Nhất Khí bước hai bước về phía gian gác, nghiêng đầu nhìn vào khám thờ Phật. Bên trong có một pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng xanh đúc theo thủ pháp Ba Tráp Môn Đặc Y[20]. Song lúc này, đối tượng mà Lỗ Nhất Khí muốn tìm ra là người chứ không phải là tượng. Hai câu kệ vừa rồi chắc hẳn không phải do pho tượng đồng tụng niệm!

- Thấy Phật không bái, Phật không trách tội, trong tâm tự trách.

Đúng là có người đang nói, giọng nói quả thực vọng lại từ pho tượng Phật.

Lỗ Nhất Khí không trả lời. Cho đến ngày nay, cậu đã hiểu được rất nhiều mánh khoé xảo trá trong giang hồ, bao gồm cả nút lẫy lời nói. Tuỳ tiện đáp lời rất có thể sẽ khiến bản thân rối loạn tinh thần, từ đó dẫn tới sơ suất, sai lầm trong hàng động. Cậu chỉ đứng im tại chỗ quan sát căn gác một cách kỹ lưỡng, lại âm thầm kiểm tra bằng kỹ xảo đo ngón tay.

Lỗ Nhất Khí lùi lại vài bước, sau đó chậm rãi đi vòng qua căn gác, cậu muốn xem phía sau căn gác có hình thù ra sao.

Đi ra phía sau mới biết, đây không phải là căn gác hai tầng, mà là hai mặt. Mặt kia của gác Phật cũng có một khám thờ, to hơn rất nhiều. Trong khám thờ cũng có một pho tượng Phật, song là vị Phật sống bằng xương bằng thịt.

Phật sống ngồi xếp bằng trong khám thờ, song không cúi đầu chắp tay, mà mở to đôi mắt sáng trong như mặt hồ ngày tạnh mà nhìn Lỗ Nhất Khí chăm chú.

Nhìn thấy khuôn mặt không vương chút bụi trần và ánh mắt trong suốt của Phật sống, tâm tư Lỗ Nhất Khí bỗng chốc trở nên thư thái lạ thường, tự đáy lòng bất giác dâng lên một niềm kính trọng. Bởi lẽ đây là cao thủ đầu tiên mà cậu không thể cảm giác được khí tướng. Không nói tới trình độ võ công của người này, chỉ xét về cảnh giới tu tâm tu đạo, không một cao thủ phàm tục nào có thể sánh bằng. Một cao thủ thế này, chỉ có thể là Phật sống Kim Đỉnh.

Ánh mắt của Lỗ Nhất Khí và Phật sống giao nhau rồi bất động, không hề dịch chuyển. Đó là sự giao lưu trong một cảnh giới khác.

Phật sống Kim Đỉnh vốn đang ngồi thiền tu trong ngôi đình ở đầu hành lang chạy vòng quanh tháp. Bất chợt trong cõi vô hình bỗng lờ mờ cảm nhận thấy bên ngoài chùa có một làn khí tướng hết sức kỳ lạ đang tiến về bức tường phía tây ngoài bãi đá Thần Hô, bèn chuyển chỗ sang căn gác Phật. Khi Lỗ Nhất Khí nổ tung đoạn tường phía tây, ông là người đầu tiên trong chùa biết được, song ông không hề hành động. Bởi lẽ ngay từ khi Lỗ Nhất Khí còn chưa bước chân vào trong chùa, Phật sống đã cảm thấy nhịp tim, hơi thở, và thậm chí là cả dòng máu chảy trong cơ thể mình đều hoà hợp nhịp nhàng với nhịp điệu lên xuống của làn khí tướng kỳ lạ kia. Đây có lẽ chính là tâm duyên hay thiên ứng mà nhà Phật vẫn thường nói tới.

- Hoá ra là một hoà thượng giả! - Lỗ Nhất Khí vẻ cười cợt.

- Phật không có thật giả, thì thuyết thật giả từ đâu mà tới? - Phật sống Kim Đỉnh không hề tỏ ra tức giận trước lời nói của Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí phát hiện, hai tay Phật sống tuy không chắp lại, song lại kết thành thủ ấn Liên hoa Tam muội da, một trong những đại thủ ấn của Mật Tông.

- Lời không có hư thực, đại hoà thượng hà cớ gì phải hỏi tới tận cùng? - Lỗ Nhất Khí thu vẻ cười cợt thành nụ cười tủm tỉm.

- Ngươi vào chùa của ta không phải là hư, có điều cầu tìm cũng không phải là hư, không phân biệt rõ sự thực hư này, sao đoán được ngươi là thiện hay ác?

- Tôi là kẻ phàm tục, thực hay hư đều ở trong tình lý, thiện hay ác để người đời luận định. Nhưng tôn giá là Phật tử chí cao, lại coi trọng thực hư quá mức, vậy thì tôi nói là hoà thượng giả hẳn cũng không có gì quá đáng.

- Ngươi hiểu Phật?

- Tôi không hiểu Phật, tôi hiểu lý.

- Lý gì? Gì là lý?

- Phật lý, đạo lý, lý của khuôn thước tròn vuông. Tất cả những gì thuận ứng theo ý trời, lòng người trên thế gian này đều là lý.

Ánh mắt của Phật sống Kim Đỉnh sáng rực chiếu thẳng vào Lỗ Nhất Khí:

- Ngươi đã hiểu đạo lý như vậy, về nguyên tắc càng hơn hiểu Phật.

- Không hoàn toàn như vậy, chỉ thấy được đến lông da.

- Song không biết ở sợi nào, ngọn nào?

- Phật nói không dục tự tại, đạo theo vô ngã tự nhiên. Cái khéo của hoá công, khuôn thước hạ, tròn vuông tự thành.

Câu nói của Lỗ Nhất Khí đã bao hàm cái lý chí thượng của cả ba loại pháp môn. Câu thứ nhất cậu đọc được từ cuốn "Vô thượng Phật luận tâm chú" dịch từ tiếng Ba Tư vào thời Đường. Câu thứ hai cậu học được khi còn ở đạo quán Thiên Phong trên núi Thiên Giám thuở nhỏ. Câu thứ ba là từ chương "Kỹ xảo" trong "Cơ xảo tập".

Phật sống từ từ đứng dậy, song ánh mắt vẫn không rời khỏi mắt Lỗ Nhất Khí. Phật sống Kim Đỉnh nghiên cứu tam mật của Phật giáo Tây Tạng, bởi vậy khi phán đoán về một người, sẽ dựa vào thất luân tam mạch, bao gồm tướng của khí, ánh sáng của thân, âm của tâm. Mà Lỗ Nhất Khí khí tướng như cầu vồng, bảo quang rực rỡ, tâm âm như tiếng Phạn thánh thót. Phật sống không khỏi ngờ rằng Lỗ Nhất Khí là hoá thân của vị Phật thánh nào.

Lỗ Nhất Khí biết mình cần phải tranh thủ thời gian, nếu không sẽ không theo kịp tiến độ dẫn thế lửa của Viêm Hoá Lôi. Cậu bèn xoay người, tiếp tục tiến lên phía trước theo đúng kế hoạch cũ. Cậu nghĩ rằng tuy Phật sống cũng là một mối uy hiếp, song một bậc tu hành đến cảnh giới thánh thần cũng giống như những con thú dữ khi nãy, tâm tính thuần khiết giàu linh giác, có lẽ cũng đã nhận được một sự cảm ứng nào đó mà không ra tay với mình.

Phật sống bước ra khỏi khám thờ, thấy Lỗ Nhất Khí đã cắm đầu bước đi, chỉ thấy thân hình lắc khẽ một cái, đã ở trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Phật sống đã vượt lên trước mặt cậu, song không ngăn cản, mà cùng tiến về phía trước với tốc độ giống hệt như của Lỗ Nhất Khí. Hai người bước không nhanh, bởi lẽ vừa đi vừa suy nghĩ vừa nói chuyện sẽ khiến cho nhịp bước chậm rãi hẳn lại.

- Phật nói vô dục tự tại, ta cũng không có dục, song thân ta không có dấu vết của chân Phật. Lý này khó thấu! - Ngữ điệu của Phật sống có đến sáu phần tựa như đang thỉnh giáo, song đối với Lỗ Nhất Khí, lại là mở đầu cho một cuộc đọ sức.

- Tôn giá không có dục ư? Ý nguyện mong thành chân Phật chính là dục. Còn nữa, việc mình làm không phải vì dục cầu của bản thân, song lại vì dục cầu của một số ít người, khó mà gần được chân Phật! - Lỗ Nhất Khí trả lời.

- Dục cầu đó là thế nào?

- Ví dụ như ngôi chùa mà ngài đang ở, được chọn xây ở khí khẩu bên dưới "nội hợp khí thông", là mảnh đất thoái phàm nhập thánh cực kỳ tốt đẹp. Nhưng ngài hãy nhìn lại nơi đây mà xem, ẩn tàng khí đao quang tanh máu, hiển lộ khí vàng ngọc tiền tài, che lấp cả linh khí Phật quang cần có rồi! - Lời nói của Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu hiển lộ vẻ đanh thép, ý trách cứ đã dần hiện rõ.

Sắc mặt của Phật sống hơi sầm xuống một thoáng:

- Phật tử, chúng sinh có tâm buông xả của cải hư phù hướng theo Phật, cũng là cái đạo quy y, không nên chê trách!

- Phật tử, chúng sinh buông xả của cải theo Phật, song của cải đó có được dùng để thực thi Phật sự hay chưa? Có được dùng để phổ độ chúng sinh, cứu nhân độ thế hay chưa? Đều chưa! Chỉ là mượn danh nghĩa Phật sống tôn sùng Phật pháp cứu độ sinh linh của ngài, để cho bọn tiểu nhân lừa lấy tiền tài, tham lam cái phúc chí tôn trong thiên hạ. Tuy ngài không có dục, song lại thành tựu cho cái dục tà dâm của kẻ khác, như vậy cũng khác gì có dục, có đại dục, có tà dục. Lại thêm những đệ tử gian ác xấu xa ở ngay bên cạnh, mà ngài không biết khuyên răn dạy bảo, cũng là có tội với Phật. Hơn thế nữa, ngài không đi, không nhìn, không nghe, không biết, lại càng là tội lỗi.

Phật sống nghe tới đây, không nói gì thêm nữa.

- Còn nói về thuyết tự tại, tu tới cảnh giới chân Phật đương nhiên là tự tại. Song chưa có cái thân tự tại, làm sao có được cái tâm tự tại đây? - Lỗ Nhất Khí lại tranh thủ bồi thêm một đòn, vừa nãy là trách cứ Phật sống giúp kẻ ác làm việc xấu, bây giờ lại ngấm ngầm chế nhạo Phật sống đang phải chịu sự kiểm soát của Chu gia.

- Trong việc này đích thực là có căn tục còn vướng víu khó dứt, song tâm ta tự tại, không vật gì ràng buộc. - Phật sống khẽ giọng trả lời.

- Nếu nói như vậy, việc tôn giá ở đây đợi tôi là xuất phát từ cái tâm gì?

- Những vướng mắc bên trong khó lòng nói rõ. Thân không theo tâm, tâm không tự tại, đích thực là đại ách trong tu hành. Có điều nếu ta bắt được ngươi, thì trao đổi sẽ xong, sau này không còn vướng bận gì nữa. – Nói tới đây, Phật sống đột nhiên dừng bước.

Lỗ Nhất Khí vẫn tiếp tục tiến lên, cho tới khi đứng song song với Phật sống mới dừng lại, sau đó rầu rĩ thở dài một tiếng:

- Bắt tôi cũng giống như lỡ tay giết chết con sâu cái kiến. Song làm trái ý trời, đừng nói đến tu hành chân Phật, mà e rằng ngài sẽ rơi vào cõi Tu La, muôn kiếp không thể quay về.

Lời nói vừa dứt, sắc mặt Phật sống lập tức trở nên khổ sở, luôn miệng lầm bầm:

- Để ta suy nghĩ đã, để ta suy nghĩ đã!

Nói rồi tay lần tràng hạt, bắt đầu lầm rầm tụng kinh.

Lỗ Nhất Khí cảm thấy Phật sống hơi run rẩy, lại càng cảm nhận rõ hơn bên trong cơ thể Phật sống có hai luồng khí đang giao thoa, đang va chạm kịch liệt. Lúc này, trong nội tâm Phật sống đang nổ ra một cuộc chiến giữa trời và người, giữa tâm và tính, hơn thế nữa, còn dữ dội đến khó tưởng tượng...

Âm, Dương Thiên Vương đi vòng qua Dưỡng Quỷ Tỳ, tới trước mảng tường bị đổ, sau đó một kẻ quay mặt vào trong, một kẻ quay mặt ra ngoài, rồi đứng im lìm bất động tại đó, tựa như hai pho tượng thần hộ pháp tạc từ đá tảng.

Khoé mắt Dưỡng Quỷ Tỳ vừa quét qua đã biết hai kẻ kia đang muốn chặn kín đường lui của Lỗ Nhất Khí. Song nếu muốn chiếm được vị trí lối vào, trước hết cần phải giải quyết tên Đại hộ pháp đang lù lù trước mặt.

Dưỡng Quỷ Tỳ đã hành động. Dải lụa trắng lồng lộng bay lên, xoáy tròn thành hai đạo kình phong, thổi ập về phía Đại hộ pháp, trong khi gã còn chưa ý thức được đây là một đòn tấn công. Bởi lẽ gã không nhìn thấy bất kỳ bộ phận nào trên người Dưỡng Quỷ Tỳ xê dịch, cứ ngỡ rằng dải khăn lụa vắt trên cổ cô bị gió thổi bay.

Tuy Dưỡng Quỷ Tỳ đã thả hết ma đã nuôi đi, song ma lực tích luỹ nhiều năm vẫn không thể xem thường. Ma lực này là công phu tà môn luyện thành nhờ quá trình nuôi ma, vận dụng tuỳ theo tâm ý.

Còn Đại hộ pháp luyện công phu Phật môn, vốn dĩ không hề biết còn có thể loại công phu ma lực. Bởi vậy ngay đòn đầu tiên gã đã phải chịu phần thua thiệt.

Chỉ đến khi đã thực sự cảm nhận thấy lực đạo ghê gớm cuốn theo khăn mà tới, Đại hộ pháp mới vội vàng hành động, đẩy nhanh cả hai chưởng ra. Song cánh tay còn chưa kịp duỗi thẳng, đầu khăn đã giáng tới. Một tiếng "roạt" vang lên, giống như tiếng mặt trống da bị đập rách. Liền ngay đó, ống tay áo tăng bào rách bươm, bay tới tả như vô số cánh bướm màu đỏ thẫm. Đại hộ pháp lùi liền bốn năm bước mới dừng lại được, bộ mặt phúc hậu như Phật Đà của gã lúc xanh mét lúc đỏ gay.

Đại hộ pháp tuy có phần thua thiệt, song Dưỡng Quỷ Tỳ cũng phải hứng chịu sức phản công không hề nhỏ. Đầu khăn bật ngược trở về, quấn hai vòng quanh cánh tay mới dừng lại được. Thân hình tuy không dịch chuyển, song lại chao đảo liên hồi tựa như nhành dương liễu trước cuồng phong, mới tiết được hết lực phản kích.

Song Dưỡng Quỷ Tỳ không ngờ được rằng, Đại hộ pháp mặt vừa biến sắc trong chốc lát đã lập tức hồi phục trở lại. Cô vừa kịp ổn định thân hình, Đại hộ pháp đã giật tấm tăng bào đỏ xuống khỏi người, múa tít thành một đám mây lực sĩ, úp chụp lên đỉnh đầu Dưỡng Quỷ Tỳ.

Dải khăn lụa của Dưỡng Quỷ Tỳ lập tức cuồn cuộn tung lên, phóng thẳng vào đám mây màu đỏ. Thế là một khối đỏ rừng rực, một khối trắng âm u quấn riết vào nhau, một lát sau lại đột ngột bung ra. Tiếng gió, tiếng va đập, tiếng toạc rách vang lên liên hồi kỳ trận.

Về lý mà nói, công pháp Phật môn của Đại hộ pháp sẽ khắc chế được công pháp tà môn của Dưỡng Quỷ Tỳ. Thế nhưng công pháp Phật môn ít nhiều cũng mang ba phần nhân từ, lại thêm Đại hộ pháp cũng không phải là kẻ quen tay sát phạt trong giang hồ, bởi vậy khi ra tay thiếu phần tàn độc. Dưỡng Quỷ Tỳ thì ngược lại, công phu của cô rất ma quái, nham hiểm và tà độc, những đặc điểm này không những khiến cô không bị lép vế, mà ngược lại, nhiều lúc còn khiến Đại hộ pháp phải tay chân luống cuống.

- Đại hộ pháp, hai vị Thiên Vương, môn trưởng có lệnh, lập tức xông vào trong tường truy bức! - Một tên tiểu Lạt ma từ phía xa hộc tốc chạy tới, vừa chạy vừa gào lên ầm ĩ.

- Môn trưởng còn nói... - Tiểu Lạt ma còn chưa kịp gào hết câu, thì từ trong làn khói lửa mù mịt bên cạnh bỗng chớp ra một vệt hào quang trắng loà loà như tuyết xẹt thẳng về phía gã, lập tức đầu một nơi thân một nẻo. Phần đầu tung lên bay lộn tùng phèo trên không, còn thân người vẫn tiếp tục lao thêm vài bước mới đổ phịch xuống sau lưng Đại hộ pháp. Cái đầu rơi bịch trên mặt đất, vẫn trong tư thế uốn lưỡi há miệng.

Ngay sau khi vệt sáng trắng xẹt qua, một đám mây đỏ rực bay vụt tới, bao trọn lấy vòi máu chuẩn bị phun ra tứ tán, gom hết vào trong. Sắc đỏ của nó còn rực rỡ hơn đám mây lực sĩ của Đại hộ pháp rất nhiều. Sau khi máu tươi đã gom hết, vệt sáng mới dừng lại, lộ ra một bộ mặt quỷ đang ngoác miệng cười. Đầu quỷ mặt cười vừa lộ diện, lập tức lại hoá thành một vệt đao quang bay vụt đi. Là phép xuất đao của đao phủ, sau khi xuống đao, định thần lấy hơi trong chốc lát, lại tiếp tục nhát chém thứ hai. Tiếu Phật Nhi Lợi Hâm đã tới!

Chú thích

[20] Một thủ pháp điêu khắc tượng Phật có nguồn gốc từ Ba Tư, được du nhập vào Trung Quốc từ thời Đường. Song người Hán không ưa thích thủ pháp điêu khắc này, bởi vậy không được tiếp tục lưu truyền nữa. Vào thời Nguyên, thủ pháp này lại xuất hiện ở vùng Tây Tạng, tuy không thịnh hành, song cũng đã trở thành một thủ pháp điêu khắc tượng Phật quan trọng.

Chương 19: Máu phun phật

Nhát đao thứ hai của lão Lợi chém thẳng vào Đại hộ pháp, khác nào tia chớp sáng quắc rạch ngang đám mây đỏ. Trước sau giáp công, lại đều là cao thủ, Đại hộ pháp biết bản thân không thể ứng phó, lập tức hai tay vận lực, chỉ nghe "rẹt" một tiếng xé tai, đám mây lực sĩ chớp mắt đã chia thành hai nửa, một đám lao thẳng vào Dưỡng Quỷ Tỳ, một đám phóng về phía lão Lợi. Còn gã nhảy vọt ra từ khoảng giữa hai đám mây vừa tách đôi, vùn vụt bỏ chạy tới mặt bên kia của con đường.

Đao quang của lão Lợi xé toạc mây mà ra, một nửa tấm tăng bào lại bị rách tiếp thành hai nửa. Lưỡi đao thuận thế thu về che chắn cho cơ thể, trông lẫm liệt khác thường.

Dưỡng Quỷ Tỳ chẳng thèm để ý tới nửa đám mây đang phóng thẳng về phía mình, chỉ chớp lấy cơ hội, thân hình trượt đánh vèo về phía sau, rồi lướt đi như một bóng ma, lao thẳng về phía hai Thiên Vương đang đứng bên chỗ tường đổ.

Tuy chưa nghe được trọn vẹn khẩu lệnh do tiểu Lạt ma truyền tới, hai gã Thiên Vương cũng đã sẵn sàng lao vào trong tường để truy bức. Song chỉ có Âm Thiên Vương đang quay mặt vào trong mới có thể bước vào, còn Dương Thiên Vương đã phải đối mặt với một thân hình phốp pháp, một luồng sát khí vô hình.

Thân hình phốp pháp kia không ai khác là Dương Tiểu Đao. Gã vừa tách ra khỏi dòng người ngược xuôi hỗn loạn trên phố, sau đó thủng thẳng bước tới bên mảng tường đổ.

Khi DươngTiểu Đao còn cách đoạn tường đổ khoảng hơn chục bước, Dương Thiên Vương bèn vòng tay ra sau lưng rút lấy một cặp Kim ô hoàn mài sắc cả trong ngoài, sẵn sàng thủ thế. Kim ô hoàn nhìn qua chỉ là một vòng tròn, song ở mặt trong ngoài đều được mài lưỡi sắc, chỉ chừa lại một khoảng trống nhỏ đủ để cầm nắm. Khi sử dụng, không những có thể chém, róc, cứa, chặt, băm, mà còn có thể lồng, kéo, khoá, xoáy, lật, là một loại vũ khí hình thù quái lạ rất khó điều khiển. Vũ khí càng quái lạ, chiêu thức lại càng nham hiểm. Bởi vậy Dương Tiểu Đao vô cùng thận trọng, không dám liều lĩnh tấn công.

Âm Thiên Vương vừa bước vào bên trong, cũng rút ra một cặp Nguyệt nha việt mài sắc cả trong ngoài. Loại vũ khí này giống như hai hình bán nguyệt đấu lưng vào nhau, so với Kim ô hoàn của Dương Thiên Vương, tuy ít hơn một động tác "lồng", song lại thêm được động tác "đâm", xuất chiêu cũng âm hiểm quỷ quyệt hơn nhiều. Âm Thiên Vương xác định mục tiêu đầu tiên là Hạ Táo Hoa đang ở gần gã nhất.

Còn Hạ Táo Hoa lúc này chỉ dán mắt vào lão mù đang bước đi mỗi lúc một nhanh, dường như không hề phát giác ra Âm Thiên Vương đang âm thầm áp sát...

Chu Chân Mệnh và Cao Bôn Lôi chạy xuống bậc thang phía tây, băng qua khu tăng phòng của Lạt ma, sau đó men theo tường Phật Thị leo dốc mà lên, từ đây có thể đi thẳng tới bên ngoài hàng lan can đá trắng của điện phía tây. Con đường này vốn là con đường chết giăng kín khảm tuyệt sát, nhưng do khảm nút trong chùa Kim Đỉnh có bố cục hình dích dắc kéo dài dằng dặc, bởi vậy Chu gia ngay từ đầu đã để lại một đường bí mật có thể mau chóng giải nút, để dễ bề đánh thọc sườn và đi tắt đón đầu.

Thế nhưng lúc này Chu Chân Mệnh không phải muốn đánh thọc sườn, cũng không phải đón đầu công sát, mà muốn âm thầm quan sát. Hắn muốn xem thử người Lỗ gia đang định làm gì, mục tiêu của chúng là nhằm vào nơi nào.

Sự việc tiến triển đúng như dự tính của Chu Chân Mệnh. Khi hắn tới bên ngoài lan can đá trắng của điện phía tây, những kẻ xâm nhập cũng vừa tới nơi. Nhưng Đao Thập Lục vẫn chưa thấy tới. Đây là một việc đáng lẽ không thể xảy ra, bởi lẽ Đao đầu chỉ cần bám theo sau những kẻ vượt khảm, chứ không phải giải khảm mà đi như đám Chu Chân Mệnh. Những kẻ xâm nhập vừa đi vừa phải giải khảm cũng đã tới nơi, đáng lẽ gã phải bám sát sau lưng họ mới đúng.

Song Chu Chân Mệnh lại không biết rằng, Đao đầu đã vấp phải một rắc rối lớn hơn nhiều so với dự kiến. Sau khi gã băng qua hành lang kinh luân với khảm nút đã được giải hoàn toàn, tiếp đến là hai khảm Dốc Tạng Vương và Thềm chữ Vạn lại chưa hề được giải. Chuyện này là thế nào? Lẽ nào hai kẻ xâm nhập biết bay? Song dù bọn họ đã băng qua bằng cách nào, Đao Thập Lục cũng chỉ có một cách duy nhất là từng bước giải khảm nút mà tiến lên, cách giải đương nhiên rắc rối hơn rất nhiều so với việc giải khảm tại lối đi bí mật của Chu Chân Mệnh.

Hai kẻ xâm nhập qua đường chính không tiếp tục đột nhập về phía sau hai toà điện, mà đã dừng lại ở bên hàng lan can đá của điện phía tây. Chu Chân Mệnh và Cao Bôn Lôi đều nấp phía dưới hàng lan can không xa, song hai người phía trên dường như không phát hiện ra, bởi lẽ họ đang dồn hết sức chú ý ra phía ngoài tường Phật Thị.

Bên ngoài tường Phật Thị có thứ gì? Bãi đá Thần Hô, căn gác Phật nhỏ, tiếp sang phía này là một vạt đất thoai thoải. Phải rồi, Lỗ Nhất Khí đã phá tường đột nhập từ phía tây, có lẽ hắn đang ở bên đó.

Trong lúc Chu Chân Mệnh còn đang suy nghĩ, đột nhiên nghe thấy tiếng hét lớn của người phía trên:

- Mau chặn lại! Lão muốn ra tay hạ sát!

Quả nhiên bọn chúng đã gặp phải tình thế vô cùng nguy cấp, nên ngay cả điều cơ bản nhất khi đột nhập vào lãnh địa của người khác là ẩn mình kín tiếng, đối thủ cũng đã bất chấp.

Chu Chân Mệnh thò đầu hé mắt liếc lên trên, hắn đã nhận ra kẻ vừa hét lên là tay thầy lang từng phóng kim bạc đánh lén mình trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất. Chu Chân Mệnh có ấn tượng rất sâu sắc về người này, không chỉ vì châm pháp kỳ quái của ông ta, mà một phần quan trọng là vì người này từ khí chất, ngoại hình và tuổi tác đều hao hao giống hắn. Sau đó, đám thuộc hạ ở đường khẩu phía đông cho hay, tay thầy lang này chính là Dịch Huyệt Mạch với y đạo điên đảo tiếng tăm lừng lẫy trong giang hồ.

- Lão ta đã trúng bùa mất hồn, mau tìm xem mồi dẫn làm bằng gì, diệt được mồi dẫn sẽ vô sự! - Người còn lại cũng đã lên tiếng.

Chu Chân Mệnh nghe thấy tiếng hét của người này, biết ngay rằng công phu vận khí, công lực triển khai của kẻ đó đã gần tới cảnh giới thần nhân. Đạt được tới cảnh giới này, quả thực thế gian hiếm có.

Người này chính là Mạc Thiên Quy. Ngoài lão ra, còn ai có thể xông thẳng vào chùa Kim Đỉnh qua khảm diện chính, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đã vào đến tận hai toà điện?

Bùa mất hồn mà Mạc Thiên Quy vừa nhắc tới chính là tuyệt kỹ độc môn của lão thầy cúng. Từ điểm này, Chu Chân Mệnh có thể khẳng định rằng, cái đinh ngầm do lão thầy cúng găm vào đã lộ diện, Lỗ Nhất Khí đang nguy hiểm cận kề.

Bên ngoài tường Phật Thị, Lỗ Nhất Khí đang phải đối mặt với một kẻ địch đang hết lần này đến lần khác điên cuồng lao tới.

Kẻ địch, chính là lão mù.

Song động tác của Hạ Táo Hoa còn nhanh hơn lão mù, mỗi khi lão sắp sửa tung mình xáp tới, cô lập tức ra tay chụp lấy lưng áo hoặc dây lưng giữ chặt lão lại. Song vừa bị lôi lại, lão đã tiếp tục nhảy chồm lên, tựa như một kẻ điên loạn không còn lý trí. Bởi vậy, lão vẫn tiếp tục nhích lại gần Lỗ Nhất Khí.

- Tôi không tìm thấy mồi nhử, tôi đã bám theo rất lâu rồi, song không thể tìm ra! - Hạ Táo Hoa nói như chực khóc.

Chính vào lúc đó, năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch từ trên cao âm thầm liệng xuống như năm bóng ma, đan chéo vào nhau sát mặt đất, rồi bay tản đi như hình rẻ quạt.

- A, chim ưng mỏ hoa Trường Bạch! Tiếng sáo vô thanh! Mồi nhử đã nhập vào tim tuỷ, vô phương cứu chữa rồi! Giết lão đi! Giết mau! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.

- Không! Không được giết! Không được giết! - Hạ Táo Hoa gào lên như nức nở.

Lỗ Nhất Khí đã nắm chặt lấy báng khẩu pạc hoọc, song cậu không giương súng lên. Cậu không đành lòng. Giết chết người cha ngay trước mặt con gái là vô cùng tàn nhẫn. Cậu càng không dám giết. Cậu vừa dùng lý đời và lý Phật để bức ép Phật sống Kim Đỉnh rơi vào trạng thái tự chiến, tự ngộ và tự phản tỉnh, nếu đúng lúc này cậu lại nổ súng giết người, thì tất cả những lời vừa nói đều sẽ trở thành vô nghĩa. Phật sống chỉ cần loé lên sát niệm, tức khắc sẽ biến cậu thành một đống xương thịt vô hồn.

- Mau! Cô gái, sau lưng ngươi có kẻ đang đánh tới, mau ra tay giết chết lão đi! - Dịch Huyệt Mạch gào lên đến lạc giọng, ngữ điệu căng thẳng đến tột độ. Cũng vì ông ta không hề hay biết họ là hai cha con.

Thấy Dịch Huyệt Mạch gào thét vô ích, Mạc Thiên Quy vội vã lao đi, xông thẳng tới phía sau điện tây. Lão muốn vòng qua điện tây, tháp trắng và hành lang quanh tháp với tốc độ nhanh nhất, để tới vạt đất thoai thoải bên ngoài tường Phật Thị.

Hai toà điện tuy là Phật điện chủ yếu trong chùa Kim Đỉnh, song lại không có vẻ nguy nga tráng lệ giống như chính điện trong chùa chiền vùng Trung Nguyên. Bởi vậy, đoạn đường ngắn ngủi bên mặt tường ngoài điện rất khó bố trí khảm nút, Mạc Thiên Quy chỉ vài bước chân đã tới góc tây bắc của Phật điện. Nếu đoạn đường tiếp theo cũng có thể băng qua một cách dễ dàng như vậy, thì Mạc Thiên Quy vẫn có cơ hội tới kịp trước khi Lỗ Nhất Khí bị giết.

Thế nhưng sự thực bao giờ cũng khác xa so với mong muốn. Vừa tới góc tường sau điện phía tây, Mạc Thiên Quy đã phát hiện ra ngay trước mặt mình là bãi Vân thú mây trời chín sắc. Đây là một khảm diện rộng lớn, kết hợp nhiều tầng nút lẫy như ô mê hồn, vòng hoặc thần, xoáy bước nhầm, trụ trời bắn ngược, khoá kẹp miệng sắc. Ba thế hệ về trước, một số cao thủ Mặc gia đã bị vây khốn trong khảm diện này ở bên bờ sông Phần tỉnh Sơn Tây, suốt mấy ngày trời không thể thoát thân, cuối cùng liều mạng đột phá vòng vây, kết quả là toàn bộ đều phải bỏ mạng trong đó.

Mạc Thiên Quy cấp tốc quan sát kỹ lưỡng cách bố trí xung quanh. Mặt bên kia của bãi Vân thú mây trời chín sắc tiếp giáp với tháp trắng lọng vàng. Nếu lão tính toán không nhầm, toà tháp kia tuyệt đối không chỉ là một vật trang trí, bên trong nó chắc chắn có bố trí nút lộ, nút ngầm.

Hơn nữa, nửa sau của khảm diện bãi Vân thú mây trời chín sắc lại được khớp nối với khảm diện tháp trắng, như vậy tại nửa sau của khảm diện sẽ hình thành thế hai khảm hợp sát. Lối kết hợp hai khảm theo kiểu cao thấp nối liền khác hẳn với cách kết hợp hoặc nối liền hai khảm trên cùng một mặt phẳng, vì phần rìa giữa hai khảm sẽ lơ lửng trong không trung, không thể lợi dụng.

Bố cục không gian kết hợp với cục tướng khảm diện, đã bố trí đến mức độ toàn bộ các điểm, đường, mặt phẳng đều không thể đặt chân, chỉ cần bước vào là mất mạng. Đây là cảnh giới chí cao trong thiết kế khảm diện.

Song do các tiền bối của Mặc gia từng bỏ mạng trong bãi Vân thú mây trời chín sắc, nên người của Mặc gia đã chuyên tâm nghiên cứu, tìm ra một lối đi mới, ngoài cách phá giải khảm diện, còn sáng tạo ra kỹ xảo tránh khảm. Song kỹ xảo này không phải là kỹ xảo chính, bởi vậy nếu không phải tình huống vạn bất đắc dĩ, người Mặc gia sẽ không sử dụng đến.

Giờ đây chính là thời điểm vạn bất đắc dĩ. Mạc Thiên Quy lập tức chuẩn bị dụng cụ, tìm kiếm chỗ dựa, gấp rút hành động...

Bên ngoài tường chùa, Dưỡng Quỷ Tỳ vừa lùi về phía tường đổ, bộ pháp tháo chạy của gã Đại hộ pháp lập tức ngoặt ngay trở lại, lao thẳng vào lão Lợi.

Trước cú phản kích thình lình của Đại hộ pháp, lão Lợi chỉ kịp xoay ngang đao chém ra theo phản xạ.

Đại hộ pháp tay không tấc sắt một lần nữa lại bị đẩy lùi, một vệt máu đỏ chạy dài trên cánh tay phải trần trụi. Gã rất bất ngờ vì rõ ràng bản thân đã né khỏi phạm vi của luồng đao phong, song vuông nhiễu đỏ phật qua sau cú ra đao lại mang theo một lực đạo không hề thua kém đao kiếm thông thường, nháy mắt đã rạch đứt cả cánh tay của gã. Song bị thương chưa hẳn đã là chuyện xấu, điều này chí ít cũng giúp gã hiểu rõ hơn về đối thủ. Nên gã vừa lùi lại, gót chân còn chưa kịp chạm xuống đất, đã lao vọt lên tiếp tục tấn công...

Khi Dưỡng Quỷ Tỳ còn cách Dương Thiên Vương một đoạn, dải lụa trong tay cô đã cuồn cuộn phóng đi, tựa như hai xoáy mây chụp thẳng về phía Dương Thiên Vương lùi ra để tiến vào trong chùa. Bởi lẽ cô vừa sực nhớ ra một chuyện, lão mù không nhìn thấy đường, cũng không có ai chỉ lối, tại sao lại biết được chính xác vị trí lỗ hổng trên đường? Dưỡng Quỷ Tỳ vốn là người của Chu gia, nên biết rất nhiều mánh khoé ma quái của bọn họ, cô chẳng khó khăn gì để đoán ra rằng, lão mù đã bị bùa mất hồn khống chế. Còn Hạ Táo Hoa, tuy bộ dạng không giống như trúng bùa mất hồn, song không ngoại trừ khả năng đã trúng phải chiêu gì khác. Như vậy, hai người đó bước vào bên trong, sẽ trở thành nút lẫy tuyệt sát tấn công Lỗ Nhất Khí.

Dưỡng Quỷ Tỳ đã sử ra toàn lực, song vẫn không thể chiếm được thế thượng phong.

Tác giả cuốn "Kỳ môn lợi khí phả" là Giang Kỳ Sơn người Nam Tống từng tỏ ra vô cùng sùng bái những người sử dụng thành thạo hai loại vũ khí là hoàn và việt, bởi lẽ hai loại vũ khí này rất khó điều khiển, khi sử dụng đòi hỏi kỹ xảo rất cao. Chiêu số tấn công của chúng vô cùng quái dị, là khắc tinh của rất nhiều vũ khí.

Bởi vậy, khi xoáy mây của Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đánh xuống, một cặp Kim ô hoàn đã đồng thời đánh ra, vừa xoáy vừa chụp, chớp mắt đã nuốt trọn phần đầu dải lụa của Dưỡng Quỷ Tỳ. Lưỡi bên trong xoáy tròn, dải lụa đứt rời từng khúc, bay lên phấp phới, tựa như dải mây đã hoá thành hoa tuyết đầy trời.

Dương Thiên Vương chiếm được thế thượng phong, song mới cắt tan tành được khoảng một thước lụa đã phải lùi về né tránh, bởi hai biến hoá tiếp theo gã đã không thể ứng phó nổi.

Dưỡng Quỷ Tỳ vốn dĩ không hề có ý định sát thương Dương Thiên Vương, chỉ muốn đánh bật gã ra để xông vào qua lỗ hổng. Bởi vậy, khi đầu dải lụa vừa phóng đi, cô lập tức quật ngang đoạn giữa dải lụa ra phía trước, muốn trói chặt lấy đối thủ. Để đối phó với chiêu này, Dương Thiên Vương buộc phải đánh cặp Kim ô hoàn lên trước, cơ thể lui về phía sau. Và như vậy đã chừa ra một khoảng trống đủ cho Dưỡng Quỷ Tỳ lách qua.

Song một biến hoá khác nguy hiểm hơn nữa đã thình lình xuất hiện, bên trong tầng mây chụp về phía Dương Thiên Vương bỗng loé lên một tia chớp, một tia chớp ngoằn ngoèo biến hoá đa đoan không thể đoán lường. Đó chính là lưỡi đao đồ tể hình thù quái dị của Dương Tiểu Đao.

Hình đao quái dị, chiêu số ra đao còn quái đản hơn, lưỡi đao, mũi đao liên tục nhắm vào những mảng da thịt ở phía ngoài cùng trên cơ thể Dương Thiên Vương, bởi vậy gã không thể đánh đỡ, chỉ biết né tránh, liên tục lùi về phía sau.

Dưỡng Quỷ Tỳ thoắt cái đã lách vào bên trong chùa. Dương Tiểu Đao vốn cũng định xông vào theo, song đúng vào lúc này, từ chỗ lão Lợi vọng lại một tiếng rú thảm thiết. Gã bèn vội vã quay lại trợ giúp lão Lợi. Bởi vì bọn họ đều là cao thủ dùng đao, tại núi Quy Giới đã từng hợp lực đối phó với Thiên táng sư, giữa họ tự nhiên đã hình thành một mối giao cảm ngấm ngầm. Hai gã đệ tử Mặc gia bị hại, vết thương giống như do đao kiếm gây nên, mà trong bọn chỉ có hai người họ dùng đao. Bởi vậy, bọn họ thà tự tách ra kết bạn đi chung, còn hơn ở lại hứng chịu sự nghi ngờ, bài xích.

Dương Tiểu Đao xoay người bỏ đi, Dương Thiên Vương đã được rảnh tay, gã không đuổi theo tấn công Dương Tiểu Đao, mà không chút do dự lao thẳng vào lỗ hổng, đuổi theo Dưỡng Quỷ Tỳ. Bởi lẽ khẩu lệnh do tiểu Lạt ma mang tới rất rõ ràng, không cần cố thủ ở lỗ hỏng nữa, mà phải xông vào truy sát.

Hạ Táo Hoa đã không giữ nổi lão mù nữa. Quần áo của lão đã bị giằng giật tả tơi, thắt lưng cũng đã bị kéo đứt, song cơ thể còm cõi của lão vẫn hùng hục lao lên với một sức mạnh điên cuồng không ngừng nghỉ, cánh tay huơ tít cây gậy thép, mũi gậy nhọn hoắt đã gần chạm tới người Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không thể cử động, bởi Phật sống đang nhìn cậu với ánh mắt đầy nghi hoặc. Mỗi một động tác của cậu, dù là rất nhỏ, đều có thể khiến Phật sống đưa ra suy đoán trái ngược.

- Thế gian có người bị ma mê hoặc tâm khiếu, loại người này có thể cứu độ không? - Phật sống hỏi Lỗ Nhất Khí.

- Ngài cảm thấy giết hắn là cứu độ, hay bị hắn giết là cứu độ? - Lỗ Nhất Khí hỏi lại, cũng là trả lời.

- Phật nói, xả thân thành Phật, mà giết ma cũng thành Phật. - Phật sống đẩy lại vấn đề cho Lỗ Nhất Khí.

- Ý ngài nói là giết thân của tôi, diệt ma của lão? Cũng đúng, lão không muốn giết tôi, là ma muốn giết tôi!

- Ma từ tâm mà sinh ra, tâm đó không thể cứu độ.

- Tâm bị ma kiểm soát, tâm đó có thể cứu độ, ma không thể cứu độ.

- Phật ta từ bi, ma ở chỗ nào?

- Ma chính là thứ đang giày vò kẻ đó. Tôn giá thân là Phật tử, tâm hướng tới chân Phật, lại để bầy ma thao túng, pháp môn tu hành sao có thể thông?

Phật sống dường như rùng mình một cái rất mạnh, rồi lại khép mắt rủ đầu, song thủ ấn trên hai tay đã chuyển từ Liên hoa Tam muội da sang thủ ấn Triệu tội[21]. Thủ ấn trên tay Phật sống vừa biến hoá, khí tướng lập tức cuồn cuộn dâng trào, hiện rõ bảo tướng trang nghiêm.

Chiếc gậy của lão mù đã có thể đâm tới Lỗ Nhất Khí. Song lúc này, Lỗ Nhất Khí đã không thể cử động được nữa, toàn bộ thân hình của cậu đang bị chèn ép dưới làn khí tướng vừa bùng lên quanh người Phật sống, chỉ có thể để cho thân tâm trong ngoài thuận theo tự nhiên, thuận ứng với nhịp điệu lên xuống lan toả của làn khí tướng từ Phật sống.

- Không được! Á... - Hạ Táo Hoa rú lên một tiếng thê thảm, sau đó bất ngờ ra chiêu, cây Phượng chuỷ thích nặng nề thi khí của cô lao thẳng vào giữa lưng lão mù. Ngọn thích nhọn hoắt đã chòi ra trước ngực lão, máu tươi phun vọt thành tia.

Hạ Táo Hoa là người biết suy tính lợi hại, cũng rất hiểu cha mình. Cô biết nếu để cha tiếp tục sống trong bộ dạng vô hồn vô phách như vậy, chẳng bằng để ông chết còn hơn. Song Lỗ Nhất Khí lại khác, cậu là người quan trọng nhất trong sự nghiệp quật bảo bối trấn hung huyệt định phàm cương, nên cô chỉ còn cách nghiến răng kìm nén nỗi đau đớn đứt gan đứt ruột, ra tay với chính cha ruột của mình.

Cú đâm của Hạ Táo Hoa đã xuyên thấu qua trái tim của lão mù, song lão mù lại không hề dừng lại, mà còn mượn lực của cú đâm để lao về phía trước, đâm thẳng đầu gậy vào Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không thể né tránh được nữa. Trong thời khắc cuối cùng, cậu chỉ kịp giơ cánh tay phải tàn tật lên chắn trước ngực theo phản xạ.

Cánh tay tàn tật chỉ đẩy được mũi gậy nhích đi chút ít, nên cuối cùng nó đã xuyên thấu vào vai trái chứ không phải là trái tim. Lỗ Nhất Khí rên lên một tiếng, bước chân loạng choạng, vài giọt máu bắn vọt đi theo mũi gậy, văng lên khuôn mặt rạng ngời bảo tướng Phật quang của Phật sống.

Máu tươi nóng ấm và tanh nồng đã khiến Phật sống mở choàng đôi mắt. Ông đứng thần ra tại chỗ. Trong khoảng thời gian nhập định ngắn ngủi vừa rồi, ông đã cảm nhận được một cách chân thực rằng trong cơ thể chàng trai trẻ trước mắt kia ẩn tàng một nguồn năng lượng vô tận. Cang khí hộ thân mà ông đã rèn luyện suốt bao năm qua, khi đến quanh người cậu ta, bỗng hụt hẫng như rơi xuống vực sâu không đáy. Thế nhưng một cao thủ tuyệt thế nhường này lại sẵn sàng dùng máu tươi, thậm chí cả tính mạng để cứu hộ một kẻ không còn hồn phách, không hiểu cậu ta đã tu Phật lý tới cảnh giới nào? Cậu ta không phải là thần thánh, thì ai mới có thể là thần thánh thực sự?

Niềm kinh ngạc xen lẫn kính phục đã khiến Phật sống bất giác đưa tay túm chặt đầu gậy nhọn vừa xuyên thấu qua vai Lỗ Nhất Khí. Ông ta đã cảm nhận thấy dòng máu tươi đang chảy giàn dụa trên đầu gậy. Xả thân cứu độ chúng sinh, những giọt máu này chính là một lời giáo hối đối với người theo Phật.

Cũng may mà Phật sống đã nắm chặt lấy mũi gậy thép, sức nắm giữ của ông dù có thêm hai lão mù nữa cũng không thể rút gậy ra được, khiến vết thương không bị chảy máu ồ ạt, đồng thời cũng tránh được những cú tấn công tiếp theo.

Chú thích

[21] Trong Mật Tông, hai bàn tay được gọi là "nhị vũ" (hai sợi lông vũ), hai cánh tay được gọi là "lưỡng dực" (hai cánh), mười ngón tay gọi là "thập độ" (mười độ hay mười Ba la mật), cũng gọi là "thập luân" (mười luân xa), "thập phong" (mười đỉnh núi). Tay phải là Bát nhã (trí tuệ), cũng là quán, tuệ, trí; tay trái là Tam muội (định), cũng là chỉ, định, phúc. Thủ ấn trong Phật giáo cũng tương đương với ấn quyết, bắt quyết trong Đạo giáo, đều là dùng các ngón tay, bàn tay kết thành những tư thế, hình thù đặc biệt. Hình thức thủ ấn có rất nhiều, như Liên hoa Tam muội da, Hàng tam thế, Đại dục, Triệu tội, Pháp luân, đều tượng trưng cho tâm ý chân thực của Phật Bồ Tát.

Chương 20: Sát là độ

Dịch Huyệt Mạch ở bên kia tường Phật Thị nhìn thấy Hạ Táo Hoa rõ ràng đã đâm xuyên qua người lão mù, song lão mù vẫn hùng hổ điên cuồng như không có chuyện gì xảy ra. Tình cảnh này khiến ông ta lập tức nhớ tới loại trùng trăm chân trăm móc. Lấy trùng trăm chân trăm móc làm mồi dẫn, ban đầu nó chỉ bám trên cột sống, nơi hội tụ của huyết quản kinh mạch, có thể dùng tiếng còi với âm vực cao để làm rối loạn tinh thần, dần dần tiến tới kiểm soát tâm trí của người bị hại. Khi răng miệng của trùng cắn vào tuỷ mạch, nối liền với huyết quản kinh mạch sau cột sống cổ, người bị hại sẽ bị kiểm soát hoàn toàn. Nhưng trong giai đoạn này, nút trùng vẫn có thể giải được, giống như loài trùng mười chân trăm gai đã bám vào cột sống của Nhậm Hoả Cuồng. Chính vào lúc răng của con trùng vừa cắn xuống, Lỗ Thịnh Nghĩa đã dùng kim móc câu chuyên dụng trong phá khảm của Lỗ gia để giữ lấy thân trùng, sau đó dùng kim thép xanh nung đỏ xuyên thấy da thịt, châm nóng đầu trùng, khiến nó nhả răng ra, rồi nhể lấy ra ngoài. Nhưng nếu như một trăm cái chân và các móc câu trên thân trùng đều đã nối liền với huyết quản kinh mạch, sẽ vô phương cứu chữa. Cho dù người bị hại có chết, chỉ cần kinh mạch chưa đứt, vẫn có thể điều khiển cơ thể hành động. Nếu đã tới mức độ này, chỉ còn cách dùng máu phá vỡ trùng trăm chân trăm móc, khiến cả người và trùng đều tan nát.

- Cô gái, nghe cho rõ đây! Một niệm tâm huyết, ngậm phun vào mũi sắc, đâm xuyên cột sống cổ, người cùng trùng đều chết! - Dịch Huyệt Mạch nói lớn từng chữ thật rành mạch, chỉ sợ Hạ Táo Hoa nghe nhầm.

Hạ Táo Hoa buộc phải tự tay đâm chết cha ruột của mình, một khối huyết ứ đã dồn đọng trong tâm, không thể tan đi, đây chính là một niệm tâm huyết.

- Cô gái, mau lên! Lúc này ông ấy chỉ còn lại một cái xác bị điều khiển mà thôi! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.

Lồng ngực Hạ Táo Hoa tê cứng rồi co thắt lại, một luồng khí lạnh lan rộng sau lưng, lập tức một khối huyết ứ tanh nồng, ngọt lợ từ giữa họng ộc lên đến miệng. Hạ Táo Hoa ngậm đầu nhọn của Phượng chuỷ thích vào trong miệng, khối máu nhanh chóng tan vào mũi nhọn, được hút hết vào trong máng dẫn máu tam giác.

- A...

Hạ Táo Hoa lại rú lên một tiếng, không lớn, song nghẹn ngào như tiếng khóc. Lần này, đầu nhọn của Phượng chuỷ thích đã đâm thẳng vào giữa gáy lão mù, xuyên ngang cột sống, cũng xuyên qua thần trùng trăm chân trăm móc đang bám chặt trên đó. Mũi thích lúc đâm vào còn đẫm máu đỏ tươi, lúc rút ra đã ngả màu xanh lét, sùi bọt phì phì. Cơ thể con trùng nhanh chóng co rút, khô đét lại, lập tức mất đi tác dụng của bùa mất hồn.

Lão mù giống hệt như con rối đứt dây, tay chân rũ rượi đổ ập xuống nền đất. Quả nhiên đã là một cái xác, sau khi con trùng chết đi, có thể lão không còn phản ứng gì nữa.

Hạ Táo Hoa đau đớn không nỡ nhìn bộ dạng chết thảm của cha, vội quay đầu sang bên cạnh, vừa hay thấy Âm Thiên Vương đang cắm đầu lao vụt tới, chỉ còn cách mình vài bước chân. Cô như đã tìm thấy đối tượng để phát tiết cơn đau đớn cùng cực trong tâm, lập tức rú lên một tiếng thê thảm, rồi lao thẳng về phía Âm Thiên Vương tựa như hổ cái xuống núi.

Lỗ Nhất Khí tuy vai bị trúng thương, song trong lòng dù sao cũng nhẹ đi một phần. Chuyện của lão mù đã đè nặng trong lòng cậu rất lâu rồi, từ lúc hoài nghi tới khi khẳng định đích xác, cậu vẫn chưa thể nghĩ ra được biện pháp giải quyết.

Lão mù có lẽ đã bị trúng chiêu từ viện trong viện ở Bắc Bình. Sau khi dùng máu đánh dấu trên cột trụ Thất Phong, rơi vào lưới giảo long song may mắn thoát chết, lão đã nằm hôn mê rất lâu trong hành lang yến quy. Thế nhưng đối phương lại không hề xuống tay hạ sát lão, kỳ thực là đã nhân lúc lão hôn mê để cấy trùng trăm chân trăm móc vào trong cơ thể lão. Từ đó về sau, mỗi khi nghe thấy tiếng sáo, lão mù đều có phản ứng rất bất thường.

Sự hoài nghi của Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu từ sau khi con thuyền của Bộ Bán Thốn thoát ra khỏi tam giác Rồng, khi đó sự biến đổi của lão mù đã rất rõ ràng. Lỗ Nhất Khí đã bày mưu ép tai mắt của Chu gia phải xuất đầu lộ diện, tuy lão Xoa thừa nhận mình là do thám của Chu gia, song lại không thừa nhận đã giết người. Khi đó, Lỗ Nhất Khí đã chuyển sự hoài nghi sang lão mù. Bởi lẽ trong lần xảy ra án mạng, từ lúc nửa đêm về sáng, cậu thường ngủ mê man không tỉnh, giống như đã trúng mê hương. Mà lão mù là tặc vương, rất thạo ngón này. Ngoài ra, vết thương của người bị giết có hình lỗ tròn, rất giống với vết thương do đầu gậy thép để lại. Cậu mới nhớ lại khi Thú vương Lang Thiên Thanh sắp từ biệt, đã nhắn với cậu lời dặn của Nhậm Hoả Cuồng, nói rằng bên cạnh cậu có người trúng trùng độc. Khi đó, cậu ngỡ rằng ông muốn ám chỉ Quỷ Nhãn Tam, nhưng sau này ngẫm nghĩ lại, mới thấy có lẽ là lão mù. Bởi vì Nhậm Hoả Cuồng không hiểu gì về tam canh hàn, song ông ta đã từng bị cấy trùng mười chân trăm gai, nên nhận biết được phản ứng khi trúng phải nút trùng tương tự.

Bằng chứng chứng thực cho việc lão mù bị Chu gia kiểm soát chính là cái chết của Hứa Tiểu Chỉ. Trước khi mất mạng, Hứa Tiểu Chỉ đã va trúng vào lão. Sau khi hắn bị đám kền kền quắp bay đi, nhìn vào vết máu nhỏ trên đất, thì thấy rằng hắn đã bị gậy thép đâm trúng. Dẫu rằng lúc đó, Lỗ Nhất Khí vô cùng đau xót trước cái chết của Hứa Tiểu Chỉ, song vẫn nuôi một niềm hy vọng có thể giải cứu lão mù, niềm hy vọng đó chính là Dịch Huyệt Mạch.

Song khảm diện Vô địa tự dung ở cuối đường canh Âm Thế đã khiến tình hình đảo lộn, lão mù đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Lỗ Nhất Khí, cho tới khi bị chính con gái ruột đâm chết...

Trời đã sáng bạch. Vừa lao qua mảng tường đổ, Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, bèn vội vã lướt về phía cậu.

Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy Dưỡng Quỷ Tỳ, liền đưa tay trái lên lắc khẽ, tỏ ý không muốn cô lại gần. Dưỡng Quỷ Tỳ lòng dạ trong sáng thông minh, lập tức lướt sang ngang, dừng lại ở bên rìa bãi đá Thần Hô.

Phật sống vẫn giữ chặt lấy mũi gậy đã xuyên qua bả vai Lỗ Nhất Khí, rồi tiến sát thêm một chút về phía cậu, nói:

- Người đời không phải ai cũng có thể độ, nếu không có vị cô nương kia, kẻ mất hồn này đã độ hoá ngươi rồi!

Lỗ Nhất Khí gắng gượng nhẫn nhịn cơn đau đớn kịch liệt, từ từ thả lỏng hàm răng đang nghiến chặt, trên môi nở một nụ cười gượng gạo:

- Tôi chưa độ được ông ấy, nhưng cô nương kia đã độ cho ông ấy. Một cú đâm đau đớn, thoát khỏi nỗi thống khổ mất hồn, rời bỏ phàm thế vô vọng, buông bỏ xác thân, không còn giúp kẻ xấu làm điều ác, về miền Cực Lạc. Tôi cũng không phải là chưa độ. Ngài không nhìn thấy tôi đã độ vị cô nương kia ư? Vì tấm thân tàn của tôi, lại càng vì chúng sinh cơ cực, cô ấy đã nén lại nỗi đau thương ngàn vạn, đích thân giết chết cha ruột của mình. Cái tâm từ bi thiện lành này chính là cái tâm hướng Phật.

- Vậy ngươi có biết làm thế nào để độ ta không? - Phật sống hỏi.

- Thiên cơ không lộ, Phật lý tự ngộ. Là lý, là dẫn, là mê, là hoặc, tôn giá hãy tự phản tỉnh.

- Xin thỉnh giáo!

- Trước khi Phật Tổ ngộ đạo, thân phàm tục của người được làm vương tử cao sang, tận hưởng mọi vinh hoa phú quý trên trời, sau đó mới ngộ ra Phật lý không dục đều không. Người phàm chúng ta không có được vị trí tối cao này, bởi vậy nên nhập đạo từ một cảnh giới tối cực khác, việc tu hành đều nên xuất phát từ chữ "khổ". - Nội dung này Lỗ Nhất Khí đọc được từ bộ sách "Khổ na thoát chư kinh", một bộ kinh rất ít người biết tới, là nguyên lý của Phật giáo Đại Thừa, có sự khác biệt so với Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Bởi vậy đối với Phật sống, quan điểm này quả thực có phần mới mẻ.

- Thế nào là khổ?

- Biết được nỗi khổ của chúng sinh, chịu khổ vì chúng sinh, khổ tâm, khổ chí, khổ tu, khổ ngộ, sau đó mới có thể bỏ tư dục, vứt thân tục, niệm thành tro. Hành động cử chỉ đều là tự nhiên, tứ xúc đều là hư không, mà đăng cõi huyền nhập Phật cảnh. – Trong những lời này, Lỗ Nhất Khí lại thêm vào màu sắc đạo huyền hư tự nhiên của Đạo giáo, những nội dung này Phật sống lại càng chưa từng nghe thấy.

- Phải làm thế nào?

- Đưa tôi lên Thiên Thê.

- Ngươi tới độ ta?

- Không phân ta hay người, độ người cũng chính là độ mình. Tôi làm theo ý trời, ngài tu hành theo Phật.

- Cứ cho là vậy! - Phật sống nói đoạn, lập tức ra tay.

Trong chớp mắt, thép gãy tan tành, máu phun tung toé...

Muốn qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc có hai cách, cách thứ nhất là giải khảm mà đi, cách này Mạc Thiên Quy không làm được, cũng không kịp làm. Cách thứ hai là băng qua phía trên khảm diện, nhưng vấn đề là ở chỗ qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc, phía bên kia lại có khảm diện tháp trắng lọng vàng. Phương pháp bay qua liệu có thực hiện được đối với ngọn tháp trắng kia không?

Phân tích theo bố cục của không gian xung quanh, trên tháp trắng chắc chắn sẽ có nút lẫy chồng chéo lên Vân thú mây trời chín sắc, hơn nữa, phạm vi sát thương của nút lẫy tại đó rất có thể được dùng để bù đắp cho khiếm khuyết từ hình thức bố trí trên mặt phẳng của khảm diện Vân thú mây trời chín sắc. Nếu đúng là như vậy, Mạc Thiên Quy không những phải bay lên, mà còn phải di chuyển men theo phần rìa khảm chồng chéo giữa hai khảm diện ở một vị trí thích hợp, như vậy mới có thể vượt qua an toàn.

Vị trí thích hợp ở đâu? Rìa khảm có hình thù như thế nào? Những điều này, Mạc Thiên Quy chỉ có thể phán đoán được sau khi tới sát tháp trắng. Lúc này, việc lão cần làm chính là bay lên cái đã.

Khinh công của Mạc Thiên Quy không bằng lão mù hay Hạ Táo Hoa, nhưng khiếm khuyết về công lực sẽ được bù đắp bằng công cụ. "Nhện bay", bốn cánh tám chân, được chế tạo từ thép tinh vùng Quan Ngoại, chế tác bằng các kỹ thuật dùi lỗ, dát mỏng. Mạc Thiên Quy lên chốt thật căng, chỉ thấy nó kêu "rè rè" một tiếng, rồi lập tức bay lên. Khi "nhện bay" bay đi, từ lỗ thủng phía sau đuôi thả xuống một sợi dây vàng bện ba múi do xưởng dệt Kim Lăng chế tạo. "Nhện bay" lượn một vòng quanh tháp trắng rồi hạ xuống một mặt nghiêng tại lưng chừng tháp, tám chân quặp lại, đồng loạt bám chặt vào khe gạch. Mạc Thiên Quy nâng nhẹ sợi dây kim tuyến, đặt lên trên nó một bánh xe ròng rọc nhỏ cực kỳ tinh xảo, trên móc câu của ròng rọc có mang theo một sợi dây đay to hơn sợi dây kim tuyến một chút. Sợi dây này chỉ nặng hơn sợi dây kim tuyến một chút, song sức kéo mạnh hơn rất nhiều. Sau đó, lão nhẹ nhàng kéo lắc sợi kim tuyến, bánh xe ròng rọc liền trượt về phía trước dọc theo sợi dây kim tuyến. Rõ ràng, trong bánh xe ròng rọc có lắp răng khoá một hướng.

Bánh xe ròng rọc nhanh chóng đâm vào "nhện bay", vòng móc phía trên ròng rọc từ từ trượt vào móc câu mở vào trong ở trên đuôi "nhện bay".

Mạc Thiên Quy tiếp tục buộc sợi dây đay vào một tấm vải kẹp trúc vân đốt rộng cỡ bàn tay. Thứ vải này được dệt từ sợi da và lông bờm động vật, vô cùng chắc chắn, hơn nữa cách một đoạn lại có gắn kẹp trúc, dùng để trợ lực.

Sau khi cuộn vải kẹp trúc đã tới vị trí thích hợp, Mạc Thiên Quy ghim chắc đầu cuộn vải lên trên cột trụ góc của bức tường phía ngoài toà điện bên trái bằng một chiếc đinh đầu lợn hai nanh. Chiếc đinh đầu lợn hai nanh cũng giống như "nhện bay" tám chân, sau khi chịu lực, hai nanh và tám chân càng thu càng chắc, càng kéo càng cắm sâu vào trong vật cố định.

Nói thì rườm rà, song kỳ thực toàn bộ quá trình thao tác lại diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Chỉ một loáng sau, Mạc Thiên Quy đã băng qua không trung trên tấm vải kẹp trúc. Tuy rằng đã có vật trợ giúp, song bước đi vẫn như sóng đánh, thân hình vẫn như lá bay. Trong tư thế chao đảo liên hồi, Mạc Thiên Quy đã tới được vị trí giao nhau giữa hai khảm diện. Đã tới chỗ này, sẽ không thể đi tiếp được nữa, vì tăng cường lực tác động lên ngọn tháp trắng, rất có thể sẽ dẫn động một số chốt lẫy ở phía đó. Hơn nữa, bên dưới ngọn tháp chắc chắn sẽ không có vị trí giẫm chân an toàn, đi tiếp về phía trước cũng không có nghĩa lý gì. Biện pháp tốt nhất là từ đây tìm ra vị trí xếp chồng của hai khảm, sau đó men theo rìa khảm ngoặt sang một hướng khác.

Bãi Vân thú mây trời chín sắc là một bề mặt trải rộng, còn khảm diện tháp trắng lọng vàng là một vòng tròn lấy thân tháp làm trung tâm, cục thế sát thương là từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên. Như vậy, xem ra vị trí chồng chéo giữa hai khảm có lẽ là ở phía trên bãi Vân thú mây trời chín sắc, là một đường vòng cung ở khoảng lưng chừng tháp. Độ cao của vị trí này rất dễ tìm ra, song vấn đề là làm thế nào để bay lên cao mà đi theo đường vòng cung được?

Mạc Thiên Quy nhắm sẵn một cây cột trụ trên hành lang vòng quanh tháp, phóng một sợi dây thừng về phía đấy có thể mượn lực để lao thẳng tới mé phía tây. Song nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ có hơn nửa quãng đường không thể ở chính xác trên rìa khảm.

Thời gian cấp bách, nên Mạc Thiên Quy từ bỏ ý định tính toán kỹ lưỡng hơn, mà quyết định sẽ mạo hiểm. Lão xưa nay hành sự thận trọng, rất hiếm khi làm như vậy.

Một con "nhện bay" khác đã được phóng đi, mang theo một sợi dây đay, găm chắc trên cột trụ hành lang. Mạc Thiên Quy kéo căng sợi dây đay, thử qua độ chắc của nó. Sau đó nội ngoại khí vận chuyển đủ một vòng, bàn tay, cánh tay, vai, lưng eo, hông, chân, bàn chân nhất tề vận lực theo một đường thẳng, chuẩn bị tung người phóng đi.

Đúng vào thời khắc đó, từ cửa sau toà điện bên trái đột ngột xẹt ra một luồng đao khí vô cùng dữ dội. Đao khí không tiếng động, song kẻ xuất đao lại gầm khẽ một tiếng vô cùng quái đản, khiến người ta nghe mà rùng rợn trong tim, hoảng loạn không biết phải làm gì. Đúng là dùng tiếng doạ người, dùng đao giết người.

Đao Thập Lục đã xuất hiện, tình hình trước mắt khiến gã chẳng kịp nghĩ ngợi gì thêm, lập tức tung người lao ra. Người xuất hiện, đao sẽ xuất hiện. Đao xuất hiện, sẽ đoạt mạng người. Mục tiêu xuống đao là tấm vải kẹp trúc. Tấm vải bị cắt đứt, Mạc Thiên Quy sẽ rơi ngay xuống phạm vi hợp sát của bãi Vân thú mây trời chín sắc và tháp trắng lọng vàng.

Đao đã hạ, vải đã đứt, Mạc Thiên Quy rú lên một tiếng thất thanh...

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Hạ Táo Hoa đâm một nhát xuyên thấu cột sống cổ lão mù, cuối cùng cũng cúi đầu thở hắt ra một hơi. Vừa cúi đầu, liền nhìn thấy Chu Chân Mệnh và đường chủ Cứ Điên đường Cao Bôn Lôi phía dưới. Cao Bôn Lôi cũng đang ngước lên trên dò xét. Bốn mắt giao nhau, lập tức đồng thời ra tay.

Dịch Huyệt Mạch vung tay búng ra vài tia sáng mảnh như lông bò. Chuỳ bôn lôi trong tay Cao Bôn Lôi cũng đã phóng vụt đi. Chuỳ bôn lôi kích thước to lớn, tuy tốc độ bay chậm, song lại mang theo một kình lực vô song. So sánh với nó, những mũi kim bạc của Dịch Huyệt Mạch thật quá nhỏ bé yếu ớt, chẳng thấm tháp vào đâu.

Chuỳ bôn lôi đánh bạt đám kim bạc, đập thủng tường lan can. Chớp mắt, đám kim bạc đã lẫn lộn trong đám vữa vỡ đá vụn, bay tung toé khắp trời.

Đối mặt với thế tấn công như vũ bão, Dịch Huyệt Mạch chỉ biết liên tục thoái lui. Chân bước liên tục theo thế bàn hoa bộ đan chéo, thoắt cái đã lùi tới hơn chục bước, ẩn mình tĩnh lặng quan sát sự biến hoá tiếp theo của chuỳ bôn lôi.

Chuỳ bôn lôi có thể bay đi tấn công, là vì trên cán chuy có gắn một sợi xích lớn bằng thép trắng Miến Điện, giúp chuỳ đánh đi hay giật lại đều thuận tiện dễ dàng.

Sợi xích thép trên cán chuỳ bay một vòng rồi quấn chặt vào gióng ngang trên lan can. Cao Bôn Lôi vận kình giật mạnh, người đi theo xích, cơ thể cao lớn vạm vỡ đã bay vọt lên hết sức nhẹ nhàng, lao lên theo con dốc nghiêng xếp bằng đá, chỉ hai cú đá chân mượn lực, người đã ở trên thành lan can. Sau đó sợi xích rũ mạnh giật về, chuỳ bôn lôi lập tức nhảy vào nằm gọn trong tay tựa như sinh vật sống.

Một hán tử to cao lực lưỡng, tay cầm ngang cây chuỳ lớn bằng đồng, cán ràng xích sắt, vẻ lẫm liệt khác nào thiên tướng. Đối mặt với một cao thủ như vậy, Dịch Huyệt Mạch đã cảm thấy sợ hãi. Ông nhận thấy rằng trong phạm vi hoạt động của chuỳ bôn lôi, ông không thể tìm ra một khe hở nào để phóng kim. Không có khe hở để phóng kim, đám kim bạc của ông cũng trở nên vô dụng.

Cao Bôn Lôi xoạc chân bước từ trên thành lan can xuống, nhìn bộ dạng căng thẳng của Dịch Huyệt Mạch, thì cười lớn mà nói:

- Chỉ còn lại mình ngươi thôi à? Chớ căng thẳng, sớm muộn rồi các ngươi cũng sẽ gặp lại nhau trên đường luân hồi thôi! - Giọng nói của hắn oang oang như sấm nổ.

Dịch Huyệt Mạch không nói gì, vẻ mặt trông rất khó coi. Vạt áo trên người rung lên khẽ khẽ, song không phải vì gió thổi, bởi lẽ lúc này nơi đây không một chút gió.

- Ngươi run à? Không thể nào! Dám xông vào trong chùa, lại có thể tới được tận đây, tuyệt đối không phải hạng tầm thường. Đừng có giả bộ để loè ta, ta không mắc lừa mánh khoé này của ngươi đâu! – Cao Bôn Lôi ăn nói rườm rà, trái ngược hẳn với dáng vẻ của hắn.

Song Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, thứ mất cân đối nhất với bộ dạng bề ngoài của Cao Bôn Lôi chính là tâm tư tinh tế của hắn. Ông vừa cố tình tỏ ra khiếp nhược, đã lập tức bị hắn phát giác ra. Bởi vậy Dịch Huyệt Mạch chỉ có thể tập trung chú ý để tìm kiếm, tìm kiếm chuẩn xác một vị trí mà người bình thường không thể tưởng tượng ra.

Cao Bôn Lôi từ từ bày ra tư thế công thủ song toàn. Hắn chưa bao giờ xem thường bất cứ đối thủ nào, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn có thể tồn tại lâu đến thế trong chốn giang hồ hiểm ác. Dịch Huyệt Mạch cũng thu lại vẻ khiếp nhược nguỵ trang, hết sức thận trọng rút ra một chiếc kim bạc từ trong bình kim. Chỉ một chiếc duy nhất, song chiếc kim này dài hơn gấp ba lần kim bình thường. Vì dài, nên trông nó mảnh hơn, mềm mại hơn nhiều, cảm giác còn không đủ sức xuyên qua tấm vải.

Một chiếc chuỳ đồng to lớn nặng nề, một sợi kim bạc mảnh dẻ, cả hai bên đều hy vọng trong trận quyết chiến đẫm máu này, có thể định rõ hơn thua trong khoảng thời gian ngắn nhất.

Chu Chân Mệnh trong thâm tâm rất hài lòng trước phản ứng và hành động của Cao Bôn Lôi. Quả nhiên là một tay giang hồ lão luyện đã quen lăn lội sa trường, vừa nhìn thấy tình hình biến đổi đã hành động chớp nhoáng, vừa ra tay đã giành thế thượng phong, phong toả chặt chẽ lối đi bên trên. Như vậy, hắn có thể ung dung đi qua từ phía dưới, sang phía bên kia theo dõi sát sao Lỗ Nhất Khí.

Chu Chân Mệnh mau chóng băng qua con đường hẹp phía dưới, lặng lẽ tiến về phía cuối tường Phật Thị. Đi ra theo lối đó, hắn đã có thể gặp được Phật sống và Thú Cơ nương nương. Như vậy, Lỗ Nhất Khí chẳng khác nào một con chim bị nhốt trong lồng. Trước hết, Chu Chân Mệnh sai tiểu Lạt ma truyền mệnh lệnh cho Đại hộ pháp và Âm, Dương Thiên Vương bức bách Lỗ Nhất Khí mau chóng quật bảo, còn hắn sẽ rình bên cạnh tìm thời cơ cướp lấy. Song tiểu Lạt ma vẫn còn một mệnh lệnh chưa truyền đạt hết, đó là chỉ để cho một mình Lỗ Nhất Khí sống sót.

Dịch Huyệt Mạch ở bên kia tường Phật Thị nhìn thấy Hạ Táo Hoa rõ ràng đã đâm xuyên qua người lão mù, song lão mù vẫn hùng hổ điên cuồng như không có chuyện gì xảy ra. Tình cảnh này khiến ông ta lập tức nhớ tới loại trùng trăm chân trăm móc. Lấy trùng trăm chân trăm móc làm mồi dẫn, ban đầu nó chỉ bám trên cột sống, nơi hội tụ của huyết quản kinh mạch, có thể dùng tiếng còi với âm vực cao để làm rối loạn tinh thần, dần dần tiến tới kiểm soát tâm trí của người bị hại. Khi răng miệng của trùng cắn vào tuỷ mạch, nối liền với huyết quản kinh mạch sau cột sống cổ, người bị hại sẽ bị kiểm soát hoàn toàn. Nhưng trong giai đoạn này, nút trùng vẫn có thể giải được, giống như loài trùng mười chân trăm gai đã bám vào cột sống của Nhậm Hoả Cuồng. Chính vào lúc răng của con trùng vừa cắn xuống, Lỗ Thịnh Nghĩa đã dùng kim móc câu chuyên dụng trong phá khảm của Lỗ gia để giữ lấy thân trùng, sau đó dùng kim thép xanh nung đỏ xuyên thấy da thịt, châm nóng đầu trùng, khiến nó nhả răng ra, rồi nhể lấy ra ngoài. Nhưng nếu như một trăm cái chân và các móc câu trên thân trùng đều đã nối liền với huyết quản kinh mạch, sẽ vô phương cứu chữa. Cho dù người bị hại có chết, chỉ cần kinh mạch chưa đứt, vẫn có thể điều khiển cơ thể hành động. Nếu đã tới mức độ này, chỉ còn cách dùng máu phá vỡ trùng trăm chân trăm móc, khiến cả người và trùng đều tan nát.

- Cô gái, nghe cho rõ đây! Một niệm tâm huyết, ngậm phun vào mũi sắc, đâm xuyên cột sống cổ, người cùng trùng đều chết! - Dịch Huyệt Mạch nói lớn từng chữ thật rành mạch, chỉ sợ Hạ Táo Hoa nghe nhầm.

Hạ Táo Hoa buộc phải tự tay đâm chết cha ruột của mình, một khối huyết ứ đã dồn đọng trong tâm, không thể tan đi, đây chính là một niệm tâm huyết.

- Cô gái, mau lên! Lúc này ông ấy chỉ còn lại một cái xác bị điều khiển mà thôi! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.

Lồng ngực Hạ Táo Hoa tê cứng rồi co thắt lại, một luồng khí lạnh lan rộng sau lưng, lập tức một khối huyết ứ tanh nồng, ngọt lợ từ giữa họng ộc lên đến miệng. Hạ Táo Hoa ngậm đầu nhọn của Phượng chuỷ thích vào trong miệng, khối máu nhanh chóng tan vào mũi nhọn, được hút hết vào trong máng dẫn máu tam giác.

- A...

Hạ Táo Hoa lại rú lên một tiếng, không lớn, song nghẹn ngào như tiếng khóc. Lần này, đầu nhọn của Phượng chuỷ thích đã đâm thẳng vào giữa gáy lão mù, xuyên ngang cột sống, cũng xuyên qua thần trùng trăm chân trăm móc đang bám chặt trên đó. Mũi thích lúc đâm vào còn đẫm máu đỏ tươi, lúc rút ra đã ngả màu xanh lét, sùi bọt phì phì. Cơ thể con trùng nhanh chóng co rút, khô đét lại, lập tức mất đi tác dụng của bùa mất hồn.

Lão mù giống hệt như con rối đứt dây, tay chân rũ rượi đổ ập xuống nền đất. Quả nhiên đã là một cái xác, sau khi con trùng chết đi, có thể lão không còn phản ứng gì nữa.

Hạ Táo Hoa đau đớn không nỡ nhìn bộ dạng chết thảm của cha, vội quay đầu sang bên cạnh, vừa hay thấy Âm Thiên Vương đang cắm đầu lao vụt tới, chỉ còn cách mình vài bước chân. Cô như đã tìm thấy đối tượng để phát tiết cơn đau đớn cùng cực trong tâm, lập tức rú lên một tiếng thê thảm, rồi lao thẳng về phía Âm Thiên Vương tựa như hổ cái xuống núi.

Lỗ Nhất Khí tuy vai bị trúng thương, song trong lòng dù sao cũng nhẹ đi một phần. Chuyện của lão mù đã đè nặng trong lòng cậu rất lâu rồi, từ lúc hoài nghi tới khi khẳng định đích xác, cậu vẫn chưa thể nghĩ ra được biện pháp giải quyết.

Lão mù có lẽ đã bị trúng chiêu từ viện trong viện ở Bắc Bình. Sau khi dùng máu đánh dấu trên cột trụ Thất Phong, rơi vào lưới giảo long song may mắn thoát chết, lão đã nằm hôn mê rất lâu trong hành lang yến quy. Thế nhưng đối phương lại không hề xuống tay hạ sát lão, kỳ thực là đã nhân lúc lão hôn mê để cấy trùng trăm chân trăm móc vào trong cơ thể lão. Từ đó về sau, mỗi khi nghe thấy tiếng sáo, lão mù đều có phản ứng rất bất thường.

Sự hoài nghi của Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu từ sau khi con thuyền của Bộ Bán Thốn thoát ra khỏi tam giác Rồng, khi đó sự biến đổi của lão mù đã rất rõ ràng. Lỗ Nhất Khí đã bày mưu ép tai mắt của Chu gia phải xuất đầu lộ diện, tuy lão Xoa thừa nhận mình là do thám của Chu gia, song lại không thừa nhận đã giết người. Khi đó, Lỗ Nhất Khí đã chuyển sự hoài nghi sang lão mù. Bởi lẽ trong lần xảy ra án mạng, từ lúc nửa đêm về sáng, cậu thường ngủ mê man không tỉnh, giống như đã trúng mê hương. Mà lão mù là tặc vương, rất thạo ngón này. Ngoài ra, vết thương của người bị giết có hình lỗ tròn, rất giống với vết thương do đầu gậy thép để lại. Cậu mới nhớ lại khi Thú vương Lang Thiên Thanh sắp từ biệt, đã nhắn với cậu lời dặn của Nhậm Hoả Cuồng, nói rằng bên cạnh cậu có người trúng trùng độc. Khi đó, cậu ngỡ rằng ông muốn ám chỉ Quỷ Nhãn Tam, nhưng sau này ngẫm nghĩ lại, mới thấy có lẽ là lão mù. Bởi vì Nhậm Hoả Cuồng không hiểu gì về tam canh hàn, song ông ta đã từng bị cấy trùng mười chân trăm gai, nên nhận biết được phản ứng khi trúng phải nút trùng tương tự.

Bằng chứng chứng thực cho việc lão mù bị Chu gia kiểm soát chính là cái chết của Hứa Tiểu Chỉ. Trước khi mất mạng, Hứa Tiểu Chỉ đã va trúng vào lão. Sau khi hắn bị đám kền kền quắp bay đi, nhìn vào vết máu nhỏ trên đất, thì thấy rằng hắn đã bị gậy thép đâm trúng. Dẫu rằng lúc đó, Lỗ Nhất Khí vô cùng đau xót trước cái chết của Hứa Tiểu Chỉ, song vẫn nuôi một niềm hy vọng có thể giải cứu lão mù, niềm hy vọng đó chính là Dịch Huyệt Mạch.

Song khảm diện Vô địa tự dung ở cuối đường canh Âm Thế đã khiến tình hình đảo lộn, lão mù đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Lỗ Nhất Khí, cho tới khi bị chính con gái ruột đâm chết...

Trời đã sáng bạch. Vừa lao qua mảng tường đổ, Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, bèn vội vã lướt về phía cậu.

Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy Dưỡng Quỷ Tỳ, liền đưa tay trái lên lắc khẽ, tỏ ý không muốn cô lại gần. Dưỡng Quỷ Tỳ lòng dạ trong sáng thông minh, lập tức lướt sang ngang, dừng lại ở bên rìa bãi đá Thần Hô.

Phật sống vẫn giữ chặt lấy mũi gậy đã xuyên qua bả vai Lỗ Nhất Khí, rồi tiến sát thêm một chút về phía cậu, nói:

- Người đời không phải ai cũng có thể độ, nếu không có vị cô nương kia, kẻ mất hồn này đã độ hoá ngươi rồi!

Lỗ Nhất Khí gắng gượng nhẫn nhịn cơn đau đớn kịch liệt, từ từ thả lỏng hàm răng đang nghiến chặt, trên môi nở một nụ cười gượng gạo:

- Tôi chưa độ được ông ấy, nhưng cô nương kia đã độ cho ông ấy. Một cú đâm đau đớn, thoát khỏi nỗi thống khổ mất hồn, rời bỏ phàm thế vô vọng, buông bỏ xác thân, không còn giúp kẻ xấu làm điều ác, về miền Cực Lạc. Tôi cũng không phải là chưa độ. Ngài không nhìn thấy tôi đã độ vị cô nương kia ư? Vì tấm thân tàn của tôi, lại càng vì chúng sinh cơ cực, cô ấy đã nén lại nỗi đau thương ngàn vạn, đích thân giết chết cha ruột của mình. Cái tâm từ bi thiện lành này chính là cái tâm hướng Phật.

- Vậy ngươi có biết làm thế nào để độ ta không? - Phật sống hỏi.

- Thiên cơ không lộ, Phật lý tự ngộ. Là lý, là dẫn, là mê, là hoặc, tôn giá hãy tự phản tỉnh.

- Xin thỉnh giáo!

- Trước khi Phật Tổ ngộ đạo, thân phàm tục của người được làm vương tử cao sang, tận hưởng mọi vinh hoa phú quý trên trời, sau đó mới ngộ ra Phật lý không dục đều không. Người phàm chúng ta không có được vị trí tối cao này, bởi vậy nên nhập đạo từ một cảnh giới tối cực khác, việc tu hành đều nên xuất phát từ chữ "khổ". - Nội dung này Lỗ Nhất Khí đọc được từ bộ sách "Khổ na thoát chư kinh", một bộ kinh rất ít người biết tới, là nguyên lý của Phật giáo Đại Thừa, có sự khác biệt so với Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Bởi vậy đối với Phật sống, quan điểm này quả thực có phần mới mẻ.

- Thế nào là khổ?

- Biết được nỗi khổ của chúng sinh, chịu khổ vì chúng sinh, khổ tâm, khổ chí, khổ tu, khổ ngộ, sau đó mới có thể bỏ tư dục, vứt thân tục, niệm thành tro. Hành động cử chỉ đều là tự nhiên, tứ xúc đều là hư không, mà đăng cõi huyền nhập Phật cảnh. – Trong những lời này, Lỗ Nhất Khí lại thêm vào màu sắc đạo huyền hư tự nhiên của Đạo giáo, những nội dung này Phật sống lại càng chưa từng nghe thấy.

- Phải làm thế nào?

- Đưa tôi lên Thiên Thê.

- Ngươi tới độ ta?

- Không phân ta hay người, độ người cũng chính là độ mình. Tôi làm theo ý trời, ngài tu hành theo Phật.

- Cứ cho là vậy! - Phật sống nói đoạn, lập tức ra tay.

Trong chớp mắt, thép gãy tan tành, máu phun tung toé...

Muốn qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc có hai cách, cách thứ nhất là giải khảm mà đi, cách này Mạc Thiên Quy không làm được, cũng không kịp làm. Cách thứ hai là băng qua phía trên khảm diện, nhưng vấn đề là ở chỗ qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc, phía bên kia lại có khảm diện tháp trắng lọng vàng. Phương pháp bay qua liệu có thực hiện được đối với ngọn tháp trắng kia không?

Phân tích theo bố cục của không gian xung quanh, trên tháp trắng chắc chắn sẽ có nút lẫy chồng chéo lên Vân thú mây trời chín sắc, hơn nữa, phạm vi sát thương của nút lẫy tại đó rất có thể được dùng để bù đắp cho khiếm khuyết từ hình thức bố trí trên mặt phẳng của khảm diện Vân thú mây trời chín sắc. Nếu đúng là như vậy, Mạc Thiên Quy không những phải bay lên, mà còn phải di chuyển men theo phần rìa khảm chồng chéo giữa hai khảm diện ở một vị trí thích hợp, như vậy mới có thể vượt qua an toàn.

Vị trí thích hợp ở đâu? Rìa khảm có hình thù như thế nào? Những điều này, Mạc Thiên Quy chỉ có thể phán đoán được sau khi tới sát tháp trắng. Lúc này, việc lão cần làm chính là bay lên cái đã.

Khinh công của Mạc Thiên Quy không bằng lão mù hay Hạ Táo Hoa, nhưng khiếm khuyết về công lực sẽ được bù đắp bằng công cụ. "Nhện bay", bốn cánh tám chân, được chế tạo từ thép tinh vùng Quan Ngoại, chế tác bằng các kỹ thuật dùi lỗ, dát mỏng. Mạc Thiên Quy lên chốt thật căng, chỉ thấy nó kêu "rè rè" một tiếng, rồi lập tức bay lên. Khi "nhện bay" bay đi, từ lỗ thủng phía sau đuôi thả xuống một sợi dây vàng bện ba múi do xưởng dệt Kim Lăng chế tạo. "Nhện bay" lượn một vòng quanh tháp trắng rồi hạ xuống một mặt nghiêng tại lưng chừng tháp, tám chân quặp lại, đồng loạt bám chặt vào khe gạch. Mạc Thiên Quy nâng nhẹ sợi dây kim tuyến, đặt lên trên nó một bánh xe ròng rọc nhỏ cực kỳ tinh xảo, trên móc câu của ròng rọc có mang theo một sợi dây đay to hơn sợi dây kim tuyến một chút. Sợi dây này chỉ nặng hơn sợi dây kim tuyến một chút, song sức kéo mạnh hơn rất nhiều. Sau đó, lão nhẹ nhàng kéo lắc sợi kim tuyến, bánh xe ròng rọc liền trượt về phía trước dọc theo sợi dây kim tuyến. Rõ ràng, trong bánh xe ròng rọc có lắp răng khoá một hướng.

Bánh xe ròng rọc nhanh chóng đâm vào "nhện bay", vòng móc phía trên ròng rọc từ từ trượt vào móc câu mở vào trong ở trên đuôi "nhện bay".

Mạc Thiên Quy tiếp tục buộc sợi dây đay vào một tấm vải kẹp trúc vân đốt rộng cỡ bàn tay. Thứ vải này được dệt từ sợi da và lông bờm động vật, vô cùng chắc chắn, hơn nữa cách một đoạn lại có gắn kẹp trúc, dùng để trợ lực.

Sau khi cuộn vải kẹp trúc đã tới vị trí thích hợp, Mạc Thiên Quy ghim chắc đầu cuộn vải lên trên cột trụ góc của bức tường phía ngoài toà điện bên trái bằng một chiếc đinh đầu lợn hai nanh. Chiếc đinh đầu lợn hai nanh cũng giống như "nhện bay" tám chân, sau khi chịu lực, hai nanh và tám chân càng thu càng chắc, càng kéo càng cắm sâu vào trong vật cố định.

Nói thì rườm rà, song kỳ thực toàn bộ quá trình thao tác lại diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Chỉ một loáng sau, Mạc Thiên Quy đã băng qua không trung trên tấm vải kẹp trúc. Tuy rằng đã có vật trợ giúp, song bước đi vẫn như sóng đánh, thân hình vẫn như lá bay. Trong tư thế chao đảo liên hồi, Mạc Thiên Quy đã tới được vị trí giao nhau giữa hai khảm diện. Đã tới chỗ này, sẽ không thể đi tiếp được nữa, vì tăng cường lực tác động lên ngọn tháp trắng, rất có thể sẽ dẫn động một số chốt lẫy ở phía đó. Hơn nữa, bên dưới ngọn tháp chắc chắn sẽ không có vị trí giẫm chân an toàn, đi tiếp về phía trước cũng không có nghĩa lý gì. Biện pháp tốt nhất là từ đây tìm ra vị trí xếp chồng của hai khảm, sau đó men theo rìa khảm ngoặt sang một hướng khác.

Bãi Vân thú mây trời chín sắc là một bề mặt trải rộng, còn khảm diện tháp trắng lọng vàng là một vòng tròn lấy thân tháp làm trung tâm, cục thế sát thương là từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên. Như vậy, xem ra vị trí chồng chéo giữa hai khảm có lẽ là ở phía trên bãi Vân thú mây trời chín sắc, là một đường vòng cung ở khoảng lưng chừng tháp. Độ cao của vị trí này rất dễ tìm ra, song vấn đề là làm thế nào để bay lên cao mà đi theo đường vòng cung được?

Mạc Thiên Quy nhắm sẵn một cây cột trụ trên hành lang vòng quanh tháp, phóng một sợi dây thừng về phía đấy có thể mượn lực để lao thẳng tới mé phía tây. Song nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ có hơn nửa quãng đường không thể ở chính xác trên rìa khảm.

Thời gian cấp bách, nên Mạc Thiên Quy từ bỏ ý định tính toán kỹ lưỡng hơn, mà quyết định sẽ mạo hiểm. Lão xưa nay hành sự thận trọng, rất hiếm khi làm như vậy.

Một con "nhện bay" khác đã được phóng đi, mang theo một sợi dây đay, găm chắc trên cột trụ hành lang. Mạc Thiên Quy kéo căng sợi dây đay, thử qua độ chắc của nó. Sau đó nội ngoại khí vận chuyển đủ một vòng, bàn tay, cánh tay, vai, lưng eo, hông, chân, bàn chân nhất tề vận lực theo một đường thẳng, chuẩn bị tung người phóng đi.

Đúng vào thời khắc đó, từ cửa sau toà điện bên trái đột ngột xẹt ra một luồng đao khí vô cùng dữ dội. Đao khí không tiếng động, song kẻ xuất đao lại gầm khẽ một tiếng vô cùng quái đản, khiến người ta nghe mà rùng rợn trong tim, hoảng loạn không biết phải làm gì. Đúng là dùng tiếng doạ người, dùng đao giết người.

Đao Thập Lục đã xuất hiện, tình hình trước mắt khiến gã chẳng kịp nghĩ ngợi gì thêm, lập tức tung người lao ra. Người xuất hiện, đao sẽ xuất hiện. Đao xuất hiện, sẽ đoạt mạng người. Mục tiêu xuống đao là tấm vải kẹp trúc. Tấm vải bị cắt đứt, Mạc Thiên Quy sẽ rơi ngay xuống phạm vi hợp sát của bãi Vân thú mây trời chín sắc và tháp trắng lọng vàng.

Đao đã hạ, vải đã đứt, Mạc Thiên Quy rú lên một tiếng thất thanh...

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Hạ Táo Hoa đâm một nhát xuyên thấu cột sống cổ lão mù, cuối cùng cũng cúi đầu thở hắt ra một hơi. Vừa cúi đầu, liền nhìn thấy Chu Chân Mệnh và đường chủ Cứ Điên đường Cao Bôn Lôi phía dưới. Cao Bôn Lôi cũng đang ngước lên trên dò xét. Bốn mắt giao nhau, lập tức đồng thời ra tay.

Dịch Huyệt Mạch vung tay búng ra vài tia sáng mảnh như lông bò. Chuỳ bôn lôi trong tay Cao Bôn Lôi cũng đã phóng vụt đi. Chuỳ bôn lôi kích thước to lớn, tuy tốc độ bay chậm, song lại mang theo một kình lực vô song. So sánh với nó, những mũi kim bạc của Dịch Huyệt Mạch thật quá nhỏ bé yếu ớt, chẳng thấm tháp vào đâu.

Chuỳ bôn lôi đánh bạt đám kim bạc, đập thủng tường lan can. Chớp mắt, đám kim bạc đã lẫn lộn trong đám vữa vỡ đá vụn, bay tung toé khắp trời.

Đối mặt với thế tấn công như vũ bão, Dịch Huyệt Mạch chỉ biết liên tục thoái lui. Chân bước liên tục theo thế bàn hoa bộ đan chéo, thoắt cái đã lùi tới hơn chục bước, ẩn mình tĩnh lặng quan sát sự biến hoá tiếp theo của chuỳ bôn lôi.

Chuỳ bôn lôi có thể bay đi tấn công, là vì trên cán chuy có gắn một sợi xích lớn bằng thép trắng Miến Điện, giúp chuỳ đánh đi hay giật lại đều thuận tiện dễ dàng.

Sợi xích thép trên cán chuỳ bay một vòng rồi quấn chặt vào gióng ngang trên lan can. Cao Bôn Lôi vận kình giật mạnh, người đi theo xích, cơ thể cao lớn vạm vỡ đã bay vọt lên hết sức nhẹ nhàng, lao lên theo con dốc nghiêng xếp bằng đá, chỉ hai cú đá chân mượn lực, người đã ở trên thành lan can. Sau đó sợi xích rũ mạnh giật về, chuỳ bôn lôi lập tức nhảy vào nằm gọn trong tay tựa như sinh vật sống.

Một hán tử to cao lực lưỡng, tay cầm ngang cây chuỳ lớn bằng đồng, cán ràng xích sắt, vẻ lẫm liệt khác nào thiên tướng. Đối mặt với một cao thủ như vậy, Dịch Huyệt Mạch đã cảm thấy sợ hãi. Ông nhận thấy rằng trong phạm vi hoạt động của chuỳ bôn lôi, ông không thể tìm ra một khe hở nào để phóng kim. Không có khe hở để phóng kim, đám kim bạc của ông cũng trở nên vô dụng.

Cao Bôn Lôi xoạc chân bước từ trên thành lan can xuống, nhìn bộ dạng căng thẳng của Dịch Huyệt Mạch, thì cười lớn mà nói:

- Chỉ còn lại mình ngươi thôi à? Chớ căng thẳng, sớm muộn rồi các ngươi cũng sẽ gặp lại nhau trên đường luân hồi thôi! - Giọng nói của hắn oang oang như sấm nổ.

Dịch Huyệt Mạch không nói gì, vẻ mặt trông rất khó coi. Vạt áo trên người rung lên khẽ khẽ, song không phải vì gió thổi, bởi lẽ lúc này nơi đây không một chút gió.

- Ngươi run à? Không thể nào! Dám xông vào trong chùa, lại có thể tới được tận đây, tuyệt đối không phải hạng tầm thường. Đừng có giả bộ để loè ta, ta không mắc lừa mánh khoé này của ngươi đâu! – Cao Bôn Lôi ăn nói rườm rà, trái ngược hẳn với dáng vẻ của hắn.

Song Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, thứ mất cân đối nhất với bộ dạng bề ngoài của Cao Bôn Lôi chính là tâm tư tinh tế của hắn. Ông vừa cố tình tỏ ra khiếp nhược, đã lập tức bị hắn phát giác ra. Bởi vậy Dịch Huyệt Mạch chỉ có thể tập trung chú ý để tìm kiếm, tìm kiếm chuẩn xác một vị trí mà người bình thường không thể tưởng tượng ra.

Cao Bôn Lôi từ từ bày ra tư thế công thủ song toàn. Hắn chưa bao giờ xem thường bất cứ đối thủ nào, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn có thể tồn tại lâu đến thế trong chốn giang hồ hiểm ác. Dịch Huyệt Mạch cũng thu lại vẻ khiếp nhược nguỵ trang, hết sức thận trọng rút ra một chiếc kim bạc từ trong bình kim. Chỉ một chiếc duy nhất, song chiếc kim này dài hơn gấp ba lần kim bình thường. Vì dài, nên trông nó mảnh hơn, mềm mại hơn nhiều, cảm giác còn không đủ sức xuyên qua tấm vải.

Một chiếc chuỳ đồng to lớn nặng nề, một sợi kim bạc mảnh dẻ, cả hai bên đều hy vọng trong trận quyết chiến đẫm máu này, có thể định rõ hơn thua trong khoảng thời gian ngắn nhất.

Chu Chân Mệnh trong thâm tâm rất hài lòng trước phản ứng và hành động của Cao Bôn Lôi. Quả nhiên là một tay giang hồ lão luyện đã quen lăn lội sa trường, vừa nhìn thấy tình hình biến đổi đã hành động chớp nhoáng, vừa ra tay đã giành thế thượng phong, phong toả chặt chẽ lối đi bên trên. Như vậy, hắn có thể ung dung đi qua từ phía dưới, sang phía bên kia theo dõi sát sao Lỗ Nhất Khí.

Chu Chân Mệnh mau chóng băng qua con đường hẹp phía dưới, lặng lẽ tiến về phía cuối tường Phật Thị. Đi ra theo lối đó, hắn đã có thể gặp được Phật sống và Thú Cơ nương nương. Như vậy, Lỗ Nhất Khí chẳng khác nào một con chim bị nhốt trong lồng. Trước hết, Chu Chân Mệnh sai tiểu Lạt ma truyền mệnh lệnh cho Đại hộ pháp và Âm, Dương Thiên Vương bức bách Lỗ Nhất Khí mau chóng quật bảo, còn hắn sẽ rình bên cạnh tìm thời cơ cướp lấy. Song tiểu Lạt ma vẫn còn một mệnh lệnh chưa truyền đạt hết, đó là chỉ để cho một mình Lỗ Nhất Khí sống sót.

Dịch Huyệt Mạch ở bên kia tường Phật Thị nhìn thấy Hạ Táo Hoa rõ ràng đã đâm xuyên qua người lão mù, song lão mù vẫn hùng hổ điên cuồng như không có chuyện gì xảy ra. Tình cảnh này khiến ông ta lập tức nhớ tới loại trùng trăm chân trăm móc. Lấy trùng trăm chân trăm móc làm mồi dẫn, ban đầu nó chỉ bám trên cột sống, nơi hội tụ của huyết quản kinh mạch, có thể dùng tiếng còi với âm vực cao để làm rối loạn tinh thần, dần dần tiến tới kiểm soát tâm trí của người bị hại. Khi răng miệng của trùng cắn vào tuỷ mạch, nối liền với huyết quản kinh mạch sau cột sống cổ, người bị hại sẽ bị kiểm soát hoàn toàn. Nhưng trong giai đoạn này, nút trùng vẫn có thể giải được, giống như loài trùng mười chân trăm gai đã bám vào cột sống của Nhậm Hoả Cuồng. Chính vào lúc răng của con trùng vừa cắn xuống, Lỗ Thịnh Nghĩa đã dùng kim móc câu chuyên dụng trong phá khảm của Lỗ gia để giữ lấy thân trùng, sau đó dùng kim thép xanh nung đỏ xuyên thấy da thịt, châm nóng đầu trùng, khiến nó nhả răng ra, rồi nhể lấy ra ngoài. Nhưng nếu như một trăm cái chân và các móc câu trên thân trùng đều đã nối liền với huyết quản kinh mạch, sẽ vô phương cứu chữa. Cho dù người bị hại có chết, chỉ cần kinh mạch chưa đứt, vẫn có thể điều khiển cơ thể hành động. Nếu đã tới mức độ này, chỉ còn cách dùng máu phá vỡ trùng trăm chân trăm móc, khiến cả người và trùng đều tan nát.

- Cô gái, nghe cho rõ đây! Một niệm tâm huyết, ngậm phun vào mũi sắc, đâm xuyên cột sống cổ, người cùng trùng đều chết! - Dịch Huyệt Mạch nói lớn từng chữ thật rành mạch, chỉ sợ Hạ Táo Hoa nghe nhầm.

Hạ Táo Hoa buộc phải tự tay đâm chết cha ruột của mình, một khối huyết ứ đã dồn đọng trong tâm, không thể tan đi, đây chính là một niệm tâm huyết.

- Cô gái, mau lên! Lúc này ông ấy chỉ còn lại một cái xác bị điều khiển mà thôi! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.

Lồng ngực Hạ Táo Hoa tê cứng rồi co thắt lại, một luồng khí lạnh lan rộng sau lưng, lập tức một khối huyết ứ tanh nồng, ngọt lợ từ giữa họng ộc lên đến miệng. Hạ Táo Hoa ngậm đầu nhọn của Phượng chuỷ thích vào trong miệng, khối máu nhanh chóng tan vào mũi nhọn, được hút hết vào trong máng dẫn máu tam giác.

- A...

Hạ Táo Hoa lại rú lên một tiếng, không lớn, song nghẹn ngào như tiếng khóc. Lần này, đầu nhọn của Phượng chuỷ thích đã đâm thẳng vào giữa gáy lão mù, xuyên ngang cột sống, cũng xuyên qua thần trùng trăm chân trăm móc đang bám chặt trên đó. Mũi thích lúc đâm vào còn đẫm máu đỏ tươi, lúc rút ra đã ngả màu xanh lét, sùi bọt phì phì. Cơ thể con trùng nhanh chóng co rút, khô đét lại, lập tức mất đi tác dụng của bùa mất hồn.

Lão mù giống hệt như con rối đứt dây, tay chân rũ rượi đổ ập xuống nền đất. Quả nhiên đã là một cái xác, sau khi con trùng chết đi, có thể lão không còn phản ứng gì nữa.

Hạ Táo Hoa đau đớn không nỡ nhìn bộ dạng chết thảm của cha, vội quay đầu sang bên cạnh, vừa hay thấy Âm Thiên Vương đang cắm đầu lao vụt tới, chỉ còn cách mình vài bước chân. Cô như đã tìm thấy đối tượng để phát tiết cơn đau đớn cùng cực trong tâm, lập tức rú lên một tiếng thê thảm, rồi lao thẳng về phía Âm Thiên Vương tựa như hổ cái xuống núi.

Lỗ Nhất Khí tuy vai bị trúng thương, song trong lòng dù sao cũng nhẹ đi một phần. Chuyện của lão mù đã đè nặng trong lòng cậu rất lâu rồi, từ lúc hoài nghi tới khi khẳng định đích xác, cậu vẫn chưa thể nghĩ ra được biện pháp giải quyết.

Lão mù có lẽ đã bị trúng chiêu từ viện trong viện ở Bắc Bình. Sau khi dùng máu đánh dấu trên cột trụ Thất Phong, rơi vào lưới giảo long song may mắn thoát chết, lão đã nằm hôn mê rất lâu trong hành lang yến quy. Thế nhưng đối phương lại không hề xuống tay hạ sát lão, kỳ thực là đã nhân lúc lão hôn mê để cấy trùng trăm chân trăm móc vào trong cơ thể lão. Từ đó về sau, mỗi khi nghe thấy tiếng sáo, lão mù đều có phản ứng rất bất thường.

Sự hoài nghi của Lỗ Nhất Khí đã bắt đầu từ sau khi con thuyền của Bộ Bán Thốn thoát ra khỏi tam giác Rồng, khi đó sự biến đổi của lão mù đã rất rõ ràng. Lỗ Nhất Khí đã bày mưu ép tai mắt của Chu gia phải xuất đầu lộ diện, tuy lão Xoa thừa nhận mình là do thám của Chu gia, song lại không thừa nhận đã giết người. Khi đó, Lỗ Nhất Khí đã chuyển sự hoài nghi sang lão mù. Bởi lẽ trong lần xảy ra án mạng, từ lúc nửa đêm về sáng, cậu thường ngủ mê man không tỉnh, giống như đã trúng mê hương. Mà lão mù là tặc vương, rất thạo ngón này. Ngoài ra, vết thương của người bị giết có hình lỗ tròn, rất giống với vết thương do đầu gậy thép để lại. Cậu mới nhớ lại khi Thú vương Lang Thiên Thanh sắp từ biệt, đã nhắn với cậu lời dặn của Nhậm Hoả Cuồng, nói rằng bên cạnh cậu có người trúng trùng độc. Khi đó, cậu ngỡ rằng ông muốn ám chỉ Quỷ Nhãn Tam, nhưng sau này ngẫm nghĩ lại, mới thấy có lẽ là lão mù. Bởi vì Nhậm Hoả Cuồng không hiểu gì về tam canh hàn, song ông ta đã từng bị cấy trùng mười chân trăm gai, nên nhận biết được phản ứng khi trúng phải nút trùng tương tự.

Bằng chứng chứng thực cho việc lão mù bị Chu gia kiểm soát chính là cái chết của Hứa Tiểu Chỉ. Trước khi mất mạng, Hứa Tiểu Chỉ đã va trúng vào lão. Sau khi hắn bị đám kền kền quắp bay đi, nhìn vào vết máu nhỏ trên đất, thì thấy rằng hắn đã bị gậy thép đâm trúng. Dẫu rằng lúc đó, Lỗ Nhất Khí vô cùng đau xót trước cái chết của Hứa Tiểu Chỉ, song vẫn nuôi một niềm hy vọng có thể giải cứu lão mù, niềm hy vọng đó chính là Dịch Huyệt Mạch.

Song khảm diện Vô địa tự dung ở cuối đường canh Âm Thế đã khiến tình hình đảo lộn, lão mù đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Lỗ Nhất Khí, cho tới khi bị chính con gái ruột đâm chết...

Trời đã sáng bạch. Vừa lao qua mảng tường đổ, Dưỡng Quỷ Tỳ đã nhìn thấy Lỗ Nhất Khí, bèn vội vã lướt về phía cậu.

Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy Dưỡng Quỷ Tỳ, liền đưa tay trái lên lắc khẽ, tỏ ý không muốn cô lại gần. Dưỡng Quỷ Tỳ lòng dạ trong sáng thông minh, lập tức lướt sang ngang, dừng lại ở bên rìa bãi đá Thần Hô.

Phật sống vẫn giữ chặt lấy mũi gậy đã xuyên qua bả vai Lỗ Nhất Khí, rồi tiến sát thêm một chút về phía cậu, nói:

- Người đời không phải ai cũng có thể độ, nếu không có vị cô nương kia, kẻ mất hồn này đã độ hoá ngươi rồi!

Lỗ Nhất Khí gắng gượng nhẫn nhịn cơn đau đớn kịch liệt, từ từ thả lỏng hàm răng đang nghiến chặt, trên môi nở một nụ cười gượng gạo:

- Tôi chưa độ được ông ấy, nhưng cô nương kia đã độ cho ông ấy. Một cú đâm đau đớn, thoát khỏi nỗi thống khổ mất hồn, rời bỏ phàm thế vô vọng, buông bỏ xác thân, không còn giúp kẻ xấu làm điều ác, về miền Cực Lạc. Tôi cũng không phải là chưa độ. Ngài không nhìn thấy tôi đã độ vị cô nương kia ư? Vì tấm thân tàn của tôi, lại càng vì chúng sinh cơ cực, cô ấy đã nén lại nỗi đau thương ngàn vạn, đích thân giết chết cha ruột của mình. Cái tâm từ bi thiện lành này chính là cái tâm hướng Phật.

- Vậy ngươi có biết làm thế nào để độ ta không? - Phật sống hỏi.

- Thiên cơ không lộ, Phật lý tự ngộ. Là lý, là dẫn, là mê, là hoặc, tôn giá hãy tự phản tỉnh.

- Xin thỉnh giáo!

- Trước khi Phật Tổ ngộ đạo, thân phàm tục của người được làm vương tử cao sang, tận hưởng mọi vinh hoa phú quý trên trời, sau đó mới ngộ ra Phật lý không dục đều không. Người phàm chúng ta không có được vị trí tối cao này, bởi vậy nên nhập đạo từ một cảnh giới tối cực khác, việc tu hành đều nên xuất phát từ chữ "khổ". - Nội dung này Lỗ Nhất Khí đọc được từ bộ sách "Khổ na thoát chư kinh", một bộ kinh rất ít người biết tới, là nguyên lý của Phật giáo Đại Thừa, có sự khác biệt so với Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Bởi vậy đối với Phật sống, quan điểm này quả thực có phần mới mẻ.

- Thế nào là khổ?

- Biết được nỗi khổ của chúng sinh, chịu khổ vì chúng sinh, khổ tâm, khổ chí, khổ tu, khổ ngộ, sau đó mới có thể bỏ tư dục, vứt thân tục, niệm thành tro. Hành động cử chỉ đều là tự nhiên, tứ xúc đều là hư không, mà đăng cõi huyền nhập Phật cảnh. – Trong những lời này, Lỗ Nhất Khí lại thêm vào màu sắc đạo huyền hư tự nhiên của Đạo giáo, những nội dung này Phật sống lại càng chưa từng nghe thấy.

- Phải làm thế nào?

- Đưa tôi lên Thiên Thê.

- Ngươi tới độ ta?

- Không phân ta hay người, độ người cũng chính là độ mình. Tôi làm theo ý trời, ngài tu hành theo Phật.

- Cứ cho là vậy! - Phật sống nói đoạn, lập tức ra tay.

Trong chớp mắt, thép gãy tan tành, máu phun tung toé...

Muốn qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc có hai cách, cách thứ nhất là giải khảm mà đi, cách này Mạc Thiên Quy không làm được, cũng không kịp làm. Cách thứ hai là băng qua phía trên khảm diện, nhưng vấn đề là ở chỗ qua được bãi Vân thú mây trời chín sắc, phía bên kia lại có khảm diện tháp trắng lọng vàng. Phương pháp bay qua liệu có thực hiện được đối với ngọn tháp trắng kia không?

Phân tích theo bố cục của không gian xung quanh, trên tháp trắng chắc chắn sẽ có nút lẫy chồng chéo lên Vân thú mây trời chín sắc, hơn nữa, phạm vi sát thương của nút lẫy tại đó rất có thể được dùng để bù đắp cho khiếm khuyết từ hình thức bố trí trên mặt phẳng của khảm diện Vân thú mây trời chín sắc. Nếu đúng là như vậy, Mạc Thiên Quy không những phải bay lên, mà còn phải di chuyển men theo phần rìa khảm chồng chéo giữa hai khảm diện ở một vị trí thích hợp, như vậy mới có thể vượt qua an toàn.

Vị trí thích hợp ở đâu? Rìa khảm có hình thù như thế nào? Những điều này, Mạc Thiên Quy chỉ có thể phán đoán được sau khi tới sát tháp trắng. Lúc này, việc lão cần làm chính là bay lên cái đã.

Khinh công của Mạc Thiên Quy không bằng lão mù hay Hạ Táo Hoa, nhưng khiếm khuyết về công lực sẽ được bù đắp bằng công cụ. "Nhện bay", bốn cánh tám chân, được chế tạo từ thép tinh vùng Quan Ngoại, chế tác bằng các kỹ thuật dùi lỗ, dát mỏng. Mạc Thiên Quy lên chốt thật căng, chỉ thấy nó kêu "rè rè" một tiếng, rồi lập tức bay lên. Khi "nhện bay" bay đi, từ lỗ thủng phía sau đuôi thả xuống một sợi dây vàng bện ba múi do xưởng dệt Kim Lăng chế tạo. "Nhện bay" lượn một vòng quanh tháp trắng rồi hạ xuống một mặt nghiêng tại lưng chừng tháp, tám chân quặp lại, đồng loạt bám chặt vào khe gạch. Mạc Thiên Quy nâng nhẹ sợi dây kim tuyến, đặt lên trên nó một bánh xe ròng rọc nhỏ cực kỳ tinh xảo, trên móc câu của ròng rọc có mang theo một sợi dây đay to hơn sợi dây kim tuyến một chút. Sợi dây này chỉ nặng hơn sợi dây kim tuyến một chút, song sức kéo mạnh hơn rất nhiều. Sau đó, lão nhẹ nhàng kéo lắc sợi kim tuyến, bánh xe ròng rọc liền trượt về phía trước dọc theo sợi dây kim tuyến. Rõ ràng, trong bánh xe ròng rọc có lắp răng khoá một hướng.

Bánh xe ròng rọc nhanh chóng đâm vào "nhện bay", vòng móc phía trên ròng rọc từ từ trượt vào móc câu mở vào trong ở trên đuôi "nhện bay".

Mạc Thiên Quy tiếp tục buộc sợi dây đay vào một tấm vải kẹp trúc vân đốt rộng cỡ bàn tay. Thứ vải này được dệt từ sợi da và lông bờm động vật, vô cùng chắc chắn, hơn nữa cách một đoạn lại có gắn kẹp trúc, dùng để trợ lực.

Sau khi cuộn vải kẹp trúc đã tới vị trí thích hợp, Mạc Thiên Quy ghim chắc đầu cuộn vải lên trên cột trụ góc của bức tường phía ngoài toà điện bên trái bằng một chiếc đinh đầu lợn hai nanh. Chiếc đinh đầu lợn hai nanh cũng giống như "nhện bay" tám chân, sau khi chịu lực, hai nanh và tám chân càng thu càng chắc, càng kéo càng cắm sâu vào trong vật cố định.

Nói thì rườm rà, song kỳ thực toàn bộ quá trình thao tác lại diễn ra cực kỳ nhanh chóng. Chỉ một loáng sau, Mạc Thiên Quy đã băng qua không trung trên tấm vải kẹp trúc. Tuy rằng đã có vật trợ giúp, song bước đi vẫn như sóng đánh, thân hình vẫn như lá bay. Trong tư thế chao đảo liên hồi, Mạc Thiên Quy đã tới được vị trí giao nhau giữa hai khảm diện. Đã tới chỗ này, sẽ không thể đi tiếp được nữa, vì tăng cường lực tác động lên ngọn tháp trắng, rất có thể sẽ dẫn động một số chốt lẫy ở phía đó. Hơn nữa, bên dưới ngọn tháp chắc chắn sẽ không có vị trí giẫm chân an toàn, đi tiếp về phía trước cũng không có nghĩa lý gì. Biện pháp tốt nhất là từ đây tìm ra vị trí xếp chồng của hai khảm, sau đó men theo rìa khảm ngoặt sang một hướng khác.

Bãi Vân thú mây trời chín sắc là một bề mặt trải rộng, còn khảm diện tháp trắng lọng vàng là một vòng tròn lấy thân tháp làm trung tâm, cục thế sát thương là từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên. Như vậy, xem ra vị trí chồng chéo giữa hai khảm có lẽ là ở phía trên bãi Vân thú mây trời chín sắc, là một đường vòng cung ở khoảng lưng chừng tháp. Độ cao của vị trí này rất dễ tìm ra, song vấn đề là làm thế nào để bay lên cao mà đi theo đường vòng cung được?

Mạc Thiên Quy nhắm sẵn một cây cột trụ trên hành lang vòng quanh tháp, phóng một sợi dây thừng về phía đấy có thể mượn lực để lao thẳng tới mé phía tây. Song nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ có hơn nửa quãng đường không thể ở chính xác trên rìa khảm.

Thời gian cấp bách, nên Mạc Thiên Quy từ bỏ ý định tính toán kỹ lưỡng hơn, mà quyết định sẽ mạo hiểm. Lão xưa nay hành sự thận trọng, rất hiếm khi làm như vậy.

Một con "nhện bay" khác đã được phóng đi, mang theo một sợi dây đay, găm chắc trên cột trụ hành lang. Mạc Thiên Quy kéo căng sợi dây đay, thử qua độ chắc của nó. Sau đó nội ngoại khí vận chuyển đủ một vòng, bàn tay, cánh tay, vai, lưng eo, hông, chân, bàn chân nhất tề vận lực theo một đường thẳng, chuẩn bị tung người phóng đi.

Đúng vào thời khắc đó, từ cửa sau toà điện bên trái đột ngột xẹt ra một luồng đao khí vô cùng dữ dội. Đao khí không tiếng động, song kẻ xuất đao lại gầm khẽ một tiếng vô cùng quái đản, khiến người ta nghe mà rùng rợn trong tim, hoảng loạn không biết phải làm gì. Đúng là dùng tiếng doạ người, dùng đao giết người.

Đao Thập Lục đã xuất hiện, tình hình trước mắt khiến gã chẳng kịp nghĩ ngợi gì thêm, lập tức tung người lao ra. Người xuất hiện, đao sẽ xuất hiện. Đao xuất hiện, sẽ đoạt mạng người. Mục tiêu xuống đao là tấm vải kẹp trúc. Tấm vải bị cắt đứt, Mạc Thiên Quy sẽ rơi ngay xuống phạm vi hợp sát của bãi Vân thú mây trời chín sắc và tháp trắng lọng vàng.

Đao đã hạ, vải đã đứt, Mạc Thiên Quy rú lên một tiếng thất thanh...

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Hạ Táo Hoa đâm một nhát xuyên thấu cột sống cổ lão mù, cuối cùng cũng cúi đầu thở hắt ra một hơi. Vừa cúi đầu, liền nhìn thấy Chu Chân Mệnh và đường chủ Cứ Điên đường Cao Bôn Lôi phía dưới. Cao Bôn Lôi cũng đang ngước lên trên dò xét. Bốn mắt giao nhau, lập tức đồng thời ra tay.

Dịch Huyệt Mạch vung tay búng ra vài tia sáng mảnh như lông bò. Chuỳ bôn lôi trong tay Cao Bôn Lôi cũng đã phóng vụt đi. Chuỳ bôn lôi kích thước to lớn, tuy tốc độ bay chậm, song lại mang theo một kình lực vô song. So sánh với nó, những mũi kim bạc của Dịch Huyệt Mạch thật quá nhỏ bé yếu ớt, chẳng thấm tháp vào đâu.

Chuỳ bôn lôi đánh bạt đám kim bạc, đập thủng tường lan can. Chớp mắt, đám kim bạc đã lẫn lộn trong đám vữa vỡ đá vụn, bay tung toé khắp trời.

Đối mặt với thế tấn công như vũ bão, Dịch Huyệt Mạch chỉ biết liên tục thoái lui. Chân bước liên tục theo thế bàn hoa bộ đan chéo, thoắt cái đã lùi tới hơn chục bước, ẩn mình tĩnh lặng quan sát sự biến hoá tiếp theo của chuỳ bôn lôi.

Chuỳ bôn lôi có thể bay đi tấn công, là vì trên cán chuy có gắn một sợi xích lớn bằng thép trắng Miến Điện, giúp chuỳ đánh đi hay giật lại đều thuận tiện dễ dàng.

Sợi xích thép trên cán chuỳ bay một vòng rồi quấn chặt vào gióng ngang trên lan can. Cao Bôn Lôi vận kình giật mạnh, người đi theo xích, cơ thể cao lớn vạm vỡ đã bay vọt lên hết sức nhẹ nhàng, lao lên theo con dốc nghiêng xếp bằng đá, chỉ hai cú đá chân mượn lực, người đã ở trên thành lan can. Sau đó sợi xích rũ mạnh giật về, chuỳ bôn lôi lập tức nhảy vào nằm gọn trong tay tựa như sinh vật sống.

Một hán tử to cao lực lưỡng, tay cầm ngang cây chuỳ lớn bằng đồng, cán ràng xích sắt, vẻ lẫm liệt khác nào thiên tướng. Đối mặt với một cao thủ như vậy, Dịch Huyệt Mạch đã cảm thấy sợ hãi. Ông nhận thấy rằng trong phạm vi hoạt động của chuỳ bôn lôi, ông không thể tìm ra một khe hở nào để phóng kim. Không có khe hở để phóng kim, đám kim bạc của ông cũng trở nên vô dụng.

Cao Bôn Lôi xoạc chân bước từ trên thành lan can xuống, nhìn bộ dạng căng thẳng của Dịch Huyệt Mạch, thì cười lớn mà nói:

- Chỉ còn lại mình ngươi thôi à? Chớ căng thẳng, sớm muộn rồi các ngươi cũng sẽ gặp lại nhau trên đường luân hồi thôi! - Giọng nói của hắn oang oang như sấm nổ.

Dịch Huyệt Mạch không nói gì, vẻ mặt trông rất khó coi. Vạt áo trên người rung lên khẽ khẽ, song không phải vì gió thổi, bởi lẽ lúc này nơi đây không một chút gió.

- Ngươi run à? Không thể nào! Dám xông vào trong chùa, lại có thể tới được tận đây, tuyệt đối không phải hạng tầm thường. Đừng có giả bộ để loè ta, ta không mắc lừa mánh khoé này của ngươi đâu! – Cao Bôn Lôi ăn nói rườm rà, trái ngược hẳn với dáng vẻ của hắn.

Song Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, thứ mất cân đối nhất với bộ dạng bề ngoài của Cao Bôn Lôi chính là tâm tư tinh tế của hắn. Ông vừa cố tình tỏ ra khiếp nhược, đã lập tức bị hắn phát giác ra. Bởi vậy Dịch Huyệt Mạch chỉ có thể tập trung chú ý để tìm kiếm, tìm kiếm chuẩn xác một vị trí mà người bình thường không thể tưởng tượng ra.

Cao Bôn Lôi từ từ bày ra tư thế công thủ song toàn. Hắn chưa bao giờ xem thường bất cứ đối thủ nào, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn có thể tồn tại lâu đến thế trong chốn giang hồ hiểm ác. Dịch Huyệt Mạch cũng thu lại vẻ khiếp nhược nguỵ trang, hết sức thận trọng rút ra một chiếc kim bạc từ trong bình kim. Chỉ một chiếc duy nhất, song chiếc kim này dài hơn gấp ba lần kim bình thường. Vì dài, nên trông nó mảnh hơn, mềm mại hơn nhiều, cảm giác còn không đủ sức xuyên qua tấm vải.

Một chiếc chuỳ đồng to lớn nặng nề, một sợi kim bạc mảnh dẻ, cả hai bên đều hy vọng trong trận quyết chiến đẫm máu này, có thể định rõ hơn thua trong khoảng thời gian ngắn nhất.

Chu Chân Mệnh trong thâm tâm rất hài lòng trước phản ứng và hành động của Cao Bôn Lôi. Quả nhiên là một tay giang hồ lão luyện đã quen lăn lội sa trường, vừa nhìn thấy tình hình biến đổi đã hành động chớp nhoáng, vừa ra tay đã giành thế thượng phong, phong toả chặt chẽ lối đi bên trên. Như vậy, hắn có thể ung dung đi qua từ phía dưới, sang phía bên kia theo dõi sát sao Lỗ Nhất Khí.

Chu Chân Mệnh mau chóng băng qua con đường hẹp phía dưới, lặng lẽ tiến về phía cuối tường Phật Thị. Đi ra theo lối đó, hắn đã có thể gặp được Phật sống và Thú Cơ nương nương. Như vậy, Lỗ Nhất Khí chẳng khác nào một con chim bị nhốt trong lồng. Trước hết, Chu Chân Mệnh sai tiểu Lạt ma truyền mệnh lệnh cho Đại hộ pháp và Âm, Dương Thiên Vương bức bách Lỗ Nhất Khí mau chóng quật bảo, còn hắn sẽ rình bên cạnh tìm thời cơ cướp lấy. Song tiểu Lạt ma vẫn còn một mệnh lệnh chưa truyền đạt hết, đó là chỉ để cho một mình Lỗ Nhất Khí sống sót.

Chương 21: Niết bàn sát

Lão Lợi suýt nữa đã lâm vào cảnh kiếp nạn khó tránh. Lão không thể ngờ rằng động tác của Đại hộ pháp lại thay đổi chớp nhoáng đến thế, đột ngột đến thế, chẳng khác nào chớp loé gió giật. Đao pháp của lão không thể ứng phó với tốc độ tấn công thần tốc đến vậy.

Đại hộ pháp không chỉ thân thủ, chiêu thức chớp nhoáng, mà quan trọng hơn nữa là sự biến hoá linh hoạt của cơ thể. Trong Mật Tông Tây Tạng có rất nhiều công phu, chiêu thức từ Ấn Độ trực tiếp truyền sang. Ví dụ như đám mây lực sĩ mà Đại hộ pháp đánh ra chính là biến hoá từ loại cờ mây đạo tràng do tăng nhân bảo vệ đạo tràng sử dụng ở các đạo tràng giảng kinh trong Phật giáo Ấn Độ. Ngoài mây lực sĩ, Đại hộ pháp còn thành thạo công phu uốn người bẻ xương, công phu này bắt nguồn từ thuật Du Già[22] của người Ấn Độ.

Người luyện công phu này có thể bẻ, gập các khớp trên cơ thể theo những phương hướng và góc độ mà người bình thường không thể thực hiện được, bởi vậy, góc độ và phương hướng tấn công trong khi giao chiến cũng hết sức kỳ dị khó lường. Công phu này được gọi là Chuyển luân chưởng[23].

Lão Lợi dù sao cũng chỉ là một tay cao thủ, thế đao của đao Bách toái tuy hung hãn lẫm liệt, song chiêu thức rất đơn điệu. Hơn nữa, lão lại có thói quen sau mỗi cú ra đao, lại phải dừng lại hồi khí tụ lực, khiến cho chiêu thức trước sau thiếu liền mạch nhất quán. Những khiếm khuyết này khiến lão không thể ứng phó được trước sự biến hoá khó lường của công phu Chuyển luân chưởng, lão đã thi triển toàn bộ vốn liếng, song đến một chưởng cũng không thể cản nổi.

Một chưởng vừa đánh ra, cẳng tay lập tức xoay vùn vụt xung quanh khuỷu tay, bao gồm cả những hướng mà khớp khuỷu tay vốn dĩ không thể gập tới được. Tuy chỉ là một chưởng, song trong mắt lão Lợi lại là hàng trăm, hàng nghìn chưởng, không thể phân biệt thực hư. Mà lúc này, lão Lợi lại đang trong trạng thái hồi khí tụ lực, không thể kịp thời thu đao phản kích để ra đòn tấn công thay cho phòng thủ.

Chưởng của Đại hộ pháp đã đánh vào sườn phải, cơ thể lão Lợi lập tức văng đi theo hướng chưởng đánh ra. Lão Lợi chỉ kịp rú lên một tiếng sặc mùi máu tanh, song lão rú lên vì kinh hãi nhiều hơn là vì đau đớn.

Đại hộ pháp một chiêu đắc thủ, chưa kịp tiến lên đánh tiếp chiêu thứ hai, thì Dương Tiểu Đao đã kịp xông tới. Bởi vậy, chưởng thứ hai đành phải chuyển hướng sang Dương Tiểu Đao, cũng là một chưởng quái dị với góc độ và phương hướng không thể đoán lường.

Dương Tiểu Đao đã xuất đao, đường đao cũng uốn lượn vòng tròn giống hệt như lộ số Chuyển luân chưởng của Đại hộ pháp. Chẳng lẽ gã cũng học qua công pháp tương tự?

Đương nhiên là không phải. Dương Tiểu Đao không biết tới công pháp đó, hắn chỉ nắm giữ cán đao, rồi dùng cổ tay làm trọng tâm xoay tròn lưỡi đao quái dị một cách hết sức tự nhiên. Tuy cánh tay không thực hiện được động tác quái dị như Đại hộ pháp, song nếu đổi lại là cổ tay, cho dù là người bình thường cũng có thể xoay tròn mọi hướng, huống hồ cổ tay của Dương Tiểu Đao không cần chuyển động, mà là tự xoay vòng theo lưỡi đao. Thanh đao Bào Đinh trên tay gã giống hệt như một sinh vật sống, mũi đao từ đầu tới cuối luôn bám sát lấy gân cốt máu thịt, cứ như có sẵn linh tính biết tự bám đuổi theo máu tanh. Bởi vậy, dù bàn tay của Đại hộ pháp xoay theo hướng nào, biến hoá ra bao nhiêu cái bóng, thì mũi đao vẫn bám dính lấy cánh tay thật không rời.

Không ai muốn dùng xương thịt để đối đầu với đao kiếm, kể cả Đại hộ pháp. Bởi vậy cơ thể hắn uốn éo như dòng nước chảy, giật lùi ra phía sau.

Dương Tiểu Đao hăng lên, tiếp tục tiến lên áp sát. Bởi lẽ đây chính là cơ hội, chỉ cần trong quá trình thoái lui, Đại hộ pháp có một thoáng lơ là, thì cánh tay biến hoá khôn lường kia sẽ đi đời ngay tức khắc.

Nhưng sự xuất hiện bất ngờ của một đám người đã cứu được cánh tay của Đại hộ pháp. Bọn chúng nối đuôi nhau lao ra từ trong khói lửa, là đám cao thủ do Cứ Điên đường điều động tới, nhận được chỉ lệnh phối hợp với Đại hộ pháp và hai Thiên Vương đánh vào trong lỗ hổng tại đoạn tường phía tây.

Lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao khoát ra hai làn ánh sáng chói rực đến quái dị, đó là chiêu gây chói mắt để giấu mình. Sau đó, gã lập tức quay người, lôi phắt lão Lợi chạy thẳng tới mảng tường vỡ. Lúc này, tình thế đã xoay ngược lại, đối thủ muốn xông vào truy bức, vậy thì hắn và lão Lợi nên cố thủ tại lỗ hổng. Nếu để đám bậu xậu này xông vào, thì Lỗ Nhất Khí sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để hoàn thành đại sự.

Mục đích và phương pháp đều chính xác, song cố thủ được hay không, lại phải xét đến năng lực. Lúc này, hai người bọn họ phải đối mặt với cả một đám đông cao thủ, một đám cao thủ đã qua huấn luyện kỹ càng, không màng sống chết. Đám cao thủ không hề hấp tấp, mà dàn thành đội hình quy củ từ từ tiến tới bao vây lấy mảng tường đổ, binh khí trên tay đều thủ thế sẵn sàng đủ kiểu chiêu thức tàn sát.

Vừa tới lỗ hổng, Dương Tiểu Đao quăng ngay lão Lợi xuống đất, xoay vụt người lại đâm thẳng một chiêu "đâm ngang ức trâu". Nhìn vào số lượng và đội hình của đám cao thủ Chu gia, thì chiêu thức này không thể che chắn được toàn bộ lỗ hổng. Song Dương Tiểu Đao không đổi chiêu, bởi lẽ khí thế và lực đạo của thế "đâm trâu" vô cùng dũng mãnh, hắn muốn dùng uy lực của một chiêu này để hù doạ đám người kia.

Đao xuất máu chảy, một đốm đỏ thẫm ngay trên yết hầu. Đao thủ xông lên đầu tiên vừa kịp thủ thế tấn công, thì binh khí trong tay đã không thể nâng thêm một phân nào nữa. Đao trúng yết hầu, song chưa mất mạng, mũi đao vừa chạm vào da thịt đã dừng lại ngay lập tức. Dương Tiểu Đao rất thông minh, mục đích trước mắt phải là ngăn chặn đối thủ, chứ không phải là giết người. Dùng đao khống chế một người của đối thủ, điều khiển hành động của hắn, sẽ khiến các cao thủ khác không dám ho he, sợ ném chuột hỏng đồ quý. Cũng khác nào đã kiếm được một lá chắn bằng xương thịt, có thể mở rộng phạm vi phòng thủ cho bản thân.

Đao chỉ đâm vào cổ một ly, song gã cao thủ không dám lùi bước. Với tốc độ ra đao xuất thần như vậy, hắn có lùi cũng chẳng kịp. Từ trong đám cao thủ đang dàn hình rẻ quạt vây lấy lỗ hổng, bỗng có một thân hình tách ra lách nghiêng vào, định đột kích qua rìa mép của lỗ hổng. Mũi đao của Dương Tiểu Đao lập tức xê dịch, khiến cao thủ bị đao khống chế buộc phải di chuyển theo nếu không muốn bị cứa đứt cổ họng, thân hình hắn vừa hay chặn ngang trước mặt gã cao thủ đang định xông vào.

Lại có một thân hình khác vọt ra, lao thẳng về phía cao thủ bị khống chế. Dương Tiểu Đao thoáng kinh ngạc, bởi lẽ gã không nhận ra ý đồ của cao thủ này, song hắn đã ý thức được có chuyện không hay sắp xảy ra.

Thân hình vừa lao tới lập tức tung chưởng đánh thẳng vào giữa lưng của "lá chắn bằng xương thịt", Dương Tiểu Đao muốn thu đao về cũng không kịp, mũi đao đã xuyên thẳng vào yết hầu "lá chắn". Cùng lúc đó, một luồng đao phong dữ dội từ phía sau "lá chắn" chém xéo về phía Dương Tiểu Đao.

Lưỡi đao của Dương Tiểu Đao đã xuyên ngập vào xác chết, không thể ra chiêu. Hơn nữa, dù gã có kịp thời rút đao về, thì lưỡi đao vừa nhỏ vừa ngắn của gã cũng không thể chạm tới đối thủ qua "lá chắn" đã chết cản ở giữa.

Dương Tiểu Đao chỉ còn cách cấp tập thoái lui, đến đao cũng không kịp rút về. Luồng đao phong của đối thủ xẹt qua sát sạt từ mặt xuống ngực, cứa qua da thịt đau rát như phải bỏng. Đao đã né được, song Dương Tiểu Đao không còn đao trong tay, liệu còn có thể làm được trò trống gì?

Hạ Táo Hoa xoay người đâm bổ về phía Âm Thiên Vương như một kẻ điên loạn. Song Âm Thiên Vương lại vô cùng tỉnh táo, gã mau chóng vạch ra thấu đáo phương cách ứng phó trước thế tấn công cuồng loạn nhường kia. Gã đứng thật vững vàng, hai lưỡi Nguyệt nha việt bắt chéo nhau trước ngực, chân xoạc hình chữ đinh, mũi chân uốn cong như cánh cung, đây là chiêu thức thuận thế chặn chém, cũng có thể nhảy bật lên lao tới tấn công. Ngoài ra, hai lưỡi Nguyệt nha việt bắt chéo nếu lật ngang mà chém ra, sẽ quét thành một vòng tròn sắc lẹm, khác nào một nút lẫy giăng sẵn trước một Hạ Táo Hoa đang trong tình trạng đầu óc rối loạn, suy sụp tinh thần.

Hạ Táo Hoa đã hoàn toàn mất lý trí, lao đi trong bộ dạng cơ thể chúi thấp, đầu cúi gằm, chẳng khác nào một con trâu điên. Liệt phách phượng chuỷ thích cũng không được bật dài ra, mà đặt ép sát sau cơ thể. Bước chân tuy nhanh, song chệnh choạng rối loạn, không hề tuân theo một lộ số bộ pháp nào. Lao về phía Âm Thiên Vương trong bộ dạng này, chẳng khác gì tự đưa cần cổ đến trước Nguyệt nha việt.

Khi Hạ Táo Hoa chỉ còn cách Âm Thiên Vương khoảng năm bước chân, Âm Thiên Vương đã chắc mẩm đứa con gái này muốn chết dưới tay mình. Đã đến khoảng cách này, dù cô ta tiến hay dừng hay lùi, cũng không thể có bất kỳ chiêu số nào cứu vãn nổi.

Khi chỉ còn cách Âm Thiên Vương khoảng ba bước chân, Hạ Táo Hoa bỗng dưng đứng khựng lại. Có lẽ vệt hàn quang lạnh lẽo loé lên trên lưỡi Nguyệt nha việt đã khiến cô hồi tỉnh lại ít nhiều, song đã không kịp nữa rồi. Âm Thiên Vương vận lực vào mũi chân hình cung, nhảy vọt lên, Nguyệt nha việt bên tay trái xoè ra như cánh én để giúp cơ thể giữ thăng bằng trong lúc tấn công. Nguyệt nha việt bên tay phải chém ngang về phía trước. Lúc này, nếu Hạ Táo Hoa ngẩng đầu, nhát chém sẽ chém đứt đôi cần cổ. Nếu không ngẩng đầu, thì hộp sọ cũng sẽ bị phạt thành hai nửa trước sau. Trừ phi hộp sọ của cô làm bằng gang thép, nếu không, cô chỉ còn đường chết.

"Keng!"

Một tiếng va đập chói tai. Nguyệt nha việt đã không thể chém vào hộp sọ Hạ Táo Hoa. Diễn biến thình lình khiến Âm Thiên Vương vô cùng sửng sốt và kinh hãi. Vốn đinh ninh chỉ cần một chiêu lập tức thành công, đột nhiên lại xảy ra biến cố, khiến Âm Thiên Vương chỉ biết vội vã thu Nguyệt nha việt về theo phản xạ, để tự vệ hoặc tiếp tục tấn công.

Chính vào thời khắc bàng hoàng đó, chính vào lúc Nguyệt nha việt giật trở về một cách vô thức, Âm Thiên Vương đã không kịp phát giác ra có một chớp sáng lạnh lẽo mang theo làn thi khí ngất trời ập về phía mình ngay phía sau lưỡi Nguyệt nha việt đang thu lại.

Thứ vừa chặn đứng Nguyệt nha việt chính là phần mũi của Liệt phách phượng chuỷ thích. Phần mũi có hình ba khía, ba khía tụ lại trên đỉnh thành một hình trăng khuyết cong cong, mài bằng thành lưỡi sắc. Điểm này rất giống với Nguyệt nha việt của Âm Thiên Vương, song kích cỡ chỉ bằng hạt đậu tương. Hạ Táo Hoa đã dùng phần lưỡi hình trăng khuyết chỉ to bằng hạt đậu tương để đón đỡ chính xác lưỡi Nguyệt nha việt đang chém ngang tới.

Âm Thiên Vương không nhìn rõ cây Liệt phách phượng chuỷ thích ẩn phía sau tấm lưng đang chúi xuống của Hạ Táo Hoa, cũng không thể ngờ rằng thứ vũ khí đó không cần chuyển động, chỉ cần bấm chốt phóng dài ra đã có thể giết người. Hơn nữa, khi mũi nhọn lao đi, diện tích tấn công của mũi nhọn là nhỏ nhất, lại bị ánh phản quang loang loáng trên lưỡi Nguyệt nha việt đang thu về che khuất, nên Âm Thiên Vương đang trong lúc sửng sốt không thể phát hiện ra.

Phượng chuỷ thích cắm phập vào mặt Âm Thiên Vương không tốn mấy sức lực. Một phần là do mũi thích cực kỳ bén nhọn, một phần nữa là nhờ vào dư lực trong tư thế xông lên của Âm Thiên Vương. Mũi thích xuyên thẳng vào mắt phải rồi chui ra sau mé trái hộp sọ. Phía trước mặt hắn, máu đỏ loè trộn lẫn sắc tố đen của con ngươi ồng ộc chảy xuống theo máng dẫn máu, còn phía sau hộp sọ, máu tươi và óc trắng nhễ nhại phun ra theo phần mũi ba múi.

Từ trong tình huống cận kề cái chết đột ngột phản chiêu đoạt mạng đối thủ, chiêu này có tên là "Phượng hoàng Niết bàn". Bởi vì chiêu thức hiểm ác, chỉ sơ suất chút đỉnh sẽ mất mạng lập tức, nên Hạ Táo Hoa chưa từng sử dụng. Nhưng trong tình huống vừa nãy, cô đã gần như điên loạn, muốn vứt bỏ hết tất cả mọi thứ, không còn màng đến sống chết, chỉ muốn xuống tay tàn sát cho hả dạ. Vì thế mới đặt bản thân vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà sử ra hiểm chiêu này.

Thi thể Âm Thiên Vương lăn lông lốc xuống phía dưới cùng với đám đá vụn trên bãi Thần Hô. Phải đến lúc này, nước mắt Hạ Táo Hoa mới ầng ậc tuôn trào. Đòn tàn sát đã phát tiết được tận cùng nỗi thống khổ, chua xót trong lòng cô.

Dương Thiên Vương lập tức thu vội bước chân. Âm Thiên Vương mới chỉ một chiêu đã chết thảm, vậy khả năng chiến thắng của gã liệu có nổi mấy phần? Nhưng hắn đã kịp liếc thấy Phật sống Kim Đỉnh đứng ở phía trước, hình như còn đang khống chế một nhân vật quan trọng phía đối thủ, bởi vậy quyết định tạm thời tránh xa, im lặng quan sát động tĩnh.

Phật sống đã đột ngột ra tay dưới sự che phủ của một luồng khí bình hoà, lực đạo cực kỳ cương cường, mãnh liệt. Song không phải cú ra tay nào cũng nhằm đoạt mạng người. Phật sống vừa đánh ra một chưởng, đoạn gậy thép chưa kịp xuyên vào cơ thể Lỗ Nhất Khí đã gãy rời. Ba ngón tay vặn mạnh, lập tức xoắn đứt mũi gậy lòi ra trước bả vai. Cây gậy đã gãy thành ba đoạn, đoạn ở giữa vẫn ở lại trong cơ thể Lỗ Nhất Khí. Không còn cách nào khác, chỉ có như vậy mới giúp cậu không bị mất máu quá nhiều mà chết.

Xử lý xong cây gậy, Phật sống một tay đỡ dưới nách Lỗ Nhất Khí, nửa xốc nửa kéo lấy cậu, lập tức xoay người bước đi.

- Đặt anh ấy xuống! - Dưỡng Quỷ Tỳ quát lên một tiếng, tung người đuổi theo.

Hạ Táo Hoa ngoái lại, nhìn thấy cảnh tượng này, bèn gạt vội nước mắt, lập tức đề khí nhảy vọt lên đuổi tới, tốc độ không hề thua kém Dưỡng Quỷ Tỳ. Chỉ là khi băng qua bên xác lão mù, bước chân có chùn lại một chút.

Dương Thiên Vương không hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, song gã cũng vội vã đuổi theo bén gót.

Lỗ Nhất Khí được Phật sống kéo đi, di chuyển hết sức nhẹ nhàng, bàn chân của cậu hầu như không bén đất. Song cậu bắt đầu lo lắng cho Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa đang đuổi theo phía sau. Tuy Phật sống đi rất nhanh, song bộ pháp luôn tuân theo quy luật nhất định. Tại đoạn đình cuối hành lang, ông ta bước theo kiểu tuần hoàn năm - bốn – ba. Tại đoạn vòng qua tháp trắng, lại đổi thành hai bước trượt nhanh nối liền. Tại đây, Lỗ Nhất Khí còn nhìn thấy phía trong ngoài hành lang đều có một vài chốt lẫy đã hoạt động. Hai cột hành lang đã bắn ra bốn tầng dùi hoa sen từ trên xuống dưới. Khoảng đất bằng bên ngoài hành lang lừng lững vọt lên hai cột trụ xuyên trời hình vuông đỉnh nhọn. Ở gần tháp trắng, có rất nhiều mũi tên cháy sém cắm xiên trên mặt đất.

Có người đã xông tới tận đây. Là người của Mặc gia? Hay là đám Quỷ Nhãn Tam? Dù là ai, hẳn cũng đã trúng phải khảm nút, không chết cũng bị thương.

Dưới chân núi phía nam của dãy núi Thiên Thê, có một vách đá phẳng lì, trên vách đá có vẽ một bức bích hoạ với màu sắc rực rỡ sống động, nội dung đều là các điển tích Phật giáo như đức Phật thị hiện, rắc hoa ban phúc, thánh nữ bay lượn. Bên trái bức bích hoạ, có một dãy bậc thang đẽo vào vách đá, quanh co uốn lượn chạy lên cao. Bậc thang không rộng, song lại cực dốc, có lẽ phải dùng cả tay lẫn chân mới có thể leo lên.

Phật sống Kim Đỉnh đang dẫn theo Lỗ Nhất Khí chạy thẳng về phía bậc thang đá. Song còn chưa kịp giẫm chân lên con đường nhỏ phía trước bức bích hoạ, một tiếng quát đã đột ngột vang lên:

- Phật gia, ngài định đi đâu? – Âm thanh vang rền chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa không trung.

Lỗ Nhất Khí giật bắn cả mình mẩy, vội liếc mắt sang hai bên, song không tìm ra người vừa lên tiếng.

Song Phật sống vẫn dửng dưng như không, dường như đã lường trước sự việc này, chỉ cúi đầu mà đáp gọn lỏn một câu:

- Lên Thiên Thê!

- Không được! - Tiếng quát lại rền lên như sấm.

- Ta làm việc ta muốn, ngươi làm gì được ta? - Phật sống vẫn cúi đầu rủ mắt.

- Phật gia, ngài làm khó tôi rồi! Chủ nhân lệnh cho tôi canh giữ Thiên Thê, ngài muốn lên cũng phải đợi chủ nhân nói một tiếng đã.

Chỉ dùng mắt thì không thể tìm ra người đang nói, bởi vậy Lỗ Nhất Khí đã dùng cảm giác siêu phàm để rà soát xung quanh. Trên bức bích hoạ kia có một nơi khí thế cuồn cuộn, chẳng lẽ người vừa lên tiếng lại là nhân vật trong tranh? Song Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp quan sát kỹ thêm, lại đột nhiên cảm giác thấy có một làn khí tướng khác, quen thuộc nhưng vô cùng đáng sợ, ở ngay hốc tường phía dưới con dốc sau lưng. Làn khí tướng này vừa mang vẻ huyền diệu tự nhiên của khí Đạo gia, lại vừa có sự quyết đoán bá đạo của khí vương gia, chính là Chu Chân Mệnh! Nhưng kỳ lạ là làn khí của Chu Chân Mệnh chỉ tĩnh lặng ẩn phục tại một chỗ, không hề xê dịch. Hắn có ý đồ gì? Lẽ nào đang tìm kiếm thời cơ đánh lén? Không thể, ý đồ của hắn chắc chắn phải thâm thuý hơn đánh lén rất nhiều.

- Môn trưởng Chu gia ở gần đây, nơi này không nên ở lâu! - Lỗ Nhất Khí nói khẽ nhắc nhở Phật sống.

Mí mắt Phật sống hơi nhích lên một lát, sau đó hướng về phía vách đá, cao giọng:

- Không đợi được nữa! Nghiên cứu Phật lý suốt mấy chục năm trời, chỉ vì một khoảnh khắc hôm nay, không thể chậm trễ! - Giọng ông ta vô cùng cương quyết.

- Vậy thì không còn gì để nói nữa! Tôi nhận ân sủng của Chu gia cũng đã mấy chục năm, không thể ngay cả một đoạn rìa ngoài cũng không giữ nổi! - Người trong tranh tuy ngữ khí uyển chuyển, song ý tứ quyết không nhượng bộ.

Lỗ Nhất Khí đã tìm ra nơi phát ra giọng nói, song cậu không còn dám tin vào cảm giác của mình, bởi lẽ những gì cậu cảm nhận thấy là khác biệt một trời một vực với những gì mắt thấy tai nghe.

Mảng bích hoạ tại nơi đó mô tả một đám thiên nữ đang bay lượn, với thân hình đầy đặn nuột nà, khuôn mặt bầu bĩnh phúc hậu, y phục mong manh hầu như không có, mỗi người cầm một nhạc cụ khác nhau. Có lẽ là Thiên Lạc thánh nữ từng được miêu tả trong phần "Cửu long quán thiên dục" cuốn "Phật lâm thế".

Điều khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy kỳ lạ là hình tượng của các thành nữ đều trong tư thế bay ngang hoặc chúc ngược xuống. Cho dù Chu gia có thuật cải trang, tô điểm cho người thật giống hệt như tranh vẽ, thì người này cũng không thể lúc nào cũng lộn ngược hoặc treo ngang trên vách đá trơn bóng. Hơn nữa, những hình dung yểu điệu mỹ miều kia làm sao có thể phát ra giọng nói sấm rền như ban nãy?

- Xem ra ngươi nhất quyết ngăn cản việc tu hành của ta? - Phật sống từ từ ngẩng đầu lên.

- Người đời xảo trá mưu mô vô số. Phật sống không nhập thế, không nên mù quáng tin lầm lời lẽ yêu tà của phàm phu, mà lại sa chân vào ma đạo!

Giọng nói đích xác được phát ra từ một chân dung thánh nữ, hơn nữa, lại là vị thánh nữ ôm đàn tì bà treo ngược giữa trời. Lỗ Nhất Khí đã cảm giác thấy đôi môi cô ta khẽ mấp máy và làn khí tướng lên xuống phập phồng trong khi nói.

Đã tìm ra vị trí chính xác, rất nhiều hiện tượng kỳ quái cũng sẽ được sáng tỏ. Lỗ Nhất Khí sử dụng kỹ xảo "mắt năm phần" của Lỗ gia để quan sát, và phát hiện ra rằng thánh nữ trong tranh không hẳn là treo ngược, mà chính xác hơn là nằm sấp giơ chân lên cao.

- Hình như thánh nữ, giọng tựa chuông rền, trông như treo mình, song lại là nằm phục. Nếu nói về yêu tà, còn ai sánh bằng kẻ đó? Phật sống không những lún sâu vào tội ác thế tục, mà còn làm bạn với yêu ma, thảo nào thanh tu không tinh tiến, Phật lý khó thông tỏ! - Lỗ Nhất Khí nói khẽ. Lúc này, sức mạnh duy nhất mà cậu có thể nhờ cậy chỉ còn lại Phật sống, nhất thiết phải kéo ông ta về phía mình.

- Người này không phải là yêu ma, mà là tỳ thiếp của môn trưởng Chu gia Thú Cơ nương nương. Do cô ta tinh thông bí thuật Báo phòng[24] nên trong môn còn gọi cô ta là Báo Cơ nương nương. Nơi đây do cô ta canh giữ, cũng là nơi cô ta luyện công. Thân hình nằm sấp giống như treo ngược, nhằm tu âm dương đảo ngược, lấy dương bên ngoài nuôi dưỡng nơi thầm kín, để hội tụ chân khí cần thiết cho thuật Báo phòng. Song phương pháp tu luyện này cũng có mặt trái, đó là khiến dương khí thu về tích tại cổ họng trở lên, bao gồm cả khuôn mặt. Khí dương tích tụ ở mặt khiến sắc mặt hồng nhuận, tích tụ ở cổ họng sẽ khiến giọng nói vang vọng như trống như chuông, không hề thua kém đàn ông. - Phật sống là người thành thật, không phải cố tình muốn phản bác lời nói vừa rồi của Lỗ Nhất Khí, chỉ nói đúng sự thật, nhưng nghe lại giống như đang biện hộ cho Báo Cơ nương nương.

Mấy chữ "âm dương đảo ngược" vừa thốt ra từ miệng Phật sống đã khiến Lỗ Nhất Khí ớn lạnh trong lòng. Cậu lập tức nhớ tới ba chữ "điên chi uyên" trên tấm thẻ ngọc. "Điên chi uyên", lấy đỉnh làm vực, cao thấp hoán đổi, chẳng phải cũng mang ý nghĩ âm dương đảo ngược ư? Vị trí "nội hợp khí thông", nơi chỉ tán khí không tụ khí sẽ ở nơi nào trên ngọn núi? Là đỉnh? Hay là vực? Nhưng nếu nhìn từ thế núi, dù là đỉnh hay vực, đều không phù hợp với đặc điểm không nhật nguyệt thiếu tứ tịnh của "nội hợp".

Chú thích

[22] Tức thuật Yoga.

[23] Tức bàn tay xoay vòng.

[24] Tức là thuật phòng the bí truyền của cung nữ trong hậu cung triều Minh.

Chương 22: Cùng phá giải

Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí đang âm thầm suy nghĩ, đột nhiên xuất hiện một luồng sát khí cực kỳ sắc bén từ phía tháp trắng chầm chậm tiến lại, mang lại một thứ cảm giác giống như đao sắc cứa vào da thịt. Trong quá trình di chuyển, luồng khí lúc đi lúc dừng, rẽ ngoặt quanh co, có vẻ như đang giải khảm mà tới.

Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.

- Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.

Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.

Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:

- Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!

Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng "lắc rắc". Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.

Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.

Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của "Cơ xảo tập" và "Ban kinh" đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió...; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa... Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.

Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.

Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện "lưới chuông bắt sẻ" ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút "đao hoa sen" ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là "Hắc Bạch song thành" trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.

Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.

- Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? - Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.

- Khảm nút nào? - Phật sống có vẻ ngơ ngác.

- Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! - Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.

- Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.

Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.

Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.

Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.

Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng "bóng theo hình" để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.

Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.

Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.

- Tôi nói "đi" thì đi, nói "lên" thì nhảy thẳng lên, nói "nhảy" thì nhảy về phía trước, nói "dừng" thì dừng lại, nói "phục" thì chúi người xuống! - Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.

Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.

Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.

Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là "Tạng Phật thất luân thích thân". Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.

- Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! - Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.

Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.

Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.

- "Pằng!"

Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.

Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.

Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.

- Đi! Luân xa tim! - Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.

Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ "đi", Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.

Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.

- Dừng! - Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.

- Nhảy! Luân xa hải để! - Lỗ Nhất Khí lại hô lên.

Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.

Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là "vòng ráng mây" được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.

- Phục! - Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.

Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.

Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên... Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.

Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, "đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính".

Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà "Hắc Bạch song thành" đã lập nên hay không.

Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:

- Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?

Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong "Sơn hải kinh". Trong "Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh" có viết: "Ngọc Sơn... có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn".

Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.

Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.

Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.

Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.

Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.

Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.

Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.

Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.

Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.

Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.

Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.

Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.

Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?

Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.

THIÊN BẢO HIỆN HÌNH - LỖ NHẤT KHÍ XẢ THÂN ĐỊNH HUNG HUYỆT

Chương 23: Cùng quyết đấu

Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng "Quạ vàng đuổi thỏ ngọc", phía tây là khảm tướng "Lục dương xoay chiếu", phía đông là khảm tướng "Sao sáng xoay quanh mặt trời". Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của các cách cục bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là "Bảo dương điên toả âm hung". Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên "Đế kinh mạch hành trạch", từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, vào lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

o O o

Tiếng động lạ là tiếng thở phì phò, khí tướng là hơi của thú. Chỉ không rõ đó là loài thú gì, lại càng không rõ chỗ lợi hại của chúng, chỉ nhận rõ một mối nguy hiểm ghê gớm đang xuất hiện cùng với mùi muông thú. Đối diện với tình trạng này, Mạc Thiên Quy chỉ biết tiếp tục trốn chạy.

Tuy chân phải đã bị trọng thương, toàn thân đẫm máu, song tốc độ trốn chạy của lão vẫn rất chóng vánh. Sau lưng là khảm diện, hai bên có thú, chỉ còn cách chạy về phía trước. Song phía trước lại là một hốc lõm vào chân núi, không có đường đi, chỉ có vách núi dốc ngược không thể leo lên. Có điều nơi này vẫn chưa phải là tuyệt lộ, chí ít cũng có thể dựa lưng vào vách núi mà chống trả lại đối thủ. Hơn nữa, ở trong hốc đá, phạm vi tấn công của đối thủ cũng bị thu hẹp, là một vị trí tốt để ứng phó với nhiều đối thủ.

Đám muông thú hai bên cũng bám theo sau Mạc Thiên Quy, tốc độ rất nhanh. Song dường như bọn chúng không vội tiêu diệt lão ngay, nên luôn duy trì một khoảng cách nhất định với lão. Có lẽ Mạc Thiên Quy là đối thủ mà chúng chưa hiểu rõ, nên còn thận trọng dè chừng.

Khi cơ thể sắp chạm vào vách đá, Mạc Thiên Quy đột nhiên lật tay chém ngược một kiếm. Nhát kiếm này để đề phòng đám muông thú lao tới tấn công vào khoảnh khắc lão dừng bước xoay người, đồng thời, lão cũng muốn mượn lực của cú vung kiếm để ổn định cơ thể đứng vững tại chỗ.

Đã xoay được người lại, lúc này lão mới nhìn rõ bầy thú đang đuổi theo mình. Thân hình chúng không lớn, nhỏ hơn loài báo một chút, song đầu lại rất to, quanh cổ có bờm lông dày xù ra, trán nhô cao như thể chiếc sừng bằng thịt. Mắt như chuông đồng, miệng như chậu máu, rất giống sư tử đực. Chiếc đuôi tựa cán roi, móng sắc nhọn hoắt như lưỡi câu bằng thép, rất giống hổ; lưng thon bụng hóp, trên mình thấy thấp thoáng đốm hoa, lại giống như báo đốm. Bầy thú thấy Mạc Thiên Quy dừng lại, cũng không đuổi nữa, chỉ vây kín xung quanh, trong tiếng thở phì phò có xen lẫn tiếng gầm gừ khe khẽ, vừa như tiếng rống, lại giống tiếng chó điên.

Vừa giống sư tử, vừa giống hổ, vừa giống báo, vừa giống chó, đây là loại thú gì? Mạc Thiên Quy trong lòng chấn động, đầu óc hoang mang. Thú có kỳ tướng, ắt có kỳ ác. Bị bao vây giữa bầy thú dữ quái ác, liệu có thể sống sót hay không, hoạ có trời mới biết. Mà có lẽ ông trời cũng không biết, chỉ có bầy thú kia mới biết.

Bầy thú lạ kỳ thực chính là đám linh thú do Báo Cơ nương nương coi sóc – tam thú ngao. Báo Cơ bố trí khảm thú, thường là thả báo hoặc hổ đói ở vòng ngoài cùng, còn nơi quan trọng bên trong mới thả loài tam thú ngao. Tam thú ngao kỳ thực là sản phẩm lai tạo từ bốn loài ác thú sư tử, hổ, báo, chó ngao. Trước hết cho hổ và sư tử giao phối sinh ra thú lai hổ sư tử, sau đó cho báo đốm giao phối với chó ngao Tây Tạng sinh ra thú lai báo đốm chó ngao. Cuối cùng, tiến hành lai giống giữa thú lai hổ sử tử với thú lai báo đốm chó ngao sinh ra tam thú ngao. Đã là thú tạp giao thì thường không có khả năng sinh sản, hàng vạn lần may ra ngẫu nhiên mới có một lần thành công, sinh được ra con. Tuy nhiên cao thủ Chu gia không hiểu từ đâu mà có được phương pháp lai tạo, dùng nội dược kết hợp với thuật kim thạch, cuối cùng vẫn khiến thú lai sư tử hổ với thú lai báo đốm chó ngao giao phối với nhau sinh ra tam thú ngao. Có người dựa vào một số chứng cứ trong sách cổ, nói rằng loài thú có tên là "giảo" trong "Sơn hải kinh" chính là tam thú ngao.

Đám tam thú ngao đang bao vây Mạc Thiên Quy không vội vã tấn công ngay. Một số con thậm chí còn nằm phục xuống đất. Có điều con nào cũng giương cặp mắt xanh lè hung dữ nhìn trừng trừng vào Mạc Thiên Quy, không để lão có mảy may cơ hội đào tẩu.

Một lát sau, trong bầy tam thú ngao bỗng tách ra một số con, lững thững tiến về phía Mạc Thiên Quy. Song nó không đi thẳng, mà hết vẹo sang trái lại nghiêng sang phải, thân hình dán xuống đất, nhích dần từng chút tới sát Mạc Thiên Quy.

Giống thú này rất thông minh, cũng vô cùng thận trọng, về điểm này khá giống với loài sói, song có lẽ chúng còn điềm tĩnh hơn cả loài sói. Nếu là sói, chỉ cần ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc trên khắp cơ thể Mạc Thiên Quy, cả bầy hẳn đã lao tới xâu xé từ lâu. Song tam thú ngao lại không như vậy. Chúng chỉ bao vây, sau đó để một con lên trước dò la bản lĩnh của mục tiêu. Mà con thú đi dò la này lại di chuyển rất chậm rãi với quỹ đạo ngoằn ngoèo. Trạng thái này có lợi cho đột kích, cũng có lợi để né tránh kịp thời, độ xảo quyệt chẳng khác gì loài cáo.

Song thực bất ngờ, tam thú ngao còn thông minh và xảo trá hơn cả tưởng tượng của Mạc Thiên Quy. Nó không bất ngờ đột kích trong quá trình di chuyển, mà dừng lại ở một bên mặt tường đá rất gần chỗ Mạc Thiên Quy đang đứng. Như vậy, dù Mạc Thiên Quy có bất ngờ tấn công, cũng chỉ có thể đánh vào chính diện và một bên sườn, còn nó tiến lui hay tránh né đều thuận tiện, thậm chí còn có thể nương theo vách đá để nhảy vọt lên trên hoặc lạch sang bên cạnh.

Mạc Thiên Quy cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Giống súc vật kỳ quái này lại có thể suy tính kín kẽ không thua kém gì cao thủ giang hồ.

Sau khi con tam thú ngao này dừng lại, trong bầy thú lại có một con nữa bước lên, cũng quanh co lượn lờ trái phải. Không cần nhìn, Mạc Thiên Quy cũng biết, con thú này chắc chắn sẽ chiếm lĩnh lấy vị trí đối diện với con thứ nhất. Sau khi chúng đã chiếm cứ được tất cả những vị trí có lợi, sẽ tiếp tục tiến về phía lão, chiếm cứ các vị trí có lợi gần hơn. Khi đó, chúng chỉ cần vươn cổ há miệng, đã có thể xé xác lão lập tức. Trong toàn bộ quá trình này, chỉ cần lão có bất kỳ hành động nào, những con thú đã chiếm được vị trí có lợi sẽ khống chế lão, để những con thú khác nhân cơ hội ồ ạt tấn công hoặc tiếp tục quan sát.

Nhận rõ tình thế, Mạc Thiên Quy không để con thứ hai kịp chiếm lĩnh vị trí. Lão khó nhọc di chuyển bước chân, thanh kiếm trong tay nhanh như chớp lao vụt về phía con tam thú ngao đầu tiên.

Kiếm của Mạc Thiên Quy lưỡi rộng sống dày, song trong vẻ nặng nề lại không kém phần linh hoạt. Thế kiếm là lật tay chém ngang, nên phạm vi tấn công khá rộng, con thú có giật lùi hay lao về phía trước, vẫn nằm trong phạm vi của đường kiếm.

Song con tam thú ngao vẫn đứng im, không lùi cũng chẳng tiến, chỉ vặn lưng một cái, nhổm thẳng thân trước dậy, đã dễ dàng né được thế kiếm chém ngang của Mạc Thiên Quy. Song Mạc Thiên Quy đã tính sẵn từ trước, chiêu thức mới sử ra một nửa, lập tức biến chiêu, thế chém ngang đổi thành thế đâm ngược, mũi kiếm nhằm vào giữa cổ họng tam thú ngao đâm ngược lên trên.

Song lại xuất hiện một tình thế khiến Mạc Thiên Quy phải kinh hãi. Con thú nhìn thấy kiếm đâm tới, chân trước thình lình tạt mạnh, từ mé bên đập thẳng vào thân kiếm. Không những vị trí chính xác, mà lực đạo cũng cực lớn. Kiếm của Mạc Thiên Quy bị đẩy bật đi, mũi kiếm đâm thẳng vào vách đá, hoa lửa bắn tứ tung. Kinh dị hơn nữa là nhân lúc mũi kiếm đâm vào vách đá, con thú lập tức há miệng ngoạm lấy thân kiếm. Nó muốn cướp kiếm!

Mạc Thiên Quy trong lòng khiếp đảm, song không hề chùn tay. Lão giật thanh kiếm về được nửa chừng, né khỏi miệng thú, rồi lại đột nhiên đâm thẳng tới phía trước, hướng vào cái miệng còn chưa kịp khép lại của con thú.

Tam thú ngao vội cúi đầu lao bổ về phía trước, song vẫn hơi chậm. Kiếm đâm xẹt qua đỉnh đầu nó, phạt bay một mảng lông dài.

Bị trúng đòn, con thú lúc lắc cái đầu to tướng, sau đó vẫn đứng im tại vị trí cũ. Một loạt đòn tấn công của Mạc Thiên Quy vẫn không thể khiến nó lùi lại dù chỉ là một tấc. Khi Mạc Thiên Quy tuyệt vọng lùi vào hốc lõm, thì con tam thú ngao thứ hai đã chiếm được vị trí có lợi ở phía bên kia.

Tiếp đến, con tam thú ngao thứ ba trong bầy thú bước ra, lại uốn éo như bơi mà xáp tới...

Dịch Huyệt Mạch vẫn trong cuộc đối đầu với Cao Bôn Lôi. Cao Bôn Lôi không hề tỏ ra coi thường đối thủ trước mặt, đừng nói là đối thủ đang cầm một chiếc kim mềm và mảnh, mà dù là một cọng cỏ héo khô thì hắn cũng sẽ dốc toàn lực để chiến đấu. Tuy nhiên, hắn không thể ngờ được rằng, khi hắn vừa vung chuỳ nhấc chân lao đi, thì chiêu thức xem ra vô cùng mẫu mực ra dáng của đối thủ bỗng chốc biến thành sụp gối quỳ mọp xuống, hướng về phía hắn mà vái lạy sát đất. Thật khó tin nổi, một kẻ bạc nhược vô dụng đến vậy cũng dám xông vào cứ điểm trọng yếu của Chu môn ư? Nhưng suy nghĩ này chỉ thoáng qua trong lúc bàn chân hắn nhấc lên. Khi bàn chân vừa chạm đất, Cao Bôn Lôi lập tức nhận ra mình đã sai lầm. Cao thủ đối trận, sai lầm cũng chính là thất bại, là mất mạng.

Dịch Huyệt Mạch đã chọn đúng lúc cơ thể Cao Bôn Lôi bắt đầu hơi ngả về phía trước mà quỳ xuống. Cơ thể ngả về phía trước là để bước lên tấn công. Bước lên tấn công, bàn chân sẽ phải đưa về phía trước. Bởi vậy, Dịch Huyệt Mạch không những quỳ sụp xuống, mà còn phải phủ phục sát đất.

Cao Bôn Lôi chỉ ngập ngừng trong một chốc lát, nếu là khoảnh khắc vừa đưa chân ra, hắn vẫn có thể xoay chuyển tình thế; song đến khi bước chân đã lao xuống, hắn sẽ không thể nào thu lại được.

Về điều này, Dịch Huyệt Mạch thông thạo hơn cả Cao Bôn Lôi. Người theo nghề y đương nhiên phải hiểu rõ cấu tạo sinh lý của cơ thể con người, cũng rất thông thuộc những phản ứng vô thức giống như phản xạ của xương bánh chè. Cao Bôn Lôi đã rơi vào trạng thái kiểu này, còn Dịch Huyệt Mạch đang bò rạp dưới đất đã cầm sẵn chiếc kim dài mảnh chờ đợi lòng bàn chân không thể kiểm soát của hắn.

Kim rất dài, không giống với kim châm cứu bình thường, song độ dài như vậy vừa hay có thể đâm tới độ cao mà lòng bàn chân của Cao Bôn Lôi không thể thu về được. Kim rất mảnh, rất mềm, song nhờ kỹ xảo vê xoay của ba đầu ngón tay Dịch Huyệt Mạch, mũi kim đã dễ dàng xuyên qua đáy ủng da bò dày cộm của hắn, tiếp tục đâm xuyên qua lớp chai dày cộm dưới lòng bàn chân, rồi xuyên vào trong huyết quản kinh mạch.

Theo lý mà nói, một mũi kim như vậy dù có đâm xuyên thấu lòng bàn chân, thậm chí đâm trúng một huyệt vị nào đó trên bàn chân, cũng đều không thể gây tổn thương nghiêm trọng cho người bị đâm, huống hồ cây kim không hề đâm trúng huyệt vị. Thực tế cũng đúng như vậy, tuy bị cây kim dài xuyên sâu vào lòng bàn chân, song Cao Bôn Lôi không hề cảm thấy đau đớn hay khó chịu. Bởi vậy, khi bước chân đã có thể kiểm soát được, hắn không đợi cả bàn chạm đất, đã vội đề khí nhấc chân lên. Song thế đánh xuống của chuỳ bôn lôi lại không hề thay đổi, vẫn giáng thẳng xuống lưng Dịch Huyệt Mạch.

Y đạo của Dịch Huyệt Mạch là trái ngược với lẽ thường, bởi vậy ông mới được mệnh danh là "nhổ ngược huyệt". Thế nào là "nhổ ngược huyệt"? Chính là đảo lộn vị trí huyệt đạo, đau đầu chữa ở chân, bệnh bên trong chưa ở bên ngoài. Kỹ xảo châm cứu của ông cũng là dùng nhổ thay cho đâm, thông khí huyết thay cho tụ khí huyết. Tuy vị trí đâm kim không phải là huyệt vị ở bàn chân, song lại là nơi tụ hợp của kinh mạch huyết khí, tương đương với tiểu khí môn. Người luyện công đều có khí môn, hay còn gọi là tráo môn, là điểm yếu ớt nhất, nếu bị tổn thương sẽ gây tiêu tán công lực. Ngoài ra, trên cơ thể họ còn có rất nhiều điểm hội tụ của tinh huyết, chân khí, những vị trí này cũng rất quan trọng, chúng có liên quan tới trạng thái hoạt động của một số bộ phận khác trên cơ thể. Những điểm hội tụ này được gọi là tiểu khí môn.

Tiểu khí môn thường rất ít người chú ý tới, bởi lẽ đều là nơi da dày nhiều thịt, khó bị tổn thương. Song nếu như bị tổn thương thực sự, thì người luyện võ coi như đã thành tàn phế. Bởi vậy, chỉ có những thầy thuốc trình độ cao siêu mới chú ý tới tiểu khí môn, vì khi chữa trị nội ngoại thương, những vị trí này là nơi thông khí tán ứ rất quan trọng.

Cao Bôn Lôi vừa đề khí nhấc chân, cây kim lập tức bị nhổ bật khỏi lòng bàn chân, huyết khí cũng trào vọt ra ngoài ngay tức khắc, nguyên khí lập tức tán loạn. Huyết khí tại tiểu khí môn này kiểm soát hành động của hai cánh tay, bởi vậy chuỳ bôn lôi tuy đã nâng lên, song hai cánh tay lập tức cứng đờ không thể đập xuống được.

Kim bạc đã được nhổ bật ra, Dịch Huyệt Mạch đang quỳ mọp sát đất cũng nhỏm thân trên dậy, song hai đầu gối vẫn quỳ, tiếp tục đâm nhát kim thứ hai.

Vị trí đâm kim lần này đã khiến Cao Bôn Lôi cảm thấy quả tim tê rần, máu đổ dồn lên mặt, không những không hề cảm thấy khó chịu, ngược lại còn thấy rất sảng khoái. Mũi kim bạc vừa đâm vào giữa đũng quần của Cao Bôn Lôi, chọc trúng vành quy đầu trên dương vật của hắn. Kim vừa đâm vào trong thịt, cổ tay Dịch Huyệt Mạch đã bẻ cong lại, lập tức nhổ kim ra.

Song lúc này Cao Bôn Lôi đã ý thức được mức độ khủng khiếp của hậu quả, trong lúc khẩn cấp, hắn đã liều mạng đá bàn chân vừa nhấc trở về ra phía trước.

Dịch Huyệt Mạch đã quá sơ suất. Sự đắc ý sau khi một chiêu đắc thủ đã khiến ông liều lĩnh tiếp tục đâm nhát thứ hai, và cái giá phải trả cho sự liều lĩnh này là đã phải hứng trọn cú đá. Một cước của Cao Bôn Lôi đã giáng trúng ngực ông, Dịch Huyệt Mạch thậm chí không kịp kêu lấy một tiếng, cả thân người văng đi là là mặt đất, sau khi rơi xuống còn lăn lông lốc đến năm sáu vòng, tới khi va vào lan can bằng đá mới dừng lại được. Ông nằm sấp mặt trên nền đất, giống như đã chết rồi.

Cũng chính vì trúng phải cú đá trời giáng, nên Dịch Huyệt Mạch chưa kịp nhổ hoàn toàn mũi kim bạc ra. Song chiếc kim đã nhổ ra quá nửa cũng đã rút ra một phần huyết khí, đủ để khiến Cao Bôn Lôi không còn cảm giác thư thái và kích thích như khi bị đâm vào. Hắn cảm thấy máu huyết khắp người đều đổ dồn lên mặt, hộp sọ như muốn nổ tung đến nơi. Cuối cùng, hắn gầm lên một tiếng vô cùng khủng khiếp, cùng lúc đó, phần nhân trung dưới mũi bỗng toác ra một lỗ hổng đỏ lòm, một khối máu rung rinh bắn vọt ra, rơi xuống đất bụi, bắn toé tứ tung.

Nếu như kim bạc được nhổ ra hoàn toàn, thì vị trí nứt toác đáng lẽ phải ở ấn đường. Như vậy Cao Bôn Lôi sẽ bỏ mạng tại chỗ, không còn một cơ may sống sót. Lúc này, tuy vị trí bị nứt toác là nhân trung, song Cao Bôn Lôi vẫn cảm thấy nội khí đan nguyên đang ào ào tuôn ra ngoài qua chỗ nứt, chẳng khác gì nước vỡ đê. Khí đan nguyên ồ ạt tiết ra, sức lực trong cơ thể cũng mau chóng cạn kiệt, hai chân hắn lúc này đứng còn không vững, nói gì tới đánh đá. Cơ thể hắn đổ thẳng cánh về phía sau, nằm nhũn ra như một đống bùn nhão. Cây chuỳ to tướng trong tay cũng rơi đánh rầm trên mặt đất lát đá, nện vỡ liền bốn năm tảng đá, dội lên tiếng va đập vang rền tựa như chuông chùa buổi sớm.

Chuỳ bôn lôi vừa rơi xuống đất, Dịch Huyệt Mạch đã ngồi bật dậy, sắc mặt xanh lét như chàm, hơi thở tắc nghẽn. Ông thuận tay rút ra một chiếc kim châm cứu trên vạt áo, châm vào đốt giữa ngón út trên bàn tay trái rồi rút ra ngay, lập tức từ miệng phun vọt ra ba ngụm máu ứ tím bầm. Máu ứ đã phun ra hết, sắc mặt Dịch Huyệt Mạch tươi tỉnh hẳn lên, sau vài lần thở sâu vận khí, ông đã có thể bám vào lan can đá, từ từ đứng dậy.

Nhìn Cao Bôn Lôi vẫn gắng gượng giãy giụa trên mặt đất, Dịch Huyệt Mạch nhếch miệng cười khẽ. Kết quả này vẫn khiến ông rất mãn nguyện. Cao Bôn Lôi tuy không chết ngay, song giờ đây còn không bằng cả một người bình thường, hơn nữa nếu không được chữa trị kịp thời, e rằng tính mạng cũng khó lòng giữ được.

Sau khi quan sát một lượt tình hình xung quanh, xác nhận không còn mối uy hiếp nào khác, Dịch Huyệt Mạch cũng đi về phía sau toà điện bên trái. Có điều nhìn vào dáng đi của ông, đã không còn vẻ nhanh nhẹn phiêu dật như lúc ban đầu.

Bị đám cao thủ của Chu gia áp sát, lão Lợi và Dương Tiểu Đao phải liên tục thoái lui. Dương Tiểu Đao tuy đao pháp lợi hại, song tốc độ di chuyển và thân thủ lại chưa đạt đến hàng cao thủ, hơn nữa gã đang phải đi giật lùi, dưới chân lại đầy đá vụn, nên càng không thể thi triển thân hình. Bởi vậy trước sự dồn ép của đối thủ, Dương Tiểu Đao mau chóng rơi vào tình thế hết sức nguy ngập.

Trong lúc lùi lại, Dương Tiểu Đao loạng choạng liền hai bước, xém chút nữa đã ngã bật ngửa. Đối thủ chớp lấy cơ hội, đao quang loang loáng ập tới gần như đã bao trùm toàn bộ cơ thể gã. Lúc này, chỉ cần gã sơ sểnh thêm một lần nữa, tính mạng sẽ đi đứt như chơi. Trước những đòn tấn công tối tăm mặt mũi của đối thủ và liên tục phải bước giật lùi, sơ hở lại xuất hiện, gã đã thò một nửa cẳng chân vào trong cửa tử.

Đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, lão Lợi đang nằm bò dưới đất bất ngờ bật phóc người đứng dậy, đao đầu quỷ trong tay vụt biến thành một vệt sáng loà chém xéo tới, tựa như một luồng lốc xoáy. Tay sát thủ đang dùng xác chết làm lá chắn không kịp rú lên một tiếng đã bị phạt đứt đôi cùng với "lá chắn". Máu tươi phun vọt tựa mưa rào, vuông nhiễu đỏ bay lên lồng lộng như đám mây, bao trọn lấy màn mưa máu.

Sau cú ra đòn, lão Lợi tay phải cầm ngang cán đao, tay trái đỡ lấy đầu quỷ trên thân đao, đứng chắn ngang trước mặt Dương Tiểu Đao.

Dương Tiểu Đao lúc này mới kịp thở lấy một hơi, và cũng phải đến lúc này mới có cơ hội rút lấy thanh đao từ "lá chắn" xác người.

Đám sát thủ đang dàn hình bán nguyệt bao vây lấy họ đương nhiên sẽ không chịu bỏ cuộc. Lại có hai thân hình lao ra từ hai bên trái phải, một tên nhảy vọt lên tấn công phía trên, một tên khom lưng tấn công phía dưới, mục tiêu đều nhắm vào lão Lợi.

Lão Lợi bị thương không nhẹ, sắc mặt đã tái xanh tái xám, lưỡi đao trong tay cũng đã chuyển từ màu trắng loà như tuyết sang màu xanh thẫm như nước hồ. Hai tên sát thủ hợp lực đánh tới, song lão Lợi vẫn đứng im bất động, dường như ngay cả một chút khả năng né tránh cũng không còn.

Dương Tiểu Đao từ phía sau lão Lợi lao vụt lên, vung đao nhằm vào sát thủ tấn công phía dưới. Tay sát thủ dường như đã dự tính từ trước, cơ thể lập tức lướt nghiêng sang bên cạnh, lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao đánh hụt vào khoảng không. Trong khi tay sát thủ phía trên khí thế tấn công càng thêm dữ dội và nhanh chóng.

Một tên là mồi nhử, một tên là giết thực, đây là sự kết hợp đúc rút từ vô số lần rèn luyện và vô số lần thực chiến. Trong hai tên sát thủ, dù có đánh tên nào, thì tên đó cũng sẽ lập tức né tránh, biến thành mồi nhử, để tên còn lại tung ra đòn sát thương thực sự.

Song phản ứng của Dương Tiểu Đao vẫn hết sức nhanh nhạy. Vừa nhìn thấy tên sát thủ thuận thế né tránh, gã lập tức xoay đao sang hướng bên kia, đứng thẳng người giơ đao nghênh chiến. Song đã muộn rồi, đao của sát thủ đã hạ xuống.

Thanh đao đang xoay ngang của lão Lợi không vung lên đón chiêu, mà lại đâm ngang đi, đây chính là chiêu "lấy công làm thủ", có thể nhân lúc đối thủ tiếp đất mà đâm thẳng vào bụng dưới và sườn dưới bên phải của hắn. Song chiêu này lại không phải là thượng sách, chỉ cần đối thủ dám chấp nhận bị thương, thì cú hạ đao của đối thủ vẫn có thể dễ dàng tước đi tính mạng của lão Lợi.

Song vấn đề là ở chỗ, dù sát thủ có lợi hại đến đâu, thì tôn chỉ hàng đầu của chúng vẫn là phải bảo vệ bản thân trước, tiếp đó mới là sát thương kẻ địch. Sát thủ đang lao tới cũng không ngoại lệ, bởi vậy trước mũi đao đang phóng tới, cơ thể hắn lập tức lắc sang một bên né tránh theo phản xạ.

Chương 24: Cùng trăm mảnh

Dao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.

Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

- Dừng tay! Để tôi!

Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

- Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

- Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

- Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

- Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

- Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ "Tham đồng khế" do Nguỵ Bá Dương kết hợp "Kinh Dịch", "Lão Tử", "Trang Tử" mà soạn nên. "Tham đồng khế" là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu "Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể" trong "Kinh Dịch". Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

- Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

- Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

- Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

- Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

- Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

- Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...

Chương 25: Cục hung biến

Cao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.

Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

- Dừng tay! Để tôi!

Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

- Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

- Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

- Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

- Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

- Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ "Tham đồng khế" do Nguỵ Bá Dương kết hợp "Kinh Dịch", "Lão Tử", "Trang Tử" mà soạn nên. "Tham đồng khế" là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu "Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể" trong "Kinh Dịch". Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

- Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

- Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

- Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

- Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

- Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

- Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...

Chương 26: Lộ nguyên hình

Dám tam thú ngao dường như đã rút ra kinh nghiệm từ sự việc trước đó, nên bóng người vừa xuất hiện, lập tức ra đòn tấn công. Con tam thú ngao ở gần nhất phóng vụt lên, chân trước giơ cao, hệt như người đứng, vồ thẳng tới trước mặt bóng người.

Bóng người lập tức nghiêng mình né tránh cái miệng rộng ngoác của tam thú ngao, song đã không tránh kịp bộ vuốt bên chân phải, lập tức trước ngực bị cào rách toạc thành bốn vệt dài máu thịt tanh bành. Cũng may người này mặc áo Tạng bằng da lông thú khá dày dặn, nếu không hẳn là tim phổi cũng đã bị móc ngược ra ngoài.

Người này tuy đã bị thương, song bước chân vẫn không hề chậm lại. Con tam thú ngao thứ hai lập tức xông lên, cũng nhảy dựng ngược rồi vồ thẳng tới với khí thế hung hãn y như vậy.

Lần này, cánh tay trái đã bị vuốt thú cào trúng, toàn bộ tay áo trái rách bươm như giẻ, bốn vệt cào chạy dọc từ trên xuống dưới cánh tay, máu tuôn như suối.

Bị trúng thương hai lần liên tiếp, người này đã nhận ra mình không thể xông qua đàn thú, bèn lập tức thay đổi phương thức, thuận thế ngã chúi xuống đất, cuộn tròn người mà lăn đi.

Đây là chiêu thức mà chỉ có những người Tạng phải thường xuyên quần nhau với dã thú mới biết được. Thông thường, những con thú lớn khi tấn công mục tiêu có độ cao nhất định, tốc độ và lực độ đều đạt đến mức lý tưởng. Song đối diện với mục tiêu chuyển động sát đất, chúng lại không biết phải ra đòn thế nào.

- Là Sách Khố Lạt! Mau cứu lấy hắn! - Từ giọng nói và thân hình, Mạc Thiên Quy đã nhận ra Sách Khố Lạt.

- Sư phụ, mặc kệ hắn, không chừng đó là khổ nhục kế. Cả nhà hắn đều bị Chu gia bắt giữ, rất có thể hắn bị cưỡng ép tới lừa gạt chúng ta! – Lưu Chi Thủ ngoái đầu lại nhìn, vẻ mặt đầy trăn trở, song không hề có ý hành động.

- A! Có chuyện như vậy sao? – Trong mắt Mạc Thiên Quy loé lên một tia sáng, khiến người khác rất khó đoán lường.

Lăn với tốc độ nhanh, kỳ thực còn chóng mệt hơn cả chạy, huống hồ trước sau còn có vài bộ vuốt sắc nhọn và hai cái miệng há hoác đuổi sát, cần phải liên tục thay đổi hướng lăn để né tránh. Chẳng mấy chốc, động tác của Sách Khố Lạt đã chậm lại thấy rõ. Tiếp đến là những tiếng rách toạc, những kêu la thảm thiết vang lên không ngớt.

- Xem ra không giống khổ nhục kế, nếu không trợ giúp, e rằng Sách Khố Lạt không sống nổi! - Mạc Thiên Quy vừa nói vừa đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó.

- Sư phụ, nhân lúc bầy thú đang xúm lại chỗ đó, để con dẫn người xông ra!

- Con xem ta đầy mình thương tích, sao có thể xông ra nổi! Tốt nhất con hãy chạy một mình, giữ được mạng nào hay mạng đó.

- Nhưng con không thể vứt bỏ sư phụ!

- Con cứ mặc kệ ta! Chỉ cần tới được nơi cần đến, làm được việc cần làm là được rồi! – Ánh mắt của Mạc Thiên Quy không những khó hiểu, ngay cả lời nói cũng trở nên hàm hồ không rõ nghĩa.

- Vậy con xin thề, nếu thoát khỏi nơi đây, con sẽ dốc cả tính mạng trợ giúp Lỗ môn trưởng hoàn thành đại sự!

Lưu Chi Thủ còn chưa nói dứt câu, Mạc Thiên Quy đã đưa tay ra.

Lưu Chi Thủ thoạt tiên sững lại, song khi nhìn thấy cuộn thẻ tre trên tay Mạc Thiên Quy, vẻ mặt bỗng chốc trở nên vô cùng kích động và căng thẳng. Đây là cuộn thẻ tre bí mật do môn trưởng Mặc gia đời đời truyền tay gìn giữ, là món bảo bối trấn môn bí mật. Giao cho hắn, cũng có nghĩa là giao phó toàn bộ Mặc môn cho hắn, bao gồm cả những bí mật trong Mặc môn. Hệ trọng như vậy, bảo sao hắn không kích động, không căng thẳng cho được?

Lưu Chi Thủ cũng đưa tay ra, niềm kích động khó kìm nén trong tâm khảm đã khiến ánh mắt của hắn có phần trôi nổi. Song khi ngón tay hắn vừa chạm lên mép cuộn thẻ, bỗng vài luồng lực đạo dữ dội lao thẳng xuống bụng kèm theo cảm giác nhói buốt đã hất hắn ngã văng ra phía sau.

Lưu Chi Thủ biết mình đã sai. Cơn kích động vừa rồi khiến hắn không nhận ra lớp vải bọc bên ngoài thẻ tre đã không còn nữa, chỉ còn lại cuộn thẻ tre trần trụi.

Trong cuộn thẻ tre có nút lẫy "xiên thép hoa mai vót nhọn". Nếu kéo xuôi vòng dây trên cuộn thẻ tre, những cây xiên thép mũi dài sẽ bật tung ra, tấn công bàn tay của người cầm thẻ tre. Nếu kéo ngược vòng dây, phía dưới cuộn thẻ tre sẽ có xiên thép mũi ngắn phóng ra, cắm thẳng vào bụng ngực của người cầm thẻ tre.

Nhìn Lưu Chi Thủ bị bắn trúng mà ngã văng xuống đất, đủ biết luồng kình lực của chốt lẫy mạnh tới cỡ nào. Năm cây xiên thép đã găm ngập vào khoảng bụng ngực Lưu Chi Thủ dàn thành hình hoa mai. Nhìn vào phần đuôi xiên thép lộ ra ngoài, biết rằng mũi xiên cắm rất sâu, hẳn là đã vào tới phủ tạng.

Tuy đã bị trúng chiêu, song Lưu Chi Thủ lại không hề tỏ ra kinh hãi hay hoảng loạn, mà lập tức tay chân cùng vận lực, cố gắng lết người lùi lại, cho tới khi đã ở sau lưng con tam thú ngao ở bên trái.

Mạc Thiên Quy rút thanh kiếm cắm trên đất lên, cầm chắc trong tay, song vẫn đứng im tại chỗ, không có ý đuổi theo truy kích.

- Rốt cuộc ta đã để lộ sơ hở ở chỗ nào? – Sau khi đã nấp được sau lưng tam thú ngao, Lưu Chi Thủ cuối cùng mới thở được một hơi mà quát hỏi.

- Nhìn vào tác phong và phẩm chất của ngươi từ trước đến nay, đúng là ngươi không hề để lộ một sơ hở nào. Sai sót chính là ở bầy súc sinh kia! - Mạc Thiên Quy vẻ đầy khinh miệt – Loài thú có thông minh tới đâu cũng không thể giống con người, thứ bộc lộ ra một cách vô thức chính là thú tính tự nhiên.

- Là vì chúng bao vây cắn xé Sách Khố Lạp, mà không bao vây cắn xé ta?

- Không phải! Là ta phát hiện ra sự bất thường trong thần thái của chúng.

- Thần thái của thú?

- Đúng vậy! Ngươi đã bao giờ nhìn thấy thần thái của chó ngao Tây Tạng khi đánh hơi tìm kiếm chưa? Ta đã từng nhìn thấy, hơn nữa còn quan sát rất kỹ. Sau khi chúng phát hiện ra mùi vị khác thường, sẽ nghếch mũi, ngó nghiêng hai bên tìm kiếm. Đám súc vật này tuy ta không biết là giống thú tạp giao nào, song có thể khẳng định trong huyết thống của chúng có thành phần của chó ngao Tây Tạng. Thần thái khi chúng đánh hơi giống hết chó ngao Tây Tạng.

Mạc Thiên Quy vừa nói, vừa kín đáo đưa tay vào trong chiếc túi đeo bên mình.

- Chó ngao Tây Tạng thông thường có thể đánh hơi từ cách xa trăm bước. Song trước khi ngươi xuất hiện, đám súc sinh này không có bất kỳ thần thái gì khác thường. Đến khi Sách Khố Lạt xuất hiện, chúng lại nghếch mũi hít ngửi liên hồi, ngươi nói xem có hợp lý không?

- Quả nhiên không hổ danh là sư phụ của ta, một tiểu tiết nhỏ bé như vậy cũng không qua nổi mắt ông!

- Ta thật hổ thẹn! Lúc nào cũng chăm chăm đề phòng Chu gia mua chuộc người nội bộ làm tai mắt, nhưng lại không bao giờ nghĩ tới ngươi. Ngươi giỏi che đậy quá, đến ta đây là sư phụ ngươi cũng bị che mắt. Than ôi! Đáng hận là ta còn uỷ thác trọng trách cho ngươi. E rằng đại sự đến hôm nay sẽ phải huỷ trong tay lão già hồ đồ này mất rồi! - Mạc Thiên Quy than thở.

- Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Sư phụ, ông hãy nhìn cho rõ tình hình trước mắt, mau giao cuộn thẻ tre lại cho ta.

- Đừng hoang tưởng! Tình hình trước mắt quả thực bất lợi cho ta, song chưa biết chừng viện thủ của ta đã tới rất gần. Hôm nay chỉ cần ta có thể thoát ra, ngày sau nhất định sẽ bắt đồ nghiệt chướng ngươi phải chịu cảnh sát thân diệt môn!

Mạc Thiên Quy nói ra những lời uất hận này dường như không đúng lúc, khác nào bức bách Lưu Chi Thủ khởi sát tâm, phải tiêu diệt ngay Mạc Thiên Quy mới yên tâm, mới cam lòng.

Lưu Chi Thủ đích xác cũng đang chuẩn bị phát động bầy tam thú ngao xông lên tàn sát. Chỉ cần Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt chết đi, bí mật của hắn sẽ không có ai hay biết. Có được tín vật của Mạc Thiên Quy, hắn sẽ có thể thống lĩnh Mặc môn. Mà trước mặt Lỗ Nhất Khí, hắn cũng sẽ trở thành người đáng tin cậy nhất của Mặc gia.

Đúng lúc Lưu Chi Thủ chuẩn bị ra hiệu và lên tiếng điều động bầy tam thú ngao, tình thế bỗng đột nhiên biến đổi. Lại có một bóng người xông vào vòng vây của tam thú ngao, lao thẳng về phía Sách Khố Lạt.

Mạc Thiên Quy trước đó đã phát hiện ra trợ thủ của mình đã tới, bởi vậy mới cố tình nói ra những lời căm hận để nhằm thu hút sự chú ý của Lưu Chi Thủ, yểm hộ cho người phe mình.

Rất kỳ lạ, bầy tam thú ngao không hề hít ngửi mùi của người vừa tới, cũng không dốc sức ngăn cản, mà ngược lại còn có vẻ hơi hoảng sợ. Bởi lẽ người này chính là Dịch Huyệt Mạch, trên người ông ta có mang dược liệu có tác dụng xua đuổi, doạ dẫm muông thú.

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Sách Khố Lạt đầu tiên. Tuy không quen biết người này, song nhìn vào tình thế trước mắt, kẻ bị quái thú phía Chu gia bao vây cắn xé, không phải người Lỗ gia cũng là người Mặc gia. Tiếp đến, ông lại nhìn thấy Mạc Thiên Quy bị vây khốn trong hốc lõm vào của vách núi, thế là chẳng kịp suy nghĩ, vội vã rắc lên người "thuốc bột doạ thú", rồi tung mình nhảy vào vòng vây của bầy thú.

Thuốc bột của Dịch Huyệt Mạch rất hiệu quả, đám tam thú ngao theo nhau né tránh, mở ra cho ông một lối đi. Khi ông đỡ lấy cơ thể lúc này đã lăn rất chậm của Sách Khố Lạt, đám tam thú ngao lập tức dừng cắn xé, tru lên vài tiếng đầy bất mãn, rồi lúc lắc đuôi mông lùi cả lại.

Song có một người đã bất chấp tính mạng xông ra cản đường. Chính là Lưu Chi Thủ đang bị thương rất nặng.

- Có tin ta chỉ cần một chiêu là lấy mạng ngươi không? – Trong mắt Dịch Huyệt Mạch vằn lên từng tia máu đỏ. Ông hiểu rõ bản thân không nên nấn ná lâu ở nơi này, chỉ cần thuốc bột hết tác dụng, đám tam thú ngao trước sau sẽ hợp lại bao vây giáp kích.

Thực tế cũng đúng như vậy. Đám tam thú ngao phía sau đã bắt đầu lừ lừ tiến lại.

- Ta tin! – Lưu Chi Thủ trả lời rất thành thật.

- Người đừng đóng kịch! - Dịch Huyệt Mạch đột nhiên trừng mắt quát lớn. Dù gì ông cũng là bậc thần y hiếm có, từ trung khí và kình đạo trong lời nói của Lưu Chi Thủ, ông lập tức đoán ra Lưu Chi Thủ chưa hề bị trọng thương.

Quyết đấu sinh tử, đáng sợ nhất là gặp phải kẻ địch nằm ngoài tầm dự đoán. Trạng thái thực tế của Lưu Chi Thủ khiến Dịch Huyệt Mạch bất giác cảm thấy hoang mang trong lòng.

Lưu Chi Thủ dang rộng cánh tay, chỉ thấy cơ bắp, xương cốt kêu răng rắc, tấm áo Tạng mặc trên người lập tức rách toang. Khí vận kình hành, năm cây xiên thép găm trên cơ thể liền bắn vọt ra ngoài.

Dịch Huyệt Mạch không cử động. Ông là thần y, cũng là cao thủ võ học, ông đã nhận ra luồng khí kình mà Lưu Chi Thủ vừa vận ra không đủ mạnh để bắn xiên thép gây tổn thương đến người khác. Sự thực cũng đúng như vậy, xiên thép chỉ bắn đi hơn một thước đã rơi xuống đất.

Song ý đồ của Lưu Chi Thủ không phải muốn bắn xiên thép gây tổn thương cho đối thủ, mà muốn dùng máu tươi diệt địch. Năm cây xiên thép vừa rơi xuống đất, máu tươi từ năm lỗ thủng đã phun vọt ra như tên bắn.

Dịch Huyệt Mạch không nét tránh, cũng không kịp né tránh. Đây là chiêu thức ông không thể ngờ tới.

Năm vòi máu đã phun trúng người Dịch Huyệt Mạch, cũng tản ra như hình hoa mai, rất giống "huyết mai phá" trong vu thuật. Song Lưu Chi Thủ không hề biết tới vu thuật, hắn phun máu ra nhằm một mục đích rất đơn giản, chính là làm mồi dụ. Máu tanh phun ra có thể át đi mùi thuốc trên người Dịch Huyệt Mạch, khiến bầy tam thú ngao khát máu lập tức lấy Dịch Huyệt Mạch làm mục tiêu căn xé.

Máu vừa bắn lên người, bầy tam thú ngao lập tức hoặc phóng thẳng, hoặc nhảy vòng, đồng loạt lao bổ vào Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ tình thế bất lợi, vội vã vung một cánh tay lên, vài chiếc kim bạc phóng thẳng vào Lưu Chi Thủ đang cản đường, đồng thời hai chân tăng tốc, chạy vụt lên theo đám kim bạc.

Toàn bộ đám kim bạc đã đâm trúng ngực Lưu Chi Thủ, thật không ngờ lực đạo mà chúng mang theo lại có thể đẩy Lưu Chi Thủ bật văng văng về phía sau. Trong lúc dìu Sách Khố Lạt băng qua bên cạnh Lưu Chi Thủ, Dịch Huyệt Mạch tiện tay phóng thêm hai kim nữa vào lưng hắn.

Từ lúc bầy tam thú ngao ngửi thấy mùi máu tới lúc xông lên tấn công cần có một quá trình. Tuy Dịch Huyệt Mạch phải lôi theo một người, song do hành động trước, nên cuối cùng vẫn thoát khỏi sự truy kích của bầy thú, chạy tới bên cạnh Mạc Thiên Quy.

Lưu Chi Thủ tuy liên tục trúng chiêu, song vẫn không hề gục ngã. Qua tấm áo Tạng rách bươm, có thể nhìn thấy bên trong còn có một lớp áo giáp da bò dày cộp. Thảo nào xiên thép hoa mai có vẻ đã đâm lút cán, song lại không gây nên tổn thương quá nghiêm trọng cho hắn. Dịch Huyệt Mạch lúc này mới cảm thấy hối hận khi nãy đã không phóng kim vào cổ hoặc đầu hắn. Song tất cả đều đã muộn, Lưu Chi Thủ rút ra một cây đơn đao tuyết hoa, thế vung đao chính là tín hiệu phát động toàn bộ bầy thú xông lên tàn sát.

Tam thú ngao lập tức hành động, lao lên đầu tiên chính là ba con thú đã chiếm được vị trí đắc địa. Sau khi con này xông lên, những con phía sau sẽ tự khắc thế chỗ cho chúng.

- Lão Dịch, kim của lão có đối phó được với chúng không? - Mạc Thiên Quy vừa vung kiếm chắn đỡ vừa hét lên với Dịch Huyệt Mạch.

Song kỳ thực kim bạc trong tay Dịch Huyệt Mạch đã liên tục bắn ra, đều găm trúng những vị trí hiểm yếu trên cơ thể con thú, thế nhưng con thú vẫn tiếp tục nhảy nhót vồ tạt như không, chẳng có lấy mảy may phản ứng. Lúc này ông chỉ có thể dùng một chiếc kim dài nhằm đâm vào mắt con thú, để ngăn cản nó tiếp tục lao tới.

- Không được! Lũ súc sinh này quái dị, huyệt vị không nằm đúng vị trí! - Dịch Huyệt Mạch trả lời.

Lời vừa dứt, từ phía chùa Kim Đỉnh bỗng tới tấp bay đến vô số tàn lửa, lao thẳng xuống bầy thú. Đó là do cục tướng của núi Thiên Thê đột ngột biến đổi, thế gió vòng quanh núi biến thành thế gió trùm núi, thổi lửa từ bên ngoài bay dạt vào trong chùa.

Đám lửa rơi rào rào xuống đất, bầy tam thú ngao lập tức trở nên hỗn loạn.

Mạc Thiên Quy đương nhiên không chịu bỏ lỡ cơ hội, lập tức vung kiếm chém mạnh kết liễu con tam thú ngao cản đường, sau đó loạng choạng tiến lên vài bước, dùng mũi kiếm khều hất đám lửa, trong nháy mắt đã bày ra một khảm diện "Ba luỹ hai thành" cháy rừng rực.

Bầy tam thú ngao đã dừng tấn công. Chúng rất sợ lửa, đây cũng là bản tính trời sinh của mọi loài muông thú. Cục tướng Ba luỹ hai thành khiến chúng chỉ cần lao vào trong khảm, sẽ lập tức cảm thấy bị lọt vào vòng lửa, ngọn lửa bao phủ khắp mọi nơi.

Tuy Lưu Chi Thủ biết phá giải khảm diện này, song hắn lại không dám một mình xông lên. Vừa rồi Dịch Huyệt Mạch không lấy được mạng hắn, chỉ vì hắn nhất thời may mắn. Nếu lại để Dịch Huyệt Mạch có cơ hội áp sát, hắn sẽ không thể gặp may thêm lần nữa. Song hắn có thể chờ đợi, chờ đợi viện thủ phía Chu gia, hoặc đợi tới khi đám lửa tàn lụi.

Đám Mạc Thiên Quy cũng biết rõ, lửa cháy rồi cũng sẽ tàn, thời gian hẳn cũng không lâu. Tới lúc đó, liệu bản thân còn có phương cách nào khác?

Ngũ cốt hành khí mê của Hạ Táo Hoa chỉ có thể ngăn cản cao thủ Chu gia trong chốc lát, bởi lẽ thế hung của khảm diện vừa qua đi, một tay cao thủ của Hô Hồn đường tại Phúc Châu đã nhận ra cục tướng biến thành hư giả. Hô Hồn đường chuyên giúp ngư dân gọi những hồn ma tử nạn trên biển trở về, bởi vậy chúng không những có thể nhìn khí nhận hồn, mà còn có thể nhận biết tướng xương, dù là xương cốt ngâm lâu dưới biển. Bởi vậy sau khi thế hung của "Ngũ xương hành khí mê" qua đi, cục tướng tuy không biến đổi bao nhiêu, song cao thủ vẫn nhận ra mánh khoé ẩn giấu bên trong.

Hạ Táo Hoa, Dưỡng Quỷ Tỳ và Báo Cơ nương nương mỗi người đều thủ thế sẵn sàng chuẩn bị quyết đấu. Đám cao thủ Chu gia cũng đã ra khỏi hành lang vòng quanh tháp, tản ra thành hình rẻ quạt, vây quanh ba người.

Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ chỉ có thể đứng im bất động nhìn đám cao thủ vây kín lấy mình. Bởi lẽ đối đầu với một cao thủ tuyệt đỉnh như Báo Cơ nương nương, bất kỳ sơ xuất nào dù là rất nhỏ cũng sẽ mất mạng như chơi, huống hồ cục thế đối quyết giữa ba người lúc này là cục Thiên âm "Song xá đấu Nga Hoàng"[26], khí tướng chí thuần, chí âm lưu chuyển như vòng xoáy, phiêu diêu như gió thổi. Lúc này đừng nói là hành động, mà chỉ một chút sai lầm trong hơi thở cũng sẽ dẫn đến thảm bại.

Chú thích

[26] Có nghĩa là hai cô gái đẹp giao đấu với Nga Hoàng. Nga Hoàng là vợ vua Thuần trong truyền thuyết.

Chương 27: Giặc sau lung

Viêm Hoá Lôi đã dẫn dắt thế lửa lan toả tới khắp mọi ngóc ngách bên ngoài chùa. Dựa vào thân thủ của ông, trời còn chưa sáng, nơi cần cháy đều đã cháy, nơi cần lan đều đã lan, nơi cần chuẩn bị đều đã chuẩn bị xong xuôi. Bởi vậy Viêm Hoá Lôi bắt đầu lo lắng cho đứa con gái nuôi. Ông biết, chỉ cần Lỗ Nhất Khí vẫn còn ở đây, đứa con gái này nhất quyết sẽ quay lại tìm cậu ta. Nên chỉ cần tìm được Lỗ Nhất Khí, sẽ gặp được Dưỡng Quỷ Tỳ.

Viêm Hoá Lôi đã lẻn vào chùa qua cửa chính. Tuy ông ta không phải là cao thủ trong nghề khảm tử, song trước đó đã có mấy lượt người ra vào, toàn bộ khảm nút đều được phá giải. Bởi vậy ông cứ thẳng đường mà đi, cho đến tận phía trước vách đá bích hoạ.

Ông tới thật đúng lúc. Vừa bước lên con đường đá phía trước vách bích hoạ, đã nhìn thấy ba mỹ nữ đang căng thẳng đối đầu, đám cao thủ cũng đã bao vây tới. Thế là Viêm Hoá Lôi đột nhiên lại sa vào giữa cục, một mình đối mặt với vài chục cao thủ.

Đa số cao thủ đều đã chứng kiến bản lĩnh của Viêm Hoá Lôi khi ở bên hồ Tiên Tề. Bởi vậy vừa nhìn thấy Viêm Hoá Lôi xuất hiện, chúng lập tức dừng ngay lại. Cảnh tượng thảm khốc của đồng bọn sau khi bị lửa độc của Viêm Hoá Lôi thiêu đốt, cho tới lúc này vẫn hiện rõ mồn một trong tâm khảm chúng. Một số ít cao thủ chưa gặp Viêm Hoá Lôi thấy đa số đồng bọn đều khựng lại, cũng vội dừng bước. Cục diện đối đầu của ba mỹ nữ trước vách bích hoạ bỗng chốc biến thành cục diện bất động của cả mấy chục người.

Song kỳ thực, Viêm Hoá Lôi đang rất hoang mang. Thuốc pháo chứa độc đã dùng hết ngay từ trận chiến bên hồ Tiên Tề, còn hoả liệu bình thường cũng đã dùng gần hết để phóng hoả bên ngoài chùa, giờ chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy trận thế hình rẻ quạt của đám cao thủ tạm thời dừng lại, song tại thời điểm này, tại nơi này, xuất hiện cách cục đối đầu bất động như vậy, sẽ vô cùng bất lợi cho bản thân. Ông cần phải tìm ra một phương pháp đáng tin cậy để kết thúc cục diện này. Nghĩ vậy, ông lập tức quan sát kỹ lưỡng tình hình xung quanh, muốn tìm ra cơ hội có thể lợi dụng.

Song nơi đây lại là cứ địa cực kỳ quan trọng của Chu gia, bố cục thiết kế cực kỳ nghiêm ngặt, muốn tìm ra cơ hội và không gian có thể lợi dụng là rất khó. Chính vào lúc Viêm Hoá Lôi gần như tuyệt vọng, thì thế lửa ngoài chùa đột nhiên biến đổi. Một vầng lửa rừng rực bay dạt theo cơn gió trùm núi táp thẳng vào trong chùa. Lại thêm rất nhiều đốm lửa, tàn lửa bay tới tấp qua chùa, rơi xuống chân núi Thiên Thê.

Viên Hoá Lôi nhìn thấy cảnh tượng này, thầm reo trong dạ: "Lửa này có thể dùng!".

Dương Tiểu Đao đã không còn đường để chạy, đúng hơn là không còn sức để chạy. Vách núi phía trước vỡ lở đổ xuống, có độ dốc, cũng có đá tảng lổn nhổn làm chỗ giẫm chân mượn lực để trèo lên. Nhưng Dương Tiểu Đao biết đã không kịp nữa rồi. Tiếng bước chân đuổi theo đã nghe rõ mồn một, có lẽ chỉ còn cách khoảng năm bước. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao thấy leo lên vách đá chẳng bằng quay lại, trốn chạy chẳng bằng liều mạng quyết chiến. Đây là lựa chọn bất đắc dĩ, song trong tình thế này lại không thể không làm.

Thế là gã xoay người, xuất đao! Phía sau vọng lại tiếng rú thảm thiết.

Đao chém hụt vào khoảng không. Bởi lẽ chính vào lúc Dương Tiểu Đao dừng bước xoay người, thì hai cao thủ đuổi ở trên cùng cũng khựng lại quay ngoắt ra sau.

Tiếng rú thảm thiết phát ra từ cuối đoàn cao thủ truy đuổi. Ở đó có thân rắn dài uốn lượn như gió, có xẻng lưỡi cày múa vùn vụt, phản chiếu ánh nắng rạng rỡ và ánh lửa rừng rực quét thành hào quang kín trời. Hào quang tới đâu, kiếm đao gãy vụn, sắt thép đứt lìa.

Nhìn vào hai món binh khí đặc biệt, đủ để biết kẻ vừa chui từ dưới đất lên là Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập.

Sau khi hai đệ tử của Mặc gia chết một cách bí hiểm, mọi người rã đám, đường ai nấy đi. Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập trước đó chưa từng giao thiệp, cũng chẳng hiểu rõ về nhau, bởi vậy không đi cùng nhau. Hơn nữa kể từ ngày mặt mũi bị huỷ hoại nghiêm trọng, Quỷ Nhãn Tam không muốn đồng hành với bất cứ ai, trừ khi có Lỗ Nhất Khí đi cùng.

Quỷ Nhãn Tam đi theo đường âm minh, tức là tìm mộ mà đi. Trên vùng đất Tạng rộng lớn, có rất nhiều ngôi mộ là nơi chôn cất thi thể của thương nhân chết dọc đường. Loại mộ này thông thường đều ở gần đường qua lại, nên cũng tương tự như những mốc lộ giới. Hơn nữa đi theo đường mộ, có thể tránh được nguy cơ đụng độ với quân phục kích phía Chu gia, nên an toàn hơn hẳn.

Đường Biện Mạc Cập đi là đường người ngựa. Hắn là cao thủ đánh xe ngựa, chỉ cần đường nào có người ngựa đi qua là hắn nhận ra ngay. Trên đường đi, hắn nhặt nhạnh được một số vật liệu phế thải, chế ra một cỗ xe ngựa theo kỹ pháp trong "Ban kinh". Sau đó lại mượn được một con ngựa cái của một người Tạng gặp trên đường, dùng ngựa cái làm mồi nhử, dụ được hai con ngựa hoang, huấn luyện chúng thành ngựa kéo xe. Và thế là hắn đã có được một cỗ xe ngựa kéo.

Vài ngày trước, nhân lúc đêm tối, Quỷ Nhãn Tam đã lẻn đến chân núi Thiên Thê. Sau đó dùng phương pháp tìm kiếm tung tích của phái Mao Sơn để lần tìm tông tích khác lạ, phát hiện thấy trong chùa Kim Đỉnh có sự bất thường. Là vì trong vườn thú sau chùa, ngoài bầy thú do Báo Cơ nương nương thuần dưỡng, còn có đám người mất hồn mà lão thầy cúng đã dùng xe chở đến. Người mất hồn thì một nửa đã thành xác chết, nên trên mình cũng mang theo tử khí. Thuật tìm tông tích Mao Sơn của Quỷ Nhãn Tam nhận biết được tử khí.

Sau khi tìm ra sự khác thường, Quỷ Nhãn Tam bèn âm thầm đào hang từ đầu tường vây phía tây, men theo chân núi mà chui vào chùa Kim Đỉnh. Hắn muốn lẻn vào trong chùa thám thính tình hình, đồng thời cũng muốn thu lượm tin tức của Lỗ Nhất Khí.

Quỷ Nhãn Tam đào hầm xuyên qua lòng đất vào trong chùa, đây là điều mà người Chu gia không thể ngờ tới. Người Chu gia vốn cho rằng dưới chân núi toàn là đá tảng, không thể đào qua. Bởi vậy, bọn họ đã không bố trí thiết bị cảnh báo và khảm nút ở dưới đất.

Kỳ thực núi Thiên Thê tuy cao lớn hùng vĩ, song chất đá, chất đất lại rất tơi xốp, đặc biệt là ở dưới chân núi. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do đỉnh núi là nơi hút âm, nên chân núi sẽ là nơi phân tán âm. Xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam cứng rắn sắc bén, công lực dời non phá núi của hắn cũng thuộc dạng siêu phàm, chỉ trong vòng hai ngày, hắn đã đào tới sát vườn thú trong chùa.

Biện Mạc Cập cũng xâm nhập vào thị trấn lúc nửa đêm. Hắn từng đánh xe chở hàng qua đây, vì thế tình hình nơi này với hắn không hề lạ lẫm. Thật ngẫu nhiên, hắn đã phát hiện ra Quỷ Nhãn Tam, hơn nữa sau khi Quỷ Nhãn Tam chui vào trong hầm để đào bới, hắn đã kết roi ngựa thành một nút thắt đoạn hồn đặt sẵn ở cửa hang. Quỷ Nhãn Tam vừa thò ra khỏi hang, cần cổ lập tức bị khoá chặt. Đương nhiên, Biện Mạc Cập không giết Quỷ Nhãn Tam, không giết Quỷ Nhãn Tam chứng tỏ hắn không giết đám đệ tử Mặc gia.

Cách làm của Biện Mạc Cập quả nhiên là một chứng cứ hết sức thuyết phục. Quỷ Nhãn Tam đã tin tưởng hắn, và hai người bắt đầu liên thủ, âm thầm theo dõi biến động trong chùa, sẵn sàng tiếp ứng cho Lỗ Nhất Khí.

Đêm này, Quỷ Nhãn Tam một mình xuống hang, chuẩn bị đào nốt chút đất đá cuối cùng nối thông với vườn thú. Biện Mạc Cập giúp hắn canh gác ở cửa hang. Khi trời gần sáng, trong thị trấn đột nhiên có biến, Biện Mạc Cập lập tức chui xuống thông báo cho Quỷ Nhãn Tam biết. Quỷ Nhãn Tam bèn đào thông đất đá, chui vào vườn thú, dùng bùa chú Mao Sơn phong toả đám người mất hồn. Bởi vậy, mặc dù trong chùa náo động như chợ vỡ, song đám người mất hồn lại không hề ra tay sát phạt.

Đào hang dưới chân núi, dù đất đá có tơi xốp đến đâu cũng không thể đào quá sâu, nên trên nóc hang chỉ phủ một lượt đất nổi và đá vụn. Khi hai người luồn qua đoạn hầm bên dưới bãi Thần Hô, nhìn qua khe đá lên trên, họ nhìn thấy Dương Tiểu Đao đang lâm vào cảnh nguy khốn, bèn lập tức phá đất xông lên khác nào xác chết đội mồ.

Xẻng lưỡi cày sắc bén không gì cản nổi, nên đám cao thủ Chu gia liền thay đổi chiến thuật thực hư cùng tồn tại, vài tên dàn hàng cùng giao chiến với Quỷ Nhãn Tam, tên thì xuất dụ chiêu, tên thì xuất hư chiêu, chờ đợi thời cơ để xuất thực chiêu.

Mãnh hổ khó địch bầy chồn. Một cặp mắt, một đôi tay không thể đối chọi với hơn chục cặp mắt, đôi tay, huống hồ Quỷ Nhãn Tam chỉ còn một mắt. Đối đầu với một dãy cao thủ dàn hàng tần công, tốt nhất nên bắt đầu từ điểm đầu mút rồi hạ từng tên một. Do đó Quỷ Nhãn Tam từ từ di chuyển tới một đầu của đội hình. Song đối thủ nhanh chóng nhận ra ý đồ của Quỷ Nhãn Tam, lập tức phản ứng lại.

Dương Tiểu Đao và Biện Mạc Cập cũng gặp phải khó khăn tương tự. Dương Tiểu Đao sử đao nhanh, Biện Mạc Cập đánh roi lợi hại, bởi vậy đối thủ cũng dàn thành hàng ngang đối phó với từng người một. Dương Tiểu Đao, Biện Mạc Cập và Quỷ Nhãn Tam cùng nghĩ ra một phương pháp giống nhau, còn đối thủ cũng ứng phó theo cùng một cách. Bởi vậy, bước chân di chuyển mỗi lúc một nhanh, đều muốn đuổi tới phía đầu đội ngũ.

Cao thủ Chu gia biết rõ, phía mình dàn thành hàng dài, người đông nên tốc độ bước đi không thể thống nhất. Nếu gia tăng tốc độ, nhất định sẽ không thể theo sát nhau. Thế là ba hàng ngang dần dần xoay chuyển áp sát nhau, đầu đuôi nối liền, tạo thành khảm cục Tam giác xoay, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.

Tam giác xoay xuất hiện sớm nhất trong "Kiến Đường chí", Đơn Hùng Tín chỉ dẫn theo sáu mươi tráng sĩ mang đao xông vào doanh trại quân Đường, sáu mươi tráng sĩ đã vận dụng trận pháp "Tam giác xoay".

Hình tam giác là hình dạng kiên cố nhất trong các hình hình học. Tam giác xoay chính là ba hàng tổ hợp thành một hình tam giác, có thể liên tục xoay chuyển, co duỗi tuỳ ý. Ngoài ba cạnh đều có thể hướng đao ra ngoài xoay tròn mà tàn sát, vào lúc cần thiết còn có thể nhốt đối thủ ở bên trong, sau đó ba mặt đồng thời xoáy vào trong mà giết.

Ba người Quỷ Nhãn Tam chưa từng gặp phải khảm trận Tam giác xoay, bởi vậy mới đầu vẫn chưa chú ý tới. Tuy nhiên, rất nhanh sau đó, họ đều cảm giác thấy có điều bất ổn. Bởi lẽ sau khi ba hàng người tụ lại một chỗ, dù họ di chuyển với tốc độ nhanh tới đâu, cũng không thể tìm thấy đầu hàng. Ngược lại, lại thành ra hình tam giác xoay tròn luôn có một cạnh đuổi theo họ, lúc này có muốn dừng cũng không dừng được.

Ba người tìm cách di chuyển ra ngoài, xông ra khỏi cục thế xoay tròn. Tuy nhiên họ vừa di chuyển, các cạnh của hình tam giác lập tức kéo dài ra, khí thế ép tới càng thêm dữ dội. Đôi bên vô hình trung đã hoán đổi vị thế cho nhau, vừa rồi là vội vã đuổi tới đầu hàng, bây giờ lại trở thành cuống cuồng né tránh. Cả ba người đều hiểu rõ, nếu bị một cạnh chạm phải, sẽ lập tức thịt nát xương tan.

Và thế là tại mé tây nam của chân núi Thiên Thê, xuất hiện một cảnh tượng vô cùng kỳ quái. Một hình tam giác người đao kiếm tua tủa đang xoay vùn vụt, trước mỗi cạnh của hình tam giác này đều có một người đang cuống cuồng chạy theo vòng xoay, song trông họ hoảng hốt và thảm hại hơn hẳn những người trong đội hình tam giác.

Trên núi, Chu Chân Mệnh thẳng tay từ chối sự nhiệt tình của Lỗ Nhất Khí. Hắn cảnh giác lùi lại hai bước, không để Lỗ Nhất Khí đang tươi cười hớn hở áp sát.

Lỗ Nhất Khí không để ý tới điều đó, vẫn nói với Chu Chân Mệnh bằng giọng điệu như một kẻ tri giao:

- Tôi đang đợi ông đấy! Đã nói là cùng khai quật Thiên bảo, sao giờ mới tới?

- Vậy hà cớ gì phải lén lút mò vào trong chùa? – Chu Chân Mệnh khinh khỉnh đập lại một câu.

- Ai nói tôi lén lút? Tôi vào đây ồn ào thế kia mà, chắc chắn ông có nghe thấy! - Lỗ Nhất Khí cười mà nói, song ngữ điệu vẫn có chút ngượng ngập.

- Nếu như cùng nhau khai quật Thiên bảo, vậy thì ngươi hãy bày tỏ thành ý giống như ta lần trước, giao bảo bối trong tay ngươi cho ta, được chăng? – Chu Chân Mệnh thẳng thừng áp đảo.

- Đương nhiên là được. Thứ này vốn đã cho Chu gia các người lâu rồi, xưa nay vẫn để nguyên tại viện trong viện ở Bắc Bình, tại các người không cần nên tôi mới mượn tạm dùng trước! - Lỗ Nhất Khí nói đoạn, bèn thò tay vào ngực áo lấy ra tấm thẻ ngọc đánh dấu tám vị trí hung huyệt.

Chu Chân Mệnh nhất thời không kịp phản ứng, còn Đao Thập Lục chỉ biết trợn mắt ra nhìn.

Thẻ ngọc đã được lấy ra, chìa về phía trước, song Chu Chân Mệnh vốn dĩ rất mực thận trọng lại không đưa tay ra cầm. Lỗ Nhất Khí bèn ngồi xuống, đặt tấm thẻ ngọc xuống đất, rồi nói:

- Hãy nhìn xem đây có phải là thứ ông cần không. Nếu còn chưa thoả mãn, chúng ta sẽ thương lượng một điều kiện khác. Tôi qua bên kia thăm dò một chút, nếu ông tin tưởng, có thể đi theo tôi. Quật bảo ở nơi này có lẽ cũng phải nhờ tới ông trợ giúp.

Nói vừa dứt lời, Lỗ Nhất Khí phăm phăm bước về phía một lối rẽ ngang hướng sang phía tây.

Lối rẽ này thực tình mà nói không giống một con đường, mà giống như một bậc thang. Nhìn vào vết tích, có cảm giác đoạn đường này khá giống với đoạn bậc thang phía dưới, là do con người tạo ra. Song con đường này không dài, một loáng đã tới tận cùng. Đi tiếp về phía trước, chính là vách núi sạt lở phía trên bãi Thần Hô.

Lỗ Nhất Khí tiến hành đo đạc bằng mắt và ngón tay, kết hợp với kỹ xảo trong "Ban kinh" và lý luận trong "Cơ xảo tập", từ đó phán đoán rằng, tại nơi vách núi đổ sập này trước đây có lẽ có một toà kiến trúc trên vách đá.

Phát hiện này khiến Lỗ Nhất Khí phấn chấn hẳn lên, rất nhiều sự việc bỗng chốc đã sáng tỏ. Đoạn bậc thang phía dưới và lối rẽ ngang đi về phía tây rất có thể là lối đi mà Mặc gia năm xưa đã sử dụng khi xây dựng bảo cấu. Bảo cấu vốn được xây dựng trên vách đá, nhưng về sau không hiểu tại sao đã sập xuống theo sườn núi. Những tảng đá có đục lỗ trên bãi Thần Hô rất có thể là nguyên liệu dùng để xây dựng bảo cấu năm xưa.

Lỗ Nhất Khí lại quan sát cẩn thận vách đá lở một lần nữa. Bên trên vách đã cũng có nhiều lỗ thủng, kích cỡ khác nhau, vuông tròn có đủ, có lẽ dùng để bắt xà cột vì kèo.

Trong lúc Lỗ Nhất Khí đang mải quan sát, suy nghĩ thì Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục cũng đã bước tới. Chu Chân Mệnh nắm khư khư tấm thẻ ngọc trên tay, như thể đang nắm lấy tính mạng của chính mình.

Đao đầu đi phía sau Chu Chân Mệnh, ánh mắt rất đỗi âm trầm tán loạn, khiến người khác không thể đoán lường.

- Núi này chí âm trên đỉnh, dương ở dưới chân, vốn là cách cục hung tướng đảo lộn vị trí, song lúc này lại biến thành dương tăng âm giảm, cục tướng hoàn toàn đổi ngược! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm trong miệng, song không nhìn Chu Chân Mệnh.

- Cho dù có sự bất thường nào làm rối loạn cân bằng âm dương, cũng phải là cái này tăng cái kia giảm, chứ không thể đảo ngược hoàn toàn như vậy! - Lỗ Nhất Khí vẫn lẩm bẩm một mình.

- Xuất hiện cục tướng như vậy có một khả năng, chính là một trong hai khí âm dương ở trong trạng thái mạch dài, khí còn lại trong trạng thái bao phủ. Khi một trong hai khí tướng đó biến đổi, khí còn lại lập tức xoay ngược. Lý luận này từng được nói sơ qua trong cuốn "Âm dương đạo khí giải" của Phạm Sĩ Đôn thời Nam Đường. – Chu Chân Mệnh tiếp lời Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí như ngủ mê chợt tỉnh, ngoảnh đầu nhìn Chu Chân Mệnh, ánh mắt vô cùng quái dị.

Chu Chân Mệnh bất giác rùng mình ớn lạnh, như thể có một đường đao lạnh buốt rạch dọc sống lưng.

Lỗ Nhất Khí đã lập tức hoàn toàn thấu tỏ cách cục phong thuỷ kỳ tuyệt của nơi này. Điểm nghi vấn mà cậu phải vắt óc suy nghĩ suốt bấy lâu vẫn chưa có được lời giải, vậy mà chỉ một câu nói của đối thủ, đã lập tức tìm ra đáp án.

Hình huyệt của hung huyệt nơi đây có hình mạch dài, nên khí trên dưới lưu thông. Nhìn vào nền móng bảo cấu do Mặc gia xây dựng, thì thấy rằng họ đã lựa chọn được nguyên liệu và nền móng cực tốt, hơn nữa còn chọn áp dụng công nghệ đổ móng bằng sắt, theo lý mà nói thì không thể sụp đổ nhanh như vậy được. Nguyên nhân duy nhất chỉ có thể là vị trí của bảo cấu trực xung với mạch hung, trong khi Thiên bảo mới nhập phàm thế, vẫn chưa trải qua chu kỳ ba hưng ba phục, nên không trấn áp nổi hung huyệt. Do đó, khí của mạch hung mới đánh sập bảo cấu.

Chu Chân Mệnh rùng mình ớn lạnh chính là vì đao phong. Khi Chu Chân Mệnh đang giúp Lỗ Nhất Khí phân tích cục tướng, trạng thái cơ thể có phần sơ hở, Đao Thập Lục đã chớp lấy cơ hội đột nhiên giở quẻ. Thế xuất đao của gã vô cùng quái dị, dang hết cả hai tay hai chân, rồi rung lắc liên hồi. Bỗng dưng xuất hiện vô số xoáy khí từ cơ thể gã khuếch tán ra ngoài. Nhưng dù là cơ thể đang mở rộng hay xoáy khí đang khuếch tán, cuối cùng cũng là nhằm bọc kín Chu Chân Mệnh vào trong.

Chu Chân Mệnh đã cảm nhận thấy đao khí, hơn nữa còn nhìn thấy đao quang phản chiếu trong ánh mắt Lỗ Nhất Khí. Thứ đao quang đó ổn định như ráng chiều, chắc chắn như vách núi. Đây là thứ đao được đúc luyện từ cơ thể và tính mệnh.

Người đao mười sáu lưỡi, mười hai lưỡi trên tứ chi, hai lưỡi dưới bàn chân, một lưỡi ngậm trong miệng, tổng cộng mười lăm lưỡi đao. Còn một lưỡi đao nữa ở nơi nào? Lưỡi đao cuối cùng chính là toàn bộ cơ thể, lấy thân làm đao, lấy xương làm mũi. Khi tấn công, xương cốt ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể đều có thể dùng nội lực bẻ gãy, lòi ra ngoài da thịt, đâm chết đối thủ. Như vậy, có thể tuỳ theo ý muốn mà tiến hành tấn công đối thủ tại những vị trí kín đáo nhất, khó lường nhất, và cũng gần sát với vị trí hiểm yếu của đối thủ nhất. Đương nhiên, xuất đao kiểu này càng nhiều, sẽ càng gây tổn thương nặng nề cho bản thân. Chiêu lợi hại nhất chính là ôm lấy đối thủ cùng về cõi chết. Thế đao thứ mười sáu, không phải tất cả người đao mười sáu lưỡi đều biết sử dụng. Song Đao Thập Lục là Đao đầu, là thủ lĩnh, đương nhiên phải biết.

- Đưa bảo bối cho ta! – Đao Thập Lục chưa động thủ ngay, tuy rằng lúc này kình lực và nội khí của gã đã tích tụ tới cực điểm.

- Bảo bối nào? – Chu Chân Mệnh trong vẻ điềm tĩnh dấy lên chút nghi hoặc.

- Bảo bối trong tay môn trưởng!

- Ngươi cần nó làm gì? – Chu Chân Mệnh vẫn không thể hiểu nổi. Đao đầu Đao Thập Lục do một tay Chu gia nuôi dưỡng huấn luyện, tại sao lúc này lại có hành động kỳ quặc đến thế?

- Dựa vào bảo bối, sẽ thành bậc chí tôn trong thiên hạ. Việc tốt lành như vậy hôm nay phải thuộc về ta! – Đao Thập Lục đã bị Chu gia yểm bùa chú trùng độc trong người, nhưng lúc này gã dám gây chuyện phản nghịch, chắc hẳn khi ra ngoài đã tìm được cách hoá giải trùng độc.

- Nói cũng phải lắm! Chu gia các người đã từng làm hoàng đế, giờ nhường lại cho người khác cũng là hợp lý. Hơn nữa, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, tình hình của ông lúc này cũng hệt như tôi vừa nãy, chẳng phải tôi đã vui vẻ đưa bảo bối cho ông rồi ư? - Lỗ Nhất Khí đang cổ vũ Đao Thập Lục tiếp tục làm tới, như vậy có thể tranh thủ thêm chút thời gian.

Chương 28: Cục hoả hành

Chu Chân Mệnh không dám hành động, không phải vì đã bị thế tấn công của Đao Thập Lục khống chế, mà vì bên cạnh còn có Lỗ Nhất Khí. Lúc này, hắn và Đao Thập Lục là "cò nghêu tranh hùng", còn Lỗ Nhất Khí là "ngư ông đắc lợi".

- Môn trưởng là bậc kỳ tài, hẳn sẽ hiểu rõ nên bỏ bảo bối hay bỏ tính mạng – Đao Thập Lục lạnh lùng nói.

- Không phải không nỡ bỏ, chỉ là thứ này ngươi có lấy cũng vô dụng.

- Thứ này vô dụng, vậy thứ gì mới hữu dụng?

- Vậy thì phải hỏi hắn! Thứ đó có lẽ đang ở trong tay hắn! – Chu Chân Mệnh quả nhiên lợi hại, chỉ dăm ba câu đã đảo ngược tình thế, chuyển mũi nhọn sang phía Lỗ Nhất Khí.

- Chu môn trưởng, hắn không ngốc nghếch đến thế đâu. Nếu ta khăng khăng không đưa bảo bối cho hắn, ông lại trách hắn tội phạm thượng, tới lúc đó, hai bên cùng hợp sức tấn công hắn, thì hắn càng không còn cơ hội. Bởi vậy, dù muốn đòi bảo bối từ ai, cũng phải giải quyết ông trước! - Lỗ Nhất Khí lại gạt mũi nhọn về phía Chu Chân Mệnh, khiến hắn vẫn không thể thay đổi được tình thế bất lợi.

- Nói như vậy là ngươi đã thừa nhận bảo bối đang nằm trong tay ngươi? - Mắt Chu Chân Mệnh sáng rực lên, hắn đã tìm ra sơ hở từ trong lời nói của Lỗ Nhất Khí. Thảo nào khí thế của gã thanh niên này mới có vài ngày đã tăng tiến vượt bậc, vừa rồi vòng hào quang toả ra từ cơ thể hắn đã thổi bạt cả lớp lớp mây mù, thì ra cũng có nguyên nhân.

Nói lắm tất lỡ lời, lúc này, Lỗ Nhất Khí không còn giữ được vẻ điềm tĩnh vốn có nữa. Trước hai luồng ánh mắt rừng rực như lửa, cậu cảm giác như bị vô số mũi đao kề sát.

Mồ hôi đã loáng thoáng rịn trên vầng trán Lỗ Nhất Khí. Thật trùng hợp, lúc này trên núi lại có nước tí tách nhỏ xuống. Thì ra tầng mây tản ra, khiến ánh mặt trời chiếu vào nơi tuyết đọng, băng tuyết đông cứng quanh năm bắt đầu tan chảy.

Mạc Thiên Quy đứng giữa Hoả trận, vừa quan sát, tính toán hình núi thế đất xung quanh, vừa lắng nghe Sách Khố Lạt kể lại toàn bộ sự việc.

- Khi tôi vừa trở về thì thấy đệ tử Mặc môn và họ hàng thân thích đều bị Chu gia bắt bớ, liền cảm thấy nội bộ Mặc gia tất có kẻ nằm vùng. Đệ tử Mặc môn sống ở nơi này qua bao thế hệ đều chưa từng xảy ra sự biến, vậy mà khi tay họ Lưu kia vừa mới xuất hiện, tai hoạ đã lập tức xảy ra. Sau khi hắn tới, việc đầu tiên là nghe ngóng tình hình của toàn bộ đệ tử nơi đây. Hơn nữa, ám hiệu đánh dấu để lùng bắt đệ tử Mặc gia là một bàn tay. Mới đầu tôi cũng không để ý, về sau nhớ lại, hình như bàn tay đó có sáu ngón bởi vậy tôi nghi ngờ ám hiệu đó tượng trưng cho biệt danh giang hồ của hắn là "Sáu cánh tay". Quả nhiên, sau khi đốt lửa trên núi Nam Lĩnh, hắn đã quay ngược về thị trấn, lẩn vào trong chùa. Vì muốn giải cứu cho chúng đệ tử Mặc môn và gia quyến của họ, tôi bèn bám theo vào, phát hiện ra hắn phóng phi tiêu báo tin cho đối thủ. – Sách Khố Lạt bị thương trầm trọng, cơ thể suy sụp, giọng nói mỗi lúc một yếu, xem chừng có thể ngất lịm hoặc chết bất cứ lúc nào.

- Dịch lão đệ, hãy giúp hắn tỉnh táo một chút, lát nữa còn cần tới sức lực của hắn.

Dịch Huyệt Mạch lập tức lần lượt châm kim vào gáy, hậu tâm và sau thắt lưng Sách Khố Lạt. Sách Khố Lạt như thể choàng tỉnh khỏi giấc mơ, lập tức đứng vụt dậy, chỉ tay vào Lưu Chi Thủ bên ngoài Hoả trận, chửi rống lên:

- Tên súc sinh thối tha vô liêm sỉ, lừa thầy diệt tổ, dù ta có biến thành ma cũng không tha cho ngươi...

Mạc Thiên Quy thở dài:

- Cứ ngỡ rằng đệ tử họ Lưu ở vùng đất tổ của Mạc gia là đáng tin cậy, nhưng ta đã lầm thực rồi. Trên đời có một số kẻ vì vinh hoa phú quý mà sẵn sàng từ bỏ những thứ đáng giá hơn thế, bao gồm cả sự tôn nghiêm và vinh quang của tổ tiên, cả tình thân quê hương bản quán!

- Môn trưởng, lúc ở Nam Lĩnh tôi có nghe ông già họ Viêm kể lại, hai đệ tử Mặc môn đi cùng đám trợ thủ còn lại của Lỗ gia đều đã lần lượt bị giết hại. Trong số họ nhất định cũng có kẻ nằm vùng. – Sách Khố Lạt nói vậy là muốn an ủi Mạc Thiên Quy.

- Chưa chắc! Hành động của kẻ nằm vùng có mục đích rất rõ ràng, mà mục đích lần này là muốn Lỗ môn trưởng quật được bảo bối song không giữ được bảo bối. Bởi vậy, khi hắn một mình đưa Lỗ môn trưởng tới đây, chắc hẳn cũng đồng thời tìm cách ly gián, khiến các trợ thủ của Lỗ gia nghi ngờ lẫn nhau mà chia năm xẻ bảy, mỗi người một nơi. Bởi vậy, kẻ gây ra chuyện này chắc chắn là kẻ được hưởng lợi từ đó, cũng không ai khác ngoài Lưu Chi Thủ! - Dịch Huyệt Mạch phân tích rành mạch như thể đang đoán bệnh – Theo tôi được biết, Đông xưởng của triều Minh từng chế ra một loại thuốc độc có tên là "bột phá huyết canh giờ". Thuốc độc này không mùi không màu, dích vào cơ thể cũng không có cảm giác. Song tới một thời điểm nhất định, da thịt huyết quản sẽ thình lình nứt toác. Hình dạng vết nứt giống hệt với hình dạng của thuốc dính trên cơ thể, nếu là một vệt thẳng sẽ có hình đao chém, là một khối sẽ có hình lỗ thủng. Hai đệ tử Mặc gia đó có lẽ đã trúng phải thứ thuốc độc này. Lưu Chi Thủ, ta đoán có đúng không?

- Quả nhiên là thần y tuyệt thế, hiểu nhiều mà không nói, suy nghĩ kín kẽ chu toàn. Song cũng vô ích thôi? Lửa sắp tắt rồi, chuyện cần kết thúc cũng sắp kết thúc! – Lưu Chi Thủ đã chỉ ra sự thực.

- Cũng không hẳn! - Mạc Thiên Quy toát lên vẻ ngạo nghễ hiếm thấy của một vị môn trưởng.

Sau khi quan sát kỹ lưỡng không gian xung quanh, một kế hoạch liều lĩnh đã hình thành trong đầu Mạc Thiên Quy. Lão muốn dùng một cách cục thần kỳ cổ kim hiếm có để đánh bại Lưu Chi Thủ và bầy tam thú ngao. Điều này sẽ đem lại cho lão một niềm kiêu hãnh lớn lao, vừa chiến thắng được bản thân, lại vừa đánh bại được đối thủ.

Địa hình hốc núi có hình loa. Từ hình dạng này, Mạc Thiên Quy nhớ tới một trận thế đột phá ra ngoài có tên là "Hoả lân xung huyệt"[27], là cách cục thứ hai mươi ba trong Kỳ môn Độn giáp. Nhưng nếu ba người họ muốn đột phá vòng vây theo thế trận Hoả lân xung huyệt, khả năng thành công sẽ cực thấp. Bởi vậy, điều khiến Mạc Thiên Quy đắc ý không phải là cục thế này, mà là sự biến hoá ngay phía sau Hoả lân xung huyệt. Biến hoá này là một yêu cục, khảm gia chính đạo sẽ không biết sử dụng, song Mạc Thiên Quy đã học được cục diện này trong một cuộc đối đầu với tộc người Ngân Nha tại Quảng Tây năm xưa, yêu cục này có tên là "Ma diệm khúc lưu"[28]. Sử dụng phương thức biến trận này, có thể làm rối loạn đội hình của bầy thú, vây khốn một phần thú dữ. Song khiến Mạc Thiên Quy đắc ý nhất chính là biến hoá thứ ba ngay sau Ma diệm khúc lưu – Tam dương phi tinh[29]. Biến hoá này sẽ quyết định bọn họ có đạt được mục đích cuối cùng hay không.

Mạc Thiên Quy vừa động vào đám lửa, Lưu Chi Thủ đã biết chắc lão muốn dùng cục thế Hoả lân xung huyệt. Bởi vậy hắn đã âm thầm điều động tam thú ngao chia thành năm nhóm, hai trước và ba sau. Như vậy khi "Hoả lân" xông ra, năm nhóm thú sẽ phân trước tụ sau, biến thành cách cục "Ngũ hành thôn nạp"[30], cách cục thứ năm trong Kỳ môn Độn giáp, vẫn có thể vây kín Hoả lân ở bên trong.

Mạc Thiên Quy dường như không nhận ra sự biến đổi của bầy thú, chỉ tập trung vào công việc chuẩn bị. Ba người họ mỗi người thu gom được chút ít cành vụn lá khô, đốt thành một bó đuốc nhỏ. Sau đó Mạc Thiên Quy tập tễnh bước đi vài bước, không ai có thể nhận ra, bằng mấy bước đi này, lão đã âm thầm thay đổi Hoả trận.

Lưu Chi Thủ bắt đầu thấy nghi ngờ. Mạc Thiên Quy không thể mù quáng và khinh suất như vậy được, lẽ nào mình đã phỏng đoán sai ở khâu nào, hay là chưa nhận ra thủ đoạn lợi hại tiếp theo?

Sách Khố Lạt là người đầu tiên xông ra từ giữa đống lửa sắp tàn, phía sau gã là Dịch Huyệt Mạch, tốc độ của hai người khá nhanh chóng. Cuối cùng là Mạc Thiên Quy, do bị thương ở chân nên tốc độ của lão chậm chạp nhất, bị hai người kia bỏ cách một đoạn.

Không ổn rồi! Lưu Chi Thủ than thầm trong dạ. Hoả lân xung huyệt đáng lẽ phải là tất cả mọi người cùng xông ra một lượt, nhưng tại sao ba người này lại chia nhau kẻ trước người sau xông ra?

Vừa xông ra khỏi đống lửa, Sách Khố Lạt lao thẳng tới bầy thú.

Lưu Chi Thủ nhất thời không biết ứng phó ra sao. Ngũ hành thôn nạp chỉ để đối phó với một mình Sách Khố Lạt thì quá lãng phí. Nhưng nếu để bầy thú trực tiếp lao vào cắn xé, thì khi hai người phía sau xông ra, không còn bố cục sẽ không thể vây khốn được toàn bộ bọn họ.

Trong lúc Lưu Chi Thủ còn đang do dự, bó đuốc nhỏ trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên cháy bùng lên, biến thành một quả cầu lửa ngoại cỡ, với những ngọn lửa xanh lét tưng bừng nhảy nhót, thế lửa cực hung hãn. Ngay lúc đó, Sách Khố Lạt đột ngột thay đổi hướng chạy, lạng người rẽ ngoặt, dường như muốn xông ra từ khe hở giữa các nhóm thú.

Lưu Chi Thủ lúc này đã kịp phản ứng, lập tức phát tín hiệu điều động bầy thú. Ngay lập tức từ trong bầy xông ra vài con tam thú ngao lao ra vây chặn Sách Khố Lạt.

Sách Khố Lạt chỉ là đổi hướng tạm thời, ý đồ thực sự của gã lại không phải là xông ra từ đó. Sau khi ngoặt sang một hướng khác, gã lao đi hơn chục bước thì lập tức ngoặt lại, tiếp tục xông thẳng vào giữa bầy thú. Đối mặt với tình thế này, Lưu Chi Thủ có muốn sắp xếp lại đội hình cũng không kịp nữa. Bầy thú lập tức rối loạn, tam thú ngao bản tính thông minh nhìn thấy khối lửa ngùn ngụt lao thẳng tới thì đua nhau né tránh.

Dịch Huyệt Mạch lúc này cũng đã xông ra, giống như Sách Khố Lạt, chuyển hướng chạy đi rồi lại ngoặt ngược trở lại. Chỉ khác ở chỗ số bước sau khi chuyển hướng nhiều hơn so với Sách Khố Lạt, diện tích vòng vây khi đổi hướng ngoặt ngược lại cũng lớn hơn. Vậy nên vầy thú né tránh lại càng rối loạn.

Lưu Chi Thủ đã định thần trở lại, liên tục phát tín hiệu. Quá nửa bầy thú liền né tránh về phía tây, một số ít còn lại dàn thành hình vòng cung, tiếp tục chặn đuổi vồ cắn hai người kia. Nhưng không ngờ Sách Khố Lạt lại xông ra lần nữa, tình trạng rối loạn khi nãy tiếp tục lặp lại.

Đây chính là Ma diệm khúc lưu. Muốn hình thành khảm diện này, nhất thiết phải có đủ hai tiền đề. Thứ nhất, phải hiểu rõ đặc tính của đối thủ. Tam thú ngao thông minh, xảo quyệt, biết phán đoán tình thế, nếu đối thủ né tránh, chúng sẽ đuổi sát không rời; nếu đối thủ dồn ép, chúng sẽ vội vã né tránh. Thứ hai, cần có thứ khiến chúng phải khiếp sợ. Muôn thú bẩm sinh sợ lửa, song thú đã qua huấn luyện nghiêm ngặt có thể chịu đựng được ngọn lửa bình thường. Dịch Huyệt Mạch có loại dược liệu chuyên dùng trong giác hơi bằng lửa, khi đốt lên sức nóng không quá dữ dội, song hình lửa và thế cháy trông ngùn ngụt rất đáng sợ. Hơn nữa, trong đó lại được pha thêm một loại hương liệu kỳ lạ, khiến loài tam thú ngao vốn thận trọng giảo hoạt cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Sách Khố Lạt bắt đầu vòng xung kích thứ hai, Ma diệm khúc lưu đã thành công như mong đợi. Nhưng đúng lúc này lại xảy ra một sự cố bất ngờ, ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên bập bùng vài cái, sau đó mau chóng thu nhỏ lại. Ngay lúc đó, bó đuốc trong tay Dịch Huyệt Mạch và Mạc Thiên Quy cùng xuất hiện tình trạng tương tự.

- Lửa sắp tàn rồi! - Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, ngọn lửa được đốt bằng dược liệu dùng cho giác hơi nên thời gian cháy không bền.

Lúc này Sách Khố Lạt đã xông vào bầy thú lần thứ hai, còn Mạc Thiên Quy đang một mình ngăn cản số tam thú ngao còn lại ở lối ra của Hoả trận. Ngọn lửa vừa mới bập bùng, đám súc sinh xảo quyệt kia lập tức phát giác ra, lập tức dừng bước gần như đồng loạt. Khi nhìn thấy lửa đuốc mau chóng thu nhỏ lại, chúng liền lao vụt trở lại.

- Tam dương phi tinh! - Mạc Thiên Quy hét lớn.

- Bay luôn bây giờ? Không chạy vòng nữa à? - Dịch Huyệt Mạch quay đầu lại hỏi.

- Không cần! Bên này chúng tôi bị chặn, chậm tí nữa thì ông cũng không bay nổi đâu! - Mạc Thiên Quy quát lên như muốn đứt hơi.

Tam dương phi tinh chính là khi Ma diệm khúc lưu xoay chuyển tới vòng thứ ba, phần lớn dã thú đều đã bị dồn vào trong Hoả trận, người đầu tiên là Sách Khố Lạt tiếp tục xua đuổi số thú còn lại, người thứ ba là Mạc Thiên Quy chặn giữ ở lối ra của Hoả trận, còn Dịch Huyệt Mạch ở giữa không bị bầy thú quấy rầy sẽ lao thẳng vào Lưu Chi Thủ.

Mạc Thiên Quy bị thương nặng ở chân, Sách Khố Lạt lại không địch nổi Lưu Chi Thủ, bởi vậy ngôi "sao bay" này chỉ có thể là Dịch Huyệt Mạch.

Ma diện khúc lưu mới xoay chuyển được một vòng, bó đuốc trong tay đã sắp lụi tới nơi. Do đó, cách duy nhất có thể tiếp tục duy trì Tam dương phi tinh chính là hành động sớm hơn.

Bầy thú vừa nhìn thấy ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt yếu đi, lập tức lao ngược trở lại. Sách Khố Lạt không thể né tránh, nếu né tránh thì bầy thú sẽ bao vây Dịch Huyệt Mạch, như vậy ngôi "sao bay" này sẽ không thể bay lên được nữa. Sách Khố Lạt không những không được né tránh, mà còn phải tìm cách khiến ngọn đuốc cháy mạnh hơn, dữ dội hơn nữa, để Dịch Huyệt Mạch tuy buộc phải bay đi sớm hơn vẫn có thể thuận lợi lao tới tấn công Lưu Chi Thủ.

Thế là Sách Khố Lạt nghiến chặt hàm răng, trong lòng sắt lại, bó đuốc trong tay gã lập tức bùng lên dữ dội, trở thành một bó đuốc khổng lồ lao đi vùn vụt.

Gió vòng quanh núi đột nhiên biến thành gió trùm núi. Gió xoáy tung lửa táp, vô số ngọn lửa bị gió cuốn bay rào rào về phía chính nam của núi Thiên Thê.

Viêm Hoá Lôi đang lo lắng vì không đủ hoả liệu ứng phó với vài chục cao thủ phía đối phương, nhìn thấy cảnh tượng này, lập tức phấn chấn hẳn lên.

Tuy trên người ông không có đủ vật liệu gây cháy nổ, song mồi dẫn lửa lại không thiếu. Mồi dẫn lửa là vật dễ cháy có thể bùng cháy trong nháy mắt, song thời gian cháy lại cực ngắn. Thế là Viêm Hoá Lôi đã kết hợp mồi dẫn lửa, hoả liệu còn sót lại với đám tàn lửa đang ào ào rơi xuống. Mồi dẫn lửa sẽ dẫn những đốm lửa rơi rớt bén đến chỗ chính xác, hoả liệu khiến đốm lửa đã lan đến đúng nơi không bị tắt ngay. Ánh sáng rừng rực và cái nóng bỏng rát rùng rùng lan toả, hình thành nên một Hoả cục nhảy nhót giữa không trung và mặt đất, đây là cách cục chín mươi chín trong Kỳ môn Độn giáp – "Phượng vũ cửu thiên"[31]. Cục thế này không những được dùng để ngăn cản vài chục cao thủ Chu gia, mà còn muốn phân tán, đẩy lùi bọn chúng, ép chúng vào trong đám điện gác hành lang đang bốc cháy rừng rực.

Cao thủ Chu gia đều không phải hạng tầm thường. Sau khi Viêm Hoá Lôi phóng đi hơn chục mồi dẫn lửa, chúng đã đoán ngay ra ý đồ của ông, lập tức lao vọt tới trước khi cục thế Phượng vũ cửu thiên được hình thành.

Viêm Hoá Lôi đã ý thức được mối nguy hiểm gần kề, cục Phượng vũ cửu thiên của ông không thể ngăn cản nổi những cao thủ Chu gia lão luyện. Nhìn vào tốc độ di chuyển của chúng, chỉ nháy mắt nữa thôi sẽ xông tới cục diện Song xá đấu Nga Hoàng, tạo nên mối uy hiếp trí mạng cho Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa.

Song xá đấu Nga Hoàng là khí tướng chí thuần, chí âm. Thế nhưng lúc này, cả một đám nam giới dương cương đạp lửa mà tới, khiến khí tướng chí âm này bắt đầu tán loan, luồng khí lưu, khí thế của nó đã thay đổi trong chớp mắt giống hệt như gió vòng quanh núi.

Viêm Hoá Lôi tập trung toàn bộ số hoả liệu còn lại trên người, bắn vọt ra theo phương pháp nổ dữ phun mạnh, đã ngăn cản được vài cao thủ Chu gia chạy ở trên đầu. Lửa phụt ra thành dòng dữ dội, hoa lửa tung toé tựa sao sa. Nhưng trong lửa không có độc liệu, làm sao đủ sức ngăn cản đám cao thủ phi phàm. Những tên đi đầu tuy bị bén lửa, song không hề giảm tốc độ, vẫn lao phăng phăng về phía cục diện "Song xá đấu Nga Hoàng" như những dòng suối lửa.

Cục tướng Song xá đấu Nga Hoàng đã tan rã. Không ai chịu thiệt, cũng không ai được lợi. Cả ba mỹ nữ đã chủ động tản ra, bởi lẽ dù là Báo Cơ nương nương hay Dưỡng Quỷ Tỳ, Hạ Táo Hoa, chẳng ai muốn chạm phải đám người bốc cháy rừng rực như đuốc sống đang chạy điên cuồng.

Đuổi sát sau lưng đám người này là dòng thác lửa cuồn cuộn đổ ra từ trong khuôn viên của chùa Kim Đỉnh. Trước tình thế đó, cả bọn lập tức tháo chạy tán loạn. Một số người men theo chân núi chạy túa ra hai bên, một số khác bám theo ba cô gái bỏ chạy lên núi. Còn một số ít người giỏi khinh công lập tức bám vào vách bích hoạ thoăn thoắt trèo lên. Toàn bộ cục diện trong nháy mắt đã biến thành "Quạ vàng đuổi thỏ ngọc", hay "Lửa trời đuổi yêu ma", là một đại cục, có tác dụng là dùng dương bức âm. Trong "Thế nghiệt bình thu lục" có nhắc tới khảm cục này.

Chính nhờ sự xuất hiện của cục diện "Quạ vàng đuổi thỏ ngọc", một đại cục thế đã bắt đầu hé lộ.

Trong trận Tam giác xoay, đám Quỷ Nhãn Tam chống đỡ vô cùng vất vả, song đám cao thủ Chu gia cũng vất vả không kém. Vì vất vả, khiến động tác và bộ pháp dần dần chệch choạc, nên Tam giác xoay cũng dần dần biến dạng, từng bước chuyển sang cách cục thứ sáu của Kỳ môn Độn giáp là "Lục minh xoay chiếu". Ba người phía Lỗ gia là Tam minh, ba đội trưởng tại ba hàng của Chu gia cũng là Tam minh. Do trong trận thế toàn là nam giới, mà xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam, đao Bào Đinh của Dương Tiểu Đao và rọi ngựa dài của Biện Mạc Cập cũng đều là vật chí dương, bởi vậy "Lục minh xoay chiếu" lúc này chính là một cục tướng chí dương chí cương.

Đặc biệt là sau khi chùa Kim Đỉnh bốc cháy, vô số cụm lửa đáp xuống lả tả như mây, song do cục thế này vẫn vùn vụt xoay tròn, đã cuốn thành một làn gió xoáy, khiến những đám lửa cứ lơ lửng dạt ra mà không rơi xuống. Vô số đốm lửa, tàn lửa, vạt lửa đã dạt cả ra ngoài, kết thành một vòng lửa khổng lồ bên ngoài cục Lục dương, bốc cháy ngút trời, khiến thế lực của cục "Lục dương xoay chiếu" được phát huy tới cực điểm. Bởi đó, đại cục vừa mới manh nha đã có thêm điều kiện thứ hai.

Song đại cục này vẫn cần thêm một điều kiện thứ ba. Liệu sự trùng hợp may mắn đó có xảy ra không?

Chú thích

[27] Có nghĩa là kỳ lân lửa xông ra khỏi hang.

[28] Có nghĩa là ngọn lửa ma chảy quanh co.

[29] Có nghĩa là sao ba dương bay.

[30] Có nghĩa là Ngũ hành thu nuốt.

[31] Có nghĩa là chim phượng múa trên chín tầng trời.

Chương 29: Mở mạch hung

Sách Khố Lạt cầm bó đuốc đã gần tàn quẹt lên khắp cơ thể. Dân Tạng chủ yếu ăn thịt dê, thịt bò, lại có thói quen ăn bốc, sau khi ăn xong thường lau bàn tay dính đầy mỡ lên quần áo. Lâu dần, quần áo thấm mỡ tầng tầng, lửa chạm là bén, hơn nữa còn bốc cháy rất dữ. Sách Khố Lạt trong nháy mắt đã biến thành một bó đuốc khổng lồ mang hình người, lao thẳng vào đám tam thú ngao.

Bó đuốc trong tay Mạc Thiên Quy cũng sắp lụi đến nơi, mấy con tam thú ngao tại lối ra của Hoả trận đã nhấp nhỏm muốn xông ra. Nhìn thấy Sách Khố Lạt tự thiêu mình, Mạc Thiên Quy chẳng kịp nghĩ gì thêm, cũng tự châm lửa đốt mình. Tuy quần áo của lão không dính mỡ, không thể cháy đùng đùng như Sách Khố Lạt, song cũng đã ép được đám tam thú ngao muốn xông ra phải quay trở lại.

Đây là cơ hội được thắp lên từ ngọn đuốc trên hai cơ thể sống, Dịch Huyệt Mạch hiểu rằng ông không được phép để vuột mất. Ông giấu kín một chiếc kim bạc trong lòng bàn tay, cơ thể thình lình xoay chuyển, bay vọt lên như một ngôi sao băng xẹt ngang trời, lao thẳng về phía Lưu Chi Thủ.

Lưu Chi Thủ đột nhiên phát hiện ra mình đã không còn đường tháo chạy. Lửa đã bốc ngùn ngụt trong chùa Kim Đỉnh, thế như sóng dữ ngút trời, con đường rút lui trong dự tính đã chìm trong khói lửa. Dịch Huyệt Mạch lại đang vùn vụt lao tới với đôi mắt rừng rực như lửa cháy, chắc chắn sẽ chỉ mang lại cho hắn con đường chết mà thôi.

Lưu Chi Thủ cố gắng phát tín hiệu điều khiển đám tam thú ngao còn lại, song đám muông thú cũng đang hoảng loạn giống hệt như hắn. Từ phía sau, lửa cuồn cuộn đổ lại như thác lũ, dù là người hay thú, cũng đều không thể trấn tĩnh tấn công địch thủ trong tình cảnh nguy ngập đến nhường này.

Dịch Huyệt Mạch xông thẳng qua bầy thú, không gặp phải bất cứ sự cản trở nào. Khi ông lao tới trước mặt Lưu Chi Thủ, cũng không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Lưu Chi Thủ đao chưởng cùng xuất, vô cùng hung tợn, song chỉ được một chiêu. Dịch Huyệt Mạch đã dừng lại bên ngoài phạm vi tấn công của Lưu Chi Thủ, ngay trước khi Lưu Chi Thủ thu chưởng về chuẩn bị đánh ra chiêu thứ hai, ông ta đã khéo léo đâm cây kim bạc vào ngón áp út của hắn.

Tuy chỉ là một nhát kim đâm vào ngón áp út, song đã khiến huyết mạch khắp cơ thể Lưu Chi Thủ chớp mắt đã đông cứng tựa băng, hơi thở tắc nghẽn không thể lưu chuyển. Dịch Huyệt Mạch tung chân đạp thẳng vào giữa bụng Lưu Chi Thủ, cú đạp tuy không mạnh, song cũng đủ để đẩy hắn văng vào biển lửa ngùn ngụt đang cuộn tới sau lưng. Sóng lửa càng bùng lên dữ dội, Lưu Chi Thủ cũng lăn lộn rất hăng, song rất nhanh đã không còn phản ứng.

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Lưu Chi Thủ đã toàn thân bốc cháy, nằm im không động đậy, bèn quay người trở lại. Lúc này con đường phía trước đã ngập chìm trong lửa, ngôi sao bay trong Tam dương phi tinh đã không còn đường nào để bay, chỉ có thể quay trở lại ứng phó với Tam thú ngao, cứu trợ bằng hữu.

Chính vào lúc Dịch Huyệt Mạch đang quay người lại, Lưu Chi Thủ đang nằm sõng sượt trong biển lửa thình lình tung mình nhảy vọt lên, lao thẳng về phía Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch cảm thấy gió thốc sau lưng, một luồng nóng bỏng ập thẳng tới, bèn vội vã nghiêng người né tránh. Nhưng đã muộn rồi, hai tay Lưu Chi Thủ đã túm chặt lấy vai Dịch Huyệt Mạch, chớp mắt đã hình thành thế ba ngón tay móc đối khoá chặt lấy xương bả vai của ông. Dịch Huyệt Mạch liếc thấy ngón áp út của Lưu Chi Thủ đã cháy đen, đứt lìa. Đúng là một tay cáo già thủ đoạn tàn độc, sau khi rơi vào lửa, Lưu Chi Thủ đã thọc ngón tay áp út bị kim đâm vào trong lửa để đốt đứt kinh mạch, giải được châm pháp "nhổ ngược huyệt" mà thoát thân nhảy ra.

Tuy Dịch Huyệt Mạch đã bị khoá cứng bả vai, song lập tức dừng bước xoay cổ, lật ngược người lại, khiến hai cánh tay Lưu Chi Thủ thành ra vặn chéo vào nhau, đồng thời giơ hai tay bấm sâu vào huyệt đau phía dưới mạng sườn của Lưu Chi Thủ, hy vọng cơn đau đớn kịch liệt sẽ khiến hắn thả lỏng ngón tay. Nhưng lúc này, Lưu Chi Thủ đã toàn thân bén lửa, hoàn toàn không còn cảm giác đau đớn, hai tay vẫn nhất quyết khoá chặt không buông. Ngọn lửa từ người Lưu Chi Thủ nhanh chóng lan sang Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch lập tức xoay tròn bước chân, hai cánh tay vận kình hết sức vung mạnh sang một bên, muốn hất văng Lưu Chi Thủ ra. Song Lưu Chi Thủ dường như vẫn rất tỉnh táo, Dịch Huyệt Mạch vừa hành động, hai chân hắn cũng lập tức xoay tròn tiết lực. Thế là hai người cùng xoay tít mù về phía Hoả trận trong hõm núi, giống như đang cùng múa lửa.

Lưu Chi Thủ vừa xoay tròn theo Dịch Huyệt Mạch, vừa gầm rống liên hồi. Hắn đang điên cuồng thúc giục bầy thú.

Tuyệt đại đa số tam thú ngao đã bị vây khốn trong Hoả trận, song nghe thấy tiếng gầm thét của Lưu Chi Thủ, đã bất chấp tính mạng xông bừa ra qua cửa Hoả trận.

Sách Khố Lạt dang rộng chân tay lao thẳng vào cửa Hoả trận. Ngay từ lúc tự châm lửa đốt mình, gã đã quyết tâm liều chết, lúc này còn tiếc gì nửa cái mạng đang bốc cháy rừng rực.

Mạc Thiên Quy chưa kịp quyết định nên làm thế nào, Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ đã xô tới, đâm sầm vào Hoả trận, khiến Hoả trận vỡ ra một mảng. Một đám tam thú ngao phản ứng mau lẹ, nhấp nhỉnh muốn xông ra qua lỗ hổng. Mạc Thiên Quy không kịp nghĩ ngợi, lập tức lao vào lỗ hổng, bó đuốc sống hình người lại một lần nữa ép đám thú lùi lại.

Nhưng kỳ thực, cuộc tranh giành chí chết giữa bọn họ lúc này đã trở nên vô nghĩa. Đối mặt với cơn bão lửa đang điên cuồng cuộn tới, đáng lẽ họ nên tìm cách trốn chạy mới đúng. Song đằng này, mấy con người và đám muông thú vẫn kiên gan quần thảo, tránh né lẫn nhau, lừa miếng lẫn nhau.

Hoả trận Ba luỹ hai thành đã tan rã hoàn toàn. Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ vẫn tiếp tục xoay lòng vòng, lửa đã bén khắp người Dịch Huyệt Mạch. Hai người họ bám cứng lấy nhau, không ai giằng được ra khỏi ai, như một con quay lửa đâm tới đâm lui giữa các vách đá.

Lửa cũng đã bén lên đám tam thú ngao, chúng càng bổ nháo bổ nhào tháo chạy. Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt tuy đều bị thương trầm trọng, song vẫn dốc hết sức tàn mà chạy, giống như đang truy bức, giống như đang trốn tránh, lại càng giống như đang giãy giụa trong lò thiêu.

Hai con người bị thiêu cháy, bầy thú bị thiêu cháy, lao vùn vụt tựa lửa trời, như sao Hoả đổi ngôi, xoay tròn quanh một "con quay lửa". Mạc Thiên Quy dốc sức bố trí một khảm bốn trận, cuối cùng toàn bộ đã biến thành cục thế "Tinh minh hội nhật lưu"[32]. Đây cũng là một cách cục chí dương, điều kiện thứ ba của đại cục đã được hình thành.

Ở lưng chừng núi, mây mù đã tản ra gần hết. Ánh mặt trời chói chang của vùng đất Tạng rọi thẳng vào ba người Lỗ Nhất Khí, Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục, cái bóng của họ đổ xuống sẫm đen trên vách đá.

- Ta biết rồi! – Trong giọng nói của Chu Chân Mệnh bừng lên một niềm hưng phấn khó lòng kiềm chế, trạng thái rất hiếm khi xuất hiện ở hắn.

- Muộn rồi! - Lỗ Nhất Khí trong lòng căng thẳng, ánh mắt cậu đang gấp rút tìm kiếm sự xuất hiện của một hiện tượng mà cậu hằng chờ đợi.

Đao Thập Lục có phần ngơ ngác, gã không hiểu hai người đang nói gì.

- Cũng hơi muộn một chút! Nếu sớm hơn vài canh giờ, ta đã tự mở cửa mời ngươi vào. Bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành, bởi vậy ngươi mới dám liều lĩnh xông vào con đường chết! – Chu Chân Mệnh tỏ ra khâm phục thực sự.

- Có dám làm hay không, quan trọng nhất là tầm kiến thức. Nhưng ông thiếu thứ này! - Lỗ Nhất Khí cố ý khiêu khích Chu Chân Mệnh. Cậu muốn Chu Chân Mệnh giận dữ mà hành động, như vậy Đao Thập Lục cũng sẽ hành động theo. Nếu hai người bọn họ giằng co, cậu sẽ có thêm thời gian và cơ hội.

Chu Chân Mệnh đương nhiên nhận ra ý đồ của Lỗ Nhất Khí. Hắn hiểu rõ với tình thế hiện tại và mục đích của bản thân, hắn không được phép nôn nóng xốc nổi. Hắn quyết định không nói gì thêm nữa, im lặng chờ đợi thời cơ.

Dưới núi lửa cháy đỏ rực một vùng, toàn bộ chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều đã chìm trong biển lửa. Gần xa văng vẳng tiếng khóc mẹ hờ cha, tiếng động vật gầm rú. Trên núi nước bắt đầu chảy xuống thành dòng, băng tuyết quanh năm đã tan chảy nhanh chóng. Ban đầu, khi nước băng mới chỉ nhỏ giọt, Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh đều không để ý tới. Song lúc này, từng dòng nước lạnh đã đổ xuống ào ào. Đỉnh núi tuyết phủ băng phong lúc này đã chảy tràn những nước.

Lỗ Nhất Khí đang căng thẳng tìm kiếm mục tiêu. Kỳ thực ngay từ lúc lên sườn núi Bán Bộ tại Nam Lĩnh, cậu đã nhận ra bảo tướng nơi đây không phải là tướng trang nghiêm[33], mà là tướng tuỳ tính. Điều này khiến cậu vô cùng kinh ngạc, và cũng giúp cậu hiểu ra nơi đây tại sao lại âm dương đảo ngược. Bởi vậy, cậu mới quyết định một mình xông pha, đặt cược ván thứ ba.

Suy đoán của Chu Chân Mệnh vẫn chưa đúng hoàn toàn. Hắn đinh ninh rằng Lỗ Nhất Khí mang theo bảo bối xông vào chùa, nên mới dám nổ tung tường chùa phía tây, xông vào theo đường chết. Trong khi nguyên nhân thực sự khiến Lỗ Nhất Khí quyết định xông vào từ đây, vì cậu nhìn thấy bảo bối "tuỳ tính tướng" trên bãi Thần Hô trong tường bao phía tây. Cũng chính vì phán đoán này, cậu mới dám to gan nổ tường xông vào. Chương "Bảo tính" trong"Cơ xảo tập" có viết rằng: "Khí linh thiêng của bảo bối, trong phạm vi bao trùm của nó, trăm ác không sinh, trăm sát không khởi", cũng tương tự như câu nói "bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành", của Chu Chân Mệnh. Có nghĩa là tại nơi cất giấu Thiên bảo, trải qua một thời gian dài, trong phạm vi bảo khí bao phủ, các cạm bẫy ám khí tàn sát sẽ mất đi khả năng giết chóc.

Nhưng bảo bối "tuỳ tính tướng" đồng thời cũng phải chịu sự khống chế cân bằng của hung huyệt chí cực, nên khí thế và bảo tướng của nó vô cùng đặc biệt, ngay cả năng lực bẩm sinh phi phàm của Lỗ Nhất Khí cũng không thể nhận biết chính xác. Bởi vậy, việc cậu liều lĩnh xông vào quả thực là đánh cược.

Sau khi Lỗ Nhất Khí vào được trong chùa, trước tiên đã xác nhận rằng nút lẫy dưới đám đá vụn vẫn chưa vận hành, để khẳng định rằng phán đoán ban đầu là chính xác. Sau đó, cậu đã nhận ra rất nhiều đá lở trên bãi Thần Hô đều là vật liệu dùng trong xây dựng ám cấu, bởi lẽ bề mặt của chúng đều có lỗ thủng để cố định các vật liệu dùng trong kiến trúc. Song không phải tất cả các viên đá có lỗ thủng đều là vật liệu, ví dụ như hai hòn đá mà cậu đã đựng trong túi lưới. Một trong hai hòn đá chính là Thiên bảo dùng để trấn áp hung huyệt phía tây.

Thiên bảo, tên là Tự Tại Thiên. Theo truyền thuyết, hòn đá này không rõ nguồn gốc, từ trong đám mây ráng rực rỡ bảy màu rơi xuống nóc điện Lăng Tiêu, được Vương Mẫu cất giữ làm món đồ chơi. Trong "Đạo tự tông ý" có chép: "Thiên thạch rơi xuống từ áng mây rực rỡ, hình dạng như khối đá tầm thường, trên đá có lỗ. Nhòm vào trong lỗ, thấy cảnh thần tiên lạ kỳ tươi đẹp, thấy cảnh giới hư vô sau khi chết, biết được kiếp sau về đâu, tâm cảnh tự nhiên thanh thản...".

Về Thiên bảo, còn có một giả thuyết khác, trong "Phật thuyết tiền thế chiêm"[34] bản tiếng Phạn của Niết Hách, ở lời phê bên cạnh có thể tìm thấy một đoạn văn tự đại thể có nghĩa là: Tam giáo ở Tây phương mở đàn luận kinh, lấy chủ đề là một hòn đá. Từ nguồn gốc, quá trình tồn tại và chất liệu bên trong của hòn đá để phân tích thành tinh nghĩa của người đời. Hòn đá nhận được sự hun đúc của kinh văn Tam giáo, đột nhiên giác ngộ, thủng ra một lỗ, tiết đi hết sức nặng mà bay vụt lên cao, biến mất giữa trời mây. Nên Phật mới có câu, đến hòn đá còn khai khiếu, giác ngộ ra một trời Đại Tự Tại ở trong tâm, thì chúng sinh làm gì còn ai ngu độn? Từ đấy, hòn đá trong truyền thuyết được gọi tên là Tự Tại Thiên.

Trước khi Phật sống Kim Đỉnh lâm chung, Lỗ Nhất Khí đã đặt bảo bối trước mặt ông. Nhìn qua lỗ thủng trên hòn đá, Phật sống đã nhìn thấy cảnh giới đại tự tại, nhìn thấy đích đến của cả một cuộc đời hướng Phật, trong lòng tự tại, nên đã ra đi thanh thản.

Sau khi Lỗ Nhất Khí lấy được Thiên bảo, cậu mới bắt đầu đặt cược ván thứ ba, ván cược này càng mạo hiểm gấp bội. Trong chương "Bảo tính" của "Cơ xảo tập" có viết: "Mang bảo bối mà đi, vận thuận lợi, đi đến nơi", bởi vậy, trong lần đặt cược này, cậu chỉ đánh cược vận may, hy vọng mang theo Thiên bảo bên mình, vận may sẽ được gia tăng. Nhưng nhìn vào tình thế hiện tại, tuy vận thế của cậu vẫn khá tốt đẹp, song không biết có thể duy trì tới thời khắc cuối cùng hay không.

Chu Chân Mệnh tuy im lặng, song suy nghĩ không hề tĩnh lặng. Hắn đang âm thầm xâu chuỗi từng sự việc, và một sự thực khiến hắn phải hối hận suốt đời đã dần dần hiển hiện trong trí não.

Vùng đất quanh chùa Kim Đỉnh, cây cỏ xác xơ, súc vật thưa thớt, thế nhưng phía nam lại có mỏ vàng, phía bắc có mỏ ngọc. Điều kiện nơi đây vốn dĩ không phù hợp với cuộc sống của người dân Tạng, song lại trở thành một thị trấn phồn vinh. Ngôi chùa xây trong một hẻm núi hoang vu, song hương hoả cực vượng. Chu gia chiếm lĩnh chùa Kim Đỉnh, số tiền của cống nạp hàng năm thậm chí đã chiếm phần lớn tổng thu nhập cả năm của Chu gia. Tam thú ngao vốn không thể phối giống ở nơi khác, song lại có thể tạp giao thành công ở trong chùa... Còn vô số sự việc tương tự như vậy nữa, tất cả đều là minh chứng cho một sự thực: bảo cấu cất giấu Thiên bảo có lẽ ở ngay trong phạm vi chùa Kim Đỉnh.

- Ngươi không phải là mang bảo bối vào chùa, mà là vào chùa quật bảo! – Chu Chân Mệnh đã suy nghĩ thông suốt. Cùng với đó, một mối uất hận, ảo não tự đáy lòng hắn xông thẳng lên ngực, khuấy động máu tanh nhộn nhạo, vị ngọt lợ xộc lên tận họng. Lại một lần nữa, hắn đã phải hoài công gối đầu lên bảo bối mà mơ bảo bối suốt bao năm ròng rã.

Lỗ Nhất Khí không thèm đếm xỉa tới Chu Chân Mệnh, lúc này cậu đã chìm trong trạng thái tự nhiên hư huyễn, thần hồn phiêu du. Bởi lẽ trong lúc Chu Chân Mệnh còn mải mê chắp nối, cậu đã phát hiện ra một luồng hung tướng dạng đường thẳng thấp thoáng ẩn hiện trên vách núi bên cạnh. Cậu lập tức tụ khí ngưng thần, thả lỏng thân tâm, để xác định xem liệu hung tướng này có phải chính là hung huyệt dạng mạch hay không.

Chu Chân Mệnh gắng gượng nuốt khối ngọt lợ kia xuống họng, mau chóng vận khí ba vòng. Hắn hiểu rõ, Lỗ Nhất Khí rất đáng gờm, Đao Thập Lục lại đột nhiên tham lam trở mặt, nên hắn nhất định phải duy trì phong độ thật ổn định, mới có thể giành giật lấy một chút cơ hội thành công từ trong cục diện vô cùng bất lợi trước mắt.

Hơi thở đã bình ổn, khối máu huyết nhộn nhạo đã lắng xuống, lực, khí, ý đã hoà nhập vào trong vòng tuần hoàn ổn định. Chu Chân Mệnh bắt đầu dò xét tỉ mỉ Lỗ Nhất Khí. Hắn muốn tìm ra một điểm khiến cậu trở nên khác hẳn với trước đó, tìm ra một thứ cậu đáng lẽ không có song bây giờ lại xuất hiện trên người, đặc biệt là những thứ vốn thuộc về chùa Kim Đỉnh.

Đao Thập Lục lật lọng làm phản vào đúng thời khắc then chốt, cho thấy gã là một kẻ vô cùng xảo trá, quỷ quyệt đa đoan. Một kẻ giang hồ cáo già như vậy hoàn toàn có khả năng nhận ra một số điều từ lời nói và vẻ mặt của Chu Chân Mệnh. Bởi vậy gã khẳng định, gã đã uy hiếp nhầm đối tượng, mục tiêu cướp bóc cũng có thể đã sai lầm.

Đao Thập Lục cũng di chuyển ánh mắt sắc lạnh như lưỡi đao về phía Lỗ Nhất Khí. Khác với Chu Chân Mệnh, gã là một sát thủ tuyệt đỉnh, nên gã chú ý trước tiên tới ý đồ và động tác của người khác. Gã muốn thông qua những ý đồ, động tác vô thức của Lỗ Nhất Khí để tìm ra một thứ thiếu hài hoà trên cơ thể cậu. Rất có thể đó chính là thứ mà người khác và hắn đều muốn có.

- Đá!

- Đá!

Cả Chu Chân Mệnh và Đao đầu đều buột miệng hét lớn, chỉ có điều tiếng hét của Đao đầu có vẻ khủng khiếp, kinh dị hơn nhiều, khiến người nghe lông tóc dựng đứng...

Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng "Quạ vàng đuổi thỏ ngọc", phía tây là khảm tướng "Lục dương xoay chiếu", phía đông là khảm tướng "Sao sáng xoay quanh mặt trời". Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là "Bảo dương điên toả âm hung"[35]. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên "Đế kinh mạch hành trạch", từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, chính là lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

Lục dương cương của đại cục chí dương đã bức ép âm trạch trỗi dậy, hung huyệt chấn động, hung khí muốn vọt ra ngoài. Núi Thiên Thê bắt đầu biến đổi, tốc độ mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một thêm dữ dội.

Tuyết phủ trên núi đã tan chảy gần hết, các lớp băng dày bắt đầu trượt lở. Gió vòng quanh núi đột nhiên chuyển hướng, thổi tan lớp lớp mây mù vốn quanh năm bao phủ lưng chừng núi. Ánh mặt trời sáng loá chiếu thẳng vào vòm băng lõm, khiến chùm sáng khúc xạ thay đổi vị trí. Tầng băng phủ kín ngọn núi Thiên Thê nhanh chóng bị chùm sáng phản xạ hội tụ với sức nóng dữ dội rạch làm đôi, phân thành hai khối băng lớn ở phía nam và phía tây. Lại thêm lớp băng hình vòm trên đỉnh núi do bị tan chảy đã trở nên chênh vênh lỏng lẻo, trông đáng sợ vô cùng, như thể sẵn sàng sập xuống.

Song đáng sợ nhất không chỉ có thế, mà là hung khí của hung huyệt dạng mạch bị đại cục chí dương bức ép, đã sắp sửa phun trào, hung lực phụt ra tán loạn khiến cho bên trong lòng núi âm thầm rạn nứt.

Chu Chân Mệnh chợt choàng tỉnh, hét lên một tiếng "đá", là vì hắn nhìn thấy hai viên đá tròn treo lủng lẳng bên cổ Lỗ Nhất Khí. Đó là đá trên bãi Thần Hô, cũng chính là đá của chùa Kim Đỉnh. Một người đang đi thực hành đại sự, tay cụt bất tiện, song từ đầu tới cuối vẫn giữ khư khư hai hòn đá vốn chẳng giúp ích gì mấy cho hành động của hắn, vậy hòn đá đó có ý nghĩa gì? Để hiểu ra thực không phải dễ dàng, song vẫn hơi muộn. Lúc này, trên vách núi vốn đã sạt lở bỗng toác ra một khe nứt, âm mạch đã lộ. Khí âm hung phụt thẳng ra ngoài, khiến mọi người tâm thần hốt hoảng, cổ họng nghẹn tắc, đầu váng mắt hoa.

Lỗ Nhất Khí đã phát giác ra đoạn hung huyệt này từ trước, tuy vẫn đang ở trong trạng thái nhập hư, song bàn tay đã cầm lấy Tự Tại Thiên đang đeo trước ngực, sẵn sàng ném thẳng vào hung huyệt. Song vị trí xuất hiện vết nứt lại ở trên vách núi sạt lở, còn cách Lỗ Nhất Khí một khoảng cách khá lớn. Khoảng cách này đối với một người không biết khinh công, lại cụt mất bàn tay phải như Lỗ Nhất Khí, tuyệt đối không thể băng qua.

Chu Chân Mệnh đã ra tay, bất chấp tất cả mà ra tay, bất chấp Đao Thập Lục đang dốc toàn lực đánh tới, bất chấp vách núi rung lắc nứt toác, bất chấp băng trượt tuyết lở. Lúc này, trong tâm trí hắn chỉ còn lại hai hòn đá, bởi trong hòn đá chứa đựng sứ mệnh và ý nghĩa của cả cuộc đời hắn.

Đao đầu sau một thoáng ngập ngừng cũng đã ra tay, song gã không triển khai thế đao thứ mười sáu dùng máu xương đoạt mệnh, mà nhảy vọt lên trên, góc độ tấn công vô cùng quái dị.

Một tia nước lạnh băng vọt xuống trúng người Lỗ Nhất Khí khiến cậu bừng tỉnh. Đúng lúc này, Chu Chân Mệnh đã chụp được một chiếc túi lưới.

Vào khoảnh khắc Chu Chân Mệnh chụp được hòn đá, hắn đã không còn bất chấp tất cả như vừa mới đó. Bởi vì từ giây phút này trở đi, việc hắn phải làm chính là giữ chắc hòn đá, mà tiền đề của việc này chính là phải giữ được tính mạng của mình.

Đao Thập Lục còn chưa kịp hạ xuống đã phải hứng chịu một chưởng khủng khiếp của Chu Chân Mệnh, giáng thẳng vào bắp chân của gã. Cùng với tiếng xương chân nứt gãy, còn có cả tiếng vật sắc nhọn xé gió lao đi. Đó là tiếng mảnh xương vỡ đâm thủng da thịt phóng vụt ra ngoài.

Cùng lúc này, từ phía trên chỗ Đao Thập Lục đang lơ lửng bỗng vọng xuống một âm thanh khủng khiếp đến rợn gáy, là tiếng lưỡi đao sắc nhọn rạch qua vật cứng. Một tảng băng lớn vỡ toác làm đôi trên tỉnh đầu Đao Thập Lục, văng sang hai bên trái phải rồi lao rầm rầm xuống núi. Tiếng "đá" mà Đao Thập Lục vừa rú lên kinh hãi không phải là chỉ hòn đá bảo bối, mà là chỉ tảng đá băng đang rơi thẳng xuống đầu. Cú nhảy vọt lên của gã cũng không nhằm tranh cướp bảo bối hay tấn công ai, mà là tung người lên chém đứt đôi tảng băng rơi, tránh cho ba người khỏi cảnh tan xương nát thịt.

Chu Chân Mệnh ra đòn với Đao đầu là có dụng ý, hắn muốn mượn thế tấn công này để bật về phía sau, cố gắng kéo giãn khoảng cách với Lỗ Nhất Khí, tránh bị phản công. Đồng thời, chưởng này sẽ đẩy bật Đao Thập Lục văng vào Lỗ Nhất Khí, hắn sẽ nhân lúc Lỗ Nhất Khí mải ứng phó với Đao Thập Lục để cướp lấy hòn đá.

Song diễn biến của sự việc lại khác hẳn với dự tính của hắn. Hắn còn chưa kịp dốc hết sức lực để giằng giật chiếc túi lưới từ phía Lỗ Nhất Khí, thì Lỗ Nhất Khí đã đột ngột buông tay. Trước sức kéo giật kịch liệt, chiếc túi lưới còn lại đã bật thẳng lên cao. Đao đầu sau khi trúng chưởng lại không rơi thẳng xuống đỉnh đầu Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ lực đạo của phát chưởng đó đã bị lực đạo rơi xuống của tảng băng lớn hoá giải hoàn toàn, nên Đao đầu vụt một cái đã rơi thẳng xuống đất. Vừa chạm đất, gã đã bật một chân nhảy vọt lên, lao thẳng về phía chiếc túi lưới vừa bị văng lên.

Hai hòn đá, không biết hòn nào mới là bảo bối, Chu Chân Mệnh tuyệt đối không cho phép Đao Thập Lục giành được bất cứ hòn nào. Hắn lập tức vận lực vào cánh tay, quật vòng sợi dây thừng nối liền hai túi lưới xuống phía dưới, xoay thành vòng tròn. Hòn đá đang ở phía dưới thân hình Đao Thập Lục lập tức đổi hướng, vạch thành một đường vòng cong lao ngược về phía vách đá.

Một cơ hội nghìn năm có một, một cơ hội chỉ Lỗ Nhất Khí mới có thể lợi dụng.

Lỗ Nhất Khí đã ra tay. Không cần tụ khí ngưng thần, cậu đã có thể thực hiện việc nhập vào trạng thái tự nhiên một cách hoàn toàn bản năng, vô thức.

Súng đã nổ. Chỉ một tiếng. Tốc độ và thời gian đạn bắn, cùng với thời điểm bắn đứt sợi dây thừng đều cực kỳ chuẩn xác. Chuẩn xác đến cực điểm chính là sau khi súng nổ thừng đứt, Tự Tại Thiên vừa bay lên theo túi lưới đã văng về phía vách đá với một góc độ tuyệt vời, lách gọn gàng vào khe hở trên phần hung huyệt vừa nứt toác...

Tất cả mọi thứ dường như chết lặng, như đóng băng trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều đột nhiên câm bặt. Chỉ có Lỗ Nhất Khí cảm nhận thấy sự biến hoá của luồng khí đang lưu chuyển, đang cuộn trào. Những luồng khí đang bao trùm xung quanh ngọn núi nhanh chóng được hút về phía khe nứt, cô đặc thành một khối, rồi chui tọt vào trong.

Ngay lập tức, một dải cầu vồng bừng hiện trên dãy núi Thiên Thê. Khi vừa xuất hiện, dải cầu vòng có dạng quanh co uốn lượn hệt như hung mạch vừa lộ ra trên vách núi, sau đó mau chóng vươn dài về phía nam, uốn thành một vòng cung tròn trịa, hệt như một cánh cung kéo căng hết cỡ.

Mọi diễn biến tưởng như khá lâu dài, song kỳ thực, đến lúc này, Đao Thập Lục mới kịp hạ xuống.

Bàn chân gã Đao đầu vừa tiếp đất, núi Thiên Thê đột nhiên rùng rùng chấn động, sau đó toàn bộ trái núi âm thầm phân rã rồi sụp xuống trong lặng lẽ, tựa như một đụn cát khổng lồ đang tan rã. Chỉ có điều những thứ rời rã ra không phải là cát, mà là vô số băng, tuyết và đá tảng.

- Băng lở rồi! Chạy mau!

Xa xăm dưới chân núi vẳng lại tiếng gào thét tới lạc giọng, song vừa kịp cất lên, đã mau chóng chìm nghỉm trong hàng tràng những tiếng lăn trượt động trời.

Chu Chân Mệnh hành động nhanh nhất. Hắn tung người nhảy vọt lên, lao thẳng về phía những khối băng tuyết và đá tảng đang sầm sập trượt xuống. Đối với những cao thủ công lực siêu phàm, cách này có lẽ sẽ khả quan hơn so với bỏ chạy xuống phía dưới. Chỉ cần di chuyển thân hình mau lẹ, né tránh những cú đâm trời giáng của băng tuyết và đá tảng, sẽ hạn chế được thấp nhất khả năng bị chôn vùi dưới băng đá.

Tuy Đao Thập Lục đã bị thương một bên chân, song cả bốn chân tay hợp lực, vừa lăn vừa bò, tốc độ không hề chậm chạp. Gã lao chênh chếch xuống phía dưới, đây là một lựa chọn đầy kinh nghiệm. Nếu phương hướng chính xác, tốc độ đủ nhanh, vẫn có thể thoát ra khỏi phạm vi bao phủ của trận băng lở.

Chỉ còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng im tại chỗ. Không phải cậu không muốn bỏ chạy, mà vì choáng ngợp và sửng sốt quá mức nên không còn biết phải bước đi như thế nào. Chính vào lúc đó, chợt có hai bóng dáng thướt tha lướt băng băng tới bên cậu, là Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa. Hai người mỗi người một bên, xốc ngay Lỗ Nhất Khí lên, rồi lập tức vòng ngược trở lại.

Lỗ Nhất Khí quả quyết kêu lên:

- Nhảy xuống đây!

Rồi kéo theo hai cô gái, tung người nhảy vụt xuống vách đá sạt lở mà xưa kia vốn là nơi xây dựng bảo cấu...

Băng tuyết và đá lở trút xuống rào rào như mưa mùa hạ, núi Thiên Thê mau chóng thấp xuống, nhỏ lại, cuối cùng chỉ còn là một sườn dốc thấp lè tè chếch về phía nam. Còn chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều biến mất không còn tăm tích, đoạn thung lũng kẹp giữa hai trái núi hầu như đã bị đá tảng lấp bằng.

Tất cả đã trở về tĩnh mịch. Một bầu tĩnh mịch chết chóc kéo dài. Không còn ai sống sót. Cũng không nhìn thấy một con vật sống. Chỉ còn một con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch lông lá xác xơ đang chập choạng lê lết giữa đám đá băng lởm chởm.

Rất lâu, rất lâu sau đó, mặt trời đã rụng xuống trời tây, vạn vật lại chìm vào đêm tối. Lúc này, trong một bầu chết lặng trải dài, mới vang lên vài âm thanh khe khẽ, tựa như xác chết đội đất chui lên, lại tựa như hồn ma lang thang trong đêm tối.

Vào ngày hôm sau, một số dân cư may mắn thoát chết mới dám trở về, đào bới tìm kiếm người thân, chòm xóm. Sau khi cơn hoả hoạn bốc lên, do gió đột ngột đổi hướng, nên đại đa số dân cư đã bị ngọn lửa bủa vây trong trấn, chỉ một số ít thoát được ra ngoài. Núi sập đá lở, sức mạnh huỷ diệt khủng khiếp khó bì, bởi vậy dù đã dốc hết sức bình sinh đào bới, cũng chỉ có thể lôi lên được vài cỗ xác người giập nát. Còn những mẩu tay chân, những mảng thi thể, những bãi máu vương vãi đâu đâu cũng gặp. Tiếng khóc hờ thảm thiết ai oán cứ nối nhau suốt mấy ngày trời không dứt.

Trong đám người đào xới tìm kiếm, ngoài dân Tạng trong vùng, còn có một số người Trung Nguyên phục sức kỳ lạ, chỉ tìm kiếm qua loa nửa ngày, rồi tuần tự bỏ đi.

Nửa tháng sau, băng tuyết lở xuống cùng đá vụn đã tan chảy hết, nước băng tuyết đổ về tích tụ tại vị trí lõm xuống trong đám đá vụn, hình thành một con hồ. Bên hồ còn xuất hiện một vài nguồn suối, trong đó có cả suối nước nóng phun trào, hơi nước toả mù mịt, bay lãng đãng trên mặt hồ xanh biêng biếc, trông chẳng khác gì tiên cảnh.

Trong "Tạng địa lý chính chí" có chép: "Vào ngày dương tiết giữa theo lịch Tạng, hẻm núi hoang vu phía tây xảy ra hiện tượng băng trôi đá lở, vùi lấp một thị trấn lớn. Dân cư, súc vật tử thương nhiều không kể xiết. Khe núi bị đá lấp thành hồ, có suối nước nóng phun ra".

Trong "Bách niên Tạng Phật thông ký" có đoạn: "Chùa Kim Đỉnh chưa nhập vào Phật tông, Phật sống chùa Kim Đỉnh chưa được chép chính thức trong tăng phả. Tuy truyền thụ Phật lý cực tinh thâm, song không luận giảng cho người. Núi sập, cả chùa và sư đều bị huỷ diệt".

Trong dân gian vùng đất Tạng truyền rằng, chùa Kim Đỉnh dưới núi Thiên Thê mượn danh nghĩa Phật vơ vét của cải, bị trời Phật trừng phạt, cho núi sập mà san phẳng.

Chú thích

[32] Có nghĩa là sao sáng xoay quanh mặt trời.

[33] Tướng trang nghiêm ý nói nơi tàng bảo cần có đài đỡ, có mái che, có nơi cúng tế để hấp thu tinh hoa nhật nguyệt.

[34] Có nghĩa là Phật giảng giải về việc nhìn thấy kiếp trước.

[35] Có nghĩa là khí dương của bảo bối đảo lộn, khoá kín khí âm hung.

Chương 30: Phần Kết: Trước Thiên Câu

Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.

o O o

Lúc phó quan Ngô tới vùng giao giới Xuyên Tạng, thời gian đã quá nửa đêm. Vài chục cây đuốc bằng gỗ thông tẩm mỡ bò Tây Tạng cháy lép bép, chiếu sáng rực một phạm vi vài chục bước chân. Nhưng trước mắt càng sáng sủa, càng khiến cho bóng đêm ở phía xa thêm thẳm sâu đặc quánh, không biết liệu có ác quỷ hung ma nào đang rình rập.

Có điều bận rộn sẽ khiến người ta quên đi sự sợ hãi, đám người do phó quan Ngô dẫn theo, ngoài một vài người vẫn cảnh giác trông chừng bốn phía, những người còn lại đều tất bật luôn tay.

Tuy phó quan Ngô không đích thân tham gia, song luôn miệng hò hét, sai khiến, đốc thúc không ngơi nghỉ lấy một giây. Xem ra, ông ta còn sốt ruột và căng thẳng hơn cả những người đang tay chân bận bịu.

Phó quan Ngô nghe theo lời dặn của Lỗ Nhất Khí, dẫn người tới đất Xuyên trước. Nào ngờ trên đừng gặp một người đồng hương làm quan chấp hành ở phủ đại soái Tứ Xuyên, bị người đồng hương này bán đứng cho đại soái Tứ Xuyên. Thì ra bản thân phó quan Ngô cũng không hay biết, sau khi ông bí mật chuồn khỏi thành Bắc Bình, các lộ quân đều đồn đại rằng ông đã dẫn người đi tìm bảo bối. Đồn thổi lắm, thêu dệt nhiều, cuối cùng ông ta đã bị thổi phồng thành một thần nhân có thể nhìn ra kho tàng sâu trong lòng đất. Bởi vậy, vừa tới phủ đại soái Tứ Xuyên, ông đã được tiếp đón vô cùng long trọng, song bên cạnh đó, cũng bị thủ hạ của đại soái kiểm soát gắt gao. Bởi lẽ đại soái rất muốn có một nhân tài như vậy để giúp ông ta đào trộm mộ cổ, vơ vét tiền của để bổ sung kinh phí cho quân đội.

Phó quan Ngô không còn cách nào khác, đành phải nhận lời đi đào mộ cổ, sau đó đưa người và vật dụng tới vùng giáp ranh đất Tạng. Ý đồ của ông rất rõ ràng, hy vọng có thể gặp Lỗ Nhất Khí ở đây, tới lúc đó muốn đào tìm kho báu hay chạy thoát thân, hẳn cũng không có gì khó.

Nhưng đã nhiều ngày trôi qua, không những không gặp được Lỗ Nhất Khí, mà với cả đống người và trang thiết bị mang theo, ông ta cũng chẳng đào được thứ khỉ mốc gì, khiến đại soái đùng đùng nổi giận, cảm thấy phó quan Ngô đang giỡn mặt mình. Ông ta đã đưa ra lời đe doạ, nếu vẫn không đào được mộ lớn, sẽ chôn sống luôn phó quan Ngô xuống đáy mộ. Bởi vậy phó quan Ngô đã đặt hết tâm huyết vào ngôi mộ nằm dựa vào chân núi trước mặt, hy vọng nó có thể giúp ông thoát khỏi mối nguy kề cổ.

- Trưởng quan Ngô, thuốc nổ đã bố trí xong xuôi, nhìn vào vết tích đường vào huyệt mộ, lát nữa thôi sẽ có thể nổ tung tới vị trí tường kim cương. - Người báo cáo tình hình với phó quan Ngô là một tay trộm mộ tài giỏi mà phủ đại soái chiêu mộ được.

- Thuốc nổ có quá nhiều không đấy, đến lúc đó lại sập tận nóc thì nguy! – Phó quan Ngô lo sợ những món quý giá trong mộ sẽ bị thuốc nổ phá huỷ.

- Không đâu! Nhìn vào chu vi, thì huyệt này chí ít cũng có đến ba tầng mộ thất. Cho dù có nổ sập cả tường kim cương, cũng chỉ tới gian mộ thất ngoài cùng được thôi.

- Vậy thì mau châm lửa đi, trời sắp sáng rồi. Vật quý trong mộ gặp ánh sáng mạnh là hỏng bét!

Tuy đã nghe phó quan Ngô giục giã, song tay trộm mộ vẫn đứng đờ ra không nhúc nhích, chỉ thấy mắt mũi trợn trừng, vành tai giật liên hồi kỳ trận.

- Nghe thấy gì à? – Phó quan Ngô lo lắng hỏi.

Tay trộm mộ không trả lời, sắc mặt xám ngoét đầy sợ hãi. Dưới ánh đuốc chập chờn, trông vẻ mặt hắn ma quái dị thường. Tiếp đến, cơ thịt trên mặt hắn bắt đầu giật lên rùng rùng theo một tiết tấu quái dị, sau đó là cả người rung giật.

Phó quan Ngô cũng rung lắc thân hình với một tiết tấu quái đản y hệt, thân hình đã không thể nào kiểm soát nổi nữa. Bởi vì toàn bộ mặt đất đang rung lên bần bật, biên độ rung lắc mỗi lúc một kịch liệt hơn.

- Là phía dưới! Nắp sắp nứt toác rồi! – Tay trộm mộ chỉ vào ngôi mộ lớn, hét toáng lên, tiếng hét đứt quãng trong cơn rung lắc điên cuồng. Vừa dứt lời, tay trộm mộ lập tức ngã sấp luôn xuống. Trong đám người xung quanh, kẻ nào nhanh nhẹn thì bắt chước ngay tay trộm mộ, nằm sấp xuống cả lượt; kẻ nào chậm chạp vẫn đứng trơ ra tại chỗ, mặt trợn trừng miệng há hốc vì khiếp đảm.
Biên độ rung lắc đã vô cùng dữ dội. Ngay sau đó, từ dưới lòng đất vọng lên một tràng những tiếng gầm rú khủng khiếp vang rền, tựa như một con yêu quái khổng lồ đang lồng lộn trong tầng sâu huyệt mộ chuẩn bị xông ra.

Gần rồi, đã rất gần rồi. Phó quan Ngô phán đoán, nếu luồng sức mạnh quái đản dưới lòng đất kia phá đất chui lên, thì vị trí nó xông ra có lẽ chính là ngay trước mặt ông. Bởi vậy phó quan Ngô không nằm ệp xuống, mà muốn bỏ chạy. Song đất dưới chân chao đảo liên hồi, cố gắng thế nào cũng không thể cất bước.

Chuỗi âm thanh kỳ lạ đột nhiên ngưng bặt, mặt đất chao đảo chốc đã lặng phắc. Những thân hình đang gắng gượng hết sức để đứng vững trong cơn rung lắc nhất thời không phản ứng kịp, theo nhau ngã dúi dụi. Phó quan Ngô không ngã, hai chân ông ta vừa lỏng ra đã quỳ sụp trên đất, đối diện với tấm bia đá nứt toác.

Tay trộm mộ đang bò lồm cồm trên đất. Hắn xưa này ăn cơm giang hồ, nên phản ứng nhanh nhẹn hơn hẳn đám quân binh. Âm thanh và cơn rung lắc vừa chấm dứt, hắn đã lập tức nhảy phắt dậy. Nhìn thấy phó quan Ngô đang quỳ trước bia mộ, lập tức lao vụt tới, chụp lấy hai tay phó quan Ngô kéo giật về phía sau, miệng bật ra vài chữ run rẩy:

- Ma cứng gối! Ma cứng gối!

"Ma cứng gối" là một truyền thuyết lưu truyền trong giới trộm mộ, nói rằng nếu đào nhầm mộ hung huyệt ác, ma quỷ trong mộ sẽ tác oai tác quái, khiến hai đầu gối kẻ trộm mộ cứng đờ mà quỳ sụp phía trước mộ hoặc bên trong mộ. Nếu không được giải cứu kịp thời, cuối cùng máu đông người cứng mà chết, khi chết không có thương tích, chỉ có khuôn mặt là tím bầm biến dạng. Nếu giải thích một cách khoa học, là do trong kiến trúc bảo vệ mộ có chứa chất độc, hoặc xác chết đã được ngâm trong chất độc đề phòng thối rữa, sau một thời gian dài, độc tố sẽ bốc hơi thành thể khí. Khí độc sẽ hoà lẫn với các chất khí khác trong hầm mộ, tạo thành một hỗn hợp khí khá nặng, chìm lắng dưới nền của mộ thất. Nếu chui vào trong hầm mộ kiểu này mà không thông gió kịp thời, khí độc sẽ xâm nhập vào chân trước tiên, khiến tế bào và hệ thống thần kinh ở chân tê liệt, hoại tử. Hai chân cứng đờ không đứng vững, cơ thể tự nhiên sẽ quỳ sụp xuống. Lúc này, nếu khí độc dâng lên mũi miệng, sẽ lập tức tắc thở mà chết.

Tay trộm mộ mới lôi phó quan Ngô đi được ba, bốn bước, phó quan Ngô đã đứng bật dậy bước đi theo hắn. Tay trộm mộ sững lại, lập bập hỏi:

- Không phải là ma cứng gối ư?

- Không phải! Trời ơi! Chuyện gì thế này?

Chính vào lúc này, đất đá dưới chân họ bỗng âm thầm nhúc nhích, rồi một khoảng đất to cỡ cỗ xe hai ngựa từ từ trồi lên trên.

- Chạy mau, quanh mộ có nút lẫy! – Tay trộm mộ cuống cuồng kéo phó quan Ngô chạy tới một tảng đá nhô ra ở bên cạnh, còn chưa tới nơi đã tung mình nhảy vụt đi, lăn lông lốc đến phía sau tảng đá.

"Rầm... Rầm... Rầm!"

Ba tiếng nổ xé trời dội lên liên tiếp nghe muốn rụng tim vỡ mật. Đá vụn bắn tung toé, bụi đất bốc mịt mù. Một khối đá vuông vức to tướng bật nhào khỏi mặt đất, rồi nện xuống "uỳnh" một tiếng như trời giáng.

Xung quanh đã yên tĩnh trở lại, bụi đất tung mù cũng dần tản bớt. Đám người trộm mộ vẫn nằm bò toài trên đất, hoặc cuộn mình chui rúc trong các khe rãnh xó xỉnh, đến thở mạnh cũng không dám. Đuốc rơi vãi tứ tung trên đất, ánh lửa phập phù chập choạng như sắp tắt đến nơi.

Một hồi lâu sau, tay trộm mộ và phó quan Ngô cuối cùng cũng đã lấy hết dũng khí bước ra từ phía sau mỏm đá, nem nép tiến về phía khối đá to lớn vừa bật ngược lên.

Khối đá bật lên để lộ ra một con đường dốc. Nhìn vào mặt đường và vách tường hai bên, đoán rằng có lẽ đây là đường thông ra ngoài của ngôi mộ lớn.

Tay trộm mộ nhặt một hòn cuội tròn nhẵn ném xuống con đường, hòn cuội lập tức lăn đi lông lốc tới tít xa mới dừng lại.

- Không phải rồi, khoảng cách này đã vượt qua mộ thất đầu tiên. Ngôi mộ này tại sao lại không có cửa kim cương nhỉ? – Tay trộm mộ lại lôi ra một vật hình cầu, châm vào một ngọn đuốc gần tàn đang lăn lóc trên mặt đất. Vật này được giới trộm mộ chuyên dùng để dò đường, xua đuổi âm uế, gọi là cầu gai ngâm dầu. Quả cầu kết bằng gai trông không lớn, song lại cháy thành một khối lửa không nhỏ chút nào. Quả cầu lửa lăn dọc theo đường hầm, khi nó lăn được một nửa, tay trộm mộ vội vã bước vào theo.

Phó quan Ngô vội hô gọi những người khác cầm đuốc đi vào trong hầm mộ. Vài chục ngọn đuốc đã chiếu sáng rực đoạn đường hầm. Sau khi bước vào mới thấy, mộ thất cũng có cửa kim cương, song đã được mở ra. Tiếp tục vào trong là gian mộ thất bên ngoài và mộ thất bên cạnh, song nơi nào cũng trống huơ trống hoác, chẳng thấy bóng dáng một món tuỳ táng nào. Chỉ thấy cả đống lưỡi đao, mũi tên hoen gỉ gãy nát la liệt đầy đất.

Con đường hầm thông tới gian mộ thất chính rất khó đi, phải cúi gập lưng hoặc áp sát vách tường mới tiến lên được. Bởi vì trên nóc hầm treo lủng lẳng hơn chục súc gỗ tròn to tướng, dây xích buộc gỗ đã hoen gỉ tới thảm hại. Khi các súc gỗ đung đưa, chúng phát ra những tiếng cọt kẹt vô cùng rùng rợn.

Trong mộ thất chính, ngoài một cỗ quan quách cỡ bự, không có bất kỳ thứ gì khác.

- Thế này là sao? Chẳng có cóc khô gì cả! – Phó quan Ngô vô cùng thất vọng - Bật quan tài ra xem thử, không chừng đồ quý giá đều giấu cả trong đó!

- Không phải là không có, mà đã bị người khác vét sách rồi. – Tay trộm mộ nói – Quái lạ thật, bọn người đó chui vào đây bằng cách nào nhỉ? Lại còn lật ngược nút khảm trong mộ, cứ như cố ý dẫn chúng ta vào đây.

Phó quan Ngô nghe hắn nói vậy, có vẻ không hiểu lắm. Tay trộm mộ bèn giải thích một lượt cho ông ta nghe:

- Toàn bộ cơ quan của ngôi mộ lớn này được bố trí theo hình thức lực chồng nhau. Có nghĩa là khi khảm nút thứ nhất bị phá, lực đạo từ chốt lẫy của nó sẽ tăng cường vào khảm nút tiếp theo, như vậy, lực tác động của khảm nút tiếp theo sẽ càng mạnh mẽ hơn. Cứ tiếp tục tương tác như vậy, càng về sau, thế tấn công của khảm nút càng ghê gớm. Những tiếng động quái dị vọng lên từ trong lòng đất khi nãy là do có người đã phá bỏ toàn bộ các chốt lẫy trong mộ. Khảm diện "tường loạn hợp" trong mộ thất chính, bên ngoài có "gỗ lăn kẹp", còn có "mưa tên bay", "đao tròn mây cuốn". Chúng ta dù có liều mạng xông vào, cũng chưa chắc đã tới được đây. Kẻ giải khảm trong mộ hẳn là cao thủ cực kỳ lợi hại, hơn nữa vừa mới đi khỏi chưa lâu. Vấn đề là hắn ra vào từ chỗ nào?

Phó quan Ngô như bừng tỉnh, vội vã đảo mắt quan sát khắp một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt vẫn dừng lại ở cỗ quan tài duy nhất trong một thất.

- Người đâu, mau di chuyển quan tài!

Cỗ quan tài được dịch sang một bên, phía dưới hiện ra một đường hầm dài chật hẹp.

- Trời! Nhập huyệt từ bên dưới! Đây là thủ pháp dời non phá núi. – Tay trộm mộ đã nhận ra.

Nghe được lời này, phó quan Ngô đột nhiên như hiểu ra điều gì, vội nói:

- Bật nắp quan tài ra!

Nắp quan tài được lật sang một bên. Phía trong, ngoài mớ xương cốt khô queo như đất, còn có một phong thư, một phong thư còn thơm mùi mực.

Phó quan Ngô vội chụp lấy phong thư, trong lòng vô cùng rầu rĩ thất vọng. Ông biết mình đã bỏ lỡ mất một thứ quan trọng hơn gấp bội so với những món tuỳ táng trong hầm mộ.

- Người chưa đi xa, hiện tại đuổi theo vẫn kịp! – Có người nhắc nhở.

Song phó quan Ngô còn chưa kịp đưa ra quyết định, bên ngoài bỗng rộn lên tiếng kêu réo ầm ĩ. Âm thanh truyền vào từ cửa mộ, văng vẳng trong gian mộ thất âm u.

Phó quan Ngô vội vã xông ra khỏi đường hầm mộ, chỉ nhìn thấy trên không trung một vầng sáng rực rỡ như vô số đốm sao trời đang dần dần chuyển từ hình tròn sang hình chiếc rìu. Hình dạng này phó quan Ngô đã nhận ra, giống y hệt hình Lộng phủ của Lỗ gia. Vầng sáng hình Lộng phủ chỉ duy trì trên không trung chốc lát, rồi dần dần biến thành hình con chim bồ câu đang dang cánh bay, với phần đuôi như ngọn lửa cháy bùng. Chim bồ câu lấp lánh trên không trung một lúc rồi dần dần tắt lịm.

Phó quan Ngô đứng ngẩn người nhìn lên bầu trời đã tối tăm trở lại, đột nhiên như bừng tỉnh. Thứ quý giá kia ông vẫn chưa vuột mất. Ông bèn đưa phong thư đang cầm trong tay ra xem, bên ngoài phong thư chỉ vỏn vẹn một hàng chứ khải: "Khẩn cấp gửi tới Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã".

Lá thư của Lỗ gia. "Khẩn cấp", đây cũng chính là nội dùng mà đợt pháo hoa vừa nhắn nhủ. Phó quan Ngô hiểu rằng, chuyện này mình cần phải thực hiện một cách cấp tốc nhất, trọn vẹn nhất có thể.

- Người đâu, mau chuyển lá thư này theo đường thư tín quân sự, nhất thiết phải đảm bảo tới nơi nguyên vẹn và nhanh chóng! - Ở vùng Xuyên Tạng hoang vu hẻo lánh, có lẽ không còn cách đưa thư nào an toàn và nhanh chóng hơn đường thư tín quân sự.

- Tính mạng của bản thân gia tộc đều trông cả vào nó! – Phó quan Ngô bồi thêm một câu đầy uy hiếp. Những người nghe thấy đều cảm tưởng rằng tình mạng của bọn họ đều trông chờ cả vào bức thư này, nhưng chỉ có phó quan Ngô mới biết, câu nói đó chỉ dành riêng cho ông.

Từ trên đỉnh đồi, Cửu thiên hoả ưng Viêm Hoá Lôi nhanh chóng trượt xuống chân dốc. Dưới chân dốc đã có một cỗ xe ngựa lớn đang chờ sẵn. Trên xe lố nhố năm sáu người, ai nấy sùm sụp áo choàng đen kín mít, đến khuôn mặt cũng che kín quá nửa. Có điều nhìn vào thân hình, có thể đoán ra trong bọn có cả nam và nữ.

- Cậu cả! Thư pháo hiệu đã nổ hết rồi! – Viêm Hoá Lôi nói với một người trong bọn họ.

- Tốt rồi, thư chuyển theo đường quân sự, ba ngày sau có thể tới tay Bán Sơn Lam. Chúng ta ở đây thêm ba ngày nữa, sau đó dẫn theo phó quan Ngô cùng đi! - Giọng nói của người này vô cùng điềm tĩnh, hơi thở hài hoà, song lại mang một uy thế không thể kháng cự.

Viêm Hoá Lôi nhẹ nhàng nhảy lên xe ngựa. Chiếc roi dài trong tay một người ngồi phía trước vút lên âm thầm giữa không trung. Bóng roi vừa lướt qua trước mặt ngựa kéo xe, vó ngựa lập tức lóc cóc khởi hành. Rất nhanh, cỗ xe đã biến mất trong khe núi dưới chân dốc.

Vào tảng sáng ba ngày sau, Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã đã nhận được thư. Sau khi bóc thư, bên trong còn có một phong thư nữa. Trên phong thư đề: "Gửi pháp sư Vô Do chùa Thiên Long". Ngoài những chữ này, còn có một đường loằng ngoằng trông rất quái lạ. Đường cong này tượng trưng cho thứ gì, chỉ có một số người biết được, trong đó có Bán Sơn Lam. Đó là hình vẽ một chiếc roi ngựa dài độc nhất vô nhị.

Bán Sơn Lam lập tức gọi tới một tay đàn em được việc nhất, dặn dò:

- Chuyển bức thư này tới pháp sư Vô Do chùa Thiên Long tại Đại Lý theo đường la ngựa.

Khi đó, từ đất Xuyên tới Vân Nam, cách nhanh nhất chính là đi theo đường la ngựa. Đường la ngựa đều do các băng nhóm dân gian kiểm soát, cũng giống như băng nhóm Ao Ca kiểm soát đường thuỷ tại đất Xuyên. Hơn nữa, do các băng nhóm trên đường la ngựa đều cần đến ngựa khoẻ và người đánh xe giỏi, bởi vậy rất nể mặt Bán Sơn Lam và Biện Mạc Cập. Bên cạnh đó, đường la ngựa cũng là con đường an toàn nhất.

Song người nhận thư cuối cùng lại không phải là đại sư Vô Do. Vậy bước tiếp theo sẽ phải chuyển thư bằng cách nào? Liệu đại sư Vô Do có thể đưa thư thuận lợi hay không?

Tuy tiết trời đã cuối thu, song ở vùng Hải Nam vẫn chưa cảm nhận được cái giá lạnh. Sa Khẩu đứng trên một tảng đá nhô trên mặt nước, dưới chân là mặt biển biêng biếc xanh trong, nhìn thấu cả rặng san hô và đàn cá bơi lội nhởn nhơ dưới đáy. Nhưng khác với thường ngày là ở chỗ, dưới nước lúc này ngoài san hô và cá lội tung tăng, còn có thêm những người đang bơi lặn như cá.

Sa Khẩu tuy đứng bên bờ, song lại không quan sát tình hình dưới nước. Bởi lẽ chỉ cần nhìn vào những con sóng dập dềnh và hướng lan toả của sóng nước, hắn đã có thể phán đoán về tình hình chiến sự dưới kia. Trận kịch chiến dưới nước sẽ kết thúc rất chóng vánh, tuy là một chọi ba, song giành chiến thắng lại là phe một người.

Cách chỗ Sa Khẩu đứng không xa, có một tảng đá to lớn hơn nữa. Hình dạng của tảng đá rất đặc biệt, giống như một nóc nhà nhô trên mặt nước. Xa xa ở mé phía nam tảng đá đó có một hòn đảo không lớn lắm. Dọc bãi cạn ven đảo có một vạt nhà bè, là chốn quần cư của gia tộc Đản sống trên thuyền chuyên nghề chài lưới. Lúc này đang có vài con thuyền gỗ nhỏ xuất phát từ phía nhà bè chèo về phía này.

Chính vào lúc đó, mặt nước dưới chân Sa Khẩu bỗng gợn lên vài gợn sóng nhọn hoắt rối loạn, ngay sau đó lại xuất hiện vài vòng xoáy nhỏ. Sa Khẩu biết trận chiến đã sắp kết thúc, chiêu thức của đao đâm cá đã hoàn toàn rối loạn, đao phá vỏ đã bắt đầu đòn tàn sát cuối cùng.

Quả đúng như vậy, chỉ chốc lát sau, một khối đỏ ngầu sủi bọt đã loang rộng và nổi lên mặt nước, một vùng nước trong xanh tinh khiết bỗng chốc trở nên vẩn đục. Trong khi những dòng đỏ ối vẫn đang tiếp tục cuộn trào, thì một thân hình mảnh mai xinh đẹp bỗng đột ngột lao vọt lên khỏi mặt nước, hệt như cá heo nhảy sóng. Sau khi vụt lên khỏi mặt nước, thân hình đó còn uyển chuyển xoay lắc vài nhịp trên không trung, lại có thể di chuyển ngang thêm một đoạn nữa, rồi nhẹ nhàng đáp xuống bên cạnh Sa Khẩu. Người vừa lao lên là một cô gái trẻ, mình mặc bộ đồ lặn bó sát người, không những thân hình thon thả yêu kiều, mà khuôn mặt cũng vô cùng xinh đẹp. Khiếm khuyết duy nhất ở cô là nước da ngăm đen. Song bất kể xét từ phương diện nào, cô đều không giống một người vừa hạ gục ba cao thủ trong cuộc hỗn chiến dưới nước.

- Giải quyết xong cả rồi? – Sa Khẩu hỏi.

- Xong rồi! – Cô gái không những dung mạo xinh đẹp, mà giọng nói cũng rất ngọt ngào dễ nghe.

- Nhìn vào chiêu thức, có nhận ra là lộ nào không? – Sa Khẩu lại hỏi.

- Không giống mấy lần trước, lần này dường như là vùng nước phía bắc.

Sa Khẩu không nói gì, chỉ ngoái đầu nhìn tảng đá ngầm giống hệt nóc nhà, vẻ mặt rất đăm chiêu.

- Lần này đã là lần thứ năm rồi. Hai lộ đầu tiên là từ Tiềm Võng đường ở vùng này. Hai lộ tiếp theo là bọn Phúc Kiến ở vùng biển phía đông và đám cao thủ bơi lội vùng sông ngòi Giang Chiết. Lần này, nhìn từ chiêu thức và phương pháp lấy hơi, có vẻ giống như một bang phái nào đó ở vịnh Bột Hải. – Cô gái trả lời.

Sa Khẩu vẫn nhìn chằm chằm vào tảng đá hình nóc nhà, không nói câu gì.

- Xem ra đối thủ đã nhắm tới khu vực này. Anh ơi, người mà anh nói bao giờ mới tới? Nếu không nhanh chóng xử lý đại sự nơi đây, đối thủ lại điều thêm cao thủ hoặc tập trung đông đảo lực lượng kéo tới, thì hai chúng ta sao có thể chống đỡ nổi? - Vẻ mặt cô gái vô cùng lo lắng.

- Đã tới rồi! Chúng ta gấp rút chuẩn bị thôi! – Không rõ Sa Khẩu nói "đã tới rồi" là ám chỉ người kia hay là đối thủ.

Sa Khẩu hướng về phía mấy con thuyền gỗ nhỏ phía xa, hét thật lớn vài câu bằng thứ phương ngữ không ai hiểu nổi. Dứt lời, phần lớn những con thuyền đó đều quay đầu trở lại, chỉ còn một con thuyền vẫn tiếp tục tiến về phía tảng đá ngầm.

- Anh ơi, anh bảo họ lập tức buông lưới móc câu và bẫy nước cuộn quấn mái chèo, nhưng những thứ đó chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đủ số lượng cần thiết, nhiều nhất cũng chỉ có thể vây một nửa đài Mộc Triều thôi!

- Không kịp nữa rồi, vây được bao nhiêu biết bấy nhiêu. Bối Nữ, em xem mặt trời lại ngả về tây rồi, thuỷ triều vừa rút, toàn bộ đài Mộc Triều sẽ lộ diện! – Tuy nói như vậy, song vẻ mặt Sa Khẩu lại không tỏ vẻ gì sốt ruột.

Con thuyền nhỏ mau chóng chèo đến sát tảng đá, Sa Khẩu và Bối Nữ bước lên thuyền, di chuyển về phía tảng đá to lớn có hình mái nhà. Xa xa phía vạt nhà bè, rất nhiều thuyền nhỏ chở đầy đồ đạc cũng chèo về phía tảng đá. Một bầu không khí bận rộn và căng thẳng mau chóng lan toả xung quanh tảng đá ngầm to lớn.

Mặt trời lặn xuống rất nhanh, song thuỷ triều rút xuống còn nhanh hơn nữa. Khi chân trời phía tây chỉ còn lại một vệt đỏ lờ mờ, phần lớn tảng đá ngầm đã nhô lên khỏi mặt nước. Lúc này, trông tảng đá ngầm càng giống một toà lầu, một toà lầu phi vân kiểu dáng Đông Chu với phần mái chồng diêm hai tầng tám góc, nổi lên trên mặt nước mênh mông phẳng lặng, trông nổi bật và kỳ dị vô cùng.

Tảng đá ngầm nhỏ hơn mà Sa Khẩu đứng ban nãy cũng đã nhô cao trên mặt nước, tựa như một thanh kiếm sắc nhọn cắm vào sóng biển. Mặt nước vẩn máu đỏ ngầu bên tảng đá đã lại trong veo như cũ. Người dưới nước vẫn còn, có điều đã trở thành ba xác chết với bụng ngực phanh phui. Bầy cá tung tăng bơi lội hồi chiều giờ bắt đầu nhởn nhơ rỉa xác. Bỗng nhiên, không hiểu có chuyện gì, bầy cá chợt hốt hoảng dạt ra tứ phía.

Chỉ cần bước lên phía trước thêm vài bước, sẽ là vách đá dựng đứng. Độ cao mà mắt nhìn thấy được và độ sâu suy đoán được khiến Lỗ Thiên Liễu không đủ dũng khí để tiến về phía bờ mép thêm nửa bước chân.

Thiên Câu rất dài, tựa như có một lưỡi đao khổng lồ sắc ngọt đã chém toạc một đường thẳng tắp trên cao nguyên Vân Quý. Dọc theo Thiên Câu nhìn về phía xa, thấy phía dưới Thiên Câu cỏ cây rậm rạp, xanh tốt um tùm. Tuy rất e sợ độ cao của Thiên Câu, song ngút ngàn sắc biếc dưới khe lại mang tới cho Lỗ Thiên Liễu một cảm giác thân thiết như trở về nhà cũ.

Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, từ sâu thẳm bên dưới Thiên Câu phơ phất bay lên những làn chướng khí nhàn nhạt đủ màu, tích tụ mỗi lúc một dày, khiến một dải Thiên Câu mờ ảo trong những sắc màu rực rỡ. Trong "Tây nam du dị tập" của Thi Thệ Kiệt đời Minh có đoạn viết: "Dưới rãnh vật thối rữa tích tụ, nắng chiếu vào thành sương mù. Sau giờ Ngọ sương mù trong rãnh mới bốc lên, tới nửa đêm thì tan, tuy màu sắc rực rỡ tựa cầu vồng, song cực độc không thể chạm vào... gọi là sương độc". Nếu giải thích một cách đơn giản, sương độc chính là một dạng sương mù chứa độc tố. Tuy màu sắc vô cùng diễm lệ, song cũng giống như loài nấm, màu càng sặc sỡ lại càng độc.

Vết tích hình ngọn tháp lờ mờ in trên vách phía tây của Thiên Câu lúc này đã bị sương độc che khuất một nửa phía dưới, không còn nhìn thấy hình cửa vào. Vào buổi sáng, khi sương mù chưa toả, chỉ cần căn cứ vào sự phân bố sáng tối của ánh sáng, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra hình cánh cửa tuy trông có vẻ giản đơn, song toàn bộ bề mặt có độ lồi lõm nhịp nhàng, đó là một cách bố trí vô cùng tinh xảo.

Ngoài Lỗ Thiên Liễu, một người nữa cũng đã nhận ra nét tinh xảo trong đó. Người này là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã kết mối thâm giao khi Lỗ Thịnh Nghĩa tới tây nam tìm kiếm tung tích, chính là cao thủ làm khoá mở khoá Khoái Hoạt Tử. "Khoái" là họ thật, còn Hoạt Tử là biệt hiệu, có nghĩa là khe hở, nguyên do là vì ông ta méo miệng bẩm sinh, nên miệng lúc nào cũng vênh hở không ngậm chặt lại được.

Năm xưa Khoái Hoạt Tử đánh cược với một cao nhân tiền bối, kết quả là bị đối phương nhốt vào trong cửa Linh Lung khoá lạ thiên cổ chín vòng. Ở đây cửa cũng là khoá, khoá cũng là cửa, vận dụng chín vòng số thiên luân tuần hoàn tương khắc, lại thêm một nghìn cặp điểm chết Linh Lung, chỉ cần chạm nhầm một điểm chết, trật tự sắp xếp của toàn bộ số khoá sẽ lập tức đảo lộn hoàn toàn, tức là xoay chuyển sang một vòng thiên luân mới. Cũng có nghĩa là toàn bộ các phương pháp và trình tự mở khoá đều phải tính toán, sắp xếp lại từ đầu, sau đó lại phải lần lượt tiến hành giải chính xác từng điểm chết.

Khoái Hoạt Tử bị giam hãm trong cửa Linh Lung suốt mấy ngày trời vẫn không thể mở khoá thoát ra, cuối cùng nhờ có Lỗ Thịnh Nghĩa bên cạnh trợ giúp, gợi ý cho ông ta xuất phát từ cấu tạo của hình cửa, tháo dỡ bản lề cửa mà thoát thân. Đương nhiên, tháo dỡ bản lề không phải là cách mở khoá đường đường chính chính, nên xét về nguyên tắc thì Khoái Hoạt Tử đã thua. Có điều vị cao nhân tiền bối đã đánh cược thấy ông ta có thể thoát thân qua một lối tắt bất ngờ, một mặt vì yêu quý nhân tài, mặt khác cũng cảm thấy bản thân mới chỉ chú trọng tới kỹ xảo của khoá, mà chưa chú ý tới những chi tiết khác, bởi vậy đã chủ động thừa nhận mình thua Khoái Hoạt Tử. Nhờ đó, Khoái Hoạt Tử mới bảo toàn được danh dự giang hồ. Để biểu thị lòng cảm kích trước Lỗ Thịnh Nghĩa, Khoái Hoạt Tử đã hứa hẹn rằng, nếu đại sự của Lỗ gia tiến hành đến vùng tây nam, ông ta sẵn sàng ra tay tương trợ.

Nhìn vào hình dáng cánh cửa trên vách đá và sự phân bố lồi lõm sáng tối trên bề mặt, có vẻ rất giống với cửa Linh Lung chín vòng mà năm xưa Khoái Hoạt Tử đã phải bó tay không thể hoá giải. Nhưng nơi này tuyệt đối không giống như cửa Linh Lung chín vòng, bởi lẽ ở đây lấy vách đá làm khoá, nên không thể thiết lập chín vòng biến đổi. Do đó, nếu không may chạm lầm chỗ, sẽ khiến điểm chết, điểm khớp của toàn bộ khoá vỡ vụn, trở thành một ổ khoá chết mãi mãi không bao giờ mở được, nên không có cơ hội thử lại lần thứ hai.

Vách đá của Thiên Câu dựng đứng, lại cao vút, sâu hoắm, đến Lỗ Thiên Liễu cũng không dám tới gần. Thế mà lúc này lại có hai gã trung niên đang đứng sát mép đá, hơn thế nữa, còn nhoài cả nửa người dòm ngó xuống phía dưới mà quan sát. Hai người này là anh em ruột, người anh tên là Phong Sơn Tả, người dân nơi đây quen gọi là Toạ Sơn Phong; còn người em là Phong Sơn Hữu, thường gọi là Quá Sơn Phong. Hai anh em cùng là đệ tử gửi mệnh của chùa Thiên Long, đều mang những bản lĩnh độc đáo được rèn luyện nên từ chốn rừng sâu núi thẳm.

Phong Sơn Tả am hiểu về các loại thảo dược kỳ lạ có thể hoá giải trăm thứ độc. Đặc biệt hơn nữa là hắn có thể phân tích thành phần cấu tạo của sương mù chướng khí trong núi, từ đó tìm ra loài thảo dược thích hợp để ứng phó. Còn Phong Sơn Hữu có bản lĩnh đặc biệt là đánh giá hình núi, leo lên vách núi hiểm trở. Dù núi non có cheo leo chót vót đến đâu, cũng không có vị trí nào hắn không thể leo tới.

Quan Ngũ Lang và một lão già gầy gò nhỏ thó cùng ngồi dưới một gốc cây cách mép đá khá xa. Quan Ngũ Lang tay siết chặt cán đao, vẻ căng thẳng hiện rõ trên nét mặt. Cũng khó trách anh ta, trong những ngày qua, anh ta đã phải chịu đựng những cú tổn thương chưa từng có. Lần nào cũng thua liểng xiểng chỉ sau hai ba chiêu, đến một chút cơ hội cầu may cũng không có. Mà điều khiến anh ta không thể chịu đựng nổi chính là đối thủ chỉ đánh bại anh ta, mà không hề gây tổn thương đến cơ thể. Thật chẳng khác gì chơi trò mèo vờn chuột, đã huỷ hoạt dần niềm tin trong Quan Ngũ Lang.

Lão già nhỏ thó ngồi thảnh thơi hút thuốc, ngọn lửa liên tục nhảy nhót trong tẩu. Làn khói thuốc phả ra chẳng khác gì sương mù, cô đọng mà không tản mát. Khói thuốc phả ra mỗi lúc một nhiều, chồng chất lên nhau, tạo nên những hình thù kỳ quái, lạ lùng, tựa như một bức tranh sơn thuỷ lập thể, cũng lại tựa như khung cảnh thần tiên thu nhỏ, khói mây vấn vương, sương mù lãng đãng. Kỹ thuật nhả khói độc đáo này gọi là yên hoạ (tranh khói), ở vùng Vân Quý Xuyên trước kia thường có người chuyên biểu diễn loại hình nghệ thuật này ở quán rượu, quán trà. Nhưng chắc chắn những người biểu diễn chuyên nghiệp kia không sánh được với lão già này, tranh khói của họ không thể ngưng tụ lâu như của lão, bởi vì lão dùng khí để ngưng tụ khói. Lúc này, lão già đã phun ra không dưới mười bức tranh khói giống hệt nhau, hình dạng của chúng chính là dãy núi trập trùng ngút mắt xung quanh bọn họ.

Lão già gầy gò là bạn chí cốt suốt mấy chục năm của đại sư Vô Do, là bậc thầy khí công danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ Thôi Vân Phi. Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang vừa tới vùng Tây Nam, đã bị mấy kẻ áo đen mũ lá sùm sụp bám riết, sau vài lần giao đấu thử, thấy chúng mình cứng như đá, đánh vào trơ trơ không có cảm giác gì, chỉ hai ba chiêu đã dồn ép Quan Ngũ Lang không còn đường đối phó. Bởi vậy, để ứng phó với đám cao thủ này, đại sư Vô Do đã mời Thôi Vân Phi tới giúp đỡ.

Thôi Vân Phi không những là đại sư khí công, mà còn là truyền nhân duy nhất của Kỳ Số các. Kỳ Số các cũng là một môn phái khảm tử tài nghệ cao cường trong giang hồ, đặc điểm nổi bật nhất của phái khảm tử này là lợi dụng địa hình địa mạo để bố trí các loại nút chết. Những kỹ pháp này đa số dùng để sát phạt ở những vùng đất hoang vu và trong quân sự. Nhưng lúc này, Thôi Vân Phi lại thổi ra tranh khói hình núi non, vì lão đã phát hiện ra những vị trí có thể lợi dụng để bố trí khảm nút trên dãy núi đều đã bị người khác chiếm lĩnh trước. Hơn nữa, đối thủ phần lớn dùng kỹ pháp của Kỳ Số các, trong khi kỹ nghệ này vẫn do lão ta nắm giữ, nên lão cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

Trong đám Lỗ Thiên Liễu, có hai người đang ở trong trạng thái vô cùng căng thẳng. Một người chính là đại sư Vô Do của chùa Thiên Long, ông đang ngồi ngay ngắn trên một tảng đá vân vuông vắn, tay gõ mõ liên hồi, miệng lầm rầm tụng niệm chú ngữ "Minh huệ giải thoát". Bên dưới tảng đá vân, có một hình người cứng đờ đờ đang nhảy nhót một vũ điệu vô cùng quái dị. Người này là Ngôn Hành Dạ, người Tương Tây, chuyên làm nghề đuổi xác. Năm xưa, ông đã từng cùng Lỗ Thịnh Hiếu chế tạo ra hòm nhốt xác chết ô chéo âm dương để bắt nhốt mụ ma đêm trên núi Dã Mão. Lúc này, Ngôn Hành Dạ không phải đang nhảy múa, mà là đang thực hiện một phép thuật hết sức kỳ bí, gọi là "Dẫn hồn hành".

Cả thần chú "Minh huệ giải thoát" của đại sư Vô Do và "Dẫn hồn hành" của Ngôn Hành Dạ đều có tác dụng thu nhiếp hồn phách và trấn an niềm tin của con người. Lúc này, đại sư Vô Do mồ hôi đã rịn đầy trên trán, còn Ngôn Hành Dạ lưng áo ngực áo đều ướt đẫm cả mảng. Xem ra, hai người họ đang phải tiêu hao tâm lực và thể lực một cách nghiêm trọng.

Phía Chu gia ẩn phục ở đây không dưới trăm người, trong đó có không ít cao thủ thượng đẳng trong giang hồ. Hơn nữa, từ chỗ bắt đầu rặng núi tới phía dưới khe núi bên cạnh, còn bố trí dày đặc đủ loại khảm nút. Nút người, nút thú, nút độc, nút binh khí rải rác khắp mọi nơi, thiết kế tinh xảo, hoặc chặn hoặc giết. Nếu muốn xông qua đại cục dài dằng dặc với vài chục nút lẫy hiểm độc và trên trăm cao thủ rình rập ở đây, chỉ dựa vào đám người ít ỏi của Lỗ Thiên Liễu, e rằng còn khó hơn cả lên trời.

Tuy nhiên tất cả những thứ này vẫn chưa phải là những thứ đáng sợ nhất mà đám Lỗ Thiên Liễu buộc phải đối mặt. Đối thủ thực sự của họ chỉ là một người. Một gã thanh niên lặng phắc như đá tảng, sắc mặt như xác chết, cặp mắt xanh biếc như ngọc.

Lỗ Thiên Liễu không biết gã thanh niên này đã bám theo mình từ lúc nào, từ nơi nào, tuy rằng khí chất tao nhã và dung mạo anh tuấn của hắn rất dễ lưu lại cho người khác ấn tượng sâu sắc. Hơn nữa, khi Lỗ Thiên Liễu phát hiện thấy điểm bất thường, thì cô đã tới địa giới tây nam. Ngoài Quan Ngũ Lang, còn có Ngôn Hành Dạ và Khoái Hoạt Tử cùng đi. Thế mà cả bốn vị cao thủ lão luyện giang hồ đều không hề phát giác ra sự tồn tại của gã thanh niên kia. Chỉ tới khi Lỗ Thiên Liễu thi triển ba giác siêu phàm để tìm kiếm lối ra tại khe suối Thuý Hoàn, cô mới phát hiện ra sự xuất hiện của hắn.

Ám cấu cất giấu bảo bối ở vùng tây nam khởi công sớm nhất, tiêu hao nguồn nhân lực vật lực nhiều nhất, thiết kế và bố trí cũng hoàn mỹ toàn thiện nhất. Khi đó, do vùng tây nam địa thế hiểm ác, đệ tử Lỗ gia phải nhờ cậy Mặc gia trợ giúp mới có thể hoàn thành việc xây dựng bảo cấu. Sau khi hoàn thành, để đề phòng hai bên nghi ngại lẫn nhau, tỏ rõ khí độ quân tử, nên cả hai nhà đều không cắt cử đệ tử ở lại bảo vệ bảo bối. Thứ nhất, địa giới nơi này dưới ảnh hưởng của khí hậu và địa chất, nên địa hình, sông ngòi và cây cỏ biến đổi rất chóng vánh, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã khó lòng tìm lại được vị trí cũ. Thứ hai, do các bậc tổ tiên rất mực tự tin, vì bảo cấu nơi này hội tụ kỹ nghệ tuyệt đỉnh của hai nhà, nếu không phải cao nhân thượng đẳng, sở hữu kỹ nghệ siêu phàm, tuyệt đối không có khả năng khai quật.

Nơi người Lỗ gia thường xuyên qua lại nhất cũng là vùng tây nam, bởi lẽ trong số bảo bối đã được cất giấu, duy chỉ có bảo bối phía tây nam là có được một chút manh mối do tổ tiên để lại. Đó là một câu truyền miệng: "Thiêu Câu tây nam, tháp nổi nhập vách". Sau khi Lỗ Thiên Liễu tới tây nam, đương nhiên không chịu bỏ qua bất kỳ một khe núi, rãnh sâu, lòng máng nào. Cô có ba giác quan siêu phàm, lại có khả năng tìm kiếm biện nhận vô cùng nhạy cảm, chính xác. Hơn nữa, càng ở những nơi cây cối rậm rạp, rừng núi um tùm, linh tính của cô lại càng được phát huy đến cảnh giới tự do tuyệt đối.

Ngay từ khi mới phát hiện ra sự bất thường ở khe suối Thuý Hoàn, Lỗ Thiên Liễu đã không hề cảm nhận thấy sự uy hiếp hay công kích, chỉ cảm thấy khí tướng kỳ dị này lúc xa lúc gần, thoắt ẩn thoắt hiện. Song dần dần, dị tướng kia đã thâm nhập và hoà trộn vào trong suy nghĩ và cảm giác của cô, hơn nữa còn mau chóng thuận ứng theo nhịp tim, hơi thở và từng biến đổi vô cùng tinh vi trong cơ thể cô, tựa như là lại có thêm một "Lỗ Thiên Liễu" nữa đang dung hoà trong tâm não. Đối diện với tình trạng này, Lỗ Thiên Liễu không dám có phản ứng gì quyết liệt, vì e sợ gây kinh động tới đối phương, lại càng sợ hãi sẽ gây chấn động và tổn thương cho chính tâm não của mình. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễn vẫn duy trì trạng thái bình thường, chỉ dùng khứu giác siêu phàm hít ngửi, tìm kiếm ở nơi xuất hiện dị tướng.

Đó là một thứ mùi thanh tao nhẹ nhõm, một thứ mùi chỉ có ở một cơ thể nam giới khoẻ mạnh trẻ trung, hơn nữa, trong đó còn phảng phấp một chút hương thơm thoang thoảng. Lỗ Thiên Liễu phán đoán, thứ hương liệu này hẳn có nguồn gốc từ vùng ngoại quốc.

Khi thứ mùi kia vừa xuất hiện trong ý thức của Lỗ Thiên Liễu, làn dị tướng lập tức có phản ứng, thoắt cái đã thoát ra khỏi tâm não của Lỗ Thiên Liễu, biến mất hút không để lại tăm hơi. Song lúc này, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến nơi xuất phát. Vị trí đó chỉ cách cô chưa đầy trăm bước. Cô lập tức triển khai thân thủ, lao vùn vụt về phía đó, lẹ làng như chưa đi được một nửa, đã có người vọt ra chặn đứng. Hai kẻ chặn đường tướng mạo giống người Hán, song lối ăn mặc hết sức kỳ dị, chỉ có giặc Tây thi thoảng mới thấy ăn bận kiểu này.

Đám Quan Ngũ Lang nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu bị người khác chặn đánh, bèn vội vã xông lên. Song họ mới chỉ tiến lên được hơn chục bước, cũng đã bị chặn đứng. Vẫn là mấy kẻ mình mặc áo đen, đầu đội mũ lá, thân hình cứng như sắt thép. Không thể hiểu nổi chúng ẩn nấp ở chỗ nào, song đều xuất hiện thình lình như ma quỷ. Đám Quan Ngũ Lang đã nhiều lần chiến bại, lần này vẫn không thể xông qua tấm bình phong này.

Tuy chỉ là chặn đứng, không có ẩu đả kịch liệt hay gây sát thương, song không khí ở hiện trường vẫn khiến người ta phải ngộp thở. Một gã thanh niên bước ra từ phía sau gốc thông lùn lá đen, vẻ anh tuấn thư sinh, nước da trắng trẻo, vóc dáng hiên ngang, song lại toát ra một vẻ lạnh lẽo, trầm tịch và vô cùng ma quái. Tóm lại, trông giống người, song cảm giác lại không giống người.

Lỗ Thiên Liễu và gã thanh niên kia bốn mắt nhìn nhau. Đó là hai cặp mắt xanh biếc chỉ xuất hiện ở những nhân vật nửa thần tiên trong truyền thuyết. Cặp đồng tử của Lỗ Thiên Liễu có màu lục nhạt, giống như chồi liễu vừa nhú buổi đầu xuân. Còn cặp mắt của gã thanh niên kia xanh thăm thẳm như mặt đầm sâu hun hút, lại cuộn xoáy tròn, tựa như muốn nuốt chửng tất cả mọi thứ vào trong.

Cả hai tuy không nói câu nào, song lại đang mau chóng giao lưu với đối phương. Cách giao lưu này quả thực không thể biểu đạt hết bằng ngôn ngữ.

Là "Thấu tam giới"! Lỗ Thiên Liễu không hề che giấu niềm kinh ngạc của bản thân, dẫu rằng cô hiểu rõ đối phương có thể nhìn thấu suy nghĩ của mình. Khi còn ở núi Long Hổ, một vị cao nhân tính thông tu tâm đã từng giảng giải với cô rằng, trong giang hồ có các chiêu số như thuật nhìn tâm, thuật đoán ý muốn, thuật tiên đoán, thuật đoán suy nghĩ, đều là thông qua việc quan sát hành động, vẻ mặt, cùng hơi thở, máu huyết vận hành trên cơ thể đối phương để suy đoán tâm tư. Bên cạnh đó, cũng có người được trời phú cho khả năng dị thường, trong vòng trăm bước có thể trực tiếp cảm nhận được suy nghĩ và tâm lý của người khác. Khả năng dị thường này được gọi là Thấu tam giới. Thấu tam giới có nghĩa là thấu suốt tam gới, tức nhìn thấu vẻ bề ngoài, nội khí và tâm tư của người khác, cũng chính là ba tầng cảnh giới hình, tính, tư.

- Ngươi chính là người duy nhất phát giác ra khả năng Thấu tam giới của ta tính cho tới hôm nay! – Gã thanh niên nói với Lỗ Thiên Liễu trong im lặng. Tuy rằng lần này, không những bị Lỗ Thiên Liễu phát giác ra năng lực cảm tri, mà còn bị tìm đúng nơi ẩn nấp, song hắn không hề tỏ ra rối loạn, hơi thở, tâm mạch và huyết khí vận hành vẫn rất mực ổn định. Bởi lẽ hắn hiểu rõ rằng, tuy cô gái kia phát giác ra hắn lén đọc trộm suy nghĩ của cô ta, song lại không có cách gì ngăn cản. Do đó, dù là đối kháng trong suy nghĩ hay trong giao chiến thực tế, thì gã vẫn nắm chắc mười phần thắng.

Gã thanh niên này là ai? Hắn là môn trưởng mới của Chu gia, con trai độc nhất của Chu Chân Mệnh – Chu Ngộ Tâm. Chu Chân Mệnh bị chôn vùi suốt ba ngày trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất, sau khi được bới lên, cảm thấy tâm mạch, khí mạch của bản thân đã tổn thương nghiêm trọng, bèn tức tốc cho người đi gọi Chu Ngộ Tâm đang rèn tập ở hải ngoại trở về.

Chu Ngộ Tâm là một quái thai, thường cả ngày ngồi đờ như đá, ba ngày mới thốt được một câu, tuy câu nào cũng trái khoáy ngỗ ngược, nhưng lại nói đâu trúng đấy. Vì hắn bẩm sinh đã có năng lực khác thường, có thể nhìn thấu suy nghĩ và tâm tư của người khác. Chu Chân Mệnh tuy là bậc kỳ tài, song lại không có cách gì dạy dỗ con trai, nên đã sai vài cao thủ hàng đầu đưa hắn ra hải ngoại, cho chu du khắp thiên hạ, nhằm mục đích rèn luyện và bồi đắp thêm cho hắn.

Thực tế cũng đúng là như vậy. Sau nhiều năm rèn luyện, học tập ở nước ngoài, Chu Ngộ Tâm không những đã phát huy được khả năng Thấu tam giới bẩm sinh đến cảnh giới thượng thừa, mà còn thấu hiểu tường tận mọi khảm diện do Chu gia nghiên cứu thiết kế. Hơn nữa, hắn còn biết vận dụng các loại kỹ thuật tiên tiến đã học được ở nước ngoài vào trong khảm diện, khiến chúng càng được vận hành một cách thần tốc bất ngờ, tàn độc, và ổn định hơn nữa.

Chu Ngộ Tâm nhìn khắp lượt những người trước mặt, ánh mắt điềm nhiên như nước lặng. Song trong lòng hắn hiểu rõ, hành động của lão hoà thượng và tay dị nhân đang nhảy tưng tưng như cỗ xác khô kia đều là nhắm vào năng lực siêu phàm Thấu tam giới của hắn.

Kỳ thực, chiêu số của hai người này thoạt đầu vẫn khiến cho tâm tư của hắn phải rối loạn. Câu thần chú tiếng Phạn của lão hoà thượng nghe như kệ Kim Cương, còn điệu nhảy xác chết kia chẳng khác gì điệu vũ ma quỷ, nghe vào tai, nhìn vào mắt đều xộc thẳng vào tâm não. Bởi vậy, Chu Ngộ Tâm bèn chấm dứt ngay năng lực Thấu tam giới, tạm thời di chuyển sự chú ý tới nơi khác.

Nhìn vào hình thế của núi non xung quanh, thì thấy nơi đây là cục phong thuỷ "Mộc dương bi bảng"[36]. Nếu xây mộ tổ trên vách khe, vận thế phù hợp có thể sinh ra bậc vương hầu khanh tướng. Nhưng vì khe sâu hun hút chạy thẳng tắp, không uốn lượn, không đầu không cuối, trong khe lại đầy rẫy chướng khí, mãnh thú, cỏ cây quái dị, nên lại là một cách cục bại vận cực độ. Trong tổ huấn của Chu gia có viết, nơi có bảo cấu, là nơi thiên bảo trấn hung huyệt, cát hung cùng tồn tại cân bằng. Như vậy, xem ra nơi hắn và cô gái nhà họ Lỗ kia đang tới có lẽ chính là vị trí cất giấu của Mộc bảo phía tây nam.

Quan sát xong hình núi, Chu Ngộ Tâm lại lướt qua cách bố trí của phe mình. Gần ngay trước mặt hắn, có sáu tên y phục đen trũi mũ lá sùm sụp đang đứng lẫn trong đám cây lá lô xô hai bên phải trái. Chúng đều là những cao thủ được đưa về từ Thái Lan, không những tinh thông quyền thuật, mà cơ thể cứng rắn chẳng khác gì sắp thép, giống hệt như công phu hoành luyện của Trung Nguyên. Có sáu tên này làm bình phong chắn lối, đối thủ khó lòng tiếp cận được hắn. Phía sau hắn là bốn cao thủ tuyệt đỉnh đã hộ tống hắn ra nước ngoài học tập. Trong bốn cao thủ này, có ba người là hộ pháp tổng đường của Chu gia, một người nữa vốn là đường chủ Chính Quảng đường phía nam. Dù về mặt võ công, kinh nghiệm giang hồ hay mưu mô trí trá, bọn họ đều thuộc hàng cao thủ thượng đẳng trong giang hồ.

Từ một con đường vắt ngang sườn dốc nghiêng chếch xuống phía dưới, hắn đã lần lượt bố trí các trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt. Men theo con đường ngoặt sang một hướng khác, lần lượt là Phi sơn linh miêu, Dãy ống thổi dịch độc, Đao khoá vặn xuôi ngược, Lực sĩ dời núi. Qua một con đường sạn đạo cheo leo vòng qua vách núi đối diện, lại có các khảm diện Mưa nghìn đao, trận Bát quái đột sát, Đá lăn lên dốc. Cuối cùng, trong rừng Bích Qua, còn cho phục sẵn một tấm lưới sống được bện từ hai con mãng xà "vượt ngọn tùng" (độ dài đủ để quấn vòng từ ngọn cây tùng xuống tận gốc) và mười con mãng xà bẻ cành (có thể vặn đứt chạc cây lớn).

Tạm thời chưa nói đến mức độ tinh vi tàn độc của những khảm nút này, chỉ riêng bộ bố cục toàn diện của nó cũng đã là một tuyệt học hiếm thấy trong nghề khảm tử, gọi là "Hồng đấu hấp thiên"[37]. Bố cục này đã bao trùm toàn bộ ngọn núi và một đoạn khe núi, không cho phép người khác bước xuống dù chỉ là nửa bước.

Nhìn lại một lượt kiệt tác của mình, Chu Ngộ Tâm vô cùng đắc ý. Hắn không chỉ phát huy một cách xuất sắc kỹ nghệ của Chu gia, mà còn đưa thêm vào đó rất nhiều kỹ nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kỳ thực, trong thâm tâm hắn rất mong muốn đám nhân tài Lỗ gia dám xông pha vào trong đó, lao mình vào trong "chiếc đấu cầu vòng", để chứng minh cho hiệu quả của khảm nút sau khi đã được hắn cải tiến. Chu Ngộ Tâm rất mực tự tin, dẫu rằng Chu môn gần đây đã liên tiếp gặp phải những tổn thất chưa từng có, song hắn tin tưởng rằng sau khi mình tiếp quản sự nghiệp, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn.

Tin tưởng bản thân, khẳng định bản thân là một phương pháp tuyệt vời để Chu Ngộ Tâm điều chỉnh tâm tư và tâm lực. Tựa như hắn đang dùng một niềm tự hào và thoả mãn để tiến hành một nghi thức, một nghi thức thông linh với tổ tiên của chính mình. Sau nghi thức này, tâm tư hắn sẽ trở nên thanh khiết không linh, tựa như bầu trời vô tận, có thể thâu nạp toàn bộ nhật nguyệt tinh tú, sấm chớp mây mưa.

Khi ánh mắt xanh biếc của Chu Ngộ Tâm lại nhìn thẳng về phía trước, tâm cảnh như bầu trời lồng lộng của hắn đã khiến cho sức mạnh quấy nhiễu của lão hoà thượng và cỗ "xác khô" kia không biết đã bị đánh bại tới xó xỉnh nào. Trong khi một phần lớn tâm cảnh của hắn đã bắt đầu mau chóng bao vây lấy suy nghĩ của người khác. Suy nghĩ của con người, có lúc bay xa tới tận chân trời, có lúc lại tập trung vào một điểm cực kỳ vi tế. Song lúc này, dù suy nghĩ của người Lỗ gia ở trong trạng thái nào, họ đều bị tâm cảnh tựa bầu trời của hắn vây bủa.

Đã bao vây được suy nghĩ, bước tiếp theo chính là dò đoán tâm tư của đối phương. Phương pháp của Chu Ngộ Tâm hôm nay có phần cuồng ngạo phóng túng, bởi vì đã tới thời khắc quyết đấu, bởi vì bản thân hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho trận đối quyết, và còn bởi vì những đối thủ kia hoàn toàn bất lực trước khả năng Thấu tam giới của hắn.

Đợt tìm kiếm bằng năng lực Thấu tam giới này không gặp phải bất cứ trở ngại nào. Ánh mắt xanh hun hút của hắn dừng lại trước tiên trên cơ thể lão hoà thượng và cỗ "xác khô". Bọn họ đang rất chuyên chú, tập trung cao độ, hết sức nỗ lực để khuấy đảo tâm cảnh của hắn, khiến hắn không thể thi triển Thấu tam giới. Chuyên tâm đương nhiên rất cần thiết, trong giao đấu bằng tâm lực đã có câu "không si mê không nhập đạo". Song Chu Ngộ Tâm phát hiện thấy, trong trạng thái chuyên chú của hai người này, đôi khi vẫn xuất hiện sự gián đoạn. Hiện tượng này cho thấy bọn họ đã thấm mệt, và bắt đầu thiếu tự tin vào sự nỗ lực của bản thân.

Phía sau họ còn có một người cũng rất chuyên chú, là một gã trai thân hình vạm vỡ đang cầm ngang thanh phác đao. Suy nghĩ của người này rất đơn giản, chính là muốn xông lên vào một thời điểm thích hợp để kết liễu tính mạng của mình. Song hắn rất căng thẳng, bởi vì hắn hiểu rõ khả năng này là không thể. Những gã cao thủ Thái Lan trước đó đã nhiều lần đập tan chiêu số của hắn, hơn thế nữa, còn phá huỷ hoàn toàn niềm tin của hắn. Chu Ngộ Tâm thường không xem nhẹ bất cứ ai, song lúc này, hắn lại không thèm để ý tới gã tráng niên kia nữa. Một người đã hoàn toàn đánh mất niềm tin, dù ý đồ có quyết liệt đến đâu, cũng chỉ là kẻ đóng vai phụ trong trận quyết đấu.

Bên gã trai là một lão già nhỏ thó đang phun khói mịt mù. Lão ta rất kỳ quái. Suy nghĩ của lão liên tục nhảy nhót qua lại giữa sơn thuỷ thực tế và sương khói thở ra, điều này khiến Chu Ngộ Tâm có hơi khó khăn khi nắm bắt. Song năng lực Thấu tam giới của hắn đã đạt tới cảnh giới phi phàm, bởi vậy Chu Ngộ Tâm mau chóng thích ứng với sự biến động trong tư duy của lão.

Tuy suy nghĩ của Thôi Vân Phi liên tục biến động, song kế hoạch của lão lại rất mạch lạc bài bản. Lão muốn dùng Quan Ngũ Lang bên cạnh làm mồi nhử, khiến một bộ phận cao thủ Thái Lan che chắn phía trước Chu Ngộ Tâm chuyển hướng sang bao vây Ngũ Lang. Còn lão sẽ dựa vào bản lĩnh khí công của mình, xông qua vòng vây của các cao thủ Thái Lan còn lại, lao thẳng tới chỗ Chu Ngộ Tâm. Song đây vẫn là một động tác giả, đại cao thủ phía sau Chu Ngộ Tâm đều lùi về bảo vệ hắn, như vậy, con đường nhỏ "một người giữ cửa, vạn người khó qua" bên rãnh sẽ được mở thông. Lão sẽ chớp lấy cơ hội này để chạy đi theo đó. Đến lúc này, cho dù đám cao thủ kia có sực tỉnh mà đuổi theo, thì đại sư Vô Do và Ngôn Hành Dạ có lẽ cũng đã kịp thời xông tới chặn chúng lại. Đối với lão, các khảm diện như trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt phía dưới nếu muốn phá giải hoàn toàn sẽ cần một chút thời gian, nhưng nếu chỉ cần một mình lão băng qua, thì chẳng tốn bao nhiêu công sức. Tiếp đó tới hai khảm Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc. Phi sơn linh miêu có thể nhờ vào khí công hộ thể để xông qua, còn Dãy ống thổi dịch độc cần phải hao tổn chút tinh lực, bởi vì dạng khảm này không phải là sở trường của Kỳ Số các. Song chỉ cần phá được khảm diện này, toàn bộ Hồng đấu hấp thiên coi như đã bị chém ngang lưng. Nếu theo đúng kế hoạch ban đầu, lão chỉ cần xông được đến đây, coi như việc lớn đã thành.

Chu Ngộ Tâm quả thực thấy khâm phục trong lòng. Lão già này quả là một cao thủ tuyệt đỉnh, võ thuật khảm diện đều tinh thông. Thế nhưng mưu kế sách lược và cách phân tích nguyên lý khảm diện cũ rích của lão khiến hắn cảm thấy nực cười. Đương nhiên, người đủ tư cách để cười lão cũng chỉ có một mình Chu Ngộ Tâm mà thôi. Kế hoạch của lão có quá nhiều nhân tố thiếu chắc chắn, như liệu gã trai vạm vỡ kia có dụ được một bộ phận cao thủ Thái Lan đi không? Liệu lão có thể xông qua những cao thủ còn lại không? Còn một nhân tố thiếu chắc chắn hơn nữa, đó là liệu lão có ép được hắn lùi lại hay không? Bởi vì hắn đã được rèn luyện võ học đến nơi đến chốn, không hề thua kém bất cứ cao thủ thượng đẳng nào trong giang hồ. Và còn nữa, sau lưng hắn còn giấu hai khẩu súng ngắn bắn đạn rời sản xuất ở Anh, liệu khí công của lão có thể chống đỡ nổi súng đạn? Với một loạt khảm diện phía dưới, lão ta cũng suy nghĩ quá đơn giản. Phía trên khảm diện Bậc trăm bước động trượt, hắn đã bố trí thêm ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ, những thứ này đều là hàng Thuỵ Điển, phản ứng rất nhạy, lực sát thương cực mạnh. Còn trên vuốt mèo của khảm diện Phi sơn linh miêu đều được lắp thêm vuốt hợp kim mangan tẩm nọc rắc độc sông Nile. Trong khảm diện Dãy ống thổi dịch độc, trong dãy ống thổi còn xen lẫn hai mươi khẩu súng trường liên thanh, phía cuối khảm diện còn có một cỗ pháo đón đầu. Những thứ này lão già kia chắc chắn có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra, và cũng không thể ứng phó nổi.

Hai kẻ đứng trên vách khe trông giống như anh em ruột, suy nghĩ của chúng là phối hợp với lão già nhả khỏi. Bọn họ một kẻ đang tìm đường, một kẻ đang chuẩn bị thuốc, chuẩn bị sẵn sàng để sau khi lão già nhả khói phá ngang được khảm diện Hồng đấu hấp thiên sẽ lập tức lao xuống dưới rãnh trong phạm vi của khảm nút đã bị phá, nhanh chóng khai quật bảo cấu.

Kẻ tìm đường khiến Chu Ngộ Tâm rất kinh ngạc. Lần theo suy nghĩ của hắn, thì thấy hắn ta không cần dùng đến bất cứ dụng cụ nào, chỉ là tay không mà leo thẳng xuống đáy khe. Hơn nữa, trong lúc leo xuống còn đồng thời bố trí một số thiết bị, để đưa những kẻ khác xuống cùng.

Kẻ còn lại là cao thủ về thuốc giải độc, hắn đang phân tích thành phần của sương độc để chuẩn bị thuốc giải độc cho những người chuẩn bị xuống khe. Chu Ngộ Tâm không tìm hiểu thêm về thứ thuốc giải của kẻ đó, bởi vì hắn không cần tới thứ này. Hắn đã chuẩn bị sẵn một loạt mặt nạ phòng độc mang từ nước ngoài về.

Lão già méo miệng đang nhìn chằm chằm vào vách đá trước mặt có tư duy vô cùng lắt léo. Tuy những đường vân mờ nhạt tại vị trí hình cánh cửa đã bị sương độc che lấp, song hình dáng ban đầu đã hoàn toàn dung nhập vào trong tư duy của lão. Trong cửa Linh Lung chín vòng chỉ có một thay đổi duy nhất, không hề có cơ hội làm thử hay lặp lại, chỉ cần một sai lầm cực nhỏ, cũng sẽ biến thành tử cục vĩnh viễn. Bởi vậy, trước hết cần phải phân tích, nắm bắt thật chính xác nguyên lý và quy luật của hình khoá được bố trí đầu tiên, mới có thể suy luận ra kiểu biến hoá duy nhất. Ở đây cất giấu Mộc bảo, nên hình cửa chọn dùng kết cấu nghìn cặp linh lung cũng là đương nhiên. Vấn đề là ở nguyên lý chín vòng tuần hoàn tương khắc, vòng này cần phải vượng Mộc, như vậy, phải chăng nên bắt tay từ Nhật, Thuỷ, Mộc...

Chu Ngộ Tâm đã dừng lại. Lần dò theo lối tư duy rắc rối lắt léo kiểu này là một việc làm vô cùng khó chịu, hơn nữa tính toán suy lý theo kiểu đó rất phức tạp và mất thời gian, trong khi kết quả cuối cùng chưa chắc đã chính xác. Bản thân hắn đã nghĩ tới cách giải quyết đơn giản hơn, chính là đặt mìn định hướng ở bên dưới tất cả những nơi đã bị khoá cố định để phá. Trong số những người hắn đưa từ nước ngoài về có một gã người Bỉ, là cao thủ chế tạo thuốc nổ.

Mục tiêu cuối cùng của Chu Ngộ Tâm là Lỗ Thiên Liễu. Có lẽ do Lỗ Thiên Liễu đang tập trung tinh thần suy nghĩ điều gì đó, nên ba giác của cô không chú ý tới sự xâm nhập của Thấu tam giới. Bởi vậy Chu Ngộ Tâm đã thuận lợi thăm dò vào trong tư duy của cô, song bầu tư duy đó đã khiến hắn phải sửng sốt.

Chu Ngộ Tâm chưa bao giờ gặp một bầu tư duy nào tỉ mỉ, tinh tế, kín kẽ đến vậy. Từng gốc cây ngọn cỏ, từng phiến lá đọt cành, từng đoá hoa búp nụ trong toàn bộ vùng rừng núi này đều là những điểm cấu thành nên bầu tư duy của cô. Đáng sợ hơn nữa, đó là tác dụng của mỗi điểm cấu thành hoàn toàn không phải là sự tưởng tượng hư vô, mà đều là những cảm nhận thực tế.

Chu Ngộ Tâm biết, đó chính là ba giác siêu phàm của Lỗ Thiên Liễu đang phát huy tác dụng. Cô gái thần kỳ này chỉ cần chạm tay lên thân cây bên cạnh, chỉ cần giẫm chân trên thảm cỏ, chỉ cần hít thở bầu không khí trong lành thấm đẫm hương hoa lá, thì tất cả những nơi mà đám cỏ hoa lá có thể chạm tới, luồng tư duy của cô đều có thể cảm nhận được. Cây cỏ hoa lá trong toàn bộ vùng rừng núi cành liền lá sát, gốc rễ giao hoà, bởi vậy tâm hồn và suy nghĩ của cô ta cũng dung hoà với toàn bộ núi rừng.

Trong một không gian cảm nhận bất tận như vậy, tất cả mọi khảm diện mà Chu Ngộ Tâm đã dày công bố trí đều đã hiện diện trong trí não của Lỗ Thiên Liễu. Không chỉ những khảm nút vốn có đều đã phải hiện hình, mà ngay cả nút lẫy cải tiến của Chu Ngộ Tâm cũng lần lượt bị cô phát giác.

Ngay từ triều Minh, Lỗ gia đã nhiều lần giao tranh, quyết đấu với Chu gia, thu hoạch nhiều nhất của họ chính là đã có được những nhận thức mang tính đột phá đối với kỹ nghệ của tổ tiên. Kỹ nghệ của tổ tiên dạy rằng, "dựng" là gốc, "khuôn thước" là nguyên tắc. Song sau vô số lần phải chịu lép vế và đổ máu, họ đã nhận thức được rằng, ngược lại với "dựng" là dỡ, làm rối loạn "khuôn thước" sẽ thành nguyên lý bàng môn. Và sau đó, Lỗ gia đã tập trung cao thủ chuyên nghiên cứu về kỹ thuật giải phá, rồi quy kỹ nghệ này vào trong loại hình kỹ nghệ phụ trợ bên ngoài Lục công của Lỗ gia, được gọi là Tiểu công. Tiểu công vốn dĩ chỉ để hỗ trợ cho sáu công phu chính, gồm các kỹ nghệ như đẵn gỗ, phá đá, trộn vữa, vận chuyển vật liệu. Những thợ mộc bậc thầy của Lỗ gia thường không học kỹ nghệ này, trước kia chỉ truyền cho người ngoài họ. Tuy nhiên sau khi thêm vào kỹ nghệ phá giải, loại hình kỹ nghệ này đã trở nên nguy hiểm, giảo hoạt và có khả năng sát thương cực lớn. Bởi vậy, chỉ được ghi chép trong sách mà không truyền dạy cho đệ tử.

Đến này, am hiểu về kỹ nghệ Tiểu công chỉ có hai người. Một là đứa con độc nhất mà Nhậm Hoả Cuồng uỷ thác lại cho Lỗ Nhất Khí dạy dỗ là Nhậm Tính Lai. Năm xưa cậu ta theo sư phụ của Nhậm Hoả Cuồng xuống phía nam tìm kiếm vật liệu kỳ lạ, đã tình cờ gặp Lỗ Thịnh Hiếu. Lỗ Thịnh Hiếu thấy đứa trẻ này điêu trá khó bảo, rất thích hợp để học kỹ nghệ Tiểu công, nên đã sao chép chương tổng quát về kỹ nghệ Ban môn và kỹ nghệ Tiểu công tặng cho cậu ta. Một người còn lại là Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu sau khi tu luyện kỹ nghệ của Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ, mới bắt đầu nghiên cứu kỹ nghệ Tiểu công. Bởi vì trong giáo pháp của Thiên Sư giáo có một lý luận viết rằng "Khéo khống chế tính, có thể thu phục; không am hiểu tính mà đủ sức, thì tiêu diệt; không am hiểu tính cũng không đủ sức, thì bao vây", đoạn này nói về khả năng phán đoán thời thế, xoay chuyển sách lược, nhìn nhận một sự việc từ nhiều phương diện. Lỗ Thiên Liễu đọc được câu này, cảm thấy lo lắng bất an trước những kỹ nghệ của Lỗ gia mà mình đã được học, thường cảm thấy còn khiếm khuyết ở một số mặt nào đó. Lỗ Thịnh Nghĩa hiểu được tâm tư của cô, bèn nửa vô tình nửa hữu ý chỉ dẫn cho cô xem bản ghi chép về kỹ nghệ Tiểu công.

Lỗ Thiên Liễu tuy nghiên cứu Tiểu công, song chưa từng áp dụng vào thực tế. Kể cả vừa nãy, khi xem xét những khảm nút mà Chu gia bố trí tại nơi đây, trong kế hoạch mà cô và mọi người đã thảo ra cũng không hề tham khảo tới kỹ pháp Tiểu công. Nhưng vừa nãy, trong trí não Lỗ Thiên Liễu đột nhiên loé lên một ánh linh quang, và trong đầu cô bắt đầu thai nghén một phương pháp phá khảm dựa vào kỹ pháp Tiểu công.

Chu Ngộ Tâm đã nhìn trộm được phương pháp phá khảm này. Không chỉ bất ngờ, hắn còn cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Nếu như bọn họ hành sự theo phương pháp của cô ta, hoàn toàn có thể phá giải, áp chế hệ thống khảm diện của hắn tới tận hai khảm cuối cùng. Nếu thực sự đến nước đó, không những Chu gia sẽ đánh mất ưu thế về địa lợi đã chiếm cứ được, mà còn bị chế phục trên tất cả mọi hướng.

Ví dụ như những khảm nút cải tiến mà Chu Ngộ Tâm vô cùng tâm đắc, ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ được bố trí phía trên khảm diện bậc trăm bước động trượt, Lỗ Thiên Liễu định dùng hai kỹ thuật phá đá và đổ đất trong Tiểu công để phá giải. Trước tiên, đẩy đá ở sườn núi bên cạnh cho lăn xuống, khiến mìn vướng nổ phát nổ. Tiếp đến đổ đất thành đường, rồi di chuyển trên đường đất đắp, như vậy có thể phân tán sức nén, khiến mìn đạp nổ không thể hoạt động. Tuy linh miêu phi sơn có vuốt thép ngâm độc, song Lỗ Thiên Liễu sẽ áp dụng kỹ pháp tôi vôi trong Tiểu công. Dùng vợt lưới và gỗ bật để bắn các túi vôi bột sống vào chỗ phi miêu ẩn nấp, vôi bột sẽ khiến chúng bỏng mắt, lại thêm trong rừng ẩm ướt, vôi bột bay tứ tung sẽ khiến khắp nơi toả nhiệt bỏng giãy, tới lúc đó linh miêu phi sơn sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để tấn công. Để đối phó với dàn ống phun dịch độc xen kẽ hai mươi khẩu súng trường liên thanh và pháo đón đầu, Lỗ Thiên Liễu dự định sử dụng kỹ pháp đốn gỗ trong Tiểu công. Trước hết chưa vào khảm vội, mà đốn hạ những cây to bên ngoài khảm cho đổ vào trong khảm. Cây đổ trúng nút lẫy trong khảm khiến chúng hoạt động hoặc hư hỏng là tốt nhất, song cho dù chạm vào mà không huỷ, thì vẫn có thể băng qua phía trên cây đổ mà đi. Đến cây to đổ xuống cũng không thể khiến cho chốt lẫy khởi động, thì bọn họ hoàn toàn có thể băng qua phía trên một cách an toàn.

Kế hoạch đã nhìn thấu, Chu Ngộ Tâm chỉ có thể thừa nhận mình đã thất bại về mặt khảm nút. Bởi vậy, hắn quyết định ra tay trước khi Lỗ Thiên Liễu thực thi kế hoạch, điều động các cao thủ võ thuật xông lên tấn công. Cho dù nơi đây đâu đâu cũng là tuyệt địa hiểm trở, vài người bọn họ cố thủ nơi hiểm yếu, sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho lực lượng bên hắn, nhưng nhìn vào tình thế trước mắt, đây lại là phương pháp đơn giản và chắc chắn nhất.

Quyết định xong, Chu Ngộ Tâm bèn chuẩn bị thu Thấu tam giới về để hạ lệnh cho thuộc hạ tấn công. Nhưng vào khoảnh khắc năng lực Thấu tam giới sắp sửa thu về, hắn đột nhiên phát hiện ra trong tư duy rất mực kín kẽ của Lỗ Thiên Liễu bất ngờ lướt qua một thông tin rất thiếu hài hoà. Lực đạo Thấu tam giới của Chu Ngộ Tâm lại tiếp tục lao lên, muốn bắt lấy thông tin đó.

Lần này, Chu Ngộ Tâm lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bởi lẽ thông tin này cho thấy, Lỗ Thiên Liễu muốn đưa người phía cô ta bỏ chạy thoát thân.

Đã có cách phá giải khảm nút, vì sao còn muốn bỏ chạy? Hiện tượng quái dị này khiến Chu Ngộ Tâm càng dốc toàn bộ tinh lực vào Thấu tam giới. Năng lực bẩm sinh thần kỳ của hắn quả thực phi thường, không những bắt được một tia suy nghĩ thoảng qua của Lỗ Thiên Liễu, mà còn túm giữ thật chặt không buông. Năng lực cảm tri của Chu Ngộ Tâm đã theo chân ý niệm này để xâm nhập vào tầng sâu thẳm trong tư duy của Lỗ Thiên Liễu, xuyên qua mạng lưới được hình thành từ các loại thông tin đến từ ba giác siêu phàm của cô, chớp mắt đã lọt vào trong một tầng tư duy khác.

Tư duy trong tầng thứ này là tư duy cố tình tàng ẩn, bởi vậy kết cấu rất đơn giản, chỉ lác đác vài đường nét, hình thù. Song chỉ vài đường nét, hình thù sơ sài này cũng đủ khiến Chu Ngộ Tâm tim gan lạnh toát.

Thực sự là vô cùng đơn giản, những suy nghĩ ở tầng thứ này chỉ là hơi thay đổi khảm diện mà hắn đã bố trí một chút ít. Song chỉ với một chút ít thay đổi, toàn bộ phương pháp phá giải khảm diện của Lỗ Thiên Liễu sẽ bị vô hiệu hoá hoàn toàn.

Hai khảm diện Nghìn dây bắt hồn và Bậc trăm bước động trượt xếp chồng lên nhau, không dùng dây bắt người, mà là dùng dây để khống chế vị trí mìn đạp nổ và tác động để dẫn nổ, như vậy sẽ tiêu diệt được quá nửa số người của Lỗ gia. Hai khảm diện Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc kết hợp với nhau, đổ dung dịch độc lên thân linh miêu, dùng Phi sơn linh miêu để tấn công. Tuy móng vuốt của linh miêu không dễ làm tổn thương đến cao thủ, song khi dung dịch độc trên da lông chúng văng đi, sẽ rất khó tránh. Tiếp đến bố trí khảm diện Đao khoá vặn xuôi ngược ở phía dưới Lực sĩ dời núi, sẽ hình thành cục thế tiến thoái lưỡng nan. Muốn né tránh Lực sĩ dời núi, sẽ sa vào Đao khoá vặn xuôi ngược; muốn vượt qua Đao khoá vặn xuôi ngược, sẽ không tránh nổi Lực sĩ dời núi. Lại bố trí Mưa nghìn đao phía sau trận Bát quái đột sát, rồi khởi động ngay sau trận Đột sát, bố trí khảm diện mãng xà phía trước Đá lăn lên dốc, làm nút lẫy khởi động đầu tiên của Đá lăn lên dốc. Tới lúc đó, không cần quan tâm tới sự sống chết của đám người điều khiển và mãng xà trong khảm, chỉ cần bọn chúng ngăn cản được những người xông vào khảm trong chốc lát, mưa đao và đá lăn đồng loạt xuất hiện, sẽ biến thành cục diện "hai bên cùng chết", không ai có thể vượt qua. Nếu lại bố trí năm vị trí tấn công tầm xa với tên, pháo, súng trên đỉnh vách đá theo lộ số Ngũ hành, thì lực sát thương càng khủng khiếp không gì sánh kịp.

Phương pháp bố trí khảm nút xuất quỷ nhập thần đến vậy, ngay cả Chu Ngộ Tâm cũng không thể tưởng tượng nổi. Hắn bất giác thầm thán phục trong lòng, thảo nào một dòng họ thợ mộc như Ban môn lại có thể đối kháng ngang cơ suốt vài trăm năm với dòng họ Chu vốn là hậu duệ hoàng gia, kỹ pháp của Ban môn quả là tạo hoá khó địch.

Chính vào lúc đó, tầng ý niệm này của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên xáo trộn, trở nên nhoà nhạt, rồi mau chóng tản mát. Tất cả đường nét, hình dáng đều tan biến, trở thành một bầu trống rỗng.

Chu Ngộ Tâm mỉm cười. Cô gái họ Lỗ từ bỏ tầng ý niệm này là muốn tiếp tục khẳng định niềm tin phá khảm giải nút của cô ta, tiếp tục xây dựng kế hoạch đã nhen nhóm trong tầng tư duy trước đó. Đồng thời, cũng nhằm đề phòng năng lực Thấu tam giới của hắn phát giác ra tầng suy nghĩ này mà kịp thời điều chỉnh khảm diện. Tới lúc đó, điều duy nhất bọn chúng có thể làm đúng là chỉ còn cách tháo chạy thoát thân.

Song đã muộn rồi! Chu Ngộ Tâm lập tức thu lại Thấu tam giới, vẫy tay ra hiệu. Một cao thủ lướt tới bên hắn như một cái bóng. Hắn hạ giọng căn dặn vài câu. Ngay sau đó, nhân lực mau chóng được điều động, thiết kế bố cục mau chóng được di chuyển. Chẳng mấy chốc, tất cả những khảm diện cần thay đổi đều đã thay đổi, tất cả các điểm cần bố trí đều đã bố trí. Sau đó, Chu Ngộ Tâm bình thản chờ đợi đám người cần rút lui ngoan ngoãn rút lui.

Sắc mặt Lỗ Thiên Liễu đã trắng bệch như sáp, mà không, trong sắc trắng bệch dường như còn lẫn sắc tái xanh. Cô biết, suy nghĩ của mình một lần nữa đã bị Chu Ngộ Tâm nhìn thấu, hơn nữa, đó lại là tầng suy nghĩ mà cô đã cực lực cố gắng che giấu. Khả năng siêu phàm tới mức xuất quỷ nhập thần của đối phương khiến cô kinh hãi tột độ.

Song Lỗ Thiên Liễu không vội rút lui ngay, mà đưa ánh mắt nhìn khắp lượt những người xung quanh. Có thể thấy, cô đang hy vọng có ai đó nghĩ ra cách giúp mình.

Lão già nhả khói mù mịt đã đứng dậy, ánh mắt cũng mơ hồ như khói vờn, không thể đoán biết. Song Chu Ngộ Tâm không cần dùng tới Thấu tam giới cũng đã đoán ra, lão ta muốn bỏ đi. Đã biết rõ là cầm chắc thất bại, cũng nên hiểu lẽ tiến lui, kịp thời rời khỏi chốn hiểm nguy này càng sớm càng tốt. Quả nhiên, lão già không chút do dự, lập tức ngoắt người đi men theo mép Thiên Câu tiến về phía đông, nơi đó có một con đường đất đắp chênh vênh nối thông ra đường núi.

Kỳ thực con đường đó vốn dĩ cũng chịu sự kiểm soát của cao thủ Chu gia, song vừa rồi, trong lúc điều chỉnh khảm diện, Chu Ngộ Tâm đã cố ý chừa lại lối đó. Mục đích của hắn là đoạt lấy bảo bối, bởi vậy trước mắt không nhất thiết phải dốc sức đuổi cùng giết tận người Lỗ gia, chỉ cần bức bách họ biến đi, không cản trở hắn hành động là được.

Lão già vừa rời đi, những người khác đều hướng ánh nhìn vào Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu do dự một lát. Cuối cùng, hàm răng trắng muốt đã cắn xuống vành môi, rồi mấp máy một câu gì không rõ. Thế là ngoài tay gầy xác ve vừa nhảy nhót tựa cương thi, những người khác đều mau chóng hành động, lục tục rút lui về phía con đường đất đắp.

Còn tay "xác khô" lại nhảy bổ hai bước về phía Chu Ngộ Tâm, hai tay múa lên một động tác vô cùng quái dị. Động tác vừa thi triển, giữa bàn tay hắn lập tức phát ra một tràng âm thanh loảng xoảng chói tai, từ ống tay áo phụt ra một luồng khói lục mịt mờ, ngưng tụ mà không tản mát. Tất cả những người nghe thấy âm thanh quái dị và nhìn thấy luồng sương khói kia đều cảm thấy mắt mờ tai điếc, tâm thần bấn loạn.

Chu Ngộ Tâm không hành động. Phía Chu gia cũng có cao thủ của tộc đuổi xác, bởi vậy hắn biết tay "xác khô" kia đang làm gì. Đây là kỹ xảo độc môn "xác gõ cửa" của họ Ngôn ở Tương Tây. "Xác gõ cửa, khoá tai mắt, loạn tâm tính". Song kỹ xảo này chỉ dùng trong chiến đấu ở cự ly gần hoặc nghi binh khi trốn chạy. Lúc này không phải là chiến đấu tầm gần, vậy thì chỉ có khả năng là đòn nghi binh để tẩu thoát.

Quả đúng như dự đoán, khi những kẻ hoa mắt ù tai đều đã phục hồi lại trạng thái bình thường, thì tay "xác khô" cũng đã ở trên sạn đạo, vừa khuất dạng sau một khúc quanh bên vách núi.

Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Chu Ngộ Tâm. Nhưng không hiểu tại sao, hắn lại cảm thấy một mối bất an âm thầm nhen nhóm trong lòng. Có lẽ đạt được thứ mình muốn quá dễ dàng sẽ khiến con người ta cảm thấy không an tâm. Có câu "quá nhàn ắt có quỷ quái", ở đây liệu có điều quỷ quái gì không?

Nghi ngờ và bất an cứ liên tục dâng lên trong lòng Chu Ngộ Tâm. Năng lực Thấu tam giới của hắn có thể dò la đến tầng ý niệm sâu xa của cô gái thần kỳ kia, liệu có phải là may mắn? Hay là do cô ta mất cảnh giác? Hay là phía sau tầng ý niệm sâu xa kia còn có cạm bẫy khác chăng?

Chính vào lúc đó, một cao thủ Chu gia tiến lại, cắt ngang bầu tâm tư nghi hoặc bất an của Chu Ngộ Tâm:

- Thưa môn trưởng! Tiềm Võng đường tại Nam Hải cho cú mèo đưa thư tới, nói rằng đã khống chế được đài Mộc Triều của bảo cấu hướng chính nam. Hai ngày nay đang tập hợp thợ khéo, nhân tài và dụng cụ, thiết bị, chỉ đợi thu xếp xong xuôi, lập tức khai quật bảo cấu!

Tin tức tốt đẹp này khiến Chu Ngộ Tâm lập tức dẹp bỏ mọi lo âu sang một bên. Chu gia hao tổn nhân lực vật lực suốt mấy trăm năm qua, song chưa bao giờ có được thu hoạch tốt đẹp như lần này, chỉ trong một ngày đã kiểm soát được hai bảo cấu.

- Đáp thư, lệnh cho Tiềm Võng đường gấp rút khai quật. Lại lệnh cho Lững Quảng đường và Phúc Lâm đường mau chóng điều cao thủ tới Nam Hải trợ giúp! – Chu Ngộ Tâm sắp xếp như vậy là muốn tăng cường chi viện, cũng là để giám sát lẫn nhau.

- Bây giờ trời đã tối, chướng khí chưa tan, lệnh cho khảm diện vòng trong canh phòng nghiêm mật, bên ngoài tuần tra luân phiên. Đợi đến ngày mai, khi sương tan trời sáng, lập tức xuống khe quật bảo! – Nhìn vào cách bố trí, có thể thấy, Chu Ngộ Tâm không những sở hữu khả năng thiên phú dị thường, mà còn rất mực chu toàn thận trọng, quả nhiên di truyền được phong thái nhất quán của nhà họ Chu.

Sáng sớm hôm sau, Chu Ngộ Tâm đột nhiên giật mình bừng tỉnh trên chiếc giường mềm bện từ nan trúc trích huyết kim tuyến. Song cả một vùng rừng núi mênh mông vẫn yên tĩnh tuyệt đối, không có bất cứ âm thanh nào kinh động đến hắn. Quái lạ! Cảm giác từ Thấu tam giới đã trở nên hỗn loạn! Không phải, chính xác hơn là những suy nghĩ mà hắn có thể dò la ở xung quanh vô cùng hỗn loạn. Chuyện gì đã xảy ra? Gần sát chiếc giường đang lọt thỏm trong rừng núi đã xuất hiện một đám khách không mời. Người Lỗ gia đã tìm thêm trợ thủ để quay lại ư? Không phải, trong những suy nghĩ kia, không có suy nghĩ nào hắn đã từng tiếp xúc. Đây là một đám đối thủ mà hắn chưa từng bắt gặp!

Tuy cục thế biến đổi nhanh chóng, song Chu Ngộ Tâm không hề bấn loạn. Hắn bình tĩnh sắp xếp thuộc hạ, khép chặt vòng vây bên trong, trước tiên cần bảo vệ chắc chắn bảo cấu, sau đó đích thân dẫn cao thủ bên ngoài tấn công kẻ địch. Hắn vô cùng tự tin với bản thân, và cũng rất tin tưởng vào người của Chu gia. Đám địch thủ lạ mặt kia hoàn toàn không phải là đối thủ của Chu gia.

Tin tức lan truyền trong giang hồ nhanh đến chóng mặt, tin tức lan truyền trong giang hồ cũng rất dễ bị thổi phồng. Kỳ thực, ngay từ lúc Chu Ngộ Tâm đối mặt với Lỗ Thiên Liễu bên Thiên Câu, đã có người loan tin khắp giang hồ rằng đây là nơi chôn giấu bảo bối của trời, đoạt được bảo bối sẽ có được thiên hạ. Bởi vậy, từ tối hôm qua, trong khi Chu Ngộ Tâm sắp xếp thủ hạ bảo vệ, khai quật bảo cấu, thì các lộ giang hồ từ khắp mọi nẻo đã rầm rập kéo về.

Tình hình ở đài Mộc Triều, Nam Hải cũng giống y như vậy, tin tức về bảo bối lan truyền nhanh chóng, các thế lực giang hồ cũng ùn ùn kéo về. Lực lượng khai quật bảo bối của Chu gia đành phải tạm thời từ bỏ kế hoạch mở bảo cấu, tập trung toàn bộ sức mạnh để đương đầu với kẻ địch khắp ba bề bốn bên, bảo vệ cứ địa. Trong khi tộc người Đản sinh sống trên thuyền vốn dĩ kế thừa di nguyện của tổ tiên Lỗ gia, đời đời bám biển bảo vệ bảo cấu lại lặng lẽ trốn đi biệt tích, chẳng ai rảnh rang để ý cả gia tộc bọn họ đã bỏ đi đâu...

Chu Ngộ Tâm không ngờ được rằng, cuộc chiến ở hai nơi này lại kéo dài tới hơn ba tháng trời ròng rã. Trong thời gian đó, Chu gia đã gần như phải một mình đối chọi với cả giang hồ.

Khi hai cuộc hỗn chiến đẫm máu đã diễn ra được khoảng sáu bảy ngày, trong cơn lo nghĩ đến căng thẳng, Chu Ngộ Tâm đột nhiên phát giác ra một chi tiết. Hắn lập tức rà soát lại một lượt toàn bộ diễn biến trước sau của sự việc, và kết luận là mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Ngay lập tức, hắn cho vận dụng tất cả mọi phương pháp truyền tin khẩn cấp của Chu gia, điều động nhân lực của năm đường khẩu phía Bắc để tìm kiếm tung tích của người họ Lỗ. Song đến tận hơn ba tháng sau, khi cuộc chiến dằng dai đã kết thúc, vẫn không thể lần ra chút tăm hơi. Từ đó, người của Ban môn như đã bốc hơi khỏi cõi nhân gian, biệt tích giang hồ không để lại mảy may dấu vết.

Nhưng đám do thám của Nam Hải đường phía Chu gia lại tìm được một bức thư ở chùa Nam Sơn trong địa vực của chúng. Bức thư do đại sư Vô Do chùa Thiên Long, Đại Lý gửi tới bằng chim bồ câu chuyên dùng để trao đổi kinh văn Phật ngữ. Nghe nói phương trượng trong chùa sau khi đọc xong thư, đã một mình tới chỗ quần cư của tộc người Đản, từ đó không thấy trở về. Cho tới ngày nay, trong tập ký sự "Nam sơn tự lục" của ngôi chùa vẫn còn lại ghi chép về việc phương trượng đời thứ mười sáu thoát tục thần du, biệt vô âm tích.

Bức thư không dài, ý tứ đại khái như sau: "Thiên bảo và hung huyệt nghìn năm qua cân bằng lẫn nhau giống như âm dương, người đời thuận theo sự biến đổi của nó mà sinh sống đã thành quen thuộc, hà tất phải cưỡng cầu chuyện cương vực lãnh thổ, mà sự an khang hạnh phúc của sinh linh mới là quan trọng nhất. Thiên bảo phía tây trấn hung huyệt, huỷ diệt vô số sinh linh, lại chẳng bằng Địa bảo phía đông, tan vỡ mà tạo phúc một vùng. Theo ý trời chẳng bằng thuận tự nhiên, người đời tự khắc biết tránh hung tìm phúc, bất tất phải phá vỡ hiện trạng. Hậu duệ Lỗ gia nên giấu kín bảo cấu, mai danh ẩn tích không để kẻ tham lam lợi dụng. Có thể dùng cách cục "Vẽ hoa dụ bướm" trong Kỳ môn Độn giáp để thoát thân, thao tác cụ thể cần chu toàn nghiêm mật, chỉ được một người làm chủ, để những người không rõ sự tình trợ giúp". Cuối thư đề tên môn trưởng Ban môn Lỗ Nhất Khí.

Nhận được thông tin này, Chu Ngộ Tâm mới ngộ ra thứ "trò quỷ" mà hắn lờ mờ cảm giác được trong ngày hôm đó là gì. Đó chính là tầng tư duy thứ ba của cô gái họ Lỗ mà hắn chưa thể động chạm đến. Còn tầng tư duy thứ hai mà hắn đã lần dò được trong mơ hồ ẩn hiện, kỳ thực chính là một khảm diện ngược. Khảm diện này chính là cách cục thoát thân đã được thiết kế cho riêng bọn họ, cũng là cách cục vây khống nhằm giam chân hắn ở đây không thể thoát thân. Bảo cấu hai nơi té ra chỉ là "vẽ hoa" để dụ con bướm là Chu gia. Chỉ vì những bảo cấu không phải là bảo cấu, mà hắn đã phải sát phạt với toàn bộ giang hồ.

Song Chu Ngộ Tâm vẫn không chịu bỏ cuộc. Và cuối cùng, sau khi trả giá bằng sự hy sinh của tuyệt đại đa số thuộc hạ Chu môn, hắn đã có thể an tâm và an toàn khai quật "bảo cấu". Việc khai quật đơn giản hơn rất nhiều so với chiến đấu, đám thợ kỳ tài của Chu gia chỉ mất hai, ba ngày đã khẳng định chắc chắn cả hai nơi đều là bảo cấu giả. Tuy kết quả này sớm đã nằm trong dự tính của Chu Ngộ Tâm, song hắn vẫn cảm thấy đau đớn, uất hận và thất vọng không sao tả xiết.

Sau cuộc chiến dằng dai với các thế lực giang hồ tại vùng tây nam và chính nam suốt mấy tháng ròng, Chu gia lâm vào cảnh nhân tài cạn kiệt, lòng người phân tán, từ đó lụn bại, không thể phục hưng.

Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói, phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của dãy núi là chân trời, tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.

HẾT

Chú thích

[36] Có nghĩa là bia, bảng tắm ánh nắng.

[37] Có nghĩa là chiếc đấu cầu vồng hút trời.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: