QUYỂN 5

TIẾN VÀO VÙNG ĐẤT DƯỠNG THI, VUỐT QUỶ ĐEO BÁM

Chương 1: Kinh rừng sớm

Vùng đất dưỡng thi theo lời Chu thiên sư, chính là khi người ta chưa chết hẳn, dùng màng mỏng bằng bạc thuần hình tam giác phong kín cung Nê hoàn của họ. Như vậy, bảy phách của người chết sẽ tiêu tán, nhưng vẫn giữ lại được ba hồn trong thi thể. Sau đó, chôn thi thể xuống đất trong tư thế đứng thẳng, đầu cách mặt đất khoảng một thước rưỡi, đó chính là ranh giới giao thoa giữa âm và dương. Như vậy, xác chết có thể cùng lúc hấp thụ hai luồng địa khí âm dương. Xác chết kiểu này được gọi là "dưỡng thi", tức xác chết được nuôi dưỡng. Dưỡng thi có cả đặc điểm của xác dương và hồn âm, không biết đau đớn, không có cảm giác, sức mạnh vô địch. Khi dùng bùa chú để điều khiển, nó sẽ trở thành một cỗ máy giết người, một công cụ mê hoặc. Trong các trước tác "Dị táng ký" của Lê Đại người đời Tống và "Kiếm bạc dã đàm" không rõ tác giả viết vào đời Nguyên đều có những ghi chép liên quan đến dưỡng thi.

o O o

Khi Chúc Tiết Cao dẫn đoàn người thình lình xuất hiện trước khu rừng Giá Trinh, bên trong cánh rừng bỗng rùng rùng rùng hỗn loạn. Từ trong rừng vọng ra những tiếng như vượn hú, ếch kêu, như sói tru, chim rít, thảm thiết rối loạn, nghe rùng rợn vô cùng. Tiếng xào xạc của lá cây va đập dội lên từng đợt lúc chỗ này lúc chỗ kia, cả một khu rừng hệt như đang bị một bàn tay khổng lồ gạt qua gạt lại.

Sự xuất hiện đột ngột của bọn họ đã làm kinh động đến yêu ma quỷ quái, hay đã thức dậy dã quỷ vong hồn?

Năm ngón tay trái của Chu thiên sư múa tít như bay. Động tác bấm độn thuần thục đến nhường này, chỉ có những vị thiên sư đạo hạnh cao thâm như ông mới có thể thực hiện được.

Khi đầu ngón tay cái của Chu thiên sư dừng lại trên đốt thứ hai của ngón giữa, khu rừng lại quay trở về với trạng thái tĩnh mịch ban đầu. Từng ngọn cây lá cỏ đều như đông cứng, gió nhẹ phất qua cũng không khiến chúng lay động mảy may.

Lúc này, Lỗ Thiên Liễu đang rất hoang mang, cũng vô cùng sợ hãi. Thính giác nhạy bén siêu phàm của cô không thể tìm ra bất kỳ tiếng động lạ thường nào trong khu rừng đang lặng phắc. Vừa mới đây thôi còn ầm ào rối loạn, thoắt một cái đã im lặng như chết. Tình hình quả thực vô cùng khó hiểu, càng khiến người ta phải khiếp sợ hơn. Khả năng điều khiển có thể đạt tới trình độ này, nguồn sức mạnh ẩn giấu phía sau chắc chắn phải khủng khiếp đến khó tưởng tượng.

-Có thứ gì ở đó? - Lỗ Thịnh Nghĩa thấp giọng hỏi nhỏ Chu thiên sư.

-Có một số thứ âm uế, nhưng đều do con người tạo ra. Không sao đâu, họ có thể tạo ra, chúng ta cũng có thể chống lại! - Lời của Chu thiên sư đã thức dậy niềm tin và dũng khí của mọi người.

Nhưng chỉ với lòng tin và dũng khí vẫn chưa đủ. Muốn vượt qua khu rừng này, quan trọng nhất vẫn là phải có khả năng.

Sau khi đi vào khu rừng, họ phát hiện ra cây cối ở đây giống hệt như những gì Chúc Tiết Cao đã kể, cứ hai cây một tựa sát vào nhau. Thế nhưng nhìn vào những đám cây bụi và lá rụng trên mặt đất, nơi đây chắc chắn không phải là suốt trăm năm không có bóng người lui tới.

-Cậu Chúc, chẳng phải cậu nói nơi đây hơn trăm năm qua không ai được phép đặt chân tới ư? Tại sao lại không có lớp mùn do lá cây tích lại? Du Hữu Thích thắc mắc đầu tiên.

-Chú không nghe chú Chúc nói hay sao? Kẻ xấu đã tới từ lâu rồi! – Lỗ Thiên Liễu nhanh nhảu trả lời thay Chúc Tiết Cao – Không được đến không phải là không muốn đến, mà là kẻ xấu không cho họ đến. Ở đây không những lá cây không tích thành mùn, chú cứ nhìn kỹ mà xem, cành cây cũng đã được cắt xén gọn gàng. Còn nữa, còn nữa... - Lỗ Thiên Liễu đột ngột đổi giọng Quan Thoại hô lớn - Cẩn thận! Đừng đụng vào gốc cây!

Nhưng đã muộn! Hai gốc cây đang tựa sát vào nhau đã thình lình tách đôi ra. Có người hiếu kỳ đưa tay sờ vào cành cây, khiến chúng đột ngột tách rời.

Hai cây nữ trinh vừa tách nhau ra, một gã đệ tử của Du Hữu Thích cũng bay vụt đi. Thật khó tưởng tượng, một gã ngư phu cao to cường tráng, một gã cướp hồ sức vóc lừng lững, một cơ thể vai u thịt bắp gân cốt rắn rỏi nhường đấy lại có thể bay đi nhẹ tênh như một phiến lá qua phía trước cây nữ trinh vừa tách nhau ra.

Bị gốc cây vô ý sờ vào bật phải hất văng đi đã là một chuyện hết sức quái lạ và khó tin, nhưng càng quái lạ và khó tin hơn nữa, đó là cú hất mới chỉ là khúc dạo đầu. Điểm rơi xuống của gã đệ tử lại là một cặp cây nữ trinh khác, nên thân thể văng đi còn chưa kịp tiếp đất, lại bị quật văng đi tiếp. Điểm rơi tiếp theo vẫn là một cặp cây nữ trinh.

Tay đệ tử đã rơi phịch xuống dưới gốc của cặp cây nữ trinh thứ tư. Không phải là gốc cây đã hết lực đàn hồi, mà là trong lúc hắn đang bị hất văng tới cặp cây thứ tư, có một thứ đã bay vụt lên trước, đập vào gốc cây trước cả hắn, kịp thời tiết hết lực đàn hồi.

Thứ lao vọt lên phía trước hắn là một bầu rượu sành. Rượu văng tung tóe lên thân cây càng lá, mùi rượu phả ra sặc sụa trong gió.

Chủ nhân của bầu rượu đương nhiên chỉ có thể là Thủy Du Bạo. Khi ở trong thôn của Chúc Tiết Cao, lão không được ăn thịt uống rượu, nhưng lúc lên đường, lão đã kịp xin một chiếc gùi tre đan bằng nan mảnh có nắp đậy để mang theo số rượu còn sót lại bên mình.

-Tôi đã nói rồi mà không nghe! Với những khu rừng có linh tính như thế này, phải mang theo ít rượu chè hương nến cúng tế đàng hoàng, nếu không sẽ làm kinh động tới thần linh. Nhìn mà xem, chỉ cần tưới rượu là bình yên vô sự, đúng không? Bọn trẻ các ngươi đúng là chẳng hiểu biết gì cả. À, mà Chu thiên sư, tại sao cả ông cũng quên được nhỉ? - Thủy Du Bạo lải nhải một hồi, không biết là thật hay giả.

Lỗ Thiên Liễu hơi sững lại. Thủy Du Bạo lúc nào cũng ra vẻ bênh vực Chu thiên sư, nhưng mấy câu cuối cùng lại như có ý trách móc, trong lời nói dường như còn có ý tứ gì khác.

Tay đệ tử của Du Hữu Thích cuối cùng cũng đã "vô sự". Xương hông trái vỡ vụn, cẳng chân phải gãy làm ba khúc, hai dẻ xương sườn lòi cả ra ngoài. Với thương thế này, xem ra hắn không thể làm được sự việc gì nữa. Mọi người đành phải khiêng hắn ra khỏi rừng Giá Trinh, tìm một nơi an toàn cho hắn ngồi tạm, để lại lương khô và thuốc trị thương. Giờ đây, hắn chỉ còn làm được một việc duy nhất, đó là dưỡng thương và chờ đợi.

Du Hữu Thích lòng nặng trĩu như đá đeo. Đích đến còn xa tít tắp, thế mà hắn đã mất đi một người anh em và một đệ tử. Xem ra mọi chuyện không phải là cứ cố gắng là sẽ hoàn thành, cần phải gửi gắm hy vọng cho một người có nhiều khả năng đạt được mục đích nhất. Hắn bắt đầu âm thầm tính toán trong lòng.

Cho dù lời nói của Thủy Du Bạo có thánh tướng đến thế nào, chỉ quăng đi một bầu rượu tuyệt đối không thể giải được nút. Hơn nữa, họ mới chỉ giẫm vào mép khảm, còn nút lẫy thật sự trong khảm diện vẫn chưa bung ra.

Lỗ Thịnh Nghĩa cẩn thận dùng chiêu đo đạc bằng ngón tay và thế Phục long thám căn để kiểm tra rừng cây trước mặt, và người thợ mộc già này đã phát hiện ra điều bí mật trong quy luật sắp xếp của những cặp cây sánh đôi. Cục tướng của khảm diện này giống hệt như thành lũy bốn phương liền ụ của nhà họ Lỗ, chính là "ba mươi sáu Thiên Canh chầu thánh vị". Khảm diện Thiên mục thác bộ (mắt lệch chân xiêu) bí truyền trong giới khảm tử gia phương nam cũng dựa theo nguyên lý này.

Bộ pháp di chuyển trong cách cục Thiên Canh chầu thánh vị có yêu cầu hết sức nghiêm ngặt về độ ngắn dài mau chậm của bước đi, nếu không thể tuân theo quy luật đó, trong quá trình di chuyển, sẽ gây ra hiện tượng lệch lạc thị giác. Đi càng nhiều bước, cảm giác sai lệch càng chồng chéo, cuối cùng bản thân sẽ mất kiểm soát mà tự đâm đầu vào gốc cây. Bởi vậy, khảm diện này còn được gọi một cách thông tục là "mắt lệch chân xiêu", nếu sa vào trong khảm, sẽ có hiện tượng mắt nhìn lệch lạc chân bước xiêu vẹo, nhận lầm phương hướng.

Không ai biết được muốn vượt qua khảm diện Thiên Canh chầu thánh vị ở đây, xét về bộ pháp cần phải tuân theo những quy tắc gì, dài ngắn ra sao, nhanh chậm thế nào. Hơn nữa, ở đây lại sử dụng từng cặp cây để làm mê chướng, trên cây cành lá rậm rịt, không thể dùng làm vật tham chiếu để ước lượng khoảng cách giữa các bước chân. Trong tình hình này, chỉ cần một bước đi có chút sơ sẩy, thì tiếp đó chỉ trong vòng mười bước chắc chắn sẽ đụng cây trúng nút.

Thế nhưng nhà họ Lỗ có một phương pháp cố định thường xuyên được sử dụng để đối phó với dạng khảm diện mê chướng quanh co kiểu này, đó chính là vừa đi vừa thăm dò. Tức là đi một bước nhìn một bước, sau khi đi xong một bước, đợi cho thị giác hồi phục bình thường, quan sát cho kỹ rồi mới bước tiếp. Mặc dù tốc độ chậm chạp, nhưng rất hiệu quả để thoát khỏi khảm diện an toàn. Phương pháp này thông thường được thi triển nhờ kỹ pháp Tịch trần trong công phu Lục hợp của nhà họ Lỗ, vì người luyện Tịch trần thị lực rất tốt, lại thận trọng và kiên nhẫn, có thể phát hiện ra những nút lẫy rất khó quan sát.

Trong đoàn người, giỏi kỹ pháp Tịch trần chỉ có mình Lỗ Thiên Liễu. Vì vậy, người thứ hai trúng phải nút lẫy không ai khác ngoài cô.

Lỗ Thiên Liễu không va phải gốc cây đôi, mà bị một sợi dây da mềm giấu dưới vạt cỏ quật trúng. Sau khi quan sát thấy mọi thứ vẫn bình thường, cô tiếp tục giơ chân định dấn lên một bước, lập tức bị sợi dây da quật thẳng cánh vào mu bàn chân. Lỗ Thiên Liễu bất ngờ bị mất thăng bằng, lao thẳng vào gốc một cặp cây nữ trinh.

Song Lỗ Thiên Liễu đang mất đà loạng choạng vẫn không đâm trúng hai cây nữ trinh kề sát, cô đã khựng lại khi chỉ còn cách thân cây chưa đầy một bàn tay. Nguyên nhân rất đơn giản, ngày từ khi bắt đầu tiến lên, Lỗ Thiên Liễu đã quấn sợi xích của Phi nhứ bạc lên chuôi đao của Ngũ Lang. Cũng giống như những động tác phối hợp mà họ vẫn thường xuyên luyện tập, nếu xảy ra chuyện bất thường, Ngũ Lang sẽ lập tức giật đao kéo cô trở lại.

-Là dây bật tám bước! Liễu Nhi, men sát thân cây đi vòng quanh gốc, đừng đi qua khe hở giữa hai cây! - Thực ra chưa cần Lỗ Thịnh Nghĩa nhắc nhở, Lỗ Thiên Liễu cũng đã nhận ra. Nút lẫy vừa rồi là một kỹ xảo mà các "bang thòng lọng" thuần thục ngựa phương Bắc sử dụng thường xuyên nhất, chủ yếu dùng để bắt ngựa hoang, linh dương. Nói dây bật tám bước là đối với con người, còn đối với ngựa là vừa bằng một cú sải vó, đó là chính khoảng cách bật trước giật sau của sợi dây da. Song loại nút này có một khuyết điểm cực lớn, đó là đầu dây phải căng cố định[1]. Vì vậy, chỉ cần biết được độ dài của sợi dây khi nó bật ra, thì đi qua điểm căng cố định sẽ là an toàn nhất. Lỗ Thịnh Nghĩa bảo cô nép sát thân cây vòng quanh gốc, chính là đi qua điểm căng cố định.

Lỗ Thiên Liễu nép sát thân cây đi vòng quanh gốc, không gặp phải sự cố nào. Cứ đi được tám bước, cô lại tiện tay gỡ sợi dây bật tám bước ra. Làm như vậy là để đề phòng nếu như phía trước gặp phải mũi công kích không thể chống trả, có thể rút lui nhanh chóng.

Mọi người đều bám sát theo sau Lỗ Thiên Liễu, từ từ tiến lên, không ai dám kêu ca chậm chạp. Ở đây, nơi đâu cũng có thể xuất hiện những cú tấn công tàn độc và giết chóc. Nhưng thật may mắn, bọn họ không gặp thêm một cú đột kích nào. Rất có thể đối phương muốn đảm bảo độ nghiêm mật của khảm diện, nên đã không tính tới việc ngầm thiết kế đường sống bên trong, nên bản thân chúng cũng không thể ra vào nhanh chóng để ra tay tấn công.

Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đã lưu tâm đến tình hình này, ông bèn nói nhỏ với Chu thiên sư:

-Chúng ta đang đi qua khảm chặn, giống như một bức tường bao vô hình, ý đồ ban đầu là ngăn chặn không cho ai đi qua. Qua chỗ này sẽ tiến vào phạm vi hoạt động của đối phương, tiếp theo chắc chắn sẽ gặp phải trùng trùng cạm bẫy. Mọi người hãy tập trung tinh thần cao độ, vì có thể gặp phải đòn tàn sát bất cứ lúc nào!

Chu thiên sư đưa mắt quan sát rừng cây không thực rậm, rồi đưa ra một ý kiến khác:

-Khu rừng rất lớn, nên đối phương không thể đoán được chúng ta sẽ đi ra từ chỗ nào. Lỗ sư phụ, ông đừng quá lo lắng, khi ra tới rìa khảm, tôi sẽ sử dụng bùa mờ mắt để làm rối loạn đường đi che giấu hình thù, tuyệt đối không có chuyện gì đâu!

Lỗ Thịnh Nghĩa không nói gì thêm, trong lòng thầm nghĩ: "Cái vị thiên sư già này đúng là chẳng mấy hiểu biết về khảm diện! Đây là cách cục ba mươi sáu Thiên Canh chầu thánh vị, cuối cùng sẽ chỉ hướng về một vị trí, khảm diện có lớn đến đâu rồi cũng sẽ phải quay vòng trở lại".

Tốc độ di chuyển quả thực vô cùng chậm chạp. Đến tận khi trời tối mịt, họ vẫn chưa thoát ra khỏi rừng Giá Trinh. Màn đêm sập xuống cũng đồng nghĩa với nguy hiểm cận kề, nếu muốn sống sót qua đêm tối trong khảm diện của đối phương, không những cần phải có dũng khí phi thường, mà càng cần phải có những phương pháp cao minh.

Lỗ Thịnh Nghĩa nhặt lấy một cành cây, vạch vẽ một hồi trên mặt đất, cuối cùng quyết định cả bọn ngồi túm tụm thành vòng tròn tại khoảng trống ở chỗ giao nhau giữa Thiên Canh chầu thánh vị và dây bật tám bước. Vị trí này chính là phần khe hẹp nằm bên ngoài phạm vi tấn công kết hợp của nút cây và nút dây da, và cũng là góc chết mà phía đối phương không thể tiếp tục ra chiêu.

Quan Ngũ Lang đặt ngang cây phác đao trên hai đầu gối, nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt quyết liệt, không chút sợ hãi, khí thế hiên ngang hệt như lực sĩ kim cương. Ngũ Lang tuy vụng về thô kệch, song rất biết cách tập trung. Lúc này, trong đầu anh ta chỉ lặp đi lặp lại một động tác, đó là tập trung tất cả tinh khí và lực đạo để chém xuống một đao sấm sét. Anh ta muốn dùng một nhát đao đó để chặn đứng mối nguy hiểm có thể xuất hiện từ trong bóng tối.

Du Hữu Thích đặt con thuyền đồng ở sau lưng, chắn ngang con đường vừa mới đi qua. Lúc trước còn thấy vác theo con thuyền đúng là của nợ, không ngờ lúc này lại trở thành một lá chắn vô cùng kiên cố.

Ở bên ngoài con thuyền đồng, Lỗ Thịnh Nghĩa căn cứ theo phương vị "lá nghiêng vây hình tủ" rải xuống một trăm mười chiếc đinh chỉ thiên đế đĩa. Những chiếc đinh nhọn hoắt đưa qua đưa lại như con lật đật, đầu đinh chốc lại lóe lên sắc bạc rờn rợn.

Phía trước mặt Ngũ Lang không bố trí một nút lẫy phòng vệ nào, nhưng Chu thiên sư đã cắm lên mặt đất mười hai đạo bùa Hỏa vân chu sa. Tác dụng của loại bùa này là khi gặp phải luồng sức mạnh tà quái, sẽ chiếu rọi ra ánh sáng đỏ rực, khiến sức mạnh tà quái vô hình kia phải hiện nguyên hình. Tuy rằng đối phương không thể nhanh chóng băng qua khảm diện không có đường sống để tập kích bất ngờ, nhưng vẫn phải đề phòng những thủ đoạn âm tà. Vì những thủ đoạn kiểu đó không liên quan gì tới khảm nút, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và bất kỳ nơi đâu.

Trước đây, trong giới khảm tử giang hồ có quy ước rằng, chỉ cần khảm diện chưa bị phá, sẽ không được phép dùng thủ đoạn khác tấn công giết hại người bị vây khốn trong khảm. Nhưng xưa kia, từ lúc hai nhà Lỗ, Mặc bắt đầu giao tranh với nhà họ Chu, đã phải ngậm đắng nuốt cay bởi quy ước này. Vì nhà họ Chu mặc dù tinh thông nghề khảm tử, nhưng lại không thuộc về giới khảm tử giang hồ. Để đạt được mục đích, họ sẵn sàng hạ sát chiêu không từ thủ đoạn, bất chấp quy ước.

Mãi tới khi trời lờ mờ sáng, đối phương vẫn không có động tĩnh gì. Duy chỉ vào thời khắc trước lúc bình mình, khi bóng tối vẫn còn dày đặc, từ trong rừng bỗng vẳng đến hai tiếng kêu quái dị. Tuy không thực lớn, nhưng đủ khiến người nghe toát mồ hôi lạnh, rùng rợn đến muốn vỡ tim.

Người bình tĩnh nhất chính là Chu thiên sư. Yêu ma quỷ quái ông đã thấy nhiều, chí ít đã có rất nhiều hồn ma ác nghiệt đã bị tiêu diệt dưới tay ông, nên vài ba tiếng kêu quái đản hoàn toàn không thể khiến cái tâm đạo hạnh cao thâm của ông có mảy may xáo trộn.

Lỗ Thiên Liễu cũng khá vững vàng, vì ba giác trong sáng của cô không phát hiện ra bất cứ thứ gì khác thường, nên cô nghĩ rằng đó chẳng qua chỉ là tiếng chim kêu thú hú mà thôi.

Còn có một người cực kỳ trấn tĩnh nữa, đó là Quan Ngũ Lang. Không phải do anh ta đạo hạnh cao thâm, mà sau một đêm chuyên tâm tụ lực chuẩn bị sẵn sàng cho cú hạ đao, lúc này anh ta không thể gượng thêm được nữa, nên đã nhắm mắt ngủ vùi. Cơn buồn ngủ cố cưỡng lại suốt một đêm giờ mới kéo đến, lập tức khiến anh ta ngủ say như chết, ngay cả những âm thanh quái đản vừa rồi cũng không thể khiến anh ta giật mình choàng tỉnh.

Rừng núi buổi sớm mai thường khởi lên một màn sương mờ nhạt, rừng Giá Trinh cũng không ngoại lệ. Mặc dù trời đã tang tảng sáng, song trong khu rừng vẫn ngưng đọng một màn sương trắng mờ đục như sữa, khiến những thân cây sánh đôi trông mờ mờ ảo ảo, tựa như một đoàn yêu quái trùm khăn sô trắng.

-A... Giết!

Cú ra đao được ấp ủ suốt một đêm của Ngũ Lang bỗng thình lình chém ra, luồng hàn quang sắc lạnh hệt như một tia chớp rạch toang màn sương trắng đục.

Đao đã chém ra nhưng không thể thu lại. Cơ thể Ngũ Lang sau cú nhảy vọt xuất đòn, khi hạ xuống lập tức trơ ra như tượng đá trong thế xuống tấn vững chãi, hai tay nắm cứng lấy chuôi đao bằng sắt sống, chỉ còn hơi thở gấp gáp và gân cơ co giật là còn bộc lộ được sức sống hừng hực trong cơ thể anh ta. Anh đang vận lực, đang giằng co, đang dốc sức giành giật thanh đao với một sức mạnh vô hình.

Trạng thái cứng đờ bất động chỉ là tạm thời. Một loáng sau, hai cánh tay của Ngũ Lang đã run lên bần bật, hai chân đang xuống tấn cũng bắt đầu di dịch. Song những điều này vẫn chưa có gì đáng kinh ngạc, quái đản hơn nữa là thanh đao trên tay anh ta bắt đầu nhuốm đỏ, từ mũi đao lan đến thân đao, chuôi đao rồi tới đôi tay của Ngũ Lang. Cuối cùng ngay cả khuôn mặt của Ngũ Lang cũng đỏ rực lên, hệt như tưới máu, hệt như lửa cháy.

Thân thủ của Chu thiên sư chớp mắt đã trở nên nhanh nhẹn khác thường, thật khó tưởng tượng đó là một ông già đã ngoài sáu chục. Ông xoay nghiêng người lại, xoạc ngang một bước đã tới bên cạnh thanh đao, tay trái phắt một cái rút từ vạt sau tấm đạo bào ra một đạo bùa màu vàng, tay phải móc ra một bình sứ màu chàm từ trong túi vải đeo chéo sau lưng. Sau đó dùng ngón tay trỏ và ngón giữa của tay trái kẹp chặt đạo bùa, ngón cái tay phải bật mở nắp bình sứ.

-Một sách chia làm trăm trang giấy, một trang chia làm hai đường thông. Âm không được dương dùng, dương không mở cửa âm. Ánh trời xanh xanh, ngẩng đầu thần linh, tám phương khí tịnh, thù oán đều bình. Thái Thượng Lão Quân, gấp gấp theo sắc lệnh! – Chu thiên sư lầm rầm một đoạn chú ngữ, rồi vung mạnh tay trái, lá bùa lập tức bốc cháy rừng rực. Tàn tro vừa tơi tả bay lên, chiếc bình sứ trong tay phải cũng đổ xuống mũi đao. Tư thế của tay cầm bình như muốn đổ ra thứ gì đó, nhưng lại không có thứ gì chảy ra. Song động tác vừa hoàn thành, sắc đỏ như máu trên thanh đao đã nhạt đi nhanh chóng. Tiếp đó, sắc đỏ trên chuôi đao và tay, mặt Ngũ Lang cũng lần lượt tiêu biến. Sắc mặt vừa trở về trạng thái bình thường, Ngũ Lang lập tức hai chân mềm nhũn, "phịch" một cái ngã ngồi xuống đất, cây phác đao cũng rơi thẳng xuống đập đánh "choang" vào đá tảng, hoa lửa bắn tung.

Chú thích

[1] Có nghĩa là để sợi dây có đủ lực đàn hồi, cần phải cố định chắc chắn trên mặt đất.

Chương 2: Đường quay đầu

Chu thiên sư thở ra một hơi thật dài, rồi quay người lại. Lỗ Thiên Liễu đứng ngay phía sau đã nhìn thấy trên trán ông lấm tấm mồ hôi.

-Suýt chút nữa thì sơ sảy! - Lời nói của Chu thiên sư nghe như tự trách mình - Cứ nghĩ đối phương sẽ sử dụng ma đêm, thật không ngờ bọn họ còn có thể điều động ma rạng sáng.

Lỗ Thiên Liễu nghe vậy, cảm thấy hiếu kỳ, liền hỏi:

-Thiên sư, thế nào là ma đêm, thế nào là ma rạng sáng?

-Ma đêm là loài ma quỷ hoạt động vào ban đêm. Tức là những loại khí âm uế như khí xác chết, khí đầm lầy tích tụ trong ngóc ngách, dưới mặt đất, chỉ xuất hiện sau khi ánh dương minh đã tắt. Những loại khí này hòa quyện với nhau sẽ tạo ra được một sức mạnh kỳ lạ, đây cũng chính là ma quỷ trong quan niệm của người thường. Còn ma rạng sáng chỉ xuất hiện vào thời khắc chuyển giao giữa sáng và tối, vào lúc sắc trời âm u mờ mịt. Loại khí này thường là sự tụ tập của huyết khí và sát khí, không có dương minh sẽ không xuất hiện, nhưng dương khí mạnh sẽ lập tức tiêu tán; có âm ám sẽ không xuất hiện, đến khi âm ám lui sẽ hiện ra. Cũng tương tự như các hiện tượng trúng tà, gặp sát mà dân gian thường nói. – Chu thiên sư nói liền một mạch, có thể thấy rằng cách giải thích của ông về ma quỷ có nhiều khác biệt so với cách lý giải của nhà họ Mặc và cách hiểu của Lỗ Thiên Liễu.

-May mà trời vừa rạng sáng cậu Ngũ liền ngủ thiếp đi, nếu không, chúng ta sẽ không thể phát hiện ra đòn tập kích của lũ ma rạng sáng. Âm lực của chúng trái ngược với lũ ma đêm. Nếu chúng ta tỉnh táo sẽ phát hiện được ma đêm, nhưng đối với ma rạng sáng, chúng ta chỉ có thể phát giác khi đã ngủ say!

Quan Ngũ Lang bị lũ ma rạng sáng quấy phá, lập tức tỉnh ngủ, không còn muốn chợp mắt thêm nữa. Có điều thần thái có phần uể oải, sắc mặt lờ đờ. Cũng khó trách, gặp phải ma quỷ, chắc chắn tinh thần cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.

-Sao trông thất thần thế? Sợ rồi à? Chỉ là gặp ma thôi mà, ai chết mà chẳng ra ma. Nào, làm một hớp rượu lấy lại tinh thần đi! – Dù sao Thủy Du Bạo cũng đã già đời, lại ở trên núi Long Hổ khá lâu, chẳng còn lạ lẫm gì những chuyện ma quỷ phá phách, nên chủ động đến an ủi Ngũ Lang.

Ngũ Lang vừa ngẩng đầu lên, còn chưa kịp phản ứng đã bị Thủy Du Bạo đổ cho hai ngụm rượu, ho sặc ho sụa. Nhưng anh ta lập tức đứng bật dậy, không biết do rượu phát huy tác dụng, hay là bị kích động bởi lời nói của Thủy Du Bạo.

-Cho dù có sợ cũng không phải ngại. Nếu không có nhát đao của cậu, không chừng cả bọn đã bị ma quỷ bắt mất hồn rồi! - Thủy Du Bạo đang nói thực tình, nhưng dường như trong lời nói còn có ẩn ý gì khác. Chu thiên sư bất giác khẽ nhíu lông mày.

Đợi sau khi sương mù tan hết, trời sáng hoàn toàn, bọn họ mới tiếp tục di chuyển về phía trước. Nhưng lúc này, một vài khuôn mặt đã lộ rõ vẻ sợ hãi. Kể cũng khó trách, người thì mất tích, người thì bị thương, lại gặp ma ngay lúc ban ngày, áp lực đang đè trĩu tầng tầng trong tâm não họ. Đoạn đường phía trước hệt như một địa ngục vô tận, trong khi bọn họ mới chỉ bắt đầu cất những bước khởi hành.

Lại mất hơn nửa ngày trời, họ mới thoát ra khỏi rừng Giá Trinh. Vừa ra khỏi rừng, Chu thiên sư lập tức đốt lên hai bó hương thanh tà ổn chân, cộng thêm lá bùa hư hình để làm màn che mắt. Song hành động này có vẻ như thừa thãi. Bên ngoài khu rừng lá reo chim hót, hết sức bình yên, không hề có cảnh giết chóc trùng trùng như Lỗ Thịnh Nghĩa đã nói. Đầu óc căng như dây đàn của mọi người bởi vậy cũng giãn ra một chút.

Nhưng Chúc Tiết Cao lại chậm rãi tạt cho mọi người một gáo nước lạnh:

-Cảnh tượng ở đây đã khác hẳn so với miêu tả của các tiền bối nhà tôi. Nhìn vào cách phân bố và phạm vi, cũng khác hẳn với những vùng rừng núi thông thường, hình như tồn tại một quy luật sắp đặt do con người tạo ra.

Lỗ Thiên Liễu cũng đã nhận thấy, mặc dù vị trí và hình dạng của cây cối, cỏ bụi ở đây cũng mỗi thứ một vẻ, những viền ngoài của chúng gọn ghẽ trơn tru, không đan xen rối loạn vào nhau. Chỉ cần nhìn vào một điểm này, đã có thể khẳng định chúng do con người chăm sóc xén tỉa. Không những thế, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã phát giác ra mùi máu tanh ẩn hiện trong gió nhẹ.

-Chú Chúc, cháu thấy chỗ này có tà khí, liệu còn con đường nào khác không? - Lỗ Thiên Liễu hạ giọng hỏi Chúc Tiết Cao. Chúc Tiết Cao không nói gì, chỉ khẽ lắc đầu.

-Anh Lỗ, căn cứ theo lộ số trong nghề khảm tử, chúng ta cần phải tìm ra con đường chính xác để tiến lên, nếu đi lầm chỗ không có đường, sẽ là đường chết! – Du Hữu Thích nói nhỏ với Lỗ Thịnh Nghĩa, nhưng lời nói tuy khẽ, vẫn bị một người khác nghe thấy, đó là Thủy Du Bạo đứng cách đó khá xa.

-Đằng kia có đường! – Lão bếp già Thủy Du Bạo mắt mũi kèm nhèm lại tìm ra đường đi đầu tiên. Ở chỗ giao nhau giữa hai mảng rừng một vàng một xanh rõ rệt, lấp ló một dãy bậc đá trắng toát.

-Đằng kia có chim! – Còn có người mắt tinh hơn Thủy Du Bạo, chính là đứa tiểu đồng của Chu thiên sư.

Từ chỗ họ đang đứng đến dãy bậc thang lát đá trắng là một sườn dốc thoai thoải rất rộng lớn, một màu cỏ mướt xanh rờn, hệt như một tấm thảm Ba Tư tinh xảo. Đám chim chóc đang đậu trên bãi cỏ, không lớn, chỉ cỡ nắm đấm, lại mang bộ lông màu nâu pha lục, mắt không tinh rất khó phát hiện ra.

Tiểu đồng dù sao cũng chỉ là một đứa trẻ ham vui, lập tức nhón chân chạy vụt đi, khẽ khàng đến gần đàn chim. Khi còn cách đàn chim chưa đầy hai chục bước, lũ chim vẫn ngóc cái mỏ dài, lắc đầu ngó nghiêng kiếm mồi trong cỏ, chẳng có phản ứng gì.

Đến khi đứa tiểu đồng chỉ còn cách đàn chim chừng chục bước, lũ chim mới bắt đầu hoảng hốt, bỏ chạy tán loạn.

-Thì ra là giống chim đần không biết bay. Nhìn mấy con kia xem, đến chạy cũng lạch bà lạch bạch. Lát nữa có thịt chim ăn rồi! – Du Hữu Thích thấy vậy cũng bắt đầu tỏ ra khoái chí. Tay đệ tử của hắn và đệ tử của Chu thiên sư cũng đã chạy vọt lên, vây lấy đàn chim từ hai phía.

-Đừng! - Lỗ Thiên Liễu hét lên.

Là Du Hữu Thích đã khiến cô sực tỉnh. Vừa nãy, nhìn thấy đàn chim, cô cũng cảm thấy thú vị, nhưng vừa nghe Du Hữu Thích chê bai lũ chim đến chạy cũng không nhanh, thính giác nhạy bén của cô đã phát hiện ra tiếng cọ xát và gõ đập của kim loại. Đó là thứ âm thanh đặc thù chỉ xuất hiện khi các chốt trục xoay chuyển, co kéo, mà nguồn gốc của chúng lại chính là lũ chim không biết bay kia! Đồng thời, thứ mùi máu tanh phảng phất mà cô vừa ngửi thấy hình như cũng tập trung trên cơ thể chúng.

-Đừng! – Tiếng hét đến lạc giọng của Lỗ Thiên Liễu có phần hơi muộn, đứa tiểu đồng đã lao người vồ về phía con chim. Trong khoảnh khắc đó, có người lờ mờ nhận ra, có người nhìn thấy rõ rành rành con chim vừa tháo chạy đã quay đầu lại, lao vút về phía tiểu đồng.

Con chim đã bị chụp lấy, nhưng đứa tiểu đồng đã không bao giờ còn đứng dậy được nữa.

Hai tay đệ tử vội vã dừng ngay bước chạy trên sườn dốc phủ rợp cỏ xanh. Nhưng vạt cỏ trơn mượt cộng thêm quán tính của đà chạy đã khiến chúng trượt thẳng đi phải hơn chục bước mới dừng lại được.

Nhưng lúc này, những con chim chỉ biết chạy lạch bà lạch bạch bỗng tung mình bay lên, mặc dù bay không cao, song cũng đủ để chúng lao thẳng xuống đầu hai kẻ vừa dừng bước.

Cả hai lập tức kẻ khua đao người múa kiếm vội vã đỡ đòn. Nhưng thật bất ngờ, đao kiếm va đập vào thân chim lại bật ra những tiếng loảng xoảng như chém vào kim loại, hoa lửa bắn ra tung tóe.

-Chim cắt thép! Là chim cắt thép! Mau nằm rạp xuống, rạp người sát đất! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa quát lớn, vừa lôi ra hộp mưa đinh Tý Ngọ. Hộp mưa đinh Tý Ngọ bình thường được dùng để đựng đinh thợ mộc, đinh lớn mũ vuông, đinh đuôi dẹt, đinh xoắn ốc, đinh chốt, đinh nhỏ... đều được đựng trong hộp, mỗi thứ một ngăn, sử dụng vô cùng thuận tiện. Nhưng chỉ cần xoay nút Tý Ngọ dưới đáy hộp, đinh trong hộp sẽ được lò xo bắn đi tới tấp, biến thành một trận mưa đinh.

Nhưng khi chạy đến gần, Lỗ Thịnh Nghĩa mới phát hiện ra lũ chim trước mắt không hoàn toàn giống như chim cắt thép trong trí nhớ của mình. Mặc dù chiếc hộp mưa đinh Tý Ngọ được tổ tiên nhà họ Lỗ thiết kế chuyên để đối phó với chim cắt thép, nhưng liệu nó có tác dụng với đám nút di động na ná như chim cắt thép trước mặt hay không, Lỗ Thịnh Nghĩa thực không dám chắc.

Đệ tử của Du Hữu Thích xuất thân trộm cướp, quen nghề chém giết mưu sinh, kinh nghiệm chiến đấu khá phong phú. Nghe thấy tiếng quát của Lỗ Thịnh Nghĩa, bèn vung đao chém thẳng xuống, cơ thể thuận thế đổ về phía trước, rạp sát mặt cỏ mà lao đi. Hai con cắt thép lao vọt qua sát trên người hắn, một chiếc mỏ thép cày rách toạc mông quần, lông cánh của con cắt thép còn lại hớt bay một nhúm tóc sau gáy hắn.

Đệ tử của Chu thiên sư cũng đã đổ người rạp xuống, nhưng là bị đâm ngã. Chiếc mỏ nhọn hoắt của một con cắt thép đã dùi thẳng vào vai hắn, xung lực của cú đâm đẩy hắn ngã nhào. Con cắt thép không chịu buông tha, chiếc mỏ thép vẫn cắm chặt vào vai, trong khi hai bộ móng vuốt nhọn hoắt và đôi cánh sắc lẹm cào bới liên hồi, chớp mắt đã máu phun thành tia, thịt da tung tóe. Nếu không phải Chu thiên sư kịp thời chạy đến, có lẽ toàn bộ phần vai trái của gã đã đi tong.

Chu thiên sư quả nhiên thân thủ phi phàm, một kiếm đâm ra, lập tức hất văng con cắt thép đang bám chặt trên vai đệ tử, lại vùn vụt chém sang trái phải, đánh rơi hai con chim thép đang xáp tới. Nhưng đột nhiên, từ trong thảm cỏ ồ ạt lao ra cả một đàn cắt thép, bay thẳng về phía ông. Ông đã không kịp ứng phó, thậm chí không còn đủ thời gian để rạp người xuống tránh.

Một đóa hoa cỡ lớn màu vàng chanh bỗng nở xòe ra trước mặt Chu thiên sư, cánh hoa nhỏ dài mềm mại, bóng mượt long lanh như nước chảy. Những cánh hoa vừa xòe rộng, toàn bộ đàn chim cắt thép đang lao đến đã bị bọc kín vào trong.

Cuống của đóa hoa đang nằm trong tay Chúc Tiết Cao, thì ra nó chính là bó nan tre quấn quanh lưng gã. Nhưng khi gã thợ nan vung bó nan ra, trông nó còn mềm mại linh động hơn cả hoa thực.

Những sợi nan tre nhỏ dài mềm mại đã quấn chặt lấy cánh sắc và vuốt nhọn của bầy cắt thép. Có thanh nan cùng lúc trói liền mấy con, có con cùng lúc bị mấy thanh nan trói chặt. Bầy chim thép vùng vẫy loạn xạ, va đập choang choảng vào nhau, song không thể thoát khỏi những sợi nan dẻo quẹo. Chúng càng vùng vẫy, lại càng bị trói chặt.

Lại có một bầy cắt thép nữa lao vụt ra từ trong bãi cỏ. Lỗ Thịnh Nghĩa đã chạy đến nơi, chiếc hộp mưa đinh Tý Ngọ chĩa thẳng về phía bầy chim, lẫy lò xo bật mở, một trận mưa đinh đen kịt, dày đặc phóng thẳng về phía đàn chim.

Cả bầy cắt thép lập tức rơi xuống rào rào, chỉ nghe thấy hàng tràng những tiếng cọt kẹt khô khốc. Những chiếc đinh đủ mọi hình thù vừa phóng ra từ hộp mưa đinh Tý Ngọ đã luồn lách vào các khe hở trên mình chim thép, chốt lẫy bên trong lập tức bị kẹt cứng.

-Mọi người cẩn thận, nhìn kỹ xem còn con nào nữa không! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa nói vừa chuyển hộp đinh cho Lỗ Thiên Liễu, rồi cúi xuống nhặt lấy một con chim cắt trúng đinh trên mặt đất – Phương pháp chế tạo khá giống với chim gỗ của nhà họ Lỗ, nhưng lại được làm từ thép ròng, ngoại hình, động ác giống hệt chim thật, kỹ thuật quả thực cao hơn Lỗ gia một bậc!

-Đúng là giống y như thật. Chúng gọi là chim cắt thép ư? - Lỗ Thiên Liễu nhìn con chim thép trong tay Lỗ Thịnh Nghĩa, không giấu được vẻ kinh ngạc.

-Chim cắt thép có lẽ là tên gọi chung, khi chế tạo sẽ căn cứ theo hình dáng thực tế của loài chim bản địa, như vậy mới che mắt được. Nhưng thực kỳ lạ, lũ chim hoạt động nhờ lò xo, lại không có que gậy điều khiển, làm sao lại biết tấn công con người? - Lỗ Thịnh Nghĩa cũng cảm thấy lạ lùng.

Tay đệ tử của Chu thiên sư mặc dù đang đau đớn đến nghiến răng nghiến lợi, mặt mũi méo xệch, song vẫn muốn khoe khoang kiến thức:

-Mọi người không nhìn thấy cần cổ của chúng ư. A...! Chấm đỏ phía dưới... A... Đó là "thị huyết định", là thứ yêu pháp bắt nguồn từ Tây Vực...

Đúng lúc này, vọng đến tiếng kêu đau đớn của Chu thiên sư. Đứa tiểu đồng ngã sấp được nhẹ nhàng lập ngửa lên, nó đã bị chiếc mỏ dài sắc ngọn của con chim thép mổ xuyên qua tròng mắt, đâm sâu vào tận não trái. Phần cổ cũng bị đôi cánh và bộ vuốt sắc bén như dao cào rạch nát bươm, chỉ còn là một đám máu thịt bầy nhầy.

Cái chết của đứa tiểu đồng quả thực rất thương tâm, song lời cảnh báo từ đó lại là hiện thực: hãy mau chóng quay về?

Nếu theo như lộ trình mà Chúc Tiết Cao đã nói, phía trước còn phải vượt qua một chặng đường khá dài. Đó là chưa kể đến thung lũng Ngộ Chân, nơi mà đến một lần sẽ ngộ ra được ý nghĩa chân thực của sự sống và cái chết. Phía trước sát khí trùng trùng, không biết còn bao nhiêu sát chiêu tàn độc đang rình rập.

Tiểu đồng chết thảm, đệ tử bị thương, Chu thiên sư phải hứng chịu nỗi mất mát to lớn nhất, thế nhưng quyết tâm tiến lên phía trước của ông lại càng trở nên mãnh liệt.

Kiên định không kém chính là Du Hữu Thích. Gia tộc đã bị cắt đứt mạch phong thủy, nhà tan người mất, hậu vận bị phá hủy hoàn toàn. Trên đời này, loại người đáng sợ nhất chính là kẻ bần cùng! Đương nhiên, bần cùng không chỉ là nghèo khổ, mà là không còn bất cứ thứ gì để mất, không còn bất cứ thứ gì lưu luyến. Thử hỏi nếu rơi vào thảm cảnh như hắn, còn thứ gì có thể ngăn cản hắn tiến lên?

Thế nhưng quyết tâm tiến lên của Du Hữu Thích là có mục đích, hắn khao khát thoát ra khỏi cảnh ngộ hiện tại, muốn thay đổi số mệnh cùng cực. Còn bậc tu hành đạo hạnh cao thâm như Chu thiên sư, vì lẽ gì phải bất chấp tất cả để tiến lên? Là vì tấm lòng từ bi muốn cứu nhân độ thế, hay là vì sứ mệnh ban đức tạo phúc trời trao?

Chúc Tiết Cao rất kiệm lời, song gã luôn quan sát kỹ lưỡng cách phản ứng của mọi người trước những khảm diện, nút lẫy. Trong lúc quan sát, thần thái của gã dần dần lộ ra một vẻ hào hứng và phấn khích khó giấu giếm, bên trong thân hình lờ đờ chậm chạp dường như có một linh hồn cuồng dại sẵn sàng thoát xác lao ra. Gã cũng không muốn rút lui, có lẽ gã đã tìm thấy niềm hứng khởi và vui sướng chưa từng có từ trong nguy hiểm, hoặc giả gã đã phát hiện ra niềm hy vọng hiện thực hóa ý nghĩa cuộc đời từ một người nào đó.

Còn những người nhà họ Lỗ chắc chắn càng không chịu lui bước. Như vậy, chỉ còn lại một mình Thủy Du Bạo. Du Hữu Thích thấy tình thế đã đến nước này, lão bếp già có thể theo tận đến đây cũng đã nằm ngoài dự tính. Bây giờ trông chừng lão để giữ bí mật cũng chẳng còn ý nghĩa gì, liền chủ động giải phóng cho lão:

-Này ông Thủy, ông hãy quay về đi! Nếu còn đủ sức, giúp tôi đưa người anh em đang nằm ở bìa rừng cùng về nhé!

-Tại sao tôi phải quay về? Đi qua khu rừng khi nãy, chỉ cần một thằng ranh lao ra là đủ bóp chết tôi rồi, đi theo mọi người vẫn an toàn hơn. Mà nữa, tại sao người không cho đệ tử của người quay về? - Thủy Du Bạo rất tinh ranh, lão vừa mở miệng đã chỉ ra ngay vấn đề mà người khác rất dễ bỏ qua, đó chính là vấn đề sinh tồn mà chỉ có người lăn lộn nhiều năm trong giang hồ mới hiểu được.

Du Hữu Thích gượng cười nhăn nhó nhìn gã đệ tử. Sau cú tấn công của chim cắt thép, cậu chàng vẫn mặt mày tái mét chưa hồi lại được. Dù cơn khiếp sợ chưa lui, nhưng hắn vẫn không chịu quay về, chỉ nói với Du Hữu Thích một câu gọn lỏn:

-Cái mạng này của con nằm trong tay sư phụ! – Nói xong, ngấn lệ trong mắt như chực trào ra.

Tất cả đều không muốn quay lại, nên chỉ còn cách tiếp tục dấn bước trên con đường đầy bất trắc. Thi thể của đứa tiểu đồng được chôn cất ngay tại đầu đường.

Chu thiên sư làm như vậy là để lưu lại một mốc dẫn hồn, phòng khi bất trắc có thể dẫn mọi người thoát ra đúng hướng.

Vệt trắng lấp ló mà Thủy Du Bạo nhìn thấy phía xa đích thực là một con đường lát đá trắng, nổi bật trong màu xanh mướt mát của cây rừng.

-Chớ đi theo con đường này! Ở nơi hoang sơn cùng cốc tự dưng lại xuất hiện một con đường đẹp đẽ tinh xảo đến thế, bên trong chắc chắn có chỗ khó lường! – Có vẻ Chu thiên sư đã lĩnh ngộ được mức độ nguy hiểm của khảm diện nút lẫy mà trở nên thận trọng hơn hẳn.

-Ông còn đường nào khác không? – Không phải Chúc Tiết Cao hỏi xóc Chu thiên sư, gã thực tâm hy vọng ông lão thần thông kia nghĩ ra được chiêu thức thần kỳ nào đó.

Chu thiên sư cũng không lưu tâm xem Chúc Tiết Cao có ý gì, chỉ hạ giọng nói khẽ:

-Tôi nghĩ rằng cậu có!

-Con đường này được lát bằng đá tuyết ngọc, là một loại đá phèn. Vì chất đá có mật độ không cao, nên các sắc tố tạp chất trong đá sẽ bị mưa nắng lâu ngày rửa trôi. Thời gian càng dài, màu sắc càng trắng sáng. Nhìn vào độ tinh khiết của mặt đá nơi đây, có thể thấy con đường này chí ít cũng đã có từ hơn năm trăm năm về trước. - Lỗ Thiên Liễu sau khi quan sát kỹ lưỡng mặt đá, bèn lẩm bẩm một mình.

Kỳ thực kiến thức về đá của nhà họ Lỗ không thực sự phong phú, song Lỗ Thiên Liễu có một người bạn vong niên là tay thợ đá Thạch Hóa Tùng người Lạc Sơn, Tứ Xuyên. Thạch Hóa Tùng, giang hồ quen gọi là "thần đá Hóa Tùng", rành rẽ các loại đá trong thiên hạ như lòng bàn tay, yêu thích đá đẹp đá lạ còn hơn cả mạng sống. Phần lớn những hiểu biết về đá của Lỗ Thiên Liễu đều học được từ ông ta.

-Chính xác! Con đường đá trắng này trước đây đã có, cư dân ở đây đều biết đến. Tổ tiên có kể lại rằng đây là con đường thiện nhân, hay còn gọi là đường quay đầu. Năm xưa, ở đầu con đường còn có một tấm bia đá, trên bia có khắc dòng chữ: "Đường trắng đi mất trắng, chi bằng hãy quay đầu". Thế nhưng những người đã đi qua con đường này đều không gặp chuyện gì bất trắc, trừ khi họ sa vào thung lũng Ngộ Chân. Vì vậy, câu văn trên bia đá hẳn là có ý khuyên mọi người không nên đến thung lũng Ngộ Chân. Vả lại hai bên con đường mọc nhiều cây thuốc, quả rừng, gỗ tốt, nên dân cư trong vùng thường chưa cần đi hết con đường đã thu hoạch được kha khá mà quay trở về luôn, ngoại trừ những kẻ lòng dạ quá tham lam. Nhưng bây giờ thì rất khó nói, bia đá đã biến mất, khu rừng cũng đổi khác. Giờ đây nó là đường thiện nhân hay đường sát nhân, phải đi qua mới biết được! – Chúc Tiết Cao nói liền một tràng.

Không ai tinh tế bằng phụ nữ. Nghe những lời của Chúc Tiết Cao, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy có điều gì bất ổn. Ở đây có một con đường thần bí và quan trọng như vậy, tại sao gã lại không hề nhắc đến ngay từ đầu.

Gã quên ư? Nếu xét theo tính cách của một con người bình thường, những nơi chỉ đi qua một lần sẽ rất khó quên, có thể nhắc đi nhắc lại suốt một đời người. Bên cạnh đó, những nơi bản thân cư trú lâu năm, người ta sẽ cảm thấy chẳng có điều gì đáng nói. Nếu như Chúc Tiết Cao đã quên thực, thì chỉ có một lý do duy nhất, chính là gã đã quá quen thuộc con đường này, nên trong tiềm thức đã cảm thấy không cần thiết phải kể cho bọn họ.

Trước khi đến đây, Chúc Tiết Cao còn khăng khăng nơi này đã hơn trăm năm không ai bén mảng, vậy tại sao gã lại thông thạo con đường này đến thế?

Nhưng ở một nơi nguy hiểm trùng trùng lại nhiều mâu thuẫn như nơi đây, trong một thời khắc rất cần đến sự tin tưởng và tương trợ lẫn nhau như lúc này, một số điều nghi ngờ tốt nhất là không nên nói.

Lỗ Thiên Liễu không hỏi gì, chỉ lẳng lặng thi triển chiêu thức cánh tay xích. Quả cầu thép trên đầu Phi nhứ bạc nảy tưng tưng trên các bậc thang đá. Sau khi xác nhận không thấy điều gì khác lạ, cô mới dẫn đầu đoàn người bước lên con đường đá trắng như tuyết.

Bỗng một thân hình vạm vỡ lách qua bên cạnh băng lên. Là Quan Ngũ Lang, anh ta đã tranh lên trước Lỗ Thiên Liễu đặt bước chân đầu tiên trên con đường đá...

Chương 3: Chạy thục mạng

Đúng như lời Chúc Tiết Cao đã nói, hai bên con đường đá trắng quả thật có rất nhiều loài thảo mộc kỳ lạ, nhiều tán cây quả chín sum suê. Quả là bất thường, lúc này mới chỉ đầu xuân, vạn vật mới kịp nhú lộc đâm chồi, thế mà cây cối đã sai trĩu quả vụ thu. Nhìn từ xa, quả nào quả đấy mẩy căng mọng nước, nhìn mà ứa nước miếng. Nhưng nhớ lại bài học khi nãy, không một ai dám nghĩ đến việc nếm thử.

Đoàn người di chuyển không nhanh, nhưng con đường đá trắng chẳng mấy chốc đã kết thúc. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì đây vốn dĩ không phải là con đường để đi, mà để người ta kịp thời quay đầu lại.

Nhưng không một ai quay đầu lại. Mà không quay đầu, tức là phải đi theo con đường khó khăn gấp bội. Du Hữu Thích đã bỏ lại con thuyền đồng, vì mang nó theo quá tốn công. Khi bọn họ sắp xếp những vật dụng trên thuyền, Chúc Tiết Cao tiện thể đi một vòng quan sát địa hình xung quanh. Vị trí này nằm ở lưng chừng sườn núi, bên cạnh có một khe núi thấp ngoằn ngoèo lượn qua. Trong khe núi, từ ngọn cỏ, bụi rậm, cho đến cây cối hai bên, đều nghiêng chênh chếch theo cùng một hướng. Xem ra vào mùa mưa, nơi đây hẳn là một con sông. Vị trí của các gốc cây nghiêng ngả ở khá cao, chứng tỏ lượng nước chảy qua không hề ít. Rất có thể đây là con sông xả lũ chủ yếu của vùng núi này. Du Hữu Thích co cẳng đá bay con thuyền đồng xuống khe núi. Con thuyền lăn lóc mấy vòng rồi biến mất tăm trong đám cỏ ngải cao rợp.

Nơi có đường chưa chắc đã đi được, nơi không có đường chưa chắc đã không đi được, điều khiến người ta phân vân nhất chính là có tới mấy con đường cùng hiện ra trước mắt. Lúc này, có đi được hay không, chỉ trong một ý niệm.

Trước mắt bọn họ có hai con đường, nhưng rắc rối hơn nữa là Chúc Tiết Cao và Chu thiên sư mỗi người đều khăng khăng với một con đường khác nhau. Theo lý thì nên nghe lời Chúc Tiết Cao, dù sao đây cũng là nơi mà tổ tiên gã đã từng sinh sống. Nhưng Chu thiên sư cho rằng bản thân Chúc Tiết Cao chưa từng đặt chân đến nơi này, vả lại những chặng đường mà gã đã dẫn họ đi qua, không có chặng nào được thuận lợi suôn sẻ.

Quyết định của Chu thiên sư được đưa ra sau một hồi phân tích kỹ lưỡng. Nhìn vào sự khác biệt về màu sắc cây rừng và cách bố trí của cây cối, ông ta đã nhận ra vạt rừng phía trước rất giống với đồ hình "Hư thăng phân thanh" của Đạo gia. Đồ hình "Hư thăng phân thanh" là để dạy cho người mới tu đạo cách khống chế thất tình lục dục khi nhập hư đề thăng, giấu chúng vào các bộ phận khác nhau trên cơ thể, sau đó đưa một mạch khí thanh linh quanh co chảy qua đó, cuối cùng đến được linh khiếu. Con đường mà Chu thiên sư lựa chọn, thế uốn lượn của nó rất hợp với đường đi của khí mạch xuyên qua đồ hình "Hư thăng phân thanh".

-Cậu Chúc, con đường mà cậu lựa chọn có lẽ đúng là con đường mà tổ tiên đã nói, nhưng nếu trong hơn trăm năm nay đối phương đã thay đổi nó rồi thì sao? – Chu thiên sư vẫn rất điềm đạm từ tốn, giọng điệu khách khí như muốn thương lượng. Song lời nói của ông kể cũng có lý, con đường mà Chúc Tiết Cao lựa chọn hoàn toàn dựa vào thông tin do tổ tiên truyền lại, trong khi đối phương rất có thể đã giăng cạm bẫy nhằm vào những thông tin này.

-Tôi không biết con đường tôi chọn có chính xác hay không, nhưng tôi biết cách để đi qua con đường này! – Chúc Tiết Cao rất cứng rắn, tính cách của gã khác hẳn với đám nan tre mềm dẻo cong thẳng hợp thời trong tay gã. Có lẽ là do gã sống lâu năm trong núi, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

Lỗ Thiên Liễu đang đứng bên cạnh lại phát hiện ra điều mâu thuẫn trong lời nói của Chúc Tiết Cao: "Hắn biết cách vượt qua con đường đã bị khảm tử gia khống chế suốt trăm năm? Hắn đã đi qua, hay có người dạy hắn cách đi qua? Không hiểu tay thợ nan này rốt cuộc là thần thánh phương nào?".

-Anh Lỗ, nếu anh tin tôi hãy theo tôi. Nếu không tin, các bị cứ việc đi theo thiên sư, tôi sẽ ở đây đợi mọi người! - Lời lẽ của Chúc Tiết Cao vẫn hết sức bình thản, không hề có vẻ khiêu khích hay thách thức.

-Nếu không thể ngã ngũ, chúng ta cứ chia đôi đường mà đi, ai thích theo ai thì cứ việc! – Du Hữu Thích thấy hai người đều rất mực kiên quyết, bèn đưa ra một ý kiến dở ẹc.

-Cậu đã biết cách vượt qua, vậy chúng ta vẫn sẽ theo cậu. Nếu không đúng thì quay trở lại, mất thêm một ngày nửa buổi cũng chẳng đáng là bao! – Chu thiên sư dù sao cũng là người tu hành, nên đã chủ động nhượng bộ. Ông hiểu rõ, hiện tại bọn họ chỉ còn lại mấy người, nếu lại phân tán lực lượng, đừng nói tới việc thành công hay không, ngay đến chuyện bảo toàn mạng sống trở ra cũng đã rất khó đảm bảo.

Có lẽ Chúc Tiết Cao đã đúng. Đi theo con đường mà gã lựa chọn, trước mắt hiện ra một vùng non nước đẹp tươi, đất phủ cỏ thơm cây khoe quả đẹp, không hề có một dấu hiệu nguy hiểm.

Người khác nghĩ thế nào thì không biết, nhưng mấy người nhà Lỗ gia càng đi càng cảm thấy nặng nề. Khảm tử gia đều hiểu rõ, ở những khu vực có diện tích lớn sẽ không thể thiết kế khảm diện liên tiếp, chỉ có thể đặt khảm nút ở vài nơi hiểm yếu, cũng chính là chặn giữ cửa ải. Chỉ khi không thật tin tưởng vào khảm nút đã đặt, mới phải bày thêm các nút giết ở dọc đường, mà giới khảm tử gọi là "nút đường" hay "nút dây", tác dụng chủ yếu là tiêu hao bớt sức mạnh của người phá khảm. Lúc này, họ đã đi được chừng nửa ngày đường, mà không hề đụng độ với một nút đường của đối phương, tất cả đều bình thường như các vùng sơn thủy khác. Đường cũng bằng phẳng dễ đi, không có đoạn nào phải leo trèo vất vả, quả thật rất bất thường...

Ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra có rất nhiều vật sống đang lượn lờ quanh họ, nhưng lại không xông ra tấn công hay cản đường.

Bước đi của Lỗ Thiên Liễu mỗi lúc một chậm, rồi dần dần rớt lại phía sau đoàn người. Nhưng sau khi bỏ cách những người đi trước một đoạn, cô liền phát hiện ra rằng bọn họ đang bị bao trùm bởi những tia sáng xuyên qua khe lá, giống như vừa được dát vàng. Trên cơ thể họ phản chiếu màu sắc của các loại lá cây, xanh vàng loang lổ.

-Ồ! - Lỗ Thiên Liễu nhìn xuống người mình, tại sao cô lại không giống như bọn họ? Lúc nãy khi đi cùng bọn họ, cô không chú ý, lúc này cách xa mới nhìn thấy. Phải chăng hiện tượng này thi thoảng mới xuất hiện trong đám cành lá một cách ngẫu nhiên?

Không đúng! Không phải là ngẫu nhiên! Lỗ Thiên Liễu lập tức bừng tỉnh. Thảo nào đối phương không trực tiếp đối đầu với họ, vì bọn họ đã vô thức sa vào khảm diện, đối phương cho rằng tình cảnh hiện giờ của bọn họ không đáng để chúng ra tay.

-Khoan đã! Hình như chúng ta đi nhầm đường rồi! - Lỗ Thiên Liễu không dám nói thẳng rằng bọn họ đã sa vào khảm diện, chủ yếu vì lo sợ sau khi biết được sự thực, một số người khó tránh hoảng loạn. Cần phải tuyệt đối giữ bình tĩnh, không được để đối phương biết mình đã phát hiện ra. Nếu không rất có thể họ sẽ thay đổi khảm diện.

-Làm gì có! Chúng ta còn chưa gặp một ngã rẽ nào, chỉ có một con đường duy nhất, có nhắm mắt cũng chẳng thể đi nhầm! – Chúc Tiết Cao ngoái đầu lại nói với Lỗ Thiên Liễu.

-Vậy chúng ta đang đi về hướng nào? - Lỗ Thiên Liễu muốn tìm cách gợi ý để giúp mọi người nhận ra tình huống bất ổn.

Du Hữu Thích ngẩng đầu nhìn một tia sáng đang rọi xuống, sau đó trả lời thay Chúc Tiết Cao:

-Con bé Liễu này, không nhận ra ư? Đang đi về hướng nam!

Lỗ Thiên Liễu gật đầu, phương pháp nhìn ánh mặt trời tìm hướng mà Du Hữu hích vừa sử dụng là phương pháp định hướng quen thuộc của dân sông nước, vì trên những mặt nước rộng lớn mênh mông, không có vật gì làm mốc, chỉ có thể dựa vào ánh mặt trời.

-Không đúng, là đi về hướng đông! – Chúc Tiết Cao lại một lần nữa bất đồng ý kiến với người khác. Nhưng nếu gã chưa chắc chắn, gã sẽ không đưa ra lời phản đối. Gã vừa sử dụng phương pháp "đón dương ngược âm", tức là thông qua quan sát màu sắc của cây cối, đá núi và các loài rêu bám trên đó để định hướng. Phương pháp này và phương pháp quan sát vòng năm trên thân cây đều là nhũng kỹ xảo định hướng thường dùng của người vùng núi.

-Không thể nào! – Du Hữu Thích không có phong thái điềm tĩnh như Chu thiên sư, vừa nghe Chúc Tiết Cao bác bỏ phán đoán của mình, lập tức máu nóng bốc lên, không chịu nhượng bộ.

Lỗ Thịnh Nghĩa là người hiểu biết, vừa nghe thấy hai bên định hướng bất đồng, lập tức nhận ra có điều bất ổn. Lại thấy Du Hữu Thích nổi giận, thì vội vàng khuyên giải:

-Người anh em, đừng nóng, có lẽ cả hai người đều đúng, chúng ta đã đi nhầm đường rồi!

-Không đúng, nhìn từ chỗ tôi, rõ ràng đang đi về phía tây nam! – Chu thiên sư đợi mọi người yên lặng, mới nói ra kết quả thu được từ bàn Độn giáp.

Lại thêm một phương hướng khác nữa! Đến lúc này mọi người mới ý thức được chuyện chẳng lành: họ đã đi nhầm đường, đã sa vào khảm diện. Lập tức có hai người đưa ánh mắt giận dữ nhìn Chúc Tiết Cao.

-Cái con bé này, làm cái trò gì vậy? Đang yên đang lành tự dưng đi hỏi phương hướng để làm gì? Chẳng phải chỉ cần đi qua được là xong chuyện hay sao? – Chúc Tiết Cao lại quay qua trách móc Lỗ Thiên Liễu.

Chúc Tiết Cao tuy nói lý, song nghe lại như cãi cùn. Vừa nói dứt lời, gã đã dẫn đầu đi thẳng lên phía trước.

Chu thiên sư đưa mắt cho Du Hữu Thích, Du Hữu Thích lập tức hiểu ý, rảo nhanh mấy bước bám sát Chúc Tiết Cao, cặp Nga Mi thích loang loáng hàn quang cũng được lôi ra từ sau lưng.

Lỗ Thiên Liễu có chút lo sợ, bây giờ cô mới cảm thấy chuyến đi lần này quá vội vàng rối loạn, không giống như trước khi tiến vào vùng núi Thiên Lĩnh, phân công rõ ràng, mỗi người một việc.

-Mọi người nghe tôi nói đã. Đừng đi vội, nghe tôi nói đã! - Lỗ Thiên Liễu chạy vội lên trước, muốn ngăn mọi người lại.

Nhưng Chúc Tiết Cao dẫn đầu cứ đi phăm phăm, càng đi càng nhanh. Những người phía sau cũng vội vàng bám sát, không ai để ý đến Lỗ Thiên Liễu.

-Đợi đã! Xung quanh có tiếng động lạ, cẩn thận có nút sống! - Lỗ Thiên Liễu đã bắt đầu cuống quýt, không còn lo sợ đối phương nghe thấy, cao giọng hô lớn.

Chúc Tiết Cao đột ngột khựng lại. Du Hữu Thích đi sát sau lưng gã phản ứng hết sức mau lẹ, bàn chân xoay ngang, dừng ngay lại chỉ cách Chúc Tiết Cao chưa đầy nửa bước.

Phía sau nữa là đệ tử của Du Hữu Thích và đệ tử của Chu thiên sư, bọn họ đều không kịp thu thế, đâm sầm vào lưng Du Hữu Thích. Du Hữu Thích đang ngang hai tay, chặn đứng ngay hai kẻ phía sau lại mà không hề chao đảo.

Chúc Tiết Cao vừa dừng bước liền ngồi thụp xuống, đưa tay khẽ vạch một bụi cỏ lá nhỏ ở bên đường. Bên dưới bụi cỏ có nửa dấu chân, một nửa dấu chân đi giày đế trúc.

Chúc Tiết Cao duỗi bàn chân ra, phát hiện dấu chân có kích cỡ tương tự với bàn chân của gã. Đôi giày gã đang đi cũng được kết từ trúc.

-Chuyện gì thế? – Du Hữu Thích đứng ngây ra.

-Là khảm đường vòng phải không? - Lỗ Thịnh Nghĩa rảo bước lên hỏi.

Chúc Tiết Cao gật đầu, rồi lại lắc đầu, im lặng không nói lời nào.

-Suỵt! Im lặng! - Lỗ Thiên Liễu vừa dừng lại ngay phía sau mọi người lên tiếng, giọng hơi run rẩy.

-Sao thế? Phát hiện ra gì à? - Thủy Du Bạo thấy bộ dạng căng thẳng của Lỗ Thiên Liễu, hạ giọng hỏi khẽ.

Lỗ Thịnh Nghĩa cũng đưa ánh mắt lo lắng nhìn Lỗ Thiên Liễu.

-Bọn chúng đến rồi, xuất hiện khắp nơi, đang tiến lại gần! - Lỗ Thiên Liễu khép hờ hai mắt, tập trung toàn bộ tinh thần để lắng nghe, dùng tiếng Quan Thoại thông báo rành mạch những thông tin mình vừa thu nhận được, bộ dạng tựa như trúng tà.

-Đi theo tôi! – Chúc Tiết Cao đứng bật dậy, lao về phía trước, lần này không phải là đi nhanh nữa, mà đã bắt đầu chạy.

Du Hữu Thích lập tức bám sát phía sau, những người khác chỉ biết vội vã chạy theo.

Đường núi vốn rất khó đi, sau khi đổi đi thành chạy, lại càng gian nan hơn nữa. Du Hữu Thích chắc chắn không kịp Chúc Tiết Cao, bản lĩnh sông nước của hắn không thể thi triển trên đường núi, không vấp ngã đã là khá lắm rồi. Lỗ Thịnh Nghĩa và Ngũ Lang ngã sấp ngã ngửa mấy lần, khắp người lem nhem bùn đất, lá cỏ.

Lúc này đã đổi thành Chu thiên sư bám sát Chúc Tiết Cao, sau lưng ông là Thủy Du Bạo. Thật không thể ngờ lão bếp già lôi thôi kia lại thạo vượt đường rừng đến vậy. Bước chạy của lão không nhanh, nhưng vô cùng ổn định, bước nào ra bước đấy, người phía trước chạy nhanh đến đâu cũng không thể khiến lão rớt lại. Tiếp sau là Lỗ Thiên Liễu, mặc dù cô rất giỏi khinh công, nhưng chạy trên đường núi cũng không phải dễ dàng, đã mấy lần muốn vượt qua Thủy Du Bạo mà không thành công.

Chúc Tiết Cao lại một lần nữa dừng lại thình lình, cúi xuống vạch một bụi cỏ bên cạnh ra xem, lần này đã thấy nguyên cả một dấu chân.

-Không còn xa nữa, chạy mau! – Chúc Tiết Cao còn chưa quan sát kỹ, vừa nhìn thấy dấu chân đã lập tức khẳng định.

-Chạy mau! - Tiếng hô của Lỗ Thiên Liễu gần như phát ra đồng thời với Chúc Tiết Cao, nhưng ý tứ của hai người hoàn toàn khác nhau. Ý của Lỗ Thiên Liễu là mối nguy hiểm đã cận kề.

Khi họ lao ra khỏi khu rừng, chạy đến một bãi đất bằng phẳng ở lưng chừng ngọn núi phía trước, rừng cây ở phía sau giống như đang đổ xuống một cơn mưa bão khủng khiếp, cây cối chao đảo dữ dội, vặn vẹo vào nhau phát ra những âm thanh vô cùng rùng rợn.

-Cuối cùng thì cũng đi qua! Đường gì cũng được, hình gì cũng xong, chỉ cần vẫn còn cái mạng để uống rượu là tốt rồi! - Thủy Du Bạo quay lại nhìn cảnh tượng quái dị sau lưng, ngậm ngùi thốt lên.

Chu thiên sư cảm thấy lời này giống như nói cho ông nghe. Rừng cây mà họ vừa thoát ra rõ ràng được bố trí dựa theo đồ hình Hư thăng phân thanh, bởi vậy ông đã lựa chọn con đường "khí mạch xung linh đài"[2]; còn con đường mà Chúc Tiết Cao lựa chọn là "huyết mạch nhiễu bình tâm"[3], là con đường "ý huyết giao hòa hóa diên hống", thế mà gã ta cũng đi qua được.

Trong lúc tháo chạy, Lỗ Thiên Liễu vô cùng kinh ngạc trước thể lực và bộ pháp của Thủy Du Bạo. Còn nữa, lão sâu rượu này sau khi tiến vào trong núi, ngoại trừ lần quăng bình rượu vào gốc cây ở rừng Giá Trinh, không hề động đến một giọt rượu nào.

Trong khi Lỗ Thiên Liễu đang nhìn Thủy Du Bạo đầy băn khoăn nghi hoặc, Lỗ Thịnh Nghĩa liền kéo cô sang một bên, nói nhỏ:

-Sau khi thoát ra, cha đã phát hiện khảm diện lúc này được cải tiến từ cục "Cửu chuyển thiên cách", cục thứ bốn mươi trong Kỳ môn Độn giáp. Con nói không sai, trong khảm diện còn có nút sống, nhưng thông thường nút sống chỉ được tung ra sau khi những người sa vào khảm diện đã chạy được bảy vòng, sức lực cạn kiệt. Tay Chúc Tiết Cao kia chắc chắn là một cao thủ trong giới khảm tử, hắn có thể nhận ra sự biến hóa phương vị ba cấp phía sau bóng cây và ánh sáng trời, nên mới đi được ba vòng đã đưa chúng ta thoát ra, khiến bọn canh khảm giật dây không kịp bung nút sớm hơn. Cao thủ như vậy, nhà họ Lỗ chúng ta cũng hiếm khi gặp được!

-Có nghĩa là bản lĩnh của hắn hơn hẳn chúng ta, chỉ là giấu giếm không để lộ? Nếu quả thực hắn là hậu duệ của nhà họ Lỗ, cơ hội thành công của chúng ta sẽ tăng lên đáng kể! - Lỗ Thiên Liễu nói.

-Nhưng nếu hắn là mồi nhử của đối phương, cơ hội trừ khử chúng ta cũng sẽ rất lớn! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp.

-Nếu hắn là mồi nhử của đối phương, tại sao phải dẫn chúng ta đến đây? - Lỗ Thiên Liễu cũng thấy quái lạ.

-Bảo bối mà tổ tiên Lỗ gia cất giấu, người khác khó lòng lấy được. Bởi vậy, cần phải chiếm được lòng tin của chúng ta, sau đó biến chúng ta thành chiếc chìa khóa, đây là một tuyệt chiêu để đoạt lấy bảo bối!

Suy nghĩ không hoàn toàn sai, nghi ngờ cũng có lý. Những chuyện xảy ra tiếp đó lại khiến Lỗ Thiên Liễu bắt đầu nghi ngờ nhận định của Lỗ Thịnh Nghĩa, vì còn nhiều điểm đáng ngờ hơn xuất hiện trên một con người khác.

Vòng qua sườn núi, chỉ cần vượt qua một đỉnh núi tròn nữa là đến được lối vào thung lũng Ngộ Chân. So với những đỉnh núi trước đó, đỉnh núi này có vẻ xơ xác hơn nhiều. Nhìn từ xa lại, toàn bộ phần đỉnh chỉ lơ thơ bốn năm gốc cây, vỏ cây đen sạm, tán cây xanh thẫm đến ngả đen, thân cây cong queo vẹo vọ. Dưới ánh nắng xế chiều đỏ bầm như máu, trông chúng chẳng khác nào bầy quỷ dữ mới thoát ra từ địa ngục.

-Nơi đây không thể dừng lại, cần phải nhanh chóng tiến lên phía trước, đi qua đỉnh núi kia sẽ nghỉ chân! – Du Hữu Thích xuất thân cướp bóc, dày dạn kinh nghiệm giang hồ. Hiện giờ bọn họ đang đứng ở chỗ trũng giữa hai ngọn núi, phía trước lại là đỉnh núi trọc rộng lớn, nếu dừng lại nghỉ chân ở nơi này, cho dù đối phương âm thầm tập kích hay tấn công trực diện cũng đều vô cùng thuận lợi.

Chu thiên sư cũng gật đầu đồng ý, còn dẫn ra một câu trong binh pháp: "Trại không đối diện với chỗ khúc khuỷu, trại không dựng ở lưng chừng dốc".

Bọn họ mới leo lên được một nửa sườn núi trọc, chút ánh tà dương cuối cùng đã tắt lịm cuối chân trời. Tia sáng cuối ngày vừa vụt tắt, mọi người lập tức cảm thấy một luồng hàn khí luồn dọc sống lưng. Cùng lúc đó, một cơn gió nhẹ xoáy tròn bỗng lướt qua đầu bọn họ không một tiếng động, chỉ cuốn lên một làn bụi mỏng táp đầy lên mặt mũi.

-Chu thiên sư, hàn khí thấu xương, có vẻ rất bất thường. - Lỗ Thiên Liễu nói với Chu thiên sư cảm giác của mình.

Chu thiên sư lập tức dừng bước:

-Đúng là có chút bất thường! – Ông vừa nói vừa thoăn thoắt bấm năm ngón tay bên trái, sau đó đột nhiên lại chuyển sang bấm tay phải.

Thấy Chu thiên sư đổi tay bấm độn, Lỗ Thiên Liễu bỗng mặt mày biến sắc. Tay trái đoán nhân tình, tay phải đoán ma quỷ, đó là phương pháp bấm độn "tả hữu âm dương" của núi Long Hổ. Chuyển sang tay phải, chứng tỏ luồng hàn khí và gió xoáy vừa rồi có liên quan đến ma quỷ. Lỗ Thiên Liễu cũng như những người con gái khác, có thể không sợ người xấu hay thú dữ, song ma quỷ không thể không sợ!

Chú thích

[2] Có nghĩa là khí mạch xông lên linh đài, là một phương pháp tu luyện của Đạo gia. Đạo gia phân chia hơi thở, huyết mạch và các cơ quan trong cơ thể thành mấy bộ phận, sau đó dùng ý thức để khống chế những khái niệm có thể ảnh hưởng đến việc tu đạo, giấu vào các bộ phận trên, sau đó đưa dòng khí bản nguyên chạy lên linh khiếu theo một lộ trình nhất định, đạt đến mục đích nhập hư để thăng, đả thông khí mạch.

[3] Có nghĩa là huyết mạch vây quanh chỗ ngang tim. Đạo gia gọi một số vật chất xấu hấp thụ từ bên ngoài và một số vật chất không tốt do cơ thể sản sinh ra là diên hống (chì, thủy ngân), ý là khó giải trừ mà lại mang độc tố. Trong quá trình tu luyện cần dùng ý niệm để vận hành huyết mạch, hóa giải toàn bộ những vật chất này. Trong quá trình đó cần khiến huyết mạch vận hành, và con đường cuối cùng của huyết mạch sẽ xoay chuyển tới vị trí ngang với tim, bởi vì những vật chất xấu được hóa giải sau cùng sẽ được tống ra ngoài qua sự hít thở của phổi.

Chương 4: Đất dưỡng thi

Động tác bấm độn bên tay phải cũng đã dừng lại, Chu thiên sư nét mặt hoang mang.

-Là thứ ô uế gì ư? - Lỗ Thiên Liễu hỏi.

-Không biết! Rất quái lạ. Kết quả bấm độn là nửa người nửa ma. – Chu thiên sư đáp.

-Ông nói nhịu rồi phỏng? Cái gì mà người cái gì mà ma? Ở chỗ núi hoang rừng thẳm lại không đèn không đóm như thế này, đừng có nói nhảm, lại gọi mấy thứ linh tinh đến bây giờ! - Thủy Du Bạo đi ngang qua bên cạnh Lỗ Thiên Liễu và Chu thiên sư, đã nghe thấy đoạn đối thoại giữa hai người.

Thủy Du Bạo vừa nói dứt lời, lại một cơn gió mạnh thổi vèo qua, kèm theo những tiếng lào xào sột soạt. Trong gió như văng vẳng tiếng nuốt nghẹn, khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến cảnh yêu ma uống máu nhai xương, mà rùng mình ớn lạnh.

-Là tiếng gì thế? Nghe rùng rợn quá! - Đệ tử của Du Hữu Thích lên tiếng, răng môi gõ vào nhau cầm cập.

-Đừng sợ! Là tiếng gió thổi rừng trúc mà thôi! – Chúc Tiết Cao trấn an.

-Tiếng gió thổi rừng trúc không giống như thế! – Ngũ Lang cất giọng ồm ồm phản bác – Nhà chúng tôi ở vùng Dương Sơn, rừng trúc sát cạnh nhà, tôi nghe không biết bao nhiêu năm rồi, nhưng chưa bao giờ nghe thấy âm thanh tương tự.

-Tre trúc vốn chẳng loại nào giống loại nào, hơn nữa khi trồng trúc, khoảng cách và bố cục lại mỗi nơi một khác. Những nguyên nhân đó đều tạo nên sự khác biệt trong tiếng gió thổi rừng trúc. Ngay cả cùng một cây trúc, không có lỗ thì làm ống thổi lửa, có lỗ thì làm ống sáo, cậu nói xem âm thanh của chúng có giống nhau không?

Ngũ Lang tính tình chất phác, nói không lại Chúc Tiết Cao, mặc dù cảm thấy cách gã giải thích không thực thỏa đáng, cũng chỉ biết ngậm miệng không nói được gì thêm.

Chúc Tiết Cao nói không sai, rừng trúc nằm ở ngay sườn núi bên kia cách đỉnh núi chỉ chừng mươi bước. Trúc ở đây quả thực cũng không giống với những loại tre trúc khác, có màu đen nhánh, thân cao cành thưa, lá chỉ lơ thơ, song phiến lá rất lớn. Kỳ quặc nhất là trên thân trúc quả thực có lỗ, trông hệt như cây sáo, những tiếng nghẹn ngào văng vẳng đúng là do gió thổi qua các lỗ thủng phát ra. Trúc mọc rất dày, mỗi khi có gió thổi qua, thân trúc, lá trúc cọ quẹt vào nhau phát ra thứ âm thanh hết sức lạ lùng.

-Trúc sáo định hồn! – Chu thiên sư kiến thức uyên thâm, vừa nhìn đã nhận ra chủng loại của giống trúc lạ.

-Đó là truyền thuyết, hình như gọi là "trúc sáo dàn tiếng định ba hồn", nói rằng đây là giống trúc do Diêm Vương trồng ở ranh giới âm dương để trấn định những cô hồn dã quỷ không chịu đầu thai. Nhưng thực chất là do tại các mắt đốt, gốc cành trên cây trúc tiết ra nhựa ngọt, thu hút sâu bọ đục lỗ trên thân trúc để chui vào. Thế nhưng cách sắp xếp kiểu "dàn tiếng định hồn" lại là do con người trồng nên! – Chu thiên sư nói đúng, các thân trúc ngay hàng thẳng lối, khoảng cách đều đặn, chỉ có thể do con người bố trí – Trúc trồng theo kiểu này hẳn không phải để nhìn cho đẹp mắt, mà chắc chắn còn có tác dụng khác!

-Đương nhiên là có tác dụng rồi! Chẳng phải đã khiến mấy người sợ hết vía rồi ư? – Chúc Tiết Cao chỉ đơn thuần là nói ra phán đoán của mình, không có ý cãi cọ hay xem thường ai cả. Theo như gã biết, đám trúc này ngoài việc phát ra những âm thanh rùng rợn thì không còn tác dụng gì khác.

-Cãi lời người già, gặp họa chẳng xa. Đúng là cá không ăn muối cá ươn, bảo ngươi bẻ măng ăn, ngươi lại gặm thân trúc. Vậy cũng hay, rồi ị ra nguyên một cái ghế trúc gắn sau mông đít, đi đến đâu ngồi luôn đến đấy! - Lời của Chúc Tiết Cao đã đắc tội với mọi người, cũng kích động thói điêu ngoa của Thủy Du Bạo, thế là lão chẳng cần để ý tới thời gian hoàn cảnh, lập tức phun ra một tràng thóa mạ gã thợ đan.

Chúc Tiết Cao chỉ cười nhạt, chẳng thèm đếm xỉa đến lão. Gã cảm thấy kiểu ăn nói của lão Thủy giống hệt như mình, đều thẳng ruột ngựa.

-Đừng có dông dài chuyện tre trúc nữa, nhanh chân lên! Nhìn dưới chân núi đen đặc một đám, có lẽ là một vạt rừng, xuống tới đó chúng ta sẽ nghỉ chân! – Du Hữu Thích ngoài miệng nói vậy, nhưng chân vẫn đứng yên, chỉ đưa mắt hết nhìn Chúc Tiết Cao lại nhìn Chu thiên sư.

Chu thiên sư khẽ mỉm cười, không tiếp tục tranh luận với Chúc Tiết Cao nữa.

Chúc Tiết Cao cũng không nói thêm lời nào, chỉ vuốt lại bó nan tre quấn ngang hông, sửa sang lại con dao pha nan trong túi vải, sau đó dẫn đầu rẽ trúc mở đường, đi thẳng xuống sườn núi.

Lỗ Thiên Liễu đi bên cạnh Chúc Tiết Cao. Gã thợ đan vừa cất bước, cô vội vàng thở ra để thu ngực thót bụng, luồn qua khe hở giữa các thân trúc mà đi.

Ngũ Lang cũng bám theo Lỗ Thiên Liễu, nhưng với khổ người vạm vỡ to cao, thật khó lòng len lách được qua vạt trúc. Anh ta liền giơ phác đao đâm chéo xuống, chặt đứt phăng gốc một thân trúc to ngang miệng chén. Việc này khác nào mở ra một cánh cửa trên tường kín, những người phía sau đều bám theo anh ta mà đi.

Người đi cuối cùng là Thủy Du Bạo. Vừa chui qua vạt trúc, lão lập tức chun mũi hít lấy hít để, rồi hai hàng lông mày giật lên vài cái.

Sau khi vượt qua vạt trúc, Lỗ Thiên Liễu không vội đi ngay. Bởi vì vừa mới bước qua, cô đã cảm thấy lồng ngực ngột ngạt, hơi thở nặng nề. Cô chợt nhớ trong "Huyền giác" có viết rằng, nếu đột ngột xuất hiện tình trạng này, gọi là "ý áp" cần hết sức thận trọng, nên lập tức tập trung tinh khí để quan sát biện nhận, cảm giác từng biến đổi tinh vi nhất ở từng ngóc ngách xung quanh và từng bộ phận trên cơ thể.

Lúc này, mọi người đều muốn nhanh chóng đi đến vạt rừng dưới chân núi. Trong tình hình đó, Lỗ Thiên Liễu không thể tập trung tinh khí, cô còn lâu mới đạt tới trình độ có thể tụ khí nhập huyền trong nháy mắt. Nhưng tình trạng này đã khiến cô càng thêm thận trọng, bước đi thật chậm, cố gắng sử dụng ba giác trong sáng rà soát khắp xung quanh xem có động tĩnh gì không.

Khi tụt lại phía sau, Lỗ Thiên Liễu vừa hay nhìn thấy Thủy Du Bạo đang hít hít ngửi ngửi như con chó già, liền phì cười mà hỏi:

-Ông Thủy ơi, ông có ngửi ra cái gì không? Có món gì ngon ư?

Song Thủy Du Bạo không trả đũa câu nói đùa của Lỗ Thiên Liễu, mà nói với cô bằng một giọng rất lạ lùng:

-Liễu bán tiên, cô cũng ngửi kỹ đi, xem có điều gì bất thường không?

Lỗ Thiên Liễu nghe Thủy Du Bạo gọi mình là Liễu bán tiên, thì ngẩn ra kinh ngạc. Khi còn ở núi Long Hổ, cô đã được chưởng giáo thiên sư và mấy vị lão thiên sư thân phận cực cao xem tướng giúp, và nói rằng cô có tướng nửa người nửa tiên, thanh đồng bích nhãn, chuyện này vốn dĩ chỉ có ông Lục và mấy vị thiên sư xem tướng được biết, vả lại cái tên "Liễu bán tiên" cũng chỉ có chưởng giáo thiên sư gọi trêu cô hai lần. Lão Thủy Du Bạo kia rốt cuộc là nhân vật thế nào, tại sao ngay cả chuyện này cũng biết? Trí não Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng rà soát lại một lượt tất cả những sự việc thoạt nhìn có vẻ ngẫu nhiên đã xảy ra suốt dọc đường đi. Xem ra lời ông Lục nói với cô trước đây quả thực không sai, "chỉ người cao thâm mới làm được việc ngẫu nhiên".

-Hỏi cô kìa! Sao lại nghệt ra thế? Đang nghĩ đến miếng thịt đầu lợn giấu dưới gối à?

-Có! - Lỗ Thiên Liễu đáp quấy quá.

-Có cái gì? - Thủy Du Bạo có vẻ không tin, dường như lão đã biết Lỗ Thiên Liễu không ngửi thấy gì, chỉ nói bừa để trêu ghẹo mình mà thôi.

-Tôi ngửi thấy đã mấy ngày nay ông không uống rượu, không biết là muốn cai rượu hay không nỡ uống?

-Không nỡ uống. Để dành rượu cho việc khác.

-Ồ! - Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không biết có thể dùng rượu vào việc gì, song cô cảm thấy Thủy Du Bạo không cầm bình rượu trong tay cũng chẳng khác nào cô không có Phi nhứ bạc, Ngũ Lang không có phác đao.

-Hai người đừng có lắm chuyện nữa, trời tối như mực lại không có đường đi, đừng có để gạo sống cơm rời chạy nước sôi (đi lạc không tìm thấy) đấy nhé! – Du Hữu Thích phía trước lớn tiếng gọi.

-Biết rồi!

-Hiểu rồi!

Lỗ Thiên Liễu và Thủy Du Bạo cùng lên tiếng, chứng tỏ bọn họ đều hiểu thứ tiếng lóng thổ phỉ của Du Hữu Thích.

Xuống tới lưng chừng núi, Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy lồng ngực đau tức, tâm tư buồn bực, còn Thủy Du Bạo hai hàng lông mày càng nhíu giật liên hồi.

Người dừng chân đầu tiên là Chu thiên sư, vừa dừng bước vừa gọi người đi trước là Chúc Tiết Cao dừng lại.

-Sao thế? Sắp tới khu rừng phía dưới rồi! – Gã thợ đan cảm thấy khó hiểu trước hành động của Chu thiên sư.

-Không phải! Tôi cảm thấy rất bất ổn, xung quanh đây tà khí nồng nặc! – Chu thiên sư đáp.

-Đừng có thần hồn nát thần tính nữa, hãy nhìn cả vạt... A! – Chúc Tiết Cao còn chưa nói dứt lời, một cơn gió lạnh buốt đã thình lình ập tới thốc thẳng vào mũi miệng.

Không ai nói gì thêm nữa. Cơn gió âm hàn ma quái đã đủ để thức tỉnh mọi người nhớ lại sự việc rùng rợn từng gặp ở rừng Giá Trinh.

-Than đượm thì lửa xanh, gió to thì mưa đến, có chuyện quái gì đâu, là trời sắp mưa đấy! - Lời của Thủy Du Bạo xem chừng có lý, mọi người nghe vậy cũng thấy bớt căng thẳng.

Quả nhiên, lời vừa nói dứt, những hạt mưa lạnh toát đã táp lên đầy mặt.

-Mưa thật rồi! Chúng ta mau chạy xuống khu rừng trú tạm! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói rồi lập tức lao đi ngay, nhưng mới được mấy bước, một tiếng quát nghiêm khắc đã vang lên:

-Không được cử động!

Đó là giọng của Chu thiên sư. Mặc dù trong bóng tối không nhìn thấy vẻ mặt của ông, song trong tiếng quát tràn đầy lo sợ và hãi hùng, khiến bầu không khí như đông cứng lại.

Cơn mưa mỗi lúc một dày. Nhưng lúc này mới chỉ đầu xuân, mưa trong núi có lớn cỡ nào, cùng lắm cũng chỉ giống như một màn bụi nước giăng kín đất trời, khiến bóng đêm càng trở nên thâm u mờ mịt.

-Lỗ sư phụ, ông bước sang phải bốn bước. Ngũ Lang, cậu bước sang trái ba bước! – Chu thiên sư nói rành mạch từng câu từng chữ - Cậu Du, dẫn đệ tử của cậu lùi về phía sau bốn bước, sau đó hai người tách nhau ra năm bước. Cậu Chúc, hãy bước lên phía trước hai bước! – Chu thiên sư tiếp tục sắp xếp.

-Ông Thủy, ông bước lên phía trước bốn bước đi, tôi cũng bước lên trước một bước! - Lỗ Thiên Liễu đã hiểu Chu thiên sư muốn sắp xếp kiểu gì, nên chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã mau mắn sắp xếp vị trí cho mình và Thủy Du Bạo.

-Còn ngươi nữa, tạm thời tránh sang bên phải, tránh ra cả trăm bước cũng không sao, chỉ cần khi ta gọi ngươi nghe thấy là được! - Đệ tử của Chu thiên sư đang đứng ở ngoài cùng bên phải, cách những người còn lại khá xa, vì vậy Chu thiên sư cho hắn đứng ở một vị trí khác hẳn, vì hắn vẫn chưa bước vào phạm vi nguy hiểm.

Rất lâu, rất lâu sau, những người đang đứng bất động ở nguyên vị trí đều đã bị mưa tạt ướt sũng. Ướt mưa chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng hơn là nỗi sợ hãi, lo lắng, căng thẳng đè nặng trong tâm lý, lại không dám cựa quậy, không biết phải làm gì. Tình trạng này khiến cho mấy kẻ thường ngày chẳng màng sống chết, chém giết quen tay, giờ lại thấy ruột gan như lửa đốt.

-Làm cái quái gì thế này, kết lưới sống hay giậm ván trượt? Này ông Chu, ông có tính lầm không đấy? Đừng có lừa chúng tôi đứng dầm mưa ở đây. Tôi chỉ muốn lao xuống dưới kia, cho dù có chém giết đến tan xương nát thịt cũng xong! – Du Hữu Thích là người đầu tiên lên tiếng phản đối.

-Ngươi dù gì cũng là kẻ đầu gấu có nghề, mới thế mà đã không chịu được à? Đến như nấu rượu cũng phải đủ lửa đủ thời gian mới sủi tăm được chứ! - Thủy Du Bạo chưa đợi Chu thiên sư lên tiếng, đã vặc lại Du Hữu Thích.

-Chẳng phải ông vừa nói nổi gió là vì sắp mưa hay sao? Bây giờ mưa cũng đã mưa, gió cũng đã dừng, sao còn chưa đi? Chẳng lẽ cứ đứng lì cả đêm ở đây chịu ướt? - Đến lượt Chúc Tiết Cao lên tiếng.

-Lúc trận gió âm hàn thổi tắc mũi tắc miệng cậu, chẳng phải cậu cũng cảm thấy bất thường ư? Hơn nữa, nếu bây giờ đi, cậu có nhận ra được phải đi về hướng nào không? – Là giọng nói trầm tĩnh của Chu thiên sư.

-Thì đi xuống dưới... – Chúc Tiết Cao vừa thốt được nửa câu đã khựng ngay lại, vì gã đột nhiên không còn cảm thấy độ dốc vốn có của sườn núi dưới chân nữa. Ngay cả rừng cây đen kịt vừa ở trước mắt cũng chẳng thấy đâu. Không nhìn thấy rừng cây còn dễ hiểu, vì lúc này đã sắp nửa đêm, lại thêm mưa bụi mù mịt. Đây là một sườn núi không rộng cũng không dài, độ dốc rất rõ ràng, chẳng lẽ do đứng bất động quá lâu nên bàn chân đã tê dại?

-Mọi người hãy nghe tôi nói! – Chu thiên sư vận khí để phát âm, nên giọng nói rất trầm ổn – Lúc nãy, ở bên ngoài vạt trúc sáo định hồn, tôi đã sơ suất, chưa xem xét kỹ tác dụng của vạt trúc sáo đã vội lao vào. Nó là sáo trúc dàn tiếng định ba hồn. Sau khi người ta chết đi, ba hồn bảy phách sẽ tiêu tán, nhưng nếu như định ba hồn lại không cho tiêu tán, thì xác chết có thể nuôi được. Lúc này, chúng ta đã sa vào vùng đất dưỡng thi. Thế nhưng có thể dùng sườn núi đất ít đá nhiều như thế này làm đất dưỡng thi, quả thực không thể ngờ tới!

Vùng đất dưỡng thi theo lời Chu thiên sư, chính là khi người ta chưa chết hẳn, dùng màng mỏng bằng bạc thuần hình tam giác phong kín cung Nê hoàn của họ. Như vậy, bảy phách của người chết sẽ tiêu tán, nhưng vẫn giữ lại được ba hồn trong thi thể. Sau đó, chôn thi thể xuống đất trong tư thế đứng thẳng, đầu cách mặt đất khoảng một thước rưỡi, đó chính là ranh giới giao thoa giữa âm và dương. Như vậy, xác chết có thể cùng lúc hấp thụ hai luồng địa khí âm dương. Xác chết kiểu này được gọi là "dưỡng thi", tức xác chết được nuôi dưỡng. Dưỡng thi có cả đặc điểm của xác dương và hồn âm, không biết đau đớn, không có cảm giác, sức mạnh vô địch. Khi dùng bùa chú để điều khiển, nó sẽ trở thành một cỗ máy giết người, một công cụ mê hoặc.

Trong các trước tác "Dị táng ký" của Lê Đại người đời Tống và "Kiềm bạc dã đàm" không rõ tác giả viết vào đời Nguyên đều có những ghi chép liên quan đến dưỡng thi.

Mặc dù Chu thiên sư đã tự gánh trách nhiệm về mình, nhưng mọi người trong thâm tâm đều rõ, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích quá hấp tấp và ngoan cố, mới dẫn đến sai lầm đáng tiếc này.

-Bây giờ mọi người hãy coi như đang giúp tôi. Nếu mọi người cảm thấy mệt mỏi, có thể ngồi hoặc nằm tùy ý, có điều phải ở nguyên vị trí không được di chuyển, nhất định phải duy trì được vị trí "Bát tiên định tà". Chỉ có bố cục hình dương khí này mới có thể trấn áp dưỡng thi không cho chúng đội đất chui lên. Còn về việc chúng ta phải thoát khỏi đây bằng cách nào, xin hãy cho tôi thêm chút thời gian suy nghĩ.

Lời nói của lão thiên sư đã thể hiện rõ phong độ của bậc tu đạo cao thâm, nhưng lại khiến Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích cảm thấy trong lòng hổ thẹn.

-Hề hề, vị trí "Bát tiên định tà"[4] à? May mà ở đây có một vị Hà tiên cô là cô, nếu không bố cục này đã không bày được! - Thủy Du Bạo hạ giọng nói với Lỗ Thiên Liễu, không biết là trêu đùa cô, hay lão thực sự hiểu được tuyệt chiêu đuổi yêu hàng ma của núi Long Hổ.

-Nếu tôi là Hà tiên cô, chắc ông là Thái Thượng Lão Quân! Đứng nhầm chỗ rồi! - Lời nói của Lỗ Thiên Liễu mang ý thăm dò, cô hy vọng Thủy Du Bạo có thể hiểu được mà chủ động tiết lộ thân phận thật của lão.

-Ha ha, đúng là bán tiên có khác, lời nói cũng mang khí tiên. Nhưng cục "Thất điện nhất nghê"[5] không chỉ có một vị trí "Bát tiên định tà". Một tép tỏi còn xào được bảy con tôm nõn, thật khó nói tôi có đứng nhầm chỗ hay không. - Thủy Du Bạo thì thào.

Lỗ Thiên Liễu không nói gì, không phải giận Thủy Du Bạo ví cô là một tép tỏi, mà vì cô đã phát hiện ra điểm bất thường trong lời của lão. Vị trí "Bát tiên định tà" là phương pháp sắp xếp bố cục thường gặp khi các thiên sư trên núi Long Hổ đi làm ngoại công[6]. Nhưng những lời vừa rồi của lão Thủy lại như vô tình hay hữu ý nhắc nhở cô rằng, bố cục bảy nam một nữ ở đây chưa chắc đã là "Bát tiên định tà". Vậy đó là cục tướng huyền diệu nào? Trong đó còn có dụng ý gì khác?

Thời gian chậm chạp nhích từng chút một, ít nhất thì những người phải đứng chôn chân trong vùng đất dưỡng thi đang cảm thấy như vậy. Cùng với thời gian nặng nề trôi đi, cơn sợ hãi bất an vừa được Chu thiên sư xoa dịu lại dần dần trỗi dậy. Điều này cũng khó trách, Chu thiên sư nói là sẽ nghĩ cách thoát thân, nhưng đến tận lúc này vẫn chưa thấy hé răng, chỉ ngồi xếp bằng trên đất, nhắm chặt mắt bấm ngón tay miệng lầm rầm không ngớt.

Chúc Tiết Cao không thể ngồi yên được nữa. Gã cho rằng sai lầm lần này là do bản thân quá cố chấp, làm liên lụy đến mọi người, trong lòng vừa hổ thẹn, vừa thấy mất mặt vô cùng. Nhưng nghĩ lại, trong những kỹ năng mà tổ tiên đời đời truyền thụ, không thấy có chỗ nào nhắc đến chuyện hồn ma quỷ quái. Trong khi lúc nãy, ngoài hai cơn gió âm tà thốc thẳng vào mặt mũi, cũng không thấy có hiện tượng bất thường nào khác. Không lẽ lão già mũi trâu kia đang bày trò huyền bí để trả đũa gã?

Nghĩ đến đây, Chúc Tiết Cao quyết định biến mình thành cây gậy dò đường. Nếu không có chuyện gì, sẽ bóc mẽ được màn kịch huyền bí của lão Đạo sĩ, còn nếu quả thực có điều bất trắc, cũng đáng đời gã. Dù sống hay chết, cũng coi như làm tròn trách nhiệm với mọi người.

Chúc Tiết Cao đã nghĩ là làm, chẳng thèm nói lấy một tiếng, đã đứng bật dậy lao thẳng người đi.

Động tác của gã thợ đan không hề chậm chạp, song gã vừa mới dấn lên một bước đã ngã sấp mặt xuống đất, bùn nước xung quanh bắn lên tung tóe như nan quạt.

-Đừng cố giãy giụa! Hãy thả lỏng! Kệ cho nó kéo! Chúng tôi sẽ cứu cậu! – Chu thiên sư hướng về phía Chúc Tiết Cao la lớn. Song lúc này, Chúc Tiết Cao không còn nghe thấy gì nữa. Vừa ngã xuống đất, gã đã trở thành một kẻ mất hồn, động tác đờ đẫn, trong cơn quẫn loạn đã mù quáng giãy giụa kịch liệt.

-Á!!! Cái gì kia? - Lỗ Thịnh Nghĩa cũng rú lên khiếp đảm, bởi vì trên mặt đất ngay trước chỗ ông đang đứng, bỗng thò lên một cánh tay đen đúa, da quắt xương khô, song móng tay lại dài nghêu, trắng ởn, cong vút như một cái móc sắt.

Không phải chỉ có một mình Lỗ Thịnh Nghĩa, mà xung quanh những người khác cũng đã thình lình mọc lên một hai cẳng tay tương tự. Những cánh tay khua khoắng dữ dội, nắm chụp liên hồi, như đang khao khát cực độ được túm bắt thứ gì đó.

Chính một cánh tay tương tự đã đột ngột đội đất vươn lên túm chặt lấy gót chân Chúc Tiết Cao. Song đấy vẫn chưa phải là điều đáng sợ nhất, mà sau khi gã ngã xuống, đất trên sườn núi bỗng nhiên nhão nhoét như bùn. Vạt cỏ, bùn đất, đá vụn, tất cả đang trồi sụt, đang cuộn lật nháo nhào. Cánh tay đen đúa nhăn nheo vẫn túm chặt lấy bàn chân gã thợ đan, từ từ lôi xuống mặt đất xốp nhuyễn từng chút một, hệt như đang nhận gã xuống đầm lầy. Chúc Tiết Cao càng giãy giụa điên cuồng, tốc độ lún xuống lại càng chóng vánh.

Chú thích

[4] Bát tiên tức là tám vị tiên trong thần thoại Đạo giáo, gồm có Thiết Quải Lý, Hán Chung Ly, Lã Động Tân, Trương Quả Lão, Hà tiên cô, Tào Quốc Cữu, Hàn Tương Tử và Lam Thái Hòa, trong đó chỉ có Hà tiên cô là nữ.

[5] Có nghĩa là bảy tia chớp một cầu vồng.

[6] Thiên Sư giáo cho rằng, ngoài việc tĩnh tu ngộ đạo, thì ra ngoài giúp dân chúng trừ yêu phục ma cũng là một cách tu luyện công đức, được gọi là "ngoại công".

Chương 5: Thiên cầm trấn

Mọi người không được hoảng loạn! Không được di chuyển! Hãy nghe lời tôi! – Chu thiên sư quát lên thật lớn. Lần đầu tiên Lỗ Thiên Liễu thấy Chu thiên sư lớn tiếng đến vậy.

Chu thiên sư vừa quát vừa móc ngay trong túi vải ra một cuộn dây tròn. Cuộn dây ánh vàng lấp lánh, có vẻ là thứ dây được xe từ tơ của loài tằm kim diệp hoặc của giống ngài toái tinh. Chu thiên sư thắt đầu dây thành một nút rút hai vòng, rồi lại lôi ra hai chiếc bình nhỏ, một bình đừng mỡ dòi, một bình đựng máu mèo đen, đều là những thứ hữu hiệu để đối phó với các loại xác sống hung ác.

Chu thiên sư đưa ngón tay một ấn một lắc trên miệng bình, rồi lần lượt bôi những thứ dính trên hai đầu ngón tay lên nút rút.

-Đưa cho con, trước tiên hãy bắt chéo[7] từ chỗ con! - Lỗ Thiên Liễu vừa nhìn thấy thủ pháp của Chu thiên sư, đã biết ngay ông định làm gì.

Đầu sợi dây được chuyển qua Thủy Du Bạo để đưa cho Lỗ Thiên Liễu, trong lúc luống cuống, Thủy Du Bạo còn để dây quấn cả vào người, may mà chỉ quấn một vòng, không làm ảnh hưởng tới việc kéo sợi dây. Lỗ Thiên Liễu quấn sợi dây vàng kim quanh ngón trỏ tay phải, rồi buộc đầu dây lên quả cầu của Phi nhứ bạc, quăng về phía Du Hữu Thích. Du Hữu Thích dưới sự hướng dẫn của Chu thiên sư, vội quấn sợi dây quanh ngón giữa tay trái một vòng, rồi mắc đầu dây lên Nga Mi thích, ném về phía tay đệ tử.

Thoáng chốc, sợi dây vàng kim đã được chăng thành một mạng lưới thưa thớt giữa mấy người, mắt lưới chỉ là hai hình dấu nhân lớn có phần méo mó. Lưới đã được dệt xong, nhưng hành động tiếp theo mới là thử thách thực sự, đó chính là phải lồng hai vòng nút rút lên hai tay Chúc Tiết Cao. Nhưng ai có thể vượt qua vạt đất chi chít những cánh tay đang điên cuồng khua khoắng của dưỡng thi để đến chỗ Chúc Tiết Cao?

Người gần Chúc Tiết Cao nhất chính là tay đệ tử của Du Hữu Thích. Mặc dù gã thanh niên này có đủ dũng khí, lại sẵn sàng thực hiện việc này, nhưng Chu thiên sư không đồng ý:

-Chúc Tiết Cao đã dịch chuyển, vị trí Bát tiên định tà bị thay đổi, nên mới khiến cho một số ít dưỡng thi thoát ra khỏi lòng đất. Nếu ngươi lại rời vị trí, bị dưỡng thi bắt được, thì cục thế này sẽ bị phá vỡ hoàn toàn! Đến lúc đó toàn bộ chúng ta sẽ không ai chạy thoát. Lúc này, tốt nhất là có một người bên ngoài chạy đến lồng dây vào vị trí.

-Đệ tử của ông đấy! Đệ tử của ông đang đứng bên ngoài đấy thôi? Thấy ồn ào như vậy mà không chịu đến giúp một tay! Hay là chui vào đâu ngủ mất rồi. Mau gọi hắn đến đi, Chúc Tiết Cao đã lún đến tận ngực rồi! – Du Hữu Thích cuống lên giục giã.

-E rằng hắn không làm được! Muốn vượt qua được những cánh tay dưỡng thi, tốc độ phải đạt đến hàng thượng thừa! - Nếu quả đúng như lời Chu thiên sư nói, họ biết tìm đâu ra một người như thế trong tình cảnh này?

Chúc Tiết Cao vẫn không ngừng giãy giụa, nhưng sau mỗi cú vùng vẫy, cơ thể lại lún sâu thêm một nấc. Lúc này, bùn đất đã sắp ngập tới cổ gã.

Lỗ Thịnh Nghĩa thực sự không thể đứng nhìn thêm được nữa. Chính ông đã đến nhờ Chúc Tiết Cao giúp đỡ, hơn nữa, nhìn vào những kỹ năng của gã, rất có thể đây cũng là hậu duệ của Lỗ gia. Ban đầu ông còn nghi ngờ gã là tai mắt do đối phương gài vào, nhưng nếu đúng là nội gián, tại sao lại bị dưỡng thi kéo xuống lòng đất? Nghĩ đến đây, Lỗ Thịnh Nghĩa chẳng nói chẳng rằng, vứt ngay chiếc hòm gỗ trên lưng xuống đất, ngoắc đầu dây đang cầm trên tay vào quai hòm, rồi giậm chân một cái lao vút đi.

Trong số họ, người có tốc độ chậm nhất lại chính là Lỗ Thịnh Nghĩa. Khi đột nhập vào vườn Cô Tô, ông đã bị cây đổ đè gãy chân, tuy đã khỏi nhưng vẫn còn tập tễnh. Vả lại sau cuộc tháo chạy thục mạng trong từng, thương tật lại phát tác nặng thêm, bước chân gần như chỉ còn là những cú nhảy giật xiêu vẹo.

Những cánh tay cuồng dại của dưỡng thi rào rào thọc lên khỏi đất, tựa như măng mọc sau mưa. Nhưng thật kỳ lạ, mặc dù có vô số cánh tay thò lên nhanh đến chóng mặt, song lại không thể bắt trúng bước chân vụng về chậm chạp của Lỗ Thịnh Nghĩa. Bởi vì cánh tay tuy đã trồi lên, nhưng trước những bước chân tập tễnh giật cục quái đản, không giống người thường cũng chẳng giống thú vật bình thường, chúng không biết có nên bắt hay không, và bắt bằng cách nào.

Giật vội đầu dây trên tay gã đệ tử của Du Hữu Thích, Lỗ Thịnh Nghĩa gần như bổ nhào người xuống lăn đến bên cạnh Chúc Tiết Cao.

Nút rút đã được tròng vào cổ tay Chúc Tiết Cao. Chu thiên sư khẽ kéo nhẹ dây, nút rút liền thít chặt lại, ăn sâu vào da thịt, mơ hồ như có một tia sáng vàng kim chảy xuôi theo huyết mạch của Chúc Tiết Cao. Ngay sau đó, đất bùn, đá vụn xung quanh Chúc Tiết Cao càng chuyển động dữ dội hơn, song cơ thể gã không tiếp tục lún xuống nữa.

-Quay lại mau! Điểm trấn không đủ, toàn bộ sẽ chết hết! – Chu thiên sư vừa kéo nút dây vừa quát lên thật lớn, thần thái và ngôn ngữ đã hoàn toàn không còn vẻ trấn tĩnh của người tu đạo. Cũng khó trách ông, cục "Bát tiên định tà" đã thiếu mất vị trí dương tiên của Lỗ Thịnh Nghĩa, toàn bộ khu đất dưỡng thi tựa như đang cuộn sóng. Trong những khối đất bùn nhấp nhô dữ dội, cả đám dưỡng thi đang gắng sức vùng vẫy chui ra.

-Nhanh! Không trấn được nữa rồi! Dưỡng thi sắp thoát ra rồi! – Nhưng cho dù Chu thiên sư có gào thét đến rách họng, Lỗ Thịnh Nghĩa cũng không thể quay trở về chỗ cũ. Vì lúc này, trên khoảng đất giữa nơi ông đang đứng và vị trí ban đầu, lũ dưỡng thi đã ngoi lên khỏi mặt đất. Những cánh tay khô xác, những cơ thể nham nhở, những cái đầu nát rữa đang lúc nhúc đội đất chui lên, quờ quạng loạn xạ, không còn một khe hở nào cho Lỗ Thịnh Nghĩa lách qua.

-Á!

Lại vang lên một tiếng kêu rú hãi hùng, là tiếng của Ngũ Lang. Anh ta đang dồn hết tâm trí về phía Lỗ Thịnh Nghĩa, nên không phát hiện ra phía sau lưng có một đám cánh tay dưỡng thi rùng rùng mọc lên, từ xa tới gần. Đến khi phát hiện ra, thì cả hai bàn chân đã bị túm chặt, chớp mắt đã lún đến đầu gối, đến bắp đùi.

Chu thiên sư thấy vậy, vội vàng kéo mạnh đầu dây. Sợi kim tuyến buộc trên ngón cái Ngũ Lang lập tức xiết sâu vào da thịt, cơ thể không lún xuống thêm nữa.

Nhưng đúng lúc đấy, một cánh tay dưỡng thi thình lình vụt lên ngay dưới chân Chu thiên sư. Có lẽ thiên sư đã dự cảm được từ trước, nên đất đá dưới chân vừa lỏng ra, ông lập tức phản ứng, cả hai chân cùng bật về phía trước. Nhưng do trong tay ông đang giữ bộ phận điều khiển chủ đạo của mạng lưới dây kim tuyến, không thể nhảy đi quá xa. Bởi vậy, tuy dưỡng thi không túm được chân ông, nhưng đã chụp trúng vạt đạo bào. Chu thiên sư liền bị giữ chặt, ông cũng chẳng còn tay nào để xé đứt vạt áo, nên không thể di chuyển được nữa. Nếu lại có thêm dưỡng thi khác đội đất chui lên, hẳn ông khó lòng thoát được.

-Huýt!!!

Từ miệng lão Thủy đột ngột rít lên một tiếng huýt sáo chói tai. Tiếng huýt vừa vang lên, một cái bóng đen thui bỗng lao xuống từ đỉnh núi, vút qua bên cạnh mọi người, sau khi lượn một vòng tròn, bèn lao thẳng về phía mấy con người đang bị giữ chặt không thể cử động.

Bóng đen lướt qua nơi nào, những thân xác dưỡng thi đang nhung nhúc chui lên ở nơi ấy bỗng như cỏ khô gặp lửa, lập tức co rút lại. Cuối cùng, bóng đen nhẹ nhàng đáp xuống quai hòm gỗ của Lỗ Thịnh Nghĩa, một bên móng vuốt đỏ như máu vừa hay đè lên nút thắt trên sợi dây kim tuyến.

Mạng lưới được đan bằng sợi dây kim tuyến đột nhiên lóe lên một chớp sáng vàng kim pha lẫn màu đỏ máu. Chớp sáng vừa lóe lên, đám dưỡng thi liền cuống quýt rụt cả vào trong đất, còn nhanh chóng và đột ngột hơn cả lúc chúng ngoi lên.

Nhìn vào đôi mắt nhấp nhánh đỏ rực của bóng đen, mọi người đã nhận ra nó chính là con sáo mắt đỏ của chưởng giáo thiên sư, loài chim trời dịch duệ. Cục diện "Bát tiên định tà" lại được thiết lập, và một vị trí trong đó đã được con chim trời linh thiêng trấn giữ. Thảo nào đám dưỡng thi đã phải run sợ mà chui vào lòng đất.

Cuối cùng mọi người đã có thể thở phào. Thủy Du Bạo tỏ ra vô cùng đắc ý:

-Phân chim một cục hỏng chục mâm cơm. Vào lúc cấp bách, vẫn là con chim ranh này hữu dụng nhất! Ha ha! – Đang cười khoái chí, ngoảnh đầu lại thấy Chu thiên sư đang nhìn mình chằm chằm, lão lập tức trở về với bộ dạng lầm lì, cúi đầu ôm lấy bình rượu.

Chu thiên sư nhìn Thủy Du Bạo với ánh mắt đầy nghi hoặc. Thiên sư trên núi Long Hổ đều nuôi các loài chim thú linh thiêng để làm trợ thủ khi thực hiện các pháp thuật trừ ma đuổi quỷ. Song các giống linh cầm linh thú thường chỉ nghe lời người nuôi dưỡng chúng, không phải do mỗi người có phương pháp nuôi dưỡng huấn luyện riêng, mà vì cơ thể chúng đã được cấy một loại bùa tên là "chú thông tâm". Chú thông tâm, tức là tương thông với tâm ý của chủ nhân, như vậy, các giống linh cầm mới có thể hành động theo ý tứ của chủ nhân. Nếu như một người khác điều khiển được thiên cầm, trừ phi chú thông tâm đã bị phá giải, nếu không người đó chắc chắn đã giết chết chủ nhân của chú thông tâm.

Chim sáo đưa tin, chim sáo nghiện rượu, chim sáo bám theo đoàn người, tất cả những chuyện này vẫn có điểm hợp lý. Nhưng Thủy Du Bạo chỉ huýt sáo một tiếng đã gọi được con sáo đậu đúng trên quai hòm gỗ, lại chặn móng vuốt đúng trên nút thắt, những việc này cho dù là cao thủ huấn luyện chim cũng khó lòng thực hiện được, trừ phi thiên cầm đã tương thông với tâm ý của người điều khiển. Đây là con chim sáo mắt đỏ của chưởng giáo thiên sư, làm sao Thủy Du Bạo lại có thể tâm ý tương thông với nó? Hay là ông đã nhìn nhầm, con dịch duệ này không phải con dịch duệ đó?

Sự xuất hiện của lão Thủy quả thực rất đáng nghi ngờ. Hơn nữa sau khi lão ta xuất hiện, các hành trình đến đỉnh núi Giang Lang, đến vùng núi Thiên Linh, dường như tất cả đều là do lão bếp già này sắp đặt, hơn nữa, lại là kiểu đi tới đâu sắp đặt tới đó. Nếu như lão quả thực là người đưa tin của chưởng giáo thiên sư, tại sao không nói hết thông tin ngay từ đầu, mà đợi tới khi mọi người định không cho lão đi cùng mới úp mở nói ra? Hơn nữa, kẻ đưa tin tiếp theo lại chính là con sáo mắt đỏ vốn rất nghe lời lão. Như vậy, liệu thông tin truyền đạt có phải là chủ ý của lão hay không? Hay là thông tin đã bị lão thay đổi? Còn nữa, tấm lệnh bài Thiên sư mà lão mang đến liệu có đúng là do chưởng giáo thiên sư giao cho lão hay không?

Chúc Tiết Cao vừa được Lỗ Thịnh Nghĩa lôi ra khỏi lòng đất, lập tức tỉnh táo hoàn toàn. Nhìn khắp trên dưới, cũng không thấy có thương tích gì, ngoài một vết hằn tím bầm quanh cổ chân. Lỗ Thịnh Nghĩa thấy Chúc Tiết Cao bình yên vô sự, liền vội vàng cà nhắc trở lại vị trí của mình. Con chim sáo cũng biết điều, thấy Lỗ Thịnh Nghĩa đã quay lại, lập tức xòe cánh bay lên, chấp chới mấy cái đã mất hút vào bóng tối.

Chu thiên sư tạm thời gác nỗi hoài nghi sang một bên. Trước mắt, họ vẫn ở trong vòng nguy hiểm, không phải thời cơ thích hợp để xử trí chuyện nghi ngờ. Lúc này, họ cần phải đồng tâm hiệp lực vượt qua cơn kiếp nạn, sau khi thoát thân sẽ theo dõi, biện nhận kỹ lưỡng hơn.

-Cậu Chúc, về sau đừng tự ý hành động nữa, sẽ liên lụy đến mọi người. Chúng ta hãy ở nguyên vị trí không được di chuyển, bảo tồn sức lực, không được nóng nảy, chắc chắn sẽ có cơ hội! – Chu thiên sư nghiêm khắc nhắc nhở Chúc Tiết Cao.

Mặc dù Chúc Tiết Cao không hiểu khi nãy đã xảy ra chuyện đáng sợ thế nào, nhưng nhìn vào vẻ kinh hoàng chưa kịp tiêu tan trên nét mặt của mọi người, và mặt đất nham nhở giống như vừa bị cày xới, gã đã đoán ra cơn xốc nổi vừa rồi chắc hẳn đã khiến mọi người phải một phen kinh hồn bạt vía. Chu thiên sư đã nói đúng, có trách chỉ trách gã kém hiểu biết lại không giữ được bình tĩnh, suýt chút nữa đã báo hại mọi người. Thế là gã rất thành khẩn ghìm lòng bình tĩnh, ngồi yên chờ đợi. Mặc dù không biết phải đợi đến bao giờ, và chờ đợi điều gì, nhưng gã đã hiểu, nhất định phải làm như vậy.

Trời đã sắp sáng, cơn mưa vẫn chưa có vẻ tạnh, Chu thiên sư cũng chưa có vẻ muốn hành động. Chu thiên sư chưa hành động, những người khác cũng không dám hành động. Chỉ có Thuỷ Du Bạo, trời càng về sáng, lão càng có vẻ bất an, nét mặt và ánh mắt càng thêm u ám. Một lão già lười biếng, bây giờ đến ngồi cũng không thể ngồi yên.

Dầm mưa suốt cả đêm thì không sao, nhưng trời vừa sáng, Chúc Tiết Cao và mấy người bỗng cảm thấy khó chịu, ai nấy run lên cầm cập, tinh thần cũng uể oải trông thấy.

-Lạnh không? May mà tôi có rượu đây, lần này thì có tác dụng rồi nhé! – Thuỷ Du Bạo nói đoạn, ném ngay bình rượu cho Chúc Tiết Cao – Uống một ngụm thật lớn, chia ba lần từ từ nuốt xuống, sẽ thấy ấm hơn nhiều.

Chu thiên sư thấy Chúc Tiết Cao mở nắp bình rượu, thì hơi ngẩng lên, như muốn nói gì rồi lại thôi. Đúng vậy, ông vốn định ngăn không cho mọi người uống rượu của Thuỷ Du Bạo, nhưng rồi nghĩ thế nào lại im lặng.

Thuỷ Du Bạo còn bảo Ngũ Lang và Chúc Tiết Cao dùng rượu rửa vết thương do dưỡng thi gây ra. Chúc Tiết Cao và Ngũ Lang cảm thấy nơi bị dưỡng thi chộp phải đang sưng tấy lên, ngứa ngáy rất khó chịu, không biết phải xử lý thế nào. Nhưng dùng rượu rửa xong, không những hết ngứa, mà cảm giác sưng tấy cũng đỡ rất nhanh.

-Hai cậu đã trúng phải thi độc, trong loại rượu này hẳn có thứ giải được độc tố của dưỡng thi. – Chu thiên sư vừa nói vừa nhìn Thuỷ Du Bạo với ánh mắt đầy ẩn ý.

-Thế à? Thế mà tôi chẳng biết gì cả. Này lão thiên sư, tôi nghe nói có thể dùng gạo nếp để giải thi độc phải không? Hay là trong ngũ cốc dùng để ủ rượu có gạo nếp nhỉ? – Thuỷ Du Bạo nói vậy, đến Chu thiên sư cũng không có cách nào phản bác.

-Cái thứ rượu quái gì thế này? Ông Thuỷ, ông pha thêm nước vào rượu à? Chẳng có mùi vị gì cả! – Người cuối cùng nhận lấy bầu rượu là Du Hữu Thích. Vừa nuốt xuống một hớp, tinh thần hắn phấn chấn hẳn, lập tức cất tiếng chê bai.

-Không pha thêm nước thì làm sao tôi đủ uống? Không pha thêm nước thì hết nhẵn từ lâu rồi! Tôi cứ uống đến đâu pha đến đấy, bầu rượu lúc nào cũng đầy.

-Hi hi, đã thành bạn tốt rồi đấy, ông ấy hào phóng mang thứ nước có mùi rượu cho mọi người uống, đúng là mặt trời mọc đằng tây! – Mặc dù Lỗ Thiên Liễu chỉ là trêu chọc, nhưng cô cũng nói không sai, lão Thuỷ bình thường tiếc rượu như mạng, hành động hôm nay rõ là rất bất thường.

Nhưng không ai để ý thấy trong sọt của Thuỷ Du Bạo vẫn còn vài bình rượu nữa. Hẳn lão ta không thể "uống đến đâu pha nước đến đấy" với tất cả số rượu mang theo. Vả lại từ sau khi lên núi, hình như lão chưa hề uống một hớp rượu nào.

Lão Thuỷ đang nói dối! Nhưng tại sao lão ta phải nói dối? Lão đã pha thêm thứ nước gì vào bình rượu vừa đưa cho mọi người uống? Trong những chiếc bình còn lại là rượu, hay là thứ gì khác...

Sắc mặt của Chu thiên sư đã trở nên nặng trịch như bầu trời trong cơn mưa. Lúc này đã sắp tới giờ Ngọ, ông càng tinh thần căng thẳng, tụ khí ngưng thần, ở trong trạng thái cảnh giác cao độ.

Thuỷ Du Bạo cũng cảm thấy bất an, cứ ngó ngoáy như dòi, không chịu ngồi yên lấy một chốc.

-Ông Thuỷ ơi, ông đang căng thẳng chuyện gì thế? – Lỗ Thiên Liễu hỏi.

-Cô không nên biết là hơn, biết rồi lại càng thêm lo lắng nghi ngờ, chỉ cần tập trung chú ý, có chuyện gì cứ làm theo lời tôi là được!

Thuỷ Du Bạo càng nói vậy, Lỗ Thiên Liễu càng cảm thấy lo sợ.

-Tôi biết rõ ông là thần thánh phương nào rồi, nếu ông không chịu nói cho tôi hay, tôi sẽ nói chuyện của ông cho mọi người biết! – Giọng Ngô nhỏ nhẹ của Lỗ Thiên Liễu nghe thật êm tai, vừa như nũng nịu vừa như doạ dẫm, thật khiến người ta khó lòng không nhượng bộ.

-Cái con ranh này, không thành tiên chắc cũng thành tinh. Được rồi, tôi sẽ nói cho cô nghe! – Thuỷ Du Bạo lại suy nghĩ một lát, rồi quyết định nói rõ đầu đuôi sự việc cho Lỗ Thiên Liễu biết. Lão đổi sang tư thế bò rạp xuống, ghé sát sang Lỗ Thiên Liễu lúc này đang ngồi xếp bằng trên đất.

-Nuôi xác còn lợi hại và nguy hiểm hơn cả nuôi ma, phương pháp vô cùng tàn độc. Để phát huy tối đa khả năng của dưỡng thi, thường sẽ bắt người sống, rồi tra tấn, giết chết người thân yêu nhất của người đó ngay trước mặt hắn ta. Sau đó lại hành hạ hắn ta thêm vài ngày nữa, để cho oán khí và khí hung sát tích tụ thật nhiều trong người hắn. Đợi đến khoảng giờ Ngọ, sẽ phong ba hồn, diệt bảy phách rồi chôn người đó dựng đứng dưới lòng đất. Như vậy, ba hồn còn lại có thể đêm là ma, rạng sáng là vong, ban ngày là sát. Khi sử dụng, ma đêm là mê, vong sáng là hoặc, sát ngày là hung. Nói cách khác, từ giờ Tý trở đi, càng gần đến giờ Ngọ, dưỡng thi càng có khả năng trồi lên khỏi mặt đất!

-Vậy khoảng thời gian từ sau giờ Ngọ đến giờ Tý là thời gian ẩn phục ư? – Lỗ Thiên Liễu hỏi.

-Con bé này thông minh gớm, có lẽ giờ Dậu là lúc ẩn sâu nhất!

-Vậy chúng ta có thể lợi dụng khoảng thời gian này để thoát ra?

-Không biết vùng đất dưỡng thi này kéo dài tới đâu, tốt nhất cần có vật gì để trấn, như vậy chúng ta mới có thể toàn mạng thoát thân.

-Ở đây lấy đâu ra vật trấn?

-Không biết! Đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra vật trấn. Nhưng việc này vẫn còn có thời gian để tính toán, bây giờ quan trọng nhất là phải đối phó với sát ban ngày.

Lỗ Thiên Liễu nghe lão nói vậy mới phát hiện ra, lúc này đã gần đến giờ Ngọ.

-Vong sáng không xuất hiện, sát ngày sẽ càng hung dữ, cô phải hết sức thận trọng. Còn nữa, cô đã biết được chuyện này, chốc nữa hoàn toàn dựa vào cô và lão Chu xử trí. Ông ta biết phải làm gì! – Thuỷ Du Bạo vừa nói vừa cười bí hiểm.

"Kiến thức Đạo gia của ông Thuỷ này không hề thua kém bất cứ một vị thiên sư nào, đây rõ ràng không phải đạo hạnh của một lão nấu bếp suốt ngày chỉ biết đến rau cỏ!" – Lúc này trong lòng Lỗ Thiên Liễu chồng chất vô số điều nghi vấn, nhưng nghi vấn lại không thể mở miệng hỏi, chỉ có thể tự mình phán đoán. Như Thuỷ Du Bạo vừa nói, cô phải hết sức thận trọng.

Mưa bụi vẫn mịt mờ không tạnh, mọi người vừa ướt vừa lạnh, cảm thấy khó chịu vô cùng. Nhưng vào lúc chỉ còn cách giờ Ngọ một khắc, họ bỗng cảm thấy được sự ấm áp.

Hơi ấm được truyền đến từ dưới đất, nhưng chỉ chốc lát sau đã chuyển từ ấm áp sang nóng giãy. Chẳng bao lâu, mặt đất đã không thể ngồi được nữa, ngay cả khi đứng, đế giày cũng nóng bỏng rất khó chịu. Nhưng thật quái lạ, mặt đất tuy nóng rừng rực, song không hề thấy có hơi nước bốc lên. Theo lý mà nói, với độ nóng như vậy, chắc chắn sẽ phải khiến nước mưa trong lòng đất bốc hơi ít nhiều mới đúng.

-Tĩnh tâm, hít sâu thở ngắn, không được để sát làm mê loạn tâm thần! – Giọng Chu thiên sư tuy vẫn điềm tĩnh, song sắc mặt đã càng thêm trầm trọng.

Mạng lưới được đan từ sợi dây kim tuyến bất chợt rung lên. Lúc đầu còn ngờ rằng ai đó sợ hãi mà run tay khiến sợi dây dao động theo, nhưng đến khi tất cả mọi người đều thấy toàn thân rung lên bần bật, họ mới ý thức được rằng không phải do bọn họ làm lưới rung, mà là lưới rung khiến cho bọn họ rung theo.

Cùng với sự rung động, đất đá cát sỏi dưới chân họ bắt đầu từ từ trồi sụt. Trong cơn xáo trộn, thi thoảng lại vọng lên những tiếng "ùng...! ùng...!" hết sức ghê rợn.

Chú thích

[7] Tức là bắt chéo sợi dây thành hình chữ X trong một phạm vi và góc độ nhất định

Chương 6: Quả nát người

Mau! Dùng vũ khí thường xuyên sử dụng nhất đâm xuống dưới chân! – Chu thiên sư hét vang.

Bất kể là người làm trong ngành nghề nào, thứ dụng cụ mà họ sử dụng thường xuyên nhất, quen tay nhất, trải qua một thời gian dài sẽ được thẩm thấu mồ hôi tinh huyết, ánh sáng nhật nguyệt, có thể dùng để trấn hung trừ tà. Ví dụ con dao mổ của người đồ tể, lười rìu của thợ mộc, dùi đục của thợ đá, lưỡi kéo của thợ may..., chúng đều có linh lực nhất định.

Mọi người đều vội vã vung đao, kiếm, rìu, thích đâm xuống mặt đất, Thủy Du Bạo cũng đổ chút rượu xuống bên chân. Mặt đất từ từ bình lặng trở lại, nhưng mạng lưới kim tuyến vẫn rung động không ngừng, hơn nữa, ngay cả sợi dây kim tuyến cũng trở nên nóng bỏng, khiến những ngón tay đang giữ sợi dây nóng rát như muốn bốc cháy.

-Đừng hoảng loạn! Cố gắng chịu đựng! Tất cả chỉ là ảo giác! – Chu thiên sư ngoài miệng nói vậy, nhưng ông hiểu rõ chỉ bằng mấy lời nói sẽ không thể giúp mọi người chịu đựng được cảm giác bỏng giãy như thiêu như đốt này. Ông bèn thò tay vào trong túi, móc ra một bình sứ màu xanh, miệng lầm rầm tụng niệm:

-Tây có núi xanh, núi liền trời xanh, trời có khí thanh, khí thông một khiếu trong lành, khí thịnh vạn vật thanh linh. Thiên sư cầm sách, Lão Quân ban lệnh, khai thanh mở linh. Biến! - Nắp bình vừa mở, mọi người liền cảm thấy có một luồng khí mát rượi chạy dọc theo sợi kim tuyến, khi chạy qua những chỗ thắt nút, cảm giác bỏng rát lập tức biến mất. Sau đó, hơi mát truyền qua ngón tay chạy xuống, ngay cả cái nóng như thiêu đốt trên mặt đất cũng nhanh chóng tiêu tan.

-Mọi người hãy nhắm mắt ngưng thần, mặc kệ mọi thứ, có xuất hiện chuyện quái lạ gì cũng không được di chuyển. Cố gắng chịu đựng qua giờ Ngọ ba khắc, mọi chuyện sẽ ổn! - Lỗ Thiên Liễu nói lớn, vì cô biết phương pháp của Chu thiên sư chỉ có tác dụng tạm thời, nếu muốn trấn áp được mối nguy nhật sát, hẳn cô phải hy sinh chút máu mới xong.

Sau khi Thủy Du Bạo giảng giải cho Lỗ Thiên Liễu về ma đêm, vong sáng và sát ngày, Lỗ Thiên Liễu đã rà soát trong các lý luận của Đạo gia, và tìm ra một câu "sát ngày dùng máu thuần âm để phá". Máu thuần âm có rất nhiều loại, máu ly xà, máu rùa thiêng, máu chim tinh vệ, song những loài đó chỉ có thể ngẫu nhiên gặp được mà không dễ tìm. Còn loại máu thuần âm thường gặp nhất là máu của xử nữ, tức con gái trinh tuổi dưới hai mươi bốn. Ngón trỏ thông với trung nguyên, mạch của nó đi thẳng tới uyên điền cực âm. Lỗ Thiên Liễu bèn đưa ngón tay trỏ vào trong miệng, sẵn sàng cắn rách ngón tay, dùng âm huyết phá giải dương sát.

Mạng lưới kim tuyến sau một hồi rung lắc, lại từ từ dừng lại. Vẫn chưa đến giờ Ngọ ba khắc, tất cả mọi thứ đều đã khôi phục trạng thái bình thường.

-Không cần dùng tới máu của cô nữa! Ngày Thái âm, năm Thanh hòa, lại đúng hôm mưa dầm âm u. Tất cả đã được người ta tính toán từ trước, nên mới không lo không sợ, quả là liệu việc như thần. Cao thủ ẩn thân, kim giấu trong bông. Lợi hại! - Thủy Du Bạo cao giọng nói lớn, cách nói năng đã khác hẳn với giọng điệu của lão bếp lèm bèm lúc trước, dường như muốn cạnh khóe điều gì. Nhưng chẳng ai để ý đến lời của Thủy Du Bạo, không biết là do chưa hết khiếp đảm bởi dưỡng thi, hay đang âm thầm tính toán điều gì khác.

-Cú đứng mãi thế này cũng không phải cách hay, liệu chúng ta có thể cứ duy trì vị trí này rồi di chuyển xuống chân núi không? - Lỗ Thịnh Nghĩa đưa ra một cách xem chừng không mấy khả quan.

-Hôm qua tôi thấy dưỡng thi không túm được anh Lỗ, hẳn là vì chân anh phải đi cà nhắc. Hay là chúng ta cũng thay đổi cách đi, cứ hai bước lại co chân nhảy một bước, như vậy có lẽ dưỡng thi không thể bắt được! – Du Hữu Thích là kẻ đầu óc lanh lợi, suy đoán và phương pháp của hắn nghe rất có lý.

-Bây giờ thì không được! Chỉ cần di chuyển, hình sẽ tán loạn, khí của tám vị trí phân bố không hài hòa, khó tránh được sát ngày tấn công. Hãy cố đợi thêm chút nữa!

-Chu thiên sư nói rất đúng, chúng ta hãy đợi đến giờ Dậu hãy đi, lúc đó dưỡng thi sẽ ẩn phục bất động! - Lỗ Thiên Liễu cảm thấy mình cần đứng ra nói đỡ cho Chu thiên sư đôi câu, nếu không, mọi người sẽ không thể hiểu nổi Chu thiên sư đang làm gì.

-Cho dù đến giờ Dậu cũng không được! Còn cần phải có một hai vật trấn có thể trấn áp được chúng! – Chu thiên sư nói.

-Hoa nghìn cánh cỏ độc rữa, nấm trăm màu rêu địa hoàng, rắn năm bước dế sọc đỏ, thịt diêm tiêu mì nước kiềm. Xa, không đi được. Gần, sao không tìm? - Thủy Du Bạo lại lảm nhảm, hai mắt nhắm lại, mí mắt giật liên hồi, tựa như mê ngủ.

Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra, mấy câu này xuất hiện trong trước tác "Vật khắc vật biện kim phương" của danh y Khang Mai Đình người Cửu Giang đời Minh. Ông Lục nói sách này có điểm tương đồng với phong thủy học, ông đã từng nghiên cứu kỹ, và giảng giải cho Lỗ Thiên Liễu nghe.

Mấy thứ mà Thủy Du Bạo vừa nhắc đến đều từng đôi tương khắc với nhau, thế nhưng giữa chúng lại có quan hệ nương tựa, nên thường xuất hiện rất gần nhau. Hoa nghìn cánh nếu không có cỏ độc rữa bên cạnh sẽ không thể nở, và hoa nghìn cánh cũng là phương thuốc duy nhất có thể giải được độc tố của cỏ độc rữa. Nấm trăm màu chỉ có thể sống được trên rêu địa hoàng, và cũng chỉ có rêu địa hoàng mới có thể giải được độc của nấm trăm màu. Rắn năm bước phải nhờ dế sọc đỏ bóc bỏ lớp màng dịch độc dính trên răng, còn dế sọc đỏ lại phải ăn lớp da lột của rắn năm bước mới có thể sống qua mùa đông. Còn hai thứ sau cùng là do Thủy Du Bạo tự chế ra, lão cho rằng nấu mì với thịt muối diêm tiêu là ngon nhất, và dùng nước luộc thịt để nấu mì cũng là đúng vị nhất.

Cho dù Lỗ Thiên Liễu không biết ý nghĩa của hai thứ cuối cùng, nhưng những thứ phía trước cũng đủ để cô đoán được Thủy Du Bạo đang ám chỉ điều gì. Cô đã tìm được vật trấn dưỡng thi, nó chỉ ở quanh đây, ở ngay sát vùng đất dưỡng thi.

Không một ai dám liều lĩnh di chuyển. Tất cả bọn họ đang phải giăng tấm lưới kim tuyến "Bát tiên định tà", giống hệt như một đám châu chấu bị xâu trên sợi dây. Không ai dám, cũng không ai có thể tự tiện hành động theo ý mình.

Kỳ thực như bọn Du Hữu Thích, Quan Ngũ Lang, tuy đều biết rõ cao nhân núi Long Hổ bản lĩnh phi thường, nhưng xét từ độ tín nhiệm, họ vẫn nghe lời Lỗ Thiên Liễu hơn. Vì vậy, khi Lỗ Thiên Liễu nói cần đợi đến giờ Dậu, bọn họ đều tập trung ánh nhìn về phía Lỗ Thiên Liễu, chỉ cần cô lên tiếng, sẽ lập tức hành động.

Song Lỗ Thiên Liễu từ đầu đến cuối chỉ kín đáo đưa mắt nhìn về phía Chu thiên sư, thi thoảng lắm mới qua lại dăm ba câu không đầu không cuối với Thủy Du Bạo. Trong suốt buổi chiều, cô để ý thấy Chu thiên sư mặc dù mặt ngoài điềm tĩnh, nhưng vẫn có rất nhiều động tác nhỏ cho thấy ông đang lo lắng trong lòng, sau đó lại chuyển từ lo lắng sang bất lực. Tại sao lại như vậy? Đang tiến dần đến thời điểm dưỡng thi ẩn phục, đã sắp sửa được thoát thân rồi. Phải chăng vì không tìm được vật trấn nên ông mới thành ra như vậy?

Đột nhiên, Lỗ Thiên Liễu sực nhớ đến một chuyện rất không hợptình hợp lý. Đệ tử của Chu thiên sư! Hắn đang nấp ở bên kia sườn dốc, nhưng từ đầu đến cuối không thấy thò mặt ra một lần nào. Dường như ngay cả Chu thiên sư cũng đã quên bẵng mất kẻ này, ngay cả lúc nguy hiểm nhất đêm qua cũng không hề gọi hắn đến giúp đỡ.

-Ông Thủy ơi, ông hãy nói xem vật trấn ở đâu? Giờ Dậu sắp đến rồi, mà hình như Chu thiên sư vẫn không tìm thấy! - Lỗ Thiên Liễu biết đã đến lúc phải chuẩn bị, không thể tiếp tục chết dí ở đây thêm một đêm nữa. Chưa nói tới sự nguy hiểm của dưỡng thi, chỉ riêng việc tiếp tục dầm mưa cũng đủ khiến mọi người thể lực khó đương, nên đến giờ Dậu bằng mọi giá phải rời đi.

-Đừng lo lắng! Lúc cần biết tự nhiên sẽ biết! - Thủy Du Bạo chỉ cười rồi nói nhỏ với Lỗ Thiên Liễu.

Đúng vậy! Đến một lão nấu bếp già trên núi Long Hổ còn biết được vật trấn ở đâu, chẳng nhẽ một vị thiên sư đạo hạnh cao thâm cai quản Duyệt Vi đường lại không thể tìm ra.

Đã gần đến giờ Dậu, Chu thiên sư lại trở nên bình tĩnh khác thường, những biểu hiện lo lắng và bất lực khi nãy đều đã tiêu tan, hồi phục hoàn toàn vẻ uy nghi của bậc tiên phong đạo cốt. Ông hết sức thận trọng nhưng không hề chậm chạp, lôi ra một lô một lốc đồ lễ, có bùa giấy vàng, bột chu sa, ấn đoạn hồn, bút âm dương, lại còn cả kiếm gỗ đào, nến không khói, hương miếng. Ông trải một tấm lụa Bát quái có hình vẽ Tam Thanh xuống đất, rồi lần lượt bày những thứ kia lên.

Quá trình thực hiện cũng hết sức tuần tự: đốt nến, thắp hương, vẽ bùa, đóng ấn, niệm chú. Mọi công đoạn đều hết sức chỉnh chu trật tự, những thứ dùng xong lập tức được cất vào trong túi. Rất nhanh chóng, những thứ vừa mới bày ra la liệt giờ chỉ còn lại hai lá bùa và một miếng hương đang cháy dở.

Lỗ Thiên Liễu thì thầm hỏi Thủy Du Bạo:

-Ông ấy làm vậy có đúng không?

-Đúng! Đây là dùng trúc thay nến, trúc sáo định hồn sở dĩ có thể bao vây vùng đất dưỡng thi, vì bản thân nó quả thực có tác dụng định hồn, lại thêm được hấp thụ thi khí dưới lòng đất trong một thời gian dài, dùng nó làm loại nến bùa cắm xuống hai đầu dòng khí của vùng đất dưỡng thi. Trong khi cây trúc bốc cháy, sẽ có thể trấn định không cho dưỡng thi chui lên khỏi lòng đất.

-Vật trấn chính là trúc sáo định hồn ư? - Lỗ Thiên Liễu đột nhiên sực tỉnh.

Chu thiên sư đã xong xuôi mọi việc, cất giọng sang sảng mà nói:

-Bây giờ, tôi sẽ buông dây kim tuyến. Dây vừa buông hết, cậu Ngũ hãy nhanh chóng chạy ngược lại, chặt lấy hai cây trúc sáo mang về. Còn tất cả những người khác chạy ngay xuống núi, càng nhanh càng tốt!

Lời vừa nói dứt, không đợi cho người khác kịp hỏi han thắc mắc, Chu thiên sư đã buông chùng sợi dây liền mấy thước, rồi đưa dây lên miệng. Chỉ nghe "phựt" một tiếng, sợi dây đã bị cắn đứt.

Các nút dây đang quấn quanh ngón tay mọi người chớp mắt đã bung ra. Sợi dây còn chưa kịp rơi xuống đất, ai nấy đã cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng xuống dốc. Chỉ có Chu thiên sư vẫn đứng yên bất động.

Mọi người mới vừa cất bước, đất đá trên sườn núi lập tức bung ra, nhưng tốc độ chậm hơn đêm qua rất nhiều. Đến khi Ngũ Lang chạy đến bên vạt trúc, mới có đôi ba cánh tay dưỡng thi lẻ tẻ thò lên.

Chu thiên sư vô cùng điềm tĩnh, ông thổi hai hơi vào miệng hương, khiến nó càng cháy đượm, rồi miệng lầm rầm tụng niệm. Khói hương phả đến nơi nào, những cánh tay vừa mới thò lên lập tức bất động giống như bị giữ chặt. Đây là một pháp thuật rất thường gặp trong các chiêu pháp thần kỳ của núi Long Hổ, tức phép "thổ phục" nhờ khói và bùa chú, khiến các xác hung hồn ác đã ngoi lên ngộ nhận rằng chúng vẫn đang ẩn phục dưới lòng đất.Khi miếng hương cháy hết, Ngũ Lang và Chu thiên sư kịp đã vót nhọn gốc hai cây trúc cắm phập xuống đất, rồi rũ hai lá bùa vàng đã viết sẵn cho cháy bùng lên, dính lên trên ngọn trúc. Hai cây trúc sáo liền cháy bừng bừng như hai ngọn nến, soi sáng ít nhiều cho sườn dốc dưỡng thi.

Du Hữu Thích lúc này đã chạy xuống đến chân núi, nhìn thấy Chu thiên sư đã hoàn thành mọi việc, thì buột miệng lầm bầm:

-Đơn giản thế thôi mà tại sao đêm qua không chịu làm ngay đi, báo hại cả đám sợ đến vỡ mật, lại phải dầm mưa suốt cả đêm!

-Không đơn giản đâu chú ơi, vả lại cũng phải đợi đúng giờ này nữa! - Lỗ Thiên Liễu phân trần với Du Hữu Thích.

-Chưa chắc! Cách nấu đã thông thạo, lại có phụ bếp tốt, mà lừng khừng mãi không chịu dọn bàn, chắc chắn còn có mưu mô gì khác! - Thủy Du Bạo lại nói nhăng nói cuội chuyện nấu nướng, song trong lời lẽ hồ đồ quả thực có ẩn chứa huyền cơ, chỉ có điều không phải ai cũng hiểu được.

Hai cây trúc sáo dùng để thay cho nến cúng cháy rất nhanh, vì chúng được trồng ngay bên cạnh mảnh đất dưỡng thi, nên đã hút được một lượng lớn mỡ người từ xác chết. Chu thiên sư không lường trước được tình huống này, vì vậy khi ông và Ngũ Lang chưa chạy được bao xa, hai cây trúc sáo chỉ còn lại non nửa, về cơ bản đã không còn tác dụng trấn áp. Những cánh tay dưỡng thi đã thọc lên mặt đất lại bắt đầu vùng vẫy, và những chỗ khác cũng bắt đầu lổn nhổn thò ra những phần cơ thể của dưỡng thi.

Khi ngọn lửa cuối cùng trên trúc sao tắt ngấm, dưỡng thi chớp mắt đã rào rào đội đất chui lên từ trên đỉnh dốc trở xuống, tựa như một cuộn thảm đang lăn đi vùn vụt trải thẳng xuống chân dốc, không biết đến đâu mới chịu dừng lại.

-Chạy mau! Chạy tiếp xuống dưới! – Chu thiên sư vừa chạy cuống cuồng vừa hét lớn.

Đám người đang đứng lại dưới chân dốc không thể ngờ được rằng vùng đất dưỡng thi lại rộng lớn đến vậy, lúc này mới vội vã quay đầu tháo chạy thục mạng.

-Chạy vào trong rừng! Vùng đất dưỡng thi không kéo dài tới đó! – Chu thiên sư gào lên lạc giọng.

Dưới chân dốc quả nhiên có một cánh rừng, cây cối thấp lùn mọc san sát, hẳn là trong rừng rễ cây chằng chịt, không thể "trồng" được dưỡng thi. Hơn nữa cây sống hấp thu khí của trời đất, đón ánh sáng của nhật nguyệt, ít nhiều cũng có mang linh tính, cho dù có dưỡng thi, chúng cũng không thể đội cây mà chui lên.

Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không phải là người chạy đầu tiên, nhưng cô bẩm sinh đã có mối linh cảm đặc biệt với cây cối, nên là người đầu tiên phát hiện ra rừng cây có chỗ bất ổn. Cây trong rừng là loại lãnh sam lá kim, theo lẽ thường thì phải mọc ở những khu vực tương đối cao so với mặt nước biển, có khí hậu giá rét. Hơn nữa, xét về chỉnh thể, trông những thân cây rất không cân đối, trên cành lá có một số thứ không thuộc về cây.

-Không được vào rừng! - Lỗ Thiên Liễu hết lên thật lớn.

Người chạy đầu tiên là đệ tử của Du Hữu Thích. Khi nghe thấy tiếng hét, hắn còn cách bìa rừng hơn chục bước chân, bình thường với khoảng cách này, hắn hoàn toàn có thể dừng lại kịp. Thế nhưng đến gần bìa rừng, lại xuất hiện một sườn núi rất dốc, cộng thêm quán tính lao xuống khiến cho hắn khác nào chiếc xe trượt nghìn cân, không thể dừng lại được.

Điều duy nhất mà hắn có thể làm lúc này là thuận đà nhảy vọt lên, khiến cơ thể bay ngang trên không trung một đoạn, nhằm tiêu trừ xung lực, tránh để lao thẳng vào cây rừng mà bị thương. Vị trí tiếp đất hắn cũng đã chọn sẵn, đó là một tán cây của hàng cây thứ hai, có thể nhờ vào tán lá để giảm bớt lực đạo rơi xuống.

Chạy phía sau hắn là Du Hữu Thích. Mặc dù chỉ chậm hơn tay đệ tử hai bước, song vừa nghe thấy tiếng hét của Lỗ Thiên Liễu, hắn đã lập tức thu bước dừng chân. Lênh đênh sông nước đã nhiều năm, định lực dưới chân hắn đã đến mức độ phi phàm, nên chỉ loạng choạng hai bước nhỏ, hai chân hắn đã đứng thẳng trong tư thế dừng. Song tư thế này chưa thể giúp hắn dừng ngay lại, mà lực quán tính vẫn đẩy hắn trượt đi theo con dốc.

Lỗ Thiên Liễu cũng đã đuổi kịp, may nhờ có Du Hữu Thích ngăn cô lại, cô mới chụp được quai hòm trên lưng Lỗ Thịnh Nghĩa.

Đối với người nhà họ Lỗ, chiếc hòm gỗ sau lưng cũng chẳng khác gì vũ khí tùy thân của người luyện võ, không được phép rời tay. Vì vậy, khi Lỗ Thiên Liễu chụp được quai hòm, Lỗ Thịnh Nghĩa theo phản xạ lập tức vung tay giữ lấy đầu còn lại của tay nắm.

Cùng lúc đó, Lỗ Thiên Liễu phóng Phi nhứ bạc về phía sau lưng, Phi nhứ bạc vừa hay quấn chặt lấy tay Chu thiên sư. Chu thiên sư đang chạy với tốc độ không nhanh, đột ngột bị giật mạnh về phía trước, suýt chút nữa đã ngã lộn cổ, may nhờ có Ngũ Lang phía sau kịp chụp lấy thắt lưng ông.

Cơ thể của Ngũ Lang gần như đổ nghiêng xuống sườn dốc trượt đi. Để ngăn chặn thế trượt, anh ta bèn cắm phập phác đao xuống mặt đất. Mũi đao rạch trên sườn núi đầy sỏi, tóe ra từng chùm lửa xẹt. Lực kéo của cả mấy người đồng thời tác động lên bàn tay trái đang giữ chặt chuôi đao của Ngũ Lang, khiến các đầu móng tay bật cả máu tươi.

Cuối cùng phác đao cũng đã dừng lại. Con sóng dưỡng thi rùng rùng phía sau cũng chấm dứt chỉ cách phác đao chưa đầy hai thước. Vùng đất dưỡng thi cuối cùng cũng đến chỗ kết thúc.

Đám Lỗ Thịnh Nghĩa, Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích đang lôi kéo lẫn nhau ở dưới cùng cũng đã dừng lại, chỉ còn cách cây lãnh sam ngoài cùng chưa đầy một thước. Nhưng mặt mũi của họ lúc này có phần biến dạng, vì trong khi đang trượt xuống, một cơn mưa máu dày đặc đã nhuộm đỏ bầm cơ thể họ từ trên xuống dưới.

Là máu tươi của đệ tử Du Hữu Thích. Lúc này, nằm vắt ngang trên tán cây lãnh sam đã không còn là cơ thể cao lớn của gã thanh niên, mà là một đám máu thịt nát bấy.

Phát hiện của Lỗ Thiên Liễu quả không sai. Môi trường sống tự nhiên của cây lãnh sam lá kim thường là vùng núi cao với áp suất khí quyển thấp. Bởi vậy, lãnh sam mọc ở nơi đây do môi trường khí hậu không phù hợp, nên rất khó kết thành quả nón. Những thứ không thuộc về cây lãnh sam trong cảm giác của Lỗ Thiên Liễu chính là đám quả nón trên cành. Vì tất cả những quả nón trên cây đều là loại quả nón bằng sắt vừa chạm là nổ. Chúng được tạo thành bằng cách ghép các vảy sắt lại với nhau, bên trong ẩn giấu chốt lẫy lò xo, nếu chạm phải, toàn bộ vảy sắt sẽ bắn tứ tung, không thể tránh né.

Lỗ Thịnh Nghĩa quan sát kỹ lưỡng những quả nón bằng sắt, phát hiện ra chúng được móc vào nhau, chứ không phải là xỏ bằng dây, kỹ thuật tinh xảo thật khó tưởng tượng.

Mặc dù Du Hữu Thích là kẻ cướp, song rất trọng tình cảm, nên tỏ ý muốn lấy thi thể đệ tử xuống chôn cất. Lỗ Thịnh Nghĩa chắc chắn không thể từ chối yêu cầu này. Du Hữu Thích đã vì đại sự của nhà họ Lỗ mà phải giải tán anh em, phá hủy sào huyệt, những người đi cùng hoặc tử thương, hoặc mất tích không còn một ai, quả thực đã phải hy sinh quá lớn.

Lỗ Thịnh Nghĩa bảo mọi người tránh ra xa, sau đó cởi bỏ tấm áo ngoài dày rộng, lấy từ trong hòm gỗ ra một chiếc ống da và hộp dây. Trong ống da đựng những dụng cụ khều dây gỡ nút như kim, móc, kéo, kẹp, trong hộp dây đựng dây kết bằng bờm ngựa. Ông định dùng dây bờm ngựa xuyên vào trong mắt lỗ của quả nón bằng sắt để gỡ chúng xuống.

Trong suốt quá trình đó, tất cả mọi người đều căng thẳng như muốn nghẹt thở. Du Hữu Thích cũng bắt đầu hối hận về yêu cầu của mình, bèn đến can ngăn Lỗ Thịnh Nghĩa. Ai dè Lỗ Thịnh Nghĩa nhất định không chịu, nói rằng muốn xem bản lĩnh của đối phương ghê gớm đến đâu.

Mưa đã ngớt, chỉ còn lất phất vài hạt. Song mồ hôi lại đổ ròng ròng khắp người Lỗ Thịnh Nghĩa, gần như có thể nghe thấy tiếng lộp độp khi chúng rơi xuống đất.

Một quả, hai quả, ba quả... Những quả nón bằng sắt đã được dây bờm ngựa chốt lại không thể bùng nổ lần lượt được bỏ vào hòm gỗ. Cuối cùng thì mọi người cũng nghe thấy Lỗ Thịnh Nghĩa lên tiếng:

-Được rồi! Nút đã giải hết!

Mọi người cùng xúm lại, gỡ thi thể từ trên tán cây xuống.

-Cẩn thận, đừng đụng vào cây bên cạnh! Đầu tiên dịch chuyển thi thể đi, rồi nâng lên, đề phòng bên dưới vẫn còn nút lẫy chưa được giải! - Lỗ Thịnh Nghĩa đứng bên cạnh nhắc nhở.

Đợi đến khi lấy được cái xác xuống chôn cất xong xuôi, Lỗ Thịnh Nghĩa mới nói rằng, ông đã gỡ được bảy quả nón bằng sắt trên cây lãnh sam bên ngoài. Đáng ra phải có tám quả, nhưng một quả đã bị gã đệ tử chạm phải mà phát nổ. Trên cây lãnh sam phía trong ông gỡ được ba quả, đáng ra phải có sáu quả, nên ba quả còn lại hẳn đã bắn hết lên người gã.

-Quá nhiều, quá dày đặc. Nếu chỉ nổ một quả may ra còn có cơ hội sống! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói.

-Anh Lỗ, sao anh không vứt mấy quả đó đi, còn cất vào hòm làm gì? – Chúc Tiết Cao hỏi.

-Đây đều là những vật hiếm có, cho dù muốn bắt chước để làm theo cũng phải bỏ ra rất nhiều công sức. Cứ giữ lấy, biết đâu sau này lại phải dùng đến!

Rừng cây rậm rạp vô cùng, cây nào cây đấy chi chít quả nón bằng sắt, cho dù là thần tiên cũng không thể vượt qua. Vì vậy, phương pháp an toàn nhất là đi vòng qua nó.

Sau khi vòng qua rừng lãnh sam, một vạt rừng đạm trúc[8] hiện ra trước mắt họ, trải dài dưới một thung lũng với vách đá hai bên. Bọn họ không ai có khả năng trèo lên vách núi dựng đứng, vì vậy buộc phải xuyên qua rừng trúc mà đi.

Chú thích

[8] Là một giống tre cỡ trung bình. Thân non màu xanh sẫm, có lớp phấn trắng bao phủ dày đặc, khi già ngả màu lục nhạt hoặc vàng. Còn có tên là trúc mao kim, trúc phấn xanh.

VÁCH QUỶ ANH – CƠN ÁC MỘNG CỦA GIA TỘC LỖ BAN

Chương 7: Trúc rối loạn

Đến lúc này Lỗ Thiên Liễu mới nhìn rõ đám quỷ anh, vóc dáng và diện mạo của chúng quả thật giống hệt trẻ nhỏ, nhưng động tác có phần đờ đẫn cứng nhắc. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, chẳng ai ngờ được chúng có thể chạy nhanh đến vậy. Tất cả bọn chúng đều trần như nhộng, trên làn da trắng bệch nổi phồng lên những mạch máu ngoằn ngoèo màu tím anh. Trên chiếc đầu lớn tròn xoe, lại mọc ra một đầu mũi nhọn hoắt và hàm răng nanh lởm chởm. Nơi đôi mắt là một khe hở rất dài và lớn, nhưng lại giống như không thể mở ra.

Bây giờ vách Quỷ anh đã thành hình, giống như một chiếc ống tròn, chụp cứng lấy bốn người. Lũ quỷ anh sau khi tạo thành bức tường, hình dạng mỗi đứa một khác, thảo nào số lượng của chúng đông đảo hơn nhiều so với vách Bách anh. Vì chúng có lớn có nhỏ, lại méo mó biến dạng theo đủ kiểu khác nhau.

"Vách Bách anh, vòng tuyệt mệnh", đây là câu nói mà tất cả các khảm tử gia trong giang hồ đều thuộc nằm lòng.

o O o

Trúc trong rừng đạm trúc mọc vô cùng hỗn loạn. Kể từ lúc bắt đầu lên núi, đây là khu rừng đầu tiên không thấy có dấu vết sửa sang của con người. Rất nhiều thân trúc nghiêng ngả, cong queo, đổ gãy, cành úa lá tươi đan rối vào nhau, không phân biệt được đâu là cây sống đâu là cây chết. Từ trong rừng trúc thi thoảng lại bay ra một thứ mùi hôi tanh nồng nặc, tựa như mùi chuột chết.

Lúc này trời đã sáng hẳn, mưa phùn lại rơi mù mịt như sương. Toàn bộ khu rừng chìm trong tiếng rì rầm của hạt mưa nhỏ trên lá trúc, cành trúc.

Phải chăng họ đã đi nhầm đường? Đi quanh một vòng rồi lại lạc vào đường rừng? Lần này, ngay cả Chúc Tiết Cao cũng không dám chắc chắn. Hay là bọn họ đã bỏ qua lối rẽ nào? Điều này mọi người đều bác bỏ, từ khu rừng lãnh sam đến rừng đạm trúc, bọn họ không hề nhìn thấy một lối rẽ nào.

-Hay là vòng ngược chiều rồi? Lẽ ra phải đi vòng qua bên kia rừng lãnh sam. Mau quay lại thôi, khảm tử gia chẳng nói nơi không có đường chính là đường chết hay sao? – Du Hữu Thích lo lắng.

-Ai nói ở đây không có đường? Chỉ có điều không biết con đường này có đi qua được hay không! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói.

-Vậy ư? Ở đây có đường? – Du Hữu Thích nhìn vào rừng trúc, vẻ đầy nghi hoặc.

Bên trong rừng trúc cành xiêu lá úa, nhìn kiểu gì cũng không giống đường đi. Cho dù có đường, hẳn cũng không phải dành cho con người.

-Người ta có thể làm ra hình thù ngay ngắn, thì tại sao không thể làm ra hình thù hoang sơ? - Lỗ Thiên Liễu xen vào một câu.

-Đúng vậy! Thôi mặc kệ, cứ đi rồi tính. Cho dù là con đường khảm diện do đối phương bày ra, chúng ta vẫn cứ phải đi. Chỉ cần không bị lạc đường, chẳng may có sai vẫn quay lại được! – Chúc Tiết Cao lúc nào cũng muốn đơn giản hóa các vấn đề phức tạp.

Lần này Lỗ Thịnh Nghĩa đi trước dẫn đường. Công pháp Định cơ vốn được dùng để xác định phương hướng, phạm vi, hình dạng thích hợp nhất của công trình kiến trúc trong bất cứ điều kiện địa hình nào, vì vậy, ông có thể phát hiện ra đường đi trong khu rừng trúc hỗn tạp rối loạn cũng là hợp tình hợp lý.

Quả nhiên có đường, mặc dù con đường rất khó đi.

Lỗ Thiên Liễu lần này không đi cuối cùng, vì cô phải bám sát theo cha, sử dụng ba giác nhạy bén để giúp ông phát giác ra những điểm bất thường. Hơn nữa, nếu xuất hiện điều gì bất trắc, cô cũng có thể kịp thời trợ giúp cho ông.

Lúc này, người đi cuối cùng là Chu thiên sư. Đây là sự lạ, vì trên suốt đường đi, Chu thiên sư với tư cách là bậc tôn trưởng, lại là người tu hành đạo hạnh cao thâm, nên luôn là nhân vật trung tâm của cả đoàn người, nhưng không hiểu sao lúc này ông lại có vẻ lo âu sợ hãi. Vẫn còn một việc quái lạ hơn nữa, hôm trước Chu thiên sư bảo tay đệ tử tránh xa vùng đất dưỡng thi, nhưng từ lúc đó trở đi, không hề gọi hắn một lần. Sau khi thoát khỏi vùng đất dưỡng thi, ông cũng không đi tìm, thậm chí chẳng buồn nhắc đến, dường như đã quên bẵng mất con người đó.

Ai cũng biết Chu thiên sư không thể lú lẫn đến mức độ ấy. Ông ta làm như vậy, chắc chắn còn có dụng ý khác. Chỉ có Ngũ Lang bản tính thực thà, mới ngây ngô hỏi ông ta tay đệ tử đã đi đâu, nhưng Chu thiên sư nét mặt khác thường, chỉ trả lời gọn lỏn:

-Có chuyện!

Càng đi sâu vào trong rừng trúc, đường càng dễ đi, nhưng thông thường khi đường đi dễ dàng, người ta sẽ không quay đầu nhìn lại phía sau. Cũng chính vì thế mà họ đã không phát hiện ra một hiện tượng bất thường có liên quan tới tính mạng.

Ngay cả người đi cuối cùng là Chu thiên sư cũng không phát hiện ra hiện tượng này. Tất cả những nơi mà họ đã đi qua đều không thể quay trở lại. Những cành trúc tươi trúc héo thoạt nhìn tưởng như rối loạn không theo quy tắc, nhưng kỳ thực, chúng đã tạo thành vô số các rào chéo ngược trên suốt dọc đường đi, giống như những hom giỏ bắt cá. Đi theo chiều thuận chỉ cần đẩy khẽ cành trúc là có thể lách qua, nhưng nếu quay ngược lại, sẽ phải đối diện với vô số gai trúc tua tủa đâm thẳng đến trước mặt.

-A, có người! - Lỗ Thịnh Nghĩa vừa vòng qua một khóm trúc rậm, liền giật bắn mình trước một bóng người thình lình hiện ra trước mắt.

-Ồ! Tại sao lại là anh ta? - Lỗ Thiên Liễu tuy cũng sợ đến toát mồ hôi lạnh, song vừa nhìn đã nhận ra bóng người trước mắt.

Đó là một kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện ở đây, một kẻ đáng lẽ phải đi cùng cả bọn. Kẻ đó đứng thẳng đơ ngay phía trước, xoay nghiêng về phía đoàn người, thân hình đu đưa nhẹ bẫng, tựa như một bộ da treo trong rừng trúc.

-Là đệ tử của thầy kìa! Đi nhanh thật đấy, đã tới tận đây! Nhưng hình như có vẻ hơi dặt dẹo, cứ như vừa ăn đẫy cơm rượu nước đầu! - Thủy Du Bạo quay đầu nói với Chu thiên sư.

Sắc mặt của Chu thiên sư lúc này hết sức khó coi, song không hề có vẻ kinh ngạc hay bất ngờ, dường như đã có dự cảm từ trước.

Kẻ đó đúng là đệ tử của Chu thiên sư, nhưng đã chết. Một cành trúc sắc nhọn đâm xuyên vào sau gáy hắn, rồi thò ra qua chiếc miệng há hốc, nhấc bổng thi thể hắn lên, đưa qua đưa lại, chỉ còn đầu mũi chân kéo rê trên đất, trông dật dờ như thể đang bay.

Du Hữu Thích thận trọng lại gần xác chết, hắn muốn quan sát xem ngọn trúc to bằng miệng chén kia đã xuyên thủng qua gáy kẻ kia bằng cách nào, và còn nguyên nhân nào khác khiến hắn thiệt mạng hay không.

Xác chết vẫn quần áo chỉnh tề, không hề có dấu vết của giãy giụa xô xát, có thể phán đoán rằng hắn đã bị ngọn trúc đâm thình lình trong trạng thái không hề phòng bị. Song cơ thể người thấp hơn ngọn trúc, tại sao ngọn trúc lại có thể đâm xuyên qua gáy? Chắc hẳn không phải là do hắn tự vít cành xuống. Còn nữa, một thân xác trai tráng vạm vỡ thế kia treo trên đầu ngọn trúc, tại sao cành trúc lại không hề trĩu xuống?

Du Hữu Thích đưa Nga Mi thích đẩy khẽ vào xác chết, cái xác bèn đong đưa như con lắc.

-Cẩn thận, tôi đoán có thứ gia vị nào khác. Với thân thủ của hắn, chắc chắn không thể để cành trúc đâm trúng người mới phải! - Thủy Du Bạo nhắc nhở Du Hữu Thích.

Du Hữu Thích không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Hắn không động vào cái xác nữa, mà vòng về phía trước xác chết.

Đột ngột, hai con mắt của hắn trợn trừng lên như muốn vọt ra ngoài, mặt mũi tái xanh tái xám, lập tức xoay người, gập lưng, "ọe" lên mấy tiếng như muốn nôn. Một tên đầu sỏ cướp hồ giết người không gớm tay giờ lại nôn ọe trước xác chết? Sợ ư? Hay kinh tởm? Cả hai!

Lỗ Thiên Liễu tuy rất hiếu kỳ, nhưng lại không dám chạy tới nhìn, sức chịu đựng của cô trên phương diện này thua xa Du Hữu Thích. Vì vậy, khi Thủy Du Bạo nhấp một ngụm rượu rồi đi đến bên cạnh cái xác, vụt một cái xoay nó về phía mọi người, Lỗ Thiên Liễu lập tức nhắm chặt mắt lại quay vội đi.

Quá nửa thi thể ở phía bên kia da thịt nhăn đét lại như xác chết khô, một nửa đầu đã trơ xương như đầu lâu, chỉ còn vắt vẻo vài dải thịt, trên đó lúc nhúc vô số dòi bọ đang thi nhau rỉa rúc.

Thảm trạng quả thực khủng khiếp, cũng hết sức quái đản. Mức độ nát rữa khô đét của nửa thi thể bên kia thường chỉ có những xác chết đã nhiều năm, trong khi tay đệ tử của Chu thiên sư mới biến mất chưa được hai ngày. Và khó hiểu hơn nữa là cái xác lại một nửa mục rữa một nửa nguyên lành như còn sống, không biết là bị trúng nút thuốc độc, hay trúng ngón tà thuật bàng môn nào?

-Chẳng trách lại bị cành trúc nhấc bổng lên, chỉ còn một nửa trọng lượng... Ồ, không đúng, bên trong cũng đã bị moi móc hết rồi, chẳng còn được bằng một nửa nữa... - Những người khác đều thấy ghê rợn không dám nhìn, chỉ có Thủy Du Bạo vẫn thản thiên như không, không những tiến lại gần xem xét, lại còn phân tích rất hào hứng, tựa như đang bàn luận về một món ăn, khiến mọi người đều cảm thấy con người này thật tàn nhẫn.

Trong lúc lão Thủy vẫn đang lải nhải không thôi, từ trong đám cành lá dày đặc phía trên bỗng có hai bóng đen lao vụt tới. Lỗ Thiên Liễu vội kéo Lỗ Thịnh Nghĩa ngồi thụp xuống. Ngũ Lang lập tức xoay tròn thanh phác đao che chắn phần đầu. Chúc Tiết Cao né người lách xuống bên dưới một đám trúc nghiêng vẹo, ngay cả Du Hữu Thích đang gập người nôn ọe cũng thuận thế đổ rạp người về trước.

Chỉ có Thủy Du Bạo và Chu thiên sư vẫn đứng trơ trơ.Thủy Du Bạo câm bặt, nét mặt sầm lại như tảng đá. Chu thiên sư vẻ mặt lãnh đạm, người không nhúc nhích.

Hai bóng đen không lớn, khi lao xuống ngang với độ cao của thân người, liền liệng thành vòng tròn, tách nhau ra, lần lượt rơi trên vai Thủy Du Bạo và Chu thiên sư.

Đậu trên vai Thủy Du Bạo chính là con sáo mắt đỏ, còn đậu trên vai Chu thiên sư là một con vẹt lông xanh lớn hơn con sáo khá nhiều. Lông vũ trên mình nó màu xanh lam, từ cổ trở lên xanh biếc đến chói mắt, bên dưới phần cổ ngả sang màu đen. Đây chính là con vẹt mà Chu thiên sư nuôi dưỡng, người nuôi chim gọi giống này là "Lửa ma đêm".

Con vẹt vừa đáp xuống vai Chu thiên sư, lập tức the thé liên hồi:

-Chưởng giáo mất tích, Long Hổ bị đánh. Chạy rồi! Tan rồi! Chưởng giáo mất tích, Long Hổ bị đánh. Chạy rồi! Tan rồi...

Chu thiên sư mặt không biến sắc, ánh mắt bén nhọn kinh người chiếu thẳng về phía Thủy Du Bạo:

-Ngươi là ai?

Tiếng kêu quang quác liên hồi của con vẹt không hề ảnh hưởng đến âm hưởng sắc bén rành mạch trong lời nói của Chu thiên sư.

-Người được chưởng giáo thiên sư phái đến! - Lời Thủy Du Bạo ngắn gọn điềm tĩnh chưa từng có.

-Chưởng giáo thiên sư đã đi đâu?

-Đi đến nơi cần đến, đi theo hướng cần đi!

-Ngươi tính toán hết rồi phải không?

-Là có người tính toán hơi muộn!

-Thật ghê gớm! Ẩn mình trên núi Long Hổ suốt bao nhiêu năm, lại lừa gạt được chưởng giáo thiên sư tin tưởng. May mà bảo bối vẫn chưa lấy được, ngươi đã lộ hình quá sớm!

-Trong lòng một bầu khí thanh linh, không có hình mà lộ, cũng có thể hiện hình tùy theo cảnh. – Thủy Du Bạo không những điềm tĩnh, mà còn hiển hiện ít nhiều khí độ thanh nhàn của tiên gia.

-Con vẹt của ta bay chậm hơn con sáo kia đến trăm dặm một ngày, có lẽ đã đến chậm mất bốn năm ngày, vì vậy nó phải rời núi Long Hổ trước khi con sáo của người xuất phát. Không biết con sáo của người lấy đâu ra thông tin khẩu truyền của chưởng giáo thiên sư? – Suy luận của Chu thiên sư rất có lý, vấn đề chỉ ra cũng rất có khí thế lấn át.

-Này, ông Chu, ông đừng có nói cái giọng đấy, làm tôi canh chẳng ra canh cháo chẳng ra cháo. Tôi chẳng phải là thiên sư, bấm độn không biết tính toán không hay, đừng hỏi tôi ba cái thứ vớ va vớ vẩn kia nữa. Đáng lẽ tôi đã bỏ đi rồi, là mọi người khăng khăng níu kéo tôi ở lại, sao bây giờ lại thành ra mũi lợn thối hoắc bỏ vào nồi kho, dù có lý cũng cãi không lại! - Thủy Du Bạo lại quay trở về với cách nói năng bạt mạng chẳng coi ai ra gì, cãi chày cãi cối, hẳn là do không trả lời được câu hỏi của Chu thiên sư nên thuận miệng nói càn.

-Tốt lắm! Hôm nay phải đào tận gốc trốc tận rễ, nhổ đi cái đinh găm dưới đế giày! – Du Hữu Thích nhăm nhăm đổ thêm dầu vào lửa. Mấy ngày hôm nay hắn hết cự nự với Chu thiên sư, lại đấu khẩu với Thủy Du Bạo, cuối cùng cũng chộp được một cơ hội để phát tiết.

-Chuyện gì thế? Hai người tự dưng đứng trơ ra như khúc tre ở đấy làm gì, có đi không? Đừng có ở luôn đây mà đấu khẩu đấy nhé! – Chúc Tiết Cao chui ra từ đám trúc nghiêng ngả, thấy bộ dạng của hai lão già như vậy thì lấy làm kinh ngạc.

-Các người đi trước đi!

Cả hai lão già đang hằm hè nhau lại bật ra cùng một câu.

-Vậy chúng tôi đi trước đây! - Lỗ Thiên Liễu nãy giờ lắng nghe rất chăm chú, cũng phát giác ra những khuất tất bên trong. Con vẹt Lửa ma đêm của Chu thiên sư mang tin tức đến, nói rằng núi Long Hổ đã bị tấn công, chưởng giáo thiên sư mất tích, nên Chu thiên sư đã nghi ngờ về thân phận và ý đồ thực sự của Thủy Du Bạo. Trong khi Thủy Du Bạo lại ám chỉ Chu thiên sư có ý đồ ám muội. Chuyện này trước mắt không ai có thể phân rõ trắng đen, nên Lỗ Thiên Liễu quyết định tạm thời tránh mặt.

-Chúng tôi đi thật đấy! - Lỗ Thiên Liễu lại quay đầu lại nhìn hai lão già đang gườm gườm nhau như hai con gà chọi.

Chu thiên sư và Thủy Du Bạo đều không lên tiếng, chỉ khẽ gật đầu.

Bọn họ vòng qua phía trước cỗ xác người lủng lẳng trên cành trúc, đi về phía trước, và phát hiện ra rằng, ở vạt rừng phía trước, những cây trúc nghiêng ngả đổ rạp không có nhiều thay đổi, song những thân cây thẳng tắp vươn cao trông lại có vẻ to lớn hơn nhiều so với những chỗ họ đã đi qua.

Đúng lúc Lỗ Thịnh Nghĩa đang định rẽ đám cành lá rối loạn để lách lên, trong Lỗ Thiên Liễu lại vụt lên một cảm giác y hệt như khi ở trước rừng cây lãnh sam. Cô vội vàng chụp lấy Lỗ Thịnh Nghĩa giữ lại, nói dứt khoát:

-Từ từ đã!

Trên đám trúc ở đây có những thứ không thuộc về cây trúc. Trước khi tìm được và xử lý ổn thỏa những thứ đó, họ không được tiến thêm nửa bước.

Hai lão già đã chuyển từ đấu khẩu sang đấu mắt, đấu thế.

Lúc này, bối rối nhất chính là đám Lỗ Thiên Liễu, tiến lên không được, mà lui lại cũng chẳng xong, không muốn ở lại mà cũng không thể không ở lại. Đám dòi bọ quằn quại trên khuôn mặt nửa thịt chết nửa xương khô của cỗ thây ma, khiến nó như đang nhếch một nụ cười ma quái, dè bỉu đám người đang lúng túng trước mặt.

Sáo mắt đỏ và Lửa ma đêm đột nhiên lao vút lên không, khiến mọi người cứ ngỡ Chu thiên sư và Thủy Du Bạo sắp động thủ đến nơi. Ngoái đầu nhìn lại, thấy hai lão già vẫn đứng bất động, trong khi hai con chim cũng không bay đi xa, chỉ lượn vòng vòng bên trên rừng trúc, dáng vẻ đầy sợ hãi hoảng loạn.

"Linh cầm cảnh báo"! Lỗ Thiên Liễu biết hiện tượng này có ý nghĩa gì. Cô bất giác lùi lại một bước, tập trung tinh thần, dùng ba giác nhạy bén để lục soát trong rừng trúc. Nhưng do suốt nhiều ngày bôn ba mệt mỏi, tinh thần lại ở trong trạng thái căng thẳng cao độ, nên hiện giờ ba giác của cô không thể đạt đến trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù như vậy, cô vẫn nghe thấy có vật gì đang trườn đi một cách chậm chạp, mang theo một thứ mùi hết sức khó ngửi.

Lỗ Thiên Liễu đột nhiên cảm thấy trước mắt lòe nhòe, bèn vội vàng chớp mạnh đôi mắt để rũ đi những hạt bụi mưa bám trên mi. Song trước mắt vẫn thấy hơi chao đảo. Một số thứ đúng ra không thể di chuyển giờ đang di chuyển. Là thứ gì? Là cây trúc! Là cành trúc! Là các đốt trên cành trúc!

-Cây trúc kìa! - Lỗ Thiên Liễu không biết phải nói thế nào, chỉ biết đưa tay chỉ vào cây trúc, kêu toáng lên.

Cô vừa đưa tay ra chỉ, bỗng một đoạn thân trúc ngay phía trước vụt một cái đã lao đến sát gần, lắc lư rơi thẳng xuống đầu Lỗ Thiên Liễu.

-Chạy mau! – Chúc Tiết Cao vừa quát lớn, vừa vung tay đẩy Lỗ Thiên Liễu sang một bên, một thanh nan tre vàng óng vung ra, quấn ngay lấy "đoạn trúc". "Đoạn trúc" đã rơi xuống đất, song từ trong rừng tiếp tục văng ra vô số "đoạn trúc" bay đến tới tấp, khiến bó lạt tre không thể nào bắt cho xuể.

Vừa chạy ngược trở lại, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra lối về trúc ken tua tủa như hom giỏ. Bọn họ đã trở thành cá nằm trong đó, không thể trở ra.

-Á! Nóng quá! Nóng chết mất! – Ngũ Lang đi đoạn hậu bỗng rú lên. Có thể khiến một gã trai mình đồng da sắt phải kêu la thảm thiết đến thế, nỗi đau đớn hẳn là khó tưởng tượng.

Ngũ Lang vừa kêu rú, vừa đưa tay ra sau lưng giật phăng một miếng "vỏ trúc" màu xanh nhạt. Miếng "vỏ trúc" bị rứt xuống, lôi theo cả một mảng áo của Ngũ Lang, trên mảng lưng trần hằn rõ một vết cháy sém có hình vỏ trúc.

-Chạy đi đâu? Không quay lại được!

-Lách sang bên trái!

-Hay là nấp dưới đám trúc nhỏ trước đã!

-Không được, chúng nhiều quá! Lát nữa bị vây kín sẽ không còn đường chạy!

Mọi người đã hoảng loạn cực độ. Lúc này những "đoạn trúc" đã bay đến rợp trời rợp đất.

-Chạy sang đây! – Là giọng của Thủy Du Bạo.

Cuộc đối đầu giữa Chu thiên sư và Thủy Du Bạo không biết đã kết thúc từ bao giờ, lúc này Thủy Du Bạo đang đứng trước một vạt trúc khô héo, đưa tay vẫy Lỗ Thịnh Nghĩa.

Lỗ Thịnh Nghĩa ngần ngừ một thoáng, không biết có nên đi theo Thủy Du Bạo hay không. Chính trong khoảnh khắc ngần ngừ đó, một "đoạn trúc" đã rơi xuống cổ ông, rồi lập tức quấn một vòng quanh cổ hệt như vắt cho ông một tấm khăn quàng màu xanh nhạt. Nhưng dải khăn quàng quá chặt, lại ấm quá thể, hai mắt Lỗ Thịnh Nghĩa đã lồi hẳn ra, đến kêu cũng không kêu được thành tiếng, "phịch" một cái ngã lăn xuống đất.

Lỗ Thiên Liễu vung Phi nhứ bạc đánh văng hai "đoạn trúc" đang lao đến, đưa tay trái định gỡ dải "vỏ trúc" thít trên cổ Lỗ Thịnh Nghĩa, song lại không thể tìm thấy đầu mối ở đâu, không biết phải gỡ từ chỗ nào.

"Phụt" - Thủy Du Bạo ngửa cổ phun ra một ngụm rượu tung tóe trên không, ngụm rượu rất lớn, song hơi phun của Thủy Du Bạo cũng rất dài. Luồng hơi dài đã phun rượu thành một tấm màn rất rộng, bao trọn lấy bọn Lỗ Thiên Liễu. Mấy giọt rượu cuối cùng vừa hay rơi trúng "chiếc khăn quàng" thít quanh cổ Lỗ Thịnh Nghĩa, "chiếc khăn" giật lên mấy cái, rồi nhũn ra tuột xuống.

Thủy Du Bạo chụp lấy sau cổ áo Lỗ Thịnh Nghĩa, chỉ một tay đã kéo bật ông lên. Sau đó lại buông tay, chưa đợi Lỗ Thịnh Nghĩa ngã sụp xuống, đã vỗ mạnh một chưởng vào giữa lưng ông. Chưởng này khiến Lỗ Thịnh Nghĩa hít thở lại được, mặc dù quanh cổ bỏng rát đau đớn, nhưng chân đã đứng vững được.

Màn rượu của Thủy Du Bạo vừa phun ra, những "đoạn trúc" đã lao đến sát gần bỗng rung lắc dữ dội, lập tức bay ngược trở lại, có đoạn quay về cây trúc, có đoạn rơi vào trong bụi.

-Chạy mau! Rượu chỉ có thể ngăn cản tạm thời! - Thủy Du Bạo vừa nói vừa đẩy Lỗ Thịnh Nghĩa.

Lỗ Thịnh Nghĩa vừa kịp định thần, không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ biết cắm đầu chạy theo Thủy Du Bạo.

Con đường mà Thủy Du Bạo phát hiện bị che phủ hoàn toàn bởi đám cành trúc rối loạn thấp lè tè, phải cúi lom khom mới có thể luồn qua. Nhưng lúc này, chỉ cần có đường đi, chỉ cần tránh được sự công kích, cho dù phải bò mà đi, bọn họ cũng phải liều mạng.

Đến khi không thể chạy nổi nữa, bọn họ mới ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc. Nhưng đến tận lúc này, bọn họ vẫn chưa thể ra khỏi con đường bị phủ kín dưới cành trúc rậm rịt.

Khi đã đỡ hổn hển, Lỗ Thiên Liễu đến bên Lỗ Thịnh Nghĩa để xem xét vết thương cho ông, liền phát hiện phần da trên cổ ông đã cháy đen và khô quắt lại, trên đó có vô số lỗ nhỏ li ti, nhưng không thấy có máu rỉ ra từ trong lỗ.

-Không biết là thứ quái đản gì? Vết thương trông rất bất thường! - Lỗ Thiên Liễu vừa nói vừa đưa mắt về phía Thủy Du Bạo.

Chưa đợi Thủy Du Bạo lên tiếng, Chúc Tiết Cao đã tranh nói trước:

-Đây là dơi đốt trúc, thường gọi là sâu hỏa lưu. Hoa văn, màu sắc trên mình chúng trông giống hết như một đoạn trúc, và chỉ sinh sống trong rừng đạm trúc. Bên dưới cơ thể có trăm chân, vừa dùng để di chuyển, vừa dùng làm vòi hút thức ăn. Trong rừng đạm trúc, chúng hút nước trên lá trúc, sau khi vào trong cơ thể sẽ chuyển hóa thành một thứ dung dịch ăn mòn cực mạnh. Khi gặp vật sống, chúng sẽ bám lên cơ thể, trăm chân cắm sâu vào da thịt, nhả dung dịch vào cơ thể sống để làm cho cơ thịt nát rữa, rồi hút lấy để ăn. Sau khi hút no, chúng sẽ bò về cây trúc, nhả thứ dung dịch vừa hút được xuống gốc trúc. Bởi vậy những cây trúc có dơi đốt trúc ký sinh đều cao lớn hơn hẳn. Xác đệ tử của Chu thiên sư chính là bị giống quái vật này cắn hút, nên mới thối rữa nhanh chóng đến vậy!

-Tại sao không nói sớm? Giống quái vật đó hình như còn biết bay! – Du Hữu Thích cằn nhằn.

-Không phải bay, mà là nhảy. Giống này trước đây tôi đã từng thấy, nhưng to nhất cũng chỉ bằng cái đũa, có biết đâu lại lớn đến thế? – Chúc Tiết Cao nói.

Thực ra giống dơi đốt trúc này còn có tên là dơi trúc. Trong trước tác "Dị trùng điển phả" có chép rằng: "Dơi trúc, hình dạng màu sắc giống như thân trúc, hút máu thịt rát như lửa thiêu, to bằng thân trúc nơi chúng ở..."

-Vết thương phải xử lý như thế nào đây? - Người bị thương chính là cha mình và Ngũ Lang, nên Lỗ Thiên Liễu vô cùng lo lắng, không biết mức độ nguy hiểm của vết thương và phương pháp điều trị ra sao.

-Thịt bị dung dịch trong thân dơi thiêu đốt, nên hoại tử mà thành ra như vậy. Cứ để kệ nó, vết thương sẽ dần bình phục! - Thủy Du Bạo nói.

-Phải rồi, ông Thủy, thứ rượu của ông xem ra rất vạn năng, hay là thử dùng nó để chữa cho họ xem sao? – Du Hữu Thích đã bắt đầu tò mò với rượu của Thủy Du Bạo. Cũng dễ hiểu, vì bình rượu của lão đã hết lần này đến lần khác phát huy tác dụng thần kỳ.

-Không phải món nào thêm muối cũng hợp, vết thương này tôi cũng bó tay! - Thủy Du Bạo nói.

-Hỏi Chu thiên sư xem ông ấy có cách gì không? – Chúc Tiết Cao nói với Du Hữu Thích.

-Chu thiên sư! Ô, cái lão mũi trâu này biến đi đâu rồi nhỉ? Không chạy cùng chúng ta ư?

Lúc này mọi người mới phát hiện ra Chu thiên sư đã không thấy đâu nữa, không biết ngay từ đầu đã không chạy cùng mọi người, hay là đã thất lạc trên đường tháo chạy.

Trong lòng Lỗ Thiên Liễu bỗng dấy lên một cảm giác như thể bị lừa gạt. Tại sao cô lại có cảm giác này. Cô đã bị ai lừa? Cô không rõ, nhưng chắc chắn đã có một ai đó đã lừa gạt mọi người. Là Chu thiên sư? Hay là Thủy Du Bạo?

Nếu là Chu thiên sư, vậy vẫn còn may, chí ít lúc này cũng đã thoát khỏi ông ta. Mà không đúng! Cũng có thể bọn họ đã bị ông ta đưa đến một con đường không thể quay về. Nhưng con đường họ đang đi lại do Thủy Du Bạo dẫn vào. Phải rồi! Tại sao Thủy Du Bạo lại biết được con đường ẩn kín trong trúc thấp? Tại sao rượu của Thủy Du Bạo lại có thể khắc chế được lũ dơi đốt trúc? Nếu thông tin mà con vẹt "Lửa ma đêm" của Chu thiên sư mang đến là chính xác, thì Lão Thủy Du Bạo kia rốt cục là ai?

-Chúng ta hãy nhanh chóng tiến lên, phải thoát khỏi rừng trúc này trước đã! - Lỗ Thiên Liễu đề nghị.

Cuối cùng cũng đã thoát khỏi con đường phải cúi lom khom mà đi, nhưng họ vẫn chưa thể ra khỏi rừng đạm trúc. Khi bọn họ đã có thể đứng thẳng người, nhìn về phía trước, trải dài trước mắt vẫn là đọt xanh tua tủa, cành đan chằng chịt, bóng lá điệp trùng. Trong cảm giác của họ, rừng trúc ở đây như thể vô cùng vô tận, không bao giờ đi được đến tận cùng.

-Khu vực này có vẻ thoáng đãng hơn nhiều! – Chúc Tiết Cao cuối cùng cũng lên tiếng. Nếu không phải cảm thấy sự lạ, một người như gã tuyệt đối không bao giờ chủ động phá tan sự yên lặng.

Chúc Tiết Cao vừa lên tiếng, những người khác cũng lập tức nhận ra. Khu vực này trúc bụi và cành lá rối ren mỗi lúc một thưa, những búi trúc nhỏ dày đặc không còn thấy nữa. Trúc nghiêng và trúc thẳng thay đổi không nhiều, chỉ có vẻ thưa lá trơ trụi hơn trước chút ít. Thế nhưng những cây trúc chết khô và bị gãy cụt lại thấy nhiều hơn.

Lúc này đổi sang Lỗ Thiên Liễu đi trước dẫn đường, cô không yên tâm để Lỗ Thịnh Nghĩa đang bị thương đi đầu.

Lỗ Thiên Liễu bước đi vô cùng thận trọng, chỉ men theo những gốc cây trúc thẳng, không chui qua bên dưới những thân trúc ngả nghiêng, và tuyệt đối không bước qua những cây trúc đổ gãy. Đây là phương pháp di chuyển đề phòng dính nút mà các khảm tử gia thường dùng nhất. Nhưng cùng với sự thay đổi của rừng trúc, tình hình mỗi lúc càng trở nên phức tạp. Nếu vẫn kiên quyết di chuyển theo cách này, e rằng chẳng còn đường nào đi được nữa. Vì vậy, họ đành phải đánh liều tiến bừa về phía trước.

Người trúng chiêu đầu tiên lại là Ngũ Lang.

Khi Lỗ Thiên Liễu thận trọng bước qua một thân trúc khô héo đổ ngang, Ngũ Lang đang bám sát sau lưng cô bỗng rú lên một tiếng, cả cơ thể lập tức bị nhấc bổng khỏi mặt đất. Mặc dù Ngũ Lang đầu óc chậm chạp, song phản ứng lại vô cùng mau lẹ, lập tức bấm vào chốt lẫy tại chuôi phác đao, chúc mũi đao xuống dưới, cán đao xoay mạnh, mũi đao liền chém vòng về phía sau lưng.

Ngũ Lang mang theo một cành trúc to ngang miệng chén, hạ xuống đất. Cành trúc đã đâm xuyên vào nách Ngũ Lang, máu tươi phun ra đầm đìa.

-A! Cành trúc vọt ngược lên trên. Tôi đã nói mà, đệ tử của Chu thiên sư không thể tự nhiên lại bị treo trên cành trúc! Cành trúc tự vọt lên trên! – Du Hữu Thích tận mắt nhìn thấy rõ cây trúc bên cạnh Ngũ Lang đột nhiên cao vọt lên hơn một thước, cành trúc nhọn hoắt trụi lá trên cây trúc cũng theo đó đâm xéo lên trên, tốc độ cực nhanh, xiên thẳng vào nách Ngũ Lang. Chắc chắn đệ tử của Chu thiên sư cũng bị đâm trúng theo kiểu này, nhưng vì thi thể trông quá ghê sợ, nên khi đó hắn đã không chú ý quan sát kỹ cành trúc cắm sau gáy.

-Cái gì mà trúc vọt lên trên? – Chúc Tiết Cao nghe thấy thì nổi lòng hiếu kỳ, chạy vượt qua trước mặt Lỗ Thịnh Nghĩa, muốn nhìn rõ hơn.

-Chính là nó... Ối! – Du Hữu Thích chưa nói hết lời, Chúc Tiết Cao cũng chưa kịp nhìn rõ, rừng trúc bỗng rùng rùng biến đổi, mọc vọt lên cao, cành trúc vun vút xé gió đâm lên, thân trúc va vào nhau chát chúa.

Chắc chắn là đã có người động chạm phải một thứ không nên động chạm. Ngũ Lang vừa chạm đất, lại tiếp tục bị một cành trúc khác đánh văng đi, đôi chân Chúc Tiết Cao và Du Hữu Thích chớp mắt đã bị các cành trúc trói chặt, Lỗ Thịnh Nghĩa và Thủy Du Bạo bị vô số cành trúc chằng chịt ken kín quanh người, tựa như bị nhốt trong một chiếc lồng lớn. Người thê thảm nhất chính là Lỗ Thiên Liễu, cô bị một cây trúc đổ nghiêng trên đất đánh bật lên rất cao, rất xa. Chưa kịp rơi xuống đất, từ bên dưới lại có một đoạn đạm trúc to lớn vùn vụt lao lên, trên thân cây tua tủa những cành xiên nhọn hoắt. Trong đó, một cành đâm trúng eo, một cành khác đâm trúng bụng cô. Nhưng hai cành trúc đều không xuyên sâu vào trong cơ thể cô giống như với Ngũ Lang, xung lực cực mạnh của cú đâm chỉ khiến cô bị đánh văng đi.

Lỗ Thiên Liễu đáp xuống rất nhẹ nhàng, dù sao cô cũng là một cao thủ khinh công. Nhưng cô lại rơi xuống trong tư thế tứ chi tiếp đất, duỗi thẳng chân tay nằm sõng soài trên mặt đất hệt như con ếch chết, im lìm không nhúc nhích.

-Tất cả đứng yên! Không được động đậy! Chỉ hơi nhúc nhích, cành trúc sẽ biến hóa! - Lỗ Thịnh Nghĩa không thể cử động, chỉ có thể hét lên - Liễu Nhi, con không sao chứ? - Lỗ Thịnh Nghĩa nhất thời không nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu đâu, vì hai đòn tấn công đã đánh bật cô văng ra xa hơn hai chục bước.

-Con không sao, không sao hết! Con chưa rõ đây là loại cạm bẫy nút gì, nên không dám cử động! - Lỗ Thiên Liễu đáp.

-Là trận Trăm đốt đan xen! Khi chưa động vào chốt lẫy, nó chẳng khác rừng trúc bình thường. Chỉ cần chốt lẫy động, cây trúc sẽ chịu lực mà hoạt động, nhưng ngoại trừ một số cây đặc biệt, thì phương hướng lực đạo và phương thức hoạt động của những cây khác đều là tùy cơ, không thể phán đoán được vị trí của chốt lẫy! – Lúc này Lỗ Thịnh Nghĩa mới nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu.

-Nói như vậy là không có cách giải ư? - Lỗ Thiên Liễu hỏi.

-Đúng vậy! Không có cách giải, chỉ có thể tránh! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp.

Trận Trăm đốt đan xen, ban đầu được gọi là Cuồng chi mạn dã[9], là cục thứ mười tám trong Kỳ môn Độn giáp. Nghe nói khi Hoàng Đế giao chiến với Xuy Vưu, đã ngộ ra được cục này từ trong giáp đạo của thần cây. Cục này ít được sử dụng trong nghề khảm tử, vì nó cần đến bố cục rộng lớn và phải tốn rất nhiều thời gian để thiết kế. Nhưng nó lại thường xuyên được sử dụng trong binh pháp, như vào thời Tống, tướng lĩnh nhà họ Dương đã dùng một nghìn cây mâu ba trượng để phá đội ngựa giáp sắt liên hoàn; hay Lý Thế Dân đầu thời Đường dùng chạc sừng hươu bắt giết Lưu Hắc Thát trong rừng Tiểu Đào, đều là vận dụng chiêu này.

Nhưng nhà binh chỉ dùng đến phần hình, tuyệt đối không thể đạt đến mức độ tinh vi kín kẽ, mắt xích liên hoàn như khảm tử gia. Giống như khảm diện trước mắt, cành khô cành tươi đan xen rối loạn, chằng chịt ngả nghiêng, không thể phân biệt, cho dù là cao thủ trong nghề khảm tử chưa chắc đã thoát ra được.

-Ngũ Lang, đừng nhổ ngọn trúc ra, chưa chuẩn bị cầm máu, máu ộc ra sẽ mất mạng đấy. Gắng đợi bọn ta tình cách lại gần! – Du Hữu Thích biết Ngũ Lang tính tình lỗ mãng, vội lên tiếng ngăn cản.

-Quái lạ thật, tôi thấy con bé Liễu cũng bị đâm trúng hai phát, tại sao lại không hề hấn gì? – Chúc Tiết Cao băn khoăn.

-Ha ha! Trên người con bé có mang bảo bối gia truyền của gia tộc tôi, tôi đã giấu bảo bối vào người nó rồi! – Du Hữu Thích vẻ đầy đắc ý, dường như đã quên bẵng mất mình đang bị vây khốc trong đám cành trúc.

Thì ra sau khi qua rừng Giá Trinh, Du Hữu Thích cảm thấy địa thế nơi đây hiểm ác khôn lường, lại nghĩ vận khí của tổ tiên đã hoàn toàn bị phá vỡ, dù có liều mạng cũng khó đương đầu với số mệnh. Chỉ còn cách đặt hết hy vọng vào một người có đủ linh tính, bảo vệ cho người này an toàn để lấy được bảo bối, khi đó, bản thân mình cũng sẽ được hưởng lây chút bảo khí mà hóa giải phá cục của gia tộc. Hắn đã lựa chọn Lỗ Thiên Liễu. Hắn từng nghe nói trên cơ thể cô có làn khí thần thánh, và cũng tận mắt chứng kiến, nên khẳng định rằng cô chính là người thích hợp nhất. Bởi vậy, hắn đã kín đáo tìm cơ hội để đưa bộ áo giáp đồng rẽ nước cho Lỗ Thiên Liễu mặc vào.

Áo giáp đồng rẽ nước được đan từ sợi đồng xanh, thứ đồng được kéo sợi từ khối đồng xanh nung chảy từ cột đồng mà vua Trụ nhà Thương dùng để nung đốt người sống. Cột đồng đã được nung đỏ trong than lửa, tôi bằng máu người không biết bao nhiêu lần, đã thẩm thấu đan khí tinh huyết của không biết bao nhiêu sinh linh, còn cứng rắn hơn cả thép trời. Sau này, được ẩn sĩ triều Chu là Liêu Công Toàn chế thành sợi đồng dài ba nghìn thước, lại được thợ khéo Ma Bà ở Âm Sơn đan thành ba bộ áo giáp, một bộ "tránh lửa", một bộ "rẽ nước", một bộ "phá kim loại". Nhưng sau khi triều Chu bị tiêu diệt, ba bộ áo giáp cũng đã biệt tích. Có người nói rằng chúng được ban tặng cho Khương Thượng, cũng có người nói rằng chúng được ban cho người có công lớn nhất trong số các chư hầu, nhưng thật giả thế nào, không thể khảo chứng được. Còn bộ áo giáp đồng của Du Hữu Thích là do tổ tiên hắn kiếm được từ Tây Dương, sau đó đã phải nhờ vả không biết bao nhiêu cao nhân mới có thể đọc được một vài con chữ kỳ quặc còn sót lại trên áo, thì ra chính là bộ giáp "rẽ nước" trong ba bộ áo giáp đồng xanh. Nhưng bộ giáp "rẽ nước" cũng đã không còn nguyên vẹn, bị khuyết mất vạt dưới và ống tay, chỉ còn lại phần thân áo dùng để bảo vệ trước ngực và sau lưng. Lỗ Thiên Liễu nhờ mặc bộ áo giáp này trong người, nên mới thoát khỏi kết cục thảm khốc.

-Đã không sợ bị đâm thủng, tại sao lại không lợi dụng lực đâm để bật lên ngọn trúc, sau đó vít cong ngọn trúc rồi bật sang cây khác, băng qua khảm diện từ trên cao. – Chúc Tiết Cao nói đúng, các nút lẫy trên cây trúc thông thường sẽ không được bố trí trên ngọn trúc, khảm nút "nơi không có đường chính là đường chết" cũng sẽ không thể thiết kế trên phần ngọn. Vì ngọn trúc mềm dẻo, không ai có thể di chuyển trên đó được. Bởi vậy, phần ngọn trúc cũng tương tự như chỗ khuyết của khảm diện thông thường.

-Liễu Nhi, sau khi con đứng dậy hãy lùi lại hai bước, sẽ đụng phải một cành trúc đang bị vít căng. Sau khi lẫy động, bên trái sẽ có một cành trúc lớn chếch xuống rồi bật lên, đâm trúng ngang lưng con, con có thể mượn sức mạnh của nó để bật lên ngọn trúc! - Lỗ Thịnh Nghĩa quan sát kỹ lưỡng bố cục xung quanh Lỗ Thiên Liễu, rồi mới đưa ra phương án.

Lỗ Thiên Liễu làm đúng theo lời Lỗ Thịnh Nghĩa, lùi lại, chạm nút, rồi bị đánh bật lên cao. Sau khi bật lên, cô không rơi xuống nữa. Cô không vít cong ngọn trúc để chuyển sang ngọn khác như Chúc Tiết Cao đã gợi ý, mà sau khi bị đánh văng lên, cô đã phóng Phi nhứ bạc đi, dùng chiêu cánh tay xích quấn lấy ngọn trúc. Sau đó, cô dùng hai chiếc Phi nhứ bạc thay phiên nhau quấn vào các ngọn trúc, đu người băng qua trận Trăm đốt đan xen.

Nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu thuận lợi thoát ra, những người đang bị vây khốn mỗi người một vẻ biểu cảm. Có thể nhận ra, mỗi người họ đều mang trong lòng một suy nghĩ khác nhau.

Lỗ Thiên Liễu mặc dù vô cùng lo lắng, không biết những người còn lại có thể thoát ra an toàn hay không. Nhưng lúc này đã không còn phương cách nào khác, bản thân cô may mắn rơi vào rìa khảm nên không bị vây khốn, nên buộc phải đi trước một bước, lấy việc chính làm trọng.

Cơ thể mảnh mai của cô thoăn thoắt chuyền qua ngọn trúc, lướt đi giữa không trung. Khi cô lướt lên tới điểm cao nhất, linh hồn dường như đã bứt ra khỏi xác thân.

Chú thích

[9] Có nghĩa là cành cây cuồng dại đầy đồng.

Chương 8: Tỉnh cơn mơ

Lỗ Thiên Liễu đột nhiên choàng tỉnh, mới phát hiện ra mình vẫn nằm bên đầm hồ lô. Tất cả mọi chuyện xảy ra trong hai ngày nay như một chiếc đèn kéo quân vừa lướt qua giấc mơ của cô, rồi lần lượt biến mất. Tim cô vẫn đập lên "thình thịch" từng hồi trong lồng ngực, tất cả những chuyện vừa thoảng qua trong cơn mơ đã khiến cô nhớ lại rất nhiều điều, và cũng phát hiện ra rất nhiều điều. Cô biết, bây giờ vẫn chưa phải lúc bỏ đi. Số mạng của cô đã được đặt tại đây, thắng thua chưa định, chân tướng chưa rõ, cha cô và mọi người có lẽ vẫn bị cầm chân trong trận Trăm đốt đan xen. Nghĩ đến đây, tâm tư cô bỗng nặng trĩu, cô bất giác hít ngược một hơi khí lạnh thật dài.

Đợi đến khi nhịp tim bình tĩnh trở lại, Lỗ Thiên Liễu mới đưa ánh mắt nhìn khắp lượt xung quanh. Cô muốn tìm thứ vừa đánh thức cô dậy trong khoảnh khắc cuối cùng của giấc mơ, đó là hai cây cột đen rất lớn.

Bên cạnh cô chỉ có hai cột trụ ngả nghiêng được chồng xếp lộn xộn. Nếu hai cột đá này là đá nguyên khối, đẩy đổ chúng xuống đầm, sẽ chỉ còn cách bờ đối diện một quãng ngắn, nhưng đáng tiếc là chúng lại được chồng xếp từ nhiều tầng đá rời.

"Mình cũng đã từng xếp những cái cột tương tự thế này, lúc nhỏ mình đã từng xếp chồng gỗ lên nhau!" - Lỗ Thiên Liễu lẩm bẩm một mình – "Hình như còn có cha đứng ở bên cạnh, vừa xếp vừa giảng cho mình nghe điều gì đó..."

Lỗ Thiên Liễu bỗng ngồi bật dậy:

-Dùng điểm thông lực!

Dùng điểm thông lực là một kỹ thuật truyền thống của nhà họ Lỗ, nhưng nó không thuộc về bất kỳ kỹ pháp nào trong công phu Lục hợp, mà là một loại công phu bổ trợ nằm ngoài Lục công, được gọi là Tiểu công. Tiểu công là loại công phu bắt nguồn từ những việc chuyên chở vật liệu, trộn vữa, chuyền dụng cụ..., vốn được sử dụng xen kẽ giữa Lục công. Công phu này có rất ít kỹ thuật, lại có sự khác biệt rất lớn so với những kỹ thuật tinh xảo của nhà họ Lỗ, không phải được truyền trong "Ban kinh", mà hoàn toàn là thứ công phu được sáng tạo dựa vào tài năng của những thế hệ sau.

"Dùng điểm thông lực, lực thành một đường, hình trông không vững, không thua xếp thẳng", đây chính là khẩu quyết khi chồng xếp. Thực ra, nếu lý giải theo nguyên lý lực học, tức là sắp xếp trọng tâm của các bộ phận thành một đường thẳng xuyên suốt, từ đó giữ được trạng thái cân bằng tổng thể.

Đương nhiên, nói thì dễ, nhưng bắt tay vào làm mới khó. Muốn vận dụng công phu "dùng điểm thông lực" để xếp chồng các tảng đá lên nhau hoàn toàn không phải chuyện dễ dàng. Muốn xếp sao cho thoạt nhìn nghiêng vẹo như sắp đổ, nhưng thực chất lại vô cùng kiên cố, lại càng khó khăn hơn nữa.

"Không đúng! Nhìn từ bố cục và bề mặt tiếp xúc của những tảng đá trên hai cột đá, thì cách vận dụng "dùng điểm thông lực" vẫn chưa thật chính xác!" – Sau khi quan sát kỹ lưỡng, Lỗ Thiên Liễu liền đưa ra kết luận – "Đường lực tổng thể từ trên xuống dưới vẫn có sự lệch lạc, lẽ ra không thể chắc chắn như thế này được. Lẽ nào bề mặt tiếp xúc đã dùng chất gì đó để kết dính? Hay là đã sử dụng rãnh chốt, mộng khớp?"

Lỗ Thiên Liễu vừa suy nghĩ, vừa đưa ánh mắt tìm tòi. Khi lướt qua vị trí ban nãy vừa quấn Phi nhứ bạc, cô bỗng phát hiện ra một vệt trắng in hằn lên trên lớp rêu màu xanh lục. Có lẽ đó là vết xước do sợi xích trên Phi nhứ bạc tạo ra. Thế nhưng mặt đá ở những nơi không bị rêu phủ rõ ràng có màu nâu thẫm, tại sao ở đây lại xuất hiện màu trắng?

Lỗ Thiên Liễu đứng dậy, đến bên cạnh phần chân của cột đá. Ở đây, trong đám cỏ, cô đã tìm thấy một số mảng đá vụn màu nâu và lớp bột trắng. Lỗ Thiên Liễu đưa tay chấm lấy chút bột trắng, và xúc giác nhạy bén lập tức phát hiện ra rằng đám bột có hơi ấm. Đưa lên trước mũ, cô đã ngửi thấy một thứ mùi quen thuộc, thứ mùi thường xuyên ngửi thấy trong quá trình định móng, trừ uế, quét tường khi xây nhà: đá vôi. Thứ bột màu trắng chính là đá vôi, hơn nữa, còn là đá vôi sống, vì chỉ có đá vôi sống mới nóng lên sau khi tiếp xúc với nước.

Trong mỏ than, mỏ pha lê, mỏ đá vôi đều có một chất tên là đá khoáng khoai sọ, tức là than đá, đá vôi bị bao bọc, cách ly trong một lớp đá không có tác dụng gì, sau khi khai thác ra, chúng có dạng khối. Loại đá khoáng sản này muốn sử dụng phải tốn rất nhiều công sức, thu lợi không nhiều, nên thông thường người ta chỉ coi đó là thứ bỏ đi, không thèm khai thác. Thế nhưng hai cây cột đá lại được xếp chồng từ chính loại đá khoáng này. Hơn nữa, lớp đá vô dụng xung quanh đã được gọt giũa bớt, chỉ còn một lớp rất mỏng. Đặc biệt nhất là lõi đá bên trong chính là đá vôi sống tự nhiên, không cần phải nung qua lửa. Chẳng biết các bậc tổ tiên đã đào đâu ra thứ đá cổ quái này.

Vật quái dị, tác dụng chắc chắn cũng khác thường. Hai cột đá đã đứng ở đây không biết bao nhiêu năm mà không hề sứt mẻ hư hại, chứng tỏ bí mật trong đó vẫn chưa bị ai phát giác.

Lỗ Thiên Liễu tung mình nhảy sang bờ bên kia. Trụ đá bên kia thoạt nhìn không có gì khác biệt so với trụ đá bên này. Lỗ Thiên Liễu móc từ trong túi ra một chiếc giũa cạo[10] mài từ thép ròng, dùng phần đuôi rộng vạch thành nhiều đường ngang dày sít trên mặt đá, sau đó lại vạch thêm rất nhiều đường thẳng dày đặc tương tự. Vụn đá bắn ra tung tóe, những đường rạch ngang dọc đã tạo thành rất nhiều ô vuông nhỏ. Cô lại dùng đầu nhọn của giũa để nậy lấy những ô vuông nhỏ bé ra, từ từ mở rộng phạm vi và độ sâu. Phương pháp cạo đá này, chỉ có những khảm tử gia đủ thận trọng và kiên nhẫn mới sử dụng đến. Làm như vậy sẽ tránh gây động chạm đến chốt lẫy.

Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng nhìn thấy màu trắng của lớp đá bên trong. Dùng đầu nhọn đào lấy một ít bột trắng đưa lên mũi ngửi, cô phát hiện đó không phải là đá vôi. Lỗ Thiên Liễu rất phấn khởi, lại là một loại đá khoáng màu trắng nữa, mặc dù không biết là thứ gì, nhưng cùng lúc xuất hiện hai loại đá khoáng, về cơ bản có thể xác định đây là hai trụ đá được thiết kế một cách có dụng ý, một thiết kế thâm thúy vô cùng.

Đã là được thiết kế, vậy chắc chắn sẽ có chốt lẫy. Đối với những khảm diện hình trụ, thông thường chốt lẫy sẽ được đặt ở phần chân. Với hình trụ dạng xếp chồng, sẽ nằm ở khối thứ hai tính từ chân lên. Lỗ Thiên Liễu bắt đầu dùng phần đuôi rộng của giũa cẩn thận cạo sạch phần rêu xanh và bụi bám trên viên đá thứ hai.

Không tìm thấy chốt lẫy, chỉ phát hiện ra một vết nứt trông có vẻ rất tự nhiên. Hơn nữa, vết nứt ở hai trụ đá trông giống hệt như nhau.

Tuy chỉ là một vết nứt nhỏ rất khó phát hiện, nhưng lại nứt ở một vị trí cực kỳ quan trọng, vị trí này chính là điểm thoát lực của kết cấu "dùng điểm thông lực". Chỉ cần tác dụng một lực đạo rất nhỏ lên vết nứt, có thể khiến trụ đá đổ xuống, hướng đổ chính là phía đầm nước nhỏ.

Nhưng những tảng đá rời rạc rơi xuống đầm nước sẽ có tác dụng gì?

Đá vôi sống có thể khiến nhiệt độ nước đầm nóng lên, còn có tác dụng tiêu độc khử uế.

Không biết thứ đá khoáng màu trắng ở cột trụ trước mặt là thứ gì, nên càng không biết được tác dụng của nó.

"Thôi mặc kệ! Trước tiên cứ đẩy đổ cột đã rồi tính tiếp. Đi đến đâu tính đến đấy, cho dù không thành công, nếu phá hỏng được ý đồ của đối phương cũng tốt!"

Sau khi quyết định, Lỗ Thiên Liễu liền lấy ra một chiếc bẩy đế rộng. Dụng cụ này phía trước là lưỡi sắc, phía sau là đế rộng, chủ yếu dùng để cạo bỏ những dị vật, vết bẩn bám chắc trên bề mặt đá gạch. Vì phần đế có sức nặng nhất định, khi đặt lên trên mặt phẳng, chỉ cần đẩy nhẹ về phía trước sau, phần lưỡi sắc sẽ cạo bay được vết bám, nhẹ nhàng hơn dùng xẻng cạo rất nhiều.

Trước tiên, Lỗ Thiên Liễu tiến đến phía trước cột đá vôi sống. Vì cô hiểu rõ nó hơn, nên sẽ hành động trước. Song lúc này, cách cô sử dụng bẩy đế rộng không được khoan thai như lúc bình thường, mà cầm ngược phần đế, vung mạnh cánh tay, đập thẳng cánh phần lưỡi sắc vào khe nứt.

Rất chuẩn xác! Chuẩn xác hệt như người thợ mộc Lỗ gia ngắm đường kẻ khi làm đồ gỗ, phần lưỡi sắc đã chém thẳng vào vết nứt. Ngay sau đó, Lỗ Thiên Liễu thấy vết nứt trên cột đá nhanh chóng kéo dài, mở rộng. Một tràng những tiếng "lạch cạch" vang lên. Trụ đá nghiêng dần, rồi đổ về phía đầm nước.

Những khối đá được chồng xếp theo phương pháp "dùng điểm thông lực" không hề tan rã, cả cột đá vẫn liền thành một khối đổ ập xuống nước.

Điều này khiến Lỗ Thiên Liễu vô cùng kinh ngạc, vì nhìn vào vết nứt đã được tách vỡ hoàn toàn, cô đã nhận ra "dùng điểm thông lực" chỉ là dáng vẻ bề ngoài, bên trong trụ đá không những có chốt ngược nút cài, mà còn được lồng một sợi dây co giãn bện từ gân thú.

Đúng vào khoảnh khắc tảng đá chuẩn bị va đập với mặt nước, sợi dây co giãn đột nhiên giật thẳng lại. Vang lên một tiếng nổ long trời lở đất, khác nào tiếng sấm rền, ì ùng vang dội trong lũng núi.

Chim chóc, bướm ong đều kinh hãi bay mất tích. Đám bụi nước hình lông vũ cũng bị chấn động đến bắn tóe tứ tung, đổi hẳn hình dạng. Dòng nước chảy vào trong đầm cũng như ngừng hẳn lại.

Tiếng nổ vừa dội lên, tất cả các tảng đá trên cây cột đều vỡ tan tành thành đá vụn, rải một lớp đều đặn trên mặt đầm tròn căng. Từ trong thung lũng bốc lên một làn sương khói dày đặc, nhất thời không thể phân biệt được đó là bụi bắn ra hay là hơi nước bốc lên sau khi đá vôi rơi xuống nước.

Làn sương khói mù trời khiến tầm nhìn của Lỗ Thiên Liễu trở nên mờ mịt, nhưng cô vẫn nghe thấy một sự bất thường. Cây cột còn lại cũng bắt đầu đổ nghiêng, Lỗ Thiên Liễu chưa cần đi phá vết nứt, nó đã tự đổ xuống, quá trình tương tự với cây cột trước đó, có điều tốc độ chậm hơn rất nhiều. Lỗ Thiên Liễu đã hiểu ra, cho dù cô ra tay với cây cột nào trước, thì hai cây cột cũng sẽ lần lượt theo nhau đổ xuống.

Khi nước trong đầm sủi bọt, cây cột đang từ từ đổ xuống cũng bắt đầu phân rã. Tiếng nổ lần này không kinh động bằng lần trước, nhưng lại kéo dài liên tục. Đá trên cột vỡ ra từng viên một, vụn đá bay ra nhỏ mịn hơn rất nhiều so với bột đá vôi, rắc trên mặt nước cũng đều đặn hơn nhiều.

Trong lúc cây cột đá thứ hai lần lượt vỡ tung, lớp khói bụi và hơi nước mù mịt trên mặt đầm cũng dần dần nhạt bớt. Lúc này, trước mắt Lỗ Thiên Liễu đã không còn là mặt nước đầm xanh biếc, mà trở thành một mặt phẳng trắng xóa, một màu trắng thuần khiết như mặt tuyết, trắng đến nỗi không nhìn thấy một gợn bụi tạp.

Lỗ Thiên Liễu quỳ xuống bên cạnh mặt phẳng trắng muốt vừa mới hình thành, cúi đầu quan sát kỹ lưỡng xem nó là loại chất liệu gì. Cô vừa cúi đầu, nhành hoa đang cài trên tóc bỗng rụng xuống hai cánh nhỏ. Cánh hoa đáp xuống mặt phẳng, không có bất cứ phản ứng gì. Hiện tượng này giúp Lỗ Thiên Liễu phán đoán rằng, mặt phẳng trắng muốt kia khá an toàn. Cô bèn đưa hai ngón tay trái khẽ chạm lên mặt phẳng.

Cảm giác tại đầu ngón tay rất cứng rắn, giống hệt như mặt đá. Nhưng tại sao mặt đầm xanh biếc lại có thể biến thành một mặt đá trắng toát chỉ trong khoảnh khắc?

Là thạch cao thiên nhiên! Sau một thoáng suy nghĩ, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra. Và cũng chỉ có thạch cao mới có thể tan chảy hoàn toàn dưới tác dụng của nhiệt độ cao khi đá vôi sống gặp nước. Sau khi nhiệt độ hạ xuống, nó sẽ đông kết lại một cách nhanh chóng. Lớp lớp bụi nước rơi xuống từ thác Nhạn Linh mang theo hơi lạnh của suối núi đã giúp cho bề mặt thạch cao ngưng kết nhanh chóng.

Chú thích

[10] Là một dụng cụ trong công phu Tịch trần, giống như chiếc que dẹt nhọn đầu, dùng để cạo bỏ bụi bặm trong khe hở.

Chương 9: Qua cột đổ

Đây chính là con đường qua đầm được tổ tiên nhà họ Lỗ sắp đặt sẵn khi thiết kế bảo cấu! Nhưng đây lại là con đường chỉ được sử dụng một lần duy nhất. Sau khi nhiệt độ của nước đầm hồi phục lại trạng thái bình thường, sau khi độ căng mặt nước của nước đầm tăng lên, cùng với sự xối chảy của dòng thác Nhạn Linh, con đường thạch cao chắc chắn sẽ không trụ được bao lâu.

Lỗ Thiên Liễu thu hông đề khí, thận trọng băng qua mặt phẳng thạch cao. Cho dù thạch cao đã đông kết thành khối, song vẫn rất giòn yếu, đi trên đó là một việc hết sức khó khăn và nguy hiểm. Nhưng đối với Lỗ Thiên Liễu, đây là con đường duy nhất mà tổ tiên để lại, vì vậy cô nhất định phải đi qua.

Mặt phẳng thạch cao quả thực không hề chắc chắn, khó đảm bảo có thể đỡ nổi trọng lượng cơ thể Lỗ Thiên Liễu. Song Lỗ Thiên Liễu có đủ kỹ xảo để băng qua những bề mặt nguy hiểm như thế này, kỹ xảo đó cô đã học được từ Du Hữu Thích. Du Hữu Thích gọi chiêu này là "rùa trượt băng", do hắn lĩnh hội được sau một lần nhìn thấy con rùa già không dưới chục cân bò trên lớp băng mỏng dính để phơi nắng. Lúc này, Lỗ Thiên Liễu cũng chẳng khác gì một con rùa trên mặt phẳng thạch cao, cố gắng duỗi dài tứ chi, thở ra để cơ thể xẹp xuống, từ từ bò về phía trước. Mặc dù động tác trông rất khó coi, nhưng có thể mở rộng diện tích chịu lực, phân tán điểm tác dụng lực, nên hiệu quả rất khả quan.

Đoạn khó khăn nhất chính là phía dưới thác Nhạn Linh. Trên lớp thạch cao tại đó đã tích một lớp nước đọng. Mặc dù đám vụn nước đang bay phơi phới từ trên thác xuống có vẻ không tạo ra lực va đập, nhưng khối lượng của nước đọng, lại cộng thêm mức độ khó khăn khi phải trườn bò trên nước, khiến quả tim cô tựa như rút ngược lên tận cổ.

Tốc độ rất chậm, rất chậm. Bụi nước táp đẫm khuôn mặt, bám đầy lên tóc, thấm qua quần áo khiến toàn bộ cơ thể Lỗ Thiên Liễu đều ướt sũng. Lỗ Thiên Liễu tựa như đang đón nhận một nghi lễ thanh tẩy, tận hưởng cảm giác mát mẻ sảng khoái khi đắm mình trong làn bụi nước đang phả xuống, lưu luyến không muốn rời đi.

Phía sau những lùm cây kín đáo trên những ngọn núi xung quang, có một vài cặp mắt đang nhìn chằm chằm lên cơ thể thiếu nữ đang chìm trong màn bụi nước. Những cặp mắt đang chiếu ra những tia nhìn vô cùng phức tạp, không thể đoán lường.

Bên cạnh đầm nước lớn, từ trong cột mây chướng ngại, từ trong bụi cỏ, từ trong khe đá, lẩy bẩy bước ra rất nhiều cơ thể bẩn thỉu trương phềnh. Đó là những cơ thể bé xíu, song đôi mắt lại lớn khác thường, có điều chỉ lờ đờ mở ra được một khe nhỏ, để lộ tròng mắt vàng ệch, không nhìn thấy tròng đen...

Khi bò qua dưới thác Nhạn Linh, Lỗ Thiên Liễu đã dừng lại một chút. Vì vị trí này có nước thác đổ xuống, là nơi được làm lạnh sớm nhất và cũng chắc chắn nhất. Cô muốn dừng lại ở đó để điều hoà hơi thở, và cũng là để bề mặt thạch cao ở phía trước có thời gian đông kết chắc chắc hơn.

Bên dưới màn mụi nước mịt mờ, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy cơ thể mình được thấm đẫm trong làn nước suối mát lạnh. Dòng nước tinh khiết chảy dọc theo da thịt, dịu dàng vuốt ve từng chân tơ kẽ tóc, tỉ mỉ tẩy rửa từng mảy bụi trên cơ thể cô, giống hệt như công phu Tịch trần mà cô đã học. Chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng cũng đủ giúp Lỗ Thiên Liễu tìm lại được một số thứ vốn thuộc về mình, cũng trỗi dậy trong cô niềm tin và nỗi khát khao tiến lên phía trước.

Khi lớp nước trên bề mặt thạch cao đã cao hơn hai tấc, lòng bàn tay Lỗ Thiên Liễu khẽ đẩy nhẹ về phía sau để lấy đà, cơ thể cô lao vụt đi tựa như một con cá trượt trên boong thuyền đẫm nước, loáng một cái đã đến được mép đầm phía trong cùng.

Bờ đầm ở đây không có chỗ đặt chân, chỉ có một tảng đá lớn hình tròn và khe hở chật hẹp giữa hai vách đá dựng đứng hai bên. Nếu muốn thoát khỏi mặt đầm từ vị trí này, chỉ còn cách trèo lên tảng đá hoặc chui qua khe hở.

Với khả năng khinh công không tệ, Lỗ Thiên Liễu hoàn toàn có thể tung mình lên trên tảng đá. Đáng tiếc là không có vị trí mượn lực để nhảy lên, bề mặt thạch cao phía dưới không thể chống đỡ nổi lực đạo đó.

Khe hở ở hai bên tảng đá không lớn, song Lỗ Thiên Liễu muốn lách vào cũng không phải chuyện khó khăn. Trước hết, cô nhẹ nhàng tung Phi nhứ bạc vào trong khe, không thấy va đập vào vách, có lẽ bên trong còn có một không gian rộng. Lỗ Thiên Liễu khẽ xoay eo lưng thon thả, lách người qua khe hở ở một bên.

Cơ thể mới chui vào được một nửa, cô liền dừng lại. Đây là phương pháp mà người nhà họ Lỗ quen dùng, khi đi vào chỗ tối tăm, luôn phải "một nửa trong nhà nửa ngoài đường", ở trong trạng thái có thể tiến cũng có thể lui. Trước hết, cần nhận biết rõ tình hình bên trong, phán đoán xem có nguy hiểm hay không sau đó mới tiếp tục tiến vào.

Lỗ Thiên Liễu nhặt lấy một viên đá nhỏ, rồi ném vào sâu trong bóng tối, sau đó tụ khí ngưng thần tập trung phán đoán. Từ tiếng vọng do viên đá phát ra, có thể đoán rằng bên trong là một không gian khá rộng, chạy dốc về phía trước một khoảng rất dài. Lỗ Thiên Liễu lại thò tay vào trong sờ soạng một hồi. Xung quanh rất khô ráo, không hề thấy rêu bám hay bùn đất.

"Đây quả nhiên là một nơi kín đáo. Phía trên vụn nước bắn xuống như lông vũ, nhưng chỉ văng trên bề mặt tảng đá, phía dưới vẫn rất khô ráo. Mặt nước đầm bên dưới có dâng lên tới đâu cũng không thể chảy vào trong khe hở, bên trong lại có một không gian rộng lớn, quả là một nơi tuyệt hảo cho việc cất giấu." - Lỗ Thiên Liễu thầm nghĩ, rồi cơ thể khẽ nhích một cái, đã chui tọt vào bên trong khe hở.

Sau khi chui vào bên trong, Lỗ Thiên Liễu lấy ra con mắt bạch xà. Nhưng ánh sáng nhàn nhạt toả ra từ nó không soi sáng được nhiều, cũng không soi được xa. Nhưng cô có thể nhìn thấy rõ những giọt nước đang theo nhau chảy xuống từ đuôi tóc. Dòng nước đã xối sạch bụi bặm trên viên đá nhỏ trước mặt cô.

Lỗ Thiên Liễu vô thức cúi xuống nhìn, đột nhiên mặt mày biến sắc, lập tức bất chấp tất cả xoay người vùng vẫy lách qua khe hở chạy trở ra ngoài, suýt nữa thì đánh rơi cả con mắt bạch xà đang cầm trong tay. Cô vừa bỏ chạy vừa thầm cầu khấn, mong cho hành động lỗ mãng của mình chưa gây ra hậu quả gì.

Sau khi lách được ra ngoài, Lỗ Thiên Liễu phủ phục trên bề mặt thạch cao ở rìa đầm thở hổn hển, vẫn còn sợ hãi đến mặt mày tái mét, không ngớt thầm trách móc bản thân: "Đi lại trên giang hồ đã nhiều, tại sao vẫn bộp chộp thiếu cẩn trọng đến thế?"

Cô tự trách móc vì cô đã yêu cầu ở bản thân quá cao, kỳ thực chính nhờ bản tính cẩn trọng mà cô mới phát hiện ra, trên mặt phiến đá đã được xối sạch bụi bặm xuất hiện một vết chạm dích dắc hình chữ chi.

Vết chạm hình dích dắc chỉ có thợ mộc hoàng gia đời Minh mới sử dụng. Phương pháp này xuất hiện sớm nhất trên đá lát đường hầm của Hiếu Lăng đời Minh. Trong "Minh Hoàng lý hậu sách" có đoạn miêu tả về đường hầm lát đá: "...Đường rộng rãi vuông vắn, hoa văn là hai đường thẳng song song nối với nhau bởi một đường xéo...". Vì vậy, thợ thuyền đã gọi kiểu hoa văn này là hoa văn hoàng đạo. Vì phương thức chạm khắc này được sử dụng đầu tiên trong lăng mộ hoàng gia, nên dương trạch và nhà cửa của dân thường sẽ không sử dụng loại hoa văn này, mà dùng các loại hoa văn mỹ quan hơn như hoa văn vặn thừng, hoa văn đường thẳng. Nếu người thợ sử dụng loại hoa văn dích dắc trong dương trạch, có thể coi là đã phạm ám phá, gây ảnh hưởng tới cát tướng phong thuỷ.

Cho dù là cát tướng hay hung tướng, đó chắc chắn là dấu tích cho thấy người nhà họ Chu đã động chạm đến nơi này. Vì vậy, nếu đi tiếp vào bên trong, sẽ chỉ có khảm, nút mà không thể có bảo vật.

Sở dĩ Lỗ Thiên Liễu có thể khẳng định như vậy, vẫn còn một nguyên nhân khác, đó là cục Huyền Vũ, chính xác hơn là cục tướng Huyền Vũ tràn đầy. Cũng không biết là tìm thấy cục phong thuỷ trước rồi mới cất giấu bảo vật tại đây, hay cất giấu bảo vật trước, sau đó nhờ tác dụng của bảo khí mới hình thành nên cục thế. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, thứ được tàng trữ trong cục thế linh thiêng thần thánh nơi đây chắc chắn là Thuỷ bảo, mà nơi tàng trữ Thuỷ bảo chắc chắn không thể khô khan như ban nãy. Khi mới thò nửa người vào bên trong, cô đã phát giác ra những chỗ cô sờ đến đều khô ráo, không chút ẩm ướt, nhưng lại sơ suất không chú ý tới điểm này.

Thế nhưng từ khe đá và hoa văn trên đá, cô cũng đã biết được một sự thực. Đó là trong vòng hơn trăm năm qua, đối phương không những đã sục sạo tìm kiếm khắp lượt nơi đây, mà còn tiến hành tác động, thay đổi.

"Đối phương đã phải bỏ ra một lượng sức người sức của khổng lồ như vậy mà vẫn chưa thể phá giải được bí mật, liệu mình có thể tìm ra không?" - Lỗ Thiên Liễu băn khoăn tự hỏi.

Lớp nước tích tụ trên bề mặt thạch cao mỗi lúc một nhiều thêm. Mực nước dâng cao, tức là trọng lượng của nước cũng tăng lên, bề mặt thạch cao có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Khi đó, Lỗ Thiên Liễu sẽ lọt thỏm xuống đầm nước ma quái với sức hút khủng khiếp phía dưới.

Thời gian cấp bách, nhưng ngược lại, đã khiến Lỗ Thiên Liễu càng thềm điềm tĩnh.

"Hình cầu lấy điểm để hợp thành, tiếp xúc là điểm, tâm là điểm; không phải hình cầu đều có đường, bề mặt hay hình thù như thế nào, dùng huyền giác mà biết", đây là một đoạn trong chương "Hình" của cuốn "Huyền giác". Đoạn văn tự trên bỗng chập chờn mấy lần trong trí não Lỗ Thiên Liễu, rồi dần trở nên rõ nét.

Việc cần làm nhất lúc này là phải xác định rõ "hình" của nơi đây, phải tìm ra "điểm" chính xác. Lỗ Thiên Liễu đưa hai tay vin vào bề mặt tròn trịa nhẵn nhụi của tảng đá lớn, cố gắng ngẩng đầu nhìn lên. Tư thế này rất khó, nếu không phải cô đã từng học được công phu uốn dẻo "rùa vươn mình" từ Du Hữu Thích, chắc chắn không thể thực hiện được động tác này.

Lớp lớp bụi nước vẫn mù mịt bay xuống, rơi trên bề mặt tròn trịa của tảng đá, táp đầy lên khuôn mặt Lỗ Thiên Liễu. Trong màn bụi nước mịt mù, ánh sáng đa dạng. Lại thêm bụi nước khiến đôi mắt trở nên nhạt nhoà, khiến thị giác phát sinh những biến đổi không thể ngờ tới.

Đúng như nội dung của chương "Hình" trong "Huyền giác" đã nói, vật thể hình cầu được hình thành bằng cách tập hợp các điểm, trung tâm của nó là điểm, bề mặt của nó cũng là điểm. Khi có vật bằng phẳng tiếp xúc với nó, chắc chắn sẽ là tiếp xúc điểm. Nếu không phải vật hình cầu, sẽ xuất hiện đường thẳng và mặt phẳng, nhưng hình dạng được tạo thành bởi các đường thẳng và mặt phẳng là hình gì, trong tâm mỗi người lại có sự lĩnh ngộ khác nhau.

Mỗi tảng đá lớn bị kẹp giữa hai vách núi, cho dù thác nước có xói mòn nó kiểu gì, thì khả năng để nó trở thành hình cầu gần như bằng không. Nếu như không thể tạo thành hình cầu, vậy các đường thẳng và mặt phẳng của tảng đá sẽ tạo thành hình dạng như thế nào?

Bên dưới màn bụi nước tung bay phơi phới, Lỗ Thiên Liễu đang trong tư thế gắng gượng ngẩng đầu đã nhìn thấy hình dạng của một ngôi nhà hết sức đơn giản, mơ hồ như có như không. Tuy rằng đó chỉ là một hình ảnh chập chờn xuất hiện dưới tác dụng của bụi nước, nhưng Lỗ Thiên Liễu tự đáy lòng đã chắc chắn mười mươi đó là hình dạng của một ngôi nhà, mà không cần tính tới sự khúc xạ của ánh sáng và sai lệch của thị giác.

Có hình dạng của ngôi nhà, chắc chắn sẽ có vị trí cánh cửa. Lỗ Thiên Liễu không nhìn thấy cửa, vì vậy chỉ có thể tìm kiếm dựa vào linh tính và ba giác siêu phàm.

Trong vô thức, Lỗ Thiên Liễu đã đứng dậy, đứng thẳng trên mặt phẳng thạch cao vô cùng yếu ớt. Có thể nhận ra, lúc này cô đã rơi vào trạng thái hư vô, quên bẵng cả sự tồn tại của chính mình, quên bẵng cả những mối hiểm nguy đang rình rập.

Chính trong trạng thái hư vô quên đi tất thảy, ba giác trong sáng của Lỗ Thiên Liễu đã đạt tới một cảnh giới khó có thể tưởng tượng.

Cô nghe thấy tiếng giọt nước đang thẩm thấu, tiếng sương mù đang lan toả, tiếng đoá hoa đang nở xoè. Cô ngửi thấy làn hương hoa phảng phất trên tảng đá, trong màn bụi nước đang mờ mịt bay xuống, dưới thác Nhạn Linh.

Cô vuốt ve trên tảng đá đang chảy tràn nước thác. Cô không sờ thấy cửa, nhưng lại sờ thấy một kẽ nứt.

Tảng đá dù sao vẫn chỉ là tảng đá, cho dù nó có bị nứt, thì đó cũng chỉ là một vết nứt chứ không phải là cánh cửa. Thứ Lỗ Thiên Liễu vừa sờ thấy có được coi là vết nứt hay không cũng rất khó nói, vì nó chỉ là một kẽ mảnh như sợi tóc và dài chưa đến nửa tấc, và cũng chẳng biết sâu được bao nhiêu.

Chỉ có ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu mới có thể phát hiện ra vết gợn tinh vi này. Điều đó khiến cô vui sướng đến ngây ngất, tựa như đã sờ được vào khoen cửa trên bảo cấu. Nhưng khác là ở chỗ khoen cửa thường là một vật cứng làm từ sắt hoặc đồng, còn khe nứt kia lại đem đến cho cô một cảm giác rất đỗi mềm mại, nuột nà.

Cảm giác mềm mại và nuột nà nhường đấy chỉ xuất hiện ở chồi non vừa nhú khỏi mặt đất. Nhưng kỳ lạ là tại sao một chồi non yếu ớt lại có thể chui ra từ trong lòng tảng đá? Là muốn hiển dương sự thần kỳ của tạo hoá tự nhiên, hay muốn ẩn dụ rằng mệnh của trời, lực của bảo là không thể trái?

Chồi non đang lớn lên, hương hoa đang đậm dần, vết nứt trên tảng đá cũng đang kéo dài, đang mở rộng.

Và thế là ngôi nhà chập chờn trong hư ảo đã mở ra một cánh cửa; trên tảng đá tròn trịa trong cõi thực đã tách ra một vết nứt.

Khi vết nứt đã mở rộng, từ bên trong cũng trồi ra một khóm hoa không biết tên gì, sắc cây xanh mượt, vẻ non nớt dịu dàng. Trên mỗi cành cây đều rủ xuống từng chùm hoa nhỏ xíu, thanh thoát, sắc hoa trắng muốt, loáng thoáng ánh xanh lam, lấp lánh trong veo như ngọc báu. Những bông hoa y hệt như nhành hoa dại mà Lỗ Thiên Liễu đang cài trên tóc.

Lỗ Thiên Liễu đưa tay chạm khẽ lên những cành hoa, cảm giác từ trong đám lá cành toả ra một làn sương mù ấm áp. Vết nứt trên tảng đá vẫn không ngừng mở rộng, và càng có nhiều hơn những nhành hoa lách ra từ kẽ đá, liên tục uốn cong, bật dậy, vươn dài.

Sức mạnh của hạt giống nảy mầm, của chồi non trỗi dậy thật khó lòng tưởng tượng. Khe nứt bé xíu trên tảng đá đã trở thành điểm đột phá của nguồn sức mạnh tự nhiên, khác nào chỗ khuyết trên khảm diện. Dưới tác dụng của sức mạnh thần kỳ đó, tảng đá chậm rãi mở ra một lỗ hổng.

Chương 10: Hoa mở đá

Với Lỗ Thiên Liễu, những nhành hoa vừa đâm nứt toạc cả tảng đá lớn vẫn mang một vẻ nhu mì yếu ớt vô song, giống như đứa em gái nhỏ cần được chở che bảo vệ. Khi Lỗ Thiên Liễu đưa tay khe khẽ vuốt ve, chúng liền rụt rè nép sang một bên, khiến khe nứt lúc này trông giống hệt như một cánh cửa.

Lỗ Thiên Liễu bước một bước vào bên trong khe nứt trên tảng đá, bước chân tự nhiên và khấp khởi vô ngần, tự nhiên như thể đứa con sà vào lòng mẹ. Khi cô vừa cất bước, những đám lá hoa xúm xít cũng nhanh chóng né sang một bên giống hệt như một bầy thú cưng nhỏ xíu.

Bên trong tảng đá không hề tăm tối. Làn ánh sáng mờ ảo không biết phát ra từ nơi đâu đủ để cho cô nhìn rõ những đoá hoa nhỏ xíu ở bên trong. Từ vết nứt tiến vào trong, trên nền đất, trên vách đá, trên đỉnh nóc, nơi nào cũng kín rợp giống hoa cỏ không tên kia. Những đoá hoa trắng muốt ẩn hiển trong đám cành lá xanh mướt mát, hệt như bầu trời chi chít ánh sao. Trong đám lá cành luôn phảng phất một làn sương mờ nhạt, trông chẳng khác gì một cõi thần tiên.

Bên trong tảng đá quả thật không hề tròn trịa như hình dáng bên ngoài, song cũng không giống căn nhà, mà giống một hang động. Nó chính là kiểu nhà ở cổ xưa nhất: nhà hầm. Loại nhà hầm này có chiều sâu nhất định, nóc nhà dạng vòm, nền nhà bằng phẳng, làm nhà bằng cách đào sâu vào đá, hoặc là xếp chồng từ đá tảng. Trong "Cư giá bản kỷ" có ghi chép về kiểu nhà này.

Nhưng căn nhà hầm này trông giống một hang đá hẹp hơn. Nói cách khác, tảng đá tròn kẹp giữa hai vách đá thực ra có hình trụ tròn kéo dài vào trong. Khi đứng từ đầm nước nhìn vào, chỉ có thể nhìn thấy phần đầu tròn của hình trụ. Từ khe nứt đi vào trong, dưới chân có một con đường nhỏ hẹp, rất bằng phẳng, chất đá không giống với bề mặt bên ngoài của tảng đá tròn.

Lỗ Thiên Liễu chỉ đi năm sáu bước đã đến vị trí chính giữa của hang đá. Cô dừng bước tại đây, là vì ngay phía trước có một vạt hoa rậm rạp hơn hẳn, làn sương mù phả ra quanh cành lá cũng đậm đặc khác thường. Lỗ Thiên Liễu ngồi xuống, thận trọng đưa tay khẽ vạch đám hoa ra, phát hiện phía dưới có một lỗ tròn đường kính khoảng hai thước, đang phả ra một làn sương mù mở ảo, ấm nóng.

Đứng trước lỗ tròn mịt mờ sương toả, Lỗ Thiên Liễu ngưng thần tụ khí, các manh mối rời rạc trong trí não bắt đầu xâu chuỗi lại với nhau...

Chắc chắn lỗ hổng này được nối thông với đầm nước nhỏ bên ngoài. Cây cột đá vôi đổ xuống khiến cho nước trong đầm sôi sục, bốc hơi. Nhưng do toàn bộ bề mặt đầm nước lại bị mặt phẳng thạch cao bịt kín, nên hơi nước chỉ có thể chạy qua đường nối đi vào lỗ hổng này, tràn vào bên trong tảng đá tròn. Hơi nước bên trong tảng đá không thể thoát ra ngoài, môi trường ẩm thấp và ấm nóng đã khiến hạt giống cây bên trong tảng đá nhanh chóng nảy mầm, và chính thứ sức mạnh thần kỳ của thiên nhiên cây cỏ đã tách rộng vết nứt sẵn có.

Tất cả mọi thứ ở đây đều là do con người sắp đặt. Nhìn về tổng thể, đây là một chốt lẫy thần diệu đến tuyệt đỉnh chỉ hoạt động đúng một lần. Người thiết kế năm xưa có lẽ đã đi vào bên trong tảng đá thông qua con đường nối từ đầm nước đến phía dưới tảng đá, và lớp đá lát nền với chất liệu khác hẳn có lẽ được dùng để lấp con đường đó lại sau khi đã bố trí xong xuôi, khiến cho ngoài hơi nước ra, không còn thứ gì có thể đi qua được nữa.

Một chốt lẫy hết sức bí mật và tinh xảo, nhưng không hề có sức sát thương, nên Lỗ Thiên Liễu có đủ lý do để tin rằng đây chính là kiệt tác của tổ tiên nhà họ Lỗ. Nhưng trong khi không ngớt thán phục sự thần diệu của bố cục, cô cũng không bỏ qua một chi tiết khác còn thần kỳ hơn nữa: "Không biết đó là hạt giống của loài thực vật nào, cất giữ trong tảng đá suốt mấy nghìn năm mà vẫn có thể nảy mầm? Không biết là loài thực vật nào mà hơi nước hầm hập vẫn không thể giết chết nó, ngược lại còn sinh trưởng nhanh chóng, càng lá sum suê, sống không cần đến đất bùn, chỉ cần hơi ấm và nước, lại bộc phát được một sức sống mãnh liệt đến thần kỳ? Có lẽ không phải là khả năng của bản thân hoa cỏ, có lẽ chính linh quang bảo khí của bảo bối đã đem lại cho loài hoa vô danh kia một sức mạnh thần kỳ" – Nghĩ đến đây, trong lòng Lỗ Thiên Liễu chợt bừng lên một niềm vui sướng khó kìm nén. Cô vội vã ngồi thụp ngay xuống, lại vạch đám hoa lá dày đặc ra, bắt đầu tìm kiếm.

Nhưng động tác tìm kiếm vừa mới bắt đầu, cô đã vội dừng ngay lại, hoảng hốt ngoảnh về phía sau.

Phản ứng của cô rất chính xác. Đúng lúc cô chạm tay vào những cành hoa, một cái bóng màu xanh xám đột ngột lướt qua bên ngoài khe đá phía sau lưng.

Khi Lỗ Thiên Liễu đứng vụt dậy, cô đã thực sự hoảng loạn. Xúc giác siêu phàm đã cho cô biết, làn không khí xung quanh đang chuyển động một cách bất thường. Rất nhiều luồng sức mạnh không thể đoán lường đang tiến đến bao vây lấy tảng đá mà cô đang đứng, mức độ ghê gớm của những sức mạnh đó còn lớn hơn nhiều so với cái lạnh thấu xương trong "Tám mươi tư trụ phong vân". Thính giác nhạy bén đã cho cô biết, từ nhiều hướng ở bên ngoài tảng đá đều có người đang vận lực, có tiếng khí chạy xương kêu, đều là những thân hình đã sẵn sàng đại khai sát giới.

Lỗ Thiên Liễu bất giác đưa tay vin lấy một cành nhỏ đầy hoa. Cũng giống như những người con gái bình thường khác, vào lúc sợ hãi, sẽ muốn bám víu lấy một thứ gì đó một cách vô thức. Cành hoa vốn ưa trôi nổi ở những nơi nhiều nước giờ đơm chi chít những đoá hoa trắng ánh lam bé tí xíu. Trên cánh hoa lấp lánh những giọt nước trong veo, tựa như những hạt ngọc trời tinh xảo.

Những ánh mắt, những dòng khí, những âm thanh khác lạ bên ngoài đang từ từ áp sát. Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận thấu triệt hơn nữa về sự nguy hiểm và nỗi khủng khiếp do chúng mang lại. Sức mạnh sắp ập tới là một thứ sức mạnh mà cô không có khả năng kháng cự hay chịu đựng, nên chỉ còn một cách là nhanh chóng rời đi, nhường lại thế giới bí mật trong lòng đá cho kẻ khác. Chỉ có bảo toàn được tính mạng, mới còn cơ hội để tìm bảo bối định hung huyệt.

Một người thương yêu hoa cỏ rất mực như Lỗ Thiên Liễu sẽ không nỡ vứt bỏ những cành hoa đẹp đẽ, một người biết yêu thương ngay từ nhành hoa ngọn cỏ lại càng không dễ từ bỏ tính mạng của mình. Thế là Lỗ Thiên Liễu lập tức quay người, rảo bước về phía khe nứt, vừa đi vừa cài nhành hoa vừa hái được lên búi tóc. Cành hoa trên tóc khi nãy đã bị màn bụi nước đổ từ trên thác xuống làm cho hoa rã cánh rời, Lỗ Thiên Liễu bèn gỡ nó xuống, khi chui ra khỏi khe đá, cô nhẹ nhàng cài nó vào trong khóm hoa bên cạnh.

Từ trong ke đá chui ra, cảnh tượng bày ra trước mắt khiến Lỗ Thiên Liễu sững sờ. Không biết tự bao giờ, thác Nhạn Linh đã không còn đổ xuống nữa. Không còn những tia nước mịt mờ bay tung như lông vũ, chỉ thi thoảng mới thấy nhỏ xuống vài giọt nước rời rạc. Lớp thạch cao trên măt đầm đã bị nước đọng ép vỡ, một mảng lớn ở giữa đã chìm hẳn xuống nước, chỉ còn vài miếng nhỏ còn lủng lẳng ven đầm.

Trên mặt nước đã không còn lớp thạch cao, nhưng lại có thêm rất nhiều thứ khác. Cũng không biết là từ khi nào, trên mặt đầm nước nhỏ đã có một cây trúc dài và mảnh gác qua. Loại trúc này giống hệt như trúc trong trận Trăm đốt đan xen đã vây khốn đám Lỗ Thịnh Nghĩa, mang sắc xanh nhàn nhạt với lớp phấn trắng mịn màng, tựa như búp măng vừa trồi dậy.

Lỗ Thiên Liễu đã không dám suy nghĩ gì thêm, cũng không tìm kiếm xem ai đã gác cây trúc qua đầm. Cảm giác huyền vi của cô ý thức được mối nguy hiểm đã cận kề ngay trước mắt. Trong lúc cấp bách, cô chỉ biết giẫm vội lên thanh trúc, chao đảo mà đi, ba bước dồn làm hai bước, vội vã tiến tới phần thắt eo nối giữa hai mặt đầm.

Sợi dây phong huân ở đầm nước lớn cũng đã được kéo lên, còn căng hơn cả khi nãy. Lẽ nào quả thực đang có người âm thầm trợ giúp cô? Thế nhưng tại sao trong cô lại có cảm giác chẳng lành, thực không biết kẻ đó là thù hay là bạn?

Lần này, Lỗ Thiên Liễu không vội băng qua ngay, mà ngẩng đầu nhìn về phía rừng cột đá đối diện với đầm nước. Cô đang khiếp sợ thứ hàn khí thấu xương ở đó, và cũng đang tính toán đường lui.

Cuối cùng, cô lấy hết dũng cảm, đề hư thăng khí nhảy lên sợi thừng, bước theo bộ pháp én bay, nhanh chóng vượt qua đầm nước. Sang đến bờ bên kia, bước chân vẫn không hề dừng lại, mà còn sải rộng hơn, tiến thẳng vào trận Tám mươi tư cột phong vân.

Trong toàn bộ quá trình, cơ bắp hai bên cổ Lỗ Thiên Liễu luôn căng thẳng, đầu không dám nhích sang bên cạnh lấy một ly. Chỉ sau khi thoát ra khỏi trận Tám mươi tư cột phong vân, cô mới ngoảnh đầu nhìn lại phía sau một thoáng. Chỉ liếc lại có một thoáng, nhưng cô đã lờ mờ nhìn thấy một bóng người quen thuộc vừa từ trên vách đá lao xuống, phóng thẳng đến tảng đá tròn.

Mặc dù Lỗ Thiên Liễu cũng tò mò không biết bóng người này là ai, nhưng không vì thế mà dừng bước. Cũng chính vì bóng người trông rất quen thuộc, nên cô càng tăng tốc độ tháo chạy nhanh hơn.

Sau khi thoát khỏi rừng cột đá sẽ đến khe đá hẹp uốn khúc. Vừa tiến vào khe đá, Lỗ Thiên Liễu bèn nghe thấy tiếng đao kiếm va chạm chát chúa vẳng lại át cả tiếng nước chảy nơi đầm nước. Quả nhiên là vùng đất thị phi gió đao mưa máu, Lỗ Thiên Liễu đang thầm cảm thấy may mắn vì mình đã phán đoán chính xác.

Thoáng chốc đã đến trước cầu ván xoay ba đoạn. Trạng thái của cây cầu vẫn giống hệt như khi cô đi qua. Vì vậy, Lỗ Thiên Liễu lại nhẹ nhàng vượt qua cây cầu.

Sau khi qua cầu, cô dừng lại định thần trong chốc lát. Bản thân cô cũng không ngờ có thể thoát ra suôn sẽ đến vậy, xem ra quẻ tướng "thuận xuất" đã gieo lúc trước quả thực đã ứng nghiệm. Thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều cô vẫn không thể lý giải. Có thể thuận lợi vượt qua các khảm diện trong thị trấn đã là chuyện quá bất ngờ, lẽ nào lúc này đối phương lại dễ dàng thả cô đi? Hay là đối phương đã không còn rảnh rỗi để ra tay ngăn chặn cô nữa? Hay là bọn họ còn phải đối phó với những kẻ đột nhập khác nguy hiểm hơn, ví dụ như những người bên phía cha vừa thoát ra khỏi trận Trăm đốt đan xen?

Nghĩ đến đây, Lỗ Thiên Liễu lập tức cất bước lao nhanh ra phía ngoài. Bây giờ là cơ hội tốt nhất để cô tẩu thoát, cũng là cơ hội tốt nhất để cô kịp thời ngăn cản Lỗ Thịnh Nghĩa, tránh cho bọn họ bị khảm diện trong thị trấn vây khốn, tấn công.

Cũng đúng vào lúc này, dòng nước dưới cầu ba đoạn không biết từ lúc nào đã âm thầm xoáy thành bốn năm vòng xoáy. Xoáy nước không lớn, nhưng nhìn vào tốc độ xoáy và độ sâu của mắt xoáy, có thể thấy rằng chúng được tạo ra bởi một sức mạnh vô cùng đáng sợ. Từ con đường này, muốn thoát ra phía ngoài, buộc phải đi qua ngõ loanh quanh. Đúng lúc Lỗ Thiên Liễu chỉ còn cách đầu ngõ hai cửa tiệm, cánh cửa của một cửa hàng áo quan bên cạnh đột ngột bật tung, vọt ra một cái bóng màu xanh chàm.

Bóng người đó thấp lùn to béo, trông không có vẻ rắn rỏi lanh lợi, nhưng tốc độ nhanh đến kinh người. Toàn bộ cơ thể giống hệt như một quả bóng da đang bật đi với một sức đàn hồi cực mạnh, mang theo một lực đạo khủng khiếp hơn rất nhiều so với quả bóng da, hệt như một khối bia đá đang lao vụt đi trong không trung.

Mặc dù Lỗ Thiên Liễu có công phu khinh công hơn người, nhưng đòn tấn công thình lình cộng với tốc độ chóng mặt nhường kia khiến cô không thể tránh kịp. Bóng người màu xanh đã vỗ một chưởng sấm sét vào giữa lưng Lỗ Thiên Liễu, Lỗ Thiên Liễu còn chưa kịp cả liếc mắt, đã bay vọt ra xa, rồi ngã sóng soài trên mặt đất, nằm yên không động cựa.

Gã áo xanh thủng thẳng đi đến bên cạnh Lỗ Thiên Liễu. Gã không cúi xuống xem xét, cũng chẳng thèm đưa tay kiểm tra hơi thở mạch đập của cô. Hắn rất tự tin, bị trúng một chưởng như vậy giữa lưng, dù là thần tiên cũng không chịu nổi chứ đừng nói đến cô gái yếu ớt mảnh mai trước mặt. Hơn nữa, với một cao thủ tầm cỡ như hắn, để phán đoán một người là sống hay chết không cần thiết phải kiểm tra hơi thở mạch đập, chỉ cần cảm nhận sự lên xuống của làn khí và sự lưu chuyển của kinh mạch là đã biết rõ.

Gã áo xanh chỉ không thể ngờ được gã lại có thể đánh lén thành công dễ dàng đến vậy, cũng không ngờ đứa con gái kia lại chết chóng vánh như thế. Theo lý mà nói, cô ta là một cao thủ tuyệt đỉnh, trong trận chiến trong đêm ở Thái Hồ, cô ta chưa cần động thân thủ đã có thể biết được hướng đi của luồng khí và lực đạo trong cơ thể gã. Lần này, nếu không phải ở trong sào huyệt của gã, không phải gã đã quá quen thuộc với bố cục xung quanh, gã tuyệt đối không dám ra tay tập kích.

Đúng vậy, gã áo xanh chính là gã béo đen bị Lỗ Thiên Liễu doạ cho phải bỏ chạy trên Thái Hồ đêm đó. Mặc dù trong lòng gã vẫn có đôi điều nghi hoặc, song lại chẳng mấy lưu tâm suy nghĩ gì thêm. Loại người này chỉ thấy hào hứng với việc giết người. Chỉ thấy gã xoay người, nhún chân, rồi vùn vụt lao về khe núi dẫn đến thác Nhạn Linh như một cơn lốc. Có lẽ cơn khát máu trong gã đã đánh hơi thấy mùi máu tanh sát phạt nồng nặc hơn từ nơi đó.

Nước mưa đã khiến Lỗ Thiên Liễu tỉnh lại. Mưa rất lớn, trên nữa là sắc trời u ám, cô không biết lúc này là giờ nào, và mình đã nằm ở đây bao lâu.

Sau lưng cô đau rát, tựa như mới bị nước sôi tạt phải. Đây là bằng chứng duy nhất giúp cô biết được mình vừa bị tấn công. Trong lúc bị tập kích, thính giác và khứu giác của cô không thu được bất cứ thông tin nào, chỉ có xúc giác cảm nhận được luồng lực đạo va chạm và nỗi đau đớn thực sự. Vào khoảnh khắc đó, cô biết rõ mình không thể chịu đựng nổi một sức mạnh nhường này, lại càng lo sợ đối thủ tiếp tục tung đòn tấn công, nên khi ngã xuống, cô đã nén hơi thở lại, sau đó dùng phép quy tức thở ra từng chút một.

Lỗ Thiên Liễu chậm chạp bò dậy. Cô biết sau khi phải hứng chịu đòn tấn công nặng nề, phải đặc biệt chú ý tới phản ứng của gân cốt kinh mạch, nếu cử động vội vàng, rất có thể sẽ bị tàn tật, thậm chí mất mạng.

Cô từ từ cử động tứ chi, thận trọng xoay lưng, rồi nhảy lên vài cái. Tất cả vẫn bình thường. Tấm áo giáp rẽ nước quả nhiên thần kỳ, mặc dù trong trận Trăm đốt đan xen nó đã từng bảo vệ cô trước sự tấn công của ngọn trúc, nhưng sức mạnh đó hoàn toàn không thể so sánh với chưởng lực tấn công của cao thủ vừa rồi.

Bầu trời xám xịt không thể phân biệt được ngày đêm, vì vậy, màn đêm cũng sập xuống không một dấu hiện báo trước. Lỗ Thiên Liễu mới vừa mừng thầm vì may mắn, màn đêm đã nhấn chìm cô vào trong bóng tối dày đặc.

Len lỏi trong một thị trấn đầy rẫy hiểm nguy giữa đêm đen quả là vô cùng đáng sợ. Nhưng cũng không thể đứng mãi ở đây, đợi cao thủ phía đối phương quay lại giết mình thêm một lần nữa.

Mưa càng thêm nặng hạt, tiếng mưa rơi xối xả, không còn vẻ mong manh của mưa xuân nữa, mà khác nào mưa rào mùa hạ. Dòng nước phía dưới cầu ván xoay ba đoạn cuộn trào dữ dội, ba đoạn cầu cũng đã bắt đầu chầm chậm xoay tròn.

Trong ngõ loanh quanh tối mịt như bưng. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu có con mắt bạch xà nhưng không dám lấy ra soi. May mà cô có xúc giác nhạy bén, mặc dù hai mắt không nhìn rõ, nhưng cô chỉ cần vung Phi nhứ bạc đi, đã có thể biết được tình hình bên trong con ngõ.

Từ cửa ngõ vào trong ba bước không có gì khác so với lúc vào, khảm diện vẫn chưa được khôi phục. Thế là Lỗ Thiên Liễu quả quyết tiến vào. Khi cô vừa đi tới đầu ngõ bên kia, liền nghe thấy những tiếng bước chân hỗn loạn đang tiến từ xa lại. Trong đó có một tiếng chân rất quen thuộc, trong đó có nhiều bước chân rất giống nhau.

Một đợt nước mưa bắn tung toé ngay đầu ngõ, liền sau đó là một khuôn mặt trắng bệch, kinh hoàng lờ mờ xuất hiện trước mặt cô.

-Cha!

Vừa nghe tiếng bước chân tấp tểnh, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra Lỗ Thịnh Nghĩa. Trong lòng cô thoắt mừng rỡ, cha cô vẫn bình yên! Họ đã thoát khỏi trận Trăm đốt đan xen.

Nhưng những bước chân đều tăm tắp phía sau là của ai? Bước chân rất nhẹ, hình thể không lớn, bộ pháp vụng về, nhưng tốc độ rất nhanh. Nghe tiếng biết là không đi giày, có lẽ là một giống thú nhỏ đi bằng hai chân.

Sắc mặt của Lỗ Thịnh Nghĩa cho thấy ông đã khiếp đảm đến cùng cực. Tiếng gọi thình lình của Lỗ Thiên Liễu càng khiến ông hồn bay phách tán.

-A! A! Liễu Nhi? Chạy mau! Chạy mau lên! Bị vây là mất mạng! - Mặc dù Lỗ Thịnh Nghĩa vừa giật mình kinh hoảng không phải nhẹ, nhưng bước chân không hề khựng lại lấy một thoáng.

Lỗ Thịnh Nghĩa kéo Lỗ Thiên Liễu cùng chạy vụt đi. Trong lúc xoay người, Lỗ Thiên Liễu nhìn thấy nơi đầu ngõ xuất hiện một thân hình lùn tịt, to phềnh, da trắng bệch hệt như sắc mặt Lỗ Thịnh Nghĩa lúc này.

Chạy ra khỏi ngõ loanh quanh, Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức rút từ trong ngăn dưới của hòm gỗ ra một lưỡi cưa tròn bằng thép xanh vô cùng sắc bén, vung tay phóng thẳng về con ngõ sau lưng, rồi kéo Lỗ Thiên Liễu nấp sang một bên đầu ngõ.

Chỉ nghe thấy tiếng cưa sắc cứa xoèn xoẹt vào da thịt, tiếng bước chân quái dị trong ngõ đã khựng lại. Lỗ Thiên Liễu hết sức ngạc nhiên, rõ ràng phía sau có rất nhiều tiếng bước chân, nhưng tại sao chỉ một cú ra đòn, tất cả đều dừng lại?

-Oá...

Từ bên trong dội ra một tiếng kêu rú cực kỳ rùng rợn, suýt chút nữa đã khiến Lỗ Thiên Liễu chết ngất vì khủng khiếp. Tiếng kêu vừa bật lên, dường như có một thứ gì nổ tung, mảnh vụn, dịch thể bắn tung toé ra khỏi ngõ, kéo theo một thứ mùi tanh tưởi thối rữa đến ghê rợn.

Ánh trời bên ngoài ngõ có sáng hơn một chút, vì vậy Lỗ Thiên Liễu có thể lờ mờ nhìn thấy trên mặt đất ngập ngụa nước vàng và thịt vụn. Lưỡi cưa tròn mà Lỗ Thịnh Nghĩa đã ném đi lăn lông lốc trên mặt đá vài vòng rồi đổ xuống loảng xoảng.

Lưỡi cưa vừa đổ xuống, một làn khói xanh nghi ngút bốc lên, lưỡi cưa bằng thép xanh lập tức tan chảy! Thì ra thứ nước vàng bắn ra từ trong ngõ có tính ăn mòn cực mạnh, đến kim loại cũng bị phá huỷ.

Mùi khói xanh hết sức khó ngửi, cảnh tượng tan chảy còn ghê sợ hơn nữa. Mùi tanh tưởi thối rữa nồng nặc đã khiến ruột gan Lỗ Thiên Liễu cuộn lên dữ dỗi, cô đã không thể chịu đựng thêm được nữa, lập tức gập người oẹ ra một bãi nước trong.

Nhưng Lỗ Thịnh Nghĩa lại không có phản ứng gì, dường như ông đã từng gặp phải tình cảnh đó. Ông chỉ nghiêng đầu, tập trung nghe ngóng động tĩnh bên trong con ngõ.

Những bước chân đều tăm tắp lại dội lên trong ngõ, Lỗ Thịnh Nghĩa vội vàng kéo Lỗ Thiên Liễu chạy tiếp:

-Chạy mau! Lúc nãy không phải là chủ anh!

-Đó là cái gì? Thứ quái vật đó là gì?

-Quỷ anh[11]! - Miệng mới bật ra hai chữ, chân đã vọt đi đến sáu bảy bước.

Chú thích

[11] Anh có nghĩa là trẻ nhỏ. Quỷ anh là đứa trẻ ma.

Chương 11: Vách quỷ anh

Lúc này, ở chỗ cầu ba đoạn, có hai người đang từ từ trèo lên từ khe sâu bên dưới cây cầu. Bọn họ quay lưng về phía Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu nên không phát hiện ra hai cha con đang chạy đến, nhưng hai người thậm chí còn không phát giác ra cả loạt bước chân rậm rịch trên con đường vắng tanh. Bởi vì bọn họ đang tập trung toàn bộ tinh thần trong cơn cảnh giác cao độ. Thứ quái vật vừa đẩy họ ra khỏi dòng nước có thể tranh thủ những sơ hở nhỏ nhất để tấn công họ bất cứ lúc nào.

-Anh Ngũ Lang, chạy mau! - Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra hai người, đó là Quan Ngũ Lang và Du Hữu Thích.

-Không được lại đây! Nguy hiểm! – Ngũ Lang nghe thấy giọng của Lỗ Thiên Liễu, nhưng vẫn không quay đầu lại, chỉ nhả chiếc bàng quang lợn đang ngậm trong miệng ra, quát lên oang oang.

Lỗ Thiên Liễu và Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức khựng quay lại, vì họ nhìn thấy những cái bóng thấp lùn đang dồn ép Quan Ngũ Lang và Du Hữu Thích giống hệt như những kẻ đang truy đuổi phía sau họ.

Lỗ Thịnh Nghĩa vừa dừng chân đã lập tức quay người, một tay cầm hộp mưa đinh Tý Ngọ, một tay cầm bào thập hình toái thân, hai thứ này đều có thể liên tục phóng ra ám khí tấn công ở tầm xa. Đã không còn đường chạy nữa, chỉ còn cách chặn không cho lũ quỷ anh đến gần.

Lũ quỷ anh đang đuổi phía sau không lập tức lao đến, mà dàn thành hàng ngang chặn mất đường đi. Sau đó, cũng giống như những đồng loại vừa ngoi lên từ dưới nước, chúng từ từ áp sát, bằng những bước chân chậm chạp và đều tăm tắp.

Trong bóng tối, lũ quỷ anh vẫn lũ lượt đổ ra từ con ngõ loanh quanh, tầng tầng lớp lớp bịt kín con đường. Từ dưới khe nước cũng liên tục có thêm quỷ anh ngoi lên, từ khe núi trên bờ bên kia cũng có. Chúng ùn ùn theo nhau lội xuống nước, lặn qua rồi leo lên bờ bên này.

Bốn người bị dồn lại một chỗ, đã không còn kẽ hở để tháo lui.

Lũ quỷ anh cũng đã dừng lại ở vị trí gần sát với bọn họ, rồi tầng tầng lớp lớp vây kín lấy bốn người. Những kẽ mắt lờ đờ vàng ệch nhìn chằm chằm vào bốn con người đang chìm trong kinh hoàng và tuyệt vọng.

Không biết mưa đã ngớt tự bao giờ, chỉ còn lất phất như sương giăng kín màn đêm.

Đến lúc này Lỗ Thiên Liễu mới nhìn rõ đám quỷ anh, vóc dáng và diện mạo của chúng quả thật giống hệt như trẻ nhỏ, nhưng động tác có phần đờ đẫn cứng nhắc. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, chẳng ai ngờ được chúng có thể chạy nhanh đến vậy. Tất cả bọn chúng đều trần như nhộng, trên làn da trắng bệch nổi phồng lên những mạch máu ngoằn ngoèo màu tím xanh. Trên chiếc đầu lớn tròn xoe, lại mọc ra một đầu mũi nhọn hoắt và hàm răng nanh lởm chởm. Nơi đôi mắt là một khe hở rất dài và lớn, nhưng lại giống như không thể mở ra.

Lỗ Thiên Liễu rùng mình ớn lạnh, cảm giác lạnh lẽo giống hệt như lúc ở bên đầm nước lớn. Bây giờ thì cô đã hiểu cái ớn lạnh khi ấy từ đâu mà đến. Là mắt, mắt của lũ quỷ anh.

-Di chuyển đi, đừng để bọn chúng tập trung nhìn thẳng vào, sẽ khiến ý thức của chúng ta bị đóng băng! - Lỗ Thiên Liễu vội vàng nhắc nhở.

Bốn người bắt đầu chuyển động, lưng dựa vào nhau rồi xoay vòng tròn, như vậy lũ quỷ anh sẽ không thể tập trung ánh mắt lên bất cứ ai.

Lũ quỷ anh cũng bắt đầu chuyển động. Những con ở hàng trên cùng vẫn đứng yên, nhưng những con ở phía sau bắt đầu trèo lên cơ thể những con phía trước. Động tác trèo rất đều đặn, nhưng sau khi trèo lên, tư thế mỗi con một khác.

-Bọn chúng có bao nhiêu con? - Lỗ Thiên Liễu thấy lũ quỷ anh cứ chồng chất lên cao mãi, thì bật kêu lên.

-Chắc phải đến hơn trăm con! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp.

-Chúng định làm gì? – Du Hữu Thích hỏi.

-Xếp thành vách tường! - Lỗ Thịnh Nghĩa đáp.

-Là vách Bách anh? - Lỗ Thiên Liễu kêu lên kinh hãi.

-Không, còn lợi hại hơn, là vách Quỷ anh!

Vách Bách anh có rất nhiểu điểm khác biệt so với phương pháp của khảm tử gia, nó giống như ma thuật, chính xác hơn phải gọi là tà thuật. Nó sử dụng một đứa trẻ còn sống làm chủ soái, rồi dùng chín mươi chín xác chết trẻ nhỏ đã được ngâm thuốc và yểm bùa chú sinh tướng làm công cụ, dùng sức mạnh mê hoặc của âm thanh và hình thù để phá huỷ tâm thần của người bị bao vây, đến khi người bị bao vây không thể chịu đựng nổi mà tự sát. Không thể làm tổn thương những cái xác trẻ nít này, vì nếu làm cơ thể chúng bị tổn thương, sẽ thức dậy cổ chú "mệnh huyết phụ" trong người chúng, thôi thúc quỷ anh tấn công xâu xé không ngừng nghỉ kẻ đã gây tổn thương đến nó, cho đến khi máu tươi của kẻ đó tưới đẫm toàn thân, phủ kín mọi cơ quan bộ phận trên cơ thể quỷ anh, nó mới chịu dừng tay. Những cái xác trẻ con đã được ngâm qua thuốc, chân tay cứng như sắt thép, sức mạnh có thể đục đá phá đồng. Chúng lấy máu người bằng cách cào rách bụng ngực, bứt đứt động mạch cổ, người bị tấn công sẽ không còn cơ hội sống sót. Vì vậy, những khảm tử gia hiểu biết sau khi làm tổn thương cơ thể quỷ anh sẽ lập tức tự cứa tay cắt thịt, nhân lúc quỷ anh chưa kịp tấn công, nhanh chóng dùng máu tươi phun đẫm toàn bộ cơ thể chúng.

Vách Quỷ anh lại có chỗ khác biệt so với vách Bách anh. Quỷ anh ở đây được tạo ra bằng cách giết chết người phụ nữ đang mang thai sắp đến ngày sinh nở, sau khi chôn xuống đất bảy bảy bốn mươi chín ngày sẽ đào lên, mổ bụng, lấy thai nhi ra đem ngâm thuốc. So với xác chết trẻ nít của vách Bách anh, sức mạnh mê hoặc từ âm thanh, hình thù của nó còn ghê gớm hơn nhiều. Hơn nữa, chúng còn biết cách dùng ánh nhìn để mê hoặc. Ngoài ra, trong cơ thể chúng còn tràn đầy thứ dịch thể của xác chết có tính ăn mòn cực mạnh, chỉ cần tổn thương một chỗ, sẽ toàn thân phát nổ. Nếu để một giọt dịch thể văng trúng người, toàn bộ cơ thể sẽ rữa ra thành nước. Về số lượng, vách Quỷ anh cũng không giống với vách Bách anh, không chỉ giới hạn ở một trăm con. Vì chủ anh của nó không phải là đứa trẻ sống, nên không cần phải tính toán đến độ lớn nhỏ của sức mạnh điều khiển, vì vậy số lượng bao nhiêu không cần hạn chế.

Bây giờ vách Quỷ anh đã thành hình, giống như một chiếc ống tròn, chụp cứng lấy bốn người. Lũ quỷ anh sau khi tạo thành bức tường, hình dạng mỗi đứa một khác, thảo nào số lượng của chúng đông đảo hơn nhiều so với vách Bách anh. Vì chúng có lớn có nhỏ, lại méo mó biến dạng theo các kiểu khác nhau.

"Vách Bách anh, vòng tuyệt mệnh", đây là câu nói mà tất cả các khảm tử gia trong giang hồ đều thuộc nằm lòng. Nhưng sau khi vách Bách anh đã tạo thành vòng, người bị vây vẫn có cơ hội thoát thân, đó là phải bắt được đứa trẻ sống làm chủ soái. Năm xưa Lỗ Thịnh Nghĩa và Lỗ Thiên Liễu đã từng cứu thoát già trẻ lớn bé nhà họ Nghê bị vây khốn trong vách Bách anh dưới khe Trích Thuý, phương pháp của họ chính là tìm ra chủ anh. Lúc đó, họ vốn dĩ định dùng cây đục ba ngạnh ghim chặt lấy cánh tay của đứa trẻ, nhưng do sự khúc xạ của mặt nước khiến họ nhận lầm vị trí, ngộ sát chủ anh, mà trúng phải cổ chú tuyệt tự.

Lúc này, vách Quỷ anh đã thành vòng, song Lỗ Thịnh Nghĩa không những không có hành động gì, mà còn lảm nhảm liên hồi trong miệng.

-Bao vây rồi! Chết chắc rồi!

-Cha, chẳng phải cha biết cách tìm ra chủ anh để phá vây ư? – Sau khi biết được đây là vách Quỷ anh tương tự như vách Bách anh, Lỗ Thiên Liễu đã bình tĩnh hơn rất nhiều.

-Đúng! Nhưng... nhưng mà... nhưng mà không thể tìm ra chủ anh trên vách Quỷ anh! - Lỗ Thịnh Nghĩa bắt đầu nói năng rối loạn. Kỳ thực từ nãy đến giờ, ông vẫn liên tục tìm kiếm chủ anh trong đám quỷ anh, nhưng không thể tìm ra.

Vách Quỷ anh tạm thời chưa khởi động, mới chỉ bao vây. Dường như đối phương không muốn để họ chết ngay, hoặc là vẫn còn có mục đích nào đó chưa đạt được, nên để họ sống vẫn có ích hơn.

-Không thể cứ ở đây chờ chết được! – Du Hữu Thích cảm thấy cứ quay lòng vòng tại chỗ không phải là cách hay.

-Tôi mở một đường máu, mọi người chạy trước! – Không cần nghi ngờ về lòng dũng cảm của Ngũ Lang.

-Không được! Nếu anh động đao, quỷ anh bị thương phát nổ, dịch thể bắn tung toé, toàn bộ chúng ta sẽ tan rữa thành nước vàng! – Lúc này, Lỗ Thiên Liễu đã hoàn toàn trấn tĩnh. Cô vừa tận mắt chứng kiến đám nước vàng làm tan chảy lưỡi cưa sắt, nên vội vàng ngăn cản hành động liều lĩnh của Ngũ Lang.

-Đúng vậy! Quỷ anh không giống với những xác chết trẻ nít trong vách Bách anh, không được hành sự lỗ mãng! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói.

-Là như vậy ư? Vậy thì không dùng đao nữa là xong! – Ngũ Lang lại nói.

Lỗ Thiên Liễu không đáp lời Ngũ Lang, vì ba giác nhạy bén của cô vừa phát giác ra một âm thanh quái lạ, giống như tiếng cây cổ thụ nghìn năm vừa bật rễ.

Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích cũng không lên tiếng, vì họ đã nhìn thấy người. Một người vừa lặng lẽ xuất hiện, đứng trên sống nóc của ngôi nhà bên cạnh, tay giương một chiếc ô bằng giấy dầu. Trời tối mịt mù, không thể nhìn rõ mặt, lại thêm bóng ô trùm kín, nên chỉ nhìn thấy phần cơ thể phía dưới. Đó là một thân người cao lênh khênh đang đứng thẳng đơ.

-Phía đó có đường! - Lỗ Thịnh Nghĩa nói nhỏ.

-Vâng! - Lỗ Thiên Liễu đáp.

-Khi vách Quỷ anh vừa chuyển động, chúng ta sẽ nghĩ cách dụ kẻ đó xuống, con hãy thoát lên từ phía trên! - Lỗ Thịnh Nghĩa lại nói.

-Vâng, nếu có cơ hội con sẽ tẩu thoát! - Lỗ Thiên Liễu mặc dù là nhi nữ, tình cảm yếu mềm, nhưng khi hành tẩu trên giang hồ gặp cơn nguy cấp, nhất thiết phải tuân theo một nguyên tắc. Ngay từ nhỏ Lỗ Thịnh Nghĩa đã dạy cho cô nguyên tắc này: chỉ có bảo toàn được tính mạng của mình, mới là cách đền đáp đúng đắn nhất đối với những người đã bảo vệ và hy sinh tính mạng vì mình. Huống hồ sứ mệnh thiên bảo định cõi phàm còn quan trọng hơn tính mạng của bất cứ một ai, bắt buộc phải có người giữ lại mạng sống để tiếp tục thực hiện sứ mệnh.

Ngũ Lang và Du Hữu Thích cũng đều hiểu rõ, trong số họ, chỉ có Lỗ Thiên Liễu mới có khả năng tung mình nhảy lên mái nhà, di chuyển trên không, cũng chỉ có Lỗ Thiên Liễu mới có khả năng tiếp tục đại sự tìm bảo bối trấn hung huyệt. Vì vậy, cho dù phải hy sinh, cũng phải bảo vệ bằng được tính mạng cho cô.

Kẻ cầm ô có thể đi lên trên mái nhà, chứng tỏ nóc nhà ở đây không phải là đường chết, mà chính là con đường bí mật dùng để đột kích do đối phương thiết kế. Nếu ba người Lỗ Thịnh Nghĩa hợp sức phá vỡ vách Quỷ anh, sau đó thình lình ra chiêu đánh bật kẻ trên nóc nhà, Lỗ Thiên Liễu sẽ có hy vọng trốn thoát.

Xung quanh tĩnh mịch đến rợn người, chỉ nghe thấy tiếng xé gió của ba đoạn ván cầu đang xoay vùn vụt.

Đột ngột bùng lên một tiếng nổ dậy đất, khiến đám Lỗ Thịnh Nghĩa tim muốn bắn ra ngoài lồng ngực, kẻ đứng trên nóc nhà cũng giật nảy cả người. Tất cả bọn họ đều vội quay về phía phát ra tiếng nổ theo phản xạ, đó chính là khe núi nơi có dòng thác Nhạn Linh.

Lỗ Thiên Liễu đã nhìn thấy phản ứng của kẻ đứng trên nóc nhà, điều này có nghĩa là tiếng nổ vừa rồi cũng nằm ngoài dự liệu của đối phương, đối phương cũng đang bàng hoàng trước âm thanh đó.

Bốn người họ vẫn tựa lưng vào nhau xoay vòng vòng. Khi Lỗ Thiên Liễu xoay đến vị trí quanh lưng về phía kẻ đứng trên nóc nhà, cô đã dùng tay ra hiệu với Ngũ Lang ở bên cạnh. Tín hiệu này chỉ có Lỗ Thiên Liễu và Ngũ Lang hiểu được, là do họ cùng nghĩ ra. Mặc dù Ngũ Lang không thông minh, nhưng vừa nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu ra hiệu, anh ta lập tức hiểu được ý đồ của cô.

Quả nhiên, không lâu sau, lại một tiếng nổ khủng khiếp nữa vang lên, lớn hơn hẳn lần trước. Thậm chí họ còn thấy dưới chân rung chuyển. Tiếng nổ dữ dội và cơn rung chuyển cũng khiến cho vách Quỷ anh chao đảo theo.

Khi dư âm tiếng nổ còn chưa dứt, Lỗ Thiên Liễu và Ngũ Lang cùng dồn hết sức bình sinh rú lên một tiếng kinh hoàng. Tiếng rú lanh lảnh của Lỗ Thiên Liễu xen lẫn với tiếng hét oang oang của Ngũ Lang hệt như một lưỡi cưa sắc bén xẹt ngang màn mưa bụi, cảm giác còn rùng rợn hơn cả nhìn thấy ma quỷ.

Lần này, kẻ đứng trên nóc nhà không chỉ nhìn về khe núi nơi phát ra tiếng nổ khủng khiếp, mà còn hớt hải đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Hắn muốn biết hai kẻ kia đã bị thứ gì làm cho khiếp đảm đến nỗi phải rú lên đến thất thanh, thứ đó liệu có gây uy hiếp cho hắn hay không.

Đúng vào lúc này, Ngũ Lang cắm phập cây phác đao vào khe đá dưới chân, rồi tay không lao thẳng về phía vách Quỷ anh.

Chẳng ai ngờ được có người dám tay không lao vào lũ quỷ anh trông ghê tởm, nhơ nhuốc nhường đấy. Nếu như lũ quỷ anh có suy nghĩ, có lẽ ngay cả bản thân chúng cũng thấy bất ngờ. Nhưng vách Quỷ anh vẫn không bị phá vỡ, sức mạnh trời sinh của Ngũ Lang chỉ có thể khiến cho vòng tròn quỷ anh khẽ rung rinh.

Điều này cũng nằm trong dự liệu của Lỗ Thiên Liễu. Nếu như một đòn đã có thể phá vỡ, thì vách Quỷ anh đã không thể trở thành thứ khảm diện mà người giang hồ mới nghe tên đã bủn rủn chân tay. Không phải Lỗ Thiên Liễu muốn Ngũ Lang phá vỡ vách Quỷ anh, mà muốn mượn lấy sức mạnh tấn công của Ngũ Lang để tiếp thêm lực cho bước nhảy của mình. Ngũ Lang vừa lao đi, Lỗ Thiên Liễu cũng lập tức xoay mình liễu nhảy vọt lên. Vào khoảnh khắc Ngũ Lang đâm trúng vách Quỷ anh, Lỗ Thiên Liễu đã kịp giậm chân lên vai Ngũ Lang, cơ thể lập tức lộn nhào trong không trung, lao vọt qua bên trên bức tường quỷ anh, rồi đáp xuống nóc nhà bên cạnh.

Hiểu con không ai bằng cha mẹ. Khi Lỗ Thiên Liễu vừa rú lên, Lỗ Thịnh Nghĩa đã biết hai đứa trẻ sẽ hành động, nên lập tức khởi động hộp mưa đinh Tý Ngọ và bào thập hình toái thân.

Kẻ trên nóc nhà không hề chuyển động, chỉ hơi nghiêng tán ô giấy dầu về phía Lỗ Thịnh Nghĩa, giống như đang che chắn gió táp mưa xiên. Thế nhưng chiếc ô giấy dầu rất đỗi tầm thường chớp mắt đã hất văng mấy chục mũi đinh nhọn và mười lưỡi bào rơi cả trên mái ngói. Nếu đây là cây dù thép Vũ Kim Cương của nhà họ Nghê ở Sơn Tây, chắn được những món vũ khí sắc bén nhường kia không có gì quái lạ. Thế nhưng nó chỉ là một chiếc ô bằng giấy dầu rất mực tầm thường!

Đang tung người lên không, Lỗ Thiên Liễu cũng phóng Phi nhứ bạc bay đi. Sợi xích thép trên Phi nhứ bạc đã quấn trúng một đầu gọng nhô ra phía ngoài tán ô, rồi đột ngột vận lực vào tay giật lại. Tính toán của cô rất thấu đáo, nếu giật được chiếc ô, sẽ trợ giúp cho cha tấn công bằng ám khí thành công, ép kẻ đó phải nhường đường; nếu không giật được, sẽ mượn lực giật về của hắn để nhảy vọt qua đầu hắn.

Chiếc ô quả nhiên đã bị hắn giật ngược lại, nhưng không những không kéo được cơ thể Lỗ Thiên Liễu bay lên, ngược lại còn giật phăng luôn sợi Phi nhứ bạc đang lồng trên tay cô. Vòng khuyên ở cuối sợi xích của Phi nhứ bạc xé rách toạc nửa ống tay áo, để lại trên cổ tay cô một vết đỏ bầm.

Lỗ Thiên Liễu hạ xuống trên mép ngói ngay trên rìa mái hiên, nhưng chưa kịp đứng vững, kẻ cầm ô đã hành động. Hắn không đi cũng không nhảy, cơ thể vẫn thẳng đuột mà trượt đánh vèo từ trên nóc nhà xuống không một tiếng động, chiếc ô giấy dầu vụt xuống, mặt ô lao thẳng về phía Lỗ Thiên Liễu.

Lỗ Thiên Liễu rất thành thạo về cấu tạo và cách sắp xếp của rãnh ngói, việc chạy nhảy qua nóc nhà, mái ngói cũng là sở trường của cô. Song lúc này, cô lại không hề có một mảy may phản ứng trước kẻ kia, cứ đứng đực ra kệ cho đỉnh ô đánh thẳng vào giữa ngực, cơ thể văng đi như một phiến lá rụng, rơi trở lại trong vách Quỷ anh.

Ngũ Lang và Du Hữu Thích đỡ lấy Lỗ Thiên Liễu đang rơi ngang xuống, lúc này mới phát hiện ra tổn thương lớn nhất của cô chính là về mặt tinh thần. Lúc này, Lỗ Thiên Liễu bàn tay lạnh toát, người run cầm cập, tinh thần hoảng loạn, hai mắt đờ đẫn, miệng lảm nhảm như người dại:

-Không có đầu! Không có đầu!

Chương 12: Thuận xuất chăng

Kẻ cầm ô chẳng thèm đếm xỉa tới bọn Lỗ Thịnh Nghĩa, lập tức xoay người lao vùn vụt qua các mái ngói, chạy về phía thác Nhạn Linh. Khi cơ thể nhảy vọt lên khỏi mái nhà, hắn hú lên một tiếng kinh dị, sau đó dưới sự hỗ trợ của chiếc ô, hắn đã nhẹ nhàng bay sang bên kia khe nước.

Sau khi tiếng nổ khủng khiếp dội lên lần thứ hai, phía thác Nhạn Linh không những liên tiếp vọng đến những tiếng ầm ào, mà còn xen lẫn tiếng người kêu rú thảm thiết. Phát sinh tình huống quái đản như vậy, đương nhiên gã cầm ô phải chạy tới xem thực hư ra sao.

Lỗ Thiên Liễu chưa kịp định thần, tiếng hú rùng rợn của kẻ cầm ô đã phát huy tác dụng. Lũ quỷ anh bắt đầu gào khóc, âm thanh từ thấp đến cao, từ chậm rãi đến chói gắt, từ đều đặn đến hỗn loạn. Tiếng khóc cũng muôn hình vạn trạng, hơn nữa cứ gào khóc được một lát, chúng lại thay đổi kiểu khóc.

Tiếng khóc vừa vang lên, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích lập tức đưa hai tay lên bịt chặt lỗ tai, sắc mặt tái xanh tái mét. Lũ quỷ anh chỉ phát ra tiếng khóc suông chứ không hề rơi nước mắt, trong khi hai mắt Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích đã nước mắt giàn dụa.

Ngũ Lang cúi rạp người lao vào vách Quỷ anh một lần nữa, bộ dạng chẳng khác gì con trâu điên. Nhưng vừa đâm vào, cơ thể đã văng trở lại, hai chân bắt chéo ngồi trên mặt đất, vẻ mặt còn đờ đẫn thất thần hơn cả Lỗ Thiên Liễu.

Tiếng khóc lóc của quỷ anh vô cùng đáng sợ. Chỉ một tiếng rú thảm thiết trước khi chết của một con quỷ anh trong ngõ loanh quanh đã khiến Lỗ Thiên Liễu phải nôn oẹ, huống hồ lúc này có tới hơn trăm con cùng đồng thanh gào khóc.

Kẻ cầm ô vừa lao người vào trong khe núi dẫn đến dòng thác, bỗng có hai bóng đen một trước một sau từ bên trong lao vọt ra ngoài, chạy băng qua hắn mà đi. Chẳng ai để ý đến ai, cứ như không hề nhìn thấy nhau. Nhưng kẻ cầm ô vừa lao vào khe núi, lập tức quay phắt lại, chạy thục mạng ra ngoài theo sau hai người ban nãy. Liền sau đó, một dòng nước cực lớn phun ra cuồn cuộn qua khe núi, thế nước dữ dội không gì cản nổi.

Dòng nước vọt thẳng ra giống như cánh tay của loài yêu quái khổng lồ, chớp mắt đã san bằng tất cả mọi thứ ở cửa khe núi. Rừng cây, hoa cỏ, đá tảng ngổn ngang, cầu ván xoay ba đoạn, chớp mắt đã không thấy đâu nữa, chỉ trơ lại mặt đất ngổn ngang đá vụn cành gãy.

Tuy thế nước vô cùng hung hãn, song không kéo dài. Nó vừa phun ra khỏi khe núi, vách núi hai bên lập tức rung động kịch liệt, hình như có thứ gì đó đã ngăn chặn dòng nước lại. Vì vậy, dòng nước cuồn cuộn đều đổ hết xuống khe sâu bên dưới cầu ván xoay ba đoạn, ào ào chảy đi theo dòng khe, mà chưa chạm đến vị trí của đám Lỗ Thiên Liễu.

Dòng nước cũng không cuốn trôi hai con người đang chạy phía trước. Bọn họ dường như rất có kinh nghiệm trước sự tấn công của dòng nước kiểu này, vừa thoát ra khỏi khe núi, lập tức nép sang một bên vách đá, gắng sức trèo thật nhanh lên trên. Kẻ cầm ô mặc dù chạy nhanh hơn hai người phía trước rất nhiều, thậm chí đã vượt qua bọn họ, song vẫn không thoát khỏi dòng nước hung hãn. Sau khi dòng nước ào qua, chỉ còn thấy chiếc ô giấy dầu bập bềnh một lát dưới khe rồi mất hút.

Sau khi dòng nước đã chảy ào đi theo khe nước, hai người bám trên vách đá lập tức nhìn thấy vách Quỷ anh và bốn người đang bị vây khốn bên trong.

-Lấy tâm cứu vật, vô tri vô giác, vạn vật đều không, trăm giác chẳng thật. Mặc kệ thanh sắc lú hình, tiếng kêu mê hoặc! - Một người bám trên vách đá cất tiếng sang sảng hô lớn.

Những câu này xuất phát từ chương "Ly hư" trong cuốn "Huyền giác", ý là hãy coi tất cả những thứ đẹp đẽ xấu xa đều là hư ảo, dùng cái tâm để cảm giác sự vật, như vậy mới có được một cái nhìn mới trong khi nhận thức về thế giới, đạt tới được cảnh giới tối cao.

Con mắt thất thần của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên chuyển động, rồi lập tức chiếu ra hai tia sáng xanh biếc. "Thanh đồng bích nhãn là bán tiên", đúng như chưởng giáo thiên sư đã nhận định.

Lỗ Thiên Liễu vẫn nằm trên mặt đất không đứng dậy ngay, chỉ đưa ngón tay chỉ về phía trước.

-Là nó!

Ngón tay vừa chỉ, Phi nhứ bạc lập tức bay vụt ra theo. Mặc dù chỉ còn lại một sợi Phi nhứ bạc, nhưng mục tiêu cũng chỉ có một con quỷ anh, một sợi Phi nhứ bạc đã là quá đủ. Quả cầu thép lao thẳng vào giữa miệng quỷ anh, tiếng khóc của nó lập tức câm bật, chỉ còn gắng gượng ư ử vài tiếng rất khó nghe trong cổ họng. Tiếng khóc của cả đám quỷ anh cũng nhanh chóng lặng xuống, đồng loạt biến thành tiếng ư ử.

Ngũ Lang đang ngồi đờ đẫn trên đất hai mắt chợt đảo tròn rồi tỉnh lại, nhảy bật dậy, tiếp tục lao về phía vách Quỷ anh. Mục tiêu đã rất rõ ràng, chính là con quỷ đã bị quả cầu thép trên Phi nhứ bạc của Lỗ Thiên Liễu tọng vào giữa miệng. Lần này, vách Quỷ anh đã dễ dàng bị đánh thủng một lỗ, Ngũ Lang và con quỷ kia ôm xoắn lấy nhau đánh đấm huỳnh huỵch.

Vách Quỷ anh đã tan rã, vì con quỷ đang giao chiến với Ngũ Lang chính là chủ anh. Nhưng cách hoạt động vách Quỷ anh và vách Bách anh lại có điểm khác nhau. Vách Bách anh sử dụng xác chết của trẻ nhỏ, nếu chủ anh bị phá, những con khác sẽ bị mất đi sự chỉ dẫn của bùa chú, nên hoàn toàn mất đi tác dụng. Nhưng quỷ anh lại khác, sau khi không còn chủ anh dẫn dắt, chúng sẽ tự thân chiến đấu, mục tiêu vẫn là mục tiêu ban đầu.

Không thể dùng đao kiếm để đâm chém quỷ anh, nếu có thể chịu đựng được sự bẩn thỉu ghê tởm của chúng, có thể tay không giao chiến với chúng. Nhưng tuyệt đối không được ra đòn quá mạnh, nếu nước vàng trong người chúng bắn ra, chỉ cần một giọt đã đủ làm tan rữa cả một con người sống.

Vì vậy khi lũ quỷ anh vừa tan rã ào ào lao đến, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích chỉ còn cách tay không chống cự, chỉ có Lỗ Thiên Liễu vẫn có thể sử dụng vũ khí là sợi Phi nhứ bạc, vừa nhảy qua nhảy lại để né tránh, vừa phóng quả cầu sắt nhằm thẳng vào những bộ phận hiểm yếu của lũ quỷ ảnh như mắt, cổ họng.

Chỉ một loáng sau, Ngũ Lang đã bị cả đám quỷ anh bu kín xung quanh, không thể động cựa. Mặc dù Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích cùng hỗ trợ lẫn nhau, nhưng cả hai cũng đã mệt đến nỗi thở hổn hển, mồ hôi vã ra như tắm, đã sắp không trụ nổi nữa.

Phi nhứ bạc tấn công không thấy hiệu quả, động tác nhảy nhót né tránh liên tục cũng đã trở nên rối loạn, Lỗ Thiên Liễu bắt đầu hoảng sợ, một chút nguyên lý huyền diệu vừa mới lĩnh ngộ ra giờ không biết tiêu tán nơi nào. Cô không thể ngờ được rằng, phá được chủ anh, làm tan rã được vách Quỷ anh, tình cảnh lại trở nên nguy hiểm gấp bội.

-Có cách nào tiêu diệt chúng không? – May mà Lỗ Thiên Liễu vẫn nhớ ra bên khe nước còn có một cao nhân.

-Phong bế toàn bộ chín vạn chín nghìn huyệt trên cơ thể, ba hồi chuông[12] sẽ chết! – Cao nhân ở bên khe nước trả lời.

Nghe nói con người sau khi sinh ra, trên cơ thể có tổng cộng chín vạn chín nghìn huyệt bao gồm cả lỗ chân lông, những huyệt này đều có thể dùng để hô hấp, trao đổi không khí. Muốn huỷ diệt bọn quỷ anh, chỉ còn cách phong bế toàn bộ các huyệt vị trên người chúng. Đáp án này chẳng khác nào bảo với Lỗ Thiên Liễu đã hết cách.

Dần dần, lũ quỷ anh đã dồn ba người Lỗ Thiên Liễu, Du Hữu Thích và Lỗ Thịnh Nghĩa đến cạnh khe nước, thậm chí không còn đủ chỗ để xoay chuyển thân mình. Nhưng lúc này nước dưới khe đã thành dòng cuồn cuộn, mặt nước đầy xoáy lớn xoáy nhỏ, nguy hiểm vô cùng. Lỗ Thiên Liễu, Du Hữu Thích giỏi bơi lội, nên thoạt nhìn đã biết nếu sa chân xuống dưới sẽ chỉ còn đường chết.

Bây giờ phải làm thế nào? E rằng chỉ còn cách cầu nguyện mong cho kỳ tích xuất hiện, cầu xin thần tiên hạ phàm cứu rỗi giải cơn nguy ách.

Không có thần tiên, nhưng lại có một vị thiên sư chẳng kém gì thần tiên. Đúng vào lúc Lỗ Thiên Liễu chống đỡ đến chân tay luống cuống, bỗng một giọng nói quen thuộc vang lên từ trên nóc nhà bên cạnh:

-Dùng trong đuổi đục, ba mạch cắt đứt không mạch; không phân sống chết, tâm ngưng trệ hành vi chậm chạp. Trâu xanh của Lão Quân, yên tĩnh ngàn dặm; luật lệnh Thái Thượng, hãy xem ta thi hành! - Giọng nói sang sảng vừa vang lên, từ trên mái nhà thấy bột vàng, tro hương mù mịt bay xuống. Bột vàng và tro hương nhanh chóng lan rộng, động tác của lũ quỷ anh dần dần trở nên chậm chạp.

-Mau lên đây! Thứ này chỉ có thể khiến chúng chậm lại một chốc thôi! – Đó là giọng nói của Chu thiên sư. Chu thiên sư đã mất tích trong rừng đạm trúc giờ lại đột nhiên xuất hiện. Lỗ Thiên Liễu lập tức tung mình nhảy vọt lên cao, phóng thẳng Phi nhứ bạc về phía phát ra giọng nói.

Phi nhứ bạc cuốn vào bao kiếm của Chu thiên sư, chỉ thấy phía đó vận lực kéo mạnh, Lỗ Thiên Liễu lập tức bay vọt qua đầu lũ quỷ anh, đáp lên nóc nhà.

Lúc này, phía dưới đã trở nên yên tĩnh, Lỗ Thịnh Nghĩa và Du Hữu Thích vẫn bị lũ quỷ anh xúm xít giữ chặt, không thể nhúc nhích. Song Lỗ Thịnh Nghĩa vừa may lại quay mặt về phía Lỗ Thiên Liễu, thấy cô bay lên nóc nhà, liền gào lên thật lớn:

-Gỗ cụt ngọn hoa nho chùm, cành chia chạc đài sừng hươu. Quyết thì quyết luôn, rìu cưa cùng xuống! – Câu nói này tất cả người nhà họ Lỗ đều hiểu rõ, gỗ đã bị cụt ngọn có thể chạm khắc hoa nho, cành chia chạc có thể dùng để đẽo gọt bộ sừng hươu, ý nói là nên chú ý đến sự tốt xấu lợi hại trước mắt, gặp thời cơ phải quyết đoán, đưa ra lựa chọn chính xác. Ý Lỗ Thịnh Nghĩa muốn bảo Lỗ Thiên Liễu hãy mau chóng thoát thân, nếu cô thuận lợi thoát ra ngoài, rất có thể sẽ có trợ giúp đối với tình thế hiểm nghèo trước mắt.

Lỗ Thiên Liễu không đi, cũng không tìm cách xuống cứu mọi người, mà tập trung quan sát để biện nhận hai người ở bờ bên kia khe nước. Trời tối đen nên cô nhìn không rõ, nhưng ba giác nhạy bén đã giúp cô nghe thấy tiếng cọ xát của bó nan tre đeo trên người Chúc Tiết Cao, ngửi thấy hơi rượu nồng nặc và mùi dầu mỡ trên người Thuỷ Du Bạo.

Lúc này, dưới khe sâu không những nước lớn cuồn cuộn, mà tốc độ của dòng nước cũng đã vô cùng khủng khiếp. Vì vậy hai người kia chỉ có thể đứng ở trên bờ, không có cách nào vượt qua dòng nước xiết để sang trợ giúp.

-Tôi đi trước đây! – Không biết Lỗ Thiên Liễu đang nói với ai.

-Đi sẽ đi, ở tự ở, không chần chờ, tâm tương thông, mang hình bán tiên tự thoát tục, chớ tin lời mê hoặc yêu ma! - Lời của Thuỷ Du Bạo không phải ai nghe cũng hiểu, nhưng hiểu hay không chỉ là thứ yếu, quan trọng hơn là có tin hay không.

Lỗ Thiên Liễu nghe xong, lập tức quay người nhảy qua nóc nhà lao mình vào trong bóng tối. Chu thiên sư bám sát theo sau Lỗ Thiên Liễu, hai cái bóng thoáng chốc đã biến mất trước tầm mắt mọi người.

Vượt qua hai dãy nóc nhà, Lỗ Thiên Liễu không dám tiếp tục di chuyển trên nóc nhà nữa. Đường trên sống nóc là con đường bí mật của đối phương, thường rất hẹp và rất khó nhận ra. Mà thông thường những con đường này đều được nối với những khảm nút bén nhạy và thần tốc gấp bội, nguy hiểm vô cùng. Thế là Lỗ Thiên Liễu theo một mảng ngói có thể khẳng định là an toàn quay trở xuống đường phố, men theo con đường cô đã tiến vào để chạy ngược trở ra.

Trở ra đáng lẽ sẽ thuận lợi hơn nhiều so với lúc tiến vào, vì nhiều khảm nút đã bị phá vỡ. Thế nhưng những mối uy hiếp to lớn hơn, đông đảo hơn đang dần dần vây kín, dần dần áp sát, mỗi một mối uy hiếp đều là một tai hoạ khủng khiếp mà Lỗ Thiên Liễu không thể trốn thoát hay chống trả.

Lúc này, trong rừng cây ở hai bên con đường đá bên ngoài thị trấn đang lúc nhúc một bầy động vật trong tư thế sẵn sàng. Bọn chúng đều mang một bộ mặt quái đản, tựa như những chiếc mặt nạ ma quỷ, hay bộ mặt vẽ màu của diễn viên hát bội, màu sắc chói chang, hình thù kỳ dị. Đàn nút thú này không phải lần đầu tiên được điều động. Trước đó, chúng đã được sắp đặt trong Cửu chuyển thiên cách, đợi đến khi bọn Lỗ Thịnh Nghĩa đi tới vòng thứ tám sẽ đồng loạt tấn công. Nhưng không ngờ mới sau ba vòng, Chúc Tiết Cao đã đưa mọi người chạy thoát. Nút thú chưa được sử dụng, bởi vậy chúng đã được tập hợp đến đây, giữ sức chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo.

Trong một rãnh sâu cỏ cây rậm rạp ở phía xa hơn, một đám người bịt mặt y phục xanh chàm đang nhanh chóng di chuyển về phía thị trấn. Kỳ lạ là ở chỗ đám người này đều không có bàn tay, mà trên cổ tay trái có gắn móc câu đuôi bò cạp, cổ tay phải có gắn đao vuốt báo hai lưỡi. Bọn chúng từ nhỏ đã bị chặt đứt hai bàn tay, sau đó dùng đinh chốt chặt vũ khí vào xương bàn tay. Sau khi lớn lên, vũ khí sẽ được cố định như một bộ phận trên cơ thể. "Đôi tay" này ngoài việc giết người sẽ không thể làm được việc gì khác, vì vậy trong giang hồ gọi bọn chúng là "Thiên sinh sát" (sát thủ trời sinh). Mà đám Thiên sinh sát này chính là đội quân tiên phong do môn trưởng Chu gia điều động đến ứng cứu sào huyệt phía đông nam. Mục đích chuyến đi này của bọn họ là giết sạch toàn bộ những người bên ngoài đã đột nhập vào bên trong, đoạt lại thứ mà trưởng môn muốn có.

Trên một triền dốc rợp cỏ nối tiếp với rãnh cỏ, lại có thêm một đám người trang phục đủ loại đang di chuyển về phía thị trấn. Họ di chuyển có vẻ khó khăn, vì triền dốc ở đây rõ ràng đã được bàn tay con người sửa sang, mặt cỏ trơn trượt khác thường, dường như chuyên dùng vào một mục đích gì đó. Đám người tuy không quá đông, song có vẻ ai cũng là cao thủ, họ đang di chuyển rất nhanh và chắc chắn qua khu vực nguy hiểm. Dựa theo tốc độ và hướng di chuyển của họ, có thể thấy chỉ một lát nữa thôi sẽ phải dụng đầu với đám Thiên sinh sát.

Còn ở lối vào bên ngoài vùng núi Thiên Linh, người áo xanh đã từng hai lần đối đầu với Lỗ Nhất Khí cũng dẫn theo một đám người đông đảo tiến về phía thung lũng Ngộ Chân. Mặc dù hắn mặt ngoài tỏ ra điềm tĩnh, nhưng trong tâm tư đang vô cùng căng thẳng.

Lần trước tại vùng Đông Bắc, không lấy được Kim bảo, chỉ coi như là vuột mất trong gang tấc. Tiếp đó đến chuyến hải hành tìm bảo, dẫu rằng không thu hoạch được gì, nhưng cũng không đến nỗi phải thất vọng. Nhưng nơi đây tương truyền là nơi cất giấu Thuỷ bảo, và đây cũng là kết luận mà nhà họ Chu phải vắt kiệt tâm lực suốt mấy đời mới thu được, là cứ địa mà gia tộc bọn họ chắc chắn nhất và cũng đã phải trả giá nhiều nhất. Mặc dù biết bao năm nay vẫn chưa thể tìm ra dấu vết bảo bối, song toàn bộ bảo cấu coi như đã nằm trọn trong tầm kiểm soát của Chu gia. Nếu như bảo bối này lại rơi vào tay người nhà họ Lỗ, thì còn nỗi hối hận nào lớn hơn.

Sau khi nhận được thông tin có người đột nhập vào cứ địa, vốn dĩ hẵn định tập trung lực lượng tiêu diệt tất cả để trừ hậu hoạn. Nhưng sau đó suy đi tính lại, cuối cùng vẫn không thắng được ý tham của bản thân, nên quyết định mạo hiểm, lệnh cho thủ hạ nơi đây cố ý thả cho người Lỗ gia xâm nhập vào, đợi đến khi họ tìm được bảo bối mà bấy lâu gia tộc họ chưa thể lùng ra, mới ra tay cướp về. Nhưng hắn còn chưa kịp đến khu núi Thiên Linh, bên trong liền có tin tức báo ra, nói rằng cục diện đã khó bề khống chế. Những kẻ đột nhập chia làm mấy lộ, mỗi lộ đều áp dụng hành động riêng, cuối cùng cũng không biết đã lấy được bảo vật hay chưa, và ai đã lấy được bảo vật.

Trước tình huống ngoài dự tính, kẻ áo xanh đã không thể bình tĩnh được thêm nữa. Bây giờ buộc phải bắt lấy toàn bộ những kẻ xâm nhập trước khi bọn họ kịp tẩu thoát, bất cứ giá nào cũng không được để một ai lọt lưới. Đây là đối sách duy nhất đảm bảo cho bảo bối không bị vuột mất.

Đường ra trùng trùng vây bủa, trong trấn cạm bẫy giăng kín, trong khi vẫn chưa biết được bộ mặt thật của kẻ đi cùng, lại thêm những người thân yêu đang bị bủa vậy, lành dữ khó đoán, bước chân của Lỗ Thiên Liễu cứ chậm dần, chậm dần, cuối cùng dừng hẳn lại. Cô ngước mắt nhìn lên, gần là nhà cửa, xa là núi non, tất cả đều đã chìm nghỉm trong màn đêm thăm thẳm. Con đường dưới chân vẫn là con đường lúc trước đã đi vào, nhưng không biết bây giờ có còn đi được hay không, có đi qua được hay không? Còn nữa, cho dù cô có thuận lợi thoát ra đúng như quẻ bói đã gieo lúc trước, nhưng sau khi thoát ra, cô sẽ phải đi lối nào đây?

Chưa thể đi ngay được! Vẫn còn chuyện hệ trọng cần phải thực thi!

Trong màn mưa đêm mờ mịt, ánh mắt Lỗ Thiên Liễu một lần nữa lại rừng rực cháy sáng!

Chú thích

[12] Đạo gia thường dùng khoảng thời gian giãn cách giữa các lần đánh chuông để đo đếm những khoảng thời gian ngắn, một hồi chuông tương đương khoảng mười giây.

THUỶ BẢO ĐỊNH TÂY NAM - LỖ THIÊN LIỄU PHÁ GIẢI BÍ MẬT THÂN THẾ

Chương 13: Vô hình sát

Mưa đã tạnh, nhưng nước mắt lại đổ xuống chan hoà. Sau khi đã được giải thoát và thả lỏng hoàn toàn, chính là lúc cảm xúc bộc phát. Trong cơn đau buồn, có quá nhiều thứ đang vùn vụt chạy qua trí não Lỗ Thiên Liễu, có người, có việc, có quá khứ, có hiện tại. Cha không còn nữa, nhà cũng mất rồi, bây giờ cô biết đi đâu, về đâu?

Khi Quan Ngũ Lang bò được tới bên cạnh Lỗ Thiên Liễu, cô đang đứng trên một tảng đá bằng phẳng nhô cao, đưa đôi mắt đẫm nước nhìn như hút về một đỉnh núi phía tây nam. Trên đỉnh núi có một cây liễu, cành dày lá mượt, trơ trọi một mình đang phất phơ theo gió.

-Đi đâu đây? – Quan Ngũ Lang hỏi.

Có lẽ... - Lỗ Thiên Liễu chậm rãi đưa cánh tay lên, chỉ về một hướng – Có lẽ em nên đi về nơi đó! Em đã đến từ nơi đó!

o O o

Mưa đêm lại rào rào đổ xuống, khiến thị trấn lúp xúp những ngôi nhà ngói đen tường trắng trong thung lũng Ngộ Chân chìm khuất trong bóng đêm đen đặc và hỗn độn. Nhưng ánh mắt Lỗ Thiên Liễu vẫn rừng rực sáng, dòng tư duy vẫn hết sức mạch lạc.

Khảm diện cối đá ở đầu thị trấn không thấy đâu nữa, thay vào đó là một lão già đầu hói nét mặt hiền từ. Song áp lực vô hình ép tới từ phía lão già còn nặng nề hơn nhiều so với khúc cối đá khổng lồ khi trước.

-Ha ha! Con nhóc kia, khỏi cần kiếm chuyện che mắt ta nữa! Là ta đã mở tấm chặn cối xay nước, ngươi mới thoát khỏi cối xay ma. Không có đồng xu bạc của ta, làm sao ngươi có thể thoát khỏi con đường chia bốn xẻ năm? Còn nữa, tại ngõ loanh quanh, khảm diện đối hợp Sông chảy không ngừng, cầu ván xoay ba đoạn, quỷ anh trên tám mươi tư cột cờ, nếu không nhờ ta tháo dây phá lẫy, có khảm diện nào ngươi vượt qua nổi không? Vì vậy trước mặt chân nhân đừng nói láo, mau đưa vật đó ra đây! – Lão đầu hói có vẻ rất lắm lời.

-Ồ, cối xay ma! - Lỗ Thiên Liễu đã hiểu. Đối phương biết rõ chỗ khuyết của khảm diện Rãnh cối kép, vì vậy đã thiết kế thêm một khảm nối liền, khiến cho những người may mắn thoát khỏi Rãnh cối kép lại phải lao đầu vào tử địa, chui vào trong chiếc cối xay nước chuyên dùng để xay người. Mâm cối vừa quay, cơ thể sẽ bị nghiền nát như tương. Cửa cối mở ra, các mảnh cơ thể sẽ bị nước cuốn phăng đi, chỉ còn lại lớp mỡ người dính lại trên mặt đường.

-Ông quả là người tốt! Sau khi trở về tôi sẽ mang đại lễ tới hậu tạ!

-Thứ mà ngươi đã lấy được chính là đại lễ, đưa nó cho ta là được! – Lão già rất cương quyết.

-Ồ, lúc ở trong đó tôi đã ngắt được một cành hoa, ông có lấy không? - Lỗ Thiên Liễu gỡ lấy cành hoa cài trên búi tóc xuống, đưa cho lão già. Trong mắt lão bỗng chớp lên một tia hung ác như loài rắn độc, đây chính là ánh mắt mà cô đã cảm giác thấy khi ở trong khe đá.

-Nếu ngươi chưa lấy được vật đó, chắc chắn ngươi sẽ không vội vã bỏ chạy. Nhưng nếu không đưa nó cho ta, ngươi sẽ không thể chạy thoát! – Lão già nói.

-Ta sẽ đưa cô xông ra! – Chu thiên sư đang đứng cạnh Lỗ Thiên Liễu lập tức rút kiếm lao về phía lão già.

Lỗ Thiên Liễu cắm lại cành hoa lên búi tóc. Cô không đợi Chu thiên sư mở con đường máu, mà chớp cơ hội quay người chạy ngược trở lại. Cô muốn tìm ra một con đường khác để thoát khỏi thị trấn. Vì trong bố cục của thị trấn này, nơi không có đường chưa chắc đã là đường chết.

Thực ra lúc nãy, khi đi qua lối rẽ chia bốn xẻ năm, Lỗ Thiên Liễu đã nhận ra sự khác biệt giữa các mái nhà. Trên nóc một ngôi nhà ở đó có thêm hai cây xà bắc ngang, mái hiên có đầu mèo[13], chốt hình chim cắt ngược cố định. Kiểu mái nhà như vậy chịu tải tốt, ngói không bị trượt xuống, rất có thể là con đường sống ngầm ẩn danh cho đối phương đi lại.

Lỗ Thiên Liễu đã phán đoán chính xác, trên những mái nhà này quả thực có đường sống. Khi cô tiến vào trong trấn, lũ quỷ anh đã ngồi chồm hỗm như thú nóc trên chính những nóc nhà như thế để nhìn cô. Nhưng lúc này, cô không thể đi theo con đường đó được nữa, vì có hai kẻ đã đứng đó chặn đường, hai kẻ đã từng suýt chút nữa giết chết cô.

Trên nóc nhà có một kẻ cầm ô đang đứng sừng sững. Khi Lỗ Thiên Liễu tìm cách thoát khỏi vách Quỷ anh, cô đã phát hiện ra kẻ bị bóng ô che khuất nửa thân người kia hoàn toàn không có phần đầu. Cũng chính vì thế mà cô đã được một phen khiếp sợ đến hoảng loạn tinh thần, nỗi khiếp sợ ấy còn kinh khủng hơn nhiều so với cú tấn công thực tế. Về sau, kẻ đó rõ ràng đã bị dòng nước xiết cuốn trôi, nhưng tại sao lúc này lại xuất hiện ở đây? Kẻ đó chắc hẳn là ma quỷ chứ không phải con người.

Kẻ đứng chặn trên đường phố chính là gã béo đen đã đánh lén Lỗ Thiên Liễu một chưởng. Khí thế của hắn vững vàng như núi, ngay cả ánh nhìn cũng như những nhát búa nặng nề đập thẳng vào đối phương. Thật khó tưởng tượng gã lại có thể tung ra những cú tấn công thần tốc như chớp xẹt.

Lỗ Thiên Liễu vừa bước chậm lại, đã cảm thấy làn khí của hai kẻ kia vô cùng rối loạn. Thật kỳ lạ, dường như bọn họ còn căng thẳng hơn cả bản thân cô.

Đúng vậy! Một người đã bị chính tay mình giết chết giờ lại đột ngột xuất hiện ngay trước mắt không một vết thương, hỏi sao gã béo đen không căng thẳng. Sự tự tin của gã đã tan vỡ hoàn toàn. Kẻ cầm ô còn khiếp sợ hơn nữa, vì cô gái kia ngay cả vách Quỷ anh cũng không làm gì nổi.

-Liễu Nhi đừng sợ, chúng ta đến đây! – Là giọng của Lỗ Thịnh Nghĩa. Ông dẫn theo Quan Ngũ Lang, Du Hữu Thích đang lao đến trên đường phố.

Bỗng một bóng đen phóng vụt qua không trung, một giọng nói khác phát lên từ ngã tư đường:

-Này, người anh em họ Du, nhớ trả rượu cho ta đấy nhé! Dám dùng rượu của ta để tắm cho lũ quỷ oắt con, tiếc đứt cả ruột! – Chính là con sáo mắt đỏ và Thuỷ Du Bạo, phía sau còn có Chúc Tiết Cao. Họ không thể vượt qua khe nước chảy xiết, nên đã tìm đường vòng để trở ra.

-Cái thứ đó mà gọi là rượu à? Chua loét y như giấm! Lúc nào về tôi sẽ tặng ông cả một hũ giấm Trấn Giang, tha hồ mà tắm. – Du Hữu Thích nói.

-Rượu của ta dù có là giấm, thì giấm Trấn Giang cũng còn lâu mới sánh được. Rượu ủ từ nhuỵ hoa quỳnh cho thêm giấm hoa quả, xác thối gặp phải sẽ khô, xác khô gặp phải sẽ tan, nếu không làm sao đuổi được lũ quỷ ranh con kia! - Thuỷ Du Bạo vội phản bác.

-Đó là nhờ vào cái ống thổi của cậu Chúc, không thì thứ rượu pha giấm của ông cũng chẳng thể phun qua khe nước được!

Đúng vào lúc đó, Chu thiên sư và lão già hói đầu cũng đuổi kịp đến sau lưng Lỗ Thiên Liễu. Hai người đứng hai bên tạo thành thế gọng kìm, cách Lỗ Thiên Liễu khoảng mười bước chân. Lỗ Thiên Liễu cảm thấy rất lạ lùng, bọn họ không giao tranh kịch liệt như cô tưởng, ngược lại còn kết bè chạy đến bao vây cô, chẳng lẽ cô quan trọng đến vậy hay sao?

-Cô Liễu, đưa thứ đó cho ta, ta sẽ đưa cô ra! - Lời nói và dáng vẻ của Chu thiên sư vẫn hết sức chân thành.

-Không ai được đi hết, trừ phi giao lại nó cho ta! – Lão hói mắt loé hung quang.

-Đừng nghe lời bọn họ, hãy đi theo ta! - Thuỷ Du Bạo lắc người một cái, chớp mắt đã lướt qua gã béo đen, đứng ở vị trí cách Lỗ Thiên Liễu khoảng mười bước chân.

Ba lão già với phong thái hoàn toàn trái ngược đang tạo thành một hình tam giác vây Lỗ Thiên Liễu vào giữa.

Con sáo mắt đỏ lượn hai vòng trên đầu, rồi nhẹ nhàng đáp xuống vai Thuỷ Du Bạo, không ngừng lắc lư cần cổ, vẻ vô cùng cảnh giác với mọi động tĩnh xung quanh.

-Đừng theo lão ta, kẻ này nguồn gốc mập mờ, không phải yêu ma cũng là phường trộm cướp! – Chu thiên sư đang ám chỉ Thuỷ Du Bạo.

-Dám phỉ báng ta à? Lệnh bài thiên sư ta mang đến chẳng lẽ lại hà tiện như bài vị tổ tông nhà ngươi... - Thuỷ Du Bạo bắt đầu chửi bới Chu thiên sư thậm tệ.

Chu thiên sư không hề mảy may biến sắc trước những lời lẽ ngoa ngoắt của Thuỷ Du Bạo:

-Với thân phận và đạo hạnh của ngươi, đừng tự biến mình thành ra khó coi như thế!

Thuỷ Du Bạo cười lớn, tiếng cười có vẻ lạ lùng:

-Ha ha! Ngươi biết rồi ư? Biết quá nhiều, mạng khó giữ! - Vừa nói, lão vừa lao thẳng về phía Chu thiên sư.

Lỗ Thiên Liễu lập tức cảm nhận thấy một luồng khí vô hình cực kỳ bạo liệt, khiến người ta phải ớn lạnh, tê buốt.

-Đừng ngoan cố nữa, người của ngươi không đến được đâu! – Chu thiên sư không hề hoảng loạn, vẫn đứng yên không nhúc nhích.

-Trong khe Quải Phát ngươi đã cho một đệ tử quay lại lừa phỉnh người của ta đi mất, đúng không?

-Đoán đúng lắm! Đáng tiếc là hôm đó ngươi định đuổi theo nó mà không kịp!

-Nếu không phải gã Hoàng Đại Giải chết tiệt vướng víu chân tay, đứa tiểu yêu của ngươi đừng hòng chạy thoát! - Thuỷ Du Bạo từ từ đứng thẳng người dậy, bỗng chốc hiển lộ một khí độ phi phàm, hoàn toàn không giống lão bếp già lôi thôi hạ tiện lúc trước.

Du Hữu Thích nghe Thuỷ Du Bạo nhắc tới Hoàng Đại Giải, tim bỗng nảy lên một cái. Nhưng hai người họ nói năng mập mờ chưa rõ, mà lúc này lại không thích hợp để hắn xen ngang vặn hỏi đầu đuôi.

-Đúng vậy! Nhưng đệ tử của ta đi rồi, không những chặn được người của ngươi, mà còn dẫn được người của ta đến! – Nói đến đây, giọng điệu của Chu thiên sư có chút nôn nóng, vì theo như tính toán của ông ta, quân tiếp viện đáng lẽ phải đến rồi mới phải.

-Các ngươi coi đây là đâu hả? Chỉ e muốn vào mà không có đường vào, muốn ra mà không còn mạng để ra! – Lão hói cắt ngang, giọng đầy cao ngạo.

-Có đường! Đường vận chuyển đồ, dốc cỏ trăm dặm! - Thuỷ Du Bạo nói.

-Dốc cỏ trăm dặm? - Giọng nói của lão hói rõ ràng không còn vẻ tự tin như lúc trước. Lão hiểu rõ, khi mới xây dựng nơi này, để thuận tiện cho việc vận chuyển đồ vật và nguyên vật liệu, bọn họ đã từng mở một con đường đá nhẵn nhụi men theo sườn núi, rìa đồi. Sau này đường đá hư hỏng, liền rắc hạt cỏ lên trên, mọc thành những dốc cỏ rậm rạp.

Thuỷ Du Bạo chẳng thèm đếm xỉa tới lão hói, mà quay nghiêng người về phía Chu thiên sư:

-Ta không có người, còn ngươi có người, nhưng nếu như ngươi chết, người của ngươi cũng chẳng làm được tích sự gì! – Nói đoạn, Thuỷ Du Bạo lùi về sau một bước, nửa thân đổ nghiêng, hai cánh tay một trước một sau tạo thành thế giương cung. Đó là chiêu thức dốc toàn lực tấn công, một đòn giết địch.

Lão hói đã nhận ra, đây chính là cục diện cò nghêu tranh hùng, ngư ông đắc lợi.

Song thật bất ngờ, Thuỷ Du Bạo bất thình lình thuận theo thế nghiêng của cơ thể nhanh chóng lùi lại phía sau, bộ pháp cực nhanh nhưng vô cùng ổn định, hệt như luồng gió vụt qua.

Lão hói dù gì cũng là một cao thủ hiếm có, trong lúc kinh ngạc tuy chưa kịp xoay chuyển thân hình, nhưng hai tay đã nhanh như chớp đánh về trước mặt Thuỷ Du Bạo.

Tay phải của lão hói đen thui như bánh nướng quét dầu vừng, còn tay trái lại trắng toát như bánh gạo vừa vào lồng hấp. Đây chính là tuyệt kỹ "Âm dương sưu hồn thủ" đã thất truyền trong giang hồ suốt mấy trăm năm nay. "Hữu âm sưu mười tám tầng hồn tán, tả dương sưu chín trùng trời phách tan", chỉ cần để hai bàn tay bắt hồn đó chạm vào, bất kể xuống mười tám tầng địa ngục hay lên chín tầng trời, cũng đều vô cùng thê thảm.

Thuỷ Du Bạo không hề né tránh, mà quay vụt người lại, đồng thời đánh cánh tay trái đang trong thế giương cung về phía lão hói, giống như muốn xoa lên đỉnh đầu trọc lóc của lão.

Lão hói cũng chẳng thèm né tránh. Lão biết, nếu hai bàn tay của lão không chạm được vào người đối phương, đối phương cũng sẽ không thể chạm được vào người lão. Trừ phi tay của đối phương đột ngột mọc dài ra...

Một tia đỏ chói xẹt ngang cần cổ lão hói. Liền sau đó, cái đầu hói của lão ngật thẳng ra sau, tia đỏ vừa nãy lập tức mở rộng, xoè ra như nan quạt, phun thành một trời mưa máu.

Cánh tay không thể mọc dài ra, song vũ khí lại có thể kéo gần khoảng cách giữa hai con người. Lão hói đối diện với vũ khí giết người mà không né tránh, vì lão không hề nhìn thấy món vũ khí đó.

Trong khoảng không phía trước bàn tay của Thuỷ Du Bạo có một vệt máu đỏ loè, hình dạng giống như mũi kiếm. Máu tươi vừa dính đã rơi, đầu kiếm cũng lập tức biến mất.

Một thanh kiếm vô hình! Không, đúng hơn là một thanh kiếm trong suốt, trong suốt tuyệt đối, đến mức không ai có thể phát giác ra sự tồn tại của nó.

Gã béo đen và kẻ cầm ô không khỏi kinh hoàng trước cảnh tượng trước mắt. Bọn chúng bất giác lùi liền mấy bước, bỏ ngỏ lối đi mà bọn chúng đang chặn giữ.

-Kiếm thuỷ tinh vô hình! – Chu thiên sư bật ra một tiếng kêu khiếp đảm.

-Đúng vậy! Vô hình kinh quỷ thần, thuỷ tinh trừ yêu ma! - Thuỷ Du Bạo không những khí độ khác hẳn, ngay cả ngữ khí cũng trở nên lẫm liệt uy nghiêm.

-Rốt cuộc ngươi đã làm gì chưởng giáo thiên sư? Bảo vật trấn giáo của núi Long Hổ tại sao lại ở trong tay ngươi? – Chu thiên sư tuy hết sức hoang mang nghi hoặc, nhưng vẫn không tỏ ra nóng vội.

-Ha ha! Thì ra ngươi vẫn chưa biết tất cả. Có trách chỉ trách ngươi mang theo tài nghệ gia nhập Thiên Sư giáo đã bao năm nay, nhưng chỉ thích ở lì trong Duyệt Vi đường tra cứu sách vở, tìm kiếm manh mối. Nếu như ngươi tiếp xúc nhiều hơn với các đạo pháp hành thuật, hẳn cũng không đến nỗi ngay cả chiêu Xúc hình hoán hồn cũng không hiểu! - Lời lẽ của Thuỷ Du Bạo lúc này càng bộc lộ được uy thế của bậc đại tông sư.

-"Xúc hình hoán hồn"! A, ta biết ngươi là ai rồi! Thảo nào! – Chu thiên sư lập tức tỉnh ngộ.

"Xúc hình hoán hồn" là chiêu thức mà các thiên sư trên núi Long Hổ dùng để giải cứu người bị ma nhập quỷ ám, tức là dùng viên thuốc xúc hình đơn để cải trang, khiến bản thân biến thành hình dạng của người bị ma nhập, hơn nữa phong thái, động tác, giọng nói cũng đều mô phỏng y hệt, không gì không giống. Sau đó sẽ ngủ cùng với người bị ma ám, dụ cho ma quỷ nhập vào cơ thể thiên sư, rồi phong kín nó ở bên trong, dùng nội hoả đan khí để huỷ diệt nó.

Xúc hình đơn do Bách biến Hiên Hiên chủ Tiền Bách Tướng ở Động Đình truyền lại cho núi Long Hổ vào đời Nguyên, kỹ xảo đơn giản dễ sử dụng, trình độ hoá trang có thể gây đảo lộn thật giả. Còn về bắt chước thần thái giọng nói, mặc dù cũng có bí quyết được lưu truyền, nhưng chủ yếu vẫn phải nhờ vào tài năng thiên phú.

Kỹ xảo cải trang, bắt chước của lão Thuỷ Du Bạo giả đã đến trình độ thượng thừa, ngay đến Chu thiên sư cũng không phát hiện ra một mảy may sơ hở. Trên núi Long Hổ ai mới có được bản lĩnh thần kỳ đó? Một tia sáng bỗng xẹt ngang trí não Lỗ Thiên Liễu. Nhìn vào hình dáng, phong độ và bản lĩnh của lão Thuỷ Du Bạo giả danh kia, dường như rất giống chưởng giáo thiên sư của Thiên Sư giáo.

Nghi ngờ của Lỗ Thiên Liễu nhanh chóng được chứng thực. Lão Thuỷ Du Bạo mạo danh đã lôi ra một bình rượu, đổ một ít lên mặt rồi xoa xoa vài cái, lập tức râu ria đen nhánh, nếp nhăn giãn ra, ngay cả khuôn mặt bì bì cũng trở lại xương xương, khí chất tiên linh đã hoàn toàn hiển lộ, quả nhiên là vị chưởng giáo thiên sư tiên phong đạo cốt.

Không những khuôn mặt thay đổi, mà giọng nói cũng hoàn toàn đổi khác:

-Kỳ thực ngay sau khi ngươi lên núi Long Hổ, ta đã phát thiếp thiên sư để điều tra nguồn gốc của ngươi, kết quả là gốc gác của ngươi rất sạch sẽ, không hề dính một vết đen. Có câu càng giấu càng lộ, càng là những kẻ như thế lại càng đáng nghi. Giang hồ có câu "thân mang tuyệt kỹ, xuất xứ hư vô, hẳn có mưu mô", quả thực rất chí lý!

-Vì vậy Thiên Sư giáo mới cảnh giác với ta, khiến ta không thể tìm ra thứ gì đáng giá trong Duyệt Vi đường, tuyệt đối không cho ta có cơ hội chạm vào những thứ giống như cái Bát quái gỗ mà ngươi mang đến? – Chu thiên sư lúc này mới bừng tỉnh.

-Những kẻ đáng ngờ trong giáo không chỉ có mình ngươi, cảnh giác cũng không chỉ với mình ngươi!

-Tấm lụa vàng mà con bé họ Lỗ kia mang đến, ngươi đã hiểu được hàm nghĩa của mười hai con chữ, còn chia bọn ta làm tám lộ bắt đi tìm kiếm, chẳng qua là muốn đẩy ta đi, để ngươi rảnh tay sắp đặt hành sự, có phải không?

-Cũng chưa hoàn toàn đúng! Hàm nghĩa trong đó ta cũng hiểu được ít nhiều, song vẫn chưa thể hoàn toàn thông suốt. Không phải ta muốn đẩy ngươi đi, mà là muốn đẩy các ngươi đi. Có điều ta cũng không ngờ ngươi lại quay về nhanh như vậy, nếu không phải ngộ tính cao, hẳn là đã được cao nhân chỉ điểm!

Chu thiên sư nhớ lại, những lộ được phái đi đều là những môn nhân thường ngày rất được chưởng giáo thiên sư coi trọng, trong đó có cả ông ta. Thật không thể ngờ được rằng tất cả bọn họ đều là đối tượng mà chưởng giáo thiên sư cảnh giác. Chu thiên sư thầm ớn lạnh trong lòng. Tâm địa và dụng ý sâu xa của chưởng giáo thiên sư quả thực thâm trầm đáng sợ.

-Chưởng giáo thiên sư đã biết rõ chân tướng, vậy tại sao không đến thẳng đây đoạt lấy báu vật, mà lại đến Thái Hồ đợi chúng tôi? - Lỗ Thiên Liễu cảm thấy sự việc vô cùng khó hiểu, liền chen ngang một câu.

-Tất cả mọi chân tướng, mọi manh mối đều là những mảnh vỡ rời rạc. Cũng giống như các hạt rời trên tràng hạt, cần phải có một sợi dây để xâu chuỗi chúng lại, mà sợi dây này chỉ có nhà họ Lỗ các người mới có! - Chưởng giáo thiên sư quay qua nói với Lỗ Thiên Liễu, khuôn mặt vẫn toát lên vẻ phúc hậu nhân từ.

-Thì ra là vậy! Bây giờ thì ta đã hiểu! – Chu thiên sư thốt lên đầy cảm khái.

-Ngươi hiểu ra thì đã quá muộn rồi. Nói thực, về gốc gác của ngươi, ban đầu ta cũng không thể tìm ra. Nhưng ngươi cũng quá hớ hênh, thậm chí cả họ gốc cũng không thèm đổi. Chính họ Chu và đạo pháp độc đáo của ngươi đã khiến ta nhớ đến một kỳ nhân mấy trăm năm về trước: phò Minh hai tản tiên, Lưu Cơ và Chu Điên. Lưu Cơ phò tá họ Chu đến cuối đời, công đức viên mãn, còn Chu Điên lại nửa đường rút lui, nói rằng muốn ẩn dật tại Lư Sơn, sau này hoàng đế nhà Chu nhiều lần phái người đi tìm nhưng không thấy.

-Ông ta biết bí mật họ Chu nhờ bảo bối đoạt thiên hạ, nên không muốn làm trái ý trời? - Lỗ Thiên Liễu lại xen vào một câu.

-Trước đây ta cũng nghĩ như vậy, nhưng họ Chu kia lại tìm đến, chứng tỏ chuyện này không hoàn toàn chính xác.

Chú thích

[13] Trong kiến trúc dân gian, ở hai đầu của diềm mái hiên thường gắn hai viên ngói có tạo hình đặc biệt như đầu mèo, đầu thú để trừ tà, nên gọi hai đầu diềm mái hiên là đầu mèo.

Chương 14: Nhận yêu ma

Chưởng giáo thiên sư nói tiếp:

-Chu Điên ngoài việc biết được bí mật về bảo bối của họ Chu, chắc chắn còn thông qua một sự vật nào đó mà biết được thiên cơ. Việc ông ta ở ẩn để tìm kiếm những bảo bối khác chỉ là hành động theo sở thích, chứ không nghĩ đến chuyện dùng bảo bối để mưu cầu điều gì. Song vấn đề là ở chỗ ông ta sẽ truyền lại ít nhiều bí mật về những bảo bối khác cho một vài con cháu đời sau. Tu tiên ba đời cũng khó không sinh trộm cướp, hậu duệ đời sau của ông ta khó lòng cưỡng lại sự mê hoặc của ngôi thiên hạ chí tôn. Nhưng ngặt vì manh mối Chu Điên để lại không đủ để tìm ra bảo bối, nếu không thiên hạ từ lâu đã phải hứng chịu thêm một phen đại loạn rồi!

-Ha ha! – Chu thiên sư bật ra vài tiếng cười nhạt! – Trương Truyền Đạo ơi là Trương Truyền Đạo, ngươi vạch ra chân tướng của ta, mục đích là để che giấu dã tâm thực sự của ngươi ư? Ta nghĩ bản thân ta chưa đến nỗi bất tài đến thế, ngay từ đầu đã bị ngươi ngờ tận gốc trốc tận cội như vậy! – Thì ra chưởng giáo thiên sư tên thật là Trương Truyền Đạo, đây là lần đầu tiên Lỗ Thiên Liễu nghe thấy.

-Có đáng ngờ hay không là do chính bản thân ngươi. Không nói chuyện trước đây, chỉ trên đoạn đường từ Thái Hồ đến núi Giang Lang, cách thức bố trí, sắp đặt của ngươi đã chứng tỏ ngươi rất am hiểu về hành quân đánh trận. Người của Đạo gia lại thông thạo hành quân đánh trận, từ xưa tới nay cũng chỉ có Lưu Cơ, Chu Điên mà thôi.

Lỗ Thiên Liễu lại tiếp lời:

-Khi qua khe Quải Phát, mọi người nối đuôi nhau đi theo con diều, giữa mọi người nhiều nhất cũng chỉ có thể thay đổi về cự ly hoặc thứ tự trước sau, nhưng vị trí của ông và đệ tử, tiểu đồng lại thay đổi hẳn, điều này chứng tỏ ông đã có hành động gì đó khi ở trong bãi cỏ ngải.

-Đúng là như vậy! - Chưởng giáo thiên sư lại tiếp lời Lỗ Thiên Liễu - Kỳ thực ngay từ trước khi tiến vào bãi cỏ ngải hắn đã hành động rồi. Trên đường tới núi Giang Lang, hắn để cho hai đứa tiểu đồng đi sau đoạn hậu, chính là để chỉ điểm cho người nhà hắn tìm đến. Khi chúng ta đột ngột thay đổi hành trình, sau khi ngược sông Quá Thiên lên đầu nguồn, hắn đã mất liên lạc với đồng bọn, nên lợi dụng môi trường đặc biệt của khe Quải Phát để cho một tiểu đồng tẩu thoát, bị ta và Hoàng Đại Giải phát hiện nên đã âm thầm giết người diệt khẩu. May mà ta tránh kịp, lại giả vờ ngất xỉu, bọn họ cho rằng ta không nhìn thấy gì, nên mới không tiếp tục hạ độc thủ với ta!

-Các ngươi... – Chu thiên sư mới bật ra được hai từ, đã lập tức bị Lỗ Thiên Liễu mau mồm mau miệng chặn họng:

-Chúng ta sa vào vùng đất dưỡng thi cũng là nằm trong tính toán của ông. Bề ngoài ông tỏ ra độ lượng, không tranh chấp với chú thợ đan, nhưng thực ra lại có dụng ý khác. Lúc đó chỉ có đệ tử của ông không bị vây khốn, thời gian một ngày một đêm đủ để hắn làm được khối việc cho ông!

-Đúng vậy! Ngay từ khi băng qua rặng trúc sáo, hắn ta đã tính toán xong xuôi, cho đệ tử đi tránh sang một bên, dẫn theo tám người tiến thẳng vào vùng đất dưỡng thi. Con bé Liễu kia, còn nhớ lúc đó ta đã hỏi ngươi, bảy nam một nữ có thể tạo thành cục gì hay không?

Lỗ Thiên Liễu gật đầu.

-Bảy nam một nữ bày thành vị trí Bát tiên định tà, là cục trấn ma. Nhưng cũng với bảy nam một nữ, còn có thể bày thành cục Chung Quỳ giá muội hành, đây là cục dụ quỷ. Chung Quỳ gả em gái, sáu quỷ đi theo. Dưỡng thi đã bị sáo trúc trấn áp lại có thể đội đất chui lên tác quái, đều là do cục dụ quỷ Chung Quỳ giá muội hành gây ra. Còn đệ tử của hắn sẽ nhân cơ hội này tiến vào phía trong, tìm kiếm đường đi, đón quân cứu viện!

-Khi đối phó với sát ngày của dưỡng thi, ông vốn không hề nghĩ đến việc dùng máu thuần âm để trấn, vì ông đã tính được rằng hôm đó là ngày Thái âm, lại mưa dầm âm u, sức mạnh của sát ngày không đủ để thoát ra. Còn nếu dùng máu thuần âm, ngược lại sẽ bị nghi ngờ tại sao đêm hôm trước không dùng đến! - Lỗ Thiên Liễu nói đoạn liền nhìn sang chưởng giáo thiên sư, thấy ông ta gật đầu xác nhận.

Sắc mặt Chu thiên sư lúc xanh tái lúc trắng bệch, đã hoàn toàn đánh mất vẻ trấn tĩnh của một vị thiên sư đạo hạnh cao thâm.

Mưa mỗi lúc một lớn, sợi mưa mỗi lúc càng thêm dày đặc, tuy tiếng mưa rơi trên mái ngói không quá lớn, song sau khi chảy theo rãnh ngói đổ xuống mái hiên, lại kết thành một màn nước giọt gianh ào ào như thác.

Đúng vào lúc đó, trong rãnh cỏ bên ngoài thị trấn không xa, Thiên sinh sát đã đụng đầu với đám cao thủ lét lút đột nhập trên dốc cỏ. Không có tiếng la hét huyên náo, chỉ có tiếng binh khí xé gió va chạm vào nhau chát chúa, tiếng vận khí phát lực, tiếng thịt xương toạc rách. Mặc dù máu thịt tứ tung, nhưng rất mực lặng lẽ.

Trong rừng cây ở bên ngoài thị trấn, đám động vật giống như đeo lớp mặt nạ quỷ đã bắt đầu nhộn nhạo bất an. Không biết có phải trận chém giết trong rãnh cỏ đã khiến chúng ngửi thấy mùi máu tanh, hay là ở một nơi nào đó đang tiềm ẩn một nguy cơ khủng khiếp hơn nữa...

-Tôi nghĩ đệ tử của ông vẫn có ít nhiều thu hoạch. Sau khi đụng đầu với dơi đốt trúc, ông không đi cùng bọn tôi, nhưng đột nhiên lại xuất hiện nguyên vẹn ở đây, chắc hẳn tay đệ tử đó đã để lại một vài chỉ dẫn. - Lỗ Thiên Liễu và chưởng giáo thiên sư vẫn tiếp tục thay phiên nhau phân tích.

-Khảm nút không phải là sở trường họ Chu kia, nhưng tay đệ tử của hắn xuất thân từ gác Liên Khiếu vùng Phúc An tỉnh Sơn Đông. Có lẽ hắn đã nhờ con vẹt lông xanh thông báo quãng đường hắn dò thám được cho họ Chu kia, vì vậy sau khi con bé Liễu tiến vào trong trấn, hắn đã bám sát theo sau. Cũng chính vì có ngươi đi trước phá giải khảm nút, nên họ Chu kia vốn không tinh thông khảm diện cũng đến được đây mà không sứt mẻ lấy một cọng lông!

-Không đúng! - Sắc mặt Chu thiên sư lúc này đã trở nên âm trầm xám xịt, vừa quát lên một tiếng hung hãn, vừa rút soạt thanh kiếm vân tuyết hoa ra khỏi bao một nửa.

-Ồ! Không đúng! - Giọng của Lỗ Thiên Liễu không lớn bằng giọng Chu thiên sư, nhưng vẻ khiếp sợ và căng thẳng trong ngữ khí khiến tất cả mọi người đều phải giật mình – Có rất nhiều thứ đang xông đến! Chạy mau! - Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận thấy một luồng áp lực vô hình khủng khiếp như trời long đất lở.

Hai chữ "chạy mau" cuối cùng đã bị át đi bởi những tiếng hú kéo dài, những tiếng hú ghê rợn của bầy động vật mặt mày như ác quỷ trong rừng cây. Cùng lúc đó là tiếng người rầm rập lao về phía thị trấn, trong đó có lẫn tiếng huýt sáo và tiếng hú quái đản, tựa như đang làm ám hiệu.

-Người của ta đã đến rồi! - Sắc mặt Chu thiên sư rạng rỡ hẳn lên, sau đó từ từ rút hẳn thanh kiếm vân tuyết hoa ra khỏi vỏ.

Gã béo đen cũng tỏ ra phấn khởi, vì trong mớ âm thanh hỗn loạn, gã đã nhận ra tín hiệu cho thấy quân cứu viện phía gã đang kéo đến.

-Chạy mau!

Lỗ Thiên Liễu hét lên muốn rách họng, rồi bất chấp tất cả, lập tức quay người lao thẳng về phía con đường chia bốn xẻ năm. Đường đi cô đã dự tính từ trước, phía đó chắc chắn có đường sống, nếu không gã béo đã không phải chặn ngang đoạn đường nối thông giữa ngã chia bốn và ngã xẻ năm.

Chu thiên sư thình lình xuất chiêu, thanh kiếm trong tay chém thẳng về phía chưởng giáo thiên sư. Ông ta cho rằng mối uy hiếp và trở ngại lớn nhất lúc này chính là chưởng giáo thiên sư Trương Truyền Đạo, cần phải giải quyết ngay.

Hai cao thủ phía đối phương cũng đột ngột ra tay, cả hai cùng xoay người nhảy vọt lên, nhất tề lao về phía chưởng giáo thiên sư. Lão hói chính là nhân vật có thân phận cao nhất ở đây, cần phải trả thù cho cái chết của lão, bằng không đợi môn trưởng đến, hậu quả của bọn họ sẽ vô cùng thê thảm.

Quan Ngũ Lang, Lỗ Thịnh Nghĩa lập tức ba chân bốn cẳng chạy theo Lỗ Thiên Liễu. Du Hữu Thích và Chúc Tiết Cao khựng lại một thoáng, rồi cũng thục mạng lao đi.

"Uỳnh... uỳnh! Uỳnh... uỳnh!"

Những tiếng nổ khủng khiếp vang lên từng chặp, khiến mặt đất chao đảo, đồi núi ngả nghiêng. Chỉ có Lỗ Thiên Liễu biết được âm thanh phát ra từ đâu, chỉ có Lỗ Thiên Liễu mới đoán được thứ gì đã tạo ra âm thanh đó.

Rất đơn giản, tảng đá lớn dưới chân thác Nhạn Linh chỉ vì một vết nứt nhỏ đã nứt toác ra dưới sức nảy mầm của hạt giống. Toàn bộ vách núi xung quanh chỉ vì vết nứt toác trên tảng đá tròn, dưới tác dụng tổng hoà của dòng nước ngầm, của mưa dầm liên tiếp, của nước suối tích tụ, của đất đá sạt lở, lúc này đã bắt đầu nứt vỡ.

Dòng nước khổng lồ đầu tiên phun ra sau khi vách đá nứt vỡ chính là dòng nước đã cuốn kẻ cầm ô không đầu xuống khe sâu. Nhưng ngay sau đó, cây cối gãy đổ và đất đá vỡ vụn đã bịt kín khe núi hẹp, khiến dòng nước không thể phun ra được nữa. Một lượng nước lớn từ khắp nơi đổ về nhanh chóng tích tụ trong thung lũng có hình cục Huyền Vũ.

Khi mực nước dâng cao đến một mức độ nhất định, áp lực cực lớn của khối nước sẽ ép gãy một cột đá trong trận tám mươi tư cột cờ. Cột đá đổ xuống lại va vào cột đá khác, tạo ra hiệu ứng dây chuyền, phát ra những âm thanh vang động liên tiếp. Rất nhiều cột gãy đổ bị dòng nước đẩy đi, cùng va đập vào vách đá hai bên khe núi hẹp. Vách đá dần dần nứt toác, vỡ lở, sụp đổ, một dòng nước khổng lồ lớn gấp cả chục lần dòng nước ban đầu sầm sập đổ ra, cuốn theo cột đá, đá tảng, đất bùn, cây cối, lao thẳng về phía thị trấn.

Có những kẻ đã phải đón nhận mối nguy hiểm này sớm hơn, chính là đám cao thủ và bọn Thiên sinh sát. Đang tập trung vào cuộc huyết chiến, bọn họ đột ngột phát hiện ra bên dưới rãnh cỏ tự dưng có nước vùn vụt dâng lên, tốc độ rất nhanh, nháy mắt đã ngập đến đùi. Tất cả đều vội vã dừng tay, ngạc nhiên tìm kiếm nguồn nước.

Đột nhiên, từ trên đỉnh dốc cỏ nghìn dặm bỗng cuồn cuộn đổ xuống một bức tường nước trong suốt cuộn tròn, tựa như một chiếc cối pha lê khổng lồ, khiến người ta ngỡ rằng sông Ngân trên trời vừa vỡ đập. Ngay sau đó, ở khúc quanh phía trước rãnh cỏ ầm ào hiện ra một con sóng lớn tung bọt trắng xoá, đầu sóng đục ngầu hệt như một con quái thú, cuốn theo đất đá, cây gãy, điên cuồng lao thẳng tới. Nháy mắt, trận huyết chiến trong rãnh cỏ đã bị xối rửa sạch trơn, chỉ còn sót lại mấy kẻ bám víu vào những chỗ cao hơn đang thở hổn hển.

-Dòng lũ chuyển hướng, nơi nào đó có đất đá lở xuống bịt mất dòng lũ rồi! - Một tên Thiên sinh sát đã hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Nhưng lời vừa dứt, một quả cầu nước từ trên ập thẳng xuống đầu cuốn phăng hắn xuống rãnh cỏ, cơ thể hắn bập bềnh một lát rồi mất hút trong dòng nước xiết.

Những kẻ còn lại đều trối chết trèo lên trên rãnh cỏ, vượt qua đỉnh núi, băng qua rừng cây lúc nhúc những con thú mặt quỷ, tháo chạy về phía thị trấn vẫn chưa bị nước lũ nhấn chìm.

Đám thú mặt quỷ trong khu rừng không hề tấn công bọn họ, chúng đã phát hiện ra mối nguy hiểm khủng khiếp đã tới rất gần, tất cả đang chìm trong cơn hoảng loạn.

Quân tiếp viện của hai bên cùng tháo chạy điên cuồng, vừa chạy vừa gấp rút phát ra ám hiệu. Bọn chúng đều mong muốn lập tức gặp được người phía mình để dẫn dắt bọn chúng thoát khỏi cơn nguy cấp.

Song đám cao thủ và bọn Thiên sinh sát sau khi tiến vào trong trấn lại không gặp được người phía mình, mà ngược lại, đã phải đón đầu với một cơn lũ khủng khiếp hơn nữa. Trong thác nước khổng lồ lao đến ngay trước mặt, cuồn cuộn vô số đá vụn, cành cây, gạch ngói, xà cột, cả một đám tạp nham rối loạn đã biến dòng nước thành một cỗ máy nghiền khổng lồ. Dòng nước càng tiến thêm về phía trước, sức nghiền càng tăng lên vùn vụt, những nơi nó băng qua đều lập tức bị san bằng thành bình địa. Bọn người kia còn chưa kịp nhìn thấy nước, đã bị khối vật cứng loạn xạ đẩy đi phía trước dòng lũ nghiền nát.

Lỗ Thiên Liễu hiểu rõ, con đường sống duy nhất lúc này là phải chạy lên thật cao. Bọn họ vừa chạy lên một con đường xoáy trôn ốc dốc lên trên, nhà cửa cây cối phía sau lưng đã bị xoá sổ hoàn toàn.

Nhanh chóng leo lên những bậc đá dựng ngược, bỏ xa dòng nước lũ cuồn cuộn dưới chân, lúc này Lỗ Thiên Liễu mới chịu dừng bước. Ngoảnh đầu nhìn lại, thị trấn đã biến mất không còn tăm tích; lại quay nhìn cha và mọi người đang ở trước mắt, cô tự cảm thấy mình đã quá may mắn. Nhưng chưởng giáo thiên sư không chạy theo họ. Ông đã bị ba đại cao thủ vây giết, khó lòng thoát thân, bây giờ chỉ có thể cầu mong Tam Thanh che chở.

Trong cơn nguy hiểm, khó nhận ra sự lưu chuyển của thời gian. Chẳng mấy chốc, trời đã lờ mờ chuyển sáng, nhưng mưa vẫn không có dấu hiệu ngớt.

Dòng nước lũ vẫn tiếp tục dâng lên cao, quá nửa thung lũng Ngộ Chân đã bị nhấn chìm trong biển nước. Dòng nước đục ngầu đặc quánh như hồ chi chít xoáy lớn xoáy nhỏ, hết nuốt lại nhả từng súc gỗ, từng khối đá. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu, Quan Ngũ Lang, Du Hữu Thích đều là những tay bơi lội cừ khôi, nhưng nhìn thấy cảnh tượng này cũng phải tay chân bủn rủn. Trong dòng nước thế này, đến cá cũng chẳng có cơ hội sống sót.

Bỗng từ sau lưng họ vọng đến những tiếng "loạt xoạt", tiếp đó là thứ mùi nồng nặc của dã thú.

Nơi không có đường chính là đường chết! Lẽ nào con đường cô vừa lựa chọn lại là tử lộ có nút sống dã thú chắn đường? Trí não Lỗ Thiên Liễu lập tức vùn vụt xoay chuyển, cô biết, nếu gặp phải nút thú, tuyệt đối không được hoảng loạn. Nếu mình hành động, chúng sẽ hành động nhanh hơn; nếu không hành động, chúng cũng không dám khinh suất manh động, trừ phi nhận được mệnh lệnh.

-Đừng cử động, cũng không được nói lớn! - Lỗ Thiên Liễu khẽ nhắc nhở mọi người.

-Rất giống mùi khỉ. – Chúc Tiết Cao nói nhỏ.

-Vậy ư? Để tôi xem thử! - Lỗ Thiên Liễu vô cùng chậm rãi ngoái đầu về phía sau, đưa ánh mắt nhanh chóng lục soát trong những bụi cây rậm rạp.

-A!

Tiếng kêu khiếp đảm của Lỗ Thiên Liễu không những khiến đám Lỗ Thịnh Nghĩa giật bắn mình, mà còn kinh động đến cả nút sống thú dữ. Đó là một bộ mặt mang hình thù ác quỷ, loang lổ sắc màu, một cặp mắt tròn xoe bé tí đang nhìn chằm chằm vào cô.

-Nhìn hình dáng giống loài khỉ dữ chỉ có ở nước ngoài, còn gọi là khỉ mặt chó, nhưng cơ thể lớn hơn rất nhiều. - Lỗ Thịnh Nghĩa đi nam về bắc hiểu rộng biết nhiều, vừa nhìn thấy bộ dạng của chúng đã đoán ra được tám chín phần.

Thực ra Lỗ Thịnh Nghĩa vẫn chưa nói đúng hoàn toàn. Khỉ mặt chó hay còn gọi là sơn tiều, là loài động vật linh trưởng đã được nhắc đến ngay từ quyển "Hải nội kinh" trong trước tác "Sơn hải kinh": "Phương nam có loài thú ở đất Cám (Giang Tây), mặt người, tay dài, thân đen, mọc lông, gót chân ngược, người cười nó cũng cười, môi che kín mặt". Trong chương "Lỗ ngữ" sách "Quốc ngữ" cũng ghi: "Quái vật một chân, người Việt gọi nó là sơn tao". Những nội dung trên đều nói về loài sơn tiều, tức khỉ mặt chó. Song giống khỉ mặt chó ở đây quả thực được mang từ nước ngoài về, sau đó cao thủ nhà họ Chu tiến hành lai tạo, hình thành giống khỉ dữ với hình thể to lớn hơn, sức mạnh và tốc độ cũng vượt xa khỉ mặt chó bình thường.

-Là nút dã thú được bố trí ở đây ư? – Quan Ngũ Lang cất giọng ồm ồm hỏi.

-Không giống! Nếu như thế, tại sao nó lại giật mình trước tiếng kêu của em? Hình như nó cũng chạy trốn từ nơi nào đó đến đây. - Lỗ Thiên Liễu trả lời - Lạ thật, sao nó lại chạy lên trước chúng ta nhỉ, hay là phía trước có đường?

-Vậy mới nói! Nếu đúng là nút thực, chỉ nuôi nhõn một con ở đây, chắc là cũng chỉ biết chường bộ mặt quỷ sứ kia ra để doạ người... – Du Hữu Thích đang nói nửa chừng bỗng câm bặt, vì hắn đã phải giật bắn mình chết khiếp khi một đám mặt quỷ bỗng lũ lượt thò ra từ trong đám cây cối rậm rạp.

Đám khỉ mặt chó vừa chui ra ít nhất cũng phải tới ba bốn chục con, lốc nhốc đứng chật cả đoạn đường phía trước. Đồng thời bọn họ còn phát hiện ra rằng, tứ chi của chúng đều được lắp thêm vuốt thép. Đám vuốt thép được chế tác rất công phu, kết hợp hoàn hảo với bộ móng thật của lũ khỉ, hoạt động vô cùng linh hoạt.

Ngoài móng vuốt thép, chúng còn có bộ răng nanh thép dài và sắc nhọn. Mấy chục con khỉ mặt chó không ngừng nhe nanh múa vuốt thị uy, đám thép sắc nhọn loé ra những tia hàn quang sắc lạnh như đao.

-Xông lên! – Phương pháp ngốc nghếch của Ngu Lang có lẽ lại là phương pháp khả thi duy nhất trong lúc này.

-Đừng cử động! Bọn chúng hình như không phải muốn chặn đường chúng ta, mà chỉ muốn đuổi chúng ta đi! – Khi còn là một công tử giàu có, Du Hữu Thích đã từng nuôi khỉ, nên có thể nhận ra ý định của lũ sơn tiều - Dẹp sang bên cạnh, nhường chỗ cho chúng!

Quả nhiên, lũ khỉ mặt chó chỉ muốn bọn họ nhường lại vị trí sát mép nước cho chúng. Sau khi đã đến bên mép nước, chúng không còn thị uy nữa, mà chuyển sang trạng thái cảnh giác cao độ.

-Đi mau! Nhân lúc lũ quái vật này chưa có ý định sát hại chúng ta, hãy nhanh chóng tránh xa bọn chúng! – Suy nghĩ của Lỗ Thịnh Nghĩa rất sáng suốt, vì trong thời điểm này, trong hoàn cảnh này, lũ khỉ mặt chó với nanh thép vuốt thép kia chỉ có thể là nút thú đã được đối phương thuần dưỡng - Điểm quan trọng nhất trong việc thuần dưỡng dã thú chính là chủ nhân phải dùng tư tưởng để điều khiển được chúng, vì vậy cần phải nhanh chóng tẩu thoát trước khi kẻ điều khiển bọn chúng xuất hiện.

Bọn Lỗ Thiên Liễu lập tức trèo lên cao hơn, cố gắng tránh xa đám khỉ mặt mũi gớm guốc như quỷ sứ. Song bọn họ đã không phát hiện ra rằng, lũ khỉ đang lần lượt nối đuôi nhau thành một sợi dây thòng xuống dưới. Mà ở phía dưới, trong một chỗ lõm vào trên sườn dốc, có một người đang bò rạp, toàn thân vàng quạch như dòng nước đục ngầu đang bủa vây lấy hắn. Lũ khỉ mặt chó muốn chiếm vị trí sát mép nước chính là vì muốn cứu kẻ này.

Sau khi trèo lên một hồi lâu, bọn họ đã hoàn toàn thất vọng: phía trước không còn đường đi nữa, chỉ có một mỏm núi thẳng đứng nhô hẳn ra ngoài vách núi. Ba mặt sâu hun hút không thấy đáy, vừa nhìn xuống đã thấy hoa mắt chóng mặt. Mặt còn lại của mỏm núi, chỗ dựa sát vào vách núi có một đoạn dốc nhỏ hẹp, mặt dốc thẳng đứng và nhẵn nhụi, không dễ leo trèo lên xuống. Trên mặt dốc lại cỏ mọc dày đặc, thấm đẫm nước mưa, lúc này trơn trượt chẳng khác gì mặt băng.

-Chúng ta đã hết đường rồi! Chỉ có lũ khỉ mặt quỷ kia mới lên xuống được trên dốc núi và vực sâu ở đây thôi! - Lỗ Thiên Liễu nhất thời hết cách, xem ra chỉ còn biết chờ đợi đến khi nước rút mới có thể tìm ra cách thoát thân.

Trong khi chờ đợi, Lỗ Thiên Liễu kể cho mọi người nghe về quá trình mình đi vào thung lũng Ngộ Chân và thác Nhạn Linh. Và qua lời kể của Lỗ Thịnh Nghĩa cô cũng được biết, bọn họ bị bao vây trong trận Trăm đốt đan xen, không có cách nào để thoát thân. May nhờ có Chúc Tiết Cao lấy luôn tre trúc tại đó để đan thành một chiếc lồng co duỗi, giống như bộ khung lồng đèn có thể khép mở được. Bọn họ đẩy phần đầu chiếc lồng về phía trước, rồi di chuyển bên trong lồng cho đến phần đầu, sau đó lại thu phần phía sau lại, tiếp tục đẩy phần đầu đi. Cứ lặp đi lặp lại như vậy, mặc dù tốc độ hơi chậm, nhưng rất an toàn. Nhờ có chiếc lồng che chắn, dù có động phải nút lẫy, những cú tấn công cũng không gây tổn thương đến người bên trong.

Sau khi qua được trận Trăm đốt đan xen, Thuỷ Du Bạo đề xuất nên chia nhóm mà đi, tránh để đối phương một mẻ lưới bắt gọn tất cả, mà nếu phía nào gặp chuyện, vẫn còn lực lượng để ứng cứu. Mọi người nghe thấy có lý, nên đã tách thành hai nhóm.

Chúc Tiết Cao nhớ rằng tổ tiên từng nhắc đến một con đường men theo núi, liền dẫn Thuỷ Du Bạo đi vòng theo đường đó vào trong cục Huyền Vũ. Còn Quan Ngũ Lang và Du Hữu Thích đi theo đường thuỷ, vì thuận theo dòng nước sẽ đến được thác nước. Lỗ Thịnh Nghĩa muốn tìm Lỗ Thiên Liễu, liền một mình tiến vào trong thị trấn, phá khảm giải nút mà đi.

Nước lũ vẫn tiếp tục dâng cao, tốc độ rất nhanh, không hề có dấu hiệu dừng lại.

Đám khỉ mặt chó chắc chắn sẽ không buông tha bọn họ, vì người điều khiển chúng đã được cứu lên, vì người điều khiển chúng đã phát hiện ra Lỗ Thiên Liễu. Theo lời đồn đại thì đây chính là cô gái đã đoạt được bảo bối. Hắn không kìm được cơn phấn chấn, lập tức huýt sáo, ra lệnh cho lũ khỉ mặt chó lao lên bao vây.

Chương 15: Đến đường cùng

Mặc dù đã đụng đầu gã béo đen mấy lần, nhưng phải đến lúc này, Lỗ Thiên Liễu mới nhận ra gã có nhiều điểm trông rất giống loài khỉ mặt chó. Lúc tĩnh như tượng, lúc động như khỉ, khi di chuyển hai tay buông thõng mà đưa lủng lẳng, hệt như một con khỉ cỡ bự. Bởi vậy, cho gã điều khiển lũ khỉ mặt chó cũng là hợp tình hợp lý.

Vài chục con khỉ mặt chó đã vây kín lấy bọn họ, song chúng không lập tức tấn công. Gã béo đen đứng bên ngoài vòng vây, hai tay chắp sau lưng, vẻ vững chãi như khối núi. Gã hiểu rõ, hiện giờ cục thế đã nằm gọn trong tay gã.

-Đưa đây! – Khí thế của gã vẫn hung hãn như trong trận chiến ở Thái Hồ, lời nói cũng lặp lại y hệt. Nhưng trong mắt Lỗ Thiên Liễu, gã đã không còn được trầm ổn như lần trước. Tâm trạng rối bời và dục vọng mãnh liệt đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến trạng thái của gã.

-Nếu không đưa thì ông làm gì tôi? - Lời của Lỗ Thiên Liễu cũng giống hệt như đêm ở Thái Hồ.

-Lần này không giống lần trước! - Lời nói của gã béo vô cùng điềm tĩnh, không có một chút run rẩy, gã đã bắt đầu thích ứng, bắt đầu thu mình.

-Huyệt thạch môn ở bụng dưới không vững, quan nguyên hơi run, là ý mừng vui xung đến mạch, chắc ngươi đang rất vui mừng? – Trong tình huống nguy hiểm, tinh khí thần càng dễ dàng ngưng tụ, vì vậy Lỗ Thiên Liễu đã cảm nhận được những biến đổi rất tinh vi trên cơ thể gã béo đen.

-Ta biết, nhưng lần này tuyệt đối sẽ không có sai sót trong việc khống chế xương cốt cơ bắp, vì không cần ta phải trực tiếp ra tay! – Gã béo đen mỗi lúc càng thêm điềm tĩnh, ung dung.

-Nước đang dâng lên, tốt nhất là đường ai nấy chạy thoát thân, không nhất thiết phải cùng vào chỗ chết! - Lỗ Thiên Liễu đã có chút bất an.

-Cám ơn đã nhắc nhở ta, chắc chắn sẽ giải quyết xong xuôi mọi việc trước khi nước dâng đến đây! – Gã béo đen đã ở trong trạng thái tốt nhất để ra đòn.

Lỗ Thiên Liễu biết có nói thêm cũng chỉ bằng thừa. Kẻ địch thực thụ mà họ phải đối mặt không phải gã béo đen, mà chính là lũ khỉ mặt chó, sức mạnh của lời nói là vô dụng với chúng. Chỉ còn cách tập trung tinh thần, thủ thế sẵn sàng, chuẩn bị đón nhận đòn tấn công của bầy khỉ.

-Rốt cục thì ngươi muốn gì? – Ngũ Lang quát lên thật lớn, rồi múa tít phác đao chém về phía một con khỉ mặt chó.

-Ta muốn gì? Phải rồi, là gì nhỉ? – Gã áo đen đang chuẩn bị ra hiệu lệnh tấn công cho bầy khỉ, bất chợt ngẩn ngơ.

-Không biết ngươi cần gì, vậy làm sao ngươi có thể xác định thứ sẽ đưa cho ngươi là đúng? - Lỗ Thịnh Nghĩa nhân cơ hội chêm thêm một câu.

Một cao thủ về chém giết nhưng lại thiếu kinh nghiệm về sự gian trá trên giang hồ. Gã béo đen chính là người như vậy, vừa nãy còn điềm tĩnh vững vàng như núi, nháy mắt đã trở nên hoang mang.

Lũ khỉ mặt chó kỷ luật còn nghiêm ngặt hơn cả con người, không có mệnh lệnh, chúng tuyệt đối không hành động, thế nhưng con khỉ bị tấn công có thể phản kích. Mặc dù chỉ có một con, cũng đủ khiến Quan Ngũ Lang ứng phó đến toát mồ hôi hột. Nó có tốc độ và sức khoẻ siêu việt, lại thêm bốn bộ móng vuốt và một bộ răng nanh bằng thép sắc bén như dao, nên đòn tấn công vô cùng quái ác.

Tình cảnh chật vật của Quan Ngũ Lang đã khiến một số người nhận thức rõ hơn về tình hình trước mắt: trước lũ khỉ mặt chó kia, tuyệt đối không thể trông chờ vào may mắn. Vì vậy, chỉ còn cách tìm kiếm cơ hội ở những chỗ khác, như con dốc đứng mọc đầy cỏ dại ngay bên cạnh.

-Phải đánh liều một phen thôi. Anh Lỗ, cậu Du, hai người cố gắng cầm cự một lát! – Chúc Tiết Cao nói đoạn, lập tức chạy đến bên một bụi trúc cạnh mép vực. Không hề có một thao tác chuẩn bị nào, đã thấy dao chặt, dao pha, dao vót hoa lên như múa, cành trúc nan trúc lên xuống vùn vụt như bay.

Lỗ Thịnh Nghĩa đặt hòm gỗ xuống đất, lập tức mở toang tất cả các ngăn kéo lộ ngăn kéo chìm, để có thể kịp thời lấy ra các món vũ khí chuẩn bị phản công.

Du Hữu Thích hơi lùi lại phía sau một chút. Hắn không có những thứ vũ khí sát thương tầm xa như của Lỗ Thịnh Nghĩa, sức mạnh không bằng Quan Ngũ Lang, linh hoạt không bằng Lỗ Thiên Liễu, nên chỉ có thể làm người tiếp ứng.

Cuối cùng, một vài con khỉ mặt chó đã hết kiên nhẫn, bắt đầu gầm gừ một cách manh động, một số ít đã vươn cổ hú lên từng tiếng dài. Gã béo đen cũng đã choàng tỉnh lại từ trong cơn suy ngẫm. Gã quay nhìn dòng nước lũ đang dâng lên ở phía sau, lại nhìn Chúc Tiết Cao đang luôn chân luôn tay bên mớ trúc, dường như đã hiểu ra điều gì. Thế là cơ bắp trên khuôn mặt lập tức rùng lên một cách hung bạo, cánh tay đánh mạnh xuống dưới rồi sang ngang.

Lũ khỉ mặt chó đã hành động nhanh như chợp giật, ánh hàn quang loa loá trên vuốt thép, nanh thép vùn vụt đan xéo vào nhau thành một mạng lưới dày đặc, ào ào lao về phía mấy con người đã hết đường lui.

Người giao chiến với người sẽ chỉ ở trên một mặt phẳng, song sự tấn công của lũ khỉ lại đến từ khắp trên dưới lẫn xung quanh, cơ thể linh hoạt nhanh nhẹn cộng thêm khả năng bật nhảy cực tốt, chúng có thể xuất hiện từ bất cứ phương hướng nào. Nhưng kỳ thực đó vẫn chưa phải là phương thức tấn công ghê gớm nhất của chúng. Nếu không phải cơn lũ bất thình lình đã khiến chúng mất đi khá nhiều đồng bọn, chúng sẽ tấn công theo trận pháp có sẵn, chỉ trong nháy mắt sẽ khiến cả mấy con người phải tan tành trong một rừng nanh vuốt thép.

-A...! – Quan Ngũ Lang gầm lên một tiếng thật dài, cả cơ thể xoay tít như một con quay, tạo thành một quả cầu đao cỡ lớn.

Nhìn thấy khí thế dũng mãnh của Ngũ Lang, lũ khỉ mặt chó lập tức lùi lại, sau đó tất cả mọi hành động của chúng đều bám sát quanh mép ngoài của quả cầu, bình tĩnh tìm kiếm kẽ hở.

Lỗ Thịnh Nghĩa trước tiên bấm mở chốt lẫy trên quai hòm, từ những khe ngầm trên đường phân cắt của hòm gỗ vùn vụt bay ra những lưỡi cưa tròn to hơn đồng xu một chút. Lưỡi cưa mỏng như tờ giấy, bắn đi không một tiếng động, hướng đi rất kỳ quặc khó đoán.

Rất nhiều con khỉ mặt chó đã bị thương, song lũ khỉ bị thương không hề kêu rống hay rên rỉ lấy một tiếng. Nhưng nhìn vào dáng vẻ, có thể thấy chúng đang nổi cơn giận dữ điên cuồng. Sự giận dữ và điên cuồng câm lặng sẽ tích luỹ một sức mạnh khủng khiếp hơn gấp bội. Nếu lúc nãy chúng tấn công là vì nghe theo mệnh lệnh, thì bây giờ chúng tấn công là vì sự trả thù tự phát.

Đợt tấn công này của lũ khỉ mặt chó chớp nhoáng hơn rất nhiều, trong khi vòng xoay của Quan Ngũ Lang đã bắt đầu chậm lại. Chính vì sự tương phản đó mà trước ngực, quanh đùi, trên mặt Quan Ngũ Lang chốc lát sau đã xuất hiện rất nhiều vết rạch máu thịt toang hoác. May mà Quan Ngũ Lang vẫn giữ được khoảng cách nhất định với lũ khỉ, nếu không hẳn đã bị moi tim, móc mắt, rạch toạc bụng ngực...

Về tốc độ lấy và sử dụng các loại dụng cụ trong hòm gỗ, chẳng ai có thể so sánh được với Lỗ Thịnh Nghĩa. Vì vậy hộp mưa đinh Tý Ngọ, bào thập hình, thước gập bay, quai hòm bắn kim liên tiếp phóng đi đủ loại ám khí, mật độ dày đặc chẳng khác gì cơn mưa vẫn đang ào ào trút xuống giữa không trung.

Một vài con khỉ mặt chó đã không thể đứng lên được nữa, một vài con cuống cuồng nhảy nhót, bỏ chạy để né tránh, một vài con đã khiếp sợ lùi lại phía sau. Nhưng tất cả những phản ứng đó đều chỉ là tạm thời.

Yên lặng. Lần này tất cả lũ khỉ mặt chó đều đã yên lặng, không hề phát ra một tiếng động. Song cặp mắt của chúng đều đã ngả sang màu đỏ máu, có lẽ cơn phẫn nộ cực điểm đã khiến cho máu huyết dồn tụ lên mắt. Cũng không biết là con nào dẫn đầu, bộ móng vuốt chi trước của chúng nhất tề đập mạnh lên nền đất. Vuốt sắt gõ lên đá tảng mạnh đến toé lửa, vang lên những âm thanh chói tai nhưng rất nhịp nhàng. Sau trận gõ đập đều đặn mà hung tợn này, sẽ là màn sát phạt liều mạng của chúng.

Quan Ngũ Lang đã không thể gắng gượng thêm được nữa. Nếu không phải nhờ Lỗ Thiên Liễu đứng phía sau dùng Phi nhứ bạc liên tiếp tập kích và quấy rối đám khỉ, hẳn anh ta đã bị nanh vuốt của chúng xé thành từng mảnh. Cho dù như vậy, những vết thương mới vẫn không ngừng xuất hiện trên cơ thể Ngũ Lang, quần áo của anh ta cũng đã tả tơi như mớ giẻ.

Vũ khí trong hòm gỗ của Lỗ Thịnh Nghĩa đã dùng hết sạch, chỉ còn lại vài thứ túi giấy, cuộn dây, hộp mực. Du Hữu Thích ở phía sau vội nhặt lấy hai cục đá, chuẩn bị quăng đi. Hắn chỉ có thể giúp được có vậy.

-Xong rồi! – Chúc Tiết Cao hào hứng kêu toáng lên.

Mọi người vội quay đầu lại nhìn, thấy Chúc Tiết Cao đã kịp đan xong một chiếc sọt đế bằng với viền mép thô dày, to kềnh như một con thuyền nhỏ. Chiếc sọt được đặt lên mép con dốc cỏ, có đến non nửa đã thò ra ngoài đỉnh dốc.

-Cô Lỗ, cậu Du, hai người lên đi! – Chúc Tiết Cao nói xong, chủ động thay thế vị trí của Du Hữu Thích.

-Không được, tôi phải kéo anh Ngũ lại đã! - Lỗ Thiên Liễu không nỡ bỏ lại Quan Ngũ Lang lúc này đang đón đỡ chật vật, khắp mình máu thịt tả tơi.

-Để ta! - Lỗ Thịnh Nghĩa cầm hộp dây mực lên – Ngũ Lang, ngắm chuẩn vị trí cửa, rút xà dỡ cột!

Sợi dây mực bay vọt ra khỏi hộp mực, phần đầu hình chim sẻ bằng đồng bay vòng theo hình cánh cung, trói chặt lấy hai con khỉ mặt chó đang chặn mất đường lui của Ngũ Lang. Quan Ngũ Lang tranh thủ cơ hội, chém ngang phác đao, tung người nhảy về phía sau. Nhưng mới chạy được bốn năm bước, đã bị con khỉ ở bên cạnh đuổi kịp, bộ vuốt đã chụp cứng lấy bắp chân.

Chúc Tiết Cao lập tức lao xuống, muốn cứu lấy Quan Ngũ Lang trước khi lũ khỉ mặt chó đang gõ đập đất đá chồm lên tấn công.

Lũ khỉ mặt chó phẫn nộ đã hành động, sức mạnh của chúng đã tích luỹ đến cực độ. Gã béo đen cũng đã hành động, tốc độ còn chóng mặt hơn cả lũ khỉ.

Chúc Tiết Cao muốn lui cũng không được nữa, đà lao xuống đã không thể hãm lại, đành phải dứt khoát lao tới bên cạnh Quan Ngũ Lang, thuận thế vung đao chém phăng cánh tay khỉ đang bám chặt lấy bắp chân anh ta.

Sợi Phi nhứ bạc trên tay Lỗ Thiên Liễu lại được phóng ra, quấn chặt lấy cán phác đao của Quan Ngũ Lang. Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích cùng vận lực giật mạnh sợi xích, Quan Ngũ Lang bị kéo bật lại, rơi thẳng vào trong sọt tre.

Nhưng lúc này Chúc Tiết Cao đã không thể thoát thân, gã bị một đám khỉ mặt chó bao vây kín mít.

Chúc Tiết Cao lại chém tiếp một đao, nhanh như chớp giật, thế tựa gió lốc. Tiếng nứt vỡ vang lên, kèm theo một tiếng rú thảm thiết, nhát dao đã chém gãy bộ móng thép của con khỉ, rồi cả cánh tay của nó cũng rơi phịch xuống đất. Thật khó tưởng tượng con dao đốn trúc của Chúc Tiết Cao lại có thể ra đòn mạnh mẽ hơn thanh phác đao của Ngũ Lang gấp bội. Đó chính là lực đạo tự nhiên được luyện thành nhờ việc lặp đi lặp lại một động tác trong một thời gian rất lâu dài.

Nhưng Chúc Tiết Cao ra đòn tuy vô cùng uy mãnh, song thu thế lại có phần chậm chạp, đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa người thợ và người luyện võ. Thế dao của người thợ thông thường chỉ cần dốc toàn lực để chặt đứt, chém vỡ đồ vật, một lần không được, có thể tiếp tục lấy sức lặp lại lần tiếp theo, không cần thiết phải nhanh chóng thu đao.

Vì vậy khi Chúc Tiết Cao thu dao về, chém tiếp nhát thứ hai, vẫn là một nhát dao sấm sét, nhưng đã chém hụt. Trong lúc đó, một bộ vuốt thép đã rạch ngang lưng gã, bóc phăng một mảng da thịt.

Chúc Tiết Cao rú lên một tiếng khủng khiếp.

-Anh Lỗ! Đừng đi!

-Cha, không được đi!

Lỗ Thịnh Nghĩa vừa đột ngột xách hòm gỗ lên lao thẳng xuống, cả Du Hữu Thích và Lỗ Thiên Liễu đều không kịp ngăn cản.

Lỗ Thịnh Nghĩa lao thẳng vào gã béo đen. Muốn bắt giặc phải bắt chúa, suy nghĩ tuy chính xác, nhưng ông lại không biết tự lượng sức mình. Hơn nữa muốn giáp mặt với gã béo đen, trước tiên phải vượt qua lũ khỉ mặt chó đang trong cơn hung hãn cực độ.

Lũ khỉ mặt chó lập tức lao cả lại, Lỗ Thịnh Nghĩa ném liên tiếp mấy bọc giấy về phía chúng. Trong bọc giấy chính là thứ bột sặc ông từng dùng để phá Tạc quỷ hào trong khu vườn Cô Tô. Khỉ mặt chó tung vuốt cào xé, bọc giấy liền rách nát, bột sặc bay mù mịt. Loại bột sặc được làm từ hỗn hợp bột ớt, bọt cỏ vô thiệt, bột tiêu thạch, bột phấn hoa mạn đà la, bột giấm, đến thần tiên cũng không thể chịu nổi. Thế là một số con khỉ mặt chó không nhìn thấy gì nữa, một số con ho sặc sụa, một số con đứng tại chỗ điên cuồng cào cắn. Nhưng những con ở phía sau không bị bột sặc bay phải vẫn tiếp tục lao lên. Đám khỉ mặt chó bỗng chốc rối loạn thành một đám.

Gã béo đen đột nhiên di chuyển, mục đích rất rõ ràng, đó là giết Chúc Tiết Cao, sau đó dẫn lũ khỉ đang bao vây Chúc Tiết Cao đến tấn công Lỗ Thiên Liễu. Gã đã nhận ra bọn họ đang có ý đồ dùng chiếc sọt để trượt xuống con dốc đứng, nếu không phải sợ Lỗ Thiên Liễu, hắn đã lao thẳng đến từ lâu rồi.

"Vù!"

Có một thứ lao vụt qua đám bột sặc và lũ khỉ mặt chó, phóng thẳng về phía gã béo đen. Đó chính là chiếc rìu giắt ngang hông Lỗ Thịnh Nghĩa.

Gã béo đen chỉ khẽ phẩy tay, chiếc rìu lập tức rơi thẳng xuống dòng nước lũ cuồn cuộn phía dưới. Tay vừa gạt chiếc rìu, gã liền hú lên một tiếng quái dị, đám khỉ mặt chó đang bao vây Chúc Tiết Cao lập tức bỏ lại gã thợ đan, cùng lao thẳng về phía chiếc sọt bên phía Lỗ Thiên Liễu, để lại Chúc Tiết Cao cho gã béo đen.

-Đi mau, mặc kệ bọn tôi! – Chúc Tiết Cao hét lên với Lỗ Thiên Liễu.

Bột sặc của Lỗ Thịnh Nghĩa không được phát huy tác dụng tối đa, vì trời đang mưa lớn, lại thêm mưa liên tiếp nhiều ngày đã khiến bột sặc bị ẩm. Vì vậy, lũ khỉ mặt chó vừa bị cay mắt, ho sặc đều nhanh chóng hồi phục. Cả bọn khỉ mặt chó đang trong cơn điên cuồng cực điểm vây quanh Lỗ Thịnh Nghĩa tầng tầng lớp lớp, như chỉ muốn cào xé tan nát cơ thể ông ngay tức khắc.

-Đi mau! – Đây chính là tiếng thét cuối cùng của Lỗ Thịnh Nghĩa. Tiếng thét đã chấn động đến tận tâm khảm Lỗ Thiên Liễu, khiến cô nghiên chặt hai hàm răng mà hạ quyết tâm. Cô bám chặt hai tay vào mép sọt, vận hết sức lực đẩy chiếc sọt nhích xuống dốc từng chút một.

Lỗ Thịnh Nghĩa dang rộng hai tay, ngửa mặt lên trời, như muốn ôm thứ gì vào lồng ngực. Thế nhưng lồng ngực ông chớp mắt đã vỡ tan tành, máu tươi bắn vọt trong không trung như muốn đọ sức với cơn mưa, muốn kháng lại ý trời.

Cùng lúc đó, rất nhiều khỉ mặt chó cũng tan tành xác pháo. Những con chưa thành thịt băm cũng thương tích đầy mình.

Trong thời khắc cuối cùng đó, Lỗ Thịnh Nghĩa đã lôi ra tám quả nón bằng sắt giấu ở đáy hòm, dứt khoát rút phăng sợi dây đang buộc giữ chốt lẫy. Đó là tám quả nón bằng sắt lấy được ở rừng lãnh sam, tổng cộng có đến vài trăm vảy thép, đồng loạt bắn ra như một trận mưa dày đặc.

Nước mưa của trời có thể cuốn trôi rất nhiều thứ, nhưng sau khi đợt mưa máu dội xuống, mùi máu tanh vẫn xộc lên nồng nặc khiến người ta phải ghê rợn tận đáy lòng. Những con khỉ mặt chó chưa bị thương nhất thời khiếp đảm đứng sững như trời trồng, không dám nhúc nhích.

Gã béo đen vừa vòng qua lũ khỉ cũng nằm trong phạm vi tàn sát của quả nón sắt, bị nhiều vảy sắt bắn trúng cánh tay, mạng sườn, rạch rách cả mặt. Trên vảy sắt có rãnh hình ngạnh, khiến vết thương máu chảy như trút, máu lẫn nước mưa nhanh chóng nhuốm đỏ loè cả nửa bên cơ thể.

Chúc Tiết Cao sững sờ một lát, rồi lập tức dùng hết sức bình sinh lao về phía chiếc sọt. Song bước chân vừa đưa đến mép sọt, đã bị một âm thanh nặng nề cản lại, không thể nhích thêm được một ly nào nữa. Sắc mặt gã chớp mắt đã ngả màu tím tái, huyết quản xanh mét nổi lên ngang dọc tựa rễ cây.

Gã béo đen vừa đuổi tới sau lưng không ngờ được rằng cú đấm dốc toàn lực của gã lại không thể khiến Chúc Tiết Cao ngã xuống. Nhưng nhìn vào sự lưu chuyển của luồng khí trong người, gã lập tức ý thức được rằng cánh tay gã đã bị miếng vẩy sắt bắn trúng, tổn thương đến kinh mạch, nên không thể thi triển toàn bộ sức mạnh.

"Bụp!", gã béo đen lại quai thêm một quả đám thứ hai vào giữa lưng Chúc Tiết Cao. Từ miệng gã thợ đan vọt ra một vòi máu lớn, nhưng thân người vẫn không ngã xuống. Không những không ngã, gã còn lợi dụng lực đạo của cú đấm, cộng thêm tất cả sức lực còn lại trong cơ thể, để đẩy mạnh bàn chân đang giẫm trên mép sọt đi. Chiếc sọt lập tức trôi tuột xuống con dốc đứng.

Vào khoảnh khắc chiếc sọt trôi đi, có hai con khỉ mặt chó tung mình nhảy vọt lên, lao thẳng về phía chiếc sọt. Lỗ Thiên Liễu lập tức phóng vụt Phi nhứ bạc đi, quả cầu thép đánh trúng mắt một con, khiến nó đau đớn mà nhảy lộn trở về đỉnh dốc. Con còn lại bị Du Hữu Thích dùng Nga Mi thích đâm trúng yết hầu, cơ thể rơi đánh huỵch xuống sườn dốc, trôi theo chiếc sọt một đoạn mới dừng lại.

Chiếc sọt đã trượt thẳng xuống dưới, lũ khỉ mặt chó đã không ngăn cản thành công, điều này khiến gã béo đen còn giận dữ hơn cả lũ khỉ điên cuồng. Gã vận hết sức lực vào cánh tay trái không bị thương, rồi đánh ra một quyền thật mạnh, giáng thẳng vào giữa lưng Chúc Tiết Cao.

Chúc Tiết Cao bật tung lên không trung, máu miệng phun ra tung toé, cơ thể xoay tít mấy vòng, chưa kịp rơi xuống vách núi đã biến thành xác chết. Một chưởng của gã béo đen đã phá nát toàn bộ lục phủ ngũ tạng thất kinh bát mạch của Chúc Tiết Cao.

Chúc Tiết Cao đã biết trước vẫn còn có một cú đấm thứ ba. Sau khi chiếc sọt đã trượt xuống, cái chết của gã sẽ trở thành mục tiêu duy nhất của đối phương. Song gã không né tránh, cũng không có khả năng né tránh. Tránh một quyền này khó hơn rất nhiều so với việc dỡ bó lạt tre quanh lưng, cũng khó hơn rất nhiều so với việc rút lấy một sợi nan từ trong đó ra một đoạn.

Mặc dù cú đấm thứ ba đến chậm hơn một chút so với dự đoán, nhưng lực đạo lại mạnh gấp mấy lần. Chúc Tiết Cao mới chỉ bắt đầu động tác đầu tiên, song lực đạo của cú đấm đã đủ để giúp cơ thể đã chết hoàn thành toàn bộ chuỗi động tác.

Thi thể xoay tròn mấy vòng trên không, bó lạt tre quấn quanh lưng Chúc Tiết Cao lập tức bung xoè. Khi một vệt vàng kim lướt qua trước mặt gã béo đen, bỗng dưng có một thanh lạt tre bật ra. Thanh lạt tre mảnh mai mềm mướt như một tia nước, lướt qua cần cổ ngắn ngủi thô kệch của gã. Khi thân xác Chúc Tiết Cao rơi xuống vực sâu, cái đầu của gã béo đen cũng lìa khỏi cổ.

Lũ khỉ mặt chó phản ứng vô cùng mau lẹ, thấy chủ nhân vừa đánh rơi thứ gì đó, lập tức nhảy lao tới nhặt. Cặp mắt gã béo đen trợn trừng đảo lại, liếc qua bộ mặt như quỷ dữ của lũ khỉ, rồi lại liếc sang cái xác không đầu của mình vẫn đứng trơ trơ, sau đó im lìm không chuyển động nữa.

Chương 16: Thoát đường nào

Chiếc sọt trúc chở theo ba người Lỗ Thiên Liễu, Quan Ngũ Lang, Du Hữu Thích trượt thẳng xuống con dốc cỏ, càng trượt càng nhanh, đã nghe tiếng gió vùn vụt bên tai, tựa như đang bay lượn giữa trời. Trượt xuống theo một độ dốc lớn như vậy, quả thực vô cùng nguy hiểm, chỉ cần sơ suất một chút là có thể lật nhào. May mà chiếc sọt do Chúc Tiết Cao đan có độ rộng hẹp thích hợp, đáy rộng mép nặng, lại thêm Du Hữu Thích là một cao thủ chèo thuyền, nên vẫn có thể giữ được cân bằng.

Đoạn dốc cỏ mà họ đang trượt xuống có lẽ là một đoạn của dốc cỏ trăm dặm, vì vậy khi chiếc sọt còn chưa trượt xuống đến chân dốc, Du Hữu Thích đã phát hiện ra phía bên trái có một con dốc cỏ khác nối liền, bèn điều chỉnh lại hướng trượt của chiếc sọt, tiếp tục tăng tốc lao xuống. Nhưng sau đó, hướng trượt của chiếc sọt không còn khống chế nổi nữa, mỗi khi đến chỗ ngoặt, đều là do chiếc sọt tự rẽ theo.

Do cảm giác mất trọng lượng khi trượt xuống với tốc độ quá nhanh, nên trái tim của Lỗ Thiên Liễu luôn thót cứng lại; cũng vì khiếp sợ trước muôn mối nguy hiểm chưa biết rõ, lại càng vì đau đớn trước cái chết của cha. Cô nhắm nghiền hai con mắt đã nhạt nhoà, hai bàn tay bám cứng lấy mép sọt, khiến dằm nhọn cật sắc cứa rách da tay, máu chảy đầm đìa. Máu này vì cha mà chảy, món nợ này nhất định phải trả bằng máu của họ Chu.

Chiếc sọt tre trượt với tốc độ cao trên dốc cỏ kéo dài, thời gian trượt quá lâu sẽ khiến phần đế của nó nhanh chóng bị mài mòn. Mặc dù nó được đan hai lớp đáy, lại có nước mưa giảm nhiệt độ ma sát, nhưng vẫn không thể trượt quá lâu, có thể bung đáy bất cứ lúc nào.

Trong trận chiến với khỉ mặt chó, Quan Ngũ Lang mất quá nhiều máu, giờ đã chìm vào hôn mê. Nếu không kịp thời cứu chữa và băng bó, rất có thể anh ta sẽ phải bỏ mạng ngay trên chiếc sọt.

Hơn nữa, đường trượt của chiếc sọt liệu có gặp phải dòng nước lũ? Và bằng cách nào mới có thể khiến nó dừng lại an toàn?

Phía trước là một đoạn dốc ngược lên trên, vì vậy chiếc sọt đã chuyển hướng lao vào một khe cỏ ở bên cạnh, lướt băng băng qua lòng khe vẫn đọng đầy nước và bùn đất. Đá vụn, cát sỏi trong bùn càng khiến đáy sọt bị mài mòn nhanh hơn, phần đáy đã rách toang, nước nhanh chóng tràn vào bên trong. Cơ thể Quan Ngũ Lang đã chìm trong nước, đất đá bắn lên từ chỗ vỡ găm cả vào da thịt.

May mà khe cỏ rất ngắn, cuối khe cỏ là đường cụt. Chiếc sọt tre bay vọt lên không trung, rồi rơi thẳng xuống dưới mười mấy trượng trong tiếng rú thất thanh của Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích.

Một tiếng va đập rất lớn, tiếp đó là một bức màn đục ngầu bắn vọt bốn xung quanh. Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích bám thật chặt lấy mép xoắn của chiếc sọt, mặc dù phản lực của cú va đập khiến cơ thể họ bắn tung lên, nhưng vẫn rơi được vào trong sọt. Song Quan Ngũ Lang đang nằm hôn mê trong sọt đã bị văng thẳng ra ngoài, Du Hữu Thích muốn kéo lại cũng không kịp nữa.

Chiếc sọt đã rơi trên một lớp bùn loãng rất dày, tựa như một mặt đầm lầy. Cũng chính nhờ có bùn loãng làm giảm lực va đập nên ba người họ mới không bị quật chết. Cũng chính vì lớp bùn quá dày và loãng, nên Quan Ngũ Lang lập tức chìm nghỉm, không còn thấy tăm hơi.

-Rơi đâu mất rồi, mau kéo lên, nếu không cậu ta sẽ chết sặc! – Du Hữu Thích cuống quýt kêu lên, nhưng không dám trèo ra khỏi chiếc sọt để đi mò vớt. Trên mặt bùn loãng, dù là cao thủ sông nước cũng vẫn phải bó tay.

Lỗ Thiên Liễu lập tức điều chỉnh lại tinh thần, ngưng thần tụ khí, dùng ba giác nhạy bén mau chóng tìm tòi trên mặt bùn loãng.

-Ở đây! - Lỗ Thiên Liễu vừa nói vừa phóng Phi nhứ bạc đi, quấn chặt lấy tay trái của Du Hữu Thích, còn mình thì nhảy vọt ra ngoài, ngã ngang người trên mặt bùn, rồi thò tay xuống kéo lên một cánh tay vạm vỡ.

Du Hữu Thích lập tức kéo Phi nhứ bạc lại, lôi Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang lên chiếc sọt tre, giống như đang kéo hai pho tượng đắp bằng bùn vàng quạch.

Được kéo lên sọt, Ngũ Lang lập tức vừa ho vừa hắt hơi thật mạnh, khiến bùn nhão trong mũi miệng văng hết ra ngoài. Từ hơi thở mạnh gấp của anh ta, có thể biết rằng tính mạng tạm thời vẫn chưa đến nỗi nguy cấp.

Quan Ngũ Lang không sao, Lỗ Thiên Liễu liền bắt đầu quan sát xung quanh. Bên cạnh họ có vô số xác chết, cái thì bị bọc kín trong lớp bùn vàng quánh, cái thì bị va đập đến tan thành từng mảnh, cái thì bị ngâm nước đến trương phềnh.

-Dường như có cơn lũ vừa băng qua đây, để lại xác chết và bùn tích đọng. – Du Hữu Thích đã từng chứng kiến thảm cảnh sau khi nước lũ quét qua, rất giống với cảnh tượng ở đây.

Lỗ Thiên Liễu chỉ gật đầu mà không lên tiếng, mau chóng đứa ánh mắt về phía xa. Cô phát hiện ra lúc này ba người họ đang ở trong một khe cỏ sâu hơn và rộng hơn lúc nãy, tất cả cây cối đá tảng trong khe đều dạt cả về một hướng, chắc chắn là nước lũ vừa mới quét qua. Nhìn về hướng nước lũ chạy đến, thấy cây cối, đất đá, gạch ngói chồng chất thành một khối cao lừng lững, tựa như một con đập khổng lồ chặn cứng lấy khe cỏ.

-Ở đây bùn loãng dày quá, làm thế nào mới vào được bờ đây? – Câu hỏi của Du Hữu Thích rất thực tế, bọn họ cần nhanh chóng tìm ra cách tạt vào rìa khe.

Nhưng chỉ với ba người trên sọt tre thì không thể giải quyết được vấn đề này, chỉ có thể chờ người cứu viện hoặc kỳ tích xuất hiện.

Mưa lại đổ xuống rào rào, lớp bùn càng lúc càng loãng, chiếc sọt càng chìm xuống nhanh hơn. Con đập được tạo thành từ cành gãy đá vụn đã bắt đầu có nước rỉ qua, mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một gấp.

-Không xong rồi! Bên kia đống đổ nát đang tích nước, nếu nó bị phá vỡ, hoặc nước lũ tràn qua, chúng ta sẽ chết chắc! - Lỗ Thiên Liễu nói rất chính xác, nhưng bọn họ lại không có cách nào thoát thân, chẳng khác nào đám tử tù đang chờ xử quyết.

Song kỳ tích đã thực sự xuất hiện. Một bộ vuốt sắt bỗng từ trên trời rơi xuống, phía trên nối liền với một sợi dây thừng bện từ sợi cỏ lau cứng theo kiểu hoa liền nhiều múi, có tính đàn hồi rất tốt, có thể lợi dụng kết cấu hoa liền nhiều múi để khống chế phương hướng và độ lớn nhỏ của lực đạo, là một dụng cụ tuyệt hảo, dùng công dụng bổ sung cho kỹ xảo.

Bộ vuốt thép đã chụp lấy mép sọt tre, sợi dây thừng lắc khẽ, bộ vuốt lập tức quặp chặt lấy mép sọt. Sau đó sợi dây được kéo căng, từ từ lôi chiếc sọt vào một bên khe cỏ.

-Là ròng rọc, phía trên có tiếng động của ròng rọc! - Mặc dù Lỗ Thiên Liễu không nhìn thấy tình hình phía trên khe, nhưng thính giác nhạy bén đã nhanh chóng nhận ra âm thanh kéo ròng rọc.

Chiếc sọt tre được kéo chầm chậm lên trên men theo vách khe. Nhưng thứ mà Lỗ Thiên Liễu nhìn thấy đầu tiên không phải là ròng rọc, mà là một chiếc ô giấy dầu màu vàng. Người cầm ô đứng bên cạnh ròng rọc, đang dùng một tay để xoay tay quay. Mặc dù ròng rọc là một công cụ có tác dụng tiết kiệm sức lực, nhưng chỉ với một tay đã kéo được ba con người lên khỏi vách khe dốc đứng, sức mạnh của kẻ này chắc hẳn phải ngang ngửa quỷ thần.

Lỗ Thiên Liễu vừa nhìn thấy chiếc ô, đã biết ngay phía trên chính là kẻ không đầu. Một kẻ không có đầu liệu có thể nói năng được hay không?

Chiếc sọt tre được kéo lên lưng chừng vách khe thì dừng lại, từ phía sau chiếc ô vang lên một giọng nói the thé, nghe như giọng của đứa bé gái chưa kịp trưởng thành, hoàn toàn không tương xứng với cơ thể cao to lực lưỡng.

-Quăng thứ đó lên đây, nếu không sẽ thả các người xuống!

Lời nói đầy vẻ uy hiếp, vì lúc này con đập đắp từ gạch đá cành cây dưới khe cỏ đang rung lên bần bật, những tảng đá, thân cây phía trên cùng đã rào rào lăn xuống, phần chân "đập" đang dịch chuyển, xem ra đống đổ nát này sắp vỡ đến nơi. Nếu lúc này lại rơi xuống dưới, không bị nghiền nát cũng sẽ bị dìm chết.

-Nghe thấy chưa? Đưa nó cho ta! - Giọng nói càng the thé đến chói tai. Người trong sọt không nói chuyện cũng không nhúc nhích. Ròng rọc lập tức xoay vùn vụt, khiến chiếc sọt trượt đánh vèo xuống dưới, chớp mắt đã gần đến đáy khe, rồi đột ngột khựng lại.

Đám Lỗ Thiên Liễu thậm chí không kịp kêu lên một tiếng, toàn bộ quá trình tựa như một cú rơi tự do trong chớp mắt.

Từ trong đống đổ nát vọt ra một tia nước chênh chếch, phun xéo lên chiếc sọt. Trong những giọt nước bắn lên người mình, Lỗ Thiên Liễu đã ngửi thấy mùi bùn tanh, mùi máu tanh và cả mùi rữa nát. Thứ mùi hỗn độn này thường chỉ xuất hiện trên những xác chết đã chôn khá lâu, điều này khiến Lỗ Thiên Liễu cảm thấy mình đã cận kề cái chết.

-Đưa nó cho ta, ta sẽ kéo các ngươi lên. Nếu không, sẽ chết!

Lời nói như kiểu doạ dẫm lừa bịp trẻ con, chỉ có ở loại người thiếu kinh nghiệm giang hồ.

-Được thôi! Hãy kéo gần lên đỉnh dốc, vật này quá nhỏ không thể ném xa! - Lỗ Thiên Liễu cũng đang lừa bịp, và cũng chỉ có hạng người thiếu kinh nghiệm giang hồ như kẻ kia mới dễ dàng bị mắc lừa giống như một đứa trẻ ranh.

Du Hữu Thích là một tay giang hồ lão luyện, hắn không biết kế hoạch của Lỗ Thiên Liễu, song biết được mục đích của cô. Hắn ngậm cây Nga Mi thích còn sót lại vào trong miệng, hai tay bám chặt lấy sợi dây thừng buộc trên bộ vuốt, sẵn sàng túm lấy trèo lên trên.

Lỗ Thiên Liễu đang tìm một vị trí thích hợp, vị trí đó đương nhiên càng gần đỉnh càng tốt. Chỉ cần tìm được chỗ quấn Phi nhứ bạc, bọn họ sẽ có cơ hội liều mạng với gã cao thủ kia.

Nhưng kế hoạch đã không như ý muốn. Chiếc sọt đột nhiên dừng lại, và dao động rất mạnh với biên độ rất lớn.

Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích chỉ có thể bám chặt lấy thành sọt, đồng thời phải giữ chặt Quan Ngũ Lang đang bị hôn mê, không để anh ta văng xuống đáy khe.

Từ phía trên khe vọng xuống tiếng xô xát kịch liệt, còn lờ mờ thấy bóng người đang nhảy qua nhảy lại bên chiếc ròng rọc. Rõ ràng đang có người đánh nhau với gã cầm ô để đoạt lấy ròng rọc.

Du Hữu Thích ra hiệu cho Lỗ Thiên Liễu giữ chắc Quan Ngũ Lang, còn mình bám lấy sợi dây thừng đang rung lắc dữ dội, chật vật leo lên.

Du Hữu Thích nhích gần đến mép khe, và hắn đã nhìn thấy người đang giao chiến với gã không đầu chính là Chu thiên sư. Chu thiên sư quả nhiên là một cao thủ đáng gờm, không hề kém cạnh so với gã không đầu. Thế nhưng do chiêu pháp tấn công của Chu thiên sư là "luyện chiêu", nói cách khác chính là chiêu "xuân" trong chiêu pháp xuân thu, quy củ nghiêm ngặt, nhờ khổ luyện mà thành. Còn chiêu pháp của gã không đầu lại là "sát chiêu", cũng chính là chiêu "thu", được luyện thành thông qua thực tế chém giết. Vì vậy mặc dù kẻ không đầu phải chừa lại một tay để giữ tay nắm ròng rọc, nhưng Chu thiên sư vẫn không thể làm gì trước sát chiêu hung tàn của hắn.

Du Hữu Thích chần chừ một lát, cân nhắc xem có nên trèo lên ngay hay không. Nếu ngồi quan sát hai hổ đánh nhau, thì vị trí có hơi nguy hiểm; còn trèo lên trên, lại sợ hai người kia ra tay hạ sát mình trước.

Chỉ trong khoảnh khắc chần chừ, chiếc ròng rọc phía trên bỗng phát ra một tiếng nổ vỡ dữ dội, cả Du Hữu Thích, Lỗ Thiên Liễu, chiếc sọt và Quan Ngũ Lang đang nằm trong sọt lập tức rơi thẳng xuống, tốc độ còn nhanh hơn cả lần trước.

Có lẽ ông trời vẫn chưa muốn cho họ chết, gióng ngang của chiếc ròng rọc đã bị kẹt lại bên bờ vách, nên chiếc sọt tre không bị rơi xuống tận đáy. Nó còn cách lớp bùn loãng khoảng hai thân người.

Du Hữu Thích đang trên đà rơi thẳng xuống, ròng rọc bất thình lình kẹt lại, khiến hắn trượt đi một đoạn dài trên sợi dây thừng, lòng bàn tay rát bỏng như thiêu, máu tươi bắn toé, cơ thể lại bị va đập vào những mỏm đá nhô ra trên vách đến đầu váng mắt hoa. Nhưng chính trong quá trình trượt xuống, Du Hữu Thích đã lờ mờ nhìn thấy một thứ, một thứ vô cùng quen thuộc.

-Đằng kia! Ở đằng kia! Chúng ta sẽ đu qua đó! – Sau khi xác nhận chính xác, Du Hữu Thích lập tức trở nên hưng phấn khác thường.

-Lắc mạnh vào! – Du Hữu Thích đang lắc thật mạnh, mục đích của hắn là vượt qua đám bùn loãng ở phía dưới để đu đến một đám cỏ xanh rậm rạp cách đó khá xa. Lỗ Thiên Liễu cũng gắng hết sức để đu lắc. Cô không hỏi lý do, trong tình cảnh này, có thể mục tiêu của Du Hữu Thích là hy vọng sống sót duy nhất.

"Ào!"

Tựa như nước đầy thùng tràn trề ra khỏi mép, từ phía trên con đập lổn nhổn gỗ đá vọt ra một màn bọt nước mịt mờ. Bọt nước lao xuống, đánh mạnh vào chiếc sọt khiến gióng ngang đang mắc kẹt phía trên không thể chống chọi nổi, lập tức gãy rời. Luồng nước đẩy văng chiếc sọt đi, rơi thẳng vào trong bãi cỏ rậm rạp.

-Đúng chỗ này rồi! Ha ha! Ái chà! Ha ha ha! – Du Hữu Thích mặc dù đau đến mặt mày biến dạng, song nỗi vui mừng đã át hẳn mọi nỗi đau đớn.

-Là nó! – Lỗ Thiên Liễu cũng mừng rỡ reo lên. Cô đã nhìn thấy chiếc thuyền đồng của Du Hữu Thích ở trong bụi cỏ.

Trước khi tiến vào thung lũng Ngộ Chân, Chúc Tiết Cao đã bảo Du Hữu Thích lăn con thuyền đồng xuống rãnh cỏ, không ngờ bây giờ nó lại trở thành báu vật cứu mạng. Chẳng lẽ Chúc Tiết Cao có tài tiên tri? Không phải! Mà vì rãnh cỏ này là đường xả lũ chính, là nơi tập trung của các dòng chảy bất ngờ từ trong núi. Gã dự tính rằng lúc trở ra, nếu rãnh có nước, có thể chèo thuyền để tẩu thoát.

Lúc này trong rãnh cỏ đã có nước, mặc dù không sâu, nhưng đã đủ để nâng chiếc thuyền đồng nổi lên, trôi theo dòng nước. Có điều lúc này sức đẩy của dòng nước còn quá nhỏ, không thể nhanh chóng thoát khỏi dòng nước lũ. Du Hữu Thích tìm khắp xung quanh nhưng không thấy mái chèo và sào chống, chỉ có thể bám vào cỏ ở hai bên để tiến lên phía trước.

Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích cùng bám kéo vào bờ cỏ rậm như phát cuồng, mặc cho lá cỏ răng cưa cứa vào lòng bàn tay đến toạc da rách thịt, máu nhỏ tí tách xuống mặt nước vàng đục thành vô số đốm đỏ loang.

Chiếc thuyền đồng đã di chuyển về phía trước được một đoạn, nhưng những tảng đá lớn trên đỉnh của con đập đã bắt đầu lăn xuống. Con sóng dềnh lên sau khi tảng đá đầu tiên rơi xuống suýt chút nữa đã khiến con thuyền lật nhào. Tảng đá thứ hai đập trúng phần đuôi của con thuyền, phát lên tiếng kêu vang dội như chuông.

Nhưng cũng may là cú va đập của tảng đá thứ hai đã đẩy con thuyền đồng văng về phía trước một đoạn xa, giúp nó thoát khỏi phạm vi rơi đổ của đá tảng và cây lớn. Phần đuôi thuyền bị lõm vào một mảng lớn, cũng may đây là chiếc thuyền đồng kiên cố độc nhất vô nhị của Du Hữu Thích, nếu đổi lại là thuyền gỗ thông thường, hậu quả thực không dám tưởng tượng.

Con đập không sụp đổ hoàn toàn, mà trước tiên chỉ bị lở ra một khoảng ở trên đỉnh. Một dòng nước lớn phun thẳng từ trên xuống, sau khi rơi xuống đáy khe đã tạo thành một dòng nước cực kỳ mãnh liệt, khiến con thuyền đồng như cá gặp nước, bay vọt đi trước đầu ngọn sóng.

Mặc dù đã thoát khỏi nguy hiểm, nhưng Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa thể thở phào. Lúc này cô đang ngưng thần tụ khí, dùng ba giác nhạy bén tìm kiếm trong những cảnh tượng xung quanh đang vùn vụt trôi qua. Vì cô lờ mờ cảm giác ra rằng, trong cõi vô hình, có thứ gì đó đang vẫy gọi cô, đang dẫn dắt cô...

Trên một bên rãnh cỏ, có rất nhiều thân hình đang nhảy nhót mà lao đi vùn vụt, đuổi sát theo con thuyền, không chịu buông tha. Trong đó, thân hình quen thuộc nhất là của Chu thiên sư, và lao đi gần như song song với ông ta chính là chiếc ô giấy dầu vàng khè rất dễ nhận.

Tốc độ của con thuyền càng lúc càng thêm chóng mặt, mực nước trong rãnh cỏ cũng dâng lên nhanh chóng. Dòng nước bắt đầu biến đổi, liên tục xuất hiện những dòng xoáy và dòng hồi lưu. Điều này khiến Du Hữu Thích bắt đầu luống cuống, hắn không có chèo cũng không có sào, chỉ có thể dùng thanh phác đao của Quan Ngũ Lang để chèo chống.

Lúc này Lỗ Thiên Liễu đã buông xuôi tất cả. Người ở trên thuyền, thuyền trên dòng lũ, tất cả phó mặc cho ông trời định đoạt.

Dòng nước mỗi lúc một xiết, thuyền lao mỗi lúc một nhanh, địa hình cũng mỗi lúc một thêm hiểm trở, đám người đuổi theo trên bờ lúc này chỉ còn lại Chu thiên sư và kẻ không đầu cầm ô, nhưng khoảng cách giữa bọn họ với chiếc thuyền cũng mỗi lúc một xa dần.

Đột nhiên, từ phía sau lưng vang lên những tiếng "uỳnh uỳnh" rền rĩ. Cùng lúc đó, từ chỗ con đập cuộn lên một con sóng khổng lồ cao ngất ngưởng, giống hệt như một ngọn núi khổng lồ lao thẳng về phía chiếc thuyền đồng cách đó khá xa.

Con đập đã vỡ hoàn toàn, lượng nước lũ tích tụ đã được giải phóng.

Du Hữu Thích và Lỗ Thiên Liễu đều hiểu được ý nghĩa của âm thanh đó.

-Mau! Mau tìm cách cập bờ bỏ thuyền leo lên! – Du Hữu Thích tuy ngoài miệng nói vậy, nhưng tay lại buông xuôi. Hắn hiểu rõ, trong dòng nước xiết thế này, cho dù cố gắng thế nào cũng chỉ vô ích. Nếu số trời đã định không thể thoát được kiếp nạn hôm nay, hắn thà chết trên con thuyền đồng quen thuộc.

-Bám cho chắc, giữ vũng hướng thuyền, đừng vào bờ vội! - Lượng thông tin mà ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu thu thập được cụ thể hơn so với Du Hữu Thích rất nhiều – Con sóng phía sau rất cao, rất dữ dội, nhưng chỉ có một đợt, thuận theo nó sẽ bình yêu vô sự.

Lỗ Thiên Liễu nói không sai, phía sau họ chỉ có một con sóng, mặc dù đang dần dần áp sát con thuyền, nhưng muốn đuổi kịp được họ cũng không phải chuyện dễ, vì sức đẩy ở phần đầu con sóng đang đẩy thuyền đi, khiến con thuyền cũng tăng tốc nhanh chóng.

Chương 17: Vượt xoáy trời

Trong lúc con sóng lớn đang cuồn cuộn đuổi theo con thuyền, những bóng người đang đuổi gấp phía trên bờ cũng nảy sinh biến đổi. Kẻ không đầu cầm ô và Chu thiên sư đã tụt lại phía sau, còn vượt lên trên lúc này lại là một bóng người màu tía. Bóng người này chẳng khác nào cưỡi mây vượt gió, tăng tốc không ngừng, chẳng mấy chốc đã vượt qua cả con thuyền đồng đang lao vùn vụt như bay.

-Chưởng giáo thiên sư!

-Thuỷ Du Bạo!

Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích đồng thanh kêu lên, họ đã nhận ra bóng người đó. Đích thị là Trương Truyền Đạo. Thử nghĩ xem, ngoài chưởng giáo thiên sư của núi Long Hổ, còn ai có được công phu tuyệt luân đến thế?

Không biết chưởng giáo thiên sư đã thay bộ đồ này từ lúc nào. Vào khoảnh khắc ông ta vượt qua con thuyền, Lỗ Thiên Liễu cảm thấy khác nào một vệt ráng tía vụt ngang trời. Lão đạo sĩ chạy băng băng tới một mỏm đất cao cách đó rất xa rồi mới dừng lại, quay mặt về phía con thuyền của Lỗ Thiên Liễu, vừa la hét vừa múa may ra hiệu.

Tiếng ầm ào của dòng nước lũ quá lớn, cho dù Lỗ Thiên Liễu có thính giác nhạy bén, nhưng cũng không thể nghe ra chưởng giáo thiên sư đang hò hét điều gì. Còn các thế tay ra hiệu của ông, Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích lại càng không hiểu.

Chưởng giáo thiên sư đột nhiên dừng ra hiệu, cởi phăng tấm áo bào, trên mình chỉ còn lớp y phục sát người, sau đó hướng về phía con thuyền, bắt đầu nhảy nhót trông rất quái dị.

-Ông ta làm trò gì thế? Là có ý gì? - Lỗ Thiên Liễu càng nhìn càng khó hiểu.

-Ba dòng hội tụ cuộn thành xoáy trời, đầu thuyền chếch trái đâm vách phía đông! – Du Hữu Thích đưa tay vuốt nước và mồ hôi ròng ròng trên mặt, nói như hé với Lỗ Thiên Liễu. Đúng vậy, hắn đã hiểu được ý nghĩa của "điệu nhảy" kia.

-Được! Chúng ra sẽ làm theo! - Lỗ Thiên Liễu vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ hai câu nói của Du Hữu Thích.

Du Hữu Thích gật đầu, sục lưỡi phác đao xuống mặt nước phía trước mũi, cố gắng điều khiển phương hướng của con thuyền. Tình hình lúc này chỉ cho phép hắn làm theo lời chỉ dẫn, không còn lấy một giây rảnh rỗi để suy nghĩ đến những khuất tất ẩn bên trong. Ví dụ tại sao chưởng giáo thiên sư lại biết được chiêu pháp "hình tín" độc nhất vô nhị của tổ tiên nhà họ Du.

Điệu nhảy quái dị của chưởng giáo thiên sư có tên là "hình tín", chỉ được sử dụng khi Trịnh Hoà vượt biển sang Tây Dương. Trong "Minh ký hải hành" có viết: "Tam Bảo ra biển, có mấy người của ngư gia đi theo, cử động thân hình làm tín hiệu, có thể nhìn thấy từ xa, không truyền cho người ngoài...". Kỳ thực "mấy người của ngư gia" đúng ra phải là "mấy người của Du gia", chính là tổ tiên của Du Hữu Thích. "Hình tín" là do tổ tiên của họ sáng tạo ra, là phương pháp dùng động tác của cơ thể để truyền tin tức. So với phương pháp ra hiệu bằng tay, phương pháp này có thể truyền tin ở khoảng cách xa hơn, ý nghĩa biểu đạt cũng đa dạng hơn, rõ ràng hơn. Sau khi tổ tiên nhà họ Du phát tài, kỹ thuật "hình tín" không còn được sử dụng nữa, song gia tộc họ vẫn chú ý bảo tồn, không truyền ra ngoài. Tất cả mọi hình vẽ về tư thế chỉ làm thành hai bản, một bản truyền lại cho huyết mạch nhà họ Du, một bản chôn theo quan tài của ông tổ.

Mặc dù Du Hữu Thích thuộc lòng "hình tín", nhưng đây lại là lần đầu tiên sử dụng trong thực tế. Có điều lần này hắn chỉ mong mình đã giải thích sai, vì nếu phía trước đúng là "ba dòng hội tụ cuộn thành xoáy trời" như trong truyền thuyết, thì bọn họ chỉ còn nước tuyệt vọng hoàn toàn.

Chữ "ba" trong "ba dòng hội tụ" phiếm chỉ số nhiều. Nơi đây núi non "trập trùng ngàn đỉnh như lông vũ xoè", núi dàn như lông vũ, khe núi đan xen ngang dọc, hiện tượng nhiều dòng nước lũ hội tụ tại không phải là hiếm.

Ở phía trước, cách chỗ con thuyền đồng không xa, núi non đan xen, quấn quýt lấy nhau, hình thành một khe sâu nhiều góc cạnh. Ở giữa đám núi non ngang dọc, vừa hay có ba dòng nước lũ kích thước tương đương chảy đến từ ba phía cùng hội tụ tại đó. Đáng sợ nhất là ở chỗ, ba dòng nước lũ không phải đấu đầu tại một chỗ. Nếu chúng lao thẳng vào một chỗ, còn có thể làm giảm bớt lực đạo. Đằng này ba ngọn lũ lại giao cắt so le, mỗi dòng một hướng, kết quả là hoà quyện với nhau thành một vòng xoáy hình phễu khổng lồ giữa khe sâu. Có nghĩa là từ trung tâm vòng xoáy đến tận đáy khe không hề có nước, giữa vòng xoáy là một vực rỗng hình trụ tròn trên to dưới nhỏ, mà người ta gọi đó là xoáy trời. "Phía trong xoáy trời, có nước chết đuối, không nước chết vặn", chính là câu nói hình dung về xoáy trời trong truyền thuyết. Có nghĩa là nếu sa vào vòng xoáy trời, nơi có nước sẽ bị dìm chết đuối, nơi không có nước sẽ bị lực xoáy xoắn vặn cho đến tan tành.

Còn ở xung quanh vòng xoáy trời, dòng nước lũ đã tràn qua vách núi, đổ ào ào xuống những chỗ trũng thấp xung quanh, gây lũ lụt cho toàn bộ vùng núi Thiên Linh và các khu vực lân cận.

Việc cần kíp nhất lúc này với Lỗ Thiên Liễu và Du Hữu Thích là phải tìm cách thoát khỏi vòng xoáy hình phễu khủng khiếp đó. Trương Truyền Đạo đứng ở trên cao chỉ có thể cảnh báo cho họ tình hình phía trước và con đường có thể đi. Còn việc có thoát khỏi vòng xoáy hay không, phải dựa vào bản thân họ, hoặc giả là phải dựa vào ý trời.

Vòng qua một chỗ ngoặt gấp, Du Hữu Thích đã nhìn thấy một vòng xoáy trời còn khủng khiếp hơn cả trong truyền thuyết. Trong khoảnh khắc đó, ý thức của hắn đã hoàn toàn tê liệt trong tuyệt vọng, cả người đờ ra như pho tượng.

-Con sóng phía sau sắp ập đến rồi! - Lỗ Thiên Liễu không chỉ quan sát tình hình trước mặt, mà còn liên tục ngoái lại nhìn con sóng cao ngất ngưởng đang đuổi tới sau lưng.

Tiếng hô của cô đã khiến Du Hữu Thích choàng tỉnh, trong ánh mắt lại bừng lên một tia hy vọng. Hắn xoay thanh phác đao trong tay, đưa mặt đao chắn ngang dòng nước, hai tay vận lực, ghìm chặt lấy mũi thuyền. Con thuyền lập tức xoay ngang sau nhát chèo của Du Hữu Thích.

Con thuyền xoay ngang trước dòng nước lũ có thể bị lật úp bất cứ lúc nào, đặc biệt là ở vùng nước chảy nghiêng bên mép xoáy nước. Con thuyền đã bắt đầu xoay theo vòng xoáy và lao dần về phía tâm xoáy. Từ trên thuyền vươn cổ nhìn ra đã có thể thấy được đáy nước sâu hun hút. Con thuyền đã sắp rơi thẳng xuống phía dưới.

Con sóng lừng lững như trái núi cuối cùng cũng đã ập đến, và ập đến rất đúng lúc. Con thuyền sắp sửa rơi xuống vực xoáy đột nhiên bị đầu ngọn sóng khổng lồ đẩy vọt lên, bắn qua bên kia vòng xoáy.

Vực xoáy trong nháy mắt đã bị lấp đầy bởi con sóng khổng lồ, nhưng con sóng lập tức lại bị nghiền vỡ thành vòng xoáy. Mặc dù con thuyền đồng đã vượt được qua mắt xoáy, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi phạm vi của ba dòng hội tụ. Vòng xoáy vừa biến mất lại thình lình xuất hiện, nhanh chóng quăng vụt con thuyền đi, tựa như ném một miếng vỏ cây khô héo.

Mũi thuyền đồng đã cắm chênh chếch vào đám đất đá trên một vách núi trơ trọi, giống hệt như một lá cờ kéo căng bất động.

Ba người bị hất văng ra khỏi con thuyền đồng, mắt toé sao vàng, tai ù như trống. Du Hữu Thích gắng gượng ngóc nửa thân trên dậy, nhưng lại lập tức đổ vật xuống. Quan Ngũ Lang nằm bất động, anh ta vẫn chìm trong hôn mê.

Lỗ Thiên Liễu cũng không cử động, cô không cử động là vì trong ba người, cô là người tỉnh táo nhất. Công phu khinh công cộng với bộ áo giáp đồng rẽ nước mặc trong người đã giúp cô giảm nhẹ được lực va đập khi rơi xuống.

Một bóng người lao vọt đến. Chính là chưởng giáo thiên sư Trương Truyền Đạo. Ông ta nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu nằm bất động trên nền đất, liền vội vàng đưa tay lật người cô lại.

Chưởng giáo thiên sư đã sững lại một thoáng vì bất ngờ khi người Lỗ Thiên Liễu vừa lật qua, đôi mắt đen nhánh của cô đã nhìn chằm chằm vào ông.

-Thứ đó đâu? Không bị rơi chứ? – Trương Truyền Đạo vừa dứt lời, lập tức cảm thấy có chút hối hận.

Lỗ Thiên Liễu không trả lời, trong ánh mắt vụt qua một điều khác lạ.

Trương Truyền Đạo đã nhìn thấy một thứ khác lạ từ trong đôi mắt của Lỗ Thiên Liễu, giống như hai đám mây đang lướt tới, thì vội vàng quay phắt người lại.

Chính là Chu thiên sư và kẻ không đầu.

-Buông cô ta ra!

-Đưa cho ta!

Mục tiêu tấn công của cả hai người đều là chưởng giáo thiên sư, mục tiêu cướp đoạt của cả hai người đều là Lỗ Thiên Liễu.

Trương Truyền Đạo lập tức tiếp chiêu, sau một chuỗi những tiếng va chạm chát chúa và tiếng la hét vận lực, ba người lập tức tách ra, hình thành thế chạc sừng. Tư thế của Trương Truyền Đạo rất vững vàng, giống như đang lễ bái Tam Thanh. Chu thiên sư cầm kiếm chĩa thẳng về phía trước, nhưng trong hơi thở dường như có chút xáo động. Kẻ không đầu hổn hển, chiếc ô vàng trên tay đã bị rách một mảng lớn.

Thông qua chỗ rách, Lỗ Thiên Liễu đã nhìn rõ chân tướng của kẻ không đầu. Kẻ không đầu không phải là không có đầu, mà là có một cái đầu rất nhỏ, chỉ to bằng quả dưa lê, có hình trụ tròn, rụt vào trong cổ áo dựng đứng, thoạt nhìn giống hệt như cần cổ.

Mặc dù bộ dạng của kẻ cầm ô vô cùng quái dị, nhưng vẫn chưa nhằm nhò gì so với một cảnh tượng quái dị khác sắp sửa phát sinh. Mặc dù Lỗ Thiên Liễu vẫn nằm bất động trên mặt đất, nhưng tất cả tinh khí thần đều đã được ngưng tụ tại linh khiếu tâm huyệt, cô đang dốc hết khả năng để tìm kiếm, nhận biết sự việc quái lạ đó.

Tiếng ù tai ư? Không phải. Vì tiếng ù tai không thể nhịp nhàng đến vậy.

Tiếng tim đập ư? Là tiếng tim đập mạnh trong cơn sợ hãi? Cũng không phải! Thứ âm thanh đó truyền đến từ bên phía dưới cơ thể cô, sâu trong lòng núi.

Âm thanh rất lớn, nhịp điệu mạnh mẽ, cảm giác như đang nằm trên một bộ ngực cực lớn. Nhưng Lỗ Thiên Liễu lấy làm lạ khi thấy những người xung quanh không hề có phản ứng gì trước những âm thanh chấn động kia. Lẽ nào chỉ có mình cô nghe thấy?

-Các người hãy đi đi! Không lấy được bảo bối mà giữ được cái mạng cũng đáng giá! – Trương chưởng giáo mềm mỏng khuyên giải.

-Đưa bảo bối cho ngươi, liệu chúng ta còn giữ được cái mạng này không? – Chu thiên sư lạnh lùng đáp trả.

Gã không đầu không lên tiếng, nhưng tư thế công thủ song toàn lại càng trở nên kín kẽ hơn.

-Kẻ tiểu nhân rốt cuộc vẫn chỉ là kẻ tiểu nhân, cái tâm hẹp hòi sao có thể hiểu được người quân tử! – Trương chưởng giáo nói.

-Ha ha, kẻ gian rốt cuộc vẫn chỉ là kẻ gian, cái loại mặt tê giác lưỡi lò xo như người mà dám tự cho mình là quân tử? Thật không có lấy một chút tâm tính của người tu đạo! – Chu thiên sư cũng không hề kém miếng.

-Ngươi thì hiểu gì về tâm tính tu đạo? Tu đạo cần phải tu đến chí thượng, coi đạo học là thứ chí tôn trong thiên hạ, tâm tính của ngươi liệu có đạt tới cảnh giới đó? – Trương chưởng giáo vặc lại.

-Đây không phải là tôn sùng đạo học, mà là khiếm khuyết trong giáo phái của ngươi. Trương tổ sư phát động môn đồ nghiên cứu "Đạo đức kinh", sáng lập ra đạo Ngũ Đấu Mễ, được tôn làm thiên sư của nước nhà, quả xứng danh là bậc "khách thần tiên nơi Kỳ Lân điện, bậc tể tướng trên Long Hổ sơn". Nhưng mặc dù Thiên Sư đạo được truyền thừa liên tục đã mấy mươi đời, vẫn chưa ai có thể khôi phục lại thành tựu của tổ sư, cái danh tiếng thiên sư đã trở thành một danh xưng hão. Bao năm nay ông âm thầm nỗ lực, thậm chí lần này đã còn hạ mình cải trang thành người đê tiện để nhập bọn đi theo, chính vì muốn chiếm được bảo bối, nhờ vào sức mạnh của bảo bối để bù đắp lại điều khiếm khuyết, giúp Thiên Sư giáo của ông trở thành giáo phái đệ nhất trong thiên hạ. – Trong lời lẽ của Chu thiên sư tỏ rõ vẻ khinh miệt.

Lỗ Thiên Liễu đang nằm sóng sượt trên đất đột nhiên bò liền ba bốn bước lên trên vách núi. Hành động bất ngờ của cô khiến ba kẻ đang thủ thế đều giật nảy mình, nhưng không kẻ nào cử động. Trong tình thế này, ai manh động kẻ đó sẽ lộ sơ hở.

Lỗ Thiên Liễu nhẹ nhàng vạch đám lá cỏ xanh mướt ướt sũng nước mưa trước mặt, và nhìn thấy ở phía trước có một vòng đá rối loạn, mặc dù khấp khểnh như răng chó, nhưng lại tạo thành một hình tròn vành vạnh.

Đúng vào thời khắc nhìn thấy những viên đá lộn xộn, ba giác nhạy bén của Lỗ Thiên Liễu lập tức được nâng cao đến cực điểm. Dường như cô đã hoà tan vào trong vòng đá, tai nghe thấy những tiếng vang rền như sấm dậy, tay chạm phải những đợt nhấp nhô như sóng triều, mũi ngửi thấy mùi nước tanh nồng nơi trăm dòng hội tụ. Trong thời khắc này, cô bỗng thấy lâng lâng, mơ màng, đờ dại, thần hồn tản mạn, nhập hư nhập hoá...

-Dám bôi nhọ đạo hạnh thanh tu của ta, có tin ta sẽ giết ngươi không? – Trương Truyền Đạo nghiến răng trèo trẹo rít lên.

-Thành thế tam giác đối đầu, ngươi đang ở vị trí song sát. Chiêu Tiên chỉ lộ của ta và chiêu Quỷ khuy môn của anh bạn cầm ô đây hợp sức tấn công, ngươi sẽ đánh bên nào? Đánh bên nào người cũng sa vào thế bất lợi! – Chu thiên sư đã nắm chắc tình thế.

-Nếu ta bày thế Đế xuất thiên môn, các ngươi có thể làm gì ta? – Trương chưởng giáo ngạo mạn nói.

Nhất thời không còn gì để nói, cả ba người im lặng một hồi lâu. Cả ba người và Lỗ Thiên Liễu cùng bất động, mặc kệ cho những sợi mưa dày đặc táp đầy mặt mũi.

-Nếu lại có một người tấn công ngươi từ bên cạnh, thì chiêu Đế xuất thiên môn của ngươi còn giữ vững được hay không? – Chu thiên sư đột nhiên nghĩ ra điều gì đó.

-Hừm! Nếu như có người giúp ta tấn công các ngươi, chỉ cần đứng vào một vị trí trong cục, thì các ngươi một tiên một quỷ liệu có thể hợp sức được không? - Giọng điệu của Trương Truyền Đạo vẫn gắng ra vẻ trấn tĩnh – Nhưng nói làm gì cho thừa thãi! Trợ thủ của ta không đến, quân tiếp viện của các ngươi cũng đã chết hết, làm gì còn ai nữa!

Chu thiên sư bật cười, đưa ánh mắt nhìn về một phía. Trương Truyền Đạo nhìn theo ánh mắt của Chu thiên sư, cũng liếc về phía đó.

Du Hữu Thích đã ngồi dậy được. Cú ngã trời giáng vừa rồi đã khiến hắn huyết khí đảo lộn, đầu đau như búa bổ. Hắn phải nằm yên để điều hoà nãy giờ, trạng thái cũng đã ổn định trở lại.

-Cậu Du, nhà cậu gặp chuyện ác phá, suýt phải diệt môn, cậu có biết là loại phá gì không? – Trương Truyền Đạo không đợi Chu thiên sư lên tiếng đã tranh nói trước.

-Ở cột hành lang phía trước sân có chôn nửa chiếc đầu lâu và một khúc xương cẳng chân vót nhọn đã ngâm qua máu, nghe nói là loại bùa chú "đầu đứt chân vát" - Sự việc này Du Hữu Thích từ lâu đã khắc cốt ghi tâm.

-Thứ bùa chú "đầu đứt chân vát" này là yêu pháp của phái Phục Sinh núi Quỳ Đới ở vùng Vân Nam. Do môn phái này thường xuyên sử dụng những chiêu số độc địa âm tà nên bị trời quả báo, lại thêm trong quá trình tập luyện phải uống nhiều thứ thuốc để tránh không cho trùng độc mà bọn họ nuôi dưỡng xâm phạm, nhiều đời tích tụ lại, khiến cho con cháu đời sau thường bị dị tật, phần đầu co rút lại bé nhỏ khác thường.

Mặc dù Trương Truyền Đạo chưa nói rõ, nhưng Du Hữu Thích cũng đã hiểu ra. Tuy hắn chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng đã gầm lên một tiếng dữ dội rồi nhảy bật dậy, tiến từng bước về phía kẻ không đầu, ánh mắt rừng rực lửa, ngay cả cơn mưa ào ạt cũng không thể dập tắt.

-Tại sao? Tại sao ngươi lại làm như vậy? – Du Hữu Thích gầm lên với kẻ không đầu.

-Môn phái của ta muốn hoàn thành đại sự, phải có nguồn tiền của dồi dào. Tiêu diệt nhà các ngươi, việc kinh doanh tốt đẹp sẽ dễ dàng chuyển sang tay chúng ta. Không chỉ có riêng gia tộc các ngươi bị trúng thủ đoạn này đâu! - Kẻ không đầu nói.

Du Hữu Thích nước mắt tuôn trào, song vẫn không thể dập tắt lửa giận đang bừng bừng bốc trong hai mắt. Nghĩ đến cảnh tượng cả nhà chết thảm, máu nóng chốc lát đã nghẹn cứng ngang cổ họng. Bàn tay hắn nắm chặt cây Nga Mi thích, gân xanh co giật rùng rùng, các khớp xương vặn lên răng rắc.

-Khoan đã! – Vào khoảnh khắc Du Hữu Thích thủ thế chuẩn bị lao tới, Chu thiên sư đã quát lớn ngăn cản – Ngươi có biết cái cây toả diêm nghìn rễ "diệt tổ tuyệt mạch" đã phá huỷ phong thuỷ mộ tổ nhà ngươi từ đâu mà ra không? Giống cây này được bí mật trồng trên đỉnh Tỳ Bà núi Long Hổ, vốn dĩ dùng để bắt cương thi, ác ma dưới lòng đất. Có người đã âm thầm trồng cây này lên mộ tổ nhà ngươi, vì có ý đồ bất chính.

Du Hữu Thích bắt đầu hoang mang. Trước đây hắn luôn nghĩ rằng kẻ chôn ác phá và huỷ mộ tổ là cùng một bọn, nhưng ý tứ trong lời nói của Chu thiên sư rõ ràng là do hai người làm, vả lại dường như còn có liên quan đến Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ.

Chu thiên sư điều chỉnh thế Tiên chỉ lộ đến trạng thái công thủ lý tưởng nhất, sau đó mới tiếp lời:

-Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ từ rất lâu đã biết được bí mật về Bát bảo định cõi phàm thông qua thư tịch cổ. Nhưng nhiều thế hệ chưởng giáo trước đây đều là những cao sĩ thanh tâm tu đạo, chưa bao giờ nghĩ tới việc lợi dụng thứ bảo bối tạo phúc chúng sinh kia để mưu cầu việc gì. Nhưng tay Trương Truyền Đạo kia mờ mắt vì danh lợi, muốn sử dụng bảo bối để phục hưng địa vị hiển hách của Thiên Sư giáo. Tổ tiên của ngươi từng theo đội thuyền của Trịnh Hoà đi tìm báu vật, sau khi trở về liền thành cự phú. Vì vậy Trương Truyền Đạo cho rằng nhà họ Du đã có được Thuỷ bảo, nên phái người đến trộm mộ tổ, nhưng không tìm kiếm được gì, mới cho trồng cây toả diêm nghìn rễ "diệt tổ tuyệt mạch" lên mộ, muốn ép nhà họ Du phải lấy báu vật ra để giải cứu gia đạo. Song hắn đã lầm, thứ giúp nhà họ Du vượng phát có lẽ chỉ là tấm áo giáp đồng rẽ nước, mà bảo khí của tấm áo giáp đồng còn xa mới có thể chế ngự nổi chiêu "diệt tổ tuyệt mạch"!

Lời Chu thiên sư còn chưa nói dứt, sắc mặt của Trương chưởng giáo đã biến đổi đến mấy lần.

Du Hữu Thích như người say rượu chưa tỉnh. Câu đối của Tam Bảo thái giám đề trên Bát quái gỗ, Trương Truyền Đạo biết được kỳ xảo "hình tín" của tổ tiên hắn, lại thêm tai hoạ mà gia tộc hắn phải gánh chịu, biết bao cao nhân không thể phá giải, cuối cùng khi người nhà họ Lỗ đến, đã dễ dàng tìm ra chỗ ác phá. Thì ra tất cả đều nằm trong kế hoạch của người khác.

Ánh mắt hắn liền chuyển hướng, nhìn trừng trừng vào Trương Truyền Đạo. Song sắc mặt của lão đạo sĩ vẫn ung dung bình thản như không.

-Ngươi tin lời của hắn ư? - Lời nói của Trương Truyền Đạo cũng thản nhiên y như thần thái của ông ta.

Khí phách của ông ta đã khiến cho Du Hữu Thích phải băn khoăn. Trong khoảnh khắc đó, những chuyện xảy ra hệt như chớp xẹt, hệt như gió thốc, hệt như sao băng xẹt qua bầu trời đêm.

Cả ba kẻ đang trong thế chạc sừng đều hành động gần như cùng một lúc, trong đó mục tiêu của Trương Truyền Đạo và kẻ không đầu lại biến thành Du Hữu Thích. Chu thiên sư lập tức lợi dụng thời cơ lao thẳng về phía Trương Truyền Đạo.

Thình lình lọt vào chiến cục, Du Hữu Thích chỉ kịp giơ hai tay lên, tay phải cầm Nga Mi thích hướng về phía Trương Truyền Đạo, vì Trương Truyền Đạo quá gần, khí thế cũng quá mãnh liệt; tay trái nắm quyền đánh về chiếc ô của kẻ không đầu, thực ra chiêu thức này không hề có khả năng chống chọi, mà chỉ là hy sinh xác thịt để bảo toàn tính mạng.

Chương 18: Sớm thức tỉnh

Cánh tay cầm theo Nga Mi thích bay vọt lên không trung, xoay tít rồi rơi phịch xuống bên cạnh Lỗ Thiên Liễu, máu tươi phun ướt đẫm mặt mũi và cơ thể cô. Trương Truyền Đạo chỉ vung nhẹ cánh tay, lưỡi sắc vô hình đã cắt đứt phăng cánh tay của Du Hữu Thích.

Nắm đấm đánh vào mặt ô lập tức nát vụn, chỉ còn lại một đám máu thịt bầy nhầy dính trên cổ tay. Máu tươi bắn tung toé lên mặt ô của kẻ không đầu, phun qua lỗ thủng trên tán ô văng đầy ngực và mặt hắn.

Lưỡi kiếm của Chu thiên sư đã đến được vị trí mong muốn, nhưng Trương Truyền Đạo đã nghiêng mình tung đòn tấn công Du Hữu Thích, di chuyển khỏi vị trí ban đầu. Chu thiên sư lập tức rượt sát theo sau tiếp tục xuất chiêu.

Mặc dù là cú tấn công thứ hai, song lưỡi kiếm của Chu thiên sư vẫn nhanh như tia chớp, không phải ai cũng đủ khả năng né tránh, cuối cùng đã xuyên thẳng vào cơ thể Trương Truyền Đạo. Chỉ có điều mũi kiếm không đâm vào phía dưới mạng sườn như dự định, mà lại trúng ngay xương hông. Mũi kiếm vừa đâm vào, Chu thiên sư đã than thầm trong dạ, vì chính Trương Truyền Đạo đã nhảy lên chủ động đưa hông ra đỡ đòn. Trong lúc bật lên, còn đạp Du Hữu Thích ngã gục xuống đất.

Vị trí mà Trương Truyền Đạo đưa ra đỡ đòn rất hợp lý và cũng có mục đích. Vị trí xương hông không có huyết quản lớn, không gây nguy hiểm đến tính mạng, đồng thời phần xương hông rắn chắc khiến cho lưỡi kiếm thép vân mỏng manh của Chu thiên sư không thể tiếp tục đâm sâu. Đương nhiên, dám lựa chọn cách này, trước tiên phải chịu được đau đớn.

Sau khi Trương Truyền Đạo cắt đứt một cánh tay của Du Hữu Thích, vũ khí trong tay liền từ trên đầu thuận thế vòng trở lại chỉ thẳng vào giữa mặt Chu thiên sư. Chu thiên sư biết trong tay đối thủ có thanh kiếm thuỷ tinh vô hình không tiền khoáng hậu, nhưng thanh kiếm không dài, chỉ cần giữ khoảng cách thích hợp, kiếm của đối thủ sẽ không thể chạm tới mặt mình. Vì vậy Chu thiên sư một tay nắm một tay đẩy, kiểm soát thật tốt lực đạo của thanh kiếm trong tay, vừa không để Trương Truyền Đạo bẻ cong thanh kiếm của mình, vừa không cho ông ta có cơ hội rảnh tay tẩu thoát.

Sau khi kẻ không đầu đánh vỡ nắm đấm của Du Hữu Thích, lập tức xoay chuyển mặt ô, dùng đầu nhọn của gọng ô đánh thẳng về phía Trương Truyền Đạo. Song hắn không hy vọng gọng ô đánh trúng mục tiêu, mà chỉ muốn dùng nó để che khuất tấm nhìn của đối phương, sau đó từ dưới tán ô đột ngột ra đòn tấn công.

Nhưng chiêu thức dự định mới chỉ thực hiện được một nửa, bình rượu bên tay trái Trương Truyền Đạo đã nổ tung, đập vỡ toang mặt ô, cản đám gọng ô lại. Mảnh vỡ của bình rượu sắc bén như đao, kẻ không đầu không dám tiếp tục tấn công, cũng không dám rút gọng ô lại. Đánh gãy gọng ô hay giật gọng ô lại đều có thể tạo cơ hội cho Trương Truyền Đạo thuận thế tấn công.

Tất cả đều đã dừng lại, đều đã bất động, vẫn trong một cục thế chết cứng. Có điều cục thế chặt chẽ hơn, đẫm máu hơn.

Luồng khí xoay vần trong ngực bụng Trương Truyền Đạo, bật ra một tiếng hú dài, song đó không phải là tiếng kêu rú đau đớn sau khi bị kiếm đâm trúng, vì tiếng hú vừa vang lên, một bóng đen lập tức từ trên không trung lao vụt xuống. Đó chính là con sáo trời, nó vươn thẳng chiếc mỏ cứng cáp sắc nhọn mổ về phía Chu thiên sư.

Chu thiên sư chẳng thèm để ý tới cú tấn công từ trên không trung, chỉ tập trung kiểm soát thanh kiếm trong tay, không để đối thủ có bất cứ cơ hội nào để thoát thân.

Con sáo cuối cùng đã không tấn công Chu thiên sư, vì nó là một giống linh cầm, biết xem xét thời thế. Bám sát sau nó là con vẹt Lửa ma đêm của Chu thiên sư, vì vậy khi chưa xử lý xong con chim to hơn nó gấp nhiều lần kia, nó sẽ tuyệt đối không khinh suất mạo hiểm.

Hai con chim lượn tròn mấy vòng, sau đó dưới sự dẫn dắt của con sáo, chúng lao thẳng về phía chính giữa xoáy trời ba dòng hội tụ ở bên dưới đỉnh núi.

-Lo sợ rồi ư? Ngươi biết con chim của ta sẽ quay trở lại, còn con của ngươi thì chưa chắc. Vì vậy phần thắng vẫn sẽ nằm trong tay ta! – Trương Truyền Đạo dường như vô cảm trước vết thương đau đớn trên hông, vẻ mặt dương dương đắc ý.

Chu thiên sư trong thâm tâm hiểu rõ Trương Truyền Đạo nói đúng. Lúc này trời mưa dày hạt, ba dòng nước giao chéo nhau, tập trung khí thế của các dòng nước xiết khổng lồ mà tạo thành xoáy trời. Trong dòng xoáy không những có lực hút cực mạnh, mà còn mù mịt hơi nước và nước mưa. So với con sáo mắt đỏ, Lửa ma đêm thân hình to lớn, lông vũ dày rậm, rất không thích hợp để bay lượn trong tình cảnh đó.

Quả nhiên không ngoài dự liệu, chỉ một lúc sau, một bóng đen từ trong xoáy trời lao thẳng đứng lên trên. Đây là phương pháp nhanh nhất, trực tiếp nhất để thoát khỏi áp lực của xoáy trời. Sau khi bóng đen lao lên một độ cao nhất định, lập tức chuyển hướng, lao chênh chếch xuống mổ thẳng vào giữa mặt Chu thiên sư.

Trương Truyền Đạo đang mỉm cười, vì ông ta đã nhìn thấy thắng lợi ngay trước mắt.

Chu thiên sư kéo thật căng từng thớ da, từng múi thịt trên khuôn mặt, ông quyết định phải chịu đựng cú mổ. Trong tình thế trước mắt, hoảng loạn và lùi bước đều có thể khiến bản thân mất mạng trong nháy mắt.

"Phạch!"

Bỗng vang lên một tiếng va đập lớn, một chùm bụi nước văng mù mịt giữa không trung, tiếp đó là một đám nước bùn bắn tung toé trên mặt đất.

Khi mỏ và vuốt con sáo mắt đỏ sắp chạm đến mắt Chu thiên sư, một quả cầu sắt bọc trong tấm khăn đã đánh trúng nó. Cú va đập khiến nước mưa bám đầy trên lông chim bắn tung toé như sương, cơ thể nó khựng lại rồi rơi thẳng xuống đất, giãy giụa đến mức bùn nước bắn tứ tung.

Không ai ngờ được lại xảy ra sự biến này. Lỗ Thiên Liễu vừa mới thất thần như ngây dại, lúc này đang đứng thẳng bên cạnh vòng tròn đá khấp khểnh, trong tay là sợi Phi nhứ bạc còn sót lại. Quả cầu thép vẫn đang lắc lư bên dưới bàn tay, bên trên còn dính vài sợi lông vũ đen tuyền.

-Ha ha ha! – Chu thiên sư bật ra một tràng cười lớn - Người hôn mê sớm muộn gì cũng tỉnh, con chim của ngươi đã thành vô dụng, còn phía ta lại có thêm một người! Ha ha ha!

-Đừng cười nữa, tôi không phải người phía ông! - Lời nói của Lỗ Thiên Liễu rất mực điềm tĩnh nhu hoà, tựa như đang an ủi một lão già đang lên cơn hoang tưởng.

-Ta đã nói mà, con bé Liễu kia rất giàu linh tính, làm sao có thể tin ngươi được! - Sắc mặt Trương Truyền Đạo đã dễ coi hơn rất nhiều.

-Tôi cũng không tin ông, sở dĩ tôi ra tay, vì tôi cho rằng thế giằng co của hai người rất có lợi cho tôi!

-Tại sao không tin ta? Không phải từ đầu đến cuối ta luôn giúp đỡ ngươi hay sao? - Lời Trương Truyền Đạo tuy không hoàn toàn sai, nhưng lại có phần khiên cưỡng.

-Đáng lẽ ông không nên cho tôi đọc cuốn "Huyền giác", "giác được đến chỗ vô cùng, hiểu được lẽ huyền trong ý"! - Lỗ Thiên Liễu đáp.

-Vậy sao? Ta đã có chỗ nào khiến ngươi cảm giác bất thường? – Trương Truyền Đạo thấy hơi tò mò.

-Tôi cảm giác được dục vọng hừng hực của ông, vào những lúc ông nhắc đến thứ đó!

-Chỉ có điều này thôi ư?

-Tất nhiên là còn nữa! Khi ông lật tẩy chân tướng của Chu thiên sư, kỳ thực cũng là lật tẩy chính mình. Trong khe Quải Phát, ông đi cùng Hoàng Đại Giải, với thân thủ của ông, cho dù bằng phương pháp trực tiếp hay ngấm ngầm, đều hoàn toàn có khả năng bảo vệ được tính mạng của Hoàng Đại Giải. Nhưng ông không làm vậy, ngược lại còn nói rằng phải giả bộ ngất đi mới thoát được kiếp nạn, điều này có hợp lý chăng? Trong rừng Giá Trinh, rõ ràng ông biết có yêu khảm, nhưng lại không chủ động ra tay trước, cũng không cảnh báo. Đó là do ông muốn tìm cách loại trừ bớt lực lượng của chúng tôi, vì dù sao ông cũng một thân một mình. Trong vùng đất dưỡng thi, ông biết rõ kế hoạch của Chu thiên sư nhưng lại không vạch mặt ông ta, vì muốn biến ông ta và tay đệ tử làm cây gậy dò đường. Sau đó trong rừng đạm trúc, ông thấy tay đệ tử của Chu thiên sư đã chết, lại không có thu hoạch gì, mới quyết định dẫn theo chúng tôi tách khỏi Chu thiên sư, vì ông biết rõ, các khảm diện trước mắt chỉ có thể trông đợi vào người nhà họ Lỗ, có thêm Chu thiên sư sẽ chỉ gây cản trở cho mục đích của ông!

Sắc mặt Trương Truyền Đạo lúc xanh lúc tái, ông ta không ngờ bí mật và ý đồ của mình lại bị vạch trần một cách triệt để như vậy.

-Thông minh lắm! Hậu sinh khả uý! – Chu thiên sư thốt lên đầy cảm khái, không giấu nổi vẻ thất vọng tràn trề.

-Sau khi thoát khỏi trận Trăm đốt đan xen, mọi người chia đường mà đi, ông đã lựa chọn đi cùng chú thợ đan, bởi vì chỉ có chú ấy là am hiểu ít nhiều về khu vực này. Ông muốn dựa vào chú ấy để mong tìm ra bảo bối trước, hoặc mong tìm thấy tôi trước. Còn nữa, lúc nãy khi tôi ngã văng xuống sườn núi, ông vốn dĩ định lục soát đồ trên người tôi, nhưng không ngờ tôi vẫn tỉnh táo, trong lúc bối rối đã buột miệng hỏi bảo bối ở đâu.

Sắc mặt Trương Truyền Đạo phải mất một hồi lâu mới trở lại bình thường:

-Ngươi quả nhiên không phải tầm thường, tất cả mọi việc đều đoán ra được!

-Không! Có một chuyện tôi nghĩ mãi mà vẫn không hiểu. Sau khi ông gặp lại tôi, trong lời nói dường như muốn khẳng định tôi đã lấy được bảo bối, ông dựa vào đâu mà đoán như vậy?

-Dựa vào huyền giác, "cái động từ trong tim, lấy ý để tiếp xúc, mới cảm nhận được cái khí vô hình". Khi gặp lại ngươi, ngươi đã không còn là ngươi nữa, khắp cơ thể tràn trề một khí tướng vô hình, hệt như một bức tường bao bọc quanh thân, nên ta đoán rằng bảo bối đã ở trong người ngươi.

-Ông có thể khẳng định thứ mà ta mang trên người là Thuỷ bảo trong ngũ hành cất giấu ở nơi đây?

-Không thể! Trên đời này chỉ có một vài người có khả năng thiên bẩm mới có thể nhận ra, trong đó không có ta, nhưng lại có ngươi. - Giọng điệu của Trương Truyền Đạo có vẻ đắc ý của kẻ biết nhìn người.

-Trương chưởng giáo đã quá khen! Thế nhưng tôi thực sự không hề lấy được một thứ gì, chứ đừng nói đến là bảo bối gì gì đó. Còn cái khí tướng mà ông vừa nói tới hẳn chỉ là lời huyễn hoặc để thăm dò tôi mà thôi.

-Không phải!

-Có!

-Đúng đấy!

Cả ba cao thủ cùng đồng loạt lên tiếng. Thì ra không chỉ Trương Truyền Đạo nhìn thấy khí tướng khác lạ đang bao trùm quanh Lỗ Thiên Liễu, mà ngay cả Chu thiên sư và kẻ không đầu cũng nhận ra.

-Vậy các người có phát hiện trường khí nơi đây có chỗ khác thường hay không? – Lỗ Thiên Liễu vừa nói vừa chỉ tay về phía vòng đá phía sau.

Cả ba người kia đều thấy ngạc nhiên, đặc biệt là chưởng giáo Trương Truyền Đạo. Sở hữu công phu tu luyện huyền giác trong suốt nhiều năm, song ông ta vẫn không thể phát hiện ra điều gì khác biệt từ phía Lỗ Thiên Liễu đang chỉ.

-Đây là giếng Hải Tế! - Kẻ cầm ô bật lên một tiếng kêu the thé. Trương Truyền Đạo và Chu thiên sư đều sững người lại, lập tức nhớ đến những lời Chúc Tiết Cao mô tả về giếng Hải Tế khi giải thích hai dòng ám ngữ trên tấm lụa vàng.

Trong cảm giác của Lỗ Thiên Liễu, cái lỗ đen kịt đó khí hung ngùn ngụt, uế khí bao trùm, hàn độc lạnh lẽo, một luồng áp lực vô hình không ngừng lên xuống, tựa như nhịp tim của ác ma, như mạch đập của yêu nghiệt. Lúc nãy, khi cô tụ khí ngưng thần để tìm kiếm hiện tượng quái lạ này, đột nhiên đã bị hôn mê bất tỉnh, quên đi tất cả, không thể thoát ra, cứ như bị sa vào vòng ma chướng. May sao cánh tay đứt rời của Du Hữu Thích đã rơi xuống ngay bên cạnh, máu tươi phun tung toé lên mặt cô, vẽ thành một tấm bùa Thiên tinh, cô mới tỉnh lại được.

-Tôi biết rồi! - Giọng nói điềm tĩnh của Lỗ Thiên Liễu đối lập hẳn với tiếng kêu đầy kích động của kẻ không đầu - Cảm ơn các người đã cho tôi biết tôi phải làm gì.

Lỗ Thiên Liễu nói xong, liền lùi một bước về phía vòng đá lởm chởm sau lưng. Lúc này trong mắt những kẻ kia, một Lỗ Thiên Liễu lấm lem bùn đất, bê bết máu tanh bỗng trở nên rực rỡ lạ thường, phong thái thoát tục tựa như một cây liễu tiên trên thiên giới.

Sau phút bàng hoàng kinh ngạc, Trương Truyền Đạo gầm lên một tiếng trầm trầm:

-Giết nó đi! Phải giết chết nó! – Phương pháp của ông ta rất dứt khoát, chỉ còn cách giết chết Lỗ Thiên Liễu mới có thể ngăn chặn những hành động tiếp theo của cô.

Lời vừa dứt, những mảnh bình rượu vỡ đang chặn lấy gọng ô của kẻ không đầu lập tức vỡ thành những mảnh nhỏ hơn, bắn thẳng vào kẻ không đầu qua lỗ thủng trên mặt ô.

Cú tấn công bất ngờ khiến kẻ không đầu không kịp tránh né và cũng không thể tránh né, hai mắt lập tức bị mảnh vỡ găm trúng, cái đầu bé tí như cần cổ lập tức rách toanh như bông hoa nở. Đám gọng ô cũng gãy lìa, đầu gậy nhọn hoắt lao thẳng vào vai trái của Trương Truyền Đạo, lập tức da thịt rách toác, gân mạch đứt đoạn, xương cốt nứt vỡ. Cánh tay trái của Trương Truyền Đạo nhanh chóng mất đi cảm giác.

Tay trái tê liệt, nhưng tay phải đã hành động. Thanh kiếm vô hình đang chỉ thẳng về phía Chu thiên sư lập tức thu lại, thuận thế chém đức phăng gọng ô cắm trên vai trái. Trương Truyền Đạo nghiêng người nhảy bật đi, mặc cho mũi kiếm thép vân của Chu thiên sư rạch đứt da thịt trên hông khiến máu trào ra như suối. Cơ thể của ông ta lao vụt đi như một thanh kiếm đang bay, mục tiêu chính là Lỗ Thiên Liễu đang đứng bên giếng Hải Tế. Nhưng thanh kiếm này đã không thể bay đi, vì ông ta quên mất dưới chân mình vẫn còn một người, một người vừa bị ông ta chém đứt cánh tay.

Du Hữu Thích một tay vòng qua ngực quặp dưới nách, cong người quặp quanh lưng, hai chân chụm lại xuyên qua dưới háng, nháy mắt đã quấn chặt lấy cơ thể của Trương Truyền Đạo. Đây chính là công phu độc nhất vô nhị "tôm leo sậy" do hắn tự sáng chế ra. Nếu như cánh tay phải của hắn vẫn còn, thì Nga Mi thích đã đâm thẳng vào đối thủ.

Chính vào lúc Trương Truyền Đạo khựng lại, thì kiếm của Chu thiên sư đã lao đến, đâm thẳng vào hậu tâm Trương Truyền Đạo.

Cũng chính vào lúc Trương Truyền Đạo khựng lại, thanh kiếm vô hình trong tay ông ta đã thay thế cơ thể bay đi, một tiếng xé gió vô hình lao thẳng tới trước ngực Lỗ Thiên Liễu.

Song một luồng gió xoáy đã nổi lên, chặn đứng thanh kiếm ngay trước mặt Lỗ Thiên Liễu. Cũng chỉ có luồng gió xoáy cực mạnh như vậy mới có thể ngăn chặn thế đâm của thanh kiếm vô hình. Luồng gió vô hình và vòng xoáy va chạm vào nhau, bật lên một tiếng kêu chát chúa. Thanh kiếm vô hình liền đổi hướng, bay vọt qua đỉnh đầu Lỗ Thiên Liễu, cứa đứt nhành hoa cài trên mái tóc, rớt xuống một đoá hoa bé nhỏ.

Đoá hoa nhỏ xíu trắng muốt phảng phất sắc lam đã rơi trúng giữa lòng bàn tay trên cánh tay đứt đoạn của Du Hữu Thích. Cánh hoa lập tức chụm lại, biến thành một búp nụ mang hình giọt nước, trong suốt long lanh, tựa như giọt lệ.

Quan Ngũ Lang vừa vung được một đao cũng ngã ngồi xuống đất, cơ thể bùn vàng nhem nhuốc, tựa như móc dưới đất lên. Cũng may nhờ có lớp bùn vàng bọc kín, nên các vết thương ngang dọc khắp người anh ta mới được cầm máu. một đao vừa rồi đã phải tích luỹ lực đạo rất lâu mới có thể gắng gượng tung ra, nhưng sau cú va chạm với thanh kiếm vô hình, anh ta lập tức hai châm mềm nhũn, mắt loè đom đóm, cơ thể đang cực kỳ yếu ớt lại tiếp tục đổ vật xuống.

Mũi kiếm của Chu thiên sư đâm trúng giữa lưng Trương Truyền Đạo, nhưng chưa đâm thấu tim. Trương Truyền Đạo biết không thể tránh được đòn này, chỉ còn biết dịch chuyển vị trí tim ra xa nhất có thể. Cùng lúc đó, ông ta thu tay phải lại, thuận thế chụp cứng lấy cổ tay Chu thiên sư, lôi tuột ông ta lại gần, rồi nhanh như chớp vòng tay quặp chặt lấy cổ Chu thiên sư, ngón cái và ngón trỏ cắm ngập vào da thịt, bóp chặt lấy xương yết hầu của ông ta.

Trương Truyền Đạo chỉ cần vận thêm một chút lực đạo, xương yết hầu sẽ bị bóp nát. Nhưng đúng vào lúc này, Du Hữu Thích tưởng như đã mất khả năng tấn công lại đột ngột xuất chiêu, khiến Trương Truyền Đạo lập tức khí huyết đứt đoạn, ngón tay không còn phát lực được nữa.

Chiêu thức của Du Hữu Thích có tên là "rùa khớp răng". Người ta nói rằng nếu bị rùa cắn, chỉ trong trường hợp răng trên răng dưới không khớp vào nhau mới có thể gỡ ra. Du Hữu Thích đã ngộ ra chiêu này từ đặc tính trên của loài rùa, từ nhỏ đã luyện cắn hạt cứng, về sau răng có thể nhấc ném khoá đá, cắn đứt dây thép. Vì vậy sau khi hai hàm răng cứng như sắt thép của Du Hữu Thích cắn chặt lấy một bên động mạch cổ của Trương Truyền Đạo, Trương Truyền Đạo đã không còn cách nào vùng ra được.

Lại hình thành một thế cục bất động. Trương Truyền Đạo không thể buông tay, nếu buông tay, chỉ cần Chu thiên sư lấy lại được hơi thở, sẽ lập tức biến chiêu chém nát cơ thể ông ta.

Du Hữu Thích không thể nhả ra, nếu nhả ra Trương Truyền Đạo sẽ lập tức giết chết Chu thiên sư, sau đó sẽ đến lượt hắn.

Chu thiên sư không thể thu kiếm lại, điểm yếu hại của ông ta đang bị xiết chặt, sống chết chỉ trong nháy mắt. Bây giờ chỉ có thể cố gắng nghĩ cách để Trương Truyền Đạo chết thật mau, như vậy ông ta mới có hy vọng sống sót. Thế là hai tay ông tiếp tục vừa đẩy vừa xoay chuôi kiếm, chỉ có điều cổ họng đã bị bóp chặt, khiến ông ta không thể phát lực đề khí, nên mũi kiếm chỉ có thể từ từ chọc sâu vào cơ thể Trương Truyền Đạo.

Kẻ không đầu hai mắt bị đâm mù, chiếc ô rách nát đã lăn xuống tận dưới vách núi. Đột ngột không nhìn thấy gì khiến hắn trở nên sợ hãi và hoảng loạn. Xông vào tham chiến ư, hắn không dám; nhanh chóng tẩu thoát ư, hắn không muốn. Hắn đành phải một chân quỳ xuống đất, sợ hãi nghe ngóng tình hình xung quanh.

-Kỳ thực ngay từ đầu tôi đã biết mình lấy được một thứ khác thường, nhưng chưa bao giờ dám nghĩ rằng đây lại là Thuỷ bảo trong ngũ hành. Chính các người đã gợi ý cho tôi, giúp tôi biết được vật đã lấy được là thứ gì. - Lỗ Thiên Liễu bình thản lên tiếng, khiến ba kẻ đang trong thế giằng co nới lỏng một chút lực đạo. Bọn họ đều không muốn chết ngay, bọn họ đều muốn biết thứ mà mình đang liều mạng cướp đoạt rốt cục là thứ gì.

-Trước khi tiến vào khe đá, nhờ có dòng nước thuần khiết đổ xuống từ thác Nhạn Linh giúp tôi rửa sạch tất cả bùn đất ô uế trên người, nên khứu giác của tôi đã hoàn toàn hồi phục. – Trong lúc thuật lại, Lỗ Thiên Liễu hai mắt mơ hồ, tựa như đang hồi tưởng lại cảnh tượng xảy ra lúc đó.

-Thực ra, khi ở trong một nơi tràn ngập hương hoa thanh khiết, thứ mà khứu giác mẫn tiệp dễ nhận ra nhất lại là những thứ không vị không hương. Vì vậy trong số hàng nghìn hàng vạn đoá hoa toả hương thơm ngát, tôi đã phát hiện ra một cành hoa tuy bề ngoài giống hệt nhưng lại không hề có chút hương thơm. Vốn dĩ đây không phải là hiện tượng gì kỳ lạ, song nó lại xuất hiện trong một vách nứt thần kỳ, vì vậy chắc chắn nó không chỉ đơn giản là một đoá hoa khác biệt. Và tôi đã tiện tay hái luôn cành hoa đó một cách vô thức.

Vừa nói, cô vừa lấy xuống cành hoa cài trên búi tóc:

-Sau khi hái được cành hoa này, tôi bỗng cảm thấy trong cõi vô hình có thứ gì đang thôi thúc, đang dẫn dắt, khiến tôi lập tức từ bỏ tất cả để bỏ chạy ra ngoài, đi thẳng đến giếng Hải Tế.

-Ngay từ trước khi chú thợ đan nói rằng ám ngữ trên tấm lụa vàng trùng hợp với một số địa danh, mọi người đều đã biết giếng Hải Tế là một vị trí tà sát. Đứng bên miệng giếng, tôi càng cảm nhận rõ ràng hơn về thế hung cực độ của nó, song các người lại không có bất cứ phản ứng nào, kể cả Trương chưởng giáo vốn đã tu thành huyền giác. Vậy thì nguyên nhân duy nhất chỉ có thể là thế hung của giếng đã bị bảo khí chế ngự. Chỉ có mình tôi đứng trước miệng giếng, chỉ có mình tôi mới cảm nhận được thế hung, chứng tỏ bảo bối chế ngự hung huyệt đang ở trên người tôi. Vừa hay các người đều nói rằng khí tướng của tôi phát sinh biến đổi, nên tôi cũng ngẫm nghĩ một lượt, thì thấy rằng điểm khác biệt duy nhất là có thêm cành hoa này!

-Hoa lạc thần! - Mặc dù Trương Truyền Đạo bị Du Hữu Thích cắn chặt vào động mạch cổ, nghe cô nói vậy cũng gắng gượng vận khí bật ra được ba từ.

Chương 19: Nước về trời

-Ông nói là hoa lạc thần ư? Là hoa lạc thần trong câu "Lạc Thần đạp sóng xanh, nước tung hoá hoa ngọc" ư? - Mặc dù Lỗ Thiên Liễu đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, song vẫn không kiềm chế nổi sự ngạc nhiên và chấn động trong lòng.

Trong chương "Tiên do" sách "Thần ma chí" có viết: "Lạc Thần đạp trên sóng xanh lướt đi khắp nghìn sông vạn suối, tay áo dải đai tựa cầu vồng, búi tóc cao như mây, mây ngũ sắc che làm rèm, khó nhìn thấy dung mạo. Ngón tay búp lan kẹp một nhành hoa, khẽ vẩy là châu bay ngọc rắc, hoá thành hoa, lại hoá thành nước, lại hoá thành khí ẩn hiện mơ hồ, trở về với tự nhiên."

Lỗ Thiên Liễu đã từng nghe truyền thuyết về Lạc Thần, cũng đã nhìn thấy bức tranh "Lạc Thần lướt sóng". Trong truyền thuyết và tranh vẽ đều có miêu tả về hoa lạc thần. Đây là loài hoa trời sinh. Lạc Thần từ lúc sinh ra đã cầm trong tay một đoá hoa, sau khi thành đạo, liền dùng hoa đó để hành pháp, ban nước. Loài hoa này cũng tượng trưng cho nơi muôn sông tụ về, cho sự thần kỳ của vòng tuần hoàn hơi nước chốn nhân gian.

-Hoa thần tổn, bảo tướng khuyết, cương giới không vẹn toàn! – Trương Truyền Đạo bị Du Hữu Thích cắn giữ động mạch cổ, lời nói run rẩy rất khó nghe.

Nhưng Lỗ Thiên Liễu đã nghe được những lời Trương Truyền Đạo vừa nói, huyền giác nhanh chóng chuyển động trong tâm, lập tức mặt mày biến sắc, trong lòng hết sức ân hận, hoang mang. Cô vội ngồi thụp xuống, cúi đầu tìm kiếm bông hoa vừa bị lưỡi kiếm vô hình cắt đứt. Lời nói hàm hồ của Trương Truyền Đạo đã nhắc nhở cô, bảo vật bị tổn hại, cho dù có trấn được hung huyệt, nhưng cũng không thể giữ được biên cương trọn vẹn.

Mưa vẫn rơi dày đặc, nhưng không một hạt mưa nào rơi vào lòng bàn tay đã đứt lìa của Du Hữu Thích. Còn đoá hoa khi nãy đã biến thành một giọt nước, hay là một giọt lệ trong suốt, sáng long lanh. Khi Lỗ Thiên Liễu định nhìn lại cho rõ, đoá hoa chớp mắt đã vụt biến mất, như thể bị gió cuốn đi, chỉ còn lưu lại một dấu vết hình giọt nước trên lòng bàn tay bết máu.

Lỗ Thiên Liễu từ từ đứng dậy, thở dài một tiếng:

-Hoa lạc thần rơi xuống lòng bàn tay, rửa trôi máu chỉ còn lại dấu, hoá thành hơi khí, nhập vào vòng tuần hoàn vô hình. Chú Du ơi, tai ách "diệt tổ tuyệt mạch" nhà chú đã được hoá giải rồi!

Từ khoé mắt Du Hữu Thích rớt xuống một giọt nước tròn xoe, giống hệt như giọt nước trong veo mà bông hoa lạc thần vừa mới hoá thành.

-Trời ban kỳ bảo, trấn đại hung trừ tiểu ách, đó là cái thiện của trời, ta may mắn mới được thực hiện! - Lỗ Thiên Liễu dứt lời, bên khoé mắt cũng trào ra một giọt lệ, cũng giống hệt như giọt nước lạc thần.

Chính vào khoảnh khắc này, tất cả đã cùng hành động.

Kẻ hành động đầu tiên chính là kẻ không đầu đã bị mù hai mắt. Hăn đã nắm được tình hình xung quanh, nên muốn bắt lấy cơ hội cuối cùng. Hắn bật người lên, xiêu vẹo lao về phía Lỗ Thiên Liễu.

Quan Ngũ Lang thấy kẻ không đầu đã di chuyển, cũng lập tức đứng dậy, loạng choạng lao lên đón đầu.

Động tác của Du Hữu Thích rất nhỏ. Hắn đã đạt được mục đích, nên không còn vướng bận gì nữa, đã thảnh thơi, đã sẵn sàng liều mạng. Hai hàm răng hắn lại nghiến chặt, lập tức máu tươi vọt ra thành vòi.

Hai ngón tay của Trương Truyền Đạo đang bóp lấy yết hầu Chu thiên sư đột nhiên kéo giật lại. Mặc dù ông ta không đủ sức bóp nát cổ họng, nhưng vẫn có thể kéo đứt khí quản và động mạch cổ.

Chu thiên sư đã hoàn toàn từ bỏ sức phản kháng ở vùng cổ, dồn hết chút sức lực cuối cùng, lại lợi dụng lực kéo giật của Trương Truyền Đạo, cả hai tay và cơ thể cùng đẩy mạnh chuôi kiếm về phía trước. Thanh kiếm dài xuyên thấu qua cơ thể Trương Truyền Đạo, xuyên cả qua người Du Hữu Thích đang bám chặt lấy ông ta, cả hai người bị xâu thành một chuỗi.

Động tác của Lỗ Thiên Liễu không nhanh, nhưng rất thận trọng và dứt khoát. Cô nâng lấy cành hoa lạc thần trên tay, đưa đến trên miệng giếng Hải Tế. Trên tay cô, cành hoa toả ra một luồng sáng mờ ảo mà tinh khiết thần thánh. Sau đó, cô nhẹ nhàng tách hai bàn tay, nhành hoa lạc thần chậm rãi xoay tròn chao xuống.

Mặc dù kẻ không đầu không nhìn thấy gì, nhưng công lực chưa mất, Quan Ngũ Lang bình thường đã không phải đối thủ của hắn, lại cộng thêm đầy mình thương tích, nên phác đao vừa chạm phải hắn, đã bị đánh bật đi, người cũng lăn lông lốc xuống sườn dốc. Thanh đao cuốn gió vụt đi, đập thẳng vào mạng sườn Lỗ Thiên Liễu, cô chỉ kịp "hự" lên một tiếng rồi văng đi, ngã huỵch xuống đất.

Kẻ không đầu loạng choạng lao thẳng về phía giếng Hải Tế, song hắn không thể nhìn thấy vòng đá lộn xộn xung quanh. Cái vấp thình lình khiến hướng chạy thay đổi, hắn ngã thẳng xuống miệng giếng hun hút. Tiếp đó là một tiếng rú thảm khốc lanh lảnh kéo dài, văng vẳng hồi lâu trong lòng giếng.

Tiếng vọng dưới giếng còn chưa dứt, bỗng từ trong lòng núi dội lên một tiếng nổ vang dội, sau đó xung quanh chợt tĩnh lặng như tờ.

Dòng nước lũ đan xen thành xoáy trời dưới khe núi đột nhiên dừng lại, xoáy trời lập tức biến thành một mặt nước phẳng lặng, phẳng lặng như một tấm gương, không có lấy một gợn sóng.

Cơn mưa đang dày đặc cũng đột nhiên kết thúc. Gió lặng, hơi nước ẩm thấp đang từ từ lắng đọng. Lớp mây dày đặc kín trời cũng bắt đầu giãn ra thành từng đám, lặng lẽ xô đẩy, xâm nhập vào nhau.

Từ giếng Hải Tế chậm rãi dâng lên vô số những giọt nước lớn nhỏ khác nhau, đan xen thành một khối, lững lờ bay lên. Vô số giọt nước kết thành một cột nước trong suốt to bằng miệng giếng nối liền giữa đất trời, cứ dâng cao, cao mãi, xuyên thủng tầng mây dày đặc, rẽ ra một vạt ráng nắng hồng tươi rực rỡ. Ngay sau đó, các giọt nước lập tức tan biến thành hơi khí, chan hoà trong ánh dương, chan hoà giữa bầu không. Cột nước trong suốt vừa lặng lẽ xuất hiện, đã lặng lẽ biến mất.

Trên một dãy núi gần đó, một đoàn người đang vùn vụt lao đi bỗng dưng khựng lại. Người áo xanh dẫn đầu đã dừng bước đứng chết lặng, vừa nhìn thấy dải ráng đỏ hồng chói lọi bừng hiện giữa trời, trong ánh mắt đã lộ ra rất nhiều, rất nhiều điều phức tạp.

-Muộn mất rồi! Quay lại, đi tìm cái khác!

Đoàn người lẳng lặng quay đầu, chớp mắt đã mất hút trong rừng núi.

Lỗ Thiên Liễu vẫn nằm bất động bên miệng giếng. Dưới sườn dốc, Ngũ Lang cũng nằm bất động. Ở gần đó Du Hữu Thích và Trương Truyền Đạo, Chu thiên sư dính chặt với nhau thành một khối bất động.

Chiêu "rùa khớp răng" của Du Hữu Thích đã khớp lại hoàn toàn, máu huyết của Trương Truyền Đạo đã khô kiệt. Ngón tay Trương Truyền Đạo đã giật đứt huyết mạch, khí quản của Chu thiên sư, cũng cắt đứt luôn sinh mệnh của ông ta. Lưỡi kiếm của Chu thiên sư xuyên suốt qua cơ thể Trương Truyền Đạo và Du Hữu Thích, Trương Truyền Đạo đang thở hắt ra chút hơi tàn sau rốt. Còn Du Hữu Thích, một hảo hán ngoan cường đã lập tức lìa đời ngay sau khi bị lưỡi kiếm xuyên qua. Ba con người tuy đã chết, nhưng vẫn dính chặt lấy nhau, tựa như một khối đá hình thù quái dị.

Một tiếng kêu ré khàn đục bỗng xé toang bầu không khí im lìm chết chóc, con chim sáo mắt đỏ sau một hồi quẫy đạp loạn xạ đã vùng dậy được, chấp chới đôi cánh đen tuyền bay vào khu rừng. Chủ nhân đã chết, bùa chú cũng bị phá giải, con vật cuối cùng đã được trả tự do.

Các ngón tay Lỗ Thiên Liễu khẽ co giật vài cái, rồi cô từ từ tỉnh lại. Cú va đập của thanh phác đao tuy rất nặng nề, song nhờ sự che chở của tấm áo giáp đồng rẽ nước, cô chỉ choáng váng ngất đi trong chốc lát.

Tiếng kêu của con sáo mắt đỏ đã khiến cô bừng tỉnh, cũng khiến cô nhận ra được cảm giác của sự giải thoát. Mở choàng đôi mắt, chỉ thấy muôn tia ráng chiều lách qua kẽ mây đổ xuống từng chùm, đỏ rực như máu.

Mưa đã tạnh, nhưng nước mắt lại đổ xuống chan hoà. Sau khi đã được giải thoát và thả lỏng hoàn toàn, chính là lúc cảm xúc bộc phát. Trong cơn đau buồn, có quá nhiều thứ đang vùn vụt chạy qua trí não Lỗ Thiên Liễu, có người, có việc, có quá khứ, có hiện tại. Cha đã không còn nữa, nhà cũng mất rồi, bây giờ cô biết đi đâu, về đâu?

Khi Quan Ngũ Lang bò được tới bên cạnh Lỗ Thiên Liễu, cô đang đứng trên một tảng đá bằng phẳng nhô cao, đưa đôi mắt đẫm nước nhìn như hút về một đỉnh núi phía tây nam. Trên đỉnh núi có một cây liễu, cành dày lá mượt, trơ trọi một mình đang phất phơ theo gió.

-Đi đâu đây? – Quan Ngũ Lang hỏi.

-Có lẽ... - Lỗ Thiên Liễu chậm rãi đưa cánh tay lên, chỉ về một hướng – Có lẽ em nên đi về nơi đó! Em đã đến từ nơi đó!

Nhìn theo cánh tay cô, Quan Ngũ Lang trông thấy một cây liễu, rất xa xăm, ở phía đông nam.

"Phúc Kiến đông lĩnh khu thuỷ văn tải bản"[14] có viết: "Khu vực phía đông nhiều núi quần tụ bao bọc, nước lũ về sớm, bị ứ tắc sẽ tràn khắp bốn bên và đồng bằng. Đầu thời Dân Quốc, mưa liên tục nhiều ngày, thủy văn biến động lớn, đường lũ thay đổi, chảy về phía đông, đổ vào sông, ra biển, không còn dâng trào thành lụt. Dân cư nơi đó đều được bình an".

Dân vùng núi Thiên Linh truyền rằng, đầu thời Dân Quốc có lũ lớn, nhiều dòng lũ hội tụ, gây sạt lở núi non, thế như san núi thành đầm. May nhờ ông trời mở ra huyết nhãn, thương xót chúng sinh, thu lũ về trời, chớp mắt thế lũ biến mất, nước lớn tiêu biến sạch không.

Chú thích

[14] Có nghĩa là bản ghi chép về thuỷ văn của vùng núi phía đông Phúc Kiến.

ĐỒ LONG CHUỶ BỊ ĐOẠT – CHU MÔN TRƯỞNG VÙI THÂN ĐÀI CỐ HỒN TUYỆT KHÍ

Chương 20: Chớp ngang trời

Trong "Lý dư bách táng pháp – Ác táng" có viết: "Gặp xác hung hồn ác, có thể đúc chì làm quan tài, phong kín bằng sáp đỏ. Nếu là thứ cực hung, sau khi đưa xác nhập quan tài chì, đậy nắp rồi đúc tiếp, nắp và thân được đúc liền với nhau để định".

Quan tài chì không một kẽ hở được treo trên khung xương bằng bốn sợi dây xích đỏ sẫm đánh từ thép san hô ánh đỏ. Loại thép san hô ánh đỏ là do núi lửa dưới đáy biển phun trào, san hô trộn lẫn với nham thạch bị nung chảy mà thành. Trong pháp thuật Mao Sơn cũng có phương pháp dùng thép san hô ánh đỏ treo xác chết lên cao, không dính bách khí để ngăn chặn biến xác.

Lấy xương làm khung, đúc chì thành quan tài, đúc liền nắp với thân, treo bằng thép san hô, đây là táng pháp dùng để tuyệt diệt linh hồn. Chu Chân Mệnh lại nhẩm tính số bậc thang mà mình vừa đi qua, tổng cộng có ba mươi ba bậc. Mà cỗ quan tài này được treo cách mặt đất khoảng ba thước ba, bề mặt đỉnh đài khoảng ba trượng ba, lẽ nào đây là chính là đài Cố hồn tuyệt khí dùng để khoá diệt tam hồn trong truyền thuyết?

o O o

Tháng bảy trời mát, khí dương trung thịnh. Mồng bảy là ngày Hoả Diệu, không gió, sấm động tây bắc.

Trên vùng hoàng thổ, nắng vừa đổ xuống, bụi đất liền bay mù mịt, giẫm chân lên mặt đất thấy xôm xốp, hơi nóng hầm hập bốc dọc theo ống quần, như muốn thổi căng phồng lớp quần áo. Trong khi mồ hôi lại chỉ chăm chăm dính bết quần áo vào da thịt, không giật ra nổi.

Trong khe Hoàng Thổ cách đó không xa, bị nắng gắt thiêu đốt đến nứt nẻ như mai rùa, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, khiến các gò đất vàng phía xa xa trông như đang chập chờn lay động.

Gần khe Hoàng Thổ mọc lên hai cây du rất lớn, khoảng cách giữa chúng bằng khoảng mười mấy bóng cây. Trên vùng hoàng thổ khô cằn này, mọc được những thân cây to lớn, cành lá sum suê như vậy quả thật không hề dễ dàng. Song hai cây du lại không hoàn toàn giống nhau, một cây tán cành vươn rộng, lá biếc tốt tươi, đem lại cho con người cảm giác mát mẻ thư thái. Cây còn lại cành rủ lá sần, toát lên một vẻ âm trầm chết chóc.

Song sự khác biệt thực sự giữa hai cây du không phải là ở cành lá, mà là ở những chuỗi quả du[15] trên tán cây. Trên cây du mang vẻ âm trầm chết chóc, những chuỗi quả du không có màu xanh biếc hay vàng sậm, mà lại mang sắc đỏ bầm. Hơn nữa dù không có gió, chúng vẫn tự động lắc lư, liên tục vặn vẹo, quằn quại, sun duỗi.

Đám quả du là sống, điều này mọi người đều khẳng định, song không mấy ai có thể nhận ra chúng chính là loài rết cây quan tài, trong giang hồ quen gọi là rết máu xác. Ở vùng biên cương phía nam, có một bộ tộc kỳ dị thường đem quan tài của người chết gác lên cây, gọi là "thụ táng". Tuy nhiên không biết là vì gỗ đóng quan tài hay vì bản thân cây, nên gác lên cây chưa được bao lâu, trong một số cỗ quan tài thấy chui ra những con rết đỏ bầm, hình dạng rất giống quả cây du. Loại rết này khắp người chứa chất kịch độc, chạm vào sẽ chết ngay lập tức. Có người nói rằng giống rết này do hồn phách người chết hoá thành, cũng có người nói đây là trùng độc bảo vệ quan tài. Trong "Dị trùng phổ" và "Nam du thú lục" đều có ghi chép về nó.

Ngoài những chuỗi quả du sống, trên một chạc cây lớn còn có một người ngồi chồm hỗm, áo quần tơi tả, sắc mặt trắng xanh, mắt đỏ như máu, trong miệng ngậm một sợi chỉ đỏ. Nhìn từ hình dáng, trang phục cho đến biểu cảm, tư thế, đều toát lên một vẻ quái dị hệt như những chuỗi "quả du", khiến người ta nhìn mà ghê sợ.

Dưới gốc cây lại có một người đang đứng, bụi đất phủ vàng trên mái tóc bóng mượt không một sợi rối, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt vẽ thành những vệt vàng khè, trên tay cầm một thanh đao đầu quỷ mặt cười lấp loáng hào quang màu lam nhạt, cuối chuôi đao phất phơ một vuông nhiễu lớn đỏ gay gắt, đỏ hơn cả màu mắt của kẻ ngồi trên cây. Người này chính là Tiếu Phật Nhi Lợi Hâm.

Cách gốc cây này khoảng hơn chục bước, có một kẻ bộ dạng hệt như một thầy mo Sa man đang đứng lầm lì, ánh mắt tán loạn, không ai biết hắn đang nhìn vào đâu; thế nhưng nhãn thần lại rất tập trung, bởi lẽ tất cả mọi người đều có cảm giác đang bị lão nhìn chằm chằm.

Đối diện với lão Sa man còn có hai người, chính là Hứa Tiểu Chỉ và một gã thanh niên trắng trẻo.

Hứa Tiểu Chỉ có vẻ đã thích ứng với môi trường của vùng cao nguyên hoàng thổ, bởi vì bãi bùn nơi hắn sinh sống vào mùa hè cũng thường xuyên có cảnh nắng cháy cát bay.

Phục sức của gã thanh niên trắng trẻo kia rất giống Quỷ Nhãn Tam, cây Vũ Kim Cương trong tay và cây xẻng lưỡi cày trên vai cũng giống y hệt. Có điều áo choàng của hắn có màu vàng đất mà không phải màu đen, giống hệt như màu đất nơi đây. Hắn ta chính là người con thứ bảy của Nghê gia, em họ của Quỷ Nhãn Tam. Nghê gia cử hắn đi tìm Nghê Tam, hắn đến Bắc Bình nhưng không tìm thấy. Sau đó, tới chỗ lão đạo trưởng của đạo quán tại khe Long Môn, mới biết anh họ mình đã theo Lỗ Nhất Khí đi về phía tây, hẹn gặp một nhóm người khác ở trại Mười Tám Dặm bên sông Vị Thuỷ ngoài thành Hàm Dương. Nghê Thất đã tới trại đó từ rất lâu, song chỉ gặp được nhóm phó quan Ngô. Cũng hiếm khi hắn kiên nhẫn như vậy, cứ đợi suốt ở đó cho đến tận khi Lỗ Nhất Khí tìm tới.

Nghê Tam không còn nữa, bởi vậy Nghê Thất không trở về. Nghê Tam vẫn chưa kịp hoàn thành trọng trách, bởi vậy hắn quyết không chịu khoanh tay làm ngơ.

Cách đó không xa còn có một đám người nữa. Dẫn đầu là lão mù tặc vương và phó quan Ngô, phía sau là đội quân cảnh vệ súng ống sẵn sàng. Thực hiếm khi Lỗ gia lại chiếm được ưu thế về số lượng như hôm nay. Song lão mù trong lòng hết sức bất an, tim đập loạn xạ liên hồi.

Lỗ Nhất Khí ngồi dưới tán cây du râm mát, song cậu lại không hề dễ chịu hơn những người kia. Bởi lẽ có một khí thế hung hãn đang bủa vây cậu, chèn ép cậu, khiến cậu không dám buông lỏng một giây.

Chiếc bàn gỗ hoa lê phía trước là bàn cờ vây được chế tạo vào giữa thời Minh, chuyên dùng để chơi cờ vây, thưởng thức trà.

-Xin mời đi trước! - Người áo xanh chìa bàn tay trắng trẻo thon dài ra một cách lịch thiệp.

-Tôi không thạo món này! - Lỗ Nhất Khí vẫn ngồi yên.

-Vậy xin mời thưởng trà! – Khí thế cuồn cuộn, song ngữ khí vẫn rất mực điềm tĩnh.

-Trời như đổ lửa, gặp nước tất uống lấy uống để, không có hứng thú thưởng trà. Hay là thôi vậy! - Lỗ Nhất Khí không phải không muốn uống, mà là không dám uống.

-Cậu không dám uống? - Người áo xanh như đã nhìn thấu gan ruột đối phương.

-Đúng vậy, tôi không dám! - Lỗ Nhất Khí chẳng quan tâm tới sĩ diện giang hồ, nên thẳng thắn đáp liền.

-Vậy thì hãy cùng trò chuyện! - Người áo xanh đang tiến gần tới mục đích.

-Người trong nghề khảm gia hãy nói về đạo lý khảm tử! - Lỗ Nhất Khí kỳ thực đang khiêu khích, muốn dùng miệng để giao đấu về khảm nút với người áo xanh.

-Ha ha! Vậy cậu hãy đánh giá về kỹ pháp của nhà ta trước! - Người áo xanh nói.

-Lấy hiểm chống hiểm, dùng lực tăng lực, giống như thắt nút dây thừng, nút chồng lên nút, một sợi dây thừng thắt nút như hoa, song khẽ giật đầu thừng, toàn bộ sẽ bung ra bằng hết! - Lỗ Nhất Khí xuất chiêu dựa vào lý luận trong "Ban kinh".

-Vậy Lỗ gia đã từng có khảm nút nào làm khó dễ được người phía ta chăng? - Người áo xanh lập tức phản bác, hắn không thể đồng ý với lời nói của Lỗ Nhất Khí.

-Trong nghề khảm tử, bố trí khéo léo chỉ là thứ yếu, quan trọng nhất vẫn là giải. Bố trí có thể dựa vào thiên thời, địa lý, sinh linh vạn vật còn giải hoàn toàn dựa vào sức người. - Lỗ Nhất Khí lại đưa ra một lý luận trong "Cơ xảo tập".

-Ý cậu là thuật phá giải trong môn phái của ta không bằng Lỗ gia?

-Tôi nói là giải, không phải là phá giải, càng không phải là phá.

-Có gì khác biệt không?

-Ông nói thử xem, một sợi dây thừng thắt nút chằng chịt như hoa, tháo ra dễ hơn, hay là dùng dao cắt đứt dễ hơn?

-Có thể cắt đứt mà không chịu cắt, cứ muốn phí công phí sức để tháo, cái nào hơn? - Người áo xanh dường như đã tìm được sơ hở của Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không trả lời ngay, cậu đang suy nghĩ. Đối phương nói rất có lý, trong rất nhiều trường hợp, phương pháp của đối phương thường hiệu quả hơn.

Thời gian suy nghĩ rất ngắn, bởi lẽ câu trả lời dành cho người áo xanh đã có sẵn trong đầu cậu:

-Nếu tôi vẫn cần sợi dây thừng đó thì sao?

Ánh mắt của người áo xanh vụt tối sầm lại, song chỉ trong nháy mắt thần thái lại phục hồi như cũ. Nói tới đây, có lẽ đã đến lúc phải dẫn dắt vào chủ đề chính.

-Nếu ta đưa cho cậu một sợi dây thừng, cậu có thể cùng ta tháo một nút thắt khác hay không?

-Sợi dây thừng của ông có thể treo nổi trọng lượng bao nhiêu? Sau khi tháo xong một nút thắt khác, thì sợi thừng đó sẽ thuộc về ai?

-Sợi thừng của ta có thể treo nổi trọng lượng bao nhiêu, cậu hãy tự mình tính toán. Còn sợi thừng đã được tháo nút, ta chỉ mượn dùng một lát, sau đó cậu vẫn có thể mang bảo bối phụng sự thiên mệnh! - Thần thái và ngữ khí của người áo xanh đều rất mực chân thành.

-Hãy cho tôi một lý do đáng tin cậy! - Lỗ Nhất Khí không vì thấy hắn chân thành mà sơ suất.

Kỳ thực lúc này, trong lòng Lỗ Nhất Khí hết sức bất an. Trong suốt những ngày qua, cậu luôn nghĩ tới việc tìm kiếm Thổ bảo đã mất tích từ sau khi di dời vị trí. Tối qua, cậu nói với mọi người hôm nay sẽ tới bờ sông Vị Thuỷ thám thính, song sáng sớm trước khi lên đường lại thay đổi lộ trình, đi theo hướng ngược lại tới bên khe Hoàng Thổ. Thế nhưng người áo xanh đã lại đứng chờ sẵn ở đó. Là do cậu đã để lộ ý đồ trong khi mơ ngủ, hay là có người đã chớp nhoáng báo cáo với hắn về hành tung của họ?

Người áo xanh vẫy tay một cái, từ sau gốc cây chợt hiện ra một lão già áo trắng. Lão già hệt như một cái bóng biết bay, thoắt cái đã tới bên cạnh bàn cờ vây, hai tay bưng một vật gì đó đưa tới trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí ngồi im không cử động, không hề có ý nhận lấy túi vải. Người áo xanh bèn nói:

-Đưa nó cho ta!

Lão già áo trắng đưa túi vải cho hắn, rồi thoắt một cái lại mất tích sau gốc cây, hệt như lúc đến.

Chất vải của chiếc túi rất thô ráp, thô tới mức không giống vải. Đúng vậy, nó không thể gọi là vải, nó không phải được dệt thành, mà là được đập thành. Nó được làm từ vỏ cây sui được mệnh danh là "kiến huyết phong hầu"[16] chỉ có ở Nam Hải.

Người áo xanh mở chiếc túi bằng vỏ cây, lộ ra một vuông nhiễu kim tuyến vàng rực rỡ đến chói mắt. Khi hắn mới lật giở hai góc của vuông nhiễu vàng, thứ ở bên trong còn chưa lộ ra, thanh đao đầu quỷ của lão Lợi bỗng rung lên bần bật, phát ra tiếng kêu như báo gầm ưng rít. Đám rết máu xác như chuỗi quả du lúc nhúc trên cây đều cuộn tròn cả lại, chiếc trống da đeo trên lưng lão Sa man không gõ tự kêu, hệt như tiếng hồn ma thảm thiết.

Lỗ Nhất Khí đã cảm giác thấy bên dưới lớp nhiễu vàng có một làn khí tướng đang liên tục phập phồng, cuộn trào mạnh mẽ, tràn đầy huyết khí và sát khí, giống như hơi thở đầy phấn khích của ma thần khát máu. Cảm giác này giống y hệt như cảm giác lúc cậu nhìn thấy hộp gỗ kỳ nam kiến mật trên lưng người áo xanh lần trước.

Không cần người áo xanh lật mở góc thứ ba của tấm nhiễu vàng, Lỗ Nhất Khí đã lên tiếng:

-Lụa vàng gói gỗ nam tơ vàng, gỗ nam gói vũ khí giết rồng. Vũ khí giết rồng sinh đất thiêng, uống nghìn chén máu mới trở về. Đừng mở ra nữa, thanh thiên bạch nhật, chớ nên xúc phạm tới thần linh.

Người áo xanh bất giác thốt lên lời cảm thán:

-Nhìn khí để nhận người có nhiều kẻ biết, nhìn khí để nhận vật, trên đời này chỉ mình cậu biết.

Lỗ Nhất Khí cũng cảm thấy vô cùng khâm phục:

-Người biết tôi có khả năng nhận biết vật rất nhiều, nhưng chỉ có ông biết tôi dựa vào khí để nhận vật.

Hai bên cùng nhìn nhau cảm phục, quả là tri kỷ khó tìm.

Người áo xanh cũng không vòng vo nữa, mà đem hết những lời gan ruột và những suy nghĩ trong lòng nói với Lỗ Nhất Khí:

-Có lẽ cậu đã biết rằng ta là hậu duệ của hoàng đế nhà Minh. Nhưng trên đời này, những người biết về lai lịch của lão tổ tông nhà Minh lại không nhiều, cũng chẳng mấy ai biết được nguồn gốc của môn phái ta.

Lỗ Nhất Khí khẽ chen ngang một câu:

-Người có thuật giết rồng!

Lời vừa nói ra, người áo xanh lập tức mặt mày biến sắc.

-Đúng vậy, lão tổ tông của hoàng đế nhà Minh chính là người có thuật giết rồng, cậu phán đoán căn cứ vào món vũ khí giết rồng ư? - Người áo xanh không kể tiếp mà hỏi lại.

-Không phải, có nguyên do khác.

Lỗ Nhất Khí biết được thông tin này từ cuộn thẻ tre không chữ của Mạc Thiên Quy. Trong "Nam hoa kinh - Liệt ngự khấu" có chép: Chu Bình Mạn học thuật giết rồng từ Chi Ly Ích, tiêu hao gia sản nghìn vàng, sau ba năm học thành, song không có chỗ để thi triển kỹ nghệ". Cậu nói tiếp:

-Tổ tiên Chu gia chính là Chu Bình Mạn, người đã học được kỹ nghệ giết rồng. Người của Mặc gia khi chôn giấu bảo bối cuối cùng, trong nhà đã hết nhân tài, nên đã nghĩ tới người của gia tộc giết rồng, muốn mời tổ tiên Chu gia trợ giúp, để hoàn thành sự nghiệp đại thiện. Song tổ tiên của ông lại lén xem trộm bí mật về Thiên bảo từ "Mặc môn thập bát thiên", âm thầm lấy mất Hoả bảo trong ngũ hành. Từ đó về sau, Hoả bảo được mang tới nơi nào, nơi đó liền xảy ra hạn hán, biến thành nghìn dặm đất khô cỏ cháy. Do Hoả bảo bị dịch chuyển mà gặp phải tai ách này, cũng là cái lý của trời, thế nhưng Chu môn các người hết đời này đến đời khác vẫn ôm khư khư bảo bối quyết không chịu buông, chỉ mong dựa vào bảo bối mà giành lấy ngôi vị bá chủ thiên hạ.

-Thực sự không muốn buông, là người ai cũng như vậy cả thôi! - Người áo xanh nói rất thẳng thắn.

-Tổ tiên Chu gia tuy có được Hoả bảo, song vẫn không thể biết được thiên cơ nhờ bảo bối để đoạt thiên hạ. Có điều họ Chu cũng nhờ được phúc của bảo khí mà sinh ra nhiều nhân tài kiệt xuất. Cho tới cuối đời Nguyên, nhờ sự giúp đỡ của những cao nhân như Lưu Bá Ôn, Chu Điên, mới có thể nhờ vào phúc trạch của Hoả bảo mà giành được ngôi vị chí tôn, đó là nhờ Hoả mà sáng, do đó mới lấy quốc hiệu là Minh.

Người áo xanh khẽ thở dài một tiếng:

-Chim tham miếng ăn, người tham phú quý, cũng khó trách những con người chưa thoát khỏi thói tục trong Chu gia ta.

-Vậy ông đưa món chí bảo của tổ tiên là vũ khí giết rồng cho tôi, là muốn buông bỏ sợi dây ràng níu kia để thoát khỏi thế tục ư? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Thật hổ thẹn! Vẫn chưa đến được cảnh giới đó.

-Vậy ông vẫn mong cầu một sợi dây thừng khác?

-Đúng! Mà cũng không đúng!

Lỗ Nhất Khí cảm thấy khó hiểu:

-Thứ lỗi cho tôi ngu muội, khó mà thấu hiểu được đạo lý này. Lại nữa, Hoả bảo trong ngũ hành từ xưa tới nay luôn nằm trong tay Chu gia, chỉ cần chú ý nuôi dưỡng thờ cúng, cố gắng chờ đến khi bảo khí hết vòng thu ẩn, bình thường, hưng vượng đủ ba trăm năm, vẫn có thể nương tựa vào bảo bối, hà cớ gì phải tìm kiếm khắp nơi mà cướp đoạt.

-Nguyên uỷ của việc này phải kể cho tường tận mới rõ được. Chu gia ta có được đế vị là nhờ vào bảo khí, đến khi bảo khí chuyển sang giai đoạn bình, hẳn sẽ phải lo lắng không yên. Trong khi phương pháp giải quyết mà Lưu Bá Ôn để lại đã bị thất lạc trong cuộc chiếc loạn giữa Huệ Đế Chu Doãn Văn và Thành Tổ Chu Đệ. Bởi vậy, suốt mấy đời hoàng đế sau đó đã phải lao tâm khổ tứ tìm kiếm đủ các phương pháp đặc biệt nhằm phục hưng bảo lực.

-Chuyện này tôi cũng có biết ít nhiều. Vượt đại dương, lùng sục khắp thiên hạ, dựng Báo phòng, xây hai xưởng Đông, Tây, nhìn vào hai nhà Lỗ, Mặc mà tìm kiếm gợi ý từ trong nghề mộc, đều là những phương pháp cực đoan.

-Kỳ thực chuyện hoang đường nhất vẫn chưa dừng lại ở đó. Khó tưởng tượng nhất là vào năm Thiên Khải, hoàng thượng tin lời một đạo sĩ lang thang, dẫn lửa trời thiêu đỉnh vàng, dùng Hoả để luyện Thiên bảo.

-Ý của ông là dùng lửa chớp để luyện Hoả bảo ư?

-Không những dùng lửa chớp, mà còn dùng lửa của mặt trời và lửa của thiên thạch. Dùng những loại lửa này dẫn cháy gỗ vạn thánh, than thiên sơn, đặt Hoả bảo trong đỉnh tròn tử kim cửu long nhật nguyệt, rồi luyện trên lửa, cho hơn nghìn tăng, đạo, ni cô vây xung quanh tụng kinh văn cầu trời nạp phúc suốt ba ngày ba đêm không ngừng nghỉ.

-Kết quả thế nào? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Vào ngày thứ ba, đột nhiên sáng tối đảo lộn, Tý Ngọ đổi giờ, vào lúc giữa trưa mà trời tối đen như mực. Trong đỉnh tròn tử kim cửu long nhật nguyệt có ánh sáng trắng phun trào dữ dội, sau vài lần lên xuống thì nổ tung, san phẳng một phạm vi hơn hai chục dặm.

-Là vụ nổ lớn Thiên Khải[17]! Vụ nổ khủng khiếp vào năm Thiên Khải hoá ra là do Chu gia dùng lửa trời và đỉnh vàng luyện Hoả bảo gây ra ư?

Người áo xanh gật đầu khẳng định.

-Chi mạch của ông có rất nhiều cao sĩ, nhân tài, tại sao không có một ai ngăn cản?

-Lúc đó chi mạch của ta chưa có!

-Chi mạch của ông chưa có? Nhưng sau thời Thiên Khải cũng chỉ còn hai đời hoàng đế, có lẽ không có chi mạch nào có thể hội tụ được thực lực lớn mạnh như chi mạch của ông! - Lỗ Nhất Khí rất am hiểu lịch sử nhà Minh, bởi vậy càng nghe càng thấy khó hiểu.

-Chi mạch của ta chỉ là chi mạch nhánh, không được liệt vào hoàng thất, sử quan không chép, người đời không hay.

Về điểm này, Lỗ Nhất Khí không tỏ vẻ kinh ngạc, cũng không hỏi thêm, chỉ khẽ mỉm cười. Bởi lẽ họ Chu Minh quả thực gian mưu quỷ kế quá đỗi, sự việc có quái lạ đến đâu với gia tộc họ cũng chỉ là bình thường.

Thấy cái mỉm cười đầy ẩn ý của Lỗ Nhất Khí, người áo xanh khó che giấu được vẻ phật ý:

-Ngươi hoài nghi Chu môn ta là mạo danh ư?

Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ có nét mặt đã trở lại bình thường.

-Vậy để ta nói cho cậu rõ, chi mạch này của ta đích thực là thân thích của hoàng đế triều Minh, chỉ có điều nguồn gốc có ẩn tình, nếu để người đời biết được, sẽ khinh thường hoàng thất nhà Minh. Có điều hôm nay kể cho cậu nghe cũng không phương hại gì. Chi mạch của ta là đích mạch của Thiên Khải đế, thân mẫu là...

-Khoan đã, đừng nói gì nữa! Một số bí mật sau khi biết được, tính mạng sẽ khó được lâu dài! - Lỗ Nhất Khí quả quyết chặn ngang lời người áo xanh.

-Vậy ta sẽ không nói nữa, có điều dựa vào trí tuệ của tôn giá đây, chắc hẳn đã có thể suy đoán ra lai lịch của chi mạch Chu môn ta.

Lỗ Nhất Khí không quen nói dối, nên khẽ gật đầu. Cậu thực sự đã đoán ra được nội dung mà người áo xanh định nói ra.

Là đích mạch của Thiên Khải đế, song không thể cho người đời biết, lại có được nguồn nhân lực, tài lực lớn mạnh đến vậy, kết hợp cả ba yếu tố này, chỉ có thể đưa ra một đáp án duy nhất: chi mạch này do Thiên Khải đế và nhũ mẫu Khách thị sinh ra.

Thiên Khải đế si mê nhũ mẫu Khách thị, lại bị Khách thị mê hoặc đến không dứt ra nổi. Song dù là chính sử hay dã sử, cũng đều không thấy ghi chép giữa họ có cốt nhục chung, có lẽ chính là nhờ công lao của đại thái giám Nguỵ Trung Hiền vốn rất thân thiết với Khách thị. Vừa muốn che giấu cốt nhục của Khách thị và hoàng đế, lại vừa muốn cốt nhục này sở hữu được thực lực và tài sản to lớn, chỉ có thể nhờ vào sự trợ giúp của hai xưởng Đông, Tây trong tay Nguỵ Trung Hiền; hơn nữa, để chi mạch này sở hữu được bảo bối giết rồng do tổ tiên Chu gia truyền lại, cũng chỉ có Khách thị và Nguỵ Trung Hiền đủ sức thực hiện.

-Nói như vậy, nếu ông giành được Thiên bảo, không những có thể chấn hưng hoàng thất nhà Minh, mà còn có thể quy về dòng mạch chính.

-Quả thực là nhằm mục đích này! Chi mạch của ta tuy nhân đinh không vượng, song đời đời đều vắt kiệt tâm huyết và trí lực để tìm kiếm những món bảo bối khác. – Người áo xanh rất thành thực.

-Các người đã muốn dựa vào bảo bối khác thay thế cho Hoả bảo để tiếp tục giành lấy ngôi vị đế vương, thì làm sao tôi có thể tin rằng các người chỉ mượn dùng một lát? - Lỗ Nhất Khí hỏi vặn.

Người áo xanh mỉm cười nói:

-Không ngờ cậu lại xoay ngược trở về vấn đề này. Cậu đã hỏi thì ta sẽ giải thích cho cậu nghe. Tổ tiên Chu gia sau khi lấy được bảo bối, phải chăm chút thờ cúng hết đời này đến đời khác, đến nghìn năm sau mới có thể tích tụ đủ bảo khí để dùng. Bây giờ, dù chúng ta có lấy được bảo bối khác, muốn nhờ cậy được e rằng chí ít cũng phải đợi cả nghìn năm. Bởi vậy mục đích của Chu gia ta vẫn là Hoả bảo.

-Vẫn là Hoả bảo? Chẳng phải đã bị nổ tung trong lễ Hoả tế rồi ư?

-Giữa Thiên bảo và Thiên bảo huyền nghĩa tương đồng, linh tính tương thông, có thể lợi dụng bảo khí của một bảo bối để tích tụ nên bảo tướng của bảo bối khác. Bởi vậy ta muốn lợi dụng một bảo bối khác để tích tụ nên Hoả bảo trong ngũ hành. Nguyên lý này là do cao nhân tiền bối nhà ta nghiền ngẫm được từ trong tổ huấn của Chu gia.

Lỗ Nhất Khí đã hiểu, trong "Cơ xảo tập" có viết rằng, Mặc gia được "bảy phần thiên cơ ba phần khéo", mà giáo huấn của tổ tiên Chu gia thực chất chính là "Mặc môn thập bát thiên", có thể tìm ra nguyên lý thâm diệu này từ trong đó cũng là lẽ thường tình.

Kỳ thực ngay từ lúc người áo xanh nói "chỉ mượn dùng một lát" sợi thừng đã được tháo nút, Lỗ Nhất Khí đã nghĩ ngay tới việc lấy bảo tụ bảo. Suy cho cùng cậu cũng đã nghiên cứu toàn bộ "Cơ xảo tập", lý luận ghi chép trong đó không ai có thể hiểu rõ bằng cậu.

-Theo như tôi được biết, tại nơi Thiên bảo nổ tung sẽ hấp thụ được toàn bộ bảo khí và những mảnh vỡ của Thiên bảo, Chu gia chỉ cần chiếm được nơi đó, coi như cũng đã lợi dụng được bảo lực, hà cớ gì phải dùng món bảo bối này để trao đổi với tôi? - Lỗ Nhất Khí ngoài mặt có vẻ như đang nghĩ cách giúp đối thủ, song kỳ thực lại muốn xác minh một phán đoán rất quan trọng của mình.

-Điều này Chu gia sớm đã nghĩ tới, cũng đã từng mời cao nhân xem xét, song kết luận là nếu như Thiên bảo vỡ tan, con người sẽ không thể dùng được, chỉ có thể kết thành địa linh. Có được phúc trạch từ bảo khí của Hoả bảo tản mát, nên kinh đô Tử Cấm sẽ mãi mãi trở thành đất đế vương, song lại không thể mãi mãi là đất đế vương của một dòng họ.

-Ồ! – Câu trả lời này đúng là một "thu hoạch" lớn của Lỗ Nhất Khí trong cuộc đàm phán với người áo xanh.

Tuy nhiên, "thu hoạch" mà Lỗ Nhất Khí mong muốn có được nhất vẫn đang ở trước mặt người áo xanh, cậu có một cảm giác vô cùng mãnh liệt rằng món bảo bối đang nằm trong chiếc hộp gỗ nam tơ vàng kia sẽ thuộc về mình, mà không, nói chính xác hơn là nó sẽ thuộc về nơi mà nó nên thuộc về.

Người áo xanh hiểu rằng những điều nên nói đều đã nói xong, bèn cẩn thận gói ghém tấm lụa vàng và túi vỏ cây lại như cũ, nhẹ nhàng đẩy tới trước mặt Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không nhận lấy mà đứng thẳng dậy, nhìn xa xăm về hướng tây bắc. Nơi đó, lớp lớp mây đen đang cuồn cuộn kéo về, trong trời mây thi thoảng lại xẹt qua một tia vàng chói lọi, chạy dài xuống tận mặt đất.

-Dông tố sắp tới rồi! - Lỗ Nhất Khí khẽ nói.

Người áo xanh không có phản ứng gì. Hắn đang chờ đợi.

Lỗ Nhất Khí vẫn chưa cầm lấy chiếc túi vỏ cây, mà đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Cậu nhìn thấy rất ít, song lại cảm giác được rất nhiều. Dưới khe đất phía nam vụt lên một luồng khí bừng bừng, là một luồng kiếm khí rất quen thuộc, chỉ có điều lúc này dữ dội hơn hẳn lần trước, phản ứng này chắc hẳn có liên quan tới món vũ khí giết rồng. Sau gò đất nhỏ phía bắc có một làn khí âm tà dật dờ lan toả, đó là ma khí, mức độ dày đặc rất giống với làn ma khí quanh Dưỡng Quỷ Nương. Còn một luồng khí nữa cách đám người của phó quan Ngô không xa, đó là một làn thi khí ma quái phả lên từ trong lòng đất. Không phải là thi khí của cương thi ẩn phục, cũng không phải là của xác chết nhập tràng, trên đời này hình như không có loại thi khí nào giống như vậy, trong khí âm sát cực độ lại kèm theo một thế thái rừng rực.

Lỗ Nhất Khí lại ngồi xuống, đồng thời liếc về phía sau lưng người áo xanh. Ở đó có gốc cây du mà lão áo trắng vừa ẩn nấp, mặt đất vàng nơi đó cũng thoáng chút xao động.

-Đã gặp gỡ vài lần, vẫn chưa biết tôn tính đại danh của tôn giá đây! - Lỗ Nhất Khí thu ánh mắt lại, nhìn thẳng vào bộ râu đen nhánh rất mực nho nhã của người áo xanh.

-Chu Chân Mệnh, môn trưởng của Chu gia.

-Được, Chu môn trưởng, việc này tôi đồng ý! - Lời vừa thốt ra, bàn tay của Lỗ Nhất Khí đã đặt lên chiếc túi vỏ cây.

-Vậy lúc nào sẽ tháo nút dây? – Chu Chân Mệnh vẫn e sợ phát sinh chuyện ngoài ý muốn.

-Đêm nay! - Lỗ Nhất Khí đáp.

Vừa nghe, Chu Chân Mệnh hai mắt vụt sáng:

-Ở đâu?

-Không xa!

Vùng cao nguyên Hoàng Thổ trời tối muộn, cái mát mẻ cũng quay về cùng với bóng đêm. Mãi vẫn không thấy mưa rơi, chỉ có mây đen dày đặc cuồn cuộn cuối chân trời, những chớp vàng chói lọi chốc chốc lại rạch toang bầu không phía xa xăm.

Trên cánh đồng hoang vu phía trước xuất hiện một vài bóng đen cao lớn, lù lù như gò đất ngáng đường, lại càng giống những vị thần tuần đêm.

Lỗ Nhất Khí khẽ ghì dây cương lừa, dừng lại trong cái bóng âm u của những khối đen.

-Ai gọi Chu môn trưởng ra đây! - Lỗ Nhất Khí nói với người bên cạnh.

Chu Chân Mệnh vươn thẳng người trên lưng ngựa, ánh mắt nhìn thẳng, thần thái điềm tĩnh. Hắn ung dung băng qua đám người phía Lỗ Nhất Khí, tới trước mặt cậu.

-Chu môn trưởng, ông hãy xem địa hình nơi đây, đúng là cửa gió lùa có hình khe núi máng cạn tiêu chuẩn. Song kỳ lạ là ở chỗ, tại cửa gió lùa lại có đất tụ thành ba gò, bao năm mưa gió vùi dập mà không sập lở, ông cảm thấy nguyên do vì đâu?

Chu Chân Mệnh không trả lời ngay. Đến tận khi phía trời xa xẹt qua một tia chớp tía, mới thong thả lên tiếng:

-Gò đất phía nam ở vị trí nam lệch bắc, dưới là đá xếp, trên là đất nện, nên không bị mưa phía nam xói mòn. Gò đất phía bắc hai góc giao nhau, mặt gò bằng phẳng, có thể ngăn cản gió tây bắc thổi tới. Cả hai gò này đều là kiến trúc bảo vệ do con người dựng nên. Gò ở giữa tuy không nhìn rõ cấu tạo, song lại được hai toà kiến trúc nhân tạo kia bảo vệ, chắc chắn không phải là gò đất bình thường.

-Cao minh! Tôi nói cho ông biết, gò đất ở giữa có thế lạc đà nằm, cửa hút gió ở phía tây vốn là một vành hình vòng cung, ông nghĩ thế nào về điều này? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Cục tướng này là "Ngọc tàng kim hộc"[18] được ghi chép trong "Kham dư âm dương quyết". Nếu quả đúng là như vậy, chỗ đó có lẽ là cư thất của đế vương bị đất trôi chôn vùi. – Chu Chân Mệnh trả lời.

-Sinh thất hay lăng thất?

-Rất khó nói. Nếu là sinh thất, tại sao phải đắp đất làm gò. Nếu là lăng thất, thì không cần thiết phải xây dựng công trình che mưa thông gió. Cụ thể ra sao cần nhìn phần đỉnh nóc của công trình mới có thể phán đoán chắc chắn.

-Đúng vậy! Gò đất này còn có một hiện tượng kỳ lạ nữa đó là đất bám lên thì dính chặt, nước chảy qua thì không thấm, cây cỏ không mọc được.

-Đất bụi tự tích tụ ư? Vậy thì trong đó chắc chắn phải có bảo bối quý hiếm! – Khi nói câu này, trong mắt Chu Chân Mệnh loé lên một tia sáng rực – Đã biết được hiện tượng kỳ lạ này, tại sao mấy ngày qua cậu lại đi thăm dò nơi khác?

-Điều này tự có nguyên do riêng. Trong hai nơi đó, có một nơi là phương vị Bộ Canh, là một sống đất cao trăm trượng nằm vắt ngang hướng âm dương của dòng sông. Nơi còn lại là phương vị Tâm Canh, hai mươi tám ụ đất dàn trải tại tây nam theo phương vị ngược của tinh tú. Nơi thứ nhất cách đây bảy mươi hai dặm, là số Thiên tinh; nơi thứ hai cách đây ba mươi sáu dặm, là số Địa môn. Hai nơi đó kết hợp với vị trí Nhâm Canh chỗ này vừa hay hình thành thế đất ba bậc.

-Cậu nói khí tướng nơi đây là bày Thiên tinh mở Địa môn, song lại xuất hiện hiện tượng nằm ngang âm dương, đảo ngược tinh tú, là bởi vì Thổ bảo di dời vị trí?

Lỗ Nhất Khí không trả lời, chỉ nói khẽ:

-Gọi người của ông tới ra tay đi!

-Còn một vấn đề nữa, nếu gò đất này là sinh thất, lối vào có lẽ ở phía nam; nếu là lăng thất, lối vào có lẽ ở phía đông. Bọn ta nên bắt đầu từ chỗ nào? – Chu Chân Mệnh lại hỏi.

-Tiến hành đồng thời! Người của tôi và của ông trà trộn với nhau rồi chia ra làm đôi, tiến hành từ cả hai phía. - Biện pháp của Lỗ Nhất Khí rất công bằng, hai nhà trà trộn với nhau, có thể theo dõi lẫn nhau, không có chuyện giấu giếm riêng tư.

-Như vậy rất hay, song ta nhất thiết phải đi cùng với cậu! – Yêu cầu của Chu Chân Mệnh có vẻ rất hợp lý.

-Được! – Gò má của Lỗ Nhất Khí khe khẽ giật lên một cái, không biết muốn tỏ ý cười hay khó chịu.

Chú thích

[15] Quả của cây du là loại quả cánh có hình tròn hoặc hình trứng, hạt nằm ở giữa quả hoặc hơi nhích lên trên, phình lên giữa quả, trông giống như đồng tiền xu, nên người ta thường gọi là du tiền.

[16] Có nghĩa là chạm vào máu, sẽ cứng họng chết ngay tức khắc.

[17] Vụ nổ lớn xảy ra ở xưởng Vương Cung, lịch sử gọi là "vụ nổ lớn Thiên Khải" hoặc "tai nạn xưởng Vương Cung". Vào 9 giờ sáng ngày 30 tháng 5 năm 1626, ngay sau tiết Đoan Ngọ một hôm, đã xảy ra một vụ nổ khủng khiếp tại khu vực gần kho thuốc nổ của xưởng Vương Cung phía tây nam Bắc Kinh.

[18] Có nghĩa là ngọc ẩn trong đấu vàng, chép trong "Kham dư âm dương quyết", là tên gọi của vùng đất phong thuỷ cực tốt trong Kham dư học. Có nghĩa là ba mặt núi cao một mặt núi thấp vây quanh, miệng nhỏ bụng to, giống như là cái đấu bằng đồng đổ nghiêng. Hướng của nó có thể thu nạp tối đa nhật nguyệt, nuôi dưỡng đá như ngọc. Vùng đất phong thuỷ này không những có thể hấp thu tinh hoa nhật nguyệt mà còn là cứ điểm quan trọng công thủ song toàn trong quân sự. Bởi vậy các bậc đế vương thường lựa chọn vùng đất này để xây dựng kinh đô hoặc cung điện.

Chương 21: Ba gò đất

Nhân lực mau chóng phân chia thành hai nhóm. Lỗ Nhất Khí cùng Nghê Thất, Lợi Hâm và sáu thị vệ của phủ Đại nguyên soái bắt đầu tìm kiếm từ phía đông, cùng với đám người phía Chu gia gồm Chu Chân Mệnh, gã mắt đỏ và bảy tám tên vừa mới mọc ra từ dưới khe rãnh và trong bóng tối. Những người còn lại do lão mù, Hứa Tiểu Chỉ, phó quan Ngô dẫn đầu, kết hợp với đám người bên Chu gia gồm có lão Sa man, lão già áo trắng nấp sau gốc cây du lúc ban ngày và hơn chục tên sùm sụp áo choàng, khăn mũ một màu vàng đất, bắt tay đào bới từ phía nam.

-Có người đã bắt đầu động thổ rồi, ở phương chính đông và tây bắc. – Lão mù chọc cây gậy xuống đất, khum bàn tay thành hình trôn ốc đặt sát cán gậy, áp tai nghe ngóng – Phía chính bắc cũng có tiếng đào bới.

Quả là vô cùng quái lạ. Cả Lỗ gia và Chu gia đều chưa ra tay, song tại những hướng khác đều đã có kẻ hành động trước.

-Xem ra chúng ta đã bị kẻ khác theo dõi! - Lỗ Nhất Khí nói.

-Cũng có thể có người vừa tiết lộ thông tin. – Chu Chân Mệnh cũng phán đoán.

Lỗ Nhất Khí biết đám người phía mình không thể so sánh với đám thuộc hạ của Chu Chân Mệnh. Phía Chu gia được huấn luyện kỹ càng, tổ chức chặt chẽ, trong khi những người đi theo cậu chỉ là một đám ô hợp, mỗi người đều có ý đồ riêng. Nếu đúng là có người để lộ thông tin, rất nhiều khả năng là người bên phía cậu.

-Vậy bây giờ phải làm sao? Hay là Chu môn trưởng điều vài người sang bên ấy đuổi bọn chúng đi? - Lỗ Nhất Khí không phải muốn làm khó họ, cậu biết rõ việc này hoàn toàn nằm trong khả năng của Chu gia.

-Mấy tên nhãi nhép đó cần gì phải điều người xử lý, chúng sẽ phải dừng tay im hơi ngay bây giờ đây! – Trong giọng nói của Chu Chân Mệnh toát lên vẻ khoái trá và hưng phấn như gã thợ săn trước con mồi.

Quái nhân mắt đỏ nghe Chu Chân Mệnh nói vậy thì quay người bước đi, một lát sau đã thấy vác về hai chiếc túi gai to tướng, trong túi lùng bà lùng bùng, liên tục phát ra những tiếng loạt soạt, nhìn qua đã biết là đựng rất nhiều vật sống.

Gã mắt đỏ liếc nhìn Chu Chân Mệnh, Chu Chân Mệnh khe khẽ gật đầu. Hai chiếc túi gai lập tức được xách tới bên cạnh gò đất ở giữa, gã mắt đỏ mở túi, dốc ra hai khối đen thù lù. Sau đó thò tay vào trong chiếc túi vải giắt bên thắt lưng, bốc ra thứ gì đó vẩy rắc túi bụi.

Trong đám thị vệ của phủ đại soái, có hai người tò mò bật đèn pin lên, muốn xem hai khối đen lùng nhùng đó là thứ gì. Song bọn họ đã phải hối hận ngay lập tức, bởi lẽ hai khối đen đó đủ khiến họ gặp ác mộng suốt đời.

Một khối là đám rết máu xác mà họ đã nhìn thấy trên cây du, còn một khối là một đám rắn lúc nhúc đủ mọi kích cỡ, vằn vện đủ mảu. Đám rắn tuy khác nhau về kích thước, màu sắc, hoa văn, song kỳ thực đều cùng một loại. Trong "Dị trùng phả" có chép rằng, đó là loài rắn dẹt ngũ sắc, độc tố cực mạnh, trườn nhanh như chớp, hơn nữa còn có thể co rút thân hình trở nên mỏng dẹt để chui qua những khe hở chật hẹp.

Hai tay thị vệ cuống cuồng tắt vội đèn pin. Nhìn thấy hai búi trùng độc ghê tởm lúc nhúc uốn éo xoắn rối vào nhau, chưa lập tức nôn thốc nôn tháo đã là kiên cường lắm lắm.

-Không phải tắt! Lát nữa thôi bọn ta còn phải đèn đuốc sáng trưng cờ giong trống mở mà hành sự! – Chu Chân Mệnh càng tỏ ra phấn khích.

Song đám thị vệ chẳng còn hồn vía nào mà bật đèn lên nữa. Đến khi đám thuộc hạ của Chu gia châm lên hơn chục đĩa đèn mỡ lợn thì hai khối rết và rắn đã chẳng còn lại mấy con.

-Quái lạ, chui đâu hết rồi? – Lão Lợi hỏi khẽ.

-Chui cả vào trong gò đất rồi! - Lỗ Nhất Khí đáp.

-Đúng vậy, dù là rết máu xác hay rắn dẹt ngũ sắc, khi bị bột âm huyết[19] xua đuổi, sẽ vội vàng chui vào các khe nứt. Chúng ta mở đường bằng trùng độc, lần theo dấu vết của trùng độc để tìm ra vết tích của kiến trúc. Còn bọn không mời mà đến kia, cứ để cho chúng đào sâu thêm khoảng hai trượng rồi tự chôn mình luôn! – Lúc này, khí tướng thần tiên trong người Chu Chân Mệnh đã không còn sót lại chút nào.

-Đó mới chỉ là mục đích thứ nhất. Còn mục đích thứ hai là để kiểm soát phạm vi hành động của bọn tôi sau khi vào trong gò đất. Có đám trùng độc này, bọn tôi nhất thiết phải đi cùng các vị, chỉ cần tách khỏi các vị, hoặc lợi dụng cơ quan chốt lẫy để thoát khỏi các vị, sẽ lập tức bị trùng độc tấn công. Việc này có khác gì choàng một bộ gông xiềng lên người bọn tôi để xích chặt bọn tôi với các vị! – Cơ bắp bên gò má Lỗ Nhất Khí lại khẽ giật lên một cái, rõ ràng không phải đang cười, mà là đang khó chịu.

Nghe cậu nói vậy, Chu Chân Mệnh ngoài mặt tuy tỏ ra điềm tĩnh, song bên trong sự điềm tĩnh vẫn lộ chút đắc ý.

Cao thủ đào đất của Chu gia ai ai cũng thân thủ phi phàm. Trong những bao bố to đùng mà chúng mang theo có rất nhiều dụng cụ quái dị, như bộ vuốt thép hoa sen xích rút, quả cầu răng đinh lắc, bừa cong cán gập... đều là những dụng cụ vô cùng hữu dụng trong việc đào bới tìm kiếm công trình ngầm dưới đất. Bởi vậy việc đào bới gò đất không đến lượt Nghê Thất phải động tay, hắn chỉ cần nhàn nhã bám theo sau.

-Sâu trượng hai, dọc ngang bằng cung hai thạch[20], đều là đất vàng tích tụ.

-Sâu trượng tám, dọc ngang bằng cung hai thạch rưỡi, đều là đất vàng tích tụ.

-Sâu hai trượng tư...

Bọn họ đào xuống mỗi lúc một sâu, chốc chốc lại có người bẩm báo tình hình với Chu Chân Mệnh và Lỗ Nhất Khí. Song kết quả rất rõ ràng, bọn họ vẫn chưa hề phát hiện ra điểm gì khác thường. Nếu như có chuyện gì bất thường, chỉ là khi đào đến độ sâu hơn hai trượng không phát hiện thấy đám trùng độc vừa được gã mắt đỏ thả xuống. Trong khi "bọn không mời" ở ba ngả đường khác vẫn đào bới không nghỉ, đã thế tốc độ còn được đẩy nhanh hơn nữa.

Trên gò đất đã xuất hiện đường hầm, nhờ tác dụng truyền âm và khuếch âm, có thể nghe thấy rất rõ tiếng đào bới từ phía bọn lão mù và từ ba đám người chưa rõ lai lịch kia. Dựa vào âm thanh, có thể thấy rằng trong ba đám người, có hai đám số lượng rất đông đảo, đám còn lại nhân lực thưa thớt, song kỳ lạ là tốc độ đào bới của đám người đó lại nhanh chóng nhất trong tất cả các hướng.

-Ba trượng hai, dọc ngang chu vi bằng cung hai thạch hai phân, đất vàng tích tụ, thấy một con rồng dẹt ngũ sắc chui xuống khe đất, ba lộ địch bất thường.

Đúng vậy, khi tới độ sâu khoảng ba trượng, âm thanh phát ra từ ba hướng kia đột ngột rối loạn, ngay sau đó tiếng đào bới nghe như có như không, xem ra nút lẫy trùng độc đã phát huy tác dụng. Có điều phía nhân lực thưa thớt chỉ dừng lại một thoáng, rồi nhanh chóng tiếp tục, tình hình này khiến mọi người đều cảm thấy bất an.

-Bốn trượng hai, dọc ngang bằng cung hai thạch rưỡi, có đất đen tích tụ, có dấu vết đầm nện.

Nghe thấy thông tin đó, Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh bất giác đưa mắt nhìn nhau.

-Năm trượng chẵn, có đất xám trắng, có dấu vết đầm nện, xen lẫn đá vụn to khoảng ngón tay.

Chu Chân Mệnh nhìn thẳng vào cửa hầm nói:

-Một vệt đất đen, hai vệt đất xám trắng, đây không phải là sinh thất!

Lỗ Nhất Khí chắp tay sau lưng nhìn về phía những ánh chớp nhoang nhoáng đã dày đặc hơn phía chân trời, đáp:

-Cũng chưa hẳn là lăng mộ. Hầm báu vật trong địa cung cũng có lối kiến trúc như vậy.

Lại khoảng nửa canh giờ nữa trôi qua, trong đám đất xám trắng được đào lên dần dần không còn thấy đá vụn nữa, thay vào đó là cỏ tranh bằm vụn, đào sâu thêm nữa lại là đất sét trộn lẫn cỏ tranh.

-Ta xuống thử xem! – Chu Chân Mệnh đã không thể kiên nhẫn thêm được nữa, sự nôn nóng đã lại khiến hắn thua thêm một bàn.

-Được, tôi sẽ theo sau ông! – Tuy sắc mặt và giọng nói của Lỗ Nhất Khí vẫn hết sức điềm nhiên, song trong lòng cậu nãy giờ cũng đã thắc thỏm đến khó mà kiềm chế.

-Phía dưới có gỗ xếp thành lớp.

Hai người còn chưa kịp bước chân xuồng hầm, lại có tin tức truyền lên.

-Gỗ xếp thành lớp? Phần đỉnh là gỗ xếp thành lớp, chẳng lẽ lại là "hoàng trường đề tấu"[21] trong truyền thuyết. - Lỗ Nhất Khí biết trong các hình thức mộ táng từ thời Hán trở về trước, đẳng cấp cao nhất chính là "hoàng trường đề tấu", chuyên dùng cho các bậc đế vương, hoặc phải do đế vương đích thân ban tặng. Song việc Thổ bảo dời chỗ lại xảy ra vào đầu thời Nguyên, khoảng cách thời gian quá xa, trừ phi các đệ tử của Khâu Xử Cơ mượn dùng mộ Hán cổ làm bảo cấu, để giấu Thổ bảo vào trong đó.

-Mang một khúc gỗ lên đây! – Chu Chân Mệnh cũng thấy nghi hoặc, song hắn vẫn muốn chứng thực thêm. Nhìn vào điểm này, có thể thấy hắn suy nghĩ chu toàn hơn Lỗ Nhất Khí rất nhiều.

Từ dưới đưa lên không chỉ có gỗ, mà còn có cả tre, song đều đã mục nát. Đường kính của cả hai loại vật liệu khá đồng đều, to bằng miệng bát, rõ ràng đã được chọn lọc.

-Tỷ lệ giữa gỗ và tre thế nào? – Chu Chân Mệnh hỏi.

-Bốn gỗ một tre xếp thành dãy.

Chu Chân Mệnh lại tách đôi khúc gỗ vừa được đưa lên, xem xét phần tâm gỗ, sau đó đưa cho Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí không được đọc nhiều sách vở có liên quan tới mộ cổ, nên khi nhìn vào khúc gỗ, cậu thấy rất mơ hồ, không biết có thể nhận ra được điều gì từ bên trong khúc gỗ mục vừa tách đôi. Song Lỗ Nhất Khí vẫn quan sát tỉ mỉ, cuối cùng buông ra một kết luận nghe rất ngờ nghệch:

-Lõi gỗ có màu xám đen!

Chu Chân Mệnh rất hài lòng, bởi lẽ kết luận ngờ nghệch đó chính là trọng tâm của vấn đề:

-Thật không hổ danh là môn trưởng của Lỗ gia, một lời trúng phóc. Hoàng trường đề tấu dùng gỗ nam tâm vàng, tuy loại gỗ này đã mục nát đến khó nhận ra, song tâm gỗ lại không có màu vàng. Hơn nữa lại xếp gỗ xen với tre, tre rỗng ruột lại dẻo dai, nếu như bị ẩm hoặc khô, sẽ có tác dụng co giãn hoãn xung. Nhìn vào đây có thể đoán rằng, lớp gỗ này chỉ là phần đất đắp ở rìa ngoài kiến trúc, chứ không phải là "hoàng trường đề tấu". - Hiểu biết của Chu Chân Mệnh về mộ thất dưới lòng đất phong phú hơn Lỗ Nhất Khí rất nhiều, cũng bởi vì Chu môn đã tiến hành đào trộm vô số hầm mộ, vơ vét của cải để phục vụ cho mục tiêu giành lại thiên hạ.

-Đất đắp ư? Thảo nào bên trên đều là đất vàng tích tụ, hoá ra lúc này mới chỉ là bước khởi đầu cho việc khai quật công trình dưới đất. - Lỗ Nhất Khí nói đúng, tác dụng của lớp đất đắp là để ngăn chặn nước và đất bụi từ bên ngoài tràn vào công trình dưới đất, là tầng bảo vệ ngoài cùng của mộ huyệt, địa cung.

-Ba lộ địch kia tiến triển đến đâu rồi? - Lỗ Nhất Khí bắt chước kiểu nói của đám thuộc hạ Chu gia. Người Chu gia khác với người giang hồ, sử dụng thuật ngữ giống trong quân đội hơn.

Vừa hay lúc này, một thuộc hạ của Chu gia kéo sọt đất đi ngang qua trước mặt Lỗ Nhất Khí, bèn đáp:

-Lộ địch ít người đã vượt qua chúng ta, hai lộ nhiều người đã tụt lại từ lâu rồi, nhưng lúc này không nghe thấy động tĩnh gì nữa.

-Khoan đã! – Chu Chân Mệnh đột nhiên phát hiện ra điều gì đó.

Đây là lần đầu tiên Lỗ Nhất Khí nghe thấy Chu Chân Mệnh bật lên một tiếng kêu lớn đến vậy, trong lòng bỗng thót lại, khí thế tự nhiên thành hình, khí tướng chốc đã bừng bừng lan toả.

Chu Chân Mệnh lập tức nhận ra sự biến đổi trong khí tướng của Lỗ Nhất Khí, bèn cho rằng cậu cũng đã phát hiện ra sự bất thường mà hắn vừa nhận thấy, trong lòng thầm cảm thán anh hùng kiến giải tương đồng.

-Đưa sọt đất cho ta xem! – Chu Chân Mệnh nói với tay thuộc hạ.

Trong sọt đất có một nửa là cát.

-Sọt đất này lấy từ tầng nào vậy? – Chu Chân Mệnh hỏi.

-Đây là tầng đất đầu tiên sau khi phá bỏ lớp gỗ xếp thành dãy.

-Tiếp đó thì sao?

Những sọt đất tiếp theo đang được vận chuyển ra bên ngoài, liền mấy sọt đều đất ít cát nhiều, hai sọt cuối cùng hầu như toàn là cát.

-Tại sao chưa có chỉ thị đã xâm nhập vào trong lớp gỗ? Cũng không hồi báo về sự thay đổi của tầng đất là sao? – Chu Chân Mệnh có vẻ hơi tức giận.

-Không phải chúng tôi, mà là cậu bảy nhà họ Nghê. Hắn cứ như là đang chạy đua với ai đó, tự ý phá vỡ lớp gỗ mà vào, càng đào càng nhanh. - Thuộc hạ của Chu gia bẩm báo.

Lỗ Nhất Khí tuy không hiểu gì về trộm mộ, song căn cứ vào một số kiến thức cậu đã thu thập được khi còn ở Lưu Ly Xưởng và do Nghê Tam truyền lại, cậu hiểu rằng tay Nghê Thất kia đã phạm vào đại kỵ trong nghề trộm mộ. Khi phá mộ thất dưới lòng đất, càng xuống sâu, khả năng gặp phải cơ quan khảm diện càng lớn, nên càng phải giảm bớt tốc độ và thận trọng hơn nữa. Lúc này tuy tầng đất phía dưới đổi thành cát, đào bới dễ dàng, song nếu so sánh giữa cát và đất, thì chất cát linh hoạt hơn nhiều. Chốt lẫy cạm bẫy không thể hoạt động trong đất, song lại có thể vận hành trong cát.

-Hiện tại chu vi phía dưới là bao nhiêu? – Chu Chân Mệnh đã có vẻ nôn nóng.

-Không nhìn rõ được, bên dưới xuất hiện rất nhiều đá tảng, cậu bảy họ Nghê đang vòng sang hướng khác tìm khe nứt chui vào. - Một thuộc hạ của Chu gia vừa thò đầu ra khỏi cửa hầm, nghe Chu Chân Mệnh hỏi vậy, vội vã đáp lời.

-Xuống dưới, bảo hắn dừng lại ngay! – Chu Chân Mệnh vừa nói vừa đưa chân đạp mạnh lên vai tên thuộc hạ mới nhô được nửa người ra khỏi cửa hẩm. Một luồng kình đạo lớn lập tức đẩy gã trượt thẳng cánh xuống tận đáy hầm chẳng khác gì con chạch.

Tên này vừa chạm xuống đáy hầm đã lập tức kêu gào ầm ĩ bò ngược trở lên. Lẫn trong tiếng kêu gào, Chu Chân Mệnh còn nghe tiếng đá tảng va đập và tiếng cát sạt lở.

-Thôi, muộn mất rồi! Cát lở đá vùi đã khởi động rồi! Tay Nghê Thất kia đúng là đồ óc lợn, đến cả Cát lở đá vùi cũng không hiểu - Giọng Chu Chân Mệnh tràn đầy tiếc nuối.

-Bị vùi lấp rồi ư? Cho người xuống đào lên chứ! - Lỗ Nhất Khí cũng hiểu đã xảy ra tai nạn, song vẫn không tỏ ra hoảng loạn.

-Trong lòng đường hầm quá hẹp, không thể dịch chuyển đá tảng, hơn nữa khi hắn chui vào lại đi vòng để tìm khe hở, sau khi bị đá lấp, không thể biết được vị trí chính xác. Bởi vậy muốn cứu người trong khảm diện Cát lở đá vùi, không thể nóng vội được, cần phải bỏ ra rất nhiều công sức. - Giọng điệu của Chu Chân Mệnh nghe rất thành thật.

-Thế thì thôi vậy. Mong rằng ở hiền gặp lành, Nghê Thất có thể chịu đựng được cho tới khi chúng ta phá được khảm diện! - Lỗ Nhất Khí lãng đạm nói.

Đúng vào lúc đó, từ hướng còn lại cũng truyền tới thông tin, hai thị vệ của phó quan Ngô cũng đã bị chôn trong khảm diện Cát lở đá vùi.

Nhận được thông tin, Lỗ Nhất Khí bỗng thấy nghi hoặc trong lòng. Tại sao ở cả hai đường, chỉ có người của mình gặp nạn? Đến Chu Chân Mệnh còn biết phía dưới có khảm diện Cát lở đá vùi, chẳng lẽ đám cao thủ đào đất chuyên nghiệp kia lại không bằng một môn trưởng? Còn nữa, Nghê Thất rốt cuộc muốn chạy đua với ai mà phải cố sống cố chết đào sâu xuống? Chẳng lẽ hắn đã bị trúng tà hay ma nhập, hay là muốn chạy đua với bóng ma nào?

Chu Chân Mệnh đã nhận ra vẻ hoài nghi của Lỗ Nhất Khí. Để chứng tỏ mình vô can, hắn chủ động đưa ra ý kiến:

-Tình hình phía dưới đã như vậy, chắc chắn phải dùng canh gạo nếp để phong kín cát chảy mới có thể tiếp tục đào xuống. Bọn ta chuẩn bị đầy đủ rồi lại tới, người của ta sẽ dẫn đầu.

Đề xuất thoạt nghe có vẻ rất hợp lý và thành thực, song Lỗ Nhất Khí lại phát hiện ra rất nhiều điều không thoả đáng. Chu giá vốn xuất quỷ nhập thần, lại có nhân lực đông đảo, nhóm người hiện tại rút về, vẫn có thể ngấm ngầm phái một nhóm khác tới tiếp tục đào, như vậy sẽ đẩy được đám người Lỗ gia đi. Còn nữa, ba nhóm người kia lai lịch còn chưa rõ ràng, ai dám chắc chắn bọn chúng không phải là người của Chu gia? Còn một điểm nữa, có lẽ chỉ có Lỗ Nhất Khí hiểu rõ trong lòng, đó là thứ mà cậu thu hoạch được từ chỗ Chu Chân Mệnh lúc ban ngày, nếu muốn sử dụng, tuyệt đối không được đợi tới ngày mai.

Lại một tia chớp rạch ngang bầu trời, sáng loà một hồi lâu, khiến mọi người đều nhìn thấy rõ sắc mặt trắng bợt như sáp của đối phương. Liền sau đó là tiếng sấm ùng oàng chạy ngang trên đỉnh đầu. Mây đen và sấm chớp mới vừa nãy còn tít tắp chân trời, đã lặng lẽ kéo tới lúc nào mà chẳng ai hay biết.

-Tôi muốn bàn bạc riêng với người của tôi một lúc! – Yêu cầu của Lỗ Nhất Khí hẳn cũng không phải là quá đáng.

Song Chu Chân Mệnh đã phải bất ngờ. Vốn dĩ hắn chỉ nghĩ rằng "bàn bạc riêng" có nghĩa là muốn người bên mình tạm thời lánh đi, song không ngờ Lỗ Nhất Khí lại "bàn bạc riêng" với từng người một.

Tiếng sấm đì đùng làm nhiễu loạn thính giác của một số người, bởi vậy không ai biết Lỗ Nhất Khí đang trao đổi gì với một người khác trong bọn. Hơn nữa Lỗ Nhất Khí không chỉ bàn bạc riêng với lão mù, lão Lợi, Hứa Tiểu Chỉ, phó quan Ngô, mà thậm chí còn thầm thì to nhỏ với từng người trong đám thị vệ.

Chu Chân Mệnh đã toát mồ hôi hột, hắn có cảm giác đang bị người khác lôi ra làm trò đùa. Lúc này, hắn bắt đầu cảm thấy hơi hối hận vì đã giao món bảo bối giết rồng mà tổ tiên truyền lại cho Lỗ Nhất Khí. Tuy rằng mồi nhử này được thả xuống rất đúng lúc, song cuối cùng có câu được cá, lấy lại được mồi hay không, dường như vẫn còn nhiều điều bất định.

Cuộc trao đổi với từng người một của Lỗ Nhất Khí kéo dài lê thê mãi mới kết thúc, chẳng khác gì đám đàn bà con gái rề rà buôn chuyện dông dài không biết chán.

Chu Chân Mệnh cuối cùng cũng có thể điều hoà lại tâm thái, hồi phục lại ít nhiều vẻ đạo cốt tiên phong.

Chỉ có điều lúc này mây đen và sấm chớp đã chụp thẳng xuống đỉnh đầu bọn họ. Chớp loé liên hồi khiến hình người cũng biến đổi chóng mặt giữa trắng và đen, tiếng sấm rền dậy đất khiến những lời trao đổi không ngừng gián đoạn. Gió thốc qua lòng máng cạn, cuốn bụi đất bốc mù mịt tung trời. Cơn mưa đã tới rất gần.

Chú thích

[19] Bột âm huyết là thứ bột được chế từ kinh nguyệt của phụ nữ có kinh kỳ từ mồng 4 đến mồng 7 và từ ngày 27 đến ngày 29 âm lịch.

[20] Đơn vị đo lường riêng của nhà họ Chu, tức chiều dài bằng hai cánh cung giương, chiều rộng bằng hai cánh cung giương, tương đương khoảng bốn mét vuông.

[21] Hoàng trường đề tâu là một hình thức mộ táng dành cho vua chúa, quý tộc phổ biến từ thời Xuân Thu đến thời Hán tại Trung Quốc. "Hoàng trường" có nghĩa là ruột vàng, tức là gỗ nam tâm vàng; "đề" có nghĩa là đầu gần gốc của súc gỗ; "tấu" là tụ vào bên trong. "Hoàng trường đề tấu" có nghĩa là xếp gỗ nam tâm vàng thành từng lớp song song, quay phần gốc vào trong vuông góc với vách quách.

Chương 22: Trời đổ mưa

Kết quả bàn bạc thế nào? – Chu Chân Mệnh hỏi Lỗ Nhất Khí đang thong thả tiến về phía mình.

-Không đào xong chỗ này, chúng tôi quyết không rời khỏi đây! - Giọng Lỗ Nhất Khí vô cùng kiên định.

Chu Chân Mệnh rất bất ngờ trước câu trả lời của Lỗ Nhất Khí.

-Nhưng lúc này không thể đào thêm được nữa, lại thêm mưa lớn thình lình, nước đọng đất bùn cùng đổ xuống, xuống dưới sẽ càng thêm nguy hiểm.

-Ông nói rất đúng. Bởi vậy lần này tới lượt bọn tôi ra tay.

-Cậu xuống?

-Đúng!

-Nếu ta ngăn cản cậu thì sao? – Chu Chân Mệnh cảm thấy bản thân đang bị đùa giỡn. Mồi nhử và lưỡi câu đều muốn tuột khỏi bàn tay, thì còn hy vọng câu được thứ gì?

-Ông sẽ không làm như vậy, mà cũng không thể làm như vậy. - Lỗ Nhất Khí hơi căng thẳng, dù gì cậu cũng đang phải đối mặt với một cao thủ hết sức khó lường.

-Có lẽ! – Chu Chân Mệnh nhìn chằm chằm vào Lỗ Nhất Khí. Một tia chớp lại giật lên chói loá giữa đất trời, và Chu Chân Mệnh đã nhìn thấy vẻ căng thẳng hiện trên nét mặt Lỗ Nhất Khí. Cậu thanh niên này dù sa vào tình thế nguy hiểm đến đâu cũng không bao giờ tỏ ra căng thẳng, nhưng lúc này biểu cảm lại có vẻ khác thường, hay là đã phát hiện ra vết tích của bảo vật, muốn giấu mình để hòng độc chiếm?

-Có lẽ ta không cản được cậu, song ta có thể đưa ra một vài hành động sau khi cậu xuống đó! – Chu Chân Mệnh một câu đánh đúng trọng tâm.

-Tôi đã nói rồi, ông sẽ không làm như vậy, cũng không thể làm như vậy, bởi vì ông phải xuống đó cùng với tôi! - Lỗ Nhất Khí chớp mắt đã hồi phục lại trạng thái bình thường. Trải qua những ngày tháng bôn ba trong giang hồ, cậu phát hiện thấy rằng càng những khi phải đối diện với nguy hiểm và áp lực cực độ, cậu càng dễ dàng trấn tĩnh.

-Ta có lý do gì để cùng xuống với cậu?

-Có! Bởi lẽ cuộc trao đổi giữa chúng ta mới chỉ bắt đầu, bởi lẽ ông mong muốn cuộc trao đổi sẽ thành công. Vả lại... vả lại phía dưới kia có trùng độc mà các người thả xuống.

-Xem ra ta và cậu đã bị xích chặt với nhau rồi. – Khi nói câu này, Chu Chân Mệnh không hề tỏ ra bất đắc dĩ, bởi lẽ hắn cảm thấy người đang sa vào tình thế bất đắc dĩ chính là Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí nhìn khắp lượt những người xung quanh, sau đó lại đổi giọng mềm mỏng chân thành:

-Có điều phía dưới quả thực vô cùng nguy hiểm, ông có cần thiết phải đích thân xuống hay không, nên suy nghĩ cho kỹ, đừng để lát nữa lại hối hận.

Chu Chân Mệnh gật đầu dứt khoát:

-Chúng ta cần phải cùng nhau tìm ra sợi dây kia. Mong rằng cả ta và cậu cuối cùng đều không phải hối hận.

Một tia chớp chói mắt lại rạch ngang trời. Trong ánh chớp sáng trắng, hai vị môn trưởng cùng nhìn nhau mỉm cười. Đúng vào lúc đó, những giọt mưa rất lớn rào rào rơi xuống.

Chu Chân Mệnh chỉ đưa mắt ra hiệu, đám thuộc hạ của hắn lập tức hành động, loáng một cái đã dựng lên một chiếc lều vải dầu trước cửa hầm, đắp một bờ đất xung quanh cửa hầm, về cơ bản đã không còn phải lo lắng nước mưa chảy ngược xuống dưới.

Đối phó với cơn mưa rất dễ dàng, song muốn giải quyết khảm diện Cát lở đá vùi và các khảm diện có khả năng tồn tại khác, lại hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh của những người bên dưới.

Lỗ Nhất Khí dẫn theo hai người xuống, là Hứa Tiểu Chỉ và một tay thị vệ thuộc hạ của phó quan Ngô.

Chu Chân Mệnh đột nhiên phát hiện ra mình đã nhìn lầm. Tay thị vệ béo trắng mặc bộ trang phục không hợp khổ người kia tuy bộ dạng nhang nhác ông Phật Di Lặc không biết cười, động tác cũng lề mề chậm chạp, song mỗi cử động đều toát ra hình tướng bén nhọn, khí thế chết chóc. Đây chắc chắn là một cao thủ.

Phía Chu gia cũng đã lựa chọn nhân lực xong xuôi, Chu Chân Mệnh muốn đích thân theo xuống, bởi lẽ hắn cảm thấy ngoài hắn ra, chẳng ai trong Chu gia có thể kèm sát Lỗ Nhất Khí. Xuống cùng hắn cũng có hai người, một là lão già áo trắng, lão vốn là thủ lĩnh của đám cao thủ đào đất, theo xuống là đương nhiên. Người còn lại là quái nhân mắt đỏ, tên quái vật này biết điều khiển trùng độc, chế ngự xác chết, lại càng nên xuống. Tuy số người hai bên bằng nhau, song Chu gia lại có lũ trùng độc do bọn họ thả xuống, quái nhân mắt đỏ còn có khả năng điều khiển xương cốt thi hài, nên kỳ thực Chu gia vẫn chiếm ưu thế hơn hẳn.

Người đi xuống đầu tiên là Hứa Tiểu Chỉ. Trước khi xuống, hắn còn chọc thủng một lỗ trên gờ đất dùng để chặn nước mưa:

-Chỗ này không nên bịt kín, để nước chảy xuống, sẽ sử dụng đến.

Đám thuộc hạ của Chu gia đưa mắt nhìn Chu Chân Mệnh, Chu Chân Mệnh khẽ gật đầu.

Theo sau Hứa Tiểu Chỉ là lão già áo trắng, tiếp đến là Lỗ Nhất Khí và tay thị vệ béo phây phây. Lúc này, tay thị vệ béo trắng đã cởi trần trùng trục, lộ ra nửa thân người trắng lốp, tròn quay.

Chu Chân Mệnh và quái nhân mắt đỏ đi sau cùng, tựa như sai nha đang áp giải một đám phạm nhân.

Đường hầm do Nghê Thất và đám cao thủ đào đất của Chu gia đào ra rất chắc chắn. Dòng nước mưa cuốn theo bùn đất ào ào chảy xuống mà không hề xói lở lấy một chút đất vụn trên vách hầm đã được nện kỹ.

Hứa Tiểu Chỉ đi đến vị trí phần đất đắp với lớp gỗ xếp thẳng hàng thì dừng lại, ngẩng đầu lên hỏi lão già áo trắng:

-Có thể đào một đường hầm khác từ đây không?

Lão già này tuy là người của Chu môn, song xuất thân lại từ phái Chồn Đào trong bốn đại gia trộm mộ.

Trong bốn đại gia trộm mộ, phái Một Tay là phái không nhập mộ, chỉ đào lỗ nhỏ rồi dùng dụng cụ đưa qua đó để lấy đồ vật lên, đơn giản mà lại an toàn, song thu hoạch thường không nhiều. Chiêu số của họ khá tương tự với một phái khác trong bốn đại gia là phái Thú Trộm. Phái Thú Trộm cũng đào lỗ nhỏ, sau đó dùng động vật đã qua huấn luyện để lấy đồ vật lên. Còn hai phái Chồn Đào và Dời non phá núi là hai phái đào đất trực tiếp để vào hầm mộ, song khác biệt ở chỗ, Dời non phá núi là đào trong phạm vi lớn, còn phái Chồn Đào chỉ đào hầm để vào, tuy công lực đào bới không bằng Dời non phá núi, song lại có kỹ thuật độc đáo trong việc đào hầm sâu, gia cố vách hầm.

Đối với một cao thủ của phái Chồn Đào, yêu cầu của Hứa Tiểu Chỉ chỉ là chuyện vặt. Lão già nhoay nhoáy bổ ngang phạt chéo một hồi đã đào xong một đường hầm mới. Khi tiếp tục đào tới vị trí lớp gỗ xen tre, lão bèn dùng một chiếc xẻng thép dài đầu tròn cẩn thận tách rời lớp gỗ, sau đó đổi vị trí cho Hứa Tiểu Chỉ.

-Trong cát có trùng độc không đấy? - Hứa Tiểu Chỉ chưa ra tay đã tỏ ra sợ hãi.

Chủ nhân của đám trùng độc cũng đã xuống đây, hắn cần gì phải lo lắng?

Song Hứa Tiểu Chỉ hỏi vậy không phải là không có lý do, hắn hành sự chỉ bằng hai bàn tay không, không cần tới dụng cụ, ngón tay tuy cứng rắn, song dù sao vẫn sợ bị côn trùng cắn phải.

-Yên tâm đi, đảm bảo không có chuyện gì! – Câu trả lời tuy là do cao thủ phái Chồn Đào nói ra, song Hứa Tiểu Chỉ cũng thấy tin tưởng.

Những thao tác thành thục đã được bắt đầu. Trước tiên Hứa Tiểu Chỉ đưa bàn tay phủi sạch vụn gỗ mục trên bề mặt, để lộ ra lớp cát phía dưới, rồi chọc rút ngón tay vài lần xuống cát, để thử xem độ ẩm của cát. Tiếp đến, hắn từ từ thọc lút cả cánh tay vào sâu trong cát để tìm kiếm vị trí của tảng đá.

-Cho một ít nước bùn xuống đây, rồi bảo người phía trên mang xuống chút đá vụn! - Hứa Tiểu Chỉ quay đầu lại nói.

Yêu cầu vừa được đưa ra, lão già đứng sau đã múa xẻng vùn vụt, chớp mắt đã thấy một rãnh nước ngoằn ngoèo chạy xuống men theo vách hầm, dẫn nước bùn từ bên trên xuống.

Còn tay thị vệ béo trắng đứng sau cũng vươn cổ hướng về phía cửa hầm gào lên ầm ĩ:

-Cho một ít đá vụn xuống đây! - Giọng hắn cao vống và vang vọng, lối hò hét rất giống với cách rao hàng ngoài chợ.

Đã có nước bùn và đá vụn, Hứa Tiểu Chỉ bắt đầu thi triển thân thủ.

Cát lở đá vùi là loại cạm bẫy thường được sử dụng ở vòng bên ngoài mộ cổ. Tức là ở một độ sâu nhất định sẽ đổ cát mịn vào, trong cát mịn có cho thềm đá tảng, như vậy khi kẻ trộm mộ đào hầm để xâm nhập vào mộ, cát mịn sẽ chảy đi khiến đá chuyển động, kẻ trộm mộ sẽ bị chôn vùi trong nháy mắt. Tuy Hứa Tiểu Chỉ không phải là người trong nghề trộm mộ, song hắn là thủ lĩnh của đám ngư dân cào nghêu sò trên bãi bùn ở Hoàng Hải, nên cực kỳ thông thạo đặc tính của cát bùn. Bởi vậy, hắn có cách thoát khỏi Cát lở đá vùi một cách an toàn.

Đất cát trên bãi bùn ven biển nếu được thấm đủ nước sẽ trở nên vô cùng rắn chắc, cần phải giẫm đạp liên hồi cho nước trong bùn trào ra ngoài, bùn đất mới lỏng ra. Bởi vậy, phương pháp dùng canh gạo nếp phong toả cát chảy của họ Chu tuy rất hay, song không phải là phương pháp duy nhất. Ngoài canh gạo nếp, nước bùn cũng có thể phong toả cát chảy. Hơn nữa, đất bụi tích tụ phía trên gò đất có độ kết dính rất cao, bên dưới hầm còn có một đoạn dài là tầng đất sét, những thứ này có thể mang lại hiệu quả phong toả cát lở không thua kém gì canh gạo nếp.

Cách làm của Hứa Tiểu Chỉ là trước tiên tìm ra vị trí của "đá vùi", dùng đá vụn bịt kín chỗ hở xung quanh tảng đá. Sau đó, cho "cát lở" hút đủ nước, rồi nện cho chắc. Tiếp đến, dùng nước bùn có độ kết dính cao phong kín mặt vách, như vậy sẽ không xảy ra hiện tượng sạt lở nữa. Phương pháp này quan trọng nhất là cần có nước, nên đúng là ông trời giúp đỡ, làm mưa đúng lúc, đã đảm bảo được nguồn cung cấp nước.

Sau khi tảng đá đã được chống đỡ vững chãi, cát ẩm đã được nện chắc, Hứa Tiểu Chỉ bắt đầu nhoay nhoáy cắm năm ngón tay xuống cát ẩm, móc ra từng khối lớn.

Lão già phía sau là kẻ trong nghề, chỉ liếc mắt qua đã nhận ra ngay cách đào cát của Hứa Tiểu Chỉ cực kỳ chắc chắn. Chỉ có dùng tay đào bới mới có thể phát hiện kịp thời những thứ ẩn giấu trong cát, mới có thể kiểm soát lực đạo một cách hợp lý để không động chạm tới các tảng đá, bởi vậy, không một công cụ nào có thể thay thế được. Hơn nữa tuy cát ẩm đã được nện chắc, song nếu những ngón tay không thi triển được lực đạo nâng nhấc nhẹ nhàng, chắc chắn không thể đào ra từng mảng cát lớn như vậy được.

Đường hầm dần dần được đào sâu xuống khảm diện Cát lở đá vùi. Trong đoạn đường hầm tiếp theo, không thể trực tiếp giẫm chân lên vách hầm, cũng không thể giẫm lên những khối đá bên cạnh, nên chỉ còn cách dựng một thanh gỗ ngang trong hầm đất phía trên, sau đó dùng dây thừng từ từ thả người xuống.

-Hình như tới đỉnh mộ rồi, bên dưới là một bề mặt rộng, không có cát! - Hứa Tiểu Chỉ kêu lên, giọng điệu chưa thực sự chắc chắn.

Lão già muốn đổi chỗ cho Hứa Tiểu Chỉ để xuống nhìn cho rõ, song Hứa Tiểu Chỉ nhất quyết không chịu lên. Hắn sợ phải nhường mất cơ hội vào trong ám cấu đầu tiên để thu được nhiều lợi ích nhất cho người khác.

-Vậy ngươi nói xem tình hình dưới đó thế nào? - Thấy Hứa Tiểu Chỉ không chịu nhường chỗ, lão già đành phải hỏi vọng xuống.

-Bề mặt này hình như được làm bằng vật liệu hơi giống với gỗ, nhưng lại không có đường vân, sau khi nước xối qua, có màu trắng hơi ngả sang vàng.

-Hả? – Lão già kêu lên kinh ngạc.

-Quái lạ nhỉ? – Tay thị vệ béo trắng phía sau Lỗ Nhất Khí cũng tỏ ra băn khoăn.

-Sờ vào thấy vừa trơn vừa ráp, gõ ngón tay giống như tiếng trúc vỡ, đấm xuống tựa như tiếng trống trầm đục! - Hứa Tiểu Chỉ tiếp tục thông báo những phát hiện của hắn.

Lão già thực không hổ danh cao thủ của phái Chồn Đào:

-Đấm vào như tiếng trống cho thấy phía dưới trống rỗng, gõ ngón tay như tiếng trúc vỡ cho thấy gần đó có vết rạn nứt, cũng có thể là vị trí xếp chồng lên khe hở. Có lẽ đúng là phần đỉnh nóc.

Song lão lại không nói ra vật liệu của phần đỉnh nóc là gì, có lẽ là không muốn nói cho người khác biết.

Nhưng tay thị vệ béo tròn kia lại biết, gã ghé sát tai Lỗ Nhất Khí thì thầm một chữ.

-Xương à? Chưa thấy nóc mộ đã thấy xương? Không phải chứ? – Chu Chân Mệnh lên tiếng hỏi lại, không ngờ hắn đã nghe thấy chữ "xương" mà tay thị vệ vừa mới thì thào với riêng Lỗ Nhất Khí.

Cũng vì hiệu quả truyền âm trong vách hầm khá tốt, lại thêm Chu Chân Mệnh có công lực nghe gió nhận âm rất cao siêu, nên trong phạm vi nhỏ hẹp này, dù là lời thì thầm khẽ tới đâu cũng không thể lọt qua đôi tai của hắn. Lỗ Nhất Khí hiểu rằng, cách ứng phó tốt nhất với tình trạng này là không được phép trao đổi.

Kỳ thực, Chu Chân Mệnh lập tức nói toạc ra nội dung vừa nghe được là muốn "rung cây doạ khỉ", khiến bọn họ không còn dám giở trò trước mặt mình. Bởi lẽ hắn cảm thấy biểu hiện của Lỗ Nhất Khí mỗi lúc một thêm quỷ quyệt. Nhìn vào những biểu hiện của cậu sau khi bước xuống hầm, thì thấy cậu ta chân tay lóng ngóng, động tác chậm chạp, phản ứng trì độn, không hề giống với người luyện võ. Bởi vậy Chu Chân Mệnh cảm thấy thấp thỏm không yên. Bản thân hoàn toàn không hiểu gì về chân tướng của đối phương, lại càng không thể suy đoán được đối phương đang có toan tính gì kế tiếp. Năng lực "nhìn vẻ mặt thấu tâm tư, nhìn hành vi biết kết quả" mà hắn áp dụng rất hiệu quả với thuộc hạ đã hoàn toàn vô hiệu trước cậu thanh niên này.

-Lấy xương làm nóc? Vậy phải cần đến bao nhiêu xương, cần xương to cỡ nào? - Lỗ Nhất Khí tỏ ra hết sức ngờ nghệch và hiếu kỳ.

-Thiên hạ rộng lớn, thứ kỳ lạ nào cũng có. - Lời Chu Chân Mệnh đầy ẩn ý.

-Đúng vậy! Rừng mà rộng chim gì cũng có, người mà tạp chiêu gì cũng rành. - Lỗ Nhất Khí lập tức trả đòn.

Chính vào lúc này, Chu Chân Mệnh phát hiện ra làn khí tướng khiến người khác phải choáng ngợp trên cơ thể Lỗ Nhất Khí đã không còn nữa. Tại sao lại có hiện tượng này? Chẳng lẽ tiến vào trong hầm, người liền biến đổi?

Đúng vậy, lúc này Lỗ Nhất Khí không thể hoà mình vào trong trạng thái tự nhiên. Con người ai cũng vậy, khi trong lòng xuất hiện một dục vọng mãnh liệt, sẽ rất khó tĩnh tâm ngưng khí giữ lòng tĩnh định.

-Là chỗ ráp nối giữa hai tấm, tôi tách chúng ra nhé! – Không ai ngăn cản Hứa Tiểu Chỉ, mặc dù hành động đó rất nguy hiểm.

-Phía dưới tối thui, chẳng nhìn thấy gì, cho cái đèn xuống đây! - Hứa Tiểu Chỉ đã tách rời hai tấm lợp nóc.

Một chiếc đèn chụp pha lê chắn gió mà dân trộm mộ thường dùng đã được dòng xuống bằng một sợi dây tết bằng lông đuôi ngựa, đây là đồ vật tuỳ thân của lão già cao thủ phái Chồn Đào.

-Phía dưới trống rỗng, rất cao! - Hứa Tiểu Chỉ nói xong, liền nhặt một hòn đá to bằng cái bát ném xuống dưới. Hòn đá nảy lên vài cái, vẳng lên thứ âm thanh ong ong trống trải.

-Nghe tiếng thì thấy nền phía dưới rất chắc chắn, có thể xuống! – Chu Chân Mệnh phán đoán.

-Vậy tôi sẽ xuống. Lão già, thả dây thừng xuống nữa đi! - Hứa Tiểu Chỉ có phần nôn nóng và phấn khích.

Vẫn không có ai ngăn cản. Lão già mau chóng thả dây thừng xuống thêm một đoạn.

Chỉ thấy sợi dây thừng kéo căng rồi lắc lên một cái, đã không thấy Hứa Tiểu Chỉ đâu nữa, chỉ còn nhìn thấy chiếc đèn pha lê mà hắn mang xuống theo.

Song ánh sáng đèn còn chưa xuống dưới được bao nhiêu, đã vọng lên một tiếng kêu rú kinh hãi. Ngay sau đó, ánh đèn rơi thẳng xuống dưới, sau cùng là một tiếng vỡ chói tai.

Đây không phải là lần đầu tiên lão già kia gặp phải cảnh tượng này, bởi vậy phản ứng rất nhanh nhẹn. Lão túm chặt sợi dây thừng, vận sức kéo lên.

Lực đạo của lão rất mạnh, song vừa kéo đã hẫng ngay một cái, khiến cánh tay vằng mạnh lên trên, đập thẳng vào vách hầm khiến nước mưa và bùn đất bắn tung tứ phía.

-Xuống mau! – Chu Chân Mệnh trầm giọng ra lệnh. Phía dưới có nguy hiểm! Phía dưới có dị thường! Song người của Chu gia khác với người khác, bọn họ không vì thế mà hoảng loạn hay tháo chạy. Nguy hiểm và bất thường cũng thường đồng nghĩa với thu hoạch lớn. Trước lợi ích, họ có thể bất chấp tất cả, sẵn sàng trả giá.

Lão già nghe vậy, lập tức vung sợi thừng đi, quấn thành một nút thắt tràng hoa trên đầu thanh gỗ ngang, sau đó một tay bám vào dây thừng, trượt thẳng xuống dưới. Vừa trượt đi, tay kia liền móc từ trong ngực áo ra một cây đuốc nhỏ, dùng một tay lắc vẫy để châm cháy.

-Chớ dùng lửa! – Tuy Lỗ Nhất Khí không thông thạo nghề trộm mộ, song cậu biết rằng hầm mộ trong lòng đất bị bịt kín lâu năm rất có thể tích tụ khí mê tan, thắp lửa sẽ dẫn tới cháy nổ.

Song ngọn lửa bập bùng vẫn mau chóng vụt xuống. Im lặng, thậm chí đến một lần bùng lên cũng không có. Có lẽ Lỗ Nhất Khí quá lo xa, có lẽ lão già cao thủ đã đánh hơi thấy phía dưới không có khí mê tan. Ngọn lửa rất ổn định, bên dưới cũng rất tĩnh lặng.

-Không thấy hắn ở dưới! – Sau một hồi lâu im lặng, lão già mới hô vọng lên trên. Khoảng thời gian đó đủ để lão ta quan sát kỹ lưỡng cả một không gian rộng lớn.

-Có đường nào khác không? - Lỗ Nhất Khí cảm thấy sự việc có vẻ bất thường.

-Có một đường, song chưa mở.

-Người đi qua rồi đóng lại, cũng là chưa mở! – Tay thị vệ béo trắng bật lên câu nói lớn đầu tiên, giọng Thiểm Tây đặc sệt.

Người phía Chu gia và Lỗ Nhất Khí đều hiểu lão già nói "chưa mở" là có ý gì. Bởi vậy không ai để ý tới tay thị vệ, rõ là lời nói càn của kẻ ngoại đạo.

Thấy mọi người đều không đếm xỉa tới mình, gã bèn nói:

-Hay là để tôi xuống xem, lão kia già cả mắt mờ, không khéo rách đũng không thấy chỉ nhìn bàn chân! – Nói đoạn, lập tức nghiêng người, lách qua Lỗ Nhất Khí, bám lấy dây thừng tuột thẳng xuống.

Chu Chân Mệnh và quái nhân mắt đỏ đều sững người lại, bởi lẽ động tác của tay thị vệ béo trắng có phần nằm ngoài sức tưởng tượng của họ. Lỗ Nhất Khí đang đứng giữa hầm, khe hở bên cạnh cậu rất nhỏ, dù là cơ thể gầy đét như lão mù cũng chưa chắc đã lách qua được. Vậy mà tên thị vệ to xác kia không những lách được qua, mà thậm chí còn không chạm vào vạt áo của Lỗ Nhất Khí. Hơn nữa, đường hầm mà Hứa Tiểu Chỉ đào trong khảm diện Cát lở đá vùi rất nhỏ hẹp, lại có nhiều chỗ quanh co, lão cao thủ Chồn Đào khi trượt xuống cũng va đập đến mấy lần, song tay thị vệ lại vụt một cái đã trượt xuống, không làm bong tróc lấy một hạt cát.

-Công phu rút xương? Không giống, thuật rút xương không thể xoay chuyển nhanh như vậy được! – Chu Chân Mệnh lẩm bẩm.

-Ha ha! Gã đấy thì rút xương cái nỗi gì, tôi thấy là công phu rút mỡ thì đúng hơn! - Lỗ Nhất Khí hiếm khi tỏ ra trào phúng như vậy.

-Này, mọi người cũng xuống cả đi! Cái của nợ chết toi này tôi chả hiểu gì sất! – Tay thị vệ vừa xuống đến nơi đã kêu lên ầm ĩ.

-A, khoan đã, tôi là người tàn tật, các người hãy nghĩ cách đưa tôi xuống trước đã. Nếu không tôi sẽ ngồi đợi ở đây không đi đâu hết! – Đúng vậy, đường hầm chật hẹp lại thẳng đứng, Lỗ Nhất Khí chỉ có một bàn tay trái, muốn trượt xuống dưới không phải dễ dàng.

Tuy nhiên điều này chỉ đúng với người bình thường, còn trong mắt những người khác, cậu rõ ràng là một cao thủ tuyệt đỉnh, thế mà lúc này lại giở giọng chây ì, bắt môn trưởng và các cao thủ tuyệt đỉnh của Chu gia đích thân đưa xuống. Quả là một trò đùa táo tợn. Đôi mắt của quái nhân mắt đỏ càng đỏ vằn lên, hắn bước lên một bước, lách qua bên cạnh Chu Chân Mệnh, đưa hai tay chụp thẳng về phía Lỗ Nhất Khí.

Chương 23: Xương lân tinh

Giúp Lỗ môn trưởng buộc cho chắc, thả xuống cẩn thận! - Lời Chu Chân Mệnh vừa cất lên, bàn tay của gã mắt đỏ liền dừng lại trên vai phải Lỗ Nhất Khí.

Nhìn thấy bộ dạng lúng túng của gã mắt đỏ, Lỗ Nhất Khí bật cười khoái chí.

-Đừng vội! Buộc chung ta và Chu môn trưởng vào một nút, trật tự trước sau phải giống nhau! - Lỗ Nhất Khí vẫn cười thoải mái.

Quái nhân mắt đỏ hành động rất chóng vánh. Hắn tròng dây thừng vòng qua vai phải Lỗ Nhất Khí, rồi từ từ thả cậu xuống.

Sau khi thả Lỗ Nhất Khí xuống, quái nhân mắt đỏ quay đầu nhìn Chu Chân Mệnh, mồm miệng mấp máy vài cái không phát ra âm thanh.

Chu Chân Mệnh khẽ chau mày:

-Người này lòng dạ khó lường, chúng ta lấy bất biến ứng vạn biến, phải theo dõi hắn thật sát sao.

Quái nhân mắt đỏ gật đầu, rồi tung người lộn về phía sau, mất hút sau cửa hầm.

Khi Chu Chân Mệnh xuống tới nơi, lão cao thủ Chồn Đào đã đốt lên một đống lửa. Dưới này vốn có một đống gỗ tạp nham, sau khi đốt lên, đã chiếu sáng bừng một không gian kín được phong bế vô cùng nghiêm mật.

Ba mặt là đất, một mặt là tường, trên tường có một cánh cửa hình vuông. Phần nóc hình vòm được ráp bởi những tấm ván. Do bọn họ đã đục thủng nóc mà xuống, nên đã ảnh hưởng tới độ vững chãi của nóc hình vòm, dưới áp lực đè xuống của khảm diện Cát lở đá vùi, trông nó vô cùng nguy hiểm, như muốn sập xuống đến nơi.

Gian mật thất có kết cấu rất đơn giản, người trong nghề chỉ cần đưa mắt một lượt đã có thể xác nhận được rất nhiều thứ.

-Ở đây không có phần nóc cố định, xem ra chúng ta chưa tìm tới đúng nơi. Theo lý mà nói thì ám cấu thực sự có lẽ ở mặt bên kia của bức tường, còn nơi đây chỉ là đoạn cuối của đường hầm, cũng có thể là nơi trung chuyển nguyên vật liệu trong lúc xây dựng ám cấu. – Chu Chân Mệnh vừa xuống, lão già đã vội vàng báo cáo tình hình.

-Lỗ môn trưởng, cậu cảm thấy thế nào? – Chu Chân Mệnh hỏi Lỗ Nhất Khí, vẻ đầy ẩn ý.

-Người của tôi đâu rồi? Lỗ Nhất Khí muốn biết Hứa Tiểu Chỉ tại sao lại mất tích.

-Không biết! – Lão già quả thực không hay biết.

-Không để lại vết tích nào ư? – Chu Chân Mệnh xen vào một câu.

-Không phải, có vết tích, song không biết phải tìm thế nào. – Lão già nói, giọng điệu đột nhiên có vẻ hơi run rẩy, tựa như là bị ma bóp cổ.

-Là sao? - Đến Chu Chân Mệnh cũng ngẩn người ra.

-Vết tích rất nhiều, trước khi chúng ta xuống dường như đã có rất nhiều người đến đây. Hơn nữa nơi này, nền không một mảy bụi, vách không một vệt mốc, góc tường không một vụn rêu, chỗ nào cũng thấy vết quét dọn. Phía trước chân tường bên trái có một vết bụi, là vết chân giẫm lên. – Lão già bẩm báo với Chu Chân Mệnh mọi hiện tượng mà mình quan sát được.

-Mặt trời xoay lâu (thời gian lâu rồi à)? Đường cào của quật mộ (dấu vết do kẻ trộm mộ để lại)? – Chu Chân Mệnh bắt đầu dùng ám ngữ, bởi lẽ hắn cảm thấy không nên để Lỗ Nhất Khí biết rõ mọi chi tiết.

-Hơi thuốc nóng miệng (mới gần đây thôi), khách quen ba bữa (thường xuyên ra vào), giống chổi phẩy bụi (dấu vết giống như có người quét dọn)! – Lão già trả lời.

-Ông đừng có hù doạ tôi, tôi nhát gan nên sợ ma lắm đấy! Xung quanh kín mít thế này, lại sâu hun hút đến sắp chạm cả vào mái điện Diêm Vương mà ông nói có người thường xuyên ra vào, lại còn quét dọn nữa chứ! Ngoài lũ ma quỷ chết toi, thì còn cái quái gì lượn lờ ở đây được? – Không ngờ tay thị vệ béo trắng lại hiểu được ám ngữ của Chu gia.

-Lỗ môn trưởng, vậy thì phiền cậu xem xét kỹ rồi cho kết luận! – Chu Chân Mệnh không thèm đếm xỉa tới tay thị vệ, mà đẩy nhiệm vụ gai góc này cho Lỗ Nhất Khí.

-Đã kiểm tra chất tường, chất đất và nền đất dưới chân chưa? - Lỗ Nhất Khí hỏi.

-Vẫn chưa kịp làm!

-Vậy còn chỗ ráp nối của gạch trên tường, chỗ giao nhau giữa mặt tường và mặt nền, đã kiểm tra chưa? Còn nữa, cánh cửa chưa mở kia là mặt hư (làm giả hình dạng của cửa) hay là lỗ thực (cửa thực mở ra lối đi)?

-Là sao? – Lão già không hiểu những thuật ngữ của Lỗ gia, mặt mũi có phần ngơ ngác.

Chu Chân Mệnh hiểu ý của Lỗ Nhất Khí, bước lại góc giao nhau giữa tường và nền đất, bắt đầu kiểm tra.

-A! Đây không những là mặt hư, mà còn là sương mù trên mặt (hiện tượng giả bề ngoài), hái tướng đổi nhau! – Tay thị vệ béo trắng kia còn thông hiểu các lý thuyết của Lỗ gia hơn cả lão già, vừa mới quan sát đã kêu lên ầm ĩ.

-Không sai! Quả nhiên tường là đất, đất là tường, mọi người hãy nhìn gạch trên tường, bẩy ra chỉ dày bằng ngón tay, hoàn toàn chỉ là nguỵ trang, chứ không phải dùng để chống đỡ trọng lực. Cánh cửa chỉ là một khe hở trên nền thực, không thể mở ra. Đất trên ba mặt còn lại đều là đầm chắc mà thành, có xen lần sợi đay, sợi gai, rơm rạ, có khả năng mở ra được. – Sau khi xem xét kỹ lưỡng, Lỗ Nhất Khí cũng đưa ra kết luận tương tự.

-Vậy sau tường đất có đường đi ư? – Chu Chân Mệnh chỉ quan tâm tới điểm này.

-Không có! - Điều này lão già có thể khẳng định.

-Ba mặt đều là tường móng, dưới chân là khối đá liền, không có cơ quan chốt lẫy. - Lỗ Nhất Khí cũng khẳng định chắc chắn.

-Vậy người của cậu đã đi đâu? – Chu Chân Mệnh muốn có được lời giải thích hợp lý.

-Ông hỏi vậy khác nào bảo người của tôi cố tình chơi trốn tìm, giấu giếm điều gì không để cho các người biết. Câu hỏi này đáng lẽ không nên hỏi tôi! - Lỗ Nhất Khí cãi lý.

-Vậy thì nên hỏi ai?

-Hỏi những kẻ đã quét dọn ở đây! - Lỗ Nhất Khí đột nhiên hạ thấp giọng, ngữ điệu kéo dài, khiến người nghe muốn sởn tóc gáy.

Chu Chân Mệnh là bậc kỳ tài hiếm có, kiến thức uyên thâm, bởi vậy hắn dễ dàng nhìn thấu tâm lý của người khác. Thường khi những kẻ trẻ người non dạ tỏ vẻ ta đây, ra điều huyền bí đều là vì muốn lên mặt, bởi lẽ họ đã nhìn ra mấu chốt của vấn đề.

-Các người hãy quan sát kỹ những vết quét kia, quét dọn không phải để cho sạch sẽ, mà là muốn che giấu đầu mối. – Chu Chân Mệnh khẽ đảo mắt, căn cứ vào lời nói của Lỗ Nhất Khí, hắn đã lập tức nhận ra manh mối.

-Lợi hại! Quả không hổ danh là môn trưởng. - Lời ca ngợi thốt ra từ miệng Lỗ Nhất Khí rõ ràng nghe rất gượng gạo và giả dối.

-Cậu mới lợi hại! Dấu vết che đậy như tơ nhện chân kiến, vậy mà cũng không lọt qua nổi mắt cậu.

-Có lẽ ông đã hiểu lầm rồi, tôi không hề phát hiện ra dấu vết che đậy, tôi chỉ cảm thấy việc quét dọn ở nơi đây là không cần thiết, cũng không có ý nghĩa gì.

Chu Chân Mệnh chắp tay sau lưng, Lỗ Nhất Khí khoanh tay trước ngực, cả hai môn trưởng đứng nhìn ba người còn lại đang chăm chú tìm tòi với vẻ mặt thản nhiên không chút biểu cảm.

-Ở đây! – Lão cao thủ Chồn Đào kêu lên, nhưng người phát hiện ra manh mối lại là gã mắt đỏ. Hắn đang dùng ngón tay vạch vẽ loằng ngoằng cho lão già kia xem, vị trí đó ở lưng chừng một vách tường đất, gần chỗ góc tường.

-Đúng rồi! – Lão già tỏ rõ vẻ phấn khích - Vết quét to bằng sợi gai, cách nhau hai lưỡi xẻng[22], giữa hai vết quét có đường nối liền, sau đó từ một vết quét khác hướng lên trên khoảng nửa xẻng, lại nối liền với một vết quét khác, cứ lặp đi lặp lại liên tục như vậy, cuối cùng uốn lượn thành vòng tròn, chu vi khoảng cánh cung chín phân[23]. Đây có lẽ là cửa hầm.

-Có chốt mở hay lẫy khoá không? – Chu Chân Mệnh hỏi.

Lão già không trả lời, lão muốn xem xét kỹ thêm lần nữa rồi mới hồi đáp. Một lúc sau, lão ta vẻ hơi thất vọng, lên tiếng:

-Không có! Đây có vẻ như là tấm nút[24], không biết được làm từ loại khuôn gì, kỹ thuật rất cao siêu.

Lỗ Nhất Khí đã không nén nổi tò mò, bước lên phía trước xem xét kỹ lưỡng một hồi. Đợi cậu xem xong, Chu Chân Mệnh mới bước lại xem.

Sau khi đã quan sát tỉ mỉ, Chu Chân Mệnh hỏi:

-Lỗ môn trưởng, có nhìn ra gì không?

-Không! - Lỗ Nhất Khí rất thành thực.

Chu Chân Mệnh cũng không phát hiện ra được điều gì, song hắn lại đề xuất ý kiến:

-Loại tấm nút không có chốt lẫy, phương pháp mở chắc chắn chỉ có bốn cách đẩy, kéo, xoay, lật. Trên vách đất bằng phẳng nhẵn nhụi không có tay nắm cửa tấm nút, có lẽ không thể dùng cách kéo. Viền mép ngoằn ngoèo, nên không thể dùng cách xoay. Những chỗ uống khúc trên viền mép lại không đối xứng, nên không thể dùng cách lật. Bởi vậy, chỉ còn cách thử dùng phương pháp đẩy xem sao.

Lão già nghe Chu Chân Mệnh nói vậy, lập tức đưa một bàn tay lên, xoè rộng năm ngón, áp lên vách đất, sau đó từ từ vận lực mạnh dần, gắng sức đẩy tấm nút ra. Chỉ nhìn thấy các khớp xương và cơ bắp trên bàn tay dần dần lồi hẳn lên, huyết quản và kinh mạch co giật rùng rùng, toàn bộ mu bàn tay chuyển sang đỏ bầm, rồi tím ngắt. Nhìn vào đó có thể thấy, lão ta đã vận ra lực đạo lớn nhất có thể.

-Thôi, đừng phí sức nữa! Tôi đã nói ở đây không có đường đâu! - Lỗ Nhất Khí nói.

-Vậy ở đó là thứ gì? – Lão già chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao.

-Đó không phải là đường, mà là cửa bịt kín ở đoạn cuối cùng của công trình kiến trúc ngầm dưới đất. Nhìn vào hành động cố gắng bất thành của ông, có thể suy đoán rằng, loại tấm nút này rất có thể dùng phương pháp "nút rơi ngược", mép tấm nút rơi xéo vào bên trong, dùng phương pháp đẩy sẽ không thể đẩy được, chỉ có thể kéo. Song ở đây không có tay nắm, nếu ở phía kia lại có thêm hàng rào chắn ngang, thì chỉ có thể mở cửa từ phía bên kia. - Những gì Lỗ Nhất Khí vừa nói, kỳ thực Chu Chân Mệnh cũng đã nhận ra.

-Vậy là từ đây không thể vào được ư? – Tay thị vệ béo trắng lên tiếng nói, song nét mặt tỉnh bơ không hề có vẻ lo lắng, dường như gã chắc mẩm Lỗ Nhất Khí biết cách mở.

-Có cách vào, lại rất đơn giản, Chu môn trưởng sở trường nhất ngón này, giải không được thì phá.

Tay thị vệ lập tức hiểu ra, liền rút lấy một thanh đao nhỏ từ trong ống quần. Đó là một lưỡi đao nhọn hoắt và vô cùng sắc bén, nhưng không giống với đao thông thường, vì lưỡi đao cong queo một cách lạ lùng, thân đao có chỗ rộng hẹp, dày mỏng khác nhau, có lẽ liên quan tới độ cong của từng bộ phận. Tuy hình thù của lưỡi đao rất phức tạp, song tay béo kia lại sử dụng một cách vô cùng thô thiển, vừa cầm đao lên lập tức cắm phập vào trong vách đất, lỗ mãng hệt như một tên đồ tể.

Lưỡi đao sắc bén vô cùng, cú đâm nào cũng cắm lút vào trong vách đất. Bởi vậy khi trên tấm nút xuất hiện rất nhiều vết đao sâu hoắm, vách đất bắt đầu lỏng ra. Lão già lại tiếp tục ấn bàn tay lên, chỉ đẩy nhẹ một cái, toàn bộ tấm nút đã vỡ vụn.

Tấm nút vừa vỡ vụn, một khối bạc loa loá lập tức ào ra.

-Dòng thuỷ ngân! Chạy mau! - Lỗ Nhất Khí phản ứng rất nhanh, vội vàng lùi lại, vấp một cái suýt nữa ngã nhào.

Những người khác đều đứng im, chỉ khoái chí nhìn phản ứng của Lỗ Nhất Khí. Lần này cậu đã mất mặt thậm tệ, bởi lẽ khối sáng bạc kia không phải là thuỷ ngân thường dùng trong huyệt mộ, mà là một đám lửa lân tinh có độ tinh khiết cực cao.

Nhìn bộ dạng cuống quýt của Lỗ Nhất Khí, không chỉ quái nhân mắt đỏ mặt mũi âm trầm như ma quỷ và lão già luôn mang bộ mặt nghiêm túc cảm thấy nực cười, mà ngay cả tay thị vệ mà cậu dẫn theo cũng muốn bật cười. Một môn trường, một cao thủ tuyệt đỉnh, mà nhãn lực lại tệ đến vậy, đảm lượng lại khiếp nhược đến vậy hay sao.

Chu Chân Mệnh không cười, hắn chỉ chau tít đôi mày. Phản ứng khoa trương của Lỗ Nhất Khí thường là khởi đầu cho một chiêu trò gì đấy, vì thế hắn càng nâng cao cảnh giác với cậu.

-A! Là lân tinh ư? Làm tôi sợ hết cả hồn vía, cứ tưởng là đã mở trúng dòng thuỷ ngân. Ồ, mà sao có nhiều lân tinh vậy nhỉ? – Câu nói cuối cùng của Lỗ Nhất Khí đã thức tỉnh mọi người. Đúng vậy, cho dù trong hầm mộ, quan quách có mục nát xương cốt có tan tành, cũng không thể có nhiều lân tinh như vậy được.

-Lân tinh chính là lửa ma trơi. Nhiều lân tinh thế này, không chừng bên trong toàn là ma mãnh cũng nên! – Khi nói câu này, biểu cảm của Lỗ Nhất Khí rất quái dị, song không phải là sợ hãi.

-Lỗ môn trưởng mà cũng sợ ma ư? Cậu không giở trò ma mãnh đã phải tạ ơn trời Phật lắm lắm! – Chu Chân Mệnh trả lời một câu đa nghĩa.

-Quá lời, quá lời! Như nhau cả thôi! - Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí đã bình thản trở lại.

Tay thị vệ béo trắng đứng cạnh dường như chợt nhớ ra điều gì, vội vàng tìm lại tấm ván trên nóc mà Hứa Tiểu Chỉ gỡ xuống khi nãy. Sau khi xem xét cẩn thận một hồi, gã nói như đinh đóng cột:

-Đây đúng là xương! Thảo nào có nhiều lân tinh đến vậy. Thử nghĩ mà xem, ngay cả phần nóc cũng làm bằng xương, thì xương cốt ở bên trong kia không thể ít được! Xương nhiều thì lân tinh chắc chắn cũng nhiều.

-Có nhận ra đây là xương của giống gì không? – Chu Chân Mệnh hỏi.

-Đã sơ chế qua, không nhìn ra được. – Tay béo rất thành thực.

-Xương ở đây đáng ra cũng phải có lân tinh chứ? - Lỗ Nhất Khí băn khoăn.

-Đã được ngâm qua thuốc, nướng trên lửa. – Lão già tranh phần trả lời, xem ra không phải lần đầu tiên lão gặp loại xương như thế này.

Tai nghe không bằng mắt thấy, suy đoán có chính xác tới đâu cũng không bằng đích thân vào bên trong xem xét. Tay thị vệ béo của Lỗ Nhất Khí đi theo sau lão cao thủ Chồn Đào bước vào trong địa thất bên cạnh. Trước khi Chu Chân Mệnh bước vào, lại mấp máy môi ra hiệu gì đó với quái nhân mắt đỏ. Gã mắt đỏ bèn tụt xuống cuối cùng, sau khi rắc thứ gì đó ở xung quanh, mới bước vào địa thất bên cạnh.

Mọi người đều đã đi hết. Đống lửa vẫn cháy rừng rực trong gian địa thất vắng vẻ. Tuy nhiên đôi lúc đốt lửa lại không hẳn để chiếu sáng, mà có lẽ còn có tác dụng gì khác.

Thứ quái nhân mắt đỏ rắc ra xung quanh đã nhanh chóng lan toả khắp không gian. Trong chốc lát, từ đỉnh nóc, góc tường, khe hở và không biết là ở những nơi nào nữa lúc nhúc chui ra vô số rắn dẹt ngũ sắc. Chúng kéo tới xoắn xuýt với nhau thành một đống phía trước cửa hầm mà bọn họ vừa đi qua. Lũ rắn được gọi tới để cản trở đường rút lui.

Cũng chính vào lúc này, trong đường hầm chạy qua khảm diện. Cát lở đá vùi, dòng nước mưa đã cuốn theo cát chảy xuống. Cát dần dần tích tụ thành đống trên mặt đất bên dưới cửa hầm. Đống cát ướt mỗi lúc một lớn, trọng lượng mỗi lúc một nặng thêm. Trong khi phần nền địa thất nơi đống cát đang đè lên vẫn là một bề mặt chưa hề được quan sát kỹ càng.

Trong địa thất chứa đầy lân tinh sáng choang, nên không cần phải thắp thêm đèn. Khi Chu Chân Mệnh bước qua cửa hầm, đã quan sát kỹ lưỡng phần viền cửa và tấm nút. Đúng như phán đoán của Lỗ Nhất Khí, đây quả thực là "nút rơi ngược" có bề mặt xéo ngược vào trong. Bên trong tấm nút không có hàng rào, song trên bề mặt nền đất phía dưới tấm nút có một vài lỗ nhỏ kích cỡ bằng ngón tay. Do tấm nút đã bị phá vỡ, nên nhìn không rõ màu đất trong lỗ, cũng có nghĩa là không thể biết được những lỗ này được tạo thành bởi vật gì, vào lúc nào.

Còn nguồn gốc của lân tinh, cũng đúng như tay béo kia đã nói. Vách tường ở đây do một lượng xương lớn xếp chồng lên nhau mà thành, ngay đến hai cột trụ bằng đất nện trong địa thất cũng đều khảm đầy xương trắng đã ngả vàng. Ở chân tường và chân cột còn chồng chất một đống xương vụn.

Không cần mất thời gian xem xét, đã có thể khẳng định chắc chắn toàn bộ xương cốt ở đây đều là xương người. Trước sự thực này, cả đám người không ai tỏ ra kinh ngạc. Họ đều biết rằng, vào thời cổ đại, để xây dựng được một công trình kiến trúc ngầm dưới đất có quy mô lớn, chắc chắn sẽ phải lấy đi mạng sống của rất nhiều thợ thuyền và phu phen. Nếu địa thất này đích thị là lăng mộ, vậy thì thi thể của những đám phu thợ sẽ được chôn ở xung quanh, để mộ chủ xuống âm gian còn có người sai khiến. Cũng có một số con cháu của mộ chủ vì muốn bảo vệ bí mật cho lăng mộ, sau khi thi công lăng mộ xong, sẽ giết chết tất cả thợ thuyền ngay trong mộ.

Thế nhưng đám xương người ở đây vẫn có chỗ khác thường, họ không phát hiện ra một chiếc xương sọ nào trong đó. Cũng tức là ở đây toàn là xác không đầu.

Khi quan sát cửa vào, Chu Chân Mệnh đã cảm thấy nghi hoặc trong lòng; sau khi nhìn thấy đám hài cốt, mối hoài nghi lại càng nặng nề hơn. Nhưng Chu Chân Mệnh cố gắng không đưa ra câu hỏi, bởi lẽ nói ra chỗ nghi ngờ trong thời điểm không thích hợp sẽ chỉ khiến cho người khác có cơ hội để biện hộ hoặc đề phòng. Thế là hắn quyết định tiếp tục chờ đợi. Suy cho cùng Lỗ Nhất Khí vẫn đang chung một con đường với hắn, cần câu vẫn đang trong tay hắn, móc câu và mồi nhử cũng vẫn đang bị hắn theo dõi sát sao.

Địa thất này không rộng, song có một số chỗ uốn lượn. Từ vị trí cửa vào tới mặt trong cùng của địa thất, cứ khoảng chục bước lại có một điểm nhô lên. Ở phía sau điểm nhô lên thứ ba, họ nhìn thấy một cánh cửa, một cánh cửa đã mở sẵn, một cánh cửa nối thông với một con đường sâu hun hút.

Cánh cửa vừa hay ở chính giữa địa thất, cách hai vách tường trong ngoài một khoảng bằng nhau. Vách tường đất đối diện với cánh cửa khác hẳn với xung quanh, không những không có xương cốt, mà chất đất lại lỏng lẻo, móng ở chân tường đất là loại đá có hoa văn ngoằn ngoèo.

-Đây là đường hầm mộ chính, lối vào đáng lẽ phải xuất phát từ bức tường đất dày. Còn chúng ta lại xuống theo hầm vật liệu dùng khi xây mộ, rồi phá tường vào trong địa thất. – Lão cao thủ Chồn Đào báo cáo với Chu Chân Mệnh.

-Ngươi dựa vào đâu mà khẳng định rằng nơi đây là hầm mộ? Tại sao không phải là ám thất với một tác dụng khác ngầm ẩn dưới lòng đất? - Lỗ Nhất Khí không phải cố tình bắt bẻ, mà cho tới lúc này, vẫn chưa có bằng chứng đáng tin cậy nào chứng minh nơi đây là lăng mộ.

-Có một thứ có thể làm bằng chứng! – Lão già lập tức phản ứng gay gắt, điều này nằm ngoài dự liệu của Lỗ Nhất Khí.

-Tôi biết, ý ông là ở đây có nhiều xương cốt? – Gã béo ra vẻ thông minh cướp lời.

-Cũng có một phần, song không phải là trọng điểm. Mọi người hãy nhìn xem hình dạng của gian địa thất này. Hai bên có bốn điểm nhô lên, hai đầu bằng phẳng, góc lượn vòng cung, giống gì?

-Giống cái gì? Tôi thấy giống cái giỏ đựng đồ ăn cỡ lớn. – Gã béo lại cướp lời.

-A! Ý ông nói là "quan tài Đại phu"?

Chú thích

[22] Khoảng 3mm.

[23] Khoảng 0,8 mét vuông.

[24] Dùng khuôn đúc thành hai bộ phận có thể tách rời và khớp lại.

Chương 24: Trời dưới đất

Trong đầu Lỗ Nhất Khí bỗng hiện ra một cuốn sách tàn khuyết có tên "Liệt thần truyện", trong đó có ghi chép rằng thời Hán có vị quan canh giữ vùng biên cương tên là Tiết Thọ, một mình cưỡi ngựa tới Hung Nô, khiển trách thủ lĩnh Hung Nô vượt qua biên giới cướp bóc dân lành, kết quả là đã bị xử "châm hình" (hình thớt), dùng dao băm chém thành một đống thịt nát xương vụn, trộn lẫn với bùn đất phân trâu. Sau này hoàng đế tưởng nhớ tới đức hạnh của ông, phong cho làm Thọ Đại phu. Con cháu và thuộc hạ của ông ta đã làm cho ông một chiếc quan tài, với hình thù không phân rõ đầu đuôi, hai đầu cao rộng như nhau, đầu bằng góc lượn vòng cung, bên trong có bốn điểm nhô lên, tương ứng với bốn bộ phận cổ, ngực, thắt lưng, đầu gối của thi thể đã bị băm nát, song các điểm nhô lên đều có kích cỡ bằng nhau, không phân biệt đầu chân. Sau đó, cho đám thi thể nát nhừ của ông vào trong quan tài để an táng. Người đời gọi loại quan tài có hình dạng như vậy là quan tài Đại phu.

Gian địa thất này quả thực có hình dạng giống hệt như quan tài Đại phu. Thế nhưng đây là thứ quan tài để đựng thi thể nát vụn, nên ngay cả lăng mộ bình thường cũng sẽ không sử dụng, chứ đừng nói là ám cấu dưới lòng đất.

-Nếu có thể khẳng định nơi này là mộ thất, thì Lỗ môn trưởng có còn khăng khăng cho rằng đây là ám cấu cất giấu bảo bối chăng? – Chu Chân Mệnh cuối cùng cũng nói ra nỗi ngờ vực của mình.

-Nếu thực sự là mộ thất, thì phán đoán của tôi có thể đã sai lầm! - Lỗ Nhất Khí nói.

-Lẽ nào không phải thế? – Lão già rất chắc chắn với suy đoán của mình.

-Ông đã bắt gặp bao nhiêu mộ thất dùng hình quan tài Đại phu làm phòng cửa? - Lỗ Nhất Khí biết, nếu muốn thực hiện kế hoạch tiếp theo, trước hết phải đánh đổ triệt để ý kiến của lão già.

-Có loại cửa mộ áp dụng hình dạng này để trấn áp những thứ cực hung cực ác, không để hung khí tràn ra, cũng nhằm đề phòng nó tiếp nhận được sinh khí hoạt huyết mà biến xác hoành hành. – Lão già trả lời.

-Nói như vậy thì chúng ta không nên tiếp tục vào sâu bên trong?

-Đúng vậy!

-Nếu bố cục này chỉ là một khảm diện có tác dụng hù doạ thì sao?

Lão già câm bặt. Lão đang suy nghĩ để tìm cách đối đáp.

-Trong gian phòng cửa lại mở lối vào ở một đầu, là có tác dụng gì? - Lỗ Nhất Khí tiếp tục lấn tới – Còn nữa, trên vách tường dát kín xương người, là vì sao?

-À, ừ, đám xương người, có lẽ đã bị mộ chủ cực kỳ hung ác giết chết! – Khi nói ra câu này, bản thân lão già cũng cảm thấy có chút khiên cưỡng.

-Thế còn xương sọ đầu?

Những vấn đề này, Chu Chân Mệnh đều đã nghĩ tới, bởi vậy hắn càng nóng lòng muốn biết đáp án:

-Lỗ môn trường, cậu cảm thấy chuyện này là như thế nào?

-Rất đơn giản! Hầm mộ, tường phong ở đây đều là giả, lối vào thực sự kỳ thực chính là cánh cửa mà chúng ta vừa đi qua, hình quan tài Đại phu là để hù doạ bọn trộm mộ xâm nhập. Còn xương trắng chồng chất, thứ nhất cũng dùng để hù doạ, thứ hai là để tích tụ bảo khí. - Lỗ Nhất Khí trả lời.

-Tích tụ bảo khí? Cậu dựa vào đâu mà nói thế? – Chu Chân Mệnh không hiểu, cũng không tin được suy luận này.

Lỗ Nhất Khí khẽ đặng hắng một cái, lấy giọng rồi nói tiếp:

-Trong chương "Sát phạt" sách "Sĩ quốc luận" có viết: "Đất vàng trong thiên hạ chôn xương cốt, xương trắng dưới đất hoá thành đất vàng, trong ngũ hành của cơ thể người, xương thuộc Thổ, cuối cùng xương nhập vào đất, gọi là chính quy". Chu môn trưởng, có cần tôi giải thích thêm về đoạn văn này không, hay là chúng ta tiếp tục tiến lên?

Lời nói của cậu đã không chừa đường lui nào cho Chu Chân Mệnh. Nếu yêu cầu Lỗ Nhất Khí giải thích thêm, chẳng khác nào Chu Chân Mệnh tự nhận mình kiến thức nông cạn. Học thức uyên thâm của hắn có thể đưa ra lựa chọn quyết đoán. Lựa chọn cuối cùng của hắn chính là tiếp tục tiến lên, tuy trong lòng vẫn cảm thấy có điều bất ổn.

Đèn thuỷ tinh đã rơi vỡ, may mà vừa rồi lão già kịp rút lấy hai thanh gỗ từ trong đống lửa ở gian địa thất bên cạnh làm thành hai bó đuốc, ánh sáng lửa đủ soi sáng cho họ tiếp tục tiến lên. Tuy nhiên, người của hai phe đều hiểu rõ, đối phương chắc chắn có mang theo nguồn sáng khác, chẳng hạn như Lỗ Nhất Khí có viên đá huỳnh quang Ba Tư. Song lúc này họ không lấy ra vì muốn phòng vệ đối phương, như vậy hai phe đều không thể lợi dụng bóng tối để làm chuyện mờ ám.

Sau khi quan sát kỹ lưỡng cửa vào, không phát hiện ra dấu vết của khảm diện, đám người mới nối đuôi nhau lục tục bước qua.

Con đường dẫn vào bên trong bằng phẳng, rộng rãi, còn rộng hơn nhiều so với đường hầm của mộ cổ thông thường. Mặt đất và vách tường phẳng phiu nhẵn nhụi, nguyên liệu gạch đá cũng rất tinh xảo. Song khác là ở chỗ, đường hầm không thẳng, mà có độ nghiêng không rõ ràng, hơi lệch về một hướng. Độ rộng hẹp cũng khác nhau, ở gần cửa khá rộng, sau đó hẹp dần, cuối cùng lại phình ra.

-Con đường này có vẻ bất thường, mọi người hãy quan sát kỹ trước sau, đừng để rơi vào khảm diện mà không biết. – Chu Chân Mệnh đột nhiên cảm thấy khó chịu trong lòng.

Lỗ Nhất Khí thấy hắn nói có lý bèn lùi lại phía sau vài bước, ngoảnh đầu quan sát kỹ đoạn đường họ vừa đi qua. Cậu lần lượt vận dụng các kỹ xảo "dây định cơ", "đo chữ lục"[25], "men khe tìm vòng"[26] trong sáu kỹ pháp của Ban môn, song đều không nhận ra điểm gì bất thường.

Quái nhân mắt đỏ tiến về phía trước, hắn không đi mà là bò, vừa bò vừa hít ngửi mặt đất, chân tường giống như một con chó. Khi bò được khoảng hơn mười bước, hắn quay đầu lại mấp máy môi ra hiệu gì dó với Chu Chân Mệnh.

Quan sát không thấy điểm gì bất thường, Lỗ Nhất Khí mau chóng trở lại đoàn người. Trong hoàn cảnh này, cậu không dám tách khỏi mọi người quá xa. Cũng chính vì cậu quay lại kịp thời, nên vừa hay nhìn thấy động tác máy môi ra hiệu của gã mắt đỏ.

-Khí xương cốt lâu năm rất nặng, không biết trong đó ẩn chứa thứ gì? - Lỗ Nhất Khí vừa nhìn chằm chằm vào miệng gã mắt đỏ vừa nói.

Lỗ Nhất Khí chưa từng học ngôn ngữ khẩu hình, trước đây cậu và Quỷ Nhãn Tam thường máy môi ra hiệu với nhau, nhưng đó không phải là ngôn ngữ khẩu hình, mà chỉ là nói không ra tiếng, khẩu hình phát âm được tiến hành chậm rãi và rất khoa trương. Song lúc này, cậu vẫn có thể hiểu được ngôn ngữ khẩu hình thực sự, hơn nữa, còn giải mã được chính xác nội dung mà gã mắt đỏ đang lép bép trước cả Chu Chân Mệnh lúc này đang chuyên tâm biện nhận. Bởi vì cậu vốn dĩ không cần biện nhận khẩu hình, cảm giác đã mách bảo với cậu kết quả của những cử động môi miệng.

Cũng là một lời vạch mặt, song hiệu quả còn to lớn hơn nhiều so với lần Chu Chân Mệnh nghe được lời thì thầm của gã béo với Lỗ Nhất Khí. Nó hệt như một lời cảnh báo dành cho Chu Chân Mệnh, trước mặt Lỗ Nhất Khí này không có điều gì là bí mật, cũng đừng mong giở trò gì.

Sau khi con đường đã hai lần thay đổi độ rộng hẹp, mọi người đều lờ mờ cảm thấy có một làn khí âm hàn chạy qua dưới khoảng chân đùi, ngọn lửa trên hai thanh gỗ bập bùng dữ dội dạt về phía trước. Hiện tượng dòng khí hồi lưu trên dưới đã chứng tỏ phía trước có đường nối thông ra ngoài, hoặc là có một không gian rộng lớn.

Khi đám người vô cùng thận trọng lần tới phía cuối đường hầm, nhìn thấy một khung cửa dẫn vào một không gian vô cùng rộng lớn, tất cả đều ngạc nhiên đến sửng sốt. Cảnh tượng mở ra trước mắt khiến họ bàng hoàng, không biết là bản thân đã sa xuống âm phủ, hay đã bước vào thiên đàng.

Không gian tối đen như mực, tựa như một bầu trời bất tận. Ngọn đuốc chìa vào trong cửa còn yếu ớt hơn cả đốm sáng đom đóm, không thể nhìn ra đâu là vách, đâu là đỉnh, đâu là nền.

Trong bóng đen vô tận, có nhiều đốm lân tinh chớp nháy, hệt như những vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm. Phía dưới những "vì sao", còn thấp thoáng nhìn thấy "tầng mây" xám xịt, từng đường trải dài, im lìm bất động.

Lỗ Nhất Khí nhìn chăm chú vào "bầu trời đêm" vô tận, cảm giác mách bảo cậu rằng, những đốm nhấp nháy kia không phải đều là lân tinh, trong số đó có một số đốm sáng mang theo làn khí phập phồng, nhảy nhót, bay bổng, lan toả, giống như hơi thở, giống như nhịp tim. Chúng đều là bảo bối, là cổ vật, là những vật linh động. Trong cảm giác của cậu, những vật mang linh khí cũng giống hệt như vật thể sống. Không chừng một số đốm còn là vật thể sống thực sự, là con mắt của vật sống.

-Buộc đèn đưa xuống dưới xem sao! – Chu Chân Mệnh sau một hồi kinh ngạc đã lấy lại được bình tĩnh. Bản thân huyết mạch của đế vương đã có chỗ hơn người, huống hồ sau khi chào đời hắn lại được trải qua vô số rèn luyện khắc nghiệt trên nhiều phương diện.

Chu Chân Mệnh vừa hạ lệnh, hai thuộc hạ lập tức thi hành. Quái nhân mắt đỏ rứt lấy một sợi dây đỏ từ vạt áo, sau đó lại móc ra một quả cầu vàng nhạt buộc với móc sắt dài. Quả cầu trông rất trơn tru bóng mịn, tựa như một viên trân châu ngả vàng. Sợi dây đỏ được buộc vào móc sắt, lão cao thủ Chồn Đào hạ đuốc châm cháy quả cầu.

Quả cầu bốc cháy tụ lửa cực tốt, ngọn lửa chỉ nhảy nhót ở nửa dưới quả cầu, không bốc lên trên, cũng không toả ra bên cạnh

Tay thị vệ đứng bên cạnh Lỗ Nhất Khí khẽ nói:

-Mỡ đỉnh tim! Đúc thành quả cầu to như vậy, không biết cần đến bao nhiêu mạng người cho đủ!

Câu nói này đã thức tỉnh Lỗ Nhất Khí, cậu lập tức nhớ tới một vật được nhắc đến trong "Dị khai vật": đèn băng ngọc mỡ tim. Tức là dùng ngọc hàn băng làm thành đèn, sau đó rút lấy mỡ ở đỉnh nhọn của quả tim người sống làm dầu đốt đèn, loại mỡ này được gọi là mỡ đỉnh tim[27]. Mỡ này cháy rất bền, không màu không vị, ngọn lửa ổn định, không bập bùng, tán loạn, lại bị hàn khí của đĩa đèn băng ngọc vây bủa, khiến ngọn lửa giống như ngưng tụ lại một chỗ, gần giống với ánh sáng tự nhiên.

-Thực giống với loại đèn băng ngọc mỡ tim. - Lỗ Nhất Khí nói.

Quái nhân mắt đỏ liếc nhìn Lỗ Nhất Khí, vẻ mặt lộ ra chút khâm phục xen lẫn đắc ý.

-Đây là quả cầu băng mỡ đậu, nguyên lý của nó quả thực giống với loại đèn băng ngọc mỡ tim. Chỉ có điều ở đây dùng băng ngọc bao bọc bên ngoài mỡ đỉnh tim, hàn khí vây bủa, cũng có thể kiểm soát ngọn lửa ổn định. – Lão già trả lời thay quái nhân mắt đỏ.

-Cái thứ tổn hại âm đức này mà bọn ngươi cũng nhẫn tâm chế tạo! - Lớp thịt trắng bốp trên người tay thị về rùng mạnh một cái, trên mặt thoáng qua một luồng sát khí.

-"Muốn đạt nguyện vọng, không từ thủ đoạn", câu này rất khó nói là đúng hay sai. Vả lại vạn vật trong trời đất đều có số mệnh riêng, các mệnh đều tàn sát lẫn nhau, âu cũng là công bằng. Lỗ môn trưởng, cậu thấy có đúng không? – Chu Chân Mệnh rõ ràng đang cưỡng từ đoạt lý.

-Vậy thì bọn ta phải cẩn thận mới được, chớ để Chu môn trưởng đây ra tay tàn sát! - Lỗ Nhất Khí châm chọc.

Trong lúc bọn họ đang đối đáp, quả cầu băng tâm mỡ đậu đã chạm đến đáy. Thì ra phía dưới không quá sâu, chỉ khoảng năm, sáu trượng. Đám lân tinh trôi nổi kia gần như chạm sát mặt đất.

Đã biết được độ sâu của đáy, cũng nên thăm dò nốt độ cao. Tay thị vệ móc từ trong bao da đeo ngang hông ra một túi vải dầu không thấm nước, mở ra thì thấy bên trong có vài "con khỉ lửa" (một loại pháo hoa). Gã cầm một "con khỉ lửa" lên, châm lửa đốt. Khi dây dẫn cháy hết, quả pháo lập tức bay vọt lên, xẹt ra một vệt lửa chói mắt, rồi bốc cháy bừng bừng thành một khối sáng loà loà mãi không thấy tắt.

Nhờ vào khối sáng này, đã có thể nhìn ra rất nhiều thứ, song vẫn không nhìn thấy tường vách, cũng không nhìn thấy đỉnh, không gian quả thực quá rộng lớn. Dưới ánh pháo sáng loà, bọn họ đã nhận ra những "dải mây" kỳ thực đều là vách tường cao lớn, nói đúng hơn chính là những vách ngăn.

Nhìn lại gần hơn, thì thấy khung cửa nối với đường hầm đáng lẽ có một bục phẳng rộng lớn làm bằng gỗ, song đã bị sập từ lâu. Ngoài ra, đáng lẽ còn có một cây cầu gỗ nối liền với một bậc đất ở cách đó hơn hai chục bước chân, song cũng chỉ còn lại lỗ thủng dùng để bắc kèo.

Gã béo là người thực tế nhất, gã đã lợi dụng ánh sáng từ chùm pháo sáng để tìm đường đi xuống. Từ trên vách đất nối liền với khung cửa, có những vết chân lõm vào có thể bám víu được, đây có lẽ là vết chân giẫm của những người thợ để lại khi xây dựng bục gỗ, cầu gỗ. Chỉ có điều con đường này cách bọn họ hơi xa, trên vách lại trơn trượt không có chỗ bám tay, không thể nào với được tới những vết lõm đó.

Chu Chân Mệnh cũng lợi dụng ánh sáng để tìm cách đi xuống. Tại vị trí chếch xuống phía dưới mép cửa vào khoảng hai thước, có một thanh gỗ tròn cắm vào vách đất, đây có lẽ là cây cột chống còn sót lại sau khi bục gỗ sập xuống. Song lúc này trên thanh gỗ thấy vắt vẻo một sợi dây thừng, một sợi dây thừng rất mới.

Nhìn vào vết tích có thể thấy rằng, sợi dây thừng mới buộc ở đây chưa quá ba ngày. Nhìn vào cách thắt nút dây thừng, rất giống nút kéo quan tài, cũng giống nút xỏ sọt, điều này khiến Chu Chân Mệnh nhớ tới Nghê Thất đã bị chôn vùi. Dân trộm mộ thường thắt nút kéo quan tài, không chừng sau khi bị chôn vùi trong cát chảy, hắn ta đã phá ra một con đường khác rồi tới đây sớm hơn. Song Chu Chân Mệnh lại lập tức nhớ tới Hứa Tiểu Chỉ là tay chủ buôn bán hải sản, chắc chắn phải thành thạo loại nút thắt xỏ sọt. Tên này thình lình mất tích, nhiều khả năng nhất là đã tìm ra một con đường nào khác để lẻn đến đây trước.

Tuy nhiên dù là ai trong số hai kẻ đó, thì điều nghi vấn duy nhất vẫn là sợi dây gai màu đỏ úa kia từ đâu mà ra? Hai người bọn họ đều không thấy mang theo dây dợ gì xuống dưới.

-Vẫn có đường, chỉ có điều không biết có xuống được hay không! – Câu nói của Lỗ Nhất Khí khiến người khác không hiểu nổi suy nghĩ thực sự của cậu là gì.

-Nếu ta xuống, cậu cũng phải xuống cùng! – Chu Chân Mệnh nhắc nhở Lỗ Nhất Khí, họ vẫn đang cùng chung một con đường.

-Ông có xuống không? - Lỗ Nhất Khí tuy hỏi vậy, nhưng cậu biết rõ, Chu Chân Mệnh chắc chắn sẽ xuống.

Chu Chân Mệnh cảm thấy không cần thiết phải trả lời câu hỏi. Mục đích của hắn trong chuyến đi này, thậm chí trong cả cuộc đời này chính là tìm ra bảo bối chấn hứng gia tộc, bây giờ đã tìm được đến nơi, lẽ nào còn phải chần chừ do dự?

Quái nhân mắt đỏ rất thận trọng, dường như hắn đã ngửi thấy thứ gì khiến hắn phải lo ngại. Hắn móc từ trong ngực áo ra một chiếc hộp da dẹt, lại lôi ra một tờ giấy lông dê màu trắng. Trong hộp da đựng một thứ giống hệt như son, quái nhân mắt đỏ đưa đầu ngón tay chấm lấy thứ đó rồi vẽ lên trên tờ giấy trắng một mớ ký hiệu và văn tự quái dị. Đến khi đã vẽ kín đặc cả tờ giấy, hắn cắn rách đầu ngón tay, nhỏ xuống bảy giọt máu.

Đây là thứ nghi thức quái quỷ gì? Có tác dụng ra sao? Lỗ Nhất Khí vẫn chưa thể tìm ra một chút ấn tượng hay manh mối.

-Đây là thuật Vanh Sa từng thịnh hành ở nước Ngột Lương Cáp thời cổ xưa. Thứ vu thuật thần kỳ này có thể đánh thức ma quỷ, điều khiển thi hài, giao lưu với cõi âm. Về sau nước Ngột Lương Cáp bị Khiết Đan thôn tính, thuật này bị coi là tà thuật, nên đã gặp hoạ diệt giáo, chỉ có một số ít Sa man Vanh Sa hành thuật ở bên ngoài mới thoát khỏi kiếp nạn. Từ đó về sau, thuật Vanh Sa chỉ được lưu truyền một dòng bí mật. Thuộc hạ của ta có lẽ là vị Sa man Vanh Sa duy nhất còn tồn tại trên thế gian này. – Chu Chân Mệnh giải thích một cách khoe khoang, dường như muốn chế giễu kiến thức nông cạn của Lỗ Nhất Khí.

-Đến loại nhân tài này Chu gia còn thu phục được, hà cớ gì cứ nhất thiết phải đi tìm Thiên bảo? Dùng thực lực để tranh giành thiên hạ có phải hơn không? - Lỗ Nhất Khí nhẹ nhàng đáp trả, nhưng chẳng khác nào chọc thẳng vào nỗi đau của Chu Chân Mệnh.

-Làm gì có chuyện dễ dàng như thế! Nhân tài trong thiên hạ như sao giăng kín trời, thuộc hạ của ta tuy không ít cao nhân, song cũng chỉ như muối bỏ biển. Hơn nữa nếu không có được thiên mệnh, những người đi theo cũng không thực sự hết sức hết lòng! – Chu Chân Mệnh không hề tỏ vẻ giận trước lời nói kháy của Lỗ Nhất Khí, còn thành thực nói ra nỗi khổ tâm trong lòng hắn.

Trong lúc này, quái nhân mắt đỏ đã châm lửa đốt cháy tờ giấy lông dê. Thứ giấy này cũng thật đặc biệt, sau khi cháy hết, tàn giấy không vỡ vụn mà vẫn còn nguyên tấm, chỉ thấy có bảy lỗ thủng tại vị trí bảy giọt máu rơi xuống. Còn chữ viết trên mặt giấy đều đã biến thành màu vàng kim lấp lánh. Khi tàn giấy bay lên phất phơ, trông chúng tựa như những vệt nước vàng kim đang chảy.

-Đây là mực son lư bảo[28] và giấy ngự dụng không bén lửa! – Nhìn vào hiện tượng sau khi tờ giấy cháy hết, Lỗ Nhất Khí đã biết được lai lịch của mực và giấy.

Trong "Dị khai vật" có chép: "Mực son lư bảo là dùng lư bảo chứa huyết sa mài khô, cho thêm chu sa, bột tiêu thạch, lưu huỳnh, bột đuôi bò cạp chế thành. Mực này viết lên giấy, sau khi đốt cháy, chữ vẫn lưu lại, hồn ma cõi âm có thể nhìn thấy".

Trong "Khai quốc chí - Ngự chế chi sử ký" có chép: "... Để đề phòng bất cẩn dẫn tới hoả hoạn, thiêu rụi những ghi chép quan trọng, chế tạo ra giấy không bén lửa dành riêng cho vua dùng, có cháy hết tàn cũng không vỡ, không bén không lan".

-Đúng vậy, là mực son lư bảo và giấy ngự dụng không bén lửa, có thể viết bùa lệnh mượn đường hồn, máu nhỏ bảy lỗ là mượn bảy đường hồn sơn, thuỷ, lâm, thổ, miểu, mị, khí.

Chu Chân Mệnh vừa nói xong, tàn giấy đầy những ký tự lấp lánh ánh kim đã rơi xuống đáy, đẩy một đám lân tinh lớn dạt ra. Những ký tự vàng rực rỡ không ngừng mấp máy, lưu động, dường như quả thực rất giống như khởi điểm của một lộ trình. Song con đường này là mượn đường của hồn ma dưới âm phủ, không biết sẽ dẫn đến đâu.

-Ai xuống trước? Kiểu gì cũng không phải là tôi đâu nhé! Ai mà biết được tay thầy mo kia đang giở trò ma quái gì, đuổi ma đi hay là dụ ma đến? Bảo hắn xuống trước đi! – Tay thị vệ béo chẳng thèm khách khí, hết sức khảng khái chối phăng cơ hội làm người đầu tiêu xông pha nguy hiểm.

Gã mắt đỏ cũng không có ý định để người khác xuống trước, đợi đến khi nhìn thấy mảnh tàn giấy lấp lánh những ký tự vàng kim đã ổn định, hắn đột ngột chống cánh tay lên mép khung cửa, tung người nhảy xuống, giẫm lên thanh gỗ tròn nhô ra khỏi vách tường. Sau đó cơ thể rơi thẳng xuống, thuận theo dây thừng mà trượt đi. Khi sắp chạm đáy, cơ thể hắn bỗng khựng lại một thoáng rồi đánh sang ngang, nửa người bên trên hơi nghiêng xuống dưới, vẻ như đang hít ngửi thứ gì.

Chú thích

[25] Gập các ngón tay lại, chỉ chĩa thẳng ngón cái và ngón út ra như hình chữ "lục" ngược, duỗi thẳng cánh tay, dùng hai ngón tay này nối liền các góc đối, cạnh đối để kiểm tra độ đối xứng.

[26] Kỹ xảo trong công phu Tịch trần, men theo đường thẳng để ngắm hình vòng cung.

[27] Trong giang hồ còn gọi là "mỡ hạt đậu", bởi vì giọt mỡ này to bằng hạt đậu.

[28] Lư bảo, hay còn gọi là lư sa, là một loại kết sỏi, thường xuất hiện trong dạ dày của lừa, hình thành từ cặn thức ăn tiêu hoá không hết tích đọng trong dạ dày, được dùng như một vị thuốc Đông y, có nhiều tác dụng, giá trị rất cao.

Chương 25: Theo tường khí

Một hồi lâu sau, quái nhân mắt đỏ cuối cùng đã lật thẳng thân người, nhẹ nhàng đáp lên mặt đất không một tiếng động.

Lão cao thủ Chồn Đào kêu lên khe khẽ:

-Phía dưới bằng phẳng chắc chắn, không rỗng không trơn, có thể xuống được! – Nói đoạn, chớp mắt đã xuống đến nơi.

Lỗ Nhất Khí vẫn là người tốn thì giờ nhất. Tay thị vệ to béo phải bước xuống khúc gỗ trước, rồi giơ cánh tay ra cho Lỗ Nhất Khí bám chắc vào, để cậu lần lượt giẫm lên vai, hông và đùi gã mà xuống, sau đó bám lấy sợi dây thừng. Trong khoảng thời gian đó, thanh gỗ phải chịu sức nặng của hai người, nên đã lỏng ra một chút, bùn đất trên vách tường rơi xuống rào rào.

Lỗ Nhất Khí đã xuống được phía dưới, song đến lúc tay thị vệ trượt xuống theo sợi dây thừng, lại thình lình xảy ra sự biến. Một luồng gió lạnh thấu xương không biết từ nơi nào ập đến, thổi thốc đám lân tinh phía dưới khiến chúng xoáy tít thò lò. Lúc này gã béo đã tuột xuống được quá nửa, bỗng nhiên cơ thể chao đảo, vừa rung vừa lắc, tựa như đang bị một sức mạnh vô hình nào đó giằng kéo, đung đưa.

-Cẩn thận! – Lúc này Chu Chân Mệnh đang đứng ở phía trên, tuy hắn không rõ gã béo tại sao lại tự dưng lắc lư chao đảo, song hắn có thể nhìn rõ thanh gỗ tròn buộc sợi dây thừng đang lỏng dần ra cho đến khi bật tung khỏi vách đất.

-Á! – Tay thị vệ rú lên một tiếng ngắn rồi rơi phịch xuống.

-Ái chà chà! Ái chà chà! – Những tiếng rên rẩm liên hồi của tay thị vệ chứng tỏ gã không sao, chỉ là đã ngã một cú đau điếng. May mà phía dưới là nền đất, may mà gã thị vệ thịt béo da dày, cũng may mà gã ta rơi xuống từ vị trí không quá cao.

-Thôi chết! Chu môn trưởng, sợi dây thừng rơi xuống mất rồi, ông xuống thế nào đây? - Lỗ Nhất Khí mặc kệ tay thị vệ đang luôn miệng xuýt xoa, chỉ quan tâm tới Chu Chân Mệnh làm thế nào để xuống.

Lỗ Nhất Khí vừa mở miệng, quái nhân mắt đỏ và lão già cũng lập tức nhận ra đây quả thực là vấn đề nan giải. Trước sự cố này, phản ứng của chúng có vẻ hơi chậm chạp. Có lẽ do người khác phản ứng quá nhanh, hoặc có lẽ chuyện này đã nằm trong dự tính của người khác.

Chu Chân Mệnh không trả lời, vẫn đứng bất động trên cửa vào. Trong bóng tối, không thể nhận ra hắn đang suy nghĩ điều gì, hay đang chuẩn bị làm gì.

Không đợi Chu Chân Mệnh đưa ra mệnh lệnh, lão cao thủ Chồn Đào lập tức tay chân thoăn thoắt bám theo những vết lõm trên vách đất bên cạnh leo lên, tới vị trí ngang với bục gỗ đã sập, rút ra một chiếc xẻng lưỡi bằng cán ngắn, nhoay nhoáy đào bới về phía Chu Chân Mệnh. Loáng một cái, đã xuất hiện hai đường rãnh có thể bám tay, giẫm chân.

Quá trình rất ngắn, phương pháp rất đơn giản, song điều này lại nằm ngoài dự liệu của người khác.

Vẻ mặt Lỗ Nhất Khí vẫn hết sức điềm tĩnh, một vẻ điềm tĩnh rất ít thấy từ sau khi tiến xuống lòng đất tới giờ. Vẻ điềm tĩnh vẫn được duy trì cho tới khi Chu Chân Mệnh thuận lợi xuống đến nơi, và tới khi ánh mắt của hai người nhìn thẳng vào nhau.

Bốn mắt giao nhau, hai khuôn mặt điềm tĩnh cùng nở nụ cười, mỗi nụ cười lại mang một ẩn ý khác. Lỗ Nhất Khí vẫy tay, gã béo bèn dẫn đầu đoàn người bước lên phía trước, tiến thẳng đến chỗ tầng tầng lớp lớp như trời mây. Chu Chân Mệnh đưa tay ra hiệu, quái nhân mắt đỏ ở phía sau lại tung ra một đám bột lớn, bay mù mịt như sương.

Cơ thể phốp pháp của tay thị vệ đã đẩy dạt đi một đám lân tinh lớn, lão cao thủ Chồn Đào bám sát phía sau. Cây đuốc đã để lại trên lối vào, song cả hai đều không lấy ra các dụng cụ phát sáng khác. Không rõ là do ánh sáng yếu ớt của lân tinh đã đủ dùng, hay là mỗi bên đều muốn ém lại phòng khi cần thiết.

Hai người lại không đi được quá xa, bởi lẽ phía trước có một bức tường trắng chặn đường, họ đã tới vị trí của vách ngăn giống như mây giăng lớp lớp.

Bức tường không hề thẳng thớm, mà cong vẹo xô lệch, có nhiều chỗ ngoặt. Tường này cũng không liền khối, mà bên trên có lỗ hổng.

-Đi tiếp đi! – Lão già thúc giục gã béo.

-Tôi không dám! – Gã béo đột nhiên tỏ ra sợ hãi, trái ngược hẳn với hành động quyết đoán vừa rồi của gã.

-Sao thế, không có chuyện gì chứ? – Lão già cảm thấy lạ lùng.

-Có đấy, phía trước hình như có ai đang gọi tôi! - Giọng nói của gã béo bắt đầu hơi run rẩy.

-Chẳng lẽ gặp ma thật à? Để ta xem! – Lão già là cao thủ trộm mộ của phái Chồn Đào, lão không sợ ma quỷ, lại có phương pháp trấn thi chế tà.

Lão già tiến về phía lỗ hổng trên bức tường, trong lúc bước lên, bàn tay trái của lão nắm chặt lấy chiếc xẻng lưỡi bằng cán ngắn, bàn tay phải thọc sâu vào trong ngực áo, không biết là đang mò mẫm món pháp bảo gì.

Mọi người đều tập trung chú ý vào lỗ hổng. Bọn họ ít nhiều đều nhận ra một số điểm quái lạ, đặc biệt là Lỗ Nhất Khí và quái nhân mắt đỏ, một người có cảm giác siêu phàm, một người thạo nghề điều khiển thi hài ma mãnh. Song tất cả mọi người đều không phát hiện ra, ở chính giữa bức tường, có một vết loang lổ màu xám rất lớn, giống như là vết ố, cũng giống như ngấn nước, lại càng giống một bộ mặt người không rõ nét. Ở vị trí miệng và cằm của bộ mặt có một đám lân tinh nhấp nháy dật dờ, sự biến đổi sáng tối khiến phần miệng tựa như đang khép mở liên tục, động tác khép mở tựa như đang réo gọi:

-Béo ơi! Béo ơi!

Lão già sắp bước vào trong lỗ hổng, thì Chu Chân Mệnh bỗng gọi giật:

-Khoan đã!

Rồi thong thả nói tiếp:

-Hãy quăng vào đó cái gì gây chói mắt để hù doạ ma quỷ trước đã! – Cách làm này của Chu Chân Mệnh không phải là kỹ xảo giang hồ, mà là thuật thăm dò, doạ dẫm kẻ địch trong nhà binh. Lúc này vứt vào trong lỗ hổng một vật chiếu sáng chói loà không những giúp bọn họ nhìn rõ được tình hình bên trong, mà còn có thể khởi động các nút lẫy ma, nút lẫy sống có thể đang ẩn núp trong đó.

-Ở đây thì đào đâu ra thứ gì gây chói mắt được? – Ý của tay thị vệ rất rõ ràng, gã không chịu cung cấp "khỉ lửa".

Chu Chân Mệnh không buồn đếm xỉa tới gã thị vệ, thậm chí chẳng thèm tỏ ra một chút bất mãn. Hắn quay đầu đưa mắt cho quái nhân mắt đỏ, rồi lại nhìn vào quả cầu băng tâm mỡ đậu trong tay quái nhân.

Quái nhân mắt đỏ lập tức hiểu ý, móc ra một thứ gì đấy trong thắt lưng, bỏ tọt vào miệng nhai nhóp nhép. Sau khi nhai kỹ, liền phun lên ngọn lửa của quả cầu băng tâm mỡ đậu. Sau đó, chỉ thấy hắn vung mạnh cánh tay, cổ tay lắc khẽ, quả cầu băng tâm mỡ đậu lập tức vụt lên cao, xoay tít mà chao đi. Khi tới phía trên lỗ hổng, ngọn lửa trên quả cầu đột ngột cháy bùng, tạo thành một quả cầu lửa cực lớn.

-A, là thủ pháp của huyết trích tử[29]! - Quả cầu băng tâm mỡ đậu vừa rời khỏi tay, gã thị vệ đã bật kêu lên với một vẻ khoa trương giả tạo.

-Keo liệt diệm Đông Doanh[30] - Quả cầu băng tâm mỡ đậu vừa bùng cháy, Lỗ Nhất Khí cũng nói khẽ.

-Có người! – Khi quả cầu băng tâm mỡ đậu bùng cháy đến mức độ lớn nhất, lão già đang đứng gần lỗ hổng bỗng nhiên rú lên kinh hãi, rồi tung người lao bổ về phía lỗ hổng.

Người đứng cách xa lỗ hổng nhất là Chu Chân Mệnh, không thấy hắn có bất kỳ hành động nào, vậy mà thoắt một cái đã ở ngay phía trước lão già. Thân thủ của hắn hệt như bóng ma vụt lưới, lao thẳng vào bóng tối bên trong lỗ hổng.

Hàng cao thủ trong cao thủ, tốc độ phản ứng và tốc độ hành động đều phải đạt tới mức độ nhanh nhất, hơn nữa còn phải dám ra tay ngay trước khi đối thủ kịp tập kích. Chu Chân Mệnh chính là cao thủ như vậy, song đến một cái bóng hắn cũng không sờ thấy.

Quái nhân mắt đỏ cũng là cao thủ, lão già vừa rú lên, hắn đã lập tức quăng tiếp quả cầu băng tâm mỡ đậu thứ hai. Ánh sáng toả ra từ quả cầu băng tâm mỡ đậu kiểu này có thể giúp các cao thủ mở rộng phạm vi quan sát.

-Ở phía trước! - Lần này là Lỗ Nhất Khí phát hiện ra.

Quả thật có người, mà không chỉ là một người. Đám Chu Chân Mệnh lập tức chuyển động, vùn vụt đuổi theo.

Tốc độ di chuyển của đối phương quả thật khó tưởng tượng, Chu Chân Mệnh tuy thân thủ chớp nhoáng tựa bóng ma, song lại một lần nữa vồ hụt. Song sau cú đánh hụt này, Chu Chân Mệnh vội vã thoái lui, quay về bên cạnh Lỗ Nhất Khí. Không phải hắn sợ Lỗ Nhất Khí thừa cơ bỏ trốn, bởi lẽ Lỗ Nhất Khí đã không thể quay lại. Sau khi quái nhân mắt đỏ rắc ra đám bột quái đản kia, hàng đàn rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc đã lúc nhúc kéo đến phủ kín đường hầm đã không còn bục gỗ. Chu Chân Mệnh quay lại là vì trong lúc lướt đi, hắn phát hiện ra, sau khi băng qua lỗ hổng của bức tường trắng đầu tiên, ngoài con đường xuất hiện bóng người ma quái kia, còn có hai con đường khác nữa. Hắn không thể làm đứt sợi dây nối giữa hắn và Lỗ Nhất Khí.

-Chu môn trưởng, không bắt được ư? - Lỗ Nhất Khí cười tủm tỉm.

-Lỗ môn trưởng, không đi bắt à? – Chu Chân Mệnh cũng mỉm cười đầy ẩn ý.

-Bọn chúng là ai vậy nhỉ, đến thân thủ của Chu môn trưởng mà cũng chạy thoát được!

-Có lẽ Lỗ môn trưởng biết rõ!

-Có lẽ là mấy lộ người lai lịch không rõ ràng lúc trước chăng? Bọn chúng đông người, đã tới trước chúng ta một bước. Phải rồi, tại sao đám rắn, rết kia không có tác dụng gì nhỉ - Lỗ Nhất Khí lại cười tủm tỉm.

-Đám rắn, rết nhà ta chỉ có tác dụng với người, vô hiệu với ma.

-Sao cơ? Trong kia có ma thật ư? Vậy thì tôi thà mất của chứ không chịu mất mạng, quay lên luôn cho sớm! – Tay thị vệ tuy nói vậy, song chân vẫn đứng nguyên tại chỗ.

-Không phải có ma, mà là có người giở trò ma quỷ! - Lời của Chu Chân Mệnh như muốn nhắm vào ai đó.

-Có vẻ Chu môn trưởng bắt đầu lo lắng về lợi nhuận lần này. Hay ông cứ lấy lại món đặt cọc đi! - Giọng Lỗ Nhất Khí tỏ rõ vẻ khinh khỉnh, nói rồi tay trái dợm đỡ lấy túi vải trên lưng, song lại không tháo xuống.

Lúc này, đầu óc Chu Chân Mệnh bỗng rối bời. Dẫu rằng hắn muốn lấy lại bảo bối của Chu gia, song nếu hắn làm như vậy, đừng nói là người của Lỗ gia, mà ngay cả đám thuộc hạ dưới quyền cũng sẽ coi thường hắn.

Nghĩ tới thuộc hạ, Chu Chân Mệnh vội quay đầu nhìn về phía trước. Vừa nhìn, hắn đã muốn đứng tim. Lão cao thủ Chồn Đào đã biến mất.

-Lão ta đâu? – Chu Chân Mệnh đanh giọng hỏi gã mắt đỏ.

-À, hình như lão ra phát hiện có người giở trò ma quỷ nên đã đuổi theo rồi! – Gã béo lại lanh chanh trả lời.

Chu Chân Mệnh không thèm đếm xỉa tới gã béo, chỉ nhìn chằm chằm vào gã mắt đỏ, cho tới khi gã mắt đỏ gật đầu một cái.

-Vậy còn không mau đuổi theo! – Chu Chân Mệnh nói đoạn, lập tức bước lên phía trước, song mới được hai bước đã dừng ngay lại, bởi lẽ Lỗ Nhất Khí vẫn đứng nguyên tại chỗ.

-Chu môn trưởng, cách đi của chúng ta chính là điều cấm kỵ trong khảm tử gia. Chưa kiểm tra khảm, chưa quan sát hình, chưa xem chất liệu, chưa dò hư thực, hành sự lỗ mãng như vậy, dù có vào được chưa chắc đã ra nổi. Trước hết chúng ta cần tìm ra đường thực, gỡ bỏ chốt lẫy, còn phải lưu lại một con đường sống. Nóng vội thì không thể uống sữa đậu nóng, ngồi được trên gai mới giữ được đầu trên vai, gặp hoạ đứt tay đôi khi lại là cơ may sống sót... - Lỗ Nhất Khí lải nhải một thôi một hồi, còn giơ cả cổ tay đứt cụt lên lắc qua lắc lại.

Chu gia đã mất đi một người, cũng có nghĩa người Lỗ gia bớt đi một sự uy hiếp. Lỗ Nhất Khí đang cố tình kéo dài thời gian, song lý lẽ của cậu lại không thể phản bác.

Trước hành vi của Lỗ Nhất Khí, quái nhân mắt đỏ tỏ ra hết sức nôn nóng và bực bội. Trong khi Chu Chân Mệnh chớp mắt đã điềm nhiên như nước, quanh người lại phảng phấp mấy phần khí tướng Đạo gia:

-Cậu nói rất đúng! Vậy chúng ta hãy tiến dần từng bước!

Tuy Lỗ Nhất Khí có mục đích riêng, song cũng đã kịp thời nhắc nhở Chu Chân Mệnh. Trong bảo cấu chắc chắn cạm bẫy trùng trùng, nếu không, chắc chắn đã không phải là bảo cấu. Bởi vậy mỗi một bước đều phải xác nhận chắc chắn xem có khảm diện, nút lẫy hay không, sau đó giải nút lẫy, phá khảm diện rồi mới vào được. Đó mới là phương pháp đúng đắn nhất hiện tại của cao thủ hai nhà.

Bọn họ thận trọng tiến lên phía trước khoảng hơn hai chục bước. Đi tiếp qua lỗ hổng trên bức tường đá trắng tiếp theo, bọn họ phát hiện ra rằng, bên trong là ba vách ngăn song song nhau. Qua khe hở giữa các vách ngăn có thể nhìn thấy phía trước vẫn là một bức tường trắng, một bên có hình góc vuông, một bên nối tiếp với một lối đi rẽ ngoặt. Liệu đây có phải là bố cục khảm nút nào chăng?

Cùng lúc đó, Lỗ Nhất Khí còn phát hiện ra rằng, đất nền ở đây rất lỏng lẻo, chứ không lát đá hay đầm chắc như mộ thất thông thường. Ngoài ra ở sát chân tường còn có một đường rãnh kéo dài liên tục, được nung bằng đất sét, trong đó có vật chất màu đen đã khô cứng.

Quái nhân mắt đỏ tiến hành quan sát chất liệu của vách tường. Nhìn vào khẩu hình khi hắn trao đổi với Chu Chân Mệnh, có thể biết rằng vách tường được xây bằng gạch nung từ đất sét trắng, bên trong còn trộn lẫn cát sáng và tro xương, bởi vậy không thực sự kiên cố.

Trong lúc những người khác xem xét phán đoán, Chu Chân Mệnh chỉ đứng chắp tay sau lưng. Cho tới khi mọi người đều đã nói ra phát hiện của mình, hắn ta mới bước tới bên rãnh đất nung nhìn ngó một lát, còn cạy lấy một ít vật chất đen thui đưa lên mũi ngửi.

-Lỗ môn trưởng, nhìn vào những thứ này, có thể suy đoán ra điều gì không? – Chu Chân Mệnh dường như đã có một vài kết luận, hắn hỏi câu này là muốn thử Lỗ Nhất Khí, cũng là muốn moi móc thêm những điều mà bản thân chưa nghĩ ra từ trong nhận định của Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí chưa vội trả lời ngay, mà quay đầu nhìn lên phía trên. Đó là lối cửa vào mà bọn họ vừa xuống. Tuy cậu không nhìn thấy đám rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc lúc nhúc ở phía đó, song vẫn có thể nhìn thấy hai ánh lửa bập bùng, đó là hai ngọn đuốc mà họ để lại ở lối đi không mang theo xuống. Căn cứ vào hai ngọn đuốc này, có thể xác định được phương vị mà bọn họ đang đứng.

-Nơi chúng ta đang đứng, nếu nhìn từ trên xuống, giống như là mây giăng lớp lớp! - Lỗ Nhất Khí nói như một kẻ đầu óc lơ mơ.

-Còn phức tạp hơn cả mây! Những vách tường có ngang có dọc, có liền có đứt, tôi thấy rất giống mê cung. – Tay thị vệ lại nói leo.

-Đúng là mê cung, song không phải là mê cung vây khốn con người. - Lỗ Nhất Khí nói.

-Nói vậy là có ý gì? – Chu Chân Mệnh bắt đầu cảm thấy rất thú vị.

-Là đề phòng khí thoát ra ngoài.

-Đề phòng khí?

-Đúng! Thi khí, hung khí, nhưng cũng có thể là bảo khí, linh khí.

-Ý cậu nói là ở trong này có một thứ mang theo khí tướng vô cùng kỳ lạ? – Chu Chân Mệnh hỏi.

Lỗ Nhất Khí không trực tiếp trả lời câu hỏi của Chu Chân Mệnh:

-Thuật kham dư cổ đại có nói rằng, khí gặp gió thì tán, gặp nước thì dừng, gặp cát thì định, gặp ám thì mất. Trong "Thanh nang thiên" có giải thích chi tiết về hai câu cuối, nói rằng khí ác sát gặp cát sạch sẽ bị trấn định, khí tốt lành gặp thứ ô uế ám muội sẽ biến mất. Trong "Nghi long cơ kinh" lại nói, khí không lưu thông thì ngưng trệ, khí bất động sẽ dâng lên. Nhìn vào bố cục ở đây thì thấy, trong tường có cát sáng, là để định khí ác sát; có tro xương lại là để tiêu biến khí may mắn. Cách cục giống như mê cung, để khí lưu thông không ngưng trệ, song lại tuần hoàn không thể ra ngoài; trên đỉnh trống rỗng, để đề phòng khí ngưng kết mà dâng lên.

-Vậy chỗ này rốt cuộc có bảo khí hay hung khí? – Chu Chân Mệnh vẫy thấy mơ hồ.

-Không biết! Có lẽ bảo, hung cùng tồn tại.

-Ý cậu nói là bảo cấu và hung huyệt đều ở đây?

-Tôi không nói vậy, liệu có phải bảo bối mà chúng ta cần tìm không, tôi còn chưa chắc chắn, có phải hung huyệt hay không lại càng khó đoán. Một số việc vẫn cần Chu môn trưởng đưa ra quyết định! – Vào thời khắc then chốt, Lỗ Nhất Khí lại quăng gánh nặng sang vai Chu Chân Mệnh.

-Phải đấy, Chu môn trưởng, đừng có việc gì cũng hỏi bọn ta, cũng phải nói ra suy nghĩ của các người chứ! – Gã béo trắng nói năng càng lúc càng vô phép.

Chu Chân Mệnh không nói gì, chỉ bước lại bên cạnh quái nhân mắt đỏ, cầm lấy quả cầu băng tâm mỡ đậu trong tay hắn, đặt lên rãnh đất nung ở chân tường. Một lúc sau, thứ vật chất khô cứng màu đen trong rãnh đã bén lửa, ngọn lửa từ từ lan đi theo đường rãnh.

-Trong đường rãnh chứa dầu củi ở động Ô Sơn, tuy rất khó đốt cháy, song một khi đã bén, thì cháy rất bền. – Chu Chân Mệnh chỉ giải thích một câu rồi sải bước đi theo đường lửa lan.

Bọn Lỗ Nhất Khí thấy Chu Chân Mệnh đi về phía trước, cũng nhanh chóng theo sau.

Bố cục ở đây quả nhiên là một mê cung, đường rãnh liên tục phân thành nhiều nhánh, song Chu Chân Mệnh dẫn đầu lại tựa như đã tính toán xong xuôi, gặp ngả rẽ đều không cần đánh ký hiệu, cũng chẳng thèm quan sát, cứ bước phăm phăm.

Một hồi lâu sau, ngọn lửa lan trong rãnh cuối cùng đã dừng lại. Nơi này giống y hệt như chỗ khởi đầu của mê cung tường trắng, cũng là một vách tường trắng, một lỗ hổng. Bước qua lỗ hổng, lại là một khoảng không tối đen thăm tẳm, lấp lánh lân tinh.

Chú thích

[29] Tương truyền huyết trích tử (giọt máu) là một binh khí chuyên dụng của đội đặc vụ ám sát dưới thời vua Ung Chính triều Thanh. Chúng có hình cái nón hoặc quả chuông, phần chóp nối liền với xích sắt, xung quanh miệng là một hàng lưỡi cưa sắc nhọn như răng cá mập, có thể cụp xoè mở đóng bằng cách kéo giật sợi xích. Người sử dụng nắm đầu xích, quăng huyết trích tử về phía đối thủ, huyết trích tử sẽ xoay tròn khiến các răng cưa xoay tít. Nếu chụp trúng đầu đối thủ, người sử dụng sẽ kéo dây xích để các răng cưa thít chặt vào trong, lập tức lấy được thủ cấp của đối thủ.

[30] Trong miệng núi lửa ở Đông Doanh (Nhật Bản) có chảy ra một loại chất lỏng dạng keo, sau khi đông cứng có thể mang theo bên mình, thứ này gặp lửa sẽ bùng cháy dữ dội.

Chương 26: Đường hình xương

Tay thị vệ hào phóng lấy ra một "con khỉ lửa", châm lửa đốt cho bay vọt lên. Dưới ánh sáng của khối pháo sáng vừa nở xoè, họ đã nhìn thấy cao cao trên vách đất cũng có một đường hầm, có điều đây chắc chắn không phải là đường hầm mà họ đã xuống. Bởi vì ở đây vẫn còn nguyên một bục gỗ bằng phẳng chìa ra phía ngoài.

-Quả nhiên không nằm ngoài dự đoán của ta! – Sau một hồi lâu im lặng, Chu Chân Mệnh đột nhiên lên tiếng, khiến một số người thấy quả tim như giật nảy.

-Nơi này là trận mê cung chín vòng, được sáng tạo dựa trên trận Cửu cung, bên ngoài trận còn bố trí tám cửa Đột giáp, đăt ở nơi cao không có đường leo lên. Lỗ môn trường nói không sai, trận pháp này không phải vây khốn người, đi theo đường nào cũng đều dẫn tới tám cửa, đây là cách cục khí tuần hoàn. - Lời Chu Chân Mệnh không đả động gì tới một số điều đáng ngờ khác, bởi vậy những kẻ tim đang nhảy ngược cũng dần bình tâm trở lại.

-Lúc này chúng ta nên quay về đường chính, tìm tới nơi xuất phát của khí. – Tuy giọng Lỗ Nhất Khí rất điềm tĩnh, song người khác vẫn nhận ra vẻ hào hứng từ trong đó.

Tìm ra đường chính, đối với người thông thạo trận pháp nơi này như Chu Chân Mệnh, cũng không phải chuyện dễ dàng. Bởi lẽ mê cung chín vòng kết hợp với tám cửa Độn giáp, muốn tìm ra đường khí, cần phải đi thử từng con đường một. Nếu may mắn thì con đường đầu tiên đã đi thông, nếu xui xẻo có khi đến tận con đường cuối cùng mới tìm đúng. Song vấn đề hóc búa này lại rất đơn giản với Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ sau khi cậu tụ khí ngưng thần, đã có thể cảm giác được vị trí nơi làn khí tướng đang cuồn cuộn dâng trào. Cậu nhằm đúng vị trí đó, sau đó đi theo lộ số của mê cung chín vòng, có thể trực tiếp đi đến đường chính.

Đây là lần phối hợp đầu tiên giữa Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh kể từ khi xuống dưới địa thất; một người cảm nhận phương hướng, một người dẫn đường theo lộ số của trận pháp.

Không có chốt lẫy, khảm nút, lại có lửa trong đường rãnh soi sáng suốt dọc đường, nên con đường có lẽ rất dễ đi. Song mới đi được khoảng một nửa hành trình theo dự tính, họ đã phải dừng lại. Bởi vì đường rãnh đã bị đứt quãng giữa chừng, phía trước là khoảng tối đen như mực.

Chuyện gì đã xảy ra? Kẻ hoài nghi nhất chính là Chu Chân Mệnh, hắn thông thạo trận pháp, biết rõ rằng trong cách cục khí tuần hoàn với lộ số đường chín vòng, cho dù đường rãnh có một vài chỗ đứt đoạn, thì ngọn lửa vẫn có thể cháy lan theo đường khác mà tới, không thể có chuyện toàn bộ khảm diện đều tối thui như thế này.

-Rãnh lửa đứt rồi, châm đèn đi tiếp là được chứ gì? Tay thị vệ lại quàng quạc cái miệng.

Không ai nói gì, không ai thèm đếm xỉa đến gã. Họ đang lắng nghe, đang biện nhận, đang cảm giác.

-Nếu các người không dám đi thì để tôi dẫn đường, có điều kiếm chác được thứ gì ngon lành nhớ chia chác cho tôi đấy! – Gã vỗ ngực cái bịch, khiến cả một tảng thịt lớn trước ngực rung lên nung núc.

-Im lặng! Phía trước có thứ đang chuyển động. – Chu Chân Mệnh nói khẽ, chặn họng tay thị vệ lắm lời.

-Thứ chó chết gì thế, sao tôi chẳng thấy gì, muốn hù doạ ai... – Gã béo đang nói nửa chừng bỗng câm họng, chết sững tại chỗ, vì gã đã nhìn thấy "thứ chó chết" kia.

Trước mặt họ, một vầng sáng tím đến chói mắt đang dật dờ bay lại, sau đó rẽ vào một khúc đường ngang chậm rãi bay đi. Nó không to, chỉ bằng hạt trân châu, song thứ ánh sáng tím ngắt bao quanh nó lại liên tục bập bùng lưu động, tựa như một ngọn lửa màu tím đang bốc cháy.

-Thi khí! - Lỗ Nhất Khí khẽ kêu lên kinh hãi.

-Bắt! – Chu Chân Mệnh đang ra lệnh cho quái nhân mắt đỏ, hắn là tay Sa man Vanh Sa duy nhất còn sót lại, điều khiển thây ma hồn phách là sở trường của hắn.

Quái nhân mắt đỏ lập tức tung mình nhảy vụt đi, song khi xuất phát, bước chân lại có chút ngập ngừng, bởi lẽ hắn ta chưa từng gặp thứ thi khí nào nặng mùi như vậy, hơn nữa trong đó còn kèm theo một luồng hơi rất bạo liệt.

Lỗ Nhất Khí và tay thị vệ đều là những kẻ tò mò, đáng lẽ phải theo sát phía sau gã mắt đỏ để xem hắn ứng phó với đốm thi khí màu tím ra sao, song lần này phản ứng của bọn họ rõ ràng rất lề mề. Vì bọn họ chậm chạp nên Chu Chân Mệnh cũng đành phải chậm theo, vì hắn không muốn Lỗ Nhất Khí nằm ngoài tầm kiểm soát của mình.

Sau khi bọn Lỗ Nhất Khí thủng thẳng chạy qua mấy chỗ ngoặt, thì đốm sáng tím ngắt và quái nhân mắt đỏ đều đã biến mất tăm. Đây là một chuyện không tài nào hiểu nổi, bởi lẽ phía trước là đường cụt, là một góc nhọn do hai bức tường kẹp lại tạo thành.

Đối mặt với những chuyện kỳ quái liên tiếp xảy ra, vẻ mặt Lỗ Nhất Khí vẫn không mảy may biến đổi. Điềm tĩnh được như thế, nếu không phải vì định lực thần kỳ, hẳn là mọi chuyện sớm đã nằm trong dự liệu của cậu.

-Tôi đã nói để tôi dẫn đường lại không tin, giờ thì vui rồi, sa vào đường chết rồi, người cũng bị ác ma tha đi mất tích! – Tay thị vệ được dịp khua môi múa mép.

-Đừng nói nhảm nữa, kiểm tra xem có cửa ngầm lỗ ngầm nào không? - Lỗ Nhất Khí chặn họng tay thị vệ, cậu không muốn chọc giận Chu Chân Mệnh đang trong lúc bực bội cực độ.

Lần này, Chu Chân Mệnh đích thân đi lên kiểm tra. Tại đáy cụt không có máng lửa, ánh lân tinh không đủ để chiếu sáng. Chu Chân Mệnh móc ra một tấm thẻ tròn to cỡ miệng chén áp lên lòng bàn tay, lập tức từ trong bàn tay hắn chiếu ra một chùm sáng trắng loá, tựa như đang cầm chiếc đèn pin.

Khi còn ở Lưu Ly Xưởng, Lỗ Nhất Khí đã từng nghe nói tới món đồ này. Nó thường có ba loại, loại phát ra ánh sáng trắng gọi là chén Tỉnh Nguyệt, loại phát ra ánh sáng xanh lục gọi là xoáy Bích Ba, loại phát ra ánh sáng đỏ gọi là nắm Đoàn Điệm. Những vật này đều là ngọc quý hiếm trăm năm khó gặp, có thể tự phát ra ánh sáng, áp vào lòng bàn tay, ánh sáng sẽ chiếu ra. Có điều loại ngọc này rất ít khi thành khối, đa phần chỉ có dạng hạt. Còn loại chén Tỉnh Nguyệt lớn và sáng như của Chu Chân Mệnh, quả thực cậu chưa từng nghe nói đến.

Tới nước này, Lỗ Nhất Khí cũng không thể khoanh tay đứng nhìn được nữa, nếu không, cậu quả là không đủ thành ý. Cậu cũng lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra, cùng quan sát và tìm kiếm cẩn thận.

Tay thị vệ đứng đực ra bên cạnh, đã chẳng động tay động chân làm gì, còn luôn miệng càu nhàu:

-Đừng tìm nữa, chỉ tổ lãng phí thời gian! Tôi đã nói ở đây không có đường là không có đường, ngaytừ đầu đã đi sai rồi, đi nhầm đến đài Vọng Hương[31], mấy người kia đều bị ma quỷ bắt cổ xuống điện Diêm Vương rồi!

-Hình như ngươi biết một vài điều gì đó? – Chu Chân Mệnh đột ngột quay lại, chùm sáng trắng từ lòng bàn tay chiếu thẳng vào mặt gã béo. Thế nhưng những tia sáng quắc toả ra từ con mắt hắn còn lấn át cả hào quang của chén Tỉnh Nguyệt.

-Đừng nói nhảm! Ở đây đến cái đài cũng không có, sao lại liên quan gì đến đài Vọng Hương? - Lỗ Nhất Khí đứng cạnh vội vã hoà giải.

-Không! Cậu cứ để hắn nói cho rõ ràng, ta cũng cảm thấy hình như bản thân có điểm nào đó vẫn mơ hồ không rõ! - Giọng Chu Chân Mệnh rất quả quyết.

-Bảo tôi nói tôi cũng không nói rõ được, hay là các vị đi theo tôi! - Ngữ khí của gã béo cũng rất kiên định.

Tuy gã béo bảo rằng không thể nói rõ được, song những lời lẽ dông dài không đầu không cuối của gã vẫn khiến Chu Chân Mệnh cảm thấy rất bất ngờ.

-Tôi cảm thấy lộ số mà chúng ta đi không phải là trận pháp chín vòng hay Bát môn chết tiệt gì cả, mà đây là một bộ xương, một bộ xương xếp chồng lên nhau!

-Đám vách ngăn ở đây là xường đùi gãy rời, vách đất ở kia là xương sống lưng...

-Kỳ thực con đường hầm mà chúng ta đi vào cũng là hình xương, không phải xương cẳng chân cũng là xương cánh tay...

Gã béo vừa đi vừa nói, Chu Chân Mệnh và Lỗ Nhất Khí từ đầu tới cuối chỉ im lặng, song sắc mặt của Chu Chân Mệnh mỗi lúc một khó coi, trong khi Lỗ Nhất Khí mỗi lúc một thêm bình thản.

-Ở đây là xương sườn, xương ức, xương sống lưng đan chéo...

-Khoan đã! – Chu Chân Mệnh đột ngột kêu lên, sau đó rảo bước về một ngả rẽ.

Lỗ Nhất Khí và tay thị vệ không hỏi vì sao, chỉ im lặng chờ đợi Chu Chân Mệnh bước đi rồi quay trở lại.

-Quả nhiên không phải mê cung chín vòng. Đường rẽ kia đáng lẽ phải nối liền với một cửa, nhưng bên trong nó cũng là một đường cụt. – Chu Chân mệnh rầu rĩ thừa nhận mình đã sai lầm.

-Bây giờ thì tin tôi chưa? – Gã béo đắc ý - Nếu không nhầm, lối ra thực sự có lẽ là đi lên rồi rẽ trái, rồi cứ thế đi thẳng, đó là đường xương ức nối thẳng tới xương yết hầu.

Gã béo không nói sai, song đã làm sai. Nếu như gã thông thạo cách đi ở nơi đây, tại sao không nói ra ngay từ đầu, mà phải đợi tới khi Chu Chân Mệnh đi theo bộ pháp mê cung chín vòng rồi nhầm đường, và một thuộc hạ của Chu gia biến mất, gã mới xung phong dẫn đường?

Chu Chân Mệnh lúc này dồn đủ mười hai phần tinh thần. Trong lòng hắn đã khẳng định, hành động lần này của Lỗ gia là có dụng ý riêng, hơn nữa đã có chuẩn bị từ trước. Hắn và Lỗ Nhất Khí không phải đang buộc chung một nút dây, mà hắn đang bị cậu thanh niên kia xỏ dây vào mũi dắt đi.

-Ở đây! - Lỗ Nhất Khí đột nhiên nói khẽ một câu.

-Cái gì ở đây? – Chu Chân Mệnh giật bắn mình, hắn đang cố gắng ghép nối mọi manh mối thì bị cắt ngang bất ngờ.

-Bảo bối chính là ở đây! - Lỗ Nhất Khí bắt đầu tỏ ra hứng phấn, rảo bước nhanh hơn.

-Khoan! – Chu Chân Mệnh dứt khoát ngăn cản.

-Lại gì nữa đây? – Tay béo dừng lại một cách miễn cưỡng.

Lỗ Nhất Khí cũng dừng bước, mắt cậu hơi khép lại, khoé miệng khẽ nhếch lên, dường như là đang suy tính điều gì đó, cũng dường như là đang hưởng thụ điều gì đó.

Chu Chân Mệnh bảo dừng, bởi vì hắn nghe thấy một âm thanh ngắn ngủi, đó là một tiết tấu đơn giản, song biểu đạt rất nhiều ý nghĩa. Chu Chân Mệnh bảo dừng cũng vì e sợ đám Lỗ Nhất Khí cướp mất bảo bối trước hắn. Bảo bối đã ở trong tay đối thủ, hắn sẽ khó lòng khống chế được cục diện.

-Các người đợi một chút, ta xem xét tình hình thế nào đã! – Chu Chân Mệnh nói xong, chẳng cần biết người khác có đồng ý hay không, lập tức sải bước lao vụt vào ngả rẽ phía trước.

Một con đường dài hun hút, tối đen thăm thẳm. Cũng chính vì bóng tối mịt mù trong con đường mà hắn có thể nhìn rất rõ cảnh tượng bên ngoài con đường, ở đó có một đám lân tinh rất rất lớn, đang bay dật dờ tít trên cao.

Đó là đàn tế giấu bảo bối chăng? Chu Chân Mệnh thực tình rất muốn tin vào phán đoán này. Song cùng với đó, trong thâm tâm hắn cũng cuộn lên một mối hoàn nghi không thể gạt bỏ.

Chu Chân Mệnh thận trọng bước lên phía trước vài bước. Hắn rất yên tâm, vì Lỗ Nhất Khí lúc này sẽ không thể thừa cơ hất cẳng mình. Bởi lẽ âm thanh ngắn ngủi vừa rồi là có người đang thông báo với hắn, đường rút lui của đám Lỗ Nhất Khí đã bị bịt kín. Kẻ phát ra âm thanh chính là quái nhân mắt đỏ vừa biến mất. Hắn không trúng kế, mà là đang tương kế tựu kế.

Chu Chân Mệnh tự tin sải rộng bước chân, bởi lẽ khi hắn men theo vách tường đi về phía trước, chén Tỉnh Nguyệt đã rọi thấy một ký hiệu hình chữ "Đinh". Đây là ký hiệu của Nghê gia, người Nghê gia đã tới đây, là ai? Chỉ có thể là tay Nghê Thất đã bị vùi lấp trong khảm diện Cát lở. Về điểm này, Chu Chân Mệnh sớm đã có dự cảm, một khảm diện Cát lở đá vùi rất đỗi tầm thường làm sao có thể vây khốn người của Nghê gia. Hơn nữa, ký hiệu chữ "Đinh" của Nghê gia có nghĩa là đường đi chính xác, không có nguy hiểm.

Chu Chân Mệnh mau chóng bước ra khỏi con đường dài hun hút, bên ngoài quả nhiên là một khoảng không gian rộng thênh thang. Nhờ vào ánh sáng lân tinh và chén Tỉnh Nguyệt, có thể thấp thoáng nhìn thấy một đài cao, phải cao đến hơn ba mươi bậc. Lẽ nào đúng như lời tay béo vừa nói, họ đã đi tới đài Vọng Hương chốn âm ti?

Đài không những cao mà còn rất rộng lớn, nhìn không rõ diện tích móng rộng bao nhiêu. Xung quanh chân đài có rất nhiều vật thể hình như gò đất nối tiếp nhau, tựa những nấm mồ nhấp nhô. Đám lân tinh lớn mà bọn họ đã nhìn thấy khi từ trong con đường hầm đang ở tít trên đỉnh đài. Từ sự phân bố của đám lân tinh, có thể lờ mờ nhìn thấy phía trên có xà có trụ, tựa như khung nhà.

Nếu muốn nhìn rõ toàn bộ tình hình trên đài, buộc phải tiếp tục tiến lên phía trước. Tuy nhiên, cứ tiến thêm một bước, cảm giác khó chịu và ớn lạnh lại dâng lên trong lòng Chu Chân Mệnh. Đây rốt cục là nơi nào? Nếu là ám cấu cất giấu Thiên bảo, tại sao lại khiến người ta có cảm giác lạnh buốt tim gan?

Sau khi đi được hơn chục bước, Chu Chân Mệnh đột nhiên cảm thấy sau lưng gai gai, dường như có rất nhiều người đang nhìn hắn chằm chằm với vẻ mặt rất khó hiểu. Mồ hôi lạnh buốt túa ra ướt đẫm sống lưng, hắn lập tức hạ người quay phắt lại, ở trong tư thế nửa công nửa thủ sẵn sàng đối phó với cú đánh lén bất ngờ.

Phía sau lưng vẫn im lìm như cõi âm hồn. Chùm sáng từ chén Tỉnh Nguyệt lập tức quét qua, những gì hiện ra trước mắt khiến Chu Chân Mệnh tim đập đùng đùng muốn vỡ.

Hắn nhìn thấy bộ mặt, bộ mặt người, vô số bộ mặt người, rất sống động, rất tươi mới, như thể đang sống. Là những bộ mặt quái đản, xấu xí, hung hãn, thảm thương... Song chỉ có mặt, không thấy thân người. Vô số bộ mặt được khảm trên vách tường, dày đặc ở hai bên lối vào mà hắn vừa đi qua.

Chu Chân Mệnh có phần căng thẳng, bởi lẽ những khuôn mặt ma quái kia khiến hắn sực nhớ tới một loại khảm diện vô cùng độc ác là Nhiếp hồn vi. Loại khảm diện nay sử dụng rất nhiều bộ mặt người quái dị kết hợp với ánh sáng và âm thanh để làm mê hoặc thần hồn. Sau khi sa vào khảm diện, càng muốn thoát thân lại càng không thể thoát thân, bởi lẽ nó sẽ gây ra sự sai lệch giữa cảm nhận và hành động, lợi dụng sức mạnh của bản thân người trúng khảm để tự vây khốn chính mình. Bởi vậy Chu Chân Mệnh chỉ đứng im, không cử động; hành động bừa bãi trước khi chưa làm rõ tình hình là vô cùng ngu xuẩn. Hắn cố gắng giữ cơ thể trong trạng thái tĩnh tại, giữ hơi thở thật mảnh, thật chậm. Sau đó hắn chậm rãi xoay khẽ lòng bàn tay để di chuyển chén Tỉnh Nguyệt, chiếu luồng sáng trắng nhạt qua những bộ mặt người.

Rất nhanh, Chu Chân Mệnh đã có thể khẳng định, chúng đều là mặt người thật. Là những chiếc đầu người khi vừa bị chặt xuống đã lập tức được xử lý chống phân huỷ, rồi ngâm qua sáp trong suốt, sau đó khảm tại nơi đây, nên trông chúng mới sống động và đầy sinh khí như vậy. Còn khảm diện Nhiếp hồn vi không dùng thủ cấp của người thật, lại thêm ở đây cũng không xuất hiện ánh sáng, âm thanh, bởi vậy có thể khẳng định đây không phải là Nhiếp hồn vi. Thế nhưng khảm dày đặc đầu người trên vách tường là nhằm mục đích gì? Chẳng lẽ là để trang trí ư?

Tuy vẫn còn nhiều nghi hoặc, song Chu Chân Mệnh vẫn thở phào một cái. Lúc này hắn mới cảm thấy sống lưng ướt lạnh. Trong trí nhớ của hắn, hình như đã lâu lắm rồi hắn chưa từng cảm thấy kinh sợ và căng thẳng đến vậy.

Cơn kinh sợ qua đi, hắn mới có thời gian liếc nhìn Lỗ Nhất Khí và tay thị vệ to béo trong con đường hầm. Song hắn chỉ thấy thấp thoáng hai bóng lưng, đang đi thụt lùi, rất chậm rất chậm, tựa như bị âm hồn bức bách, cũng tựa như bị ma quỷ lôi kéo.

Lại vang lên vài tiếng lách cách ngắn ngủi, âm thanh này đã cho hắn đáp án. Hoá ra quái nhân mắt đỏ đã xua tất cả rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc tới nơi, chúng đang chen chúc ở đoạn đường hầm bên kia, dồn ép Lỗ Nhất Khí và tay thị vệ từ từ lùi lại.

Chu Chân Mệnh nhếch mép cười khẽ. Mọi thứ vẫn nằm trong tầm kiểm soát của hắn, nút dây giữa hắn và Lỗ Nhất Khí vẫn rất chắc chắn. Cho dù có tìm ra bảo bối trên đài cao phía trước hay không, chỉ cần Lỗ Nhất Khí vẫn còn, thì lưỡi câu vẫn còn, mồi nhử vẫn còn, chí ít hắn vẫn có thể bảo toàn vốn liếng. Không còn gì phải lo lắng nữa, Chu Chân Mệnh vững tin quay người bước về phía đài cao.

Đúng vào khoảnh khắc Chu Chân Mệnh quay đi, một bộ mặt người chết khảm trên tường đột nhiên co rúm lại, một mắt nhắm nghiền, một mắt chớp mạnh. Bộ mặt người chết vừa sống lại tựa như bị lửa thiêu qua, vẻ quái đản méo mó đến rùng rợn. Da thịt co kéo, lồi lõm nham nhở, một mắt mở, một mắt nhắm, hệt như sứ giả Câu Hồn ngoài cửa Hoả ngục của chín tầng địa phủ.

Song Chu Chân Mệnh không nhìn thấy bộ mặt sống này, hắn đã dứt khoát quay người bước tới một mặt của đài cao. Sau khi xác định một cạnh góc của đài, hắn tiếp tục tiến sát về phía đó. Đây là cách phá khảm rất chính xác, tuần tự theo các bước ngắm rìa khảm, giẫm lên khe khảm, đối chiếu cạnh khảm, những vị trí này đều là bộ phận không thể vận hành hoặc phản ứng tương đối chậm trong khảm diện.

Rất may mắn, căn cứ vào cảm giác của bước chân trong suốt lộ trình cùng sự phân bố và nối tiếp của rìa, cạnh, đường, mặt, điểm, có thể phán đoán rằng nơi này không có khảm diện. Cũng rất bất thường, vị trí cất giấu bảo bối lại không hề được thiết kế khảm diện? Là người cất giấu phạm sai lầm, hay là Lỗ Nhất Khí phán đoán sai? Hay là hắn đã đi nhầm chăng?

Chu Chân Mệnh vừa đi vừa nghĩ, chẳng mấy chốc đã tới sát những vật thể mấp mô như gò đất. Chúng không phải là những nấm mồ được đắp bằng đất đá, song số lượng oan hồn quanh quất bên trên nó chắc hẳn phải đông đảo hơn số mộ rất nhiều, vì chúng được xếp chồng bởi vô số sọ người.

Đối diện với những đống sọ người chất chồng, Chu Chân Mệnh không một mảy may hoảng loạn. Một người xưng đế xương khô kín đồng, để giành được thiên hạ, số đầu người mà Chu gia đã chặt xuống còn nhiều hơn gấp bội. Hơn nữa, khi đứng trước vô số sọ người chồng đống, Chu Chân Mệnh còn thấy trong mình như bừng dậy vẻ bá khí của bậc đế vương.

Đám đầu lâu tại sao lại được chất đống ở đây, trong khi ở những đống xương người lộn xộn lúc họ mới vào lại không thấy có lấy một chiếc hộp sọ? Những con người này ngay từ khi bị giết chết đã đầu lìa khỏi xác, hay là sau khi đã dầu dãi thành xương trắng, mới bị ai đó thu gom đầu lâu tới chỗ này?

Chu Chân Mệnh không dám tới gần, càng không dám đụng chạm vào đống đầu lâu, mà chỉ giẫm mạnh một cái tại vị trí cách đống đầu lâu chừng năm bước. Tiếng chân giậm xuống nghe như trống dậy, một luồng lực đạo chạy dọc theo mặt đất lao thẳng vào đống đầu lâu ở vị trí gần nhất. Đống đầu lâu trông có vẻ chông chênh lại không hề lay động, song chiếc đầu lâu ở trên cùng đột ngột nảy bật lên.

Đầu lâu rơi xuống ngay trước mặt Chu Chân Mệnh, song hắn không đưa tay đỡ lấy. Chu gia có các dạng nút lẫy như đầu lâu tẩm độc, đầu lâu cắn ngón, đầu lâu nở hoa, thì khảm tử gia khác hẳn cũng sẽ có những nút lẫy tương tự.

Đầu lâu nảy tưng tưng trên đất vài cái rồi lăn tới bên chân Chu Chân Mệnh, chùm sáng trắng trên tay hắn vừa soi tới, hắn lập tức nhận ra đây là đầu lâu của người thật, không có chốt lẫy. Tại xương cổ của đầu lâu có một vết bẻ rất mới, có vẻ như vừa bị bẻ rời khỏi xương cổ.

Chú thích

[31] Tên gọi của một ngôi đài nơi địa phủ trong truyền thuyết, là nơi các âm hồn nơi địa phủ có thể nhìn về quê nhà nơi dương giới, đôi khi cũng được dùng để chỉ âm phủ nói chung.

Chương 27: Cục ép cục

Lúc này, niềm khao khát có được bảo bối đã dâng lên cuồn cuộn trong lòng Chu Chân Mệnh, khiến hắn không thể suy nghĩ chu toàn trước rất nhiều hiện tượng bất hợp lý. Hắn chỉ muốn mau mau chóng chóng tìm ra vị trí cất giấu bảo bối chính xác.

Trước khi bước lên những bậc thang đất của đài cao, hắn đã tuân thủ theo đúng cách thức của khảm tử gia, nhanh chóng quan sát một lượt chất liệu, kích cỡ và cách đầm nện của những bậc thang đất, và xác nhận trong đó không hề ẩn giấu chốt lẫy ngầm. Khi giẫm lên bậc thang, hắn rất chú ý quan sát hai bên, vì sợ nút lẫy có thể được bố trí ở phía ngoài bậc thang.

Khi bước tới bậc thang thứ sáu, hắn đã nhận ra sự bất thường. Ở trong một đống đầu lâu phía bên trái bậc thang, có một đôi mắt đang mở trừng trừng.

Thân hình Chu Chân Mệnh trượt ngang đi, như một cái bóng, vụt một cái đã tới rìa bên trái của bậc thang, năm ngón tay trái chĩa ra chụp thẳng về phía đôi mắt. Cần phải thần tốc! Chủ nhân của đôi mắt kia rất có thể là kẻ giật dây điều khiển khảm nút, cần phải ngăn chặn đối thủ trước khi hắn kịp ra tay.

Những ngón tay được chăm sóc rất kỹ lưỡng, thon dài linh hoạt, trắng trẻo mịn màng. Chỉ pháp xuất chiêu cũng hết sức thần linh, khéo léo đến độ hoàn mỹ. Từ lúc thò tay vào đống đầu lâu, tới khi hai ngón tay bóp chặt huyệt thái dương, hai ngón tay xuyên thẳng vào hốc mắt, bàn tay không hề động chạm đến đống đầu lâu. Ngón tay vừa chạm vào huyệt thái dương, phần đầu đã lập tức biến dạng. Sau đó chỉ lực xuyên suốt tay vai, đột ngột giật mạnh về, nhằm lôi bật gã nút người ra khỏi đống đầu lâu.

Song lực đạo giật về đã bị hẫng, khiến Chu Chân Mệnh mất đà, thân hình lảo đảo, ngã bật ngửa xuống dưới bậc thang. Hắn lập tức vặn eo, gồng chân, xoay chéo bàn chân mới ổn định được cơ thể. Tình hình thực tế đã nằm ngoài dự liệu của hắn, thứ vừa được lôi ra khỏi đống đầu lâu không phải là một thân người hoàn chỉnh, mà là một cái đầu, một cái đầu mới lìa khỏi cơ thể chưa lâu.

Tuy rằng chiếc đầu đứt rời đã kiệt máu mà tái nhợt, tuy rằng nó đã bị ngón tay bóp đến vỡ xương biến dạng, song vừa liếc qua hắn đã nhận ra ngay, đó là cậu bảy nhà họ Nghê!

Chu Chân Mệnh không hề bất ngờ khi thấy Nghê Thất đã thoát khỏi khảm diện Cát lở đá vùi, đào thủng nóc địa thất mà tới được nơi đây, song hắn đã phải ngạc nhiên khi nhìn thấy vết đứt nơi cần cổ của Nghê Thất. Vết đứt không phải do đao chém rìu bổ, mà hình như bị thứ gì mềm mảnh thít tới đứt lìa.

Trong lúc hắn đang ngẩn ra suy nghĩ, bỗng nhiên có ánh lửa chớp loé phía sau lưng. Hắn không cử động, ánh lửa này vẫn còn cách hắn khá xa, chưa gây uy hiếp. Song nếu như ánh lửa này chỉ là mồi nhử, thì gần đây hẳn có nguy hiểm.

Ánh lửa phía sau mỗi lúc một sáng, dường như đang lan dần tới phía hắn. Chu Chân Mệnh vẫn đứng yên bất động, song mí mắt phải đang giật liên hồi. Có một thứ, ở phía trên, hơi chếch sang phải. Trước ánh lửa phản chiếu, thứ đó đang bắt sáng lấp lánh.

Hắn từ từ đặt đầu Nghê Thất xuống bên chân, sau đó đề khí vận lực xuống bàn chân, bước lên các bậc thang đất theo cách giẫm hờ thu thực, từng bước từng bước một. Thứ đang loé sáng kia cuối cùng đã tới bên chân hắn, là một lưỡi xẻng mặt hẹp lưỡi bằng đã đứt rời khỏi cán. Chu Chân Mệnh đã nhận ra, đây chính là lưỡi xẻng trên cây xẻng cán ngắn mà lão cao thủ Chồn Đào mang theo. Nhìn vào hình dạng và độ dày mỏng ở mặt đất, có vẻ như nó đã bị chặt đứt bởi một chiếc xẻng khác.

Đầu của Nghê Thất, ánh lửa phía sau lưng, lưỡi xẻng bị chặt đứt, tất cả những sự việc quái lạ này nhất thời đều chưa thể lý giải, nhưng hình như chúng lại đang ám chỉ điều gì đó. Chu Chân Mệnh ngửa đầu nhìn lên đỉnh đài, hắn muốn nhìn thấy nhiều hơn nữa, hắn muốn biết được nhiều hơn nữa.

-Không thể nào! Không thể nào! – Chu Chân Mệnh bỗng lầm bầm trong miệng. Thoáng chốc, bá khí đế vương, tiên khí Đạo gia, thanh khí tao nhã, ngạo khí cao quý đều tiêu biến sạch không, thay vào đó là sự kinh ngạc, nghi hoặc và phẫn nộ đến cực điểm. Gân xanh trên trán hắn co giật liên hồi, ánh mắt đờ đẫn chết sững, hắn đang trong cơn suy nghĩ vô cùng căng thẳng. Tất cả mọi nhanh mối vụn vặt nhanh chóng được ghép nối thành sợi, đan cài thành tấm trong trí não hắn.

Trên phần đỉnh của đài cao, có một khung treo tám chân ngoại cỡ, với tám chân trụ cao ngất ngưởng to lớn như cột trụ trong điện đường, phía trên gác ngang dọc những thanh xà đường kính chừng miệng chậu; chân trụ và xà ngang đều một màu trắng, chất liệu giống như ngọc khảm vàng, với hàng đám lớn lân tinh bao bọc xung quanh. Nhưng thật không ngờ một bộ khung tám chân to lớn nhường đó lại được làm từ xương. Là thứ xương gì mà lại dựng nên được một bộ khung khổng lồ đến thế? Chẳng lẽ lại là xương cốt của giống quái thú thời tiền sử mà hắn chưa từng biết đến.

Nếu như bộ khung xương tám chân ngoại cỡ kia khiến người ta nhìn mà đờ người á khẩu, thì cỗ quan tài khổng lồ treo phía dưới khung xương lại càng khiến người ta phải sửng sốt đến cứng người.

Tuy cỗ quan tài cũng được vẽ hoa quét sơn, song nhìn vào màu nền tại những vị trí sơn hoa bong tróc, có thể biết chất liệu thực sự của nó là gì. Đó là một cỗ quan tài bằng chì.

Chu Chân Mệnh đã nhìn thấy rõ, nó đúng là một cỗ quan tài bằng chì, một cỗ quan tài bằng chì không một khe hở. Nắp và thân quan tài được đúc liền nhau, tại đường đúc liền còn in dải hoa văn hình bùa chú chạy dài.

Trong "Lý dư bách táng pháp" – Ác táng" có viết: "Gặp xác hung hồn ác, có thể đúc chì làm quan tài, phong kín bằng sáp đỏ. Nếu là thứ cực hung, sau khi đưa xác nhập quan tài chì, đậy nắp rồi đúc tiếp, nắp và thân được đúc liền với nhau để định".

Quan tài chì không một kẽ hở được treo trên khung xương bằng bốn sợi dây xích đỏ sẫm đánh từ thép san hô ánh đỏ. Loại thép san hô ánh đỏ là do núi lửa dưới đáy biển phun trào, san hô trộn lẫn với nham thạch bị nung chảy mà thành. Trong pháp thuật Mao Sơn cũng có phương pháp dùng thép san hô ánh đỏ treo xác chết lên cao, không dính bách khí để ngăn chặn biến xác.

Lấy xương làm khung, đúc chì thành quan tài, đúc liền nắp với thân, treo bằng thép san hô, đây là táng pháp dùng để tuyệt diệt linh hồn. Chu Chân mệnh lại nhẩm tính số bậc thang mà mình vừa đi qua, tổng cộng có ba mươi ba bậc. Mà cỗ quan tài này được treo cách ba trượng ba, lẽ nào đây chính là đài Cố hồn tuyệt khí dùng để khoá diệt tam hồn trong truyền thuyết?

Nếu đây chính là đài Cố hồn tuyệt khí, vậy thì thi thể trong cỗ quan tài lúc sinh thời hẳn là loài ác ma tàn sát cả nghìn vạn người không hề nháy mắt, khí dữ bốc cao ngút trời, tâm ác kinh động địa phủ. Kẻ này là ai? Chu Chân Mệnh không biết, song hắn biết rõ rằng trong huyệt mộ chôn một hồn ma hung ác như vậy tuyệt đối không thể là nơi cất giấu bảo bối.

Đám gân xanh đang giật rùng rùng trên trán hắn bỗng nhiên ngừng lại, đôi mắt chết sững cũng đã chuyển động. Hắn chầm chậm quay người lại.

Đài Cố hồn tuyệt khí giam cầm xác chết, đoạn tuyệt linh hồn, không cho hạ thổ, không cho tái sinh, khiến cho người chết vĩnh viễn không được siêu thoát. Để đề phòng xác chết trong quan tài mượn lấy khí sống của sinh linh mà thoát ra ngoài, xung quanh đài Cố hồn tuyệt khí có lẽ còn bố trí các loại cục tướng như thu hồn, tán hồn, giam hồn, định hồn.

Trong khoảnh khắc xoay người ngắn ngủi, Chu Chân Mệnh đã hồi phục được làn khí tướng vốn có của hắn.

Ánh lửa đã tới rất gần chỗ hắn, song không có nguy hiểm. Có người đã đốt cháy điểm bên kia chỗ đứt đoạn của đường rãnh, hơn nữa, đường rãnh này còn kéo dài đến tận bậc thang đất. Chu Chân Mệnh quan sát thêm một lát, thì thấy nó vẫn tiếp tục kéo dài lên phía trên. Nếu không phải dầu củi động Ô Sơn đã khô cứng, bắt lửa chậm chạp, hẳn lúc này ngọn lửa đã trùm kín toàn bộ đỉnh đài.

Dầu củi ở động Ô Sơn cháy rất bền, bởi vậy dù là châm trước hay châm sau, thì ánh lửa cũng đã lan khắp toàn bộ mê cung tường trắng dày đặc như mây cuộn. Lửa nối liền thành đường, phác hoạ ra toàn bộ thế đi của đường rãnh dọc theo những bức tường trắng, hình thành một đồ hình trận thế bập bùng sáng rực.

Chu Chân Mệnh đứng trên bậc thang của đài cao, tay chắp sau lưng. Hắn đang kiểm chứng phán đoán của mình, cũng đang giáng cho tâm lý của mình một đòn nặng nề. Hình dáng của những rãnh lửa trước mặt không phải là trận mê hồn chín vòng, cũng không hề có tám cửa Độn giáp ở bên ngoài. Chín vòng trong đồ hình thiếu mất năm vòng, cũng có nghĩa là trong Cửu Nhất, Chiêu Dao, Hiên Viên, Thiên Phù, chỉ có Hàm Trì, Thanh Long, Thái Âm và Nhiếp Đề. Điều này cũng tương đương với một cơ thể người không đầu, không tim, không gan, không mật, không chân. Tay thị vệ béo nói rất đúng, cục thế hợp thành bởi bốn ngôi sao còn lại chỉ là một khung xương, hơn nữa, là một khung xương đứt gãy chồng chéo lên nhau. Kiểu bố trí này có lẽ là tuyệt kỹ mê cung Xương gãy do Thiên Canh đạo phủ[32] sáng chế ra.

Hơn nữa, tám cửa Độn giáp cũng chỉ còn lại bốn cửa: Đỗ môn, Kinh môn, Cảnh môn, Tử môn. Cũng có nghĩa là nơi đây kỳ thực chỉ có bốn con đường, bốn con đường tương đương với tứ chi trên cơ thể người. Nói theo phương vị Kỳ môn, bốn đường này không hung cũng tử, có lẽ lối đi đều đã bị trấn áp bởi địa thất hình quan tài Đại phu.

Vách mặt tường gần đài cao nhất kỳ thực được xây dựng dựa theo "chiếu Tán hồn" ở lối vào âm phủ trong truyền thuyết. Hàng trăm hàng nghìn bộ mặt người chết kia đều là những đầu lâu vô hồn, nếu như có linh hồn mang theo hung lực cực mạnh đi qua đây, trước tiên sẽ bị đám đầu lâu vô hồn kia hút mất đến già nửa.

Tất cả mọi hiện tượng trước mắt đã lật đổ hoàn toàn những dự cảm vốn có trong thâm tâm Chu Chân Mệnh. Đài Cố hồn tuyệt khí kết hợp với mê cung Xương gãy, quan tài áp tứ chi, bốn cửa tử, chiếu Tán hồn, tất cả đều được thiết kế nhằm mục đích giam hãm hung hồn. Địa thất này không có khảm diện, tất cả các bố cục tinh xảo, kỳ diệu đều dùng để đối phó với xác hung hồn ác đã táng. Để ngăn chặn người ngoài vào trộm cắp, chỉ có một khảm diện Cát lở đá vùi tầng ngoài cùng. Bởi vậy, dù xét trên phương diện nào, xét từ manh mối nào, đều cho thấy ở đây không thể có bảo bối.

Hắn đến đây vốn là để dụ Lỗ Nhất Khí tới, lẽ nào lại bị cậu ta cài bẫy ngược lại? Hay đúng là Lỗ Nhất Khí đã phán đoán sai?

Trong con đường giữa các bức tường trắng, Lỗ Nhất Khí và gã béo vẫn đi thụt lùi một cách chậm chạp. Xem ra dầu củi động Ô Sơn trong đường rãnh là do họ đốt, đối mặt với một đám rắn độc trùng độc nhiều vô số kể, ánh lửa có lẽ là phương pháp tốt nhất để ngăn cản sự tấn công.

Lỗ Nhất Khí cảm giác phía sau có một cặp mắt sắc bén như dao đang nhìn mình chằm chằm, bèn mỉm cười rạng rỡ mà quay người lại, lập tức bốn mắt giao nhau với Chu Chân Mệnh cũng đang mỉm cười.

-Khoá diệt tam hồn, không được tái sinh, vĩnh viễn không siêu thoát, hài cốt không biến xác, tất cả đều là phương pháp phá hồn! – Chu Chân Mệnh vẫn mỉm cười mà nói.

-Cửu cung Bát môn thiếu khuyết, mê cung tro xương lửa thiêu, quan tài Đại phu trấn cửa, tường chiếu Tán hồn ngăn trở, đều là chiêu thức đối phó âm ác. - Lỗ Nhất Khí vừa mỉm cười vừa bước hai bước về phía Chu Chân Mệnh.

-Ngươi đã đến đây từ trước?

-Chưa, nhưng tôi biết.

-Lỗ môn trưởng, thật đáng khâm phục! Nhưng nút thắt giữa chúng ta quá chặt, không dứt nổi đâu.

-Sự việc còn chưa đến hồi kết, hà tất phải quan tâm tới chặt hay lỏng, dứt hay nối làm gì. - Lỗ Nhất Khí vẫn mỉm cười.

-Ngươi nghĩ ngươi sẽ vượt qua được những nút độc kia ư? Sẽ chống cự được trước đòn giáp công của bọn ta ư? – Chu Chân Mệnh vừa dứt lời, gã mắt đỏ đã lù lù hiện ra trong con đường.

-Không thể! Có điều tôi cũng không nghĩ đến việc xông ra tháo chạy! - Từ lúc lũ rắn độc và trùng độc xuất hiện, Lỗ Nhất Khí đã biết mình đang rơi vào hoàn cảnh thế nào.

-Nếu ta đoán không lầm, ý đồ của ngươi là lừa gạt lấy đi bảo bối giết rồng của nhà ta! - Giọng Chu Chân Mệnh càng thêm bình thản. Trong cơn phẫn nộ vẫn có thể kiểm soát bản thân đến độ điềm tĩnh như vậy, quả là một con người đáng sợ.

-Ông sai rồi, không phải là lừa gạt. Tổ tiên nhà ông lừa gạt lấy trộm Thiên bảo, còn luyện bảo bối mà phá huỷ mất bảo bối, tôi chỉ là lấy lại một chút bồi thường mà thôi. Dùng bảo bối giết rồng để trấn hung huyệt tây bắc, tôi đoán rằng hẳn sẽ cải thiện được thế hung. Vả lại, nếu không phải ông định dùng vũ khí giết rồng để dụ tôi thay ông tìm bảo bối, tôi cũng không thể vận dụng hiểm chiêu này.

-Mọi bước đều nằm trong tính toán của ngươi, xem ra trong môn phái ta có tai mắt của ngươi? – Câu nói này đến bản thân Chu Chân Mệnh cũng không tin.

-Không có! Chỉ có điều ông thông minh quá mức mà thôi!

-Nghĩa là sao? – Chu Chân Mệnh không tin mình có chỗ nào sai sót.

-Có một nhân vật quan trọng, tôi nghĩ ông biết là ai. Việc bảo bối giết rồng có thể thay Hoả bảo trấn hung huyệt, tôi đã cố tình nói cho hắn biết. Tôi biết chắc hắn sẽ nói lại với ông, bởi vậy sau đó, việc ông mang vũ khí giết rồng tới để dụ tôi, kỳ thực cũng nằm trong dự liệu của tôi trước đó. Cách cục là do ông bố trí, tôi chỉ chồng thêm lên đó một khảm diện mà thôi! - Lời cậu vừa nói ra, Chu Chân Mệnh đã hoàn toàn hiểu rõ, không phải là có khâu nào sơ suất, mà ngay từ lúc vạch ra cách cục này, hắn đã sai hoàn toàn.

Biết mình đã sai, nhưng lúc này đây Chu Chân Mệnh lại càng trở nên điềm tĩnh, sắc mặt thản nhiên như tranh vẽ, khí tướng quanh người cũng như ngưng đọng.

-Ngươi làm thế nào mà nhận ra được thân phận thực của hắn? – Chu Chân Mệnh rất muốn biết, kẻ mà mình sắp xếp nằm vùng từ vài tháng trước tại sao lại bị lật tẩy.

-Sau khi bọn tôi rời khỏi Thông Châu, các người không tiếp tục đuổi theo, hơn nữa suốt hành trình về tây đều sóng yên biển lặng, không gặp phải sự cố nào. Đó là vì ông biết rõ tôi sẽ tới trại Mười Tám Dặm ở Hàm Dương, trong khi nhiều tháng trước ông đã bố trí sẵn tay trong đợi tôi ở đó. Vị trí hẹn gặp tại sao lại bị tiết lộ? Nếu chịu khó suy nghĩ sẽ không khó phát hiện ra nguyên nhân. Đêm đó trong Đạo quán ở khe Long Môn, những người nghe tôi dặn dò, hoặc là đã chạy trốn về phía tây, hoặc là đã đi theo tôi, song chỉ có một người ở lại, đó chính là lão chủ trì của Đạo quán. - Lỗ Nhất Khí lại bước lên trước hai bước ngắn.

-Về điểm này, đúng là tôi đã sơ suất. Sau cuộc gặp ở khe Long Môn, lão đạo trưởng chắc chắn sẽ bị Chu gia kiểm soát. Với những chiêu trò lợi hại của các người, ông ta chắc chắn sẽ phải khai ra nơi bọn ta hẹn gặp. May mà tôi đã kịp thời nghĩ ra sơ suất này trên đường về tây, bởi vậy vừa tới trại Mười Tám Dặm, việc đầu tiên tôi làm chính là nhận diện kẻ nằm vùng của Chu gia.

-Hắn nói rằng đã dò la được tin tức của ngươi từ chỗ lão đạo trưởng ở khe Long Môn, nên mới tới trại Mười Tám Dặm ở Hàm Dương chờ đợi, ngươi đã nhận ra sơ hở qua lời hắn nói? – Chu Chân Mệnh quả rất thông minh, hắn đã nhận ra sai lầm của mình.

-Đúng vậy! Khoan nói tới việc kẻ nằm vùng của ông xuất hiện một cách rất bất thường, chỉ cần suy đoán về mặt thời gian đã thấy không ổn. Hắn nói lúc hắn gặp lão đạo trưởng là hơn một tháng sau khi tôi rời khỏi khe Long Môn. Song tôi nghĩ, ngay trong đêm tôi rời đi, lão đạo trưởng hoặc là đã bị Chu gia vây bắt, hoặc đã cao chạy xa bay, tuyệt đối không thể vẫn ở yên trong Đạo quán. Dù có gặp được, cũng là gặp trong sào huyệt của Chu gia.

Chu Chân Mệnh khẽ thở dài một tiếng, liếc nhìn cái đầu của Nghê Thất đang lăn lóc dưới chân, trong lòng cảm thấy vô cùng đáng tiếc. Bản thân phải khó khăn lắm mới thu nạp được một nội gián như vậy, thế mà chỉ vì một lời nói sơ hở đã phải mất mạng.

-Bố cục này của ông còn có một điểm bất thường, trong cục diện "Vân yểm thân quá" mà Chu gia bố trí tại viện trong viện ở Bắc Bình, có bức rèm bông màu trắng với bảy đường kim cơ bản, vốn do người Nghê gia lấy được từ trong mộ huyệt núi Bách Việt, song trên đường trở về đã biến mất một cách bí ẩn. Sự việc này khiến tôi nghi ngờ trong Nghê gia có kẻ nằm vùng do Chu môn cắm vào. Sau khi tới trại Mười Tám Dặm, một người hiểu rõ nội tình đã nói cho tôi biết, trong số những kẻ tham gia trộm mộ lần đó, có cả tay Nghê Thất.

-Khi hắn vào trong khảm diện Cát lở đá vùi, đã không tỏ ra thận trọng hơn, mà ngược lại còn vội vàng nhanh tay đào bới, là vì hắn phát hiện người hiểu rõ nội tình kia đã xuất hiện? – Chu Chân Mệnh lại hiểu ra một chuyện.

-Không phải phát hiện, mà là tôi để người đó ra chiêu nhử hắn. Có điều hắn đào quá nhanh, bị chôn vùi trong cát lở không còn dấu vết, việc này đã được ông ngấm ngầm cho phép đúng không? Để hắn chui vào địa thất trước, vừa có thể dò đường tìm bảo bối giúp ông, lại có thể ẩn mình mai phục. - Lỗ Nhất Khí biết cậu nói không sai.

Khí tướng ngạo nghễ của Chu Chân Mệnh đã thu bớt lại, cũng có phần xao động. Với một người quá tự tin như hắn, quá trình phát giác về thất bại của bản thân quả thực vô cùng thống khổ.

-Được rồi, bây giờ dù là ai dụ ai, ai lừa ai, cuộc giao dịch của chúng ta vẫn chưa kết thúc. Ngươi sẽ trả lại ta bảo bối của Chu gia, hay là tiếp tục đưa ta đi tìm Thổ bảo đã di dời vị trí? – Chu Chân Mệnh vẫn không bức bách Lỗ Nhất Khí đến đường cùng.

Câu nói này khiến Lỗ Nhất Khí biết, quyền chủ động vẫn nằm trong tay mình, cậu cần lợi dụng ưu thế này kéo dài thời gian. Tuy tình thế đã khác xa dự đoán, vô cùng bất lợi cho bản thân, song chỉ cần tới được đòn quyết định cuối cùng trong kế hoạch, để chốt lẫy vận hành, thì kẻ chiến thắng trong ván cờ này vẫn sẽ là cậu.

Chú thích

[32] Một nhánh của Đạo giáo, từng rất thịnh vượng vào cuối Tuỳ đầu Đường.

Chương 28: Đất chợt biến

Khoan đã! Tôi cũng muốn biết mình đã lộ sơ hở chỗ nào, để ông sớm có kế sách chặn đứng đường rút lui của tôi? - Lỗ Nhất Khí lại bước lên hai bước, rồi đứng thẳng hiên ngang, khí thế không hề thua kém Chu Chân Mệnh.

-Sơ hở của ngươi quá nhiều! – Chu Chân Mệnh khẽ nhếch miệng khinh khỉnh - Vừa mới vào gian địa thất trên đỉnh, thoắt cái đã không thấy tay cao thủ dùng ngón tay đào thông Cát lở đá vùi phía ngươi đâu, bên dưới lại không có dấu vết giao đấu hay giằng co. Tuy ngươi nói vết quét có thể che đậy manh mối, song ta đã nhận thấy, vết quét sâu không quá trôn kim, không thể che đậy dấu vết giằng co. Sau đó, ta lại nhìn thấy trên mép tấm nút cửa có một lỗ nhỏ, có lẽ là vết ngón tay cắm vào. Cũng có nghĩa là có người đã dùng tay cắm vào tấm nút rồi nhấc lên, sau đó lắp lại vào trong cửa. Người có chỉ lực đáng gờm như vậy, chỉ có tên trợ thủ của ngươi. Bởi vậy, chắc chắn hắn đã tự nấp đi.

-Đáng tiếc là lúc đó ông vẫn chưa thể khẳng định! - Lỗ Nhất Khí đã nói trúng tim đen của đối phương.

Chu Chân Mệnh không thèm để ý tới lời châm chọc của Lỗ Nhất Khí, nói tiếp:

-Sau khi vào trong địa thất, chỉ nhìn thấy khung xương mà không thấy đầu lâu, mới đầu ta cũng không cảm thấy quái lạ. Tới khi nhìn thấy vết bẻ gãy còn rất mới trên xương, ta mới hiểu rằng tất cả đều nhắm vào Chu gia ta. Do bọn ngươi biết rõ thuật Vanh Sa của thuộc hạ ta có thể điều khiển hài cốt, song khiếm khuyết là ở chỗ không thể điều khiển đầu lâu không xương và xương không đầu lâu. Bởi vậy, từ trước đó ngươi đã cho người tách rời thân và sọ.

-Quả thực không sai! Tuy phía ông cũng chỉ có ba người xuống, song nếu để tay thuộc hạ mắt đỏ của ông điều khiển hài cốt, thì tương quan lực lượng giữa chúng ta quá chênh lệch. Có điều việc này ông cũng chỉ mới nhận ra khi nhìn thấy đầu lâu, còn lúc mới tới thì không hề để ý.

-Khi xuống khỏi đường hầm, ngươi và tay béo kia cố tình giở trò hề, kỳ thực là muốn giật thanh gỗ rơi xuống, để cắt đuôi ta.

-Là tôi đã tính sai. Nếu sớm nghĩ ra phía ông có lão cao thủ đào đất đi theo, tôi cũng không cần phải sử dụng thêm chiêu này.

-Còn tay béo kia, lúc thì nói không dám đi, lúc lại chủ động đòi dẫn đường, tất cả đều nhằm dắt mũi bọn ta vào khảm diện, rồi thủ tiêu từng người một. – Chu Chân Mệnh đã sắp bước xuống khỏi đài.

-Chu môn trưởng, ông đã làm tôi thất vọng rồi. Trong quá trình sự việc đang diễn biến, những điều này mới chỉ là suy đoán. Chưa tới bước này, ông vẫn chưa thể khẳng định tôi đang lừa ông.

-Không, ngươi còn phạm một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng nữa. Ngay từ thời khắc đó, ta đã chắc chắn chuyến đi này đã nằm trong tính toán của ngươi. Sở dĩ ta vẫn tiếp tục đi cùng ngươi, chỉ là muốn kiểm soát ngươi, để ngươi dẫn ta tới ám cấu cất giấu bảo bối thực sự.

-Còn một sai lầm nghiêm trọng nữa ư? - Lỗ Nhất Khí có vẻ hơi nghi hoặc.

-Đúng vậy! Khi vừa bước chân vào trong mê cung Xương gãy, đáng lẽ ngươi không nên ba hoa với ta về nguyên lý "bảo, hung cùng tồn tại". Thổ bảo di dời vị trí mà tới đây, nên ở đây không phải là vị trí hung huyệt ban đầu. Nếu nơi đây quả thực có giấu Thiên bảo, thì làm gì còn thứ cực hung nào có thể tồn tại cùng bảo bối?

-Đúng! Là do tôi nhất thời ăn nói khinh suất, nhầm lẫn nơi đây với vị trí trấn hung huyệt thực sự! - Lỗ Nhất Khí thừa nhận mình đã sai lầm.

-Có điều phản ứng của ngươi cũng cực nhanh, biết mình lỡ lời nên lập tức đổi giọng nói rằng không biết nơi này có bảo bối thực hay không, cũng không biết hung cỡ nào, rồi đùn đẩy cho ta phán đoán.

-Tôi biết không nên phạm phải sai lầm này, song rốt cục vẫn không thoát khỏi suy nghĩ kín kẽ của ông! - Nụ cười đã tắt trên môi Lỗ Nhất Khí.

-Còn một chuyện nữa, có lẽ ngươi cũng không ngờ tới. Từ lúc đi cùng với ngươi, ta chí ít đã bắt thóp được quá nửa chân tướng của ngươi.

-Chân tướng gì?

-Thân thủ của ngươi có lẽ khác xa với suy đoán ban đầu của ta, đáng lẽ ngươi không nên ở bên ta quá lâu. Hơi thở, sự vận hành của kinh mạch, sự co duỗi của cơ bắp đều có thể vô tình để lộ ra rất nhiều thứ! – Chu Chân Mệnh đã có phần đắc ý. Mồi nhử và lưỡi câu đều nằm trong tay hắn, vậy thì con cá này chạy đâu cho thoát.

-Bởi vậy, lúc này ông mới không chút kiêng dè? - Lỗ Nhất Khí như đang thở dài.

-Hừm! Được rồi! Lời cần nói đã nói hết rồi, hãy quay về việc chính đi! – Chu Chân Mệnh đã bước xuống khỏi bậc thang cuối cùng.

Lỗ Nhất Khí biết Chu Chân Mệnh muốn nói gì, bởi vậy lập tức từ chối thẳng thừng:

-Vũ khí giết rồng tôi sẽ không trả lại cho ông!

-Tại sao? – Chu Chân Mệnh hết sức kinh ngạc, hắn không ngờ trong tình thế này mà Lỗ Nhất Khí còn kiên quyết đến vậy.

-Vũ khí giết rồng, chính là đồ long chuỷ[33], hay ngũ âm chuỷ. Không những chuỷ xuất hiện, trời đất biến, quỷ thần kinh, mà khi nó vung lên có thể phát ra ngũ âm cung, thương, giốc, vũ, chuỷ[34] của trời. Loài rồng, giao long nghe thấy âm thanh này, thảy đều cúi đầu chờ chém. Là món chí bảo trong thiên hạ, không có mấy vật hơn. Hơn nữa, còn một điều rất quan trọng, tổ tiên ngươi lấy trộm Hoả bảo, lại sở hữu đồ long chuỷ, ắt hẳn sẽ cất giấu hai bảo bối này cùng một chỗ, nên bảo bối này đã thu hút được rất nhiều bảo khí từ Hoả bảo. Hoả bảo đã vỡ, nên muốn định hung huyệt tây bắc, không thể thiếu bảo bối này.

Sự phi thường của bảo bối giết rồng, Chu Chân Mệnh đương nhiên hiểu rõ. Nếu như trước đây, hắn vẫn giấu nó ở trong vườn Cô Tô như cũ, thì cách cục Tù long phải mất bao tâm huyết trong suốt nhiều năm mới dựng thành đã không bị phá vỡ, mẹ hắn và mấy cô vợ lớn nhỏ đã không phải bỏ mạng.

-Ngươi thực sự muốn lấy cả hai chứ? - Từ khoé mắt Chu Chân Mệnh loé ra một tia hung hãn.

-Tôi chỉ không trả vũ khí giết rồng! - Giọng Lỗ Nhất Khí rất điềm tĩnh.

-Ý ngươi là, Thổ bảo... – Nét hung hãn đã được thay thế bằng vẻ hoài nghi.

-Thổ bảo đã không còn nữa!

-Sao lại không còn nữa? Ai nói với ngươi? - Huyết khí đổ dồn lên mặt Chu Chân Mệnh.

-Là ông nói với tôi!

-Ta?

-Đúng! Ông kể với tôi rằng, khi luyện tế Hoả bảo, Hoả bảo nổ tứ tán không thể thu hồi, chỉ có thể trở thành phúc trạch của một phương. Mà trước đó, tôi đã được biết, năm xưa Địa bảo phía đông cũng bị vỡ tan, sau nghìn năm đã kết thành vùng đất Thông Châu trù phú. Nhìn vào hai bảo bối này, có thể thấy rằng ám cấu cất giấu bảo bối ở nơi này đã bị lớp lớp đất vàng lấp kín, đè sập, xô đẩy, nên không còn tồn tại nữa. Khí của Thổ bảo cũng đã trở thành linh khí một phương.

-Vùng đất Quan Trung mưa thuận gió hoà, không thiên tai địch hoạ, là nhờ vào phúc trạch linh khí của Thổ bảo ư? – Tư duy của Chu Chân Mệnh cũng mẫn tiệp hệt như thân thủ của hắn.

-Có lẽ thế. Bởi vậy mới nói, mệnh trời vẫn phải nhờ vào sức người thực hiện, ông nên từ bỏ tham vọng đối với Thổ bảo là hơn. Còn món bảo bối giết rồng, coi như để bồi thường cho việc phá huỷ Hoả bảo cũng được, coi như ông dùng để mua lấy kiến thức cũng tốt, tôi sẽ giữ lại. Giao dịch chưa thành, tình người còn đó.

Đôi mắt Chu Chân Mệnh bừng bừng phẫn nộ, một niềm phẫn nộ đến cực điểm. Hắn chưa bao giờ ngờ được rằng, tay môn trưởng của Lỗ gia không những xảo trá quỷ quyệt, mà ăn nói lại ngang tàng vô liêm sỉ đến vậy. Song hắn không biết được rằng, sự thay đổi của Lỗ Nhất Khí mới được hình thành trong khoảng thời gian ngắn ngủi sống cùng đám giang hồ vô lại, bọn họ muốn dùng chính thứ này làm phương pháp, làm vũ khí, để gây nhiễu loạn tâm thái và hơi thở của gã cao thủ tuyệt đỉnh phía Chu gia.

Chu Chân Mệnh lúc này hơi thở rối loạn, khí huyết nhộn nhạo, đến giọng nói cũng có phần đứt quãng:

-Nếu ngươi vẫn kiên trì quyết định của mình, ta đảm bảo ngươi sẽ giống như hắn! - Hắn đưa ngón tay hơi run rẩy chỉ vào cái đầu của Nghê Thất.

"A! Không đúng!" – Chu Chân Mệnh đột nhiên kêu thầm trong dạ. Cái đầu kia đã nhắc hắn nhớ ra một số điều quan trọng.

Một luồng hơi xoay vòng trong ngực, rồi từ từ thở ra ngoài. Ngón tay vừa mới hơi run rẩy, khi thu về đã bình ổn như sắt thép. Tâm tư sôi trào chỉ trong một hơi thở đã phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Trong khi kinh mạch lại như dòng sông ào ào tuôn chảy, thông suốt tới mọi ngóc ngách của cơ thể.

Đây là trạng thái tinh khí thần đều đã phát huy tới cực độ. Bởi lẽ Chu Chân Mệnh đột nhiên ý thức được rằng, ở đây ngoài Lỗ Nhất Khí, chí ít còn thêm bốn cao thủ của Lỗ gia. Tay thị vệ to béo kia là một, nhìn vào khí thế trấn tĩnh khi gã đối diện với Mắt Đỏ, đã biết được gã hoàn toàn có thể ứng phó với mọi đòn tấn công của Mắt Đỏ. Song đáng sợ hơn cả tay béo là ba cao thủ chưa lộ diện, một tên có thể dùng loại vũ khí giống như sợi dây mảnh thít đứt phăng cần cổ Nghê Thất, một tên có loại vũ khí chém đứt tiện lưỡi xẻng cán ngắn bằng thép cực tốt của lão cao thủ Chồn Đào, còn tên cuối cùng chính là thằng cha Hứa Tiểu Chỉ vừa dùng ngón tay đào cát. Hiện giờ chúng đang ẩn náu ở đâu?

Khí tướng của Chu Chân Mệnh thoắt cái đã trở lại trạng thái bình thường. Một cao thủ tầm cỡ như Chu Chân Mệnh, chỉ cần duy trì được trạng thái ổn định, cho dù có thêm hai, ba người nữa cũng chưa chắc đã tập kích thành công.

-Tin lời ta đi. – Chu Chân Mệnh tựa như đang nói với hình bóng mình trong gương, không hề tỏ ra khiêu khích. Vừa nói, hắn vừa tiến gần tới Lỗ Nhất Khí, từng bước vững chãi và kiên định.

Lỗ Nhất Khí bắt đầu thấy căng thẳng, trạng thái căng thẳng khiến khí tướng của cậu đột nhiên thay đổi, hệt như ráng mây rực rỡ tuôn trào. Song Chu Chân Mệnh không vì thế mà bước chậm lại, hắn tin tưởng vào phán đoán ban đầu của mình. Biểu hiện trong lúc vô tình chính là biểu hiện chân thực nhất. Dù khí tướng hiện tại của Lỗ Nhất Khí ra sao cũng không thể chứng tỏ được rằng cậu là cao thủ võ học.

Lỗ Nhất Khí đã cảm giác được một áp lực vô hình, áp lực này khiến cậu như ngạt thở, mạch tư duy cũng như đông cứng lại. Chỉ có cảm giác của cậu vẫn đang xoay chuyển, chỉ có cảm giác đang mách bảo cậu, hãy trụ vững, trụ vững, chốt lẫy sắp khởi động rồi...

Trên mặt đất, sắc trời đã sáng bừng. Cơn mưa rào sầm sập suốt nửa đêm qua đã nhào trộn mặt đất vàng thành bùn lầy nhão nhoét.

Đám người đang đứng trên mặt bùn vàng quạch chia làm hai nhóm. Một nhóm là những trợ thủ của Lỗ gia do lão Lợi và lão mù cầm đầu, bọn họ đã ở rất xa ba gò đất, là do bị nhóm kia bức bách đẩy lui.

Nhóm còn lại là bọn thuộc hạ của Chu gia, số lượng rất đông đảo, đông gấp nhiều lần so với lúc mới bắt đầu đào đất. Phần lớn trong số đó là quân chi viện của Chu gia từ khắp các ngả đường đội mưa đội gió đến đây trước khi trời sáng. Đám quân chi viện tới đầu tiên do lão già có bộ dạng Sa man cầm đầu. Hoàn toàn trái ngược với quái nhân mắt đỏ, tuy lão ăn mặc giống Sa man, song lại không phải là Sa man, mà chỉ là thầy cúng của bộ tộc Hi Ni A Đáp ở vùng cực Bắc.

Thầy cúng còn được gọi là tù trưởng linh hồn. Tộc Hi Ni A Đáp có hai tù trưởng địa vị tôn quý nhất, một người phụ trách quản lý người trong tộc và một người phụ trách quản lý linh hồn của người trong tộc. Cũng chỉ có tay thầy cúng chuyên quản lý linh hồn kia mới có thể dùng pháp thuật thần kỳ để tìm kiếm vị trí bình hồn, lần ra dấu vết con thuyền của Bộ Bán Thốn trên mặt biển mênh mông.

Đám thuộc hạ mà tay thầy cúng dẫn đến trông như một lũ mất hồn, trì độn và đờ đẫn, có lẽ đã bị tay thầy cúng giở trò tà đạo nào đó để điều khiển. Thế nhưng đám người này không hề biết sợ, thậm chí không có cảm giác đau đớn, khi gặp nguy hiểm tuyệt đối không rút lui.

Lão Lợi và lão mù biết rõ, với những đối thủ như vậy, liều mạng là không đáng. Bởi vậy, bọn họ đã lùi lại rất xa; là bị bức bách, cũng là cố ý.

Môn trưởng Chu gia đích thân xông vào hiểm địa, đám thuộc hạ đã nhiều lần tìm cách xuống dưới để chi viện, song chúng không thể xuống nổi đường hầm. Không biết từ khi nào, trong hầm đã giăng kín khói sương, toả ra một thứ mùi nồng nặc rất quái dị. Mới xuống chưa được hai thân người, đã thấy hoa mắt chóng mặt, lợm giọng buồn nôn, toàn thân rệu rã.

Trong ám thất đã bị đục thủng nóc bên dưới đường hầm, đống gỗ lộn xộn đã cháy gần hết. Song thực chất, nếu trong đống gỗ không được bỏ thêm chất gì đặc biệt, sẽ không thể cháy rụi thành tro nhanh chóng đến vậy. Làn khói mịt mù trong cửa hầm chính là xuất phát từ đây.

Lỗ thủng mở trên nóc ám thất lệch về một bên, phần nóc ám thất được ghép từ nhiều mảnh xương chồng chất lên nhau, trông chông chênh muốn lở, song lại không hề sập xuống, mà càng trở nên kiên cố hơn. Đó là vì áp lực đè lên nó đang dần dần giảm bớt. Tầng cát tích tụ trên nó đã bị nước mưa cuốn trôi, liên tục chảy xuống qua lỗ thủng.

Cát hoà lẫn với nước mưa và bùn lỏng tích tụ cao dần trên sàn ám thất, áp lực cũng nặng dần, nặng tới mức chẳng thua kém một cỗ quan tài chì ngoại cỡ.

Dưới áp lực nặng nề, nền ám thất đã bắt đầu nghiêng lệch. Khi đám Chu Chân Mệnh xuống dưới, bọn họ đã không quan sát kỹ mặt nền làm từ đá nguyên khối ở đây. Trong toàn bộ công trình dưới đất chỉ có mặt nền ở đây dùng đá nguyên khối, những chỗ khác đều là đất nện. Đã có người bỏ qua hiện tượng khác lạ đáng lẽ không nên bỏ qua này. Lúc này, toàn bộ khối đá đang nghiêng lệch, đang xoay chuyển, chỉ chốc lát nữa thôi nó sẽ dựng ngược lên, lật úp xuống.

"Đất trời đảo ngược", đây là khảm diện cuối cùng trong ngôi mộ cổ, cũng là khảm diện huỷ hoại hoàn toàn. Bốn cửa trong mộ cổ đều là cửa tử, đường ra duy nhất chính là ám thất này. Để đề phòng hồn ác xông ra, nơi đây đã dùng xương cháy làm đỉnh. Nếu như có người lấy trộm cỗ quan tài chì, chỉ cần đưa quan tài chì vào tới ám thất, khảm diện Đất trời đảo ngược sẽ lập tức hoạt động, khiến toàn bộ mộ thất đổ sập, mộ cổ sẽ bị phá huỷ hoàn toàn, cỗ quan tài chì sẽ bị vùi sâu dưới đất cùng tất cả mọi thứ. Như vậy, chỉ cần người đời sau không ai đào tới độ sâu này, khai quật quan tài chì lên, cho dù xương cốt hồn phách có hấp thu được địa khí mà hoạt động, thì dưới tác dụng của quan quách đúc chì và vô số xương cốt chồng chất xung quanh, nó vẫn không thể thoát ra ngoài làm điều ác.

Lúc này, khảm diện Đất trời đảo ngược đã động, dưới áp lực đè nặng của đống cát chảy ướt đẫm...

Lỗ Nhất Khí bắt đầu run lên trước mặt Chu Chân Mệnh, toàn thân run bần bật không ngừng.

Những bước chân cực kỳ thận trọng của Chu Chân Mệnh cũng đã dừng lại, hắn cũng run rẩy một cách không thể kiểm soát.

Tay thị vệ béo trắng cũng run rẩy, quái nhân mắt đỏ cũng run rẩy, những bức tường trắng trong mê cung Xương gãy, đài Cố hồn tuyệt khí và từng đống đầu lâu cũng rung lên bần bật. Toàn bộ mộ thất đều đang run rẩy.

Mặt đường dưới chân Lỗ Nhất Khí đột nhiên lỏng ra rồi nứt toác, tựa như mặt đầm lầy hay mặt cát lỏng, chớp mắt cậu đã bị ngập lút đến thắt lưng. Sau đó, toàn bộ cơ thể cậu thụt thẳng xuống dưới như một pho tượng gỗ bọc bùn. Trong khoảnh khắc đó, có lẽ nỗi kinh hãi đã khiến cậu gần như chết đứng, thậm chí không cả kịp vùng vẫy.

Mặc dù đã không thể kiểm soát nổi sự rung lắc, Chu Chân Mệnh vẫn tung người nhảy vọt tới bên Lỗ Nhất Khí. Hắn không cho phép Lỗ Nhất Khí biến mất vào lúc này, càng không cho phép để vũ khí giết rồng biến mất.

Mấy chiếc đầu lâu theo nhau bay đến sau lưng Chu Chân Mệnh. Chu Chân Mệnh chẳng thèm quay người lại, chỉ nghe tiếng gió cuốn theo đám đầu lâu, hắn đã phán đoán được rằng lực đạo đó không đủ để tổn thương đến thân người. Đầu lâu không thể gây sát thương, vậy thứ vũ khí sát thương sẽ là gì? Ở đâu?

Tuy lực đạo của đầu lâu không thể gây sát thương, song Chu Chân Mệnh vẫn lắc người sang bên, để chúng lần lượt bay qua. Kẻ thận trọng đa nghi như hắn vẫn e sợ rằng trong đó có ẩn chứa ám khí hay chất độc gì khác. Vì phải né tránh nên tốc độ của hắn đã chậm lại, thế là một vật mảnh dài trông vô cùng quái dị lao thẳng tới, âm thầm đuổi kịp hắn. Đầu mũi mảnh nhọn không dễ quan sát bằng mắt thường, tiếng gió cuốn theo nghe mơ hồ hơn đám đầu lâu rất nhiều.

Vật quái dị này sau khi vượt qua cơ thể Chu Chân Mệnh thì lập tức quay đầu, mũi nhọn cực mảnh của nó như một đầu rắn vụt lại quấn quanh cổ Chu Chân Mệnh. Sau khi quấn được quanh cổ hắn, lại đột ngột vận lực thu vòng, lực đạo cực mạnh, tiếng gió rít lên còn dữ dội hơn cả tiếng xích sắt quật vào không khí. Song một âm thanh còn vang động hơn cả tiếng thu vòng là một tiếng nổ giòn tan vào đúng lúc vòng thu hoàn tất, nghe như tiếng súng.

Tiếng dây quật giòn tan như tiếng súng đã mách bảo kẻ cầm vũ khí rằng, cú tập kích đã thất bại. Song bản thân hắn vẫn chưa nhìn rõ tại sao lại tập kích hụt. Cần cổ rõ ràng đã bị quấn chặt, chớp mắt đã thấy ở bên ngoài vòng dây.

Giờ thì Chu Chân Mệnh đã hiểu đầu của Nghê Thất đã bị xiết đứt như thế nào, song hắn không kịp ngoảnh lại nhìn kẻ đánh lén sau lưng, bởi lẽ Lỗ Nhất Khí đã chìm nghỉm xuống hố mất tích, hắn phải mau chóng chạy lại xem sao.

Song mới bước được một bước, hai chân hắn đã bị khoá chặt. Một đôi tay đã thình lình thò lên từ trong đất, giống như là dưỡng thi xuất thổ ở đất dưỡng thi, khác chăng là ở chỗ sức chụp của đôi tay lớn hơn gấp bội so với dưỡng thi. Nếu không phải Chu Chân Mệnh đã vận khí bảo bệ khắp toàn thân, thì mười ngón tay kia chắc hẳn đã khiến cổ chân hắn xương vỡ gân đứt chỉ trong nháy mắt.

Tuy chỉ lực cực mạnh, song Chu Chân Mệnh chỉ giậm chân phải một cái, bàn tay đang túm chặt cổ chân phải đã lập tức buông ra. Cú giẫm còn khiến cơ thể hắn bật lên cao, hắn bèn thuận thế hất mạnh chân trái, lôi bật kẻ giấu mặt kia lên khỏi đất. Khi cơ thể hạ xuống, chân phải của hắn liền đạp ngay xuống đỉnh đầu kẻ giấu mặt. Đây là sát chiêu thần tốc mà hung tàn, trong tình thế hiện tại, biện pháp thoát khỏi sự quấy rối hiệu quả nhất chính là mau chóng tiêu diệt kẻ địch.

Bàn chân đạp đi còn chưa kịp đến vị trí dự định đã chuyển hướng, đổi thành chiêu "móc ngược giường thánh". Là vì trong lúc triển khai sát chiêu, khoé mắt Chu Chân Mệnh đã liếc thấy một vài tia sáng cực nhỏ đang vụt tới sống lưng mình. Tuy vị trí lao tới của chúng không phải là chỗ yếu hại, song hắn không dám mạo hiểm, nên lập tức đổi đạp thành móc ngược, đá bay những tia sáng cực mảnh tựa lông bò kia đi.

Bàn tay đang chụp lấy cổ chân trái của hắn đã buông ra, kẻ vừa bị hất lên khỏi mặt đất khắp người nhem nhuốc đất vàng chớp lấy cơ hội này vội vã tung mình lộn nhào, bỏ chạy trong cơn kinh tâm táng đởm.

Địa thất rung lắc càng thêm dữ dội, những bức tường trắng ngang dọc như mây bắt đầu theo nhau đổ sập xuống. Trên nóc địa thất lả tả rơi xuống từng mảng bùn lớn, giáng mạnh xuống đất vỡ tung, đất bụi bắn lên mờ mịt. Lửa cháy trong rãnh đã yếu dần, tầm nhìn của mọi người đều trở nên lờ mờ không rõ.

Song Chu Chân Mệnh đã nhắm chuẩn vị trí Lỗ Nhất Khí vừa thụt xuống. Sau khi thoát khỏi những cú tập kích, hắn lập tức lao thẳng về phía đó.

Thứ vũ khí mảnh dài quái dị lại đuổi tới, lần này không phải tập kích mà là xoay tròn thành vô số vòng xoáy, trực tiếp tấn công vào thân trên của Chu Chân Mệnh. Cùng lúc này, hơn chục tia sáng cực mảnh cũng âm thầm vụt tới, mục tiêu là tấn công vào thân dưới của hắn.

Đối mặt với thế tấn công quyết liệt này, Chu Chân Mệnh không thể không quay người lại ứng phó. Lúc này, chỉ cần một sơ suất nhỏ, hắn không những không thể đoạt lại bảo bối, mà còn có nguy cơ bỏ mạng tại nơi này. Vừa xoay người, hắn vừa hú lên một tiếng chói tai, mục đích là để doạ dẫm đối thủ, cũng là phát đi một mệnh lệnh.

Tiếng hú vừa vang lên, quái nhân mắt đỏ trong con đường lập tức hành động, đưa tay xé toạc manh áo rách tả tơi, tựa như mỗi tay cầm một lá cờ ghép từ vải vụn. Sau đó, cả hai "lá cờ" cùng lúc phất lên, quét thành hai luồng kình phong dậy đất. Hai luồng kình phong không nhằm vào gã béo đang đối đầu với hắn, mà là cuốn gọn toàn bộ đám rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc lúc nhúc dày đặc trước mặt hắn vào trong hai "lá cờ", rồi quăng vụt về phía hố đất mà Lỗ Nhất Khí vừa thụt xuống.

Nếu không thể kịp thời bắt giữ một người để lấy về thứ mình cần, cách tốt nhất chính là giết chết kẻ đó trước, đợi sau khi giải quyết xong mọi phiền toát khác mới tới lấy. Bởi vì người chết không thể chạy trốn.

Tay thị vệ béo cũng đã hành động, thanh đao nhỏ hình thù kỳ dị trong ta gã lao thẳng đến tay phải của quái nhân mắt đỏ. Chẳng ai ngờ được rằng một thân hình béo bệu nung núc những thịt kia lại có thể hành động chớp nhoáng như vậy, lại càng không ai ngờ thanh đao trong tay gã còn nhanh hơn cả tốc độ của cơ thể gã. Đám trùng độc bọc trong "lá cờ" bên tay phải gã mắt đỏ vừa mới được vung lên, cánh tay phải của hắn đã trở thành một khúc xương trơ trọi, đến cả gân mạch, cơ bắp ở cổ tay và khuỷu tay cũng bị róc sạch một cách gọn gàng. "Lá cờ" lập tức đổi hướng, đập thẳng vào một mặt tường phía xa, lũ trùng độc xổ ra bò tán loạn khắp tứ phía.

Trong lúc gã béo hành động, bức tường bên trái đột nhiên vỡ toác, từ bên trong thò ra một đôi tay.Hai cánh tay cách nhau hơn một thước, trống trơn không cầm bất cứ thứ gì. Đôi tay không chạm vào gã mắt đỏ, chỉ co duỗi một cái ở hai bên khuỷu tay trái của hắn, chớp mắt, cẳng tay trái của hắn lập tức bay vụt đi cùng với "lá cờ".

Chỉ trong nháy mắt đã mất cả hai cánh tay, nhưng một kẻ đã quen với tàn sát và máu tanh như quái nhân mắt đỏ vẫn không hề có chút hoảng loạn hay kinh hãi. Vào đúng lúc cánh tay trái của hắn bay theo "lá cờ" bọc đám trùng độc, cơ thể hắn cũng đã chuyển động, kịp bồi thêm một cú đá ngay trước khi "lá cờ" chuyển hướng. Lá cờ cuốn theo cả búi trùng độc lúc nhúc cuối cùng vẫn rơi trúng vào trong hố.

Tay béo sững sờ trước sự biến chớp nhoáng này; hai bàn tay thò ra từ vách tường cũng khựng lại bất động. Quái nhân mắt đỏ chớp lấy cơ hội lập tức quay lưng tháo chạy với tốc độ kinh người.

Trong lúc Chu Chân Mệnh né tránh cú tấn công từ phía sau, khoé mắt hắn vẫn đã bao quát được toàn bộ sự việc xảy ra ở phía bên kia. Tuy tình hình sạt lở vẫn tiếp tục, tuy đòn tấn công vẫn chưa kết thúc, song hắn vẫn cảm thấy yên tâm phần nào. Bởi đó, sau đợt tấn công này, hắn không tiếp tục áp sát tới chỗ Lỗ Nhất Khí đã thụt xuống, mà đứng im tại chỗ, bình tĩnh chờ đợi những đòn tấn công khác nhằm vào mình.

Phía sau có ba người. Kẻ nhô ra từ trong đất là Hứa Tiểu Chỉ, ngoài hắn ra, rất khó tìm thấy kẻ thứ hai nào có chỉ lực ghê gớm đến vậy.

Trong hai người còn lại, có một kẻ gầy gò đen đúa nhưng hết sức tinh nhanh. Giống như tay thị vệ béo, hắn cũng mặc một bộ trang phục thị vệ không hợp khổ người, trong tay cầm một chiếc roi ngựa cán dài cũng đen đúa và dài nhẳng y như hắn. Chiếc roi ngựa này chính là thứ vũ khí dài mảnh đã ra đòn đầu tiên. Chu Chân Mệnh biết, có thể điều khiển một cây roi vừa dài vừa mềm mại lúc thì thẳng như cành cây, lúc lại uốn tròn như đoá hoa, kẻ này chắc hẳn phải có một thân thủ kỳ tuyệt khác hẳn người thường.

Kẻ còn lại ước chừng gần năm mươi tuổi, mặt mũi trắng trẻo, dưới cằm râu mọc lơ thơ. Dù là vóc dáng, tuổi tác hay phong thái, Chu Chân Mệnh đều cảm thấy người này hao hao giống mình. Giữa đôi môi đang mím chặt của hắn là mấy chục chiếc kim bạc mảnh như lông bò, giữa các kẽ ngón tay cũng kẹp vô số kim bạc. Nhìn vào chủng loại của kim và cách ăn mặc của hắn, trông rất giống một thầy lang chuyên chữa bệnh cứu người.

Khi nhìn thấy bộ trang phục cảnh vệ rộng lùng thùng trên người gã gầy đen, Chu Chân Mệnh đã đoán chắc hắn là một trong hai tên thị vệ đã bị chôn vùi trong lúc đào bới ở ngả đường còn lại. Bên đó bị chôn vùi mất hai tên, vẫn còn một tên nữa không biết ở đâu. Là tay thầy lang phóng kim, hay là tên thò tay ra từ trong vách tường?

-Chạy mau lên! Nắp hộp sọ vỡ một mảng, xương hàm dưới lung lay vài răng. Đừng để đã không lấy được bảo bối còn vùi xác tại đây! – Tay thị vệ béo vừa hét lớn vừa ôm đầu nhảy tránh một tảng bùn đất đang rơi xuống.

-Đúng đấy! Bắt được quả táo khô nhăn nhúm kia cũng chẳng đổi được đồng khỉ mốc nào. Thu quân thôi! - Từ chỗ tay thị vệ béo vọng lại một giọng nói the thé chói tai, ngữ điệu có phần cứng nhắc. Đây chính là kẻ đã cắt đứt cánh tay trái của gã mắt đỏ. Thoạt nhìn thấy hai bàn tay hắn không có vật gì, song chắc chắn có ẩn giấu một món vũ khí đáng sợ. Nếu không, tuyệt đối không thể khiến cẳng tay trái của gã mắt đỏ lập tức đứt lìa.

-Vậy thì quay vó thôi! Ngựa đầu đàn đã bị chôn vùi rồi, đi chuyến này coi như công toi! – Hán tử cầm roi ngựa cất giọng Tứ Xuyên đặc sệt, ngôn ngữ đúng kiểu dân đánh xe.

Chu Chân Mệnh hiểu được thứ tiếng lóng của dân đánh xe ngựa, hắn biết đám người kia đang muốn rút lui. Rút lui đương nhiên phải có đường, con đường thoát thân mà chúng lưu lại ở nơi đâu? Chu Chân Mệnh cũng đang muốn chạy thoát thân, song không biết phải chạy hướng nào, lúc này biết có đường sống bày sẵn, sao hắn có thể bỏ qua.

Trong số những cao thủ Lỗ gia đã xuất hiện, không thấy có kẻ nào mang theo loại binh khí có thể phạt đứt cây xẻng cán ngắn lưỡi bằng, cũng có nghĩa là chí ít vẫn còn một cao thủ giấu mặt chưa lộ diện. Tại sao tay cao thủ vẫn không thò mặt ra, hay là hắn đã lưu lại để canh giữ đường lui? Vừa rồi Lỗ Nhất Khí muốn đi sang bên này, mà ba gã cao thủ đang đứng ở bên này đang chuẩn bị chạy sang hướng bên kia của con đường, là hướng chiếu Tán hồn! Đường rút có lẽ là ở nơi đó.

Chu Chân Mệnh thình lình quay ngoắt người lại, tung người nhảy vọt đi. Trong lúc nhảy lên, hắn nhìn thấy hố đất nơi Lỗ Nhất Khí vừa thụt xuống đã bị bức tường bên cạnh đổ xuống phủ kín toàn bộ. Như vậy cũng tốt, chỉ cần xác định được vị trí, đám cao thủ đào đất dưới quyền hắn có thể dễ dàng tìm lại vũ khí giết rồng.

Ba người phía sau dường như đã nhận ra ý đồ của Chu Chân Mệnh, lập tức đuổi theo tấn công. Song tốc độ của Chu Chân Mệnh vẫn nhanh hơn rất nhiều so với những cú tấn công đang đuổi theo sau hắn.

-Cái đống xương nát thối tha kia, ở lại đây ôm quan tài mà ngủ cho ông mày! – Gã béo thấy Chu Chân Mệnh xông tới, vừa chửi bới vừa xông lên đón đầu.

Gã béo đao nhanh, thân thủ cũng nhanh, song tốc độ văng đi còn nhanh hơn. Toàn bộ quá trình chỉ diễn ra trong chớp mắt, tới nửa chiêu cũng chưa sử dụng xong, Chu Chân Mênh chỉ khẽ đưa tay, gã béo đã bị hất ngược trở lại, văng về phía ba người đang đuổi tới ở phía sau.

Kẻ mang giọng nói the thé cũng phá tường chui ra, bộ trang phục thị vệ hắn mặc trên người bám đầy vôi trắng, trông chẳng khác gì tang phục. Hắn lao ra từ trong con đường với hai bên vách tường đang theo nhau đổ sập, dang rộng hai tay, chạy vụt về phía Chu Chân Mệnh, cứ như muốn ôm chầm lấy hắn.

Trong mắt Chu Chân Mệnh loé ra một tia hàn quang sáng lạnh lẽo, giữa hai cánh tay đang dang rộng kia thấy lấp lánh một vệt sáng sắc bén mảnh tựa tơ tằm. Thế là Chu Chân Mệnh gấp rút nghiêng người, lướt thẳng đi sát mé ngoài cánh tay đang duỗi thẳng. Khi hai thân hình băng qua nhau, chỉ thấy Chu Chân Mệnh một ấn một đẩy trên bả vai kẻ kia. Hắn lập tức bay vụt lên cao, nguyên một cơ thể cao lớn lộn nháo nhào trên không, kéo theo một tiếng rú kinh hãi.

Tiếng rú còn chưa kịp dứt, Chu Chân Mệnh đã lao tới trước chiếu Tán hồn. Lúc này chiếu Tán hồn cũng đã bắt đầu sập xuống. Những bộ mặt người sống động bay ra tới tấp, lăn lông lốc khắp nơi. Chu Chân Mệnh lập tức tung chân đá văng hai mảng tường lớn đang đổ xuống.

Đường sống chắc chắn ở gần đây! Chu Chân Mệnh tay gạt chân đá, đất bùn, bụi bặm, đầu lâu bay ra tung toé như pháo hoa. Lúc này, những mảng bùn đất to tướng từ trên nóc cũng rào rào rơi xuống như mưa, đỉnh nóc đen kịt nặng nề đang từ từ đè thẳng xuống.

Chu Chân Mệnh vừa né tránh đất rơi, tay chân vừa điên cuồng bới gạt, Nhưng kỳ lạ, bọn người kia tại sao không thấy tiếp tục xông đến tấn công? Lẽ nào bọn chúng không muốn thoát thân? Hay là đã bị bùn đất rơi nện trúng?

Chu Chân Mệnh lập tức quay phắt lại, tung người nhảy vọt trở ra. Hắn lại sai rồi, ở đây không có đường sống, vậy thì hẳn là ở chỗ đài cao. Hứa Tiểu Chỉ bị lôi bật lên từ dưới đất, hắn mới là kẻ canh giữ đường rút lui. Những cú tấn công cuối cùng lực độ và tốc độ đều không đủ, thực chất chỉ là hư trương thanh thế, để hai tên còn lại có thể đi qua.

Tuy lửa trong đường rãnh chỉ còn lác đác vài đốm, song Chu Chân Mệnh vẫn có thể nhờ vào chút ánh sáng lờ mờ đó để tìm ra được đám người kia. Bọn chúng đang thu mình ẩn sau một đống đầu lâu phía dưới chân đài.

"Tốt lắm!" – Chu Chân Mệnh thầm reo lên trong lòng, tự khen bản thân đã kịp thời tỉnh ngộ mà nhận ra đường sống.

-Ngũ tình ngũ sắc, giữ hồn đi qua, Diêm phủ xuống chiếu, tán thành mê trận... - Bỗng vọng lên một tiếng niệm chú trầm trầm, song không biết từ đâu tới.

Vẫn còn nút lẫy ngầm ư? Chu Chân Mệnh lập tức ghìm bước chân lại.

-Mở! - Chữ cuối cùng trong câu chú vang lên đột ngột và chói tai, rạch ngang mớ âm thanh sạt lở ầm ầm hỗn độn.

Tiếng "mở" vừa vang lên, lại thêm một mảng tường chiếu Tán hồn chi chít đầu lâu đổ sập tan tành. Vô số bộ mặt người chết bay ra nhảy tưng tưng lao về phía Chu Chân Mệnh, vừa nhảy vừa phát ra những âm thanh quái đản muôn hình vạn trạng, phối hợp với những nét mặt vui, buồn, mừng, giận, sợ hãi, phẫn nộ, điên cuồng đủ màu đủ vẻ.

Bộ pháp di chuyển thần tốc của Chu Chân Mệnh lập tức chấm dứt, thay vào đó là những bước chân hoảng loạn ngả nghiêng. Trong thoáng chốc, hắn cảm thấy vô số tâm tư rối loạn đổ dồn lên não, nghẹn cứng lồng ngực, khiến hắn chỉ còn một khao khát duy nhất là vứt bỏ tất cả, buông xuôi tất cả. Mặc kệ cho cơn trời long đất lở kia giáng xuống mình, đè nát thân mình.

Có một bộ mặt không nảy đi, là một bộ mặt quái đản và xấu xí cùng cực đến khó tưởng tượng, vẻ hung hãn khủng khiếp của nó có thể doạ chết cả người sống. Nó được khảm trên một mảnh tường trơ trọi chưa kịp đổ sập, lặng phắc bất động. Khi những bước chân xiêu vẹo của Chu Chân Mệnh tới gần bộ mặt này, nó đột nhiên co giật một cách dữ dội và ghê sợ, tiếp đó, từ trên tường thình lình vọt ra một luồng sáng vòng cung rực rỡ ánh kim, quét ngang cần cổ của Chu Chân Mệnh.

Một tảng bùn đất lớn từ đỉnh nóc lao xuống đập trúng huyệt bách hội trên đỉnh đầu Chu Chân Mệnh, khiến phần miệng đang hé mở của hắn sập lại, hai hàm răng bập vào nhau nghiến đứt đầu lưỡi. Bách hội bị đập mạnh, tạp niệm thoát ra; đầu lưỡi rách phun máu, gột rửa tâm uế. Điều này đòi hỏi phải có một quá trình, song đối với một cao thủ như Chu Chân Mệnh, chỉ cần trong chớp mắt.

Bởi vậy, trong khoảnh khắc cuối cùng, Chu Chân Mệnh đã nhìn thấy luồng sáng vàng rực rỡ. Hắn lập tức ngửa đầu ra sau theo phản xạ, tia sáng vàng kim chỉ rạch qua hàm dưới, để lại một vệt máu rất mảnh.

Chính là món vũ khí sắc bén đã chém đứt lưỡi xẻng của lão cao thủ Chồn Đạo! Quả nhiên vẫn còn một cao thủ nữa đang ẩn nấp, hơn nữa, hắn không chỉ có trong tay món vũ khí nguy hiểm, mà còn biết dùng cả bùa chú để điều khiển "Nhiếp hồn vi".

Chu Chân Mệnh vẫn cắn chặt đầu lưỡi, xem xét cẩn thận, sợ lại bị nhiếp hồn mê phách. Song lần này không phải là nhiếp hồn, mà là kinh hồn. Hắn đã khiếp đảm, đã kinh hoàng tận đáy lòng, bởi lẽ thực sự không dám chắc thứ mà mình đang phải đối mặt có phải là người hay không.

Đó là một bộ mặt khủng khiếp đến ghê rợn, cháy đen như than, da thịt nhăn nhúm biến dạng, song đáng sợ nhất chính là một con mắt trên bộ mặt đó, một con mắt thi khí nặng nề, rừng rực những tia tím ngắt tựa lửa thiêu, xuyên thấu vào tim gan hồn phách.

Đây không phải là người! Chí ít có đến một nửa không ra hình dạng con người. Nếu là lúc bình thường, Chu Chân Mệnh chỉ cần ngưng tụ khí Đạo gia, thu định tâm tam bàn, chắc chắn sẽ không đến nỗi phải chết khiếp trước cái thứ nửa người nửa ma trước mặt. Song lúc này, tâm tư hắn vừa trải qua cơn mê hoặc, khí chính đan hồi chuyển chưa hết vòng, tâm thần hẫng hụt chưa được củng cố, bới vậy chỉ biết vội vã thoát lui một cách vô thức, chẳng còn tâm trí đâu mà suy nghĩ liệu có thứ gì đó đang rình rập ở sau lưng.

Một mảng đất bùn cỡ lớn ào ào lở xuống, chắn ngang trước mặt Chu Chân Mệnh, cũng che mất bộ mặt ma quái.

Chu Chân Mệnh cũng dừng lại không lùi nữa, hơi thở của hắn đã hồi chuyển đủ vòng, tinh thần cũng kịp ngưng tụ. Thế nhưng đúng vào lúc này, toàn bộ phần nóc đã ập thẳng xuống.

Chú thích

[33] Có nghĩa là dao găm giết rồng.

[34] Cung, thương, giốc, chuỷ, vũ tức ngũ âm, là năm nốt nhạc trong thang âm thời cổ.

THI KHÍ HIỆN - ĐẠI NÁO TRẤN TỊCH DƯƠNG

Chương 29: Dấu về tây

Mọi người còn đang sửng sốt, thì luồng thi khí lại chuyển động, vùn vụt lao lên, tốc độ cực nhanh.

Lỗ Nhất Khí chỉ kịp bật chốt khẩu pạc-hoọc.

Quỷ Nhãn Tam đang chiếm giữ vị trí thuận lợi, hắn dự định đợi khi thi khí lên tới mặt sàn tầng hai sẽ tập kích. Tuy nhiên vào đúng thời khắc then chốt, khi chiếc xẻng lưỡi cày chuẩn bị chém ngang đi, con mắt Thi Vương bên dưới tấm vải đen đột nhiên đau đớn dữ dội. Cơn đau xộc thẳng lên tận óc, khiến hắn chết điếng, phản ứng đờ đẫn, tay chân không còn kiểm soát nổi.

Một áng mây đỏ rực bay vụt lên. Vào khoảnh khắc áng mây băng qua lan can tầng hai, một đĩa thịt gà lao đánh vút vào giữa mặt Hứa Tiểu Chỉ.

o O o

Trên mặt đất, trời đã quá ngọ, vầng mặt trời vừa leo lên khỏi tầng mây, lập tức thiêu đốt mặt đất vàng vừa thấm no nước sau suốt nửa đêm mưa lớn. Mặt bùn nhão đã không còn trơn trượt nữa, đóng cứng vô số dấu chân. Hơi nước hầm hập bị mặt trời hút bật khỏi mặt đất, bốc lên ngùn ngụt, khiến tầm mắt trở nên mờ mịt mơ hồ ngay giữa buổi sáng trời.

Người phía Lỗ gia đã thoát lui cách xa ba gò đất khoản ba bốn trăm bước, đối đầu với bọn họ vẫn là tay thầy cúng và lũ người mất hồn đờ dại của hắn. Còn đám cao thủ Chu gia đều xúm xít bên cạnh gò đất, đang nát óc nghĩ xem làm thế nào để chui xuống dưới.

Ba gò đất đột nhiên rùng rùng nảy lên liền mấy cái, khiến đám người kia trong lúc bàng hoàng còn ngỡ là mình hoa mắt. Song những cú rung lắc chao đảo liên hồi sau đó đã chứng minh, đó không phải là ngộ nhận, mà là đã xảy ra một sự việc kinh hoàng không thể tin nổi.

Trong chớp mắt, đường hầm đã bị lấp kín, những vết nứt sâu hoắm lập tức chạy ngoằn ngoèo khắp trên bề mặt gò đất. Ba gò đất bỗng chốc lỏng lẻo rời rã, nền đất vàng cuộn lên từng mảng lớn như sóng dậy, rồi mau chóng sạt xuống. Cuối cùng, cả gò đất sụp thẳng xuống thành một cái hố khổng lồ sâu hoắm.

Đám thuộc hạ của Chu gia đang xúm xít bên gò đất phần lớn đã bị cuốn sạch vào trong miệng hố khổng lồ, điên cuồng giãy giụa, quẫy đạp trong đất vàng cuồn cuộn, kêu rú thảm thiết. Những kẻ may mắn thoát thân thì kinh hoàng đến rụng rời hồn phách, chẳng ai dám quay lại trợ giúp đồng bọn, bởi lẽ không biết mối nguy hiểm đã kết thúc hay mới chỉ bắt đầu.

-Rút! Lão Lợi vẫy mạnh cánh tay đầy quyết đoán. Sự biến trước mặt là một ước định, dù những người phía dưới có thành công hay không, có tẩu thoát được hay không, lão đều phải dẫn những người còn lại rời khỏi đây ngay lập tức.

Lão thầy cúng cũng đang chết lặng trước sự việc thình lình ở phía sau lưng. Ba gò đất lừng lững trên mặt đất bằng chỉ nháy mắt đã không còn tăm tích, thay vào đó một hố đất khổng lồ mịt mù đất bụi, khiến lão ngỡ như đang ngủ mê. Song nhìn thấy đám người Lỗ gia rút lui, lão lập tức choàng tỉnh.

Tiếng trống da dê đã vang lên dồn dập dưới tay lão. Đám người thất thần đờ đẫn lập tức biến ngay thành những chiếc binh dũng cảm hạng nhất, múa tít những món binh khí kỳ hình dị dạng, nhất loạt lao tới với tốc độ chóng mặt, vây bủa và tấn công đám lão Lợi.

Người Lỗ gia nghênh định bình tĩnh, phản ứng nhanh nhạy. Đang túm tụm lại một chỗ, bọn họ nhanh chóng kéo giãn thành một hàng dài, lão Lợi và lão mù đoạn hậu vẫn đứng im tại chỗ không hề dịch chuyển. Như vậy, cho dù đám cao thủ Chu gia có xông ra được mà tới, cũng chỉ có thể bủa vây được hai ba người cuối cùng, còn những người không bị bao vây có thể quay đầu phản kích bất cứ lúc nào, hình thành thế trong ngoài hợp kích. Đây chính là chiến thuật "rắn chui trứng" mà các băng mã tặc thường xuyên áp dụng trong khi giao chiến.

Chiến thuật trấn tĩnh và chặt chẽ khiến lão thầy cúng nhận ra rằng, đối thủ trước mặt lão tuyệt đối không phải hạng tầm thường.

Khí đoạn sát! Lão thầy cúng đã lập tức phải sửng sốt và kinh hãi. Vuông nhiễu đỏ buộc cuối chuôi đao đầu quỷ trên tay lão già mặt cười đi sau đoạn hậu đột nhiên bay lên phần phật, cuốn theo một luồng khí đoạn sát cực kỳ trầm trọng. Vuông nhiễu đỏ hẳn đã thấm đẫm máu từ vô số thủ cấp của kẻ vô hồn vô phách. Khí đoạn sát là khắc tinh của đám người mất hồn kia, chúng không sợ sinh tử, không biết đau đớn, song chỉ có cảm giác, chỉ biết khiếp sợ trước khí tướng kia.

Cùng lúc đó, từ dưới rãnh đất bên trái vụt lên một luồng ma khí u ám âm hàn. Lão thầy cúng cảm giác độ nặng nề của luồng ma khí gần giống như Dưỡng Quỷ Nương của Chu gia. Song nếu đúng là Dưỡng Quỷ Nương, đáng lẽ bà ta phải sớm ra tay trợ giúp lão đối phó với người phía Lỗ gia mới phải. Không phải là bà ta, thì chỉ có thể là trợ thủ ẩn phục phía đối phương.

Phía sau khe đất bên phải chiếu ra một luồng kiếm khí sắc bén rợn người, chỉ có bảo kiếm tuyệt thế mới có thể sở hữu làn khí như vậy, cũng chỉ có cao thủ tuyệt thế mới có thể chế ngự được kiếm khí đó. Nhìn vào hiện tượng, thì tay cao thủ đó chắc hẳn cũng là quân chi viện của đối thủ đang ém mình rình sẵn.

Đám người mất hồn đã đuổi tới gần đám người Lỗ gia, bình khí trong tay sẵn sàng chém giết. Song tiếng trống da dê đã lại dồn dập thành hồi. Tiếng trống vừa vang lên, cơn truy sát lập tức dừng ngay lại.

Kẻ nên đi đã đi xa, kẻ nên ở đã ở lại. Có người cảm thấy sự việc đã kết thúc, có người cho rằng sự việc mới bắt đầu.

Những cơn sóng bùn dậy đất đã nhanh chóng lắng xuống, đám tay chân của Chu gia lóp ngóp bới đất chui lên từng tên một, khắp người bê bết đất vàng hệt như một bầy tượng gốm. Không có thương vong gì đáng kể, song đều kinh hoàng cực độ. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng ý thức được rằng, cần phải mau chóng hành động để cứu lấy vị môn trưởng đã bị chôn vùi phía dưới.

Chu gia quả nhiên thế lực hùng hậu, chỉ riêng cao thủ đào đất đã có số lượng hết sức khả quan. Người cũ, người mới tới, cộng thêm lực lượng mới được điều động khẩn cấp từ những vùng lân cận, dễ có tới gần hai trăm người, nhanh chóng tập trung lại điên cuồng đào bới.

Diện tích sạt lở rất rộng lớn, song phạm vi của hầm mộ phía dưới còn lớn hơn nữa, muốn đào bới vài con người dưới đó chẳng khác gì mò kim đáy bể. Thế nhưng Chu gia vẫn còn cao thủ khác, một cao thủ có thể tìm ra vị trí người bị chôn vùi.

Lão thầy cúng trải ra một tấm vải bông màu đỏ thẫm, rắc lên trên một lượt đất vàng thật mỏng, rồi châm hương tê, gieo xương vụn, rung tấm vải, niệm thần chú, sau đó nằm rạp xuống đất dí mũi quan sát sự biến đổi của đất vàng trên mặt vải, tìm ra vị trí của linh hồn ở dưới đất.

Phương pháp của lão thầy cúng quả thực phi thường, dù là chết hay sống, chỉ cần hồn phách vẫn chưa tán loạn hay tan rã, vẫn có thể tìm ra. Nhờ sự hướng dẫn của lão thầy cúng, đám cao thủ đào đất tập trung đào thẳng tới trọng tâm. Đầu tiên, chúng moi được hơn chục xác chết trong tầng bùn đất lẫn lộn cát vàng và đất nện màu xám. Đó chính là những kẻ thuộc hai trong số ba ngả đường khác đào vào trong gò đất.

Phải mất hơn nửa ngày trời nữa, chúng mới bới lên được gã quái nhân mắt đỏ chỉ còn thoi thóp trong một gian địa thất nhỏ. Gian địa thất nhỏ hẹp nên sức chống đỡ sẽ lớn hơn, tuy đã sập xuống non nửa, song vẫn chừa lại một khoảng không đủ cho quái nhân mắt đỏ không bị bẹp dí.

Quái nhân mắt đỏ thương thế trầm trọng, hai tay đứt lìa, mất máu khá nhiều khiến tính mạng vô cùng nguy ngập. Đặc biệt là vết thương bên cánh tay phải, da thịt bị róc sạch, gân mạch bị cắt rời, chỉ còn khúc xương trơ trọi. Hơn nữa đao pháp quái dị của gã béo quả thực quái dị, mạch máu bị cắt đứt không thể bịt lại, dù đã được điểm huyệt phong bế kinh mạch huyết quản, vết chém vẫn không ngừng rỉ máu. Cả đám cao thủ đông đảo của Chu gia không tài nào nghĩ ra được phương pháp cầm máu hữu hiệu, không còn cách nào khác, đành phải chém đứt toàn bộ cánh tay đến tận vai mới có thể cầm máu được.

Tiếp đó, bọn chúng tìm được lão cao thủ Chồn Đào đã chết trước đó rất lâu. Nhìn vào sắc mặt tím ngắt của lão, có thể đoán là chết vì tắc thở. Song trong mũi miệng lại rất sạch sẽ, cho thấy lão chết trước khi địa thất đổ sập. Kiểm tra kỹ lưỡng thi thể, không thấy có vết siết, vết bầm nào, thế nhưng khí quản ở yết hầu lại teo rút lại. Có người tinh mắt đã phát hiện ra phía sau bắp chân lão có cắm một chiếc kim bạc dùng trong châm cứu, không biết từ đâu ra.

Cao thủ thuộc băng đảng phía đông của Chu gia đã nhận ra đây là tuyệt chiêu của quái y Thương Châu Dịch Huyệt Mạch. Y đạo điên đảo của Dịch Huyệt Mạch có châm pháp nhổ ngược huyệt, tức là châm vào chỗ hiểm yếu để cứu người, châm vào chỗ không huyệt để giết người, châm bên dưới tác dụng bên trên, châm bên trên tác dụng bên dưới, châm vào máu thịt nhổ ngược đến huyệt mạch ra, dẫn động đến các cơ bắp, khiến huyệt vị tương quan hoạt động. Bởi vậy, tuy lão già bị châm trúng bắp chân vốn không phải là chỗ hiểm, song lại khiến khí quản tại yết hầu bóp chặt. Thế nhưng tay Dịch Huyệt Mạch kia trước nay chỉ nghiên cứu y đạo không màng thế sự, chưa bao giờ ra khỏi địa giới Thương Châu, tại sao lại thình lình xuất hiện trong mộ thất nơi đây?

Vị trí của Chu Chân Mệnh là khó xác định nhất. Ngay cả thi thể và thủ cấp của Nghê Thất cũng đã lần lượt được bới lên, song vẫn không thể tìm ra Chu Chân Mệnh. Thầy cúng bảo với đám người rằng, nếu ngay cả lão cũng không thể tìm ra linh hồn, thì chỉ có ba khả năng: thứ nhất, môn trưởng đã thoát ra, không còn ở dưới đất; thứ hai, sau khi môn trưởng chết đi đã bị người ta dùng thủ đoạn nào đó phong toả linh hồn; thứ ba, môn trưởng chưa chết, linh hồn vẫn ở trong cung Nê Hoàn, chưa từng thoát xác.

Ba khả năng này đã mang lại niềm hy vọng lớn lao cho đám thuộc hạ của Chu gia. Thế là bọn chúng tiếp tục hùng hục đào bới không quản ngày đêm. Tới ngày thứ ba, lão thầy cúng đã bắt được một dấu vết thoáng qua của hu hồn, mau chóng xác định được vị trí của Chu Chân Mệnh.

Cuối cùng, bọn chúng đã tìm thấy Chu Chân Mệnh bên dưới một tấm trần địa thất đổ nghiêng. Đó là một khe hở rất nhỏ hẹp, song lớp đất vàng tơi xốp xung quanh đều đã bị hắn vỗ chặt. Ngoài ra, để dự trữ dưỡng khí, hắn còn nện thành một hốc lõm nối liền với khe hở chật hẹp mà hắn đang bị kẹt bên trong. Khi Chu Chân Mệnh được lôi ra khỏi khe hở, đã không còn cảm nhận được hơi thở của hắn nữa, mạch đập cũng lâu lâu mới đập khẽ một cái. Đây là phương pháp quy tức (cách thở của rùa). Nếu không nhờ vào phép thở này, dù có nện thêm bao nhiêu hốc lõm xung quanh, cũng không đủ cho hắn hít thở trong hai canh giờ.

Không khí từ trên mặt đất ùa xuống phía dưới, khiến Chu Chân Mệnh đang ở trạng thái quy tức lập tức cảm nhận được ngay. Cánh mũi hắn phập phồng hai cái, con ngươi đảo vài vòng bên dưới mí mắt, từ trong họng bật ra một tiếng "khục" khe khẽ. Sau đó, hắn từ từ mở mắt, giống như vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ say.

Vừa mở mắt, Chu Chân Mệnh lập tức ngồi xếp bằng, hít sâu thở chậm, để luồng khí lưu chuyển khắp cơ thể, kinh mạch thông suốt hoàn toàn. Rất lâu sau, hắn đưa ngón tay lên chỉ về một phía:

-Đào chỗ đó lên, lấy thứ kia về cho ta!

Không ai dám hỏi "thứ kia" là thứ gì, chỉ răm rắp tuân lệnh, tiếp tục đào tại chỗ hắn vừa chỉ.

Lại một đêm nữa trôi qua. Trong khoảng thời gian này, Chu Chân Mệnh có ăn có uống, song từ đầu chí cuối không chịu rời khỏi hiện trường nửa bước. Hắn muốn đích thân xác nhận phương hướng và vị trí đào bới.

Trong chỗ đất được đào có vết bò của rết máu xác và rắn dẹt ngũ sắc.

-Xem xem vết bò của "trăm chân" và "rồng dẹt" từ đâu tới? – Chu Chân Mệnh cảm thấy phạm vi đào thế là đã đủ, bây giờ chỉ cần căn cứ vào dấu vết của đám trùng độc để tìm ra vị trí cuối cùng.

-Thưa môn trưởng, "trăm chân" và "rồng dẹt" đều bò cả xuống dưới! – Cao thủ biện nhận dấu tích tới bẩm báo.

Chu Chân Mệnh lập tức chau tít đôi mày. Chính mắt hắn nhìn thấy mảnh vải bọc trùng độc bị đá văng vào trong hố sụt, khi đó cho dù Lỗ Nhất Khí đã bị chôn vùi, cùng lắm cũng chỉ sâu khoảng nửa thước, quãng đường trùng độc luồn lách trong đất không thể quá dài. Mà từ lúc phát hiện thấy vết bò của trùng độc đến lúc này, phạm vi đào đã gần hai trượng. Vốn dĩ hắn cho rằng đó là vết trùng độc bò về, song bây giờ thuộc hạ lại bẩm báo đó là vết bò xuống dưới. Cũng có nghĩa là đám "trăm chân" và "rồng dẹt" đã luồn sâu đến gần hai trượng mà vẫn không đuổi kịp Lỗ Nhất Khí. Lẽ nào tên Lỗ Nhất Khí này biết độn thổ?

Chu Chân Mệnh quay người lại nhìn lão thầy cúng, giận dữ gằn lên hai tiếng:

-Tìm hồn!

Lão thầy cúng lại tất bật bày trò ma quỷ, trải vải tám hướng, rắc mẩu xương vụn, bốc cát bốc đất, ngửi mùi nhận hình. Cuối cùng, lão đã đưa ra một kết quả khiến Chu Chân Mệnh phải hụt hẫng:

-Không hồn!

-Không thể nào! Cho dù hắn chưa chết, cũng không thể luồn đi trong đất mà không để lại một dất vết, tại sao lại không tìm ra được? - Sự tự tin của Chu Chân Mệnh như thể đã bốc hơi cùng với kẻ mà hắn đang tìm kiếm.

-Thưa môn trưởng, ở đây có dấu vết đào bới! - Thủ hạ của Chu gia cuối cùng đã phát hiện ra điểm bất thường.

-Môn trưởng! Phía dưới có đường hầm, đủ cho một người bò qua! – Lại có một tên nữa phát hiện ra sự lạ, cung cúc chạy lại bẩm báo với Chu Chân Mệnh.

Chu Chân Mệnh không ngờ hắn lại bị dính bẫy ở nơi này! Hắn như đột nhiên bừng tỉnh, cơn phẫn hận bỗng chốc bùng phát dữ dội, không nơi giải toả, lập tức giáng thẳng một chưởng vào giữa ngực tên thủ hạ vừa bẩm báo.

Chỉ thấy tên thủ hạ đổ vật xuống đất không một tiếng kêu, cơ thể co rút lại như trái bóng, máu bắn vọt ra từ thất khiếu. Con ngươi lồi hẳn ra ngoài và hai hàm răng nghiến chặt đến vỡ vụn, răng văng lả tả, cho thấy gã đang đau đớn tới cực độ.

-Từ lúc ta xuống đây đến giờ đã mấy ngày rồi? – Chu Chân Mệnh tới lúc này mới hỏi một câu có liên quan tới bản thân.

-Đến khi trời sáng là sang ngày thứ tư! - Một tên thuộc hạ đứng thật xa bẩm lại.

-Vẫn còn kịp! Hắn đã đoạt được bảo bối giết rồng, tất sẽ tới hung huyệt phía tây bắc. Cho bồ câu đưa thư, hạ lệnh cho các đường khẩu phía tây bắc toàn lực xuất quân. Ngày xuất "xe đồng ngựa phi", đêm xuất "bóng người", ngăn chặn tận diệt bọn người Lỗ gia. Lại lệnh cho các đường ở gần đó nhất là Bạch Mã đường, Tây Hoa đường, Hồ Khẩu đường tập trung cao thủ gấp rút đuổi về phía tây bắc. Truyền ám kim lệnh trong giang hồ, bất kỳ ai bắt được người trong hình vẽ do Chu gia cung cấp và món đồ mà kẻ đó mang theo, đều thưởng ngân phiếu mười vạn. Không phân sống chết, chỉ cần xác nhận đúng là được.

Sau khi sắp đặt xong xuôi, Chu Chân Mệnh mới kín đáo thở ra một hơi, song trong hơi thở ra, hắn nhận thấy có chút vị tanh tanh ngòn ngọt. Hắn đã bị nội thương! Thở kiểu quy tức liên tục suốt ba ngày ba đêm đã khiếp khí đục lắng đọng không tán, cản trở huyết mạch lưu thông. Sau đó thoắt kinh hãi, thoắt nghi ngờ, thoắt phẫn hận, càng khiến kinh mạch rối loạn, khí Đạo gia và khí sát phạt xung đột lẫn nhau, dục vọng truyền thế và tĩnh định thanh tu đối chọi dữ dội. Vô số cảm xúc và dục vọng đã nén nhịn, đã đào sâu chôn chặt tận đáy lòng đến một lúc nào đó rồi sẽ bùng phát và huỷ diệt, đó chính là tẩu hoả nhập ma. Chu Chân Mệnh dự cảm, thời khắc này đã đến rất gần.

-Thông báo với các đường khẩu ở nước ngoài, mau đưa Ngộ Tâm về đây! Đã đến lượt nó phải đảm đương trong trách! – Lúc này, Chu Chân Mệnh chợt nhớ tới đứa con trai đã bị hắn đuổi ra nước ngoài du học – Chu Ngộ Tâm.

Chu gia đã ba đời độc đinh, song đứa con trai duy nhất của Chu Chân Mệnh lại là một quái thai, thường ngồi đờ đẫn như đá, ba ngày mới thốt được một lời, song toàn là lời ngỗ ngược. Kỳ lạ là lời tuy ngỗ ngược, nhưng thường đã nói là đúng, dường như nhìn thấy được suy nghĩ của người khác. Mẹ của Chu Chân Mệnh nói rằng đứa trẻ này được trời phú cho năng lực dị thường, nên Chu Chân Mệnh bèn phái vài cao thủ kiệt xuất đưa cậu con ra nước ngoài du học, nhằm bồi thưỡng và rèn luyện thêm cho hắn.

Ba gò đất cao lừng lững giờ đã biến thành một bãi lầy la liệt xương khô. Gió thổi bùn loang, bãi lầy mau chóng đã bị đất vàng phủ kín. Những gì từng có ở phía dưới sẽ không bao giờ còn có thể tái hiện chốn nhân gian, chúng đã hoà thành một thể với vùng hoàng thổ mênh mông, mãi mãi là một câu đố không lời giải, một truyền thuyết ly kỳ đến khó tin cho những thế hệ sau.

Trong "Tuỳ tỳ ký sự - Tứ táng" có chép:"...Dương Tố tàn sát khắp bốn phương, nhìn máu tanh xương thối như nhìn cao lương mỹ vị, uy phong lấn át cả hoàng đế. Mắc bệnh đột ngột mà qua đời, Tuỳ Văn Đế sợ Dương Tố tính hung, tin lời thầy cúng, ban quan tài chôn kín, chọn vùng Tây Bắc cách đó hơn ba trăm dặm, đắp thành ba gò, bố trí trong mộ không rõ..."

Trong "Tuỳ đế dã sử" có chép: "...Thường ban táng là nhằm trấn áp hung hồn, ổn định đế khí, chọn nơi hiểm ác hoang vu, cho vào quan tài chì treo lên, đưa vào mộ dưới đất mà không cho gần khí đất. Táng theo cách này có nhiều người như Dương Tố, Đậu Phương Thạch, Lý Dực..."

Đại tướng triều Tuỳ là Dương Tố chinh chiến sát phạt nhiều nơi, bình định vô số cuộc bạo loạn của dị tộc và chiến tranh vùng biên cương, được mệnh danh là hung tướng đệ nhất cổ kim, sau khi chết được hoàng đế nhà Tuỳ ban táng. Thế nhưng mê cung Xương gãy lại do Thiên Canh đạo phủ đời Đường sáng tạo nên, không ăn nhập với quan tài triều Tuỳ, nên giả thiết này lại là một câu đố chưa tìm ra lời giải.

Thổ bảo không còn dấu vết, có lẽ đã thực sự biến thành linh khí một phương, ban phúc trạch cho sinh linh vô số.

Thị trấn Tịch Dương.

Tại giao lộ phía tây của thị trấn có một khối đá đỏ tròn trịa nổi lên, rất giống một vầng dương đang lặn xuống chân trời, bởi vậy thị trấn mới được đặt cho cái tên này.

Thị trấn rất rộng, cửa hiệu san sát, nghề gì thức gì cũng có. Trên phố người qua lại nhộn nhịp như mắc cửi, mức độ phồn vinh không thua kém bất cứ một thị trấn lớn nào ở vùng Quan Nội. Nơi đây là trạm dừng chân quan trọng của đám thương nhân và hành khách qua lại vùng Tây Tạng, bởi vậy cũng là chốn nhộn nhạo xô bồ, đủ thứ rác rưởi tạp nham, hạng người nào cũng có.

Có ba băng đảng kiểm soát thị trấn này. Một là đám thương nhân phá sản tứ xứ lưu lạc tới đây, gọi là băng Hộ Thương, đa phần giỏi dùng súng ống thuốc nổ. Hai là băng mã tặc tới từ Quan Nội, gọi là đội kỵ mã Đại Tước Đầu, phần lớn là đao khách cao thủ. Ba là băng Cao Bao Tử, đa phần là người Tây Tạng. Bang này vô cùng quái đản, không những công phu võ nghệ kỳ quái, mà còn có đủ ngón độc dược, cổ trùng, mê hoặc, thú dữ, nên rất khó nhằn.

Đám Lỗ Nhất Khí chạy thoát khỏi ba gò đất đã được sáu ngày, nhưng vừa mới lộ diện ở thị trấn này, toàn bộ người trong thị trấn đều đã biết rõ.

Song đám Lỗ Nhất Khí lại không hề để tâm đến việc giấu giếm hành tung, mà nghênh ngang bước vào một quán rượu lớn ở trung tâm thị trấn, ăn cơm, uống rượu sôi nổi, chơi tửu lệnh ầm ĩ. Bọn họ bao nguyên gian phòng trên tầng hai quay mặt ra đường phố, nên có thể dễ dàng quan sát ngã tư với đường đông tây rộng, đường nam bắc hẹp trong thị trấn.

Hưng phấn nhất trong đám người chính là lão mù, bởi lẽ từ thị trấn Tịch Dương đi về phía bắc khoảng một trăm dặm sẽ đến nhà lão. Trong khi hành trình tiếp theo của bọn họ chính là ra khỏi cửa tây của thị trấn, đi chếch lên phía bắc. Như vậy, chỉ khoảng một ngày nữa, lão đã có thể gặp lại vợ con. Nửa năm rồi chưa gặp mặt, lão đã nhớ đến thắt gan thắt ruột.

Trầm tĩnh nhất là lão Lợi. Mái tóc tuy bụi đất bám tầng tầng lớp lớp, song vẫn được chải vuốt gọn gàng, không mảy may rối loạn, nụ cười trên mặt vẫn chỉnh chu như cũ. Mỗi lần nâng chén, lão chỉ khẽ nhấp môi một ngụm nhỏ, bộ dạng hết sức nhàn nhã ung dung. Lão vui cũng phải thôi, ngay trên đường tới Lạc Dương, Lỗ Nhất Khí đã dùng cảm giác siêu phàm tìm ra được vài hầm mộ cổ, quật lên vô số món hời cho mọi người chia chác. Lỗ Nhất Khí còn nhường cho lão Lợi cả phần của cậu, và lão đã nhờ tiêu cục gửi toàn bộ số của cải đó về nhà. Lão Lợi biết, từng đấy thứ dư sức cho con gái lão và hai đứa cháu ngoại sống đầy đủ cả đời. Lỗ Nhất Khí hành động như vậy đã giúp lão không còn lo nghĩ, quyết tâm ở lại dốc hết sức lực giúp đỡ cậu.

Còn Hứa Tiểu Chỉ lại tìm đến hiệu đồ cổ đổi toàn bộ những thứ hắn được chia chác thành ngân phiếu. Hắn chỉ có một thân một mình, đi tới đâu cũng chỉ cần bản thân ăn ngon mặc đẹp là được. Hơn nữa, hắn cảm thấy chỉ cần đi theo Lỗ Nhất Khí, đừng nói là ăn ngon mặc đẹp, không chừng còn gom được cả núi bạc, núi vàng cũng nên.

Còn vài người nữa, vốn dĩ Lỗ Nhất Khí không hề quen biết, song bọn họ đều có được một kỹ nghệ nào đó trong Lục công của "Ban kinh". Hơn nữa, căn cứ vào sự hiểu biết của họ đối với kỹ nghệ của Lỗ gia, có thể khẳng định, những người này chắc chắn là bạn bè hoặc trợ thủ của Lỗ gia.

Hán tử gầy đen với chiếc roi ngựa cán dài dựng bên mình tên là Biện Mạc Cập, người Tứ Xuyên, là thủ lĩnh cầm đầu chuỗi cửa tiệm xe lớn Vượt Núi ở vùng Xuyên Tây, đánh xe rất giỏi, sử dụng roi rất hay, còn có tài phân biệt ngựa tốt, phục đất nghe âm thanh.

Sở dĩ Biện Mạc Cập có liên quan tới Lỗ gia, là vì thuở nhỏ nghịch ngợm, to gan lớn mật, một mình dám vào hang Cửu Khúc chứa quan tài ở núi Linh Long chơi. Kết quả là lạc đường, suốt nhiều ngày trời không tìm thấy đường ra. May mà lúc đó Lỗ Thịnh Nghĩa đang tới tây nam tìm kiếm manh mối, vốn là người nhiệt tình, hay giúp đỡ kẻ khác, ông đã dẫn cha mẹ Biện Mạc Cập cùng họ hàng thân thích, dùng chỉ ngũ sắc nhận đường đi, tìm được Biện Mạc Cập. Để cảm tạ ân đức cứu mạng của ông, Biện Mạc Cập đã thu nhận kỹ nghệ Định cơ trong "Ban môn", đồng ý trợ giúp Lỗ gia hoàn thành đại sự.

Tay thị vệ béo trắng đã quẳng bỏ bộ trang phục thị vệ không hợp khổ người từ lâu, giờ đang khoác trên mình một tấm áo mỏng màu đen bóng mỡ, đeo chéo vai một tay nải vải dầu. Gã là một tay đồ tể khét tiếng, thành thạo đao pháp Tích hào, tên gọi Dương Tiểu Đao.

Cha của Dương Tiểu Đao cũng là đồ tể. Một năm, trong lúc hai cha con hắn giết bò dưới chân núi Tây Hoàng, không cẩn thận để máu bắn vào tượng Phật, kết quả đã bị một tăng nhân lang thang yểm chú sát sinh, thấy máu liền chóng mặt, cầm dao liền đau đầu. Đồ tể mà không cầm được đao, không nhìn nổi máu, coi như cả nhà đã tuyệt mất đường sống. May nhờ Lỗ Thịnh Hiếu đã xin về được một tờ thiếp "Ba cõi luân hồi" từ chỗ đại sư Niết Hồi chùa Phật Tuyền núi Nghiêu Sơn, tuy chỉ giải trừ được chú sát sinh cho Dương Tiểu Đao, song khác nào đã làm ơn cho cả nhà gã. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao đã tiếp nhận kỹ pháp Cố lương trong Lục công, thề rằng sẽ dùng cả tính mạng để trợ giúp Lỗ gia hoàn thành đại sự.

Ngồi cạnh Dương Tiểu Đao là một gã người Hồi, chừng ba mươi tuổi, mặt mũi trắng trẻo thanh tú, nom rất sáng sủa ưa nhìn. Một điểm rất thu hút sự chú ý trên người hắn là chiếc nhẫn lớn đeo trên ngón giữa tay trái, đó là chiếc nhẫn Thương long thôn nguyệt[35] đầu đuôi nối liền. Chiếc nhẫn đã được cọ xát đến sáng bóng, ngay cả người ngoại đạo cũng có thể nhận ra đây là món cổ vật có niên đại rất lâu đời. Người này là bạn thân của Dương Tiểu Đao, họ Niên, làm nghề bán bánh cắt[36], nên quen gọi là Niên Thiết Cao. Người ở thị trấn Tây An đều biết tới bài vè "Niên bánh cắt, không cần dao; tay vừa dang, bánh đứt vèo; mua bao nhiêu, cắt bấy nhiêu". Tức là khi hắn bán bánh cắt, không dùng dao để cắt, chỉ cần dang hai tay rồi một kéo một siết, miếng bánh sẽ lập tức bị cắt rời, giống như cánh tay của gã mắt đỏ trong mê cung Xương gãy. Bí mật thực sự chính là chiếc nhẫn trên tay hắn. Đó là một món vũ khí quái dị xuất hiện từ cuối thời Nguyên, có tên là "tằm lửa cuộn bụng rồng", trong ruột chiếc nhẫn có giấu một cuộn tơ tằm lửa Diệm Hồ, bền hơn sắt thép, sắc như đao kiếm, có thể co rút tự do trong chiếc nhẫn.

Niên Thiết Cao và Lỗ gia vốn chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau, song hắn lại có mối giao tình vô cùng đặc biệt với Dương Tiểu Đao. Bọn họ thân thiết từ thuở nhỏ, tình cảm rất mực keo sơn. Dương Tiểu Đao đi đâu, hắn theo tới đấy. Dương Tiểu Đao gặp mười phần nguy hiểm, hắn sẵn sàng gánh bớt đến bảy phần.

Gặp được mấy cao thủ này cũng là chuyện bất ngờ, nhưng khiến Lỗ Nhất Khí phải bất ngờ đến khó tin, đó là khi đến trại Mười Tám Dặm, đã gặp lại hai kẻ từ cõi chết trở về.

Người thứ nhất là lão già Mạc Thiên Quy. Đêm đó trên sống núi đóng băng tại khe Long Môn, lão đã vung kiếm chống cự đám mây thiết ưng khổng lồ, bị quật văng xuống vách núi sâu thăm thẳm. May sao trên vách núi vẫn còn những cột nhũ băng do nước suối chảy từ trên sống núi xuống kết thành, khiến lão có chỗ để đâm kiếm vào, giảm bớt tốc độ rơi, biến rơi thành trượt. Tuy kinh mạch, phủ tạng bị thương trầm trọng, song tính mạng vẫn được bảo toàn.

Sau khi bị trọng thương, Mạc Thiên Quy vẫn gắng gượng chạy khỏi khe Long Môn, lần đến Thương Châu, tìm tới chỗ Dịch Huyệt Mạch nhờ ông ta chữa trị, lại thỉnh cầu ông ta đi cùng mình tới phía tây. Dịch Huyệt Mạch chính là vị thầy lang phong thái cao nhã đã dùng kim bạc tấn công Chu Chân Mệnh trong mộ thất. Gia đình ông ta cũng từng chịu ơn đức của Mặc gia, nên đã khảng khái nhận lời Mạc Thiên Quy, cùng tiến về tây.

Người chết trở về thứ hai còn ly kỳ hơn nữa, chính là Quỷ Nhãn Tam. Có điều không ai có thể nhận ra hắn nữa. Bộ mặt của hắn lúc này đã chẳng khác gì quỷ sứ dưới âm ti.

Trên đường tìm kiếm Kim bảo phía bắc, vì cứu Thuỷ Băng Hoa, hắn đã rơi xuống khe nham thạch sâu hoắm. May sao những cú quẫy đạp kịch liệt trong khi rơi xuống đã khiến hắn rớt trên một mấu đá chìa ra ngay bên cạnh lớp nham thạch sôi sùng sục.

Tuy cả trái núi đã lún sâu xuống đất, song khe nứt trong lòng núi vẫn chưa bị phủ lấp hoàn toàn, nên đã hình thành một lỗ hổng cực lớn. Lỗ hổng này đã cung cấp đủ dưỡng khí cần thiết cho hắn duy trì sự sống. Nhờ vào công phu đào bới siêu phàm và chiếc xẻng lưỡi cày sắc bén vô song do Nhậm Hoả Cuồng rèn cho, hắn đã đào được một đường hầm thông ra ngoài, trở về cõi sống.

Song chuyện ở đời thường là được cái này mất cái kia. Tuy tính mạng được bảo toàn, nhưng nhiệt độ cực cao của nham thạch nóng chảy truyền qua đất đá đã khiến Quỷ Nhãn Tam mặt mũi biến dạng hoàn toàn, cơ thể chằng chịt những vết sẹo ghê rợn.

Tuy tướng mạo của Quỷ Nhãn Tam đã bị huỷ hoại khủng khiếp, song Lỗ Nhất Khí vẫn nhận ra hắn, bởi lẽ trên người hắn vẫn còn viên đá Thi khuyển, bởi lẽ trên mặt hắn vẫn còn con mắt Thi Vương. Hơn nữa, đá Thi khuyển sau khi bị nhiệt độ cao hun đốt, thi khí càng thêm dữ dội; con mắt Thi Vương sau khi bị khí nóng xông tẩy, càng thêm rừng rực hung quang.

Chính nhờ sự xuất hiện của Quỷ Nhãn Tam, Lỗ Nhất Khí mới khẳng định được mối hoài nghi của mình đối với Nghê Thất. Cũng vì tập hợp được số lượng cao thủ hùng hậu, nên cậu mới đủ tự tin lợi dụng Nghê Thất để giăng ra một cạm bẫy lớn dụ Chu Chân Mệnh vào tròng, lừa lấy đi bảo bối giết rồng của Chu gia.

Lúc này, Quỷ Nhãn Tam đang một mình ngồi thu lu tận góc phòng, với một bình rượu, một đĩa thịt. Tấm áo choàng đen của hắn giờ trùm kín mít cả đầu mặt, chỉ để hở mũi miệng và một con mắt. Hắn e ngại làm người khác phải khiếp sợ, cũng lo rằng bộ dạng của mình sẽ khiến mọi người không nuốt nổi thứ gì.

Song Mạc Thiên Quy lại không thấy đâu. Thầy lang Dịch Huyệt Mạch mà lão dẫn theo cũng không có mặt.

Cũng không nhìn thấy phó quan Ngô và đám thị vệ của phủ đại soái. Sau khi thoát khỏi ngôi mộ giam hồn dưới lòng đất, Lỗ Nhất Khí đã phân phát cho phó quan Ngô và đám thuộc hạ của ông ta hơn chục món đồ cổ để xua bọn họ đi trước, dặn bọn họ dãy tới đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch trên núi Cổ Mã tiếp giáp với vùng Xuyên Tạng, còn mình tìm cách cắt đuôi đám tai mắt của Chu gia xong sẽ đi vòng qua đất Tạng vào đất Xuyên, hẹn gặp lại nhau tại đó. Đồng cỏ kia chính là địa bàn của Biện Mạc Cập, ở đó có người đàn bà goá quản lý đàn ngựa tên là Bán Sơn Lam, chính là nhân tình của Biện Mạc Cập.

Lỗ Nhất Khí không uống rượu, cậu chỉ uống một bát trà bột mạch, ăn hai chiếc bánh bột mì kẹp thịt, sau đó ngồi ngả lưng trên chiếc ghế gỗ hoàng dương bọc vải, im lặng quan sát đám người từng vào sinh ra tử với mình. Lúc này đây, trong lòng cậu tràn ngập một niềm hân hoan xen lẫn xúc động. Trong những thứ cậu được kế thừa từ các bậc tiền bối Lỗ gia, thứ giá trị nhất lại không phải là "Ban kinh", Lộng phủ, mà chính là những mối giao tình vượt qua sống chết kia.

-Cậu cả, móng cứng rõ tiếng! – Lão mù nuốt vội đám thịt rượu xuống cổ, lên tiếng.

-Đường phía tây có hơn hai mươi kỵ mã, đường phía đông có ba mươi kỵ mã trở lên. – Tài nghệ phục đất nghe âm thanh của Biện Mạc Cập có thể nhận biết chính xác chủng loại súc vật, muông thú từ rất xa, hơn nữa, còn nghe ra được số lượng và khoảng cách của chúng; dù là những loài muông thú chưa từng biết đến, hắn vẫn có thể nhận ra kích thước và trọng lượng. Còn như đám ngựa đang chạy trên đường lớn lúc này, hắn không cần phải nằm phục sát đất, chỉ cần dỏng tai lên cũng đã nhận ra số lượng.

-Không phải ta đang nói đến đội ngựa. Trong cửa hàng đối diện và trong căn phòng bên cạnh đều có tiếng va đập và rung động của vũ khí rút khỏi vỏ. – Thính giác của lão mù quả thực không ai bì kịp, lão có thể nhận ra nhiều thứ âm thanh hơn Biện Mạc Cập.

-Dưới lầu cũng có đao khí ngùn ngụt! - Cảm giác về đao khí của lão Lợi vốn mẫn cảm vô song – Là muốn chặn đường rút lui của chúng ta.

Dương Tiểu Đao giơ ngón cái về phía lão Lợi tỏ ý thán phục, rồi quay đầu nhìn Niên Thiết Cao nở một nụ cười ngây ngô.

Tuy đã xuất hiện biến cố bất thường, song cả đám người vẫn ăn uống rôm rả, chén chú chén anh, cứ như không có chuyện gì xảy ra.

Chú thích

[35] Có nghĩa là rồng xanh nuốt mặt trăng.

[36] Hay còn gọi là thiết cao, hay bánh matang, một loại bánh truyền thống của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, được làm từ đường mạch nha cùng các loại nhân hạt, ép chắc thành khối lớn, khi bán thì cắt thành từng miếng.

Chương 30: Dùng mưu thoát

Lỗ Nhất Khí vẫn ngồi ngả lưng trên chiếc ghế gỗ hoàng dương, chỉ có điều bàn tay nắm chặt hơn chiếc túi vỏ sui trong ngực áo. Vài ngày trước, khảm diện mà cậu bày ra trong ngôi mộ giam hồn bố trí quá gấp rút, cũng có phần khiên cưỡng, có quá nhiều sự việc không ngờ tới đã khiến cho toàn bộ quá trình trở nên căng thẳng đến muốn vỡ tim vỡ mật. Đặc biệt là vào thời khắc cuối cùng, khi cậu lợi dụng hố đất sạt lở để tẩu thoát, không ngờ đối thủ lại quăng xuống cả một đống tướng rắn rết cực độc, muốn giết cậu ngay tại chỗ. Cậu may mắn thoát chết hoàn toàn nhờ vào chiếc túi vỏ sui bọc bên ngoài hộp gỗ nam. Thứ vải được chế thành từ vỏ của loài cây kịch độc được mệnh danh là "kiến huyết phong hầu" có tác dụng thần kỳ, trăm độc khó xâm, quấn nó quanh mình, rắn độc trùng độc gặp phải đều bỏ chạy tán loạn.

-Lần này lại phải nhờ tới nó, mong rằng kế hoạch thành công! - Lỗ Nhất Khí thầm cầu nguyện trong lòng.

Quỷ Nhãn Tam đang một mình lầm lũi ở góc phòng đột nhiên đứng bật dậy, một tay giơ ngang cây xẻng lưỡi cày:

-Thi khí!

Lỗ Nhất Khí nhìn thấy vẻ kinh hãi lộ ra trong con mắt duy nhất của Quỷ Nhãn Tam, bất giác tim nảy lên một nhịp. Là thứ thi khí gì mà ngay cả Quỷ Nhãn Tam vốn sở hữu con mắt Thi Vương cũng phải căng thẳng đến vậy?

Ngay sau đó, Lỗ Nhất Khí cũng đã cảm thấy làn thi khí từ dưới lầu bốc lên. Và cậu cũng lập tức hiểu ra, vì sao Quỷ Nhãn Tam lại kinh sợ đến thế. Bởi vì làn thi khí cực kỳ phức tạp. Có câu mỗi người mỗi mùi, mỗi xác mỗi khí, vậy mà làn thi khí phía dưới kia dễ có tới trăm nghìn loại đan xen hỗn độn. Chẳng lẽ là cả một đám người cùng mang thi khí ư?

Đối mặt với làn thi khí ngùn ngụt bao trùm, Quỷ Nhãn Tam không dám đón đầu trực diện ở trước cầu thang, mà nép vào một bên lan can, chuẩn bị tập kích.

Đám người đang ăn uống cũng bắt đầu căng thẳng. Hành động của Quỷ Nhãn Tam chính là lời cảnh báo nguy hiểm đang tới gần. Bọn họ bất giác siết chặt vũ khí trong tay.

Đến Lỗ Nhất Khí cũng đã đứng dậy. Cậu buông tay khỏi túi vỏ cây, thuận thế rút lấy khẩu pạc-hoọc đã lắp đầy đạn ra khỏi thắt lưng.

Lão mù chỉ hơi nhỏm dậy rồi lại ngồi xuống như cũ. Chỉ có mình lão vẫn bình thản như không.

Lão Lợi đứng dậy, rũ vuông nhiễu đỏ trên chuôi đao một cái, rồi lại từ từ ngồi xuống.

Đám người trên lầu đang thủ thế chờ xuất chiêu, dưới lầu đã thấy giao tranh ầm ĩ. Đầu tiên là tiếng bàn ghế đổ rầm rầm, tiếng bát đĩa rơi loảng xoảng, tiếng binh khí va chạm chát chúa. Tiếp đến là những tiếng rú thất thanh, tiếng gào đau đớn, tiếng người bị quăng bình bịch ra khỏi cửa quán, tiếng đao kiếm rơi leng keng trên đường phố tít phía xa. Mặt cầu thang dội lên tiếng bước chân gấp gáp, có người đang muốn xông lên. Song mới chỉ được vài bước, đã được thay thế bằng tiếng lăn huỳnh huỵch còn gấp gáp hơn nữa, thẳng xuống tận chân cầu thang.

Đám người trên lầu bắt đầu cảm thấy quái lạ, đặc biệt là Quỷ Nhãn Tam và Lỗ Nhất Khí. Bởi lẽ làn thi khí quái dị kia lại cố thủ ở lưng chừng thang gác, trong khi đao khí ngùn ngụt phía dưới đều đã bị làn thi khí quét sạch.

Dưới lầu đã trở nên tĩnh lặng. Không chỉ trong quán rượu, mà ngay cả đường phố vừa mới huyên náo là thế, lúc này cũng lặng ngắt như tờ. Đội kỵ mã hai đầu phố đã dừng bước, thận trọng quan sát tình hình trong quán rượu.

Làn thi khí cũng đã im lìm bất động, thế nhưng sát khí và sức mạnh tích tụ trong nó vẫn hết sức đáng gờm.

Hứa Tiểu Chỉ đưa ngón tay kẹp lấy một chiếc đĩa sứ thô to tướng ở trên bàn, cổ tay lắc một cái, chiếc đĩa sứ lập tức bay vèo xuống dưới cầu thang mang theo nửa số thịt gà còn lại trên đĩa.

Không có bất kỳ âm thanh nào. Chiếc đĩa như thế đã rơi xuống vực sâu vô tận, mãi chưa đến đáy.

Mọi người còn đang sửng sốt, thì luồng thi khí lại chuyển động, vùn vụt lao lên, tốc độ cực nhanh.

Lỗ Nhất Khí chỉ kịp bật chốt khẩu pạc-hoọc.

Quỷ Nhãn Tam đang chiếm giữ vị trí thuận lợi, hắn dự định đợi khi thi khí lên tới mặt sàn tầng hai sẽ tập kích. Tuy nhiên vào đúng thời khắc then chốt, khi chiếc xẻng lưỡi cày chuẩn bị chém ngang đi, con mắt Thi Vương bên dưới tấm vải đen đột nhiên đau đớn dữ dội. Cơn đau xộc thẳng lên tận óc, khiến hắn chết điếng, phản ứng đờ đẫn, tay chân không còn kiểm soát nổi.

Một áng mây đỏ rực bay vụt lên. Vào khoảnh khắc áng mây băng qua lan can tầng hai, một đĩa thịt gà lao đánh vụt vào giữa mặt Hứa Tiểu Chỉ.

Hứa Tiểu Chỉ phản ứng vô cùng mau lẹ, tay trái vung lên chụp lấy chiếc đĩa sứ, tay phải năm ngón cùng động, nhanh như chớp xẹt kẹp lấy từng miếng thịt gà đang bay tung toé bỏ lại vào trong đĩa.

Sau khi quăng vụt chiếc đĩa đi, áng mây đỏ khẽ nhún một cái lên lan can, rồi bay vụt về phía đám Lỗ Nhất Khí.

Niên Thiết Cao dang rộng hai tay nghênh chiến. Chiêu này trông như cửa nẻo thông thống, song kỳ thực giữa hai tay có sợi tơ tằm lửa sắc bén hơn cả đao kiếm. Chỉ cần đối thủ tấn công vào qua "cánh cửa" mở sẵn, thì tay tới lìa tay, chân tới lìa chân.

Không biết áng mây đỏ kia đã nhận ra mánh khoé của Niên Thiết Cao, hay là vốn dĩ không có ý định quấy rối hắn, chỉ thấy lắc một cái, đã vụt qua dưới nách Niên Thiết Cao. Niêt Thiết Cao sợ đến vã mồ hôi lạnh, đám mây đỏ vừa băng qua sát sạt cơ thể hắn, chỉ cần trong tay có dao kiếm, hẳn mạng sườn hắn đã bị cắt rời.

Vừa giương súng lên, Lỗ Nhất Khí đột nhiên cảm thấy chiêu thức và động tác của áng mây đỏ trông vô cùng quen mắt.

Chiếc gậy thép mảnh nhọn đã ấn chặt lên cánh tay của cậu. Tuy lão mù không nhìn thấy, song vẫn nhận ra cậu đang giương súng, nên đã vội vã ngăn chặn. Chẳng ai có thể dám chắc tuyệt đối mình có thể né tránh được đường súng của Lỗ Nhất Khí, cậu bắn súng dựa vào cảm giác, mà sau những ngày tháng lăn lộn rèn giũa trong giang hồ, khả năng kiểm soát cảm giác của cậu đã đạt tới mức xuất thần, kỹ xảo bắn súng cũng được nâng cao đáng kể. Đặc biệt đối với những cao thủ tốc độ cực nhanh, cậu đã mày mò ra được một kỹ xảo đặc biệt để đối phó lại.

-Bé Mập, dừng tay! Còn phá phách nữa lại tanh bành hết cả lên giờ. Mất mặt quá! – Lão mù quát lớn, song trong tiếng quát lại tràn đầy niềm yêu thương xen lẫn tự hào.

Phải rồi, Lỗ Nhất Khí lúc này mới nghĩ ra, chiêu thức và động tác của áng mây đỏ rất giống với chiêu Bình bộ thanh vân túng mà lão mù đã từng thi triển trên Phi nga sách, chỉ có điều động tác của áng mây linh hoạt, phiêu diêu hơn nhiều.

-Hi hi! Cha! Cha biết trước là con tới ư? Bằng không đã chẳng ngồi im re thế này! - Giọng nói lảnh lót trong trẻo vừa cất lên, làn thi khí liền dừng lại, tan biến, áng mây đỏ rực đang bay vun vút cũng biến thành một lá cờ buông rủ.

Người mới đến là một cô gái trẻ, mình mặc một bộ quần áo chẽn bằng lụa mịn đỏ rực, mép viền vải đen hình mây, ngang lưng thắt dải đai to bản màu đen, trên đầu quấn ngang một vuông khăn lục đỏ, lộ ra bím tóc đuôi sam đen bóng. Dưới chân đi đôi ủng đế mỏng nền đỏ có vân mây màu đen, được làm từ da, nỉ và vải bông, trông nhẹ nhàng thanh thoát lại rất bền chắc. Trên lưng mang một chiếc túi da hươu dài màu đỏ sẫm bề ngang chừng miệng chén, chiều dọc khoảng ba thước, có lẽ chứa món binh khí nào đó bên trong.

Phục sức trên mình cô gái đỏ tới chói mắt, khuôn mặt trắng mịn, lại thêm mũi thẳng mắt sâu, trông rõ là người dân tộc thiểu số, cực kỳ xinh đẹp. Không những khuôn mặt giống người sơn cước, mà thân hình cũng vậy, khoẻ mạnh nở nang, mông mẩy vai tròn, ngực căng chân to, song rất cân đối, căng tràn sức sống, hoàn toàn không tương xứng với cái tên "bé Mập" mà lão mù vừa gọi.

Lỗ Nhất Khí biết vợ lão mù là người dân tộc Duy Ngô Nhĩ, và con gái lão không hề giống cha. Nhưng không thể ngờ sự khác biệt lại lớn tới vậy.

Tất cả những người có mặt đều không thể tin nổi lão mù lại có cô con gái xinh đẹp đến thế.

Chỉ có Quỷ Nhãn Tam có thể khẳng định chắc chắn. Năm xưa lão mù đã ăn trộm sợi xích sắt lạnh khảm vàng trói Cương Thi Vương để chế thành vũ khí cho con gái mình. Sợi xích sắt này có thể khống chế Cương Thi Vương, nên món vũ khí được chế tạo từ đó đương nhiên cũng có thể chế ngự Cương Thi Vương. Con mắt Thi Vương của Quỷ Nhãn Tam vốn được lấy trên mình Cương Thi Vương, bởi vậy vừa rồi khi hắn định tấn công, con mắt bỗng đau đớn kịch liệt, có lẽ chính là phản ứng trước món vũ khí mà con gái lão mù mang tới.

-Thảo nào cứ ngồi im re, hoá ra đã biết tỏng là con gái mình! - Hứa Tiểu Chỉ có vẻ bực bội làu bàu – Lão Lợi kia chắc chắn cũng biết rồi nên mới im thin thít như vậy, chắc lão mù ra hiệu cho lão rồi chứ gì?

-Không! - Tiếu Phật Nhi cười tít mắt – Là thanh đao đã ra hiệu cho tôi!

-Vuông lụa huyết hồn của lão Lợi vừa phất lên đã rũ xuống, là do nó cảm giác thấy thi khí không có ý làm hại chúng ta. – Lão mù tuy không nhìn thấy, nhưng những sự việc xảy ra đều không lọt qua đôi tai của lão.

Con gái lão mù tên là Hạ Táo Hoa, từ nhỏ đã theo cha sống trong ngôi mộ nghìn xác. Trong mấy đứa con của lão, chỉ có Hạ Táo Hoa là học được bản lĩnh của lão mù, hơn nữa còn ham mê đọc sách, dung hoà kỹ nghệ, tuổi trẻ mà tài cao, quả là sóng sau đè sóng trước. Đặc biệt là công phu Tịch trần của Lỗ gia, tuy lão mù chưa từng muốn học, song cô đã rèn tập đến mức độ nhuần nhuyễn. Sống nhiều năm trong ngôi mộ nghìn xác, khiến cơ thể Táo Hoa khó tránh khỏi hấp thu nhiều loại thi khí, hơn nữa sợi xích sắt khảm vàng do lão mù trộm được từ tay Nghê gia vốn dĩ được dùng để trói Cương Thi Vương, nên càng tích tụ thi khí cực nặng.

Mọi người lại lục tục ngồi xuống. Hạ Táo Hoa đã sán tới bên lão mù, ríu rít luôn miệng:

-Sáng sớm nay con đã nghe lén được chuyện treo món tiền thưởng kếch xù từ băng nhóm Cao Bao Tử, thì đoán rằng có lẽ liên quan tới cha, nên đợi sẵn trong thị trấn, không ngờ lại gặp cha thật. Vừa nãy, đám đao khách của đội kỵ mã Đại Tước Đầu bên dưới muốn xông lên tấn công mọi người, con đã quẳng hết bọn chúng ra ngoài rồi nhé...

Hạ Táo Hoa nói liến thoắng một thôi một hồi. Lỗ Nhất Khí ngồi một bên im lặng quan sát cô gái vô tư nhí nhảnh, vẻ như đang nghĩ ngợi điều gì. Làn da của cô thực trắng, còn trắng hơn cả Dưỡng Quỷ Tỳ. Phải rồi, trong người cô có một nửa dòng máu Duy Ngô Nhĩ, từ nhỏ lại theo lão mù ẩn nấp trong ngôi mộ nghìn xác khuất ánh mặt trời, đương nhiên làn da sẽ trắng trẻo hơn hẳn người thường. Không biết làn da trong suốt của Dưỡng Quỷ Tỳ là do bẩm sinh, hay là do chưa từng tiếp xúc với ánh nắng? Cô gái này thân hình khoẻ mạnh, tràn đầy sức sống, rất giống với Thuỷ Băng Hoa. Có điều tính cách cởi mở vô tư, khác hẳn với vẻ thận trọng kín kẽ của Thuỷ Băng Hoa, cũng khác với nét dịu dàng thuần tĩnh của Dương Quỷ Tỳ.

Hạ Táo Hoa bỗng nhiên im bặt, vì cô đã phát hiện ra bên cạnh có một gã thanh niên đang nhìn mình chăm chăm, thần hồn ngơ ngẩn.

Lỗ Nhất Khí cũng bừng tỉnh, cậu đã ý thức được cử chỉ thất lễ của mình.

-Đúng rồi, còn chưa giới thiệu các vị đây cho con biết. Con còn nhớ bác Lỗ năm xưa đã tới thăm chúng ta không? Đây chính là cậu cả Nhất Khí mà bác ấy luôn miệng nhắc tới trước mặt con đó. Vị kia là chú Tam của dòng họ Nghê nức tiếng trong phái Dời non phá núi. Năm xưa cha vì muốn kiếm món binh khí cho con, đã báo hại hắn phải tổn thương một con mắt. Còn mấy vị đây là... – Nhân lúc con gái tạm thời ngừng liến thoắng, lão mù vội vàng giới thiệu những người đang có mặt với cô.

Vừa giới thiệu đến Lỗ Nhất Khí, khuôn mặt trắng như tuyết của Hạ Táo Hoa bỗng dưng thoáng chút ửng hồng, ánh mắt cũng trở nên mơ mơ màng màng, những lời lão mù giới thiệu sau đó chẳng lọt vào tai cô đến nửa chữ. Kỳ lạ hơn nữa là từ lúc đó trở đi, Hạ Táo Hoa mím chặt đôi môi xinh xắn, chỉ im lặng ngồi bên lão mù, song thi thoảng lại liếc trộm Lỗ Nhất Khí một cái.

-Cậu cả Lỗ, hành tung của chúng ta đã lộ rồi. Cô bé kia vừa náo loạn tưng bừng, mọi thế lực ngầm ẩn đều đã bị khuấy đảo lên hết. Giờ đã đến lúc kéo tóc bỏ chậu[37], thu đao chùi máu! – Lão Lợi cảm thấy thời cơ đã tới.

Câu nói này đã thức tỉnh Lỗ Nhất Khí, trong lòng thầm trách mình chẳng ra sao, vừa nhìn thấy con gái đẹp đã suýt quên bẵng cả việc chính.

Song cũng khó trách cậu, Lỗ Nhất Khí dù gì vẫn là kẻ non nớt giang hồ, hơn nữa đang trong lứa tuổi thanh niên, khí huyết phương cương, tự dưng nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, tâm tư rối loạn chút đỉnh cũng là chuyện bình thường. Nếu không, cần gì phải có những tay giang hồ lão luyện kia giúp đỡ?

Lão Lợi vừa dứt lời, lão mù đã bấm đốt ngón tay nhẩm tính. Bên chiếc bàn trong góc, Quỷ Nhãn Tam cũng đang dùng số rượu có sẵn vẽ ra bùa chú "Thông hoạt" trong thuật Mao Sơn.

-Từ cửa ngõ thị trấn tới quán rượu, xe ngựa phải đi hai trăm ba mươi lăm bước, trong khi đội kỵ mã ở phía đông chỉ cách đây chưa đầy một trăm hai mươi bước. Chúng ta lên xe trước cửa quán, có nhanh cỡ nào cũng không thể chạy thoát khỏi vòng xung kích của bọn chúng! – Lão mù vốn là Tây Bắc tặc vương, đương nhiên vô cùng thông thạo phương thức tấn công của đội kỵ mã.

-Hơn nữa, chúng không cần phải đuổi đến một trăm hai mươi bước. Tới từ phía đông là băng Hộ Thương, chúng sẽ dùng hoả khí tấn công từ ngoài vài chục bước. – Sau một hồi lâu im lặng, Hạ Táo Hoa giờ mới lên tiếng. Xem ra cô rất thông thạo các băng đảng giang hồ nơi đây.

-Đúng vậy! Huống hồ phía tây cũng không thể đi, ở đó cũng có đội kỵ mã chắn đường. Tốt nhất là ra khỏi quán rượu, không lên xe ngựa, mà đi bộ ngoặt vào con phố lên phía bắc, xông ra khỏi thị trấn rồi tính tiếp. - Kế hoạch của Biện Mạc Cập rất thực tế.

-Hay là cứ cố thủ ở đây, đợi khi trời tối hãy xông ra? – Dương Tiểu Đao khẽ phẩy lưỡi đao, súc đùi dê nướng trên bàn tay vụt lên một lát thịt béo ngậy, rơi thẳng vào trong miệng gã.

-Không được! Hai phía đông và bắc của quán rượu đều tiếp giáp với nhà, con phố hướng tây và nam không đủ cho hai xe đi qua, dễ tấn công khó phòng ngự. – Lão mù và lão Lợi đều không đồng tình.

-Đi về phía bắc cũng không được, lần này chỉ có một đường sống là đi về phía tây. - Quỷ Nhãn Tam không ngẩng đầu lên, mắt vẫn dán vào bùa chú "Thông hoạt".

-Chú Tam, chú giỏi thật đấy, sao chú lại tính ra được? Cháu đã tận mắt nhìn thấy đám người của băng Cao Bao Tử đang đào hố sập, rắc đầy gai độc vướng móng ngựa trên đường lên phía bắc. Còn ở phía nam đội kỵ mã Đại tước đầu đã giăng hàng rào chắn ngựa, có tới mười bảy rào chắn to cỡ xà nhà, ở giữa nhốt hàng nghìn con ngựa hoang chưa được huấn luyện xếp vòng tròn, chắc chắn không thể đi qua. - Hạ Táo Hoa tỏ ra hết sức khâm phục và kính trọng Quỷ Nhãn Tam, kẻ trên người cũng phảng phất làn thi khí giống mình.

-Xem ra chỉ còn có thể xông ra từ phía tây ư? Lần này hiện hình không đúng chỗ rồi! - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự hỏi mình.

-Lần này hiện hình chỉ chọn thời điểm không chọn nơi chốn, thời điểm đã chính xác, nơi chốn không thể lựa chọn được. Chỉ không ngờ các lực lượng băng nhóm nơi đây lại đoàn kết đến thế, bố trí cũng rất chặt chẽ nghiêm mật. – Lão Lợi đang an ủi Lỗ Nhất Khí.

-Đoàn kết với chặt chẽ cái gì, ba băng đảng của thị trấn này tồn tại song song, giữa chúng không ngừng kèn cựa ẩu đả lẫn nhau, tranh giành cao thấp, chỉ là một đám ô hợp mà thôi! – Thông tin của Hạ Táo Hoa vừa đưa ra rất có giá trị.

-Vậy ba băng đảng kia cùng nhau cai quản thị trấn, hay mỗi băng đảng cai quản một bộ phận? - Lỗ Nhất Khí nhìn thẳng vào đôi mắt hơi pha sắc biếc của Hạ Táo Hoa mà hỏi, giọng nói tuy bình thản, song trái tim vẫn bất giác đập rộn lên.

Hạ Táo Hoa thấy Lỗ Nhất Khí hỏi mình, sắc mặt lại càng thêm đỏ hồng. Có điều con gái của Tây Bắc tặc vương không biết thẹn thùng, lại đưa đôi mắt biếc thăm thẳm nhìn thẳng vào Lỗ Nhất Khí, trả lời:

-Mỗi băng đảng cai quản một phía, lấy trung tâm thị trấn làm ranh giới, lợi hay hại đều phân chia rất rõ ràng, không được lấn sang ranh giới của nhau.

-Sẽ không trợ giúp nhau, liên kết với nhau để cùng tấn công chứ? - Lỗ Nhất Khí vốn không thích hỏi nhiều, song khi hỏi Hạ Táo Hoa, cậu lại cảm thấy rất tự nhiên. Hiện tượng này nhất thời thực khó mà lý giải.

-Tình huống này chưa bao giờ xảy ra. - Hạ Táo Hoa vẫn nhìn chằm chằm vào mắt Lỗ Nhất Khí, giống như là muốn nhìn thấu tâm can cậu.

-Vậy tôi đã có cách rút lui êm xuôi, các vị nghe thử xem có được không... - Lỗ Nhất Khí hạ thấp giọng, mọi người lập tức xúm lại lắng nghe, kể cả Quỷ Nhãn Tam từ đầu tới cuối vẫn ngồi thu lu một góc.

Một lát sau, Hạ Táo Hoa lại hệt như áng mây đỏ rực lao vụt xuống dưới lầu, xông thẳng ra phố. Vừa nhìn thấy đám đao khách của đội kỵ mã Đại tước đầu, cô lập tức xông vào đấm đá túi bụi.

Cảnh tượng diễn ra trên phố khiến người qua đường đều cảm thấy nực cười. Cả một đám đàn ông lực lưỡng bị một cô gái nhỏ quăng quật túi bụi, đánh cho bò lê bò toài khắp đất. Đặc biệt là hai đội người ngựa còn lại, bọn chúng đứng xem một cách vô cùng thích chí, tay chân chỉ trỏ, cười nói ồn ào như xem diễn kịch. Đám đao khách của đội kỵ mã Đại tước đầu nhục nhã không để đâu cho hết, bị đánh cũng mất mặt, mà cả đám quây lại đánh một cô gái lại càng mất mặt, chỉ còn cách tạm thời tránh đi. Bởi vậy, bọn chúng quyết định lùi về địa bàn của mình, đợi con ranh điên khùng kia bỏ đi mới hành động tiếp.

Đội kỵ mã Đại tước đầu vội vã rút lui về phía nam, ở đó có hàng rào chắn ngựa mà chúng đã dựng sẵn. Dựa vào hàng rào kiên cố và đám ngựa hoang ở đó, chắc hẳn có thể né tránh được "con điên" kia.

Hạ Táo Hoa thấy đao khách của đội kỵ mã Đại tước đầu rút về phía nam, liền bám sát theo sau ở một khoảng cách không xa không gần.

Chú thích

[37] Tiếng lóng trong nghề đao phủ. Khi chém đầu, dùng một sợi dây thừng đỏ buộc chặt lấy tóc phạm nhân, khi đao chém xuống, một người phía trước sẽ lôi mạnh sợi dây, giật phần đầu vừa chém đứt rơi vào trong một chậu gỗ đã chuẩn bị sẵn. Ý của lão Lợi là kéo mọi người đi.

Chương 31: Xoay vó ngựa

Hạ Táo Hoa bước vào con phố phía nam được một lát, những người còn lại cũng ra khỏi quán rượu. Người đi ra đầu tiên là Lỗ Nhất Khí, cậu không hề che đậy chiếc túi vỏ sùi buộc trước ngực, vừa bước ra khỏi quán, lập tức đi thẳng về phía con phố phía đông hơn chục bước.

Phía đông là đội kỵ mã của băng Hộ Thương. Chúng nhìn thấy cả người và vật đều tự dâng lên tới miệng, lại cảm thấy hết sức hoang mang, bởi lẽ thứ dễ dàng có được thường tiềm ẩn mối nguy hiểm bên trong. Bởi vậy, tuy bầy ngựa hí vang, tung vó chồm dậy, song bọn chúng vẫn ghìm chắc dây cương, chỉ xoay tròn tại chỗ, không dám tuỳ tiện xông lên.

Cuối cùng đã có một con ngựa hung hãn không thể ghìm giữ nổi, tung hai vó trước chồm lên.

Con ngựa mới chỉ lao đi được một bước, vừa chồm lên bước thứ hai, thì một tiếng nổ đanh giòn đã vang lên. Khẩu pạc-hoọc trong tay Lỗ Nhất Khí đã khai hoả.

Phát súng này không thể làm kinh động tới đám người ngựa, bởi lẽ bọn chúng đều đã kinh qua trăm trận. Song nếu là tiếng chuông đồng quái dị chói tai lại có thể khiến bầy ngựa kia sợ hãi, đặc biệt là loại chuông đồng mắt rồng thường phát ra tiếng lanh canh quen thuộc đang đeo dưới cổ chúng.

Lỗ Nhất Khí đã bắn trúng quả chuông đồng dưới cổ con ngựa đang lao đi băng băng, bật lên một tiếng vang chát chúa rất quái dị, khiến bước chân thứ hai của con ngựa lập tức chuyển hướng. Nó đã quay vụt lại, điên cuồng phi về phía bầy ngựa sau lưng, không thể ghìm giữ nổi.

Đội ngựa bắt đầu hơi rối loạn, con thì né tránh, con thì tung vó đá, đua nhau hí vang không ngớt.

Tiếng súng lại vang lên, liền sau đó là tiếng vang rền chói óc.

Lần này Lỗ Nhất Khí bắn liền sáu phát, sáu tiếng súng nối liền như một tiếng nổ dài. Cùng với tiếng súng, lại có sáu chiếc chuông ngựa văng đi. Không những sáu chiếc chuông liên tiếp ngân rền điếc nhĩ, mà còn va đập loạn xạ trên không trung, khiến tiếng âm vang lại càng trở nên hỗn loạn.

Bầy ngựa đã hoảng loạn thực sự, đặc biệt là con ngựa vừa xông lên đầu tiên. Sau khi chạy ngược lại và va phải một con ngựa khác đang xoay nghiêng mình, nó xông thẳng vào tiệm bán vải bên cạnh. Khi nó lộn trở ra, đã kéo theo một lô xích xông vải vóc tơ lụa đủ màu đủ loại lao đi phăm phăm. Trong lúc phi như phát cuồng, những dải vải, lụa đã quấn chằng chịt sang chân, cổ, dây cương của những con ngựa khác.

Lỗ Nhất Khí ung dung nổ súng, Biện Mạc Cập ung dung bắt ngựa vào xe, rồi lại ung dung đánh xe đỗ sát một bên cửa chính của quán rượu. Những người còn lại cũng ung dung bước lên xe ngựa.

Xe ngựa đã vòng vào đường phố phía tây, đội kỵ mã của băng Cao Bao Tử phía tây lập tức chấn chỉnh tinh thần, đao súng sẵn sàng ứng chiến. Phía sau đội kỵ mã, đang có người bố trí dây chắn ngựa, lưới chụp ngựa, lại khiêng thêm một đống bàn ghế từ những cửa hàng bên cạnh bày la liệt trên phố, tất cả đều nhằm ngăn chặn xe ngựa đột ngột xông lên.

Sự rối loạn của đội kỵ mã phía đông chỉ là tạm thời, đám kỵ sĩ có kinh nghiệm đều hiểu chiêu "dao sắc chặt đay rối". Chỉ thấy đao quang chớp lên vùn vụt, vải lụa lập tức tan tành, xanh đỏ tím vàng bay lên phơi phới, phủ kín mặt đường. Đội kỵ mã thoát khỏi đám dây lằng nhằng trói buộc, nhanh chóng khôi phục đội hình, sẵn sàng xuất kích. Thân thủ của đội kỵ mã phía tây cũng rất chóng vánh, chỉ một lát sau, thao tác chuẩn bị cho công cuộc bắt người cướp vật đã sẵn sàng, các trang bị ngáng chân ngựa cũng đều đã bố trí xong xuôi.

Biện Mạc Cập khẽ vỗ lên mình bốn con ngựa kéo, sau đó cầm roi đứng hiên ngang trên một bên càng xe, tiếp tục chờ đợi.

Đội kỵ mã phía đông bắt đầu áp sát tới gần. Tuy những tiếng súng vừa rồi khiến bọn chúng có chút dè dặt, song miếng thịt béo ngậy đã ngậm vào trong miệng, nhất định phải nuốt cho trôi.

Đội kỵ mã mỗi lúc một gần, tốc độ cũng nhanh hơn. Đám người trên ngựa đều giương lên các loại hoả khí, nòng súng đen ngòm đã chĩa thẳng vào đám người trên xe ngựa.

Đám người trên xe ngựa vẫn không nhúc nhích, dường như bọn họ đã rắp tâm bó tay chờ trói.

Song vẫn chưa hoàn toàn áp sát đến cỗ xe ngựa, đội kỵ mã đã dừng lại, bởi lẽ những con ngựa mà chúng đang cưỡi bắt đầu trở nên bồn chồn bất an, cứ lì ra không chịu tiến lên phía trước. Cũng chính vào lúc này, mặt đất bắt đầu rung lên bần bật; biển hiệu, bàn ghế, quầy hàng của các cửa hàng hai bên đường, thậm chí cả phòng ốc cũng đều rung lắc liên hồi. Hàng tràng âm thanh sầm sầm như lũ đổ ập đến từ con đường phía nam, càng lúc càng gần, càng gần càng gấp, chớp mắt đã rầm rập ầm vang đến đinh tai nhức óc.

-Ngựa hoang sổng chuồng, mau nấp đi! – Có tiếng người hét rống lên, song tiếng hét lập tức chìm nghỉm trong trận trận âm thanh vang động, không thể nhận ra.

Bầy ngựa hoang đang lao thẳng tới từ đường phía nam quả thực hệt như dòng nước lũ, tốc độ kinh người. Song Biện Mạc Cập tựa như một cây cột đã phân đôi dòng lũ. Ngay từ khi con ngựa đầu tiên xuất hiện ở ngã ba đường, chiếc roi ngựa cán dài trong tay hắn đã quật lên tanh tách như pháo nổ, tiếng roi đanh giòn vang vọng, ngay cả trận lũ âm thanh như núi lở kia cũng không thể át nổi. Tiếng roi vừa vang lên, bầy ngựa hoang lập tức rẽ đôi thành hai luồng, lao điên cuồng về hai phía đông tây.

Đội kỵ mã của băng Hộ Thương phía đông khác nào một con thuyền nát giữa dòng lũ cuốn, ngoi ngóp được một thoáng rồi biến mất tăm mất tích.

Đội kỵ mã của băng Cao Bao Tử phía tây đứng xa hơn một chút, nên đám người còn kịp phóng lên nóc nhà, chui vào cửa hiệu. Còn lại mớ dây nhợ, lưới giăng cùng các dãy bàn ghế bày dưới lòng đường đều đã biến mất sạch trơn sau khi đàn ngựa ào qua.

Từ trong dòng lũ đã phân đôi bay vụt lên một áng mây đỏ rực, nhẹ nhàng hạ xuống cỗ xe ngựa của Biện Mạc Cập:

-Đi thôi!

-Hầy! Đi!

Lại một cú vung roi không quá vang. Chỉ có tiếng roi không vang mới thực sự là cú vung roi quất xuống lưng ngựa. Biện Mạc Cập có bí quyết riêng, ngựa bị quất không hề cảm thấy đau đớn. Những con ngựa kéo xe đã qua huấn luyện lâu năm, kỹ thuật thành thục, sải vó hết sức nhịp nhàng đều đặn, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, đã vùn vụt tăng tốc. Cỗ xe ngựa đồ sộ lẫn trong dòng lũ ngựa hoang cuồn cuộn, phóng băng băng về phía tây...

HẾT TẬP 5

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: