Linhtinh-Lenghiabk05

rầm Bì, gã rắn

Mẹ tìm con hóa điên hóa đá

Con tìm mẹ cây khóc khói bay…

Mưa đêm. Không thứ gì trên đời giống mưa đêm, nước xối ròng ròng, căng, nặng đến mức có thể níu đè tất cả xuống tận cái đáy cùng loang loáng, bóng nhẫy, mênh mang của sân ga La Hai, dường như cả bầu trời cũng bị kéo thấp xuống, ảo mờ. Những ụ mối ướt sũng. Những cành xương rồng ướt sũng. Những hàng quán chằng đụp ướt sũng. Và cả những thân phận lạc loài, mỏng mảnh trên sân ga cũng ướt sũng, co rút, bẹp dí.      

Hụ… hu…u…u… Còi tàu cất lên không chịu dứt, âm thanh trôi ngang ụ u lượn lờ bện lưới. Triệu triệu sợi mưa như triệu triệu sợi cước đính chì.

Hắn ngồi thu lu bên cạnh xe nước mía, đống xác mía rít trịt mật đường nhưng là nơi duy nhất có thể ngồi ngoài chiếc ghế xếp của bà bán nước mía. Thường ngày, hắn vẫn ngồi đó, câm như hến, hắn thường chìm đắm xa xăm, thỉnh thoảng trong cơn loạn óc nào đó hắn cũng giành chiếc ghế của bà nước mía. Hắn là thằng hung bạo thường có những bộc phát đột ngột. ác. Gan góc. Lầm lì. Và thỉnh thoảng lảm nhảm về nguồn gốc rồng rắn gì đó. Người ta biết về hắn như vậy.

*

Biết nói sao đây về thằng tôi Trầm Bì khốn khổ khốn nạn đã từng lên voi xuống chó, bạc phước tận cùng. Người ta biết về tôi như vậy cũng có phần đúng nhưng những gì tôi đã trải qua thì không ai, không một ai trong số họ có thể thấu được. Một thằng có tên không có họ, mà ngay cái tên cũng do phu trầm đặt cho như sự thương hại, như sự đùa cợt, như cách gọi một con vật múa may quay nồm quẩn chân họ cho vui trong khu rừng thiêng nước độc. “Tao lo thân tao chưa xong, hơi đâu. Cũng tại mày, mày đã ở đó cạnh con rắn máu đỏ lòm, biết làm sao, không mang mày đi cũng không được.” Tôi không biết cha nuôi tôi còn giấu gì bên trong không nhưng lí do ông cưu mang tôi là vạn bất đắc dĩ như thế. “Trầm Bì! Trầm Bì! Thằng chó! Thằng con hoang!” Cha nuôi tôi mỗi khi say mèm lết về trại thường mạt sát tôi như vậy. Tôi ghét cái thế giới chỉ đàn ông, cuốc rìu và rượu chè ấy. Nhóm người đi điệu này có nguồn gốc từ thời lập đội Am Sơn triều Nguyễn, hàng năm cứ tháng hai đi, tháng sáu về, nhóm này sau tách ra trốn biệt luôn trong rừng, giãn ra rồi hợp lại, nối hậu kế đại truyền kiếp, truyền đời. Tháng tư năm bảy lăm, lại tứ tán giang hồ, sau mới tìm về ráp lại với nhau. Cứ đêm đến, những người đàn ông tụm lại đốt đèn dầu rái, rượu tràn, chuyện tràn. Và đem câu chuyện nguồn gốc của tôi ra làm mồi, “không kỳ nam thì mót đỡ trầm bì”, họ hay nói với nhau vậy, ngán, họ sẵn sàng “thêm mắm thêm muối” một cách hào hứng cho thành “món” khác. Có lúc tôi biết đó là những chuyện thêu dệt mua vui nhưng cũng có lúc nó ám vào trí não non nớt của tôi đến mức tôi tin vậy là thật. “Trầm Bì đem bình đông nước tới đây!”, “Trầm Bì tra lại dùm cán cuốc”… Họ gọi tên tôi râm ran trong rừng nhưng không ai nhắc đến họ của tôi, quả thật tôi cũng không hề biết mình họ gì, Lê, Nguyễn hay Trần… Vậy mà qua năm tháng, “món mồi nhậu” là tôi ấy cũng đã lớn lên, cũng đã cầm cuốc, cầm rìu thành thạo không thua kém ai, cũng đã nhiều lần được hát bài hát Phu trầm trong hân hoan tột đỉnh và cũng tận mắt chứng kiến máu đổ bao lần; mặt tôi đầy mụn cóc, giống một cách ngẫu nhiên với thứ trầm vỏ cây mà những phu trầm hết thời phải đào bới nát cả rừng cây dó mới tạm đủ cho tháng ngày tay làm hàm nhai.

Bạc phước, cha nuôi tôi, trong một lần định ăn riêng một cây dó bầu già lá vàng có nhiều u bướu hiếm hoi còn sót lại đã bị nguyên nhát rìu vào đầu, máu phụt thành vòi ngay trước mắt tôi, ông tắt thở ngay tức khắc, mắt trừng trừng nhìn ngọn dó già. Phu trầm đi điệu lâu năm rất rành cây dó nào chứa thứ gì bên trong nó, dó lưỡi trâu thì có khổ trầm, dó niệt có trầm hương, cây dó bầu như thế chắc chắn có kì nam, bèo nhất cũng được đổi đời dăm ba người. Khi những phu trầm đồng loạt hát lên: “Nhất bạch, nhị thanh, tam huỳnh, tứ hắc… Cây quế thiên thai mọc ngoài khe đá, trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm…” nghĩa là họ đã cùng tìm thấy thứ gì đó đáng đồng tiền bát gạo. Và câu hát ấy hôm nay vang lên, ba mạng người đã ngã xuống, một kiểu như nhau, cùng lưỡi rìu phập vào đầu.

Lục mớ giẻ rách và lá chuối bùi nhùi nơi đáy ba lô của người cha nuôi- phu trầm ấy, tôi bàng hoàng phát hiện một khối tốc hương vàng. Sống trong thế giới phu trầm, tôi đã học được cách phân biệt rất nhanh từng loại trầm: Trầm tốc, trầm rễ, trầm kiến, trầm mắt tử khác nhau cả, riêng trầm tốc cũng có nhiều loại, tốc hoa lốm đốm, tốc nước vàng nhạt, tốc xám như tro, tốc lọ nghẹ đen bồ hóng, tốc đá chắc nặng, tốc ớt vị cay, tốc hương vàng gân guốc, điểm nhiều kì nam hơn cả. Chôn cất cha nuôi xong, quên nhanh mối hận thù phải trả cho người cha nuôi, tôi băng rừng trong đêm bỏ trốn về thành phố. Khối tốc hương vàng có nhiều kì nam ấy đã thay đổi thân phận tôi. Giấu số tiền lớn bán được vào chiếc áo khoác bất ly thân trên người, tôi lao vào những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Chính thời gian này, tôi đã cho xăm khắp mình mẩy hình một con rắn màu lửa như hình ảnh của những phu trầm đã nói về nguồn gốc của tôi trong những đêm say rượu. Đất Sài Gòn có tất cả những gì ta muốn, từ một trinh nữ nõn nà đến một chiếc nút áo cũ mèm chỉ có giá trị gợi lại ký ức nào đó. Bạc phước, khi tiền gần cạn, trong một lần đi vào gian hàng tìm mua chiếc áo khoác thay cho chiếc áo đã từng chứa hàng chục sấp tiền giữa hai lần vải nay đã rỗng rênh và cũng bắt đầu bốc mùi. Tôi chợt sựng lại trước chiếc áo ấy. Không phải chiếc áo gợi nên điều gì nhưng chính chiếc nút bọc vải hồng đã đánh thức gì đó, có điều gì đó thân thuộc một cách mơ hồ vừa sống lại trong tôi. Tôi mua chiếc áo, cắt lấy chiếc nút và biết mình phải làm gì. Tôi quay về lại La Hai.

*

Tàu rùng mình sắp rời ga. Khép mảnh ni lon lùng nhùng xam xám ép vào người, tôi đội trăm ngàn sợi nước nặng ròng ròng, xuyên cắt trăm ngàn sợi nước nặng ròng ròng, chính xác từng bước một, tôi bước tới những toa khách của con tàu dài ngoằn trong tưởng tượng mình là con rắn ốm o đói mồi bước đến con rắn to lớn khác là con mồi của  mình.

Đôi lúc, tôi không tin mình có nguồn gốc từ rắn như những phu trầm trong lúc nhậu nhoẹt dưới ánh đèn dầu rái đã thêu dệt, người sinh ra tôi phải là một phụ nữ đẹp nghiêng nước nghiêng thành mà tôi đã tự hứa dùng phần đời còn lại của mình để tìm bằng được. Trong giấc mơ gần đây, tự dưng tôi thấy vô vàn hình vuông đủ màu sắc nhảy múa trước mắt, lại nghe tiếng nói báo mộng bảo là má đã qua đời lúc chạy loạn trong cơn binh lửa. Sáng hôm sau, tôi lầm lì đi  bộ hơn bảy mươi cây số vào tận nghĩa địa cũ tìm má. Không biết tên, không biết mặt nhưng vẫn tìm, tôi hy vọng sẽ nhận được sự mách bảo nào đó. Tôi vượt qua những đường cày trắng hếu xương ống tay, ống chân và cả những đốt xương cong cong mà tôi chẳng biết xương gì, những đường cày của những người đang ra sức cải tạo một phần nghĩa địa cũ thành nơi trồng trọt sau cuộc chiến tàn khốc, tôi bước chân vào  nghĩa địa cũ khi mặt trời đã qua chính ngọ. Tôi vạch cỏ lẩm nhẩm đánh vần từng cái tên khắc trên bia mộ. Tôi nhìn thật kỹ những bức chân dung đàn bà xem cái nút áo trên cùng có giống cái nút áo bọc vải hồng tôi đang cầm trên tay đây không. Tìm. Mải hoài tìm. Tuyệt không có cái tên nào gợi đến điều gì, không có cái nút áo nào giống như nút áo bọc vải hồng của tôi. Có lúc tôi dừng lại thảng thốt, chẳng biết mình tìm gì. Mấy ánh mắt phụ nữ trẻ trên bia mộ như đang nhìn tôi, có con ngươi mở to như muốn hỏi tôi tìm gì. Mặc kệ, tìm là chuyện của tôi. “Trên cái vùng đất có quá nhiều trận giao chiến một thời này, thiếu mẹ gì thằng đi tìm giống mình”, tôi tự an ủi. Chắc chắn là tôi tìm má tôi, chỉ tội tôi không thể biết má là ai, tên gì, mặt mũi ra sao.

Tháng mười chưa cười đã tối, trời tắt nắng đột ngột, tôi vẫn mê mải vén cỏ, đánh vần, cho đến khi xòe bàn tay trước mắt đã thấy nhá nhem tối mới chịu dừng lại. Tối đen. Tôi đang đứng trơ trọi giữa nghĩa địa. Những ô vuông nhập nhòa, đúng là hình ảnh tôi thấy trong giấc mơ. Vẫn không có một thứ ánh sáng nào loe lóe trong đầu tôi. Bất lực, tôi đứng thở dài, trơ trọi giữa những nhập nhòa vuông vuông, đủ sắc. Mùi âm khí dâng lên quá nhanh làm cho tôi, lần đầu tiên trong đời, cảm thấy hốt hoảng. Chân tôi líu ríu bươn lòng vòng qua đám cỏ gai, đầu tôi tràn ngập những sinh thể dị hình, dị dạng chập chờn trong sự mường tượng của cơn sợ hãi. Tiếng một con dế đột ngột gáy đã làm cho bước chân tôi không còn tự chủ, cứ bước băng vào bụi cỏ cao rậm rạp trước mặt, tôi bị thụp mạnh xuống, té chúi nhũi vì đó chính là lỗ huyệt đã được hốt cốt, có lẽ cỏ tốt hơn xung quanh nhờ được hưởng hơi người chết, ăn xác người chết. Tôi lồm cồm đứng lên với ý nghĩ mình vừa chui ra từ một xác chết nào đó. Đôi dép mòn vẹt của tôi đã dính lại dưới chỗ sình lầy dưới lỗ huyệt. Thói đời! Chết còn tham. Là tôi nghĩ cái người nằm dưới đấy cố tình lấy chiếc dép của tôi, chứ không phải đám sình lầy vô hồn lấy chiếc dép bất ly thân của mình. Tôi nhìn thấy một hình nhân đen đen hằn trên bãi đất trước mặt đang cử động, cúi nhìn thì cái đám đen đen ấy hóa ra một đám ruồi nhặng, đám ruồi nhặng mập ú, chắc cũng do ăn xác chết. Chúng bị đánh động nên vo ve chuyển dịch. Tôi nhìn lại lần nữa, không phải, hóa ra là bóng tôi in trên vũng nước đọng. Tôi không dám khua chân vào để xem có phải thật vũng nước không. Nếu chỉ là thứ ảo giác gì đó, không thật vũng nước thì sao? Hai chân tôi líu quíu đến mức đứng không còn vững nữa. Một cái lỗ huyệt đã được hốt cốt nghĩa là một xác chết đã từng nằm đây, nghĩa là chỗ ở này bất khả xâm phạm, tôi từng nghe nói luật pháp cõi người âm là thế. Vậy mà tôi đã phạm, tai họa chắc chắn sẽ giáng xuống tôi ngay bây giờ. Chân tôi đã bước lên khỏi lỗ huyệt nhưng đầu óc tôi thì chưa ra khỏi đó, tôi bị ám bởi đám cỏ ăn thịt người… chết, chút tỉnh táo cuối cùng của tôi bị đánh mất hoàn toàn khi từ trong bụi vù bay ra đôi cánh cú mèo cùng với tiếng kêu en ét ma quái. Hai thái dương tôi lạnh ngắt. Tôi vùng chạy. Có nhiều con mắt đang rượt theo tôi, nhiều con chim mặt người đang rượt theo tôi, con ma nằm đó vừa dựng dậy rượt theo tôi. Càng nghĩ vậy tôi càng không dám quay đầu lại. Chạy. Nhiều tiếng chân bám theo ngay phía sau, lạch bạch, dọa nạt. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy bạt mạng ra khỏi cái làng mạc âm khí, may mà linh hồn tôi chưa bị hất văng ra khỏi xác, may mà tôi chưa thành con bướm đen ở lại mãi mãi nơi nghĩa địa.

*

Hắn rùng mình xua câu chuyện tìm má hắn ra khỏi đầu. Hắn ngước lên các ô cửa sổ để mặc nước xối xả vào mặt, đâm xuyên vào từng đám mụn cóc lồi lên trên da mặt, môi hắn chợt giần giật, run run, cả người hắn co ro cút rút và đôi mắt hắn buồn dại, u ám, tê lạnh cố tình làm mềm nhũn những gương mặt trắng nhợt, những tâm hồn tự cho mình là “sắt thép”.

Vịt… vịt… quay… đê…ê…ê…ê… Hắn vén vạt ni lon để lòi ra hai con vịt quay căng mọng và cất giọng lập cập kéo dài như tiếng kêu cứu trong cơn tuyệt vọng.

Hắn đứng dưới mưa, mắt dán vào cửa sổ toa tàu, kì thực không nhìn gì cả, ngày nào cũng vậy, công việc mua bán lừa bịp này hắn chỉ thực hiện các bước như một chiếc máy thành thạo, điêu luyện, hắn không để tâm lắm, đám mây đen về thân phận, về nguồn gốc đã phủ trùm lấy hắn, nuốt chửng lấy hắn từ lâu.

Sau chuyến đi tìm hụt hơi ấy, hắn nghĩ rằng mình không sinh ra bằng con đường thụ thai bình thường, là các phu trầm đã gieo vào đầu hắn các tình tiết mộng mị mơ hồ ấy và hắn tin như vậy, không thì hắn biết tin vào điều gì, thời buổi này, tất cả đều không đáng tin, hắn tin vậy để lòng bớt bơ vơ lạc loài. Có bám víu tin vào những điều mơ hồ hơn nữa, hắn còn sẵn sàng, huống hồ đây là chuyện của má hắn. Má hắn là một nàng rắn chúa. Hắn đã uống từng lời của những kẻ thêu dệt say xỉn và những tiếng cười sằng sặc trong ánh lửa dầu rái của khu rừng thiêng nước độc ấy.

Năm ba mươi tuổi, bà rắn ấy đã mở miệng thật to trong một cơn động cỡn, giữa trời đen chớp trắng, thân lượn quấn lên tận ngọn cây mai vàng trăm tuổi, cao to nhất làng. Từ một đám mây sắc hồng, cha hắn đáp xuống, hai bàn tay năm móng to bè, ngón cái bạnh ra tựa nhẹ vào ngọn cây làm cho triệu triệu cánh mai vàng trên cây rùng rùng trút xuống như cơn mưa vàng rực rỡ, vàng chói chang của một thời hồng hoang truyền thuyết mộng mị nào đó. Trong cơn mưa hoa tơi bời, kinh động, tấm thân rắn mẹ càng uốn éo, quằn quại, nhưng sự kích động được bắt đầu thực sự khi cha hắn lè phóng ra cái lưỡi sáng loáng với các cạnh sắc bén của mình liếm phớt quanh miệng bạn tình, những âm thanh rin rít, vút vút liên tục dội vào màng nhĩ của tất cả các sinh linh biết nghe. Rắn mẹ cảm nhận rất rõ  khối lửa khổng lồ đang tiếp cận với mình. Một lớp dịch vàng đục bắt đầu rịn ra, ứa ra, ứ ra, tràn ra qua các lớp vảy trơn. Cái vòm miệng của rắn mẹ nóng hừng hực phì phì như miệng núi lửa, hai môi căng mọng, đỏ lòm lòm, vòm họng căng phình, đỏ lòm lòm, phập phù, phập phù chờ đợi. Cha hắn nhắm mắt, chui đầu vào vòm họng của rắn mẹ trong cơn mê đắm, cuồng khát bạo liệt. Dịch trào ra, tuôn ra như thác, trườn ào ào ùng ục xuống, xối xuống nóng sôi, ướt sũng quanh gốc cây thành một bàu nước lớn sền sệt, hăng hăng, nhờ nhờ, ảo mờ, mùi bốc lên mạnh đến nỗi làm cho các sinh linh quanh vùng đều vong mạng. Chính cái lưỡi nhiều cạnh sắc ngọt đã liên tục rà, cạ, chém, rạch vào sâu trong cơ thể rắn mẹ. Cơn kích động dâng lên tột độ. Rùng rùng. Quấn. Xiết. Rú riết vang động. Máu trong vòm họng từ các vết thương do chiếc lưỡi sắc bén cứa cắt phun rào rào vào lớp dịch nhầy ngập ngụa. Và trong cơn kích động dữ dội cuối cùng, rắn mẹ đã cắn phập. Răng ngập vào cổ. Hai hàm răng răng cưa đan xen nghiến đứt bén ngọt ngay lập tức bất kỳ thứ da rồng, da voi, da trâu, da người nào. Một tiếng rú vút tận trời cao chợt ngưng bặt, mất hút. Máu phụt từ cái cổ bị cắt nghiến. Khối lửa đổ ập xuống làm tung tóe đất đá xung quanh, kết thúc một cuộc giao đầu khủng khiếp nhất trong lịch sử, vượt mặt tất cả các truyền thuyết giao hoan từ cổ chí kim của cánh rừng già.

Và hắn đã thụ thai trong ruột rắn mẹ. Thoạt kì thủy chỉ như khối than hồng âm ỉ, thoi thóp trong không gian tối đen, âm khí. Khối lửa lớn dần, ánh sáng bắt đầu phát ra. ánh sáng khao khát phát ra, chui ra, xuyên ra, bùng ra. Cục cựa. Rục rịch. Chuyển động. Khối lửa chuyển động. ánh sáng chuyển động. Hắn chuyển động. Nhanh dần. Nhanh hơn nữa. Xoáy tròn. Quay tít. Thành ruột rắn mẹ vỡ tung. Tiếng oe oe đầu tiên rơi vào một thùng rác với đủ thứ vật thải của con người trên sân ga La Hai này. Và khi chiếc xe xúc rác vừa trờ tới, hai gọng kềm chuẩn bị nhấc thùng rác lên đổ vào thùng xe chứa rác thì người ta nghe tiếng khóc, một thứ tiếng khóc thoi thóp, ám vào tai những người buôn thúng bán bưng, ám vào tai những thân phận rách nát của chốn sống tạm bợ, lừa đảo, mộng mị của sân ga này. Một khuôn mặt lấm lem đầy mụn cóc được bế ra, cứu sống… giữa cơn mưa đêm trên sân ga.

*

Hắn rùng mình quay về thực tại, những cơn mưa đêm luôn làm hắn chìm đắm như vậy. Với đôi chân đang run run giật giật, hai đầu gối dập dập vào nhau trong cơn ướt lạnh, buốt lạnh, tê lạnh thường ngày của đời sống một thằng bé bươn bả kiếm ăn, hắn rướn cổ, gân cổ lên rao lần nữa, giọng hụt hụt, càng về cuối càng làm như hết hơi, khàn khàn, khào khào. Mắt hắn dán vào các ô cửa sổ trông đợi. Một cái đầu với mái tóc hoa râm thò ra. Bao nhiêu? Trăm rưỡi. Trăm hai. Cũng… được… Cám ơn! Hắn chồm lên nhận tiền, lúi húi vừa di chuyển theo khung cửa sổ vừa khó nhọc móc mấy tờ bạc lẻ thối lại. Và khi các tua bánh sắt quay nhanh thì hắn chồm lên đưa con vịt quay. Mái tóc hoa râm trên khung cửa sổ vội thụt vào, chưng hửng, bàng hoàng với cái đầu vịt cụt lủn trên tay. “Đồ bất nhân thất đức!” Một câu rủa vọng ra. Cả chục câu rủa đồng loạt vọng ra. Cũng có thể một câu rủa nhưng trong cơn mưa đêm nên nhân lên chục lần, trăm lần vọng ra.

Các thanh tà vẹt sũng nước lộ dần, lộ dần, hai vệt sáng đường ray kéo nhòe, kéo nhòe và chụm đầu về phía trước. Con tàu như một chấm vuông nhỏ dần. Hắn sửa lại cây tăm trên cổ vịt, móc trong túi ra cái đầu vịt khác. Người hắn thẳng ưỡn trong sột soạt chiếc áo mưa và trong ầm ào cơn mưa đêm. “Đồ… bất nhân thất đức!” Hắn lầm rầm lặp lại, con ngươi trong mắt hắn thoáng nở căng, cánh môi trái ngừng co giật, khẽ nhếch lên, gằn nhẹ, không biết đó có phải là nụ cười không. Hắn thản nhiên bước đi, lù lù đội trăm ngàn sợi nước nặng ròng ròng, lù lù xuyên cắt trăm ngàn sợi nước nặng ròng ròng.

Chiêu bán đầu vịt này hắn học lóm của một tên anh chị mặt rỗ hết thời và hắn nhanh chóng trở nên siêu hạng trong nghề lừa. Ngoài ngón nghề thành thạo hắn còn ưu thế ở khuôn mặt đầy mụn cóc, sần sùi, não nề diễn như thật, thật như diễn với những đường nét bi đát từ những cơ mặt nhăn nhúm thâm căn cố đế.

*

Hắn khom người lách qua chiếc dù lớn, chui nhanh ra sau xe nước mía, nghiến răng ken két, “Đồ bất nhân thất đức!”, hắn hét lên, bà bán nước mía đang ngồi trơ mắt vô hồn giật mình bật khỏi chiếc ghế nằm. Hắn vật mình xuống thế vào chỗ ấy, những vết nhăn dùn, co rúm trên khuôn mặt hắn giãn ra, hắn để cả tấm ni lon ướt như vậy lim dim mắt, hắn tạm ấm lòng với cái tên Trầm Bì và với chút mồi vừa kiếm được. Bà nước mía xỏ dép đứng nhìn hắn, mắt buồn não nề. Mắt hắn soi từ ngực xuống giữa hai đùi bà chị nước mía, đôi mắt hắn mù màu, chỉ nhìn thấy hai màu đen trắng nhưng những gờ nổi, lượn cong trên cơ thể người đàn bà ấy luôn níu giữ cặp mắt hắn. Hắn lắc đầu thật mạnh xua mấy đường cong ấy ra khỏi đầu, hắn cố cắt xén và hình dung đó chỉ là một phần hình trang trí trên chiếc dù, một thứ hình ảnh vô hồn, trơ phẳng. Nhưng rồi những đường cong và cả cái mùi đàn bà khốn nạn đã làm đầu óc hắn mê mụ. Hắn chồm lên giật toẹt tà áo bà ba. Bà nước mía ôm ngực, vẫn đứng nhìn hắn với cặp mắt buồn não nề. Hắn giật xé thêm một tà áo nữa, miệng nhại lại câu rủa phát ra từ cửa sổ tàu hỏa: “Đồ bất nhân…, bất nhân,… bất nhân…” và cuối cùng là tràng cười man dại. Hắn đột ngột chồm người nắm tay giật mạnh bà nước mía ngã vào lòng. Cả người hắn nóng ran và đầu óc mụ mị. Cơ thể người đàn bà run lập cập. Hắn vuốt hai bàn tay to bè lần hai bên eo, trượt lần xuống. Bà nước mía chợt giãy dụa dữ dội. “Không được!” Tiếng hét thất thần tới mức hắn phải sựng lại. Một tràng cười lại rộ lên, hắn lật người đàn bà nằm úp trên cơ thể hắn, khuôn mặt đầy mụn cóc của hắn cạ cạ vào hai bầu vú, hắn hít một hơi thật sâu, lồng ngực hắn đầy căng mùi da thịt phụ nữ. Bà nước mía để yên như thế hồi lâu, mắt mơ màng, ngơ ngác, rồi đột ngột vùng dậy, tát một cái thật mạnh vào má hắn.

“Dừng lại! Dừng lại! Mày… Con ơi!”

Hắn há hốc nhìn trân đôi mắt buồn não nề, đẫm nước mắt của bà nước mía. Có một thứ linh cảm khó giải thích nào đó vừa như luồng điện mạnh quật ngã hắn. Hắn đổ sụp xuống, đôi vai rung mạnh, giật mạnh, quằn quại. Hắn giơ hai tay lên trời chới với, chới với, chợt đập mạnh xuống vũng nước trước mặt. Nước văng tung tóe. Sình văng tung tóe. Sau khi rống lên hai tiếng “Mẹ kiếp!”, hắn quẹp xuống chèm nhẹp như miếng giẻ ướt…

*

Lời tác giả:

Mười năm sau.

Khi đi tham quan nhà máy đường công nghệ cao ở miền Trung, tôi thấy một người đàn bà sang trọng, người của công ty tháp tùng hướng dẫn đoàn, đã bị cơn gió đột ngột làm chiếc khăn lụa choàng vai móc vào lùm gai xương rồng. Tôi đi ngay phía sau nên bước lên giúp gỡ khăn cho bà. Bà ngước lên cám ơn, trong khoảnh khắc được nhìn bà thật gần đó, tôi chợt bàng hoàng nhận ra ánh mắt rất quen nhưng không còn dài dại như ngày xưa. Thời ấy, nhà tôi ở phía bên kia sân ga La Hai mà. Bà nước mía cũng nhận ra tôi. Và chuyện ở sân ga ngày nào lại được tiếp nối.

… Lúc giằng co  chống cự, tôi nắm níu cái đầu tóc của nó, chợt nhìn thấy vết thẹo hình chữ C sau mép tai, cả người tôi chợt chấn động. Tôi nhớ rất rõ vì khi nó chập chững tập đi, đang cho nó uống nước, tôi làm bể cái ly xuống sàn nhà, nó mất thăng bằng đã bị ngã dập đầu vào chính mảnh vỡ ấy.  Thật ra, khi trở thành người bán nước mía trên sân ga, tôi là người bị mất trí nhớ. Cái cú chấn động hãm hiếp đó làm cho tất cả được phục hồi nhanh chóng.

…Tháng tư, năm bảy lăm, con đường Bảy ngập tràn người xe chạy loạn. Lúc ấy, nó tuổi rưỡi, chỉ mới đứng chựng được thôi. Chồng tôi chở hai mẹ con bằng chiếc xe Honda 67, khi qua Ngã ba Cây Xoài, kẹt đường, tôi mỏi tay xuống xe để nó đứng xuống đường, nghỉ tay chốc lát. Ngay lúc ấy, ánh chớp sáng lóe lên kèm theo một tiếng nổ kinh hoàng. Đoàn người tan tác, xác người văng tứ tung, máu me chảy đổ thành dòng trên đường, chồng tôi và chiếc xe biến mất. Không nhớ nổi bằng cách nào đó, tôi và những người chạy loạn còn lại được chở về tới Quy Nhơn. Tỉnh ra, nhận biết mình mất con, tôi đã hóa điên hóa dại. Tôi chạy quanh gào rú, xé tung hết quần áo rồi lang thang ngược đường tìm con. Tôi được một người tốt bụng cứu sống trong dòng nước sông Ba và trở thành người đàn bà bán nước mía vô hồn trên sân ga những năm đó.

Trầm Bì giờ là người đàn ông quắc thước, đầu đội chiếc mũ bảo hộ bằng nhựa vàng, ông đang là tổ trưởng bảo vệ của nhà máy đường. Gặp lại, tôi quá đỗi ngạc nhiên vì ánh mắt của ông bây giờ trông rất hiền từ, tưởng như cái quá khứ “Trầm Bì- gã rắn” kinh khủng, nỗi sợ hãi của dân kiếm cơm sân ga lúc ấy của ông chưa từng dính dáng gì tới con người điềm đạm bây giờ vậy. Gặp lại tôi, ông cũng ngờ ngợ nhận được. Vừa mở nút cổ áo vén cho tôi coi lại vết xăm hình rắn ám ảnh sân ga một thời, ông vừa kể:

 Khi ấy, tôi chợt thấy chiếc nút áo bọc vải hồng hiện ra, một linh cảm rợn người đã làm tôi rơi vào cơn chấn động đau đớn không cùng. Tôi chợt nhớ lại tiếng nổ chớp sáng đó và cái nút áo màu hồng ấy chính là cái vật tôi ngồi mân mê chơi với nó suốt đoạn đường chạy loạn, đó là chiếc nút áo của má tôi…

Giữa trưa nắng như đổ lửa mà nghe chuyện cũ của hai má con họ lòng tôi như đang ngập ngụa trong cơn mưa đêm tái tê của sân ga La Hai ngày nào. Mưa ấy không phải là nước mắt, nước mắt còn đâu nữa mà khóc cho siết những cảnh đời loạn lạc. Mưa ấy cũng không phải là lưới trời, dẫu cho sợi mưa đính chì trĩu nặng. Mưa ấy cũng không độc không thiêng như khu rừng của những người phu trầm đi điệu lạc loài. Nó là cơn run rẩy, co giật tan nát cõi lòng của những con người không mang họ, của những đàn ông rắn, đàn bà rắn, của những con người đã từng hóa dại, hóa điên, một thời hóa dại hóa điên trong nỗi- đau- cùng- tận.

Âm Khí

(Hồi ức về những tháng năm buồn của tôi)

Ở đây âm khí nặng nề

Nguyễn Du             

1.

Tôi trở về làng cũ, một mình. Ở một nơi mà bom đạn thi nhau trút xuống ròng rã suốt hai mươi năm thì việc đem vợ con theo là cả một sự liều lĩnh. Có những người mẹ lần mò hái từng cọng rau ở bờ mương đã không thể quay về nhà để nấu cho các con một bát canh. Có những đứa trẻ chơi trò trốn tìm bên hàng dậu cũng không bao giờ tìm lại được. Ở những nơi như thế, thì dưới mỗi tấc đất đều ẩn dấu cái chết. Giữa yên lặng của đất trời, một hôm nào đó bỗng nghe ầm một tiếng, thế là có máu chảy, có thịt da bắn tung lên như xác pháo.

Nhưng biết làm sao được. Làng cũ, nếu không hồi cư thì phải đi kinh tế mới. Chẳng những đây là nơi tôi đã được sinh ra, chùm nhau mang từ bụng mẹ đã được chôn ở góc vườn, mà còn là ngôi nhà thân quen bà tôi thường kể chuyện trong những đêm trăng tỏ… Dù ngôi nhà đã cháy thì hãy còn lại nền với bực thềm bà thường ngồi chia lúa cho những người thợ gặt, những viên đá ong đặt bên thành giếng mẹ tôi thường đứng rửa chân. Nó là cội rễ đã cắm sâu vào lòng tôi, không dễ gì nhổ lên đem trồng ở núi rừng xa lạ mà có thể sống được.

Tôi phải trở về, đúng vậy, chỉ một tuần sau ngày 30 tháng tư. Không biết khi trở về làng cũ, Từ Thức ngơ ngác như thế nào, nhưng với tôi, tất cả đã xa lạ đến không ngờ. Nếu không còn cây vông bị cắt cụt ngọn ở đầu xóm, nếu không có cây cau xơ xác như cây chổi cùn quét lên nền trời xám đục, thì giữa đám cỏ cây dày kịt kia, tôi không cách nào nhận ra được làng, tìm được nhà.

Con đường vào nhà dễ chừng đã một trăm năm không có người đi. Bờ dậu được ông tôi cắt tỉa công phu, giờ loi choi, xồm xoàm, trông như râu tóc của một người rừng. Lại thêm cái bình phong bằng duối đứng lù lù trông cũng chẳng khác gì một con voi. Tất cả đã hóa thành rừng. Rừng của lối đi vào nhà. Rừng của sân phơi thóc. Rừng của vườn cau bà nội. Và, rừng ngay cả trên nền nhà nơi có bàn thờ với những hộp bài vị sơn màu đỏ.

Thì đúng là cả làng đã thành rừng, nhưng xem ra rừng ở quê cũ vẫn dễ nhìn hơn là những đống gạch đổ nát ở các con phố. Dẫu gì thì nó cũng hãy còn màu xanh. Khi có gió thổi nó vẫn biết thì thầm bên tai những tiếng xạc xào. Một mai đây khi khai hoang, tôi sẽ có khối cây để dựng nhà, có thừa củi để đun. Có vẻ như dưới mỗi gốc cây, mỗi bụi cỏ, đất vẫn không mất đi một hạt bụi nào. 

Tôi không bày đặt cúi xuống hôn lên mảnh đất quê hương như các nhân vật tiểu thuyết, nhưng bảo rằng tôi nguội lạnh đến hững hờ thì cũng không đúng hẳn. Biết nói gì đây khi lòng tôi ngổn ngang bao nhiêu điều muốn nói. Ông tôi đã không còn, bà tôi cũng vừa mới mất, trong khi chính tôi cảm thấy mình hãy còn quá bé nhỏ như ngày nào. 

Tôi tưởng chừng như ông tôi đang làm gì đó sau vườn, có thể là đang đốn một buồng chuối vừa chín bói, một con chim hay một con chuột tinh khôn đã nhanh hơn ông, khoét mất cái ruột ngon ngọt chỉ chừa lại cái vỏ rổng không màu vàng. Bà tôi đang đi chợ và thế nào trên đường về cũng ghé qua mộ cha tôi đứng tần ngần trong giây lát. Chỉ một chút nữa thôi, hai cái bánh ú thơm ngậy mùi đậu trộn mỡ, hay một đĩa bánh hỏi trắng tinh lốm đốm hẹ xanh được bày ra cho hai ông cháu cùng ăn quà sáng. 

Nói những điều đó với hằng ngàn cây sầu đâu, cây táo nhơn, cây keo hay cây mắt mèo được sao? Ngay cả cây cau già còn sót lại đứng giữa vườn như một dấu chấm than kia cũng không thể nghe tôi nói được. Thì đành vậy, nói một mình. Ông ơi, bà ơi, cháu của ông bà đã về rồi đây. Cháu sẽ sửa lại vườn tược, sẽ đảo lại giếng, sẽ dựng lại nhà, rồi ông sẽ nằm trên võng đánh trống miệng thì thùng mà hát bội nghêu ngao, bà sẽ ngồi tướt tàu cau bó chổi, cháu sẽ đi đánh trổng, u mọi với bọn bạn trong xóm, như ngày xưa có khác gì đâu!

Nói là vậy, nhưng phải mất cả tháng tôi mới dọn dẹp xong khu vườn rộng hơn ba sào và dựng cho mình một cái chòi trên nền nhà hãy còn những cây cột kiềng kiềng cháy dở. Mỗi chiều tắt nắng trông chúng đứng buồn hiu như bóng hình của ông bà tôi trong những tháng ngày không con không cháu. 

Tôi cũng một đôi lần đến thăm những nhà hàng xóm. Nhà ông hai Th, ông biện Q, bà câu Kh,  ông hương bộ Ng. Tất cả đều đã chết, chỉ còn lại những đứa con đứa cháu ốm yếu ngặt nghẹo. Bọn chúng biết tôi, tôi cũng biết chúng, nhưng gặp nhau chỉ hỏi mỗi một câu, về rồi đấy à? Chỉ vậy thôi, chẳng ai muốn hỏi nói gì thêm. Vì mấy mươi năm bỏ làng mà đi, người nào cũng có cả một câu chuyện dài những khổ và đau. Ai cũng mang trong lòng những cái chết không trọn vẹn của người thân. 

Bà H bị chết cháy thành than, bà hương bộ bị chết trong mương nước, khi tìm được xác thì hằng trăm con ốc bươu sau khi ăn hết thịt vẫn còn thòm thèm bám cứng lấy xương. Ông hai Th với cái bụng cổ trướng từ hồi chín năm, chết sau khi ỉa ra toàn phân lỏng đen như bùn. Và, ông tôi chết không kịp kêu một tiếng! 

Sau khi nhà cháy ông đã xuống Qui Nhơn cùng với cô tôi. Nhưng rồi căn nhà quây bằng cót lợp tôn rộng chỉ 6 mét vuông trên cát, không thể nào giữ chân ông được. Ông lặng lẽ trở về. Cho dù làng bây giờ đã nằm trong vòng kiểm soát của Việt cọng, nghĩa là pháo cứ việc rót và máy bay cứ việc bắn thả cửa nếu thấy bên dưới có cái gì động đậy. Ông không quá thiệt thà để tin rằng một người hiền như ông thì chẳng ai nỡ bắn. Nhưng ông chân thật tin một điều, được chết ở quê nhà vẫn hơn là chết trong một xóm ngoại ô chật chội, bẩn thỉu.

Dĩ nhiên ông không buồn đến nỗi phải đi tìm cái chết. Ông hãy còn muốn sống để lại nhìn thấy đứa cháu nội. Nhà cháy thì ông cất lại nhà. Chính trong một buổi chiều cuối tháng ba, sau khi đã xếp những bó rạ thành hình một chiếc nấm, ông chỉ còn phải leo lên đội cho nó một cái ngù để khỏi dột thì một chiếc trực thăng bay qua, tên giữ súng không cần ngắm cũng bắn trúng ông. Những người du kích sau đó đốt đuốt tìm mãi mới thấy ông nằm co quắp dưới chân đống rạ. 

Nhớ về ông, tôi không quên được hai cái hòm nằm chồng lên nhau mà ông đã thuê thợ đóng sẵn sau khi cha tôi mất. Lúc ấy, tôi vừa được năm sáu tuổi gì đó, hai cái hòm gọi là thọ đường được kê cạnh bàn học và tôi đã không ngần ngại dùng mực tím vẽ nguệch ngoạc khiến bà tôi hốt hoảng phải la lên: hổng nên nghe chưa! Cái gì “hổng nên” có nghĩa là cấm, nhất là những cái có thể động đến cái chết. Như hổng nên tròng dây vào cổ (sợ ma thần vòng), hổng nên bước qua cây tre ngã (sợ ma bật), hổng nên tắm sông (sợ ma da), hổng nên đứng dưới bóng cây cao to (sợ quỷ), hổng nên gõ vào hòm (sợ  thần chết tới).

Hai cái hòm ấy đương nhiên đã cháy cùng với ngôi nhà nhưng có vẻ như không cháy nổi trong lòng tôi. Nó vẫn nằm có đôi trong đó, gỗ bồ lời vẫn còn giữ được màu vàng và từng đêm vẫn tỏa ra mùi thơm. Bà tôi tuy có nhiều thứ bắt tôi “hổng nên”, nhưng gần tôi hơn mẹ, bà là chiếc nôi ru tôi suốt một thời bé dại với những câu chuyện thần tiên, ma quỷ, cọp voi…Nói chung là chuyện xưa chuyện nay, chuyện trên trời dưới đất, hễ qua cái miệng lúc nào cũng mỏm mẻm nhai trầu của bà, là y như rằng hay đến nỗi nghe mẩn nghe mê. 

Bà chỉ hơn tôi đúng 40 tuổi nhưng từ khi lên năm, tôi đã thấy bà y như một bà nội. Nghĩa là lúc nào bà cũng móm mém, khuôn mặt đã bắt đầu nhăn nheo và chiếc khăn nâu quá nhỏ không đủ che hết cái đầu đã cạo trọc tự bao giờ. Bà có một chiếc hộp nhỏ tròn bằng thiết, đựng những chiếc răng đã rụng, một đôi lúc lén mở ra xem, thấy những cái chân răng dài và nhọn bám đầy vôi và nước bã trầu rất kỳ dị. Khác hẳn những chiếc răng be bé mà tôi thường ném lên mái nhà những khi thay răng, sau khi đọc một câu thần chú ngộ nghĩnh, bảo rằng, bớ chuột bớ mèo, răng cũ về mày răng mới về tao!

Dường như khi chưa lấy chồng, bà cũng là một cô hàng xén. Cô hàng ấy chắc đã làm nghiêng ngửa trái tim của một chàng trai là ông tôi. Lấy chồng rồi, cái gánh hàng cũ chỉ còn là một kỷ niệm. Bà treo nó lên xà nhà, một đôi lúc đem xuống để vá may. Đó là lúc tôi được nhờ xỏ kim và không quên thừa dịp để táy máy những thứ riêng tư nhất của bà. Ngoài cái hộp thiết đựng răng rụng, còn có mấy ống chỉ đen trắng dùng gần hết, vài cây kim sứt đít, một cái gương mờ đục, một cái lược dày chải chí hãy còn vướng vài sợi tóc, một cái vạch bằng xương bò để vạch trên vải, một cục sáp ong để vuốt chỉ và một hộp diêm không còn diêm có hình con két rất đẹp đựng những hạt nút bóp…

Vậy thôi, không phấn son, không chuỗi ngọc, nhưng nhìn bức hình còn lại trong thẻ căn cước, trông bà rất đôn hậu với đôi mắt hãy còn đen. Có lẽ nhờ vậy mà cô tôi, chỉ hơn tôi 10 tuổi, ngày còn trẻ phải nói là rất đẹp. Cô có một nét cười thắm đến nỗi tôi tin vì nó mà cuộc đời cô trở nên lận đận. Một thầy giáo ăn cơm tháng ở nhà cô đã âm thầm để lại cho cô một đứa con trong khi chồng cô đi tập kết. Cô bị chồng đay nghiến, dù dượng ấy vẫn có một người vợ Bắc, mà dượng bảo là cả chồng và con đều bị giặc Mỹ sát hại trong một cuộc ném bom.

Nói tới dượng là tôi lại nhớ đến nỗi ấm ức của mẹ tôi. Dưới mắt mẹ, thì cái cảnh bà mẹ chồng ngồi lựa từng hạt gạo trên sàng để nấu cơm cho con rể ăn là coi không được. Nhưng tôi tin không phải vì quá yêu chàng rể mà bà làm vậy. Với tôi, khi đi học xa trở về nếu mang theo một người bạn, thì bà cũng tỉ mẳn ngồi lựa từng hạt nếp hạt đậu như thế. Tôi cho rằng đó là đức tính của một người biết trọng mình và cũng trọng người khác.

Tuy không nói ra, nhưng những việc làm của dượng tôi thực không hợp ý với bà chút nào. Cái cách dượng bỏ cả mẹ già và vợ con để đi theo đảng khiến bà khó chịu. Bà cũng thấy chướng tai với những cái tên Chiến, Thắng, của các cháu ngoại. Dù rất yêu cô tôi, bà cũng không đồng tình với cái cách cô có con với một người không phải là dượng. Bà coi như không hề có nó trên cõi đời này và cô tôi cũng giả như chưa hề sinh ra nó bao giờ. Nó là đứa cháu tội nghiệp không hề biết còn có một bà ngoại. Nó chỉ biết có mỗi một bà nội của các anh chị không cùng một cha. Đó là một bà già hiền đến nỗi yêu cả đứa con ngoại hôn của cô con dâu, đứa nhỏ mà con trai bà căm thù còn hơn giặc Mỹ.

Bà tôi sống lặng lẽ với nỗi mất con. Rồi mất nhà, mất chồng. Khi theo con dâu tản cư lên chợ Gò Chàm, nỗi nhớ ruộng nhớ vườn khiến bà teo tóp như một trái cây thiếu nước. Cứ mỗi lần trông thấy những đám mây vàng rực màu lúa chín thì bà lại nhớ tới đồng lúa. Bà không cấy gặt nhưng cây lúa hạt gạo đối với bà lúc nào cũng gần gụi và thân thiết như con cháu.

Giờ đây, tôi một thân một mình, xa cách vợ con mới thấy thấm thía những tháng ngày trơ trọi bên hông chợ của bà. Tôi còn có cả đống công việc để làm, chứ bà hết nằm lại ngồi, hết ra lại vào, hết nhìn trời lại ngó đất, muốn nhìn cây chuối trổ buồng cũng không biết nhìn ở đâu, thì buồn biết chừng nào. 

Cái chiến lược “lấy nông thôn bao vây thành thị” không những chỉ giết hại và làm bị thương hàng triệu người, mà còn làm què quặt khô cạn, cả những người đang sống sót như bà tôi. Họ bị bứt ra khỏi làng mạc ruộng đồng như nhổ một bụi lúa rồi ném lên mặt đường nhựa. Bảo cứ thế mà sống đi thì sống làm sao được. Nhưng giá như bà sống đến cái ngày gọi là hòa bình này, giữa khu vườn lạnh tanh và ruộng đồng hoang hóa, không một cọng rau, không một bụi lúa chắc gì bà đã vui! 

Ai cũng cầu mong cho người chết được yên nghỉ, tôi cũng vậy. Nhưng với một người không có hòm mà chôn dù đã sắm sẵn từ trước, một người khô hết máu như ngọn đèn cạn dầu, chết thảm như thế chắc là không thể nào yên nghỉ được. Thấp thoáng đâu đó, ở cuối vườn kia hay đầu ngõ nọ, hình bóng của hai ông bà vẫn còn đổ dài xuống đời tôi. 

Nghĩ sâu hơn một chút, tôi đâu có sống một mình. 

2.

Sau khi được phát quang, cái khu rừng gọi là làng tôi đó, trông thật buồn cười. Nơi thì cạo trọc trơ cả đất xám. Nơi lại rậm rịt lô nhô cây cỏ. Nói theo kiểu nhà quê, thì nó giống như một cái đầu bị chó gặm, tóc lam nham chỗ có chỗ không.

Dân trong làng lúc này, đếm tới đếm lui, chưa tới một trăm. Non một nửa, kênh kênh tự cho là người chiến thắng, gồm những ai trong ban quân quản và những ai trong đội trừ gian, diệt ác. Còn hơn một nửa là những kẻ thua trận, ngơ ngác như kẻ mất hồn, gồm những lính nghĩa quân, những dân quân tự vệ, những xây dựng nông thôn… Tôi không ở lính ngày nào nhưng cũng phải xếp vào hàng thua trận. 

Cùng một dòng sông mà bên đục bên trong, hai bên cùng chảy nhưng tương phản nhau như nước với lửa. Thấy rõ nhất là trong những tối cả hai cùng họp mitting. 

Những kẻ bỏ làng chạy lên phố, đi lính quốc gia, gọi là thua trận, mọi cuộc họp đều phải ngồi bệt xuống đất. Chỉ khác một điều là không phải đặt hai tay lên đầu như những hàng binh. Còn những kẻ thắng trận, được ngồi uy nghi trên ghế hay oai vệ cầm súng đứng canh. 

Cây đèn măng xông cũ kỹ thở phì phò đặt giữa bàn, soi không  rõ hai màu cờ xanh đỏ. Không khí buổi họp đêm nào cũng nặng nề, lo sợ như ở nhà tù sau một cơn bạo loạn vừa được cai ngục dẹp yên. 

7 giờ. Chủ tịch quân quản chìm khuất giữa những người đang ngồi trên một cái băng dài, bỗng đứng dậy, bước mấy bước tới cái bàn có phủ nilon và đặt ảnh Bác, nét mặt hầm hầm như vẫn chưa nguôi cơn giận. Ông lí nhí thưa các đồng chí rồi ném cái nhìn khinh miệt xuống lũ dân ngụy. 

Lặng im một chút để lấy hơi, giọng ông bỗng trở nên oang oang, như ễnh ương lên tiếng à uôm sau cơn mưa. Và cũng như mưa, ông tuôn ra không ngớt những lời nhục mạ. Nào ôm chân đế quốc, nào liếm gót giày cho chúng, nào cởi truồng để mua vui cho giặc Mỹ… dù rằng những người đang ngồi chóc mỏ dưới kia, chỉ là những chủ hộ mỏi mệt, bơ phờ sau một ngày làm việc nặng nhọc. 

Ông ta tên Còn, tôi quá biết, nhưng giờ được kính cẩn gọi là đồng chí Đặng Hùng Anh. Có lẽ ông ta bằng tuổi tôi hay cùng lắm lớn hơn một vài tuổi. Người ông lùn tịt, mà lại đứng sau bàn, nên từ chỗ tụi dân ngồi nhìn lên, chỉ thấy có mỗi cái miệng nhót nhép. Trông ông giống cái màn rùng rợn của các ảo thuật gia trong gánh xiếc, phù phép cắt một cái đầu để trên bàn mà vẫn còn biết hát. Ai đi xem cũng thấy rùng mình. Giờ còn rùng mình hơn vì những điều ông nói.

Đầu ông thì nhỏ mà miệng lại to, tiếng nói từ đó phát ra kêu trót trót như những roi gân bò quất lên lưng tội nhân. Có lẽ trời cho ông nói to và nói nhiều như thế là để bù sớt cho mẹ ông, một người khi sinh ra bị bà mụ quên dạy nghe và  nói. Hai mẹ con ông ở một rìa đất cuối làng, trong một căn nhà mà mẹ tôi nói là nhỏ hơn lá mít. Ông ta không có cha hay là có đấy, nhưng cha không chịu nhận con. 

Khi thấy cái bụng của bà bỗng dưng to lên khác thường, làng liền đưa bà ra trước sân đình để hỏi tội. Bà ra dấu là tại cái ông chăn vịt. Làng cũng ra dấu để hỏi ông ta đã làm cái chuyện gà vịt đó mấy lần, thì bà kêu a a và đưa ra ba ngón tay. 

Cả làng bò ra cười bảo chớ có sai, nhưng ông chăn vịt thì nhất định không chịu. Ông bảo chừng nào con mụ kia khai ra, nghĩa là biết nói, thì ông mới chịu, chớ giơ khơi khơi mấy ngón tay lên ai mà tin. Nói thế thì trời cũng không bắt tội được ông huống hồ là làng.

Mẹ ông, cái bà câm ấy, nổi tiếng vì đã giơ lên ba ngón tay, có lần được mẹ tôi mướn bồng em, tức là bồng tôi lúc nhỏ. Tôi vẫn không quên được những cái đuôi thằn lằn ngo ngoe trong lòng bàn tay bà. Bà thường dùng nó để dọa tôi nín khóc, nhưng tôi lại càng khóc to hơn vì sợ. Giờ trông thấy hai cái môi khép mở không ngừng của ông, tôi lại liên tưởng đến những cái đuôi thằn lằn. 

Sau này lớn lên, đi học xa, có lần trở về được gặp bà, phải nói là tôi được xem một màn kịch câm vừa vui, vừa cảm động. Bà xáp tới như sắp ôm lấy tôi, rồi vòng tay lên trước ngực lắc qua lắc lại, nhắm mắt rồi chu miệng lại, xòe một tiếng như pháo xịt, ấy là bà muốn nói đã từng bồng ru tôi ngủ. Rồi bà lùi xa, một tay đưa lên cao khỏi đầu, một tay hạ xuống gần sát đất, miệng lại xòe một tiếng, là muốn bảo tôi lúc nhỏ thấp như thế này, giờ cao lớn như thế đó. Mấy cái lắc đầu sau cùng là bảo không thế nào tin được!

Bà tôi rất thương bà, khi cho khúc cá kho lúc cho vài cái trứng. Mẹ tôi cho áo quần, có khi cho cả lúa gạo. Bà tôi bảo bà ấy câm nhưng rất có nghĩa, vẫn thường ghé thăm chủ cũ và hỏi han tôi cứ như là con của bà. Một đôi khi bà mang Còn lên chơi, nhất là những khi nhà có giỗ. Còn nhỏ con nhưng trục lúc như hột mít, vẫn thường cho tôi những con cào cào voi. Hai đứa cũng đã từng ném tàu bay giấy xem nó lượn, chơi đánh trổng và đôi lúc vật nhau. Dĩ nhiên tôi luôn luôn đè bẹp được Còn xuống sân, chỉ khi nào bị Còn dùng võ răng cắn vào tay, tôi mới chịu buông ra.

Tôi không biết Còn có được đi học hay không và học đến đâu, nhưng khi tôi đi học tận Nha Trang thì nghe nói Còn đã lên núi. Sau này, nghe phong phanh Còn  trở về làng và tự tay bắn chết ông chăn vịt, giờ đã thành một ông lão, vì cái tội lấy cớ lùa vịt đi ăn đồng để lấy tin tức của cách mạng báo cho địch.

Lên núi từng ấy năm, có thành tích tốt như thế, giờ đây Còn làm chủ tịch quân quản cũng phải thôi. Có điều ông ta chửi nhiều quá! Chửi giặc Mỹ, chửi Đại Hàn, chửi tưới hột sen bất cứ thứ gì liên quan đến chế độ cũ. 

Có lần trông thấy một người mặc nguyên cả một bộ đồ đen của lính xây dựng nông thôn, ông ta gầm lên, “màu đen đó là màu dân tộc à, đó là màu của Mỹ đen, màu của hiếp dâm. Bao nhiêu đứa con lai là có gấp đôi bấy nhiêu những cuộc hiếp dâm bẩn thỉu như thế!”

Ông ta quát bảo du kích áp tải người đó về nhà thay đồ khác, rồi nhân đó nguyền rủa những quần áo rằn ri, rằng, “đó là da cọp da beo của giặc, chỉ mới nhìn thấy từ xa đã nghe mùi tanh của máu. Mặc những thứ quần áo đó là chà đạp lên nổi đau khổ của nhân dân, là còn tơ tưởng đến Mỹ ngụy. Ai muốn đi cải tạo thì cứ mặc thử một lần nữa xem nào!”

Dĩ nhiên là chẳng ai dám mặc, nhất là những bộ đồ rằn ri của biệt kích dù hay thủy quân lục chiến. Chẳng những không dám mặc mà người ta còn xé ra chùi đít cho con. Cũng có thể coi đó là một hành động xuất sắc, chứng tỏ đã thật sự giác ngộ cách mạng.

Ngoài ông ta, được gọi là chủ tịch quân quản một cách chính danh, còn có những người chẳng biết chức vụ gì, hễ mặc đồ xanh đội mũ tai bèo là có đầy đủ quyền uy cứ như những ông quan mới. Họ vặn vẹo, sai bảo, quát nạt nhặng xị cả lên chỉ vì một việc cỏn con như sao không treo cờ, sao cờ lại nhỏ như thế, nhân dân đã đổ ra biết bao nhiêu xương máu, giờ các người may một lá cờ không nổi sao?!

Những ai, gia đình có công cách mạng, có cha hay anh đi tập kết, thì cũng ráng kiếm cho bằng được một cái nón cối hay cái áo bốn túi xám xịt, để cũng có quyền hiu hiu tự đắc mà dự phần trong bữa tiệc đại thành công. 

Bọn nhỏ hơn, được gọi là du kích, thì có quyền sục sạo bất cứ nhà ai. Nếu chủ nhà đi vắng thì cứ việc chén những thứ gì tìm thấy được, hoặc khoai luộc, hoặc cá kho. Ăn xong còn đem xoong nồi ra treo lên cành cây mà tập bắn!

Tôi không mệt mỏi vì chặt cây phát cỏ mà mỏi mệt vì những ông quan mới ấy và những kiêu binh kiểu mới của họ. Ngoài những đêm ngồi bó gối nghe chửi rủa, nghe ca ngợi, còn phải chong đèn đến sáng mà viết lý lịch. Viết, viết mãi! Viết để trả lời những câu hỏi như móc vào họng. Rằng, trước 75 làm gì cho địch, làm với ai? ai biết? Đã làm gì lợi hay hại cho cách mạng, kể ra, ai biết, ai thấy?... Ôi trời, viết đến chục lần mà ông chủ tịch quân quản vẫn bảo là chưa thành khẩn! 

Dù mẹ ông đã bồng tôi, ông và tôi cũng đã từng chơi với nhau, nhưng có lẽ vì hận thù giai cấp, nên ông nhìn tôi lạnh lẽo như thể chưa từng quen biết tôi bao giờ. Vẫn cái điệp khúc “chưa thành khẩn”, dẫu không muốn trả thù, ông cũng đã hành hạ tôi suốt cả tháng.

Đâu phải riêng tôi, người nào có chút ít chữ nghĩa cũng đều phải tự hành hạ mình nhiều đêm như thế. Có người uất quá nói thầm vào tai tôi, đây là quỷ chớ không phải người! Nhưng tôi thì hãy còn kiên nhẫn để nghĩ rằng, tất cả những cái gọi là căm thù đó đều xuất phát từ sự thua kém. 

Căm thù là một cách trả thù của kẻ không được học hay ít học, đối với những ai có học hay học nhiều hơn. Như ông căm thù tôi. Còn căm thù giặc Mỹ là vì muốn như nó mà không được. 

Muốn được bay trên trời, muốn có đồ hộp để ăn, muốn có  thuốc lá để hút…Chúng nó cũng đi đánh nhau như mình mà sao lại sướng đến nỗi có cả tăm xỉa răng và cả giấy chùi đít! Lại còn được rủng rỉnh tiền đô để bao gái...Còn mình thì trốn chui trốn nhủi trong hang trong hầm, nhiều lúc bị ruồng bố phải nhai gạo sống. Quanh năm suốt tháng có biết cái mùi gái là mùi gì đâu! 

Nếu đồng chí Đặng Hùng Anh và các đồng chí khác từ trên núi xuống, căm thù ngay cả đồng bào mình thì cũng chỉ vì cái bọn đồng bào ôm chân đế quốc đó, đến khi thua trận rồi mà vẫn cứ sướng hơn bọn họ. Bởi vì, tuy là kẻ chiến thắng nhưng thực ra họ không có gì trong tay ngoài cây súng, trong khi kẻ thua trận lại có nhà có xe, có vợ đẹp con xinh và rất nhiều thứ khác nữa… 

Non một nửa dân làng tôi là kẻ chiến thắng, tỏ ra khinh miệt căm thù, hơn một nửa dân làng tôi thua trận. Thì non một nửa xã, non một nửa huyện, non một nửa tỉnh và non một nửa nước gọi là kẻ chiến thắng có căm thù đày đọa hơn một nửa xã, hơn một nửa huyện, hơn một nửa tỉnh và hơn một nửa nước gọi là thua trận, cũng phải thôi. 

Có chạy vào tận Cà Mau hay lên tận Pleiku, thì cũng thế. Thôi thì hãy gầm mặt xuống mà sống. Hơn một nửa nước thua trận chứ đâu chỉ có mỗi mình tôi. 

Có điều, sống một mình thật là buồn. 

Một đôi lần cũng muốn về thăm vợ con, nhưng phải khai báo đi những đâu, gặp những ai để làm gì, đi bao lâu? thật vớ vẫn và phiền nhiễu. Lại phải làm đơn trình lên ủy ban quân quản, được sự đồng ý của ngài (không được gọi là đồng chí) chủ tịch kính mến Đặng Hùng Anh mới được phép ra khỏi làng. Nếu đến đó mà không có phép thì bị nhốt, dù là về với vợ con, vì cư trú bất hợp pháp! 

Lằng nhằng mệt quá nên thôi quách, dù biết rằng vợ có thể nhảy dựng lên vì nghi chồng đánh bài chuồn, về quê cưới vợ khác.

Nằm một mình lại nhớ ông bác sĩ Jivago. Ông ấy thế mà sướng. Trong một căn nhà hoang, tuyết rơi bên ngoài cửa sổ, ông lại làm được thơ! Lãng mạn quá! Nhưng ở cái xứ mà nhìn đâu cũng thấy kẻ thù như ở làng này, thì thơ với văn cái nỗi gì. Thôi thì hát cắc cùm cum…

Đang è è bập bùng trong ánh đuốc, sóc bombo rộn rã tiếng chày khuya… thì có người lách cửa vào chòi. Bèn giật mình ngồi dậy, chuẩn bị tư thế đưa tay vào còng.

Hỏi: “không nhận ra nhau à?”

Đáp: “không”

“Là Lộc đây!”, người ấy nói.

“Lộc nào?”

“Lộc con bảy Đ.”

“À, con bác bí thư”!

“Bí bầu gì, tôi với ông bà con mà”

“Nghe nói đi học Liên xô”

“Có, học lái máy bay”

“Cũng khá là ngon, nhưng sao lại về đây?”

“Bị bắn rơi xuống đất rồi”

“Đừng đùa”

“Nó bảo tôi điên”

“Tôi không tin”

“Tôi chửi Stalin mà sao không điên!”

“Định cho tôi vào tròng à, người bà con?”

“Không, Stalin là một thằng đáng chửi. Tiếc là hồi còn đi học, mình (anh ta đổi cách xưng tôi) đã khóc hết nước mắt vì nghe tin nó chết. Qua bên đó mới biết cả nước nó cùng chửi chứ không riêng gì mình. Có điều nó chửi lén bằng tiếng Nga, còn mình chửi to bằng tiếng Việt. Cứ tưởng tiếng Việt không ai biết, không ngờ có thằng báo cáo. Thế là bị nhốt, mình phải giả điên. Về nước lại càng phải giả điên hơn nữa, nhất là ở cái làng đáng nguyền rủa có thằng chủ tịch Còn chó đẻ này!”

“Thôi, tôi xin ông. Là con bí thư ông muốn nói thế nào cũng được. Chứ tôi mà dính vào thì bỏ mẹ, tù rục xương ông à!”

“Việc đếch gì mà sợ. Tôi nói cho ông biết, Liên xô thế nào cũng sụp đổ.”

“Thôi, tôi lạy ông, về nhà mà ngủ giùm đi!”

“Cái MTGP Miền Nam bù nhìn này, nay mai rồi cũng sẽ bị lột mất áo!”

“Tôi lạy ông, lạy ông, mời ông đi giùm cho!”

Ra khỏi lều anh ta còn cười lớn. “Này, có nhớ cái hồi tụi mình đi học đêm hái trộm trái cây không?”

Đúng là đồ điên! 

Anh ta đi rồi mà tôi vẫn còn nghe trống ngực đập thình thình. 

Anh ta là con của bà dì họ. Cha anh lại là bạn cùng học với cha tôi. Hồi chín năm, bác ấy làm gì với súng đạn nên cụt hết một tay. Người làng vì thế thường gọi là Đ.cụt. Hai cha con tập kết ra Bắc. Bác làm đến những gì không biết, chỉ biết đã về hưu và giờ được mời ra làm bí thư đảng ủy, nghĩa là trên quyền chủ tịch Đặng Hùng Anh.

Việc tách nhập hộ khẩu là rất khó, nhưng mẹ tôi muốn đưa con dâu và các cháu nội về để tăng thêm nhân khẩu. Có như  thế mới giữ được ruộng vườn, nhưng tôi thà mất tất cả chứ tới lui cầu cạnh là không chịu được. Với lại dân ngụy trụi lủi như tôi thì cầu cạnh được ai. Mẹ bảo mầy không đi thì để tao xuống nhờ bác bảy Đ.

Sau đó mẹ im luôn, không ca cẩm chuyện tách nhập hộ khẩu nữa. Mẹ đành để HTX lấy hết ruộng. Hỏi mẹ sao vậy, mẹ đặt tay lên miệng ra dấu bảo im. Mãi đến khi bác mất rồi, mẹ mới nói cho tôi biết lời bác ấy dặn. “Dì ơi, các cháu nó ở được trong đó là phước lắm rồi. Đây là đất Bình Định mà, cán bộ nhiều hơn dân, về là khổ chết!”.

“Cán bộ nhiều hơn dân”, kinh hãi quá! Ngày xưa, bảo dân ta một cổ đôi ba tròng, giờ thì biết bao nhiêu tròng đây?!

Hai cha con bác bảy Đ. đúng là điên thật. Lộc thì tưới dầu đốt trụ sở thôn, còn bác thì treo cổ lên cây xoài! Ở cái đất mà cán bộ nhiều hơn dân này, có mấy ai điên được như thế?!

Nhiều năm sau này, những việc xảy ra y boong như lời Lộc nói. Lẽ ra anh ta nên đào một cái lỗ rồi hét tướng lên như anh nông dân trong chuyện ông vua lỗ tai bò. Biết đâu lại mọc lên một cây gì đó, khi có gió thổi thì kêu “ CS sụp đổ!”. Việc gì mà phải hét trong trụ sở thôn. Nghe tiếng hét của anh, người ta cứ tưởng một là anh điên, hai là anh bị nóng quá. Có biết đâu một nhà tiên tri đáng kính lại phải chết thảm như thế.

Còn bác bảy Đ. ôi chao, đi theo đảng cả đời sao phút chót lại treo cổ lên cành cây? Ngày trước bác mà treo cờ thì có công với cách mạng. Giờ đem treo chính mình lên thì bác có tội. Nghe đâu, chết rồi mà bác vẫn bị gạch tên ra khỏi đảng tịch. Thẻ đảng, huân chương gì cũng bị tịch thu ráo.

Không biết với những chuyện đáng xấu hổ ấy, đảng có buồn năm phút không, nhưng Đặng Hùng Anh đã nhanh chóng lên thay cái chức đảng ủy của bác. Có lẽ Đặng có công vì đã khám phá ra cái âm mưu tự diễn biến của hai phần tử phản động này và khôn khéo, mưu trí, dũng cảm đưa bọn họ đến chỗ tự sát. 

Hỡi ơi, việc lên xuống của một bí thư sao mà giống như chuyện phế truất dưới thời vua chúa quá. Nhưng cũng đúng thôi, Đặng Hùng Anh là vua của cái làng này, chứ còn ai vào đây! Vậy thì một thần dân là tôi cũng xin chúc ngài vạn tuế!

3.

Dọn sạch vườn xong, cất được cái chòi, giờ phải kiếm ít cây chuối, đu đủ về mà trồng. Tôi liền nhớ tới cái vườn chuối  của cô tôi ở thôn Đại Hữu. Thôn ấy nằm phía bên kia núi đất, gần với đường đi xuống chùa ông Núi, nơi được coi như đầu não của Việt cọng trong thời kỳ chống Mỹ. Dĩ nhiên là bị đánh phá ác liệt. Cô tôi còn phải chạy xuống Qui Nhơn sớm hơn là mẹ tôi lên chợ Gò Chàm. Nhưng cái giống chuối thì có chặt cụt ngọn, trốc cả gốc, chúng vẫn cứ mọc lên. Không chừng bây giờ đã thành rừng.

Quả nhiên là đúng như vậy. Cô tôi bảo muốn bứng bao nhiêu thì bứng, chỉ sợ cháu không vác nổi mà thôi.Tôi ở lại với cô một ngày. Ăn với cô một bữa cơm gạo hẩm, nghe cô khóc mà giải bày tâm sự.

“Cái thằng N. đó, oan gia nghiệp chướng của nhà cô. Nào có phải cô rửng mở hám trai gì đâu, mà bà nội con coi cô như cái đồ hư thúi mất nết. Cũng là cháu ngoại mà sinh nó ra, bà  không thèm hỏi thăm được một tiếng, trong khi anh chị nó thì bế thì bồng từ lúc mới lọt lòng đến khi biết đi biết chạy. Dượng con thì về tận đây chỉ mặt cô gọi là con đĩ, mắng nó là đồ con hoang sao dám lấy họ của nhà Bùi mà đặt. Cháu có biết không, ổng rút súng lục ra đòi bắn đó, khiến thằng nhỏ sợ quá đái ướt cả quần. 

“Ừ thì cô sinh nó ra, nó là cái dại, cái ngu hết cỡ của cô. Người ta nói khôn ba năm dại một giờ. Cô chỉ dại một giờ thôi mà hại cả một đời! (cô khóc, tôi cũng muốn khóc). 

“Dượng mày đi tập kết, bỏ lại mẹ già và vợ dại một nách hai con. Chạy giặc không một đồng lận lưng biết lấy gì mà sống, nếu không nấu cơm tháng cho một vài thầy giáo. 

“Cũng là cái số thôi, ông ta cũng đã có vợ con, chỉ một lần cả hai cùng dại, rồi thôi. Bà ấy cũng có đến gặp cô, không đánh ghen đánh tuông gì, chỉ muốn đem đứa nhỏ về nuôi nhưng cô không chịu. Bà ấy nói, chung một chồng khổ lắm chị ơi. Cô nói, thì tôi cũng biết thế, hứa với chị là không dại nữa. Người ta tử tế ôn tồn như vậy chứ có đâu như dượng mày, làm đến chức hiệu trưởng trường trung ương đảng mà ăn nói hồ đồ. Ra đó ổng cũng có vợ đôi vợ ba, cũng hủ hóa tùm lum chứ trong sạch gì hơn ai đâu (cô lại khóc).

“Khổ nhục nhất là ông đi hỏi của. Ổng nói khi đi còn mấy cây vàng, làm gì mà hết? Đúng là có hai cây, của ổng dấu bớt khi thu vàng của dân hiến trong tuần lễ vàng, chứ nhà ổng khi đi cưới cô chỉ có mỗi cây kiềng có mấy phân. 

“Ổng nói, bây nhiêu đó sao không biết làm giàu, mà lại đem cho trai ăn hết đi? Cái thời đó vàng rẻ rề, lương thầy giáo mỗi tháng hơn một cây, có đâu mấy triệu như bây giờ. Lúc còn ở dưới quê, tao tối thì phải đi ngủ tập trung vì vợ cán bộ, ngày phải nuôi bà nội thằng Th. Đau lên đau xuống, vào ra nhà thương mấy bận, hết thuốc tây lại đến thuốc bắc, thì còn đồng nào! 

“Thế mà ổng đay nghiến, người này người kia, cũng xuống Qui Nhơn, cũng chỉ hai bàn tay trắng mà giờ đây nhà lầu hai ba tầng, xe Honda hai ba chiếc! 

“Còn chuyện thằng Th. ổng cũng xía vô, bắt nó phải tống khứ đứa nhỏ mới ba tuổi, con lai Đại Hàn. Nó lấy vợ mấy năm không có con, người ta bảo phải xin con nuôi. Nhờ thế mới đẻ được con Phương đó. Ổng bảo mày mà nuôi con thằng Phác Chính Hy là tao giết mày. Nó đành đoạn phải đem đi cho. Mẹ nó khóc hết nước mắt, van xin mãi cũng không được. Cháu thấy có ác không. Hồi trước bà nội mày bảo theo ai không theo, lại theo CS bỏ ông bỏ bà, bỏ nhân bỏ nghĩa, là đúng quá!

“Đấy, bây giờ ổng ở Qui Nhơn, được nhà nước cho không một cái biệt thự của đại tá tỉnh trưởng cũ, còn muốn gì nữa. Mụ vợ trọ trẹ quần hỏng lên tới tận đầu gối mà cũng bày đặt làm hội trưởng hội phụ nữ. Thấy mà bắt ghét”. 

Cô hết khóc, hứ nghe một cái cốc, để chấm dứt bầu tâm sự.

Tôi vác mấy cây chuối con trở về, buồn không chịu được. Chiến tranh đâu chỉ giết người bằng bom đạn. Nó còn giết cả những người như cô tôi. Sống mà như chết đó. Giờ cô già rồi mà vẫn phải còng lưng gánh từng gánh khoai lên chợ. Cái lưng cô gãy cụp, lòi mấy cái đốt xương sống, cô khóc bảo đau nhức suốt đêm không chịu được.

Sau này cô có đỡ hơn, ấy là nhờ thằng N. Nó đi bộ đội, họ cha là họ Bùi, lý lịch quá tốt nên chỉ được mấy năm mà đã lên đại úy rồi thiếu tá, có tiền cất được cái nhà nhỏ và thuốc thang cho mẹ. 

Thấy thế, dượng tôi lại lồng lên đòi đi kiện vì nó man khai lý lịch! Trong khi con ruột của dượng phải cùng vợ đi bán ve chai vì vợ là dân bắc kỳ di cư và nó thì đã từng đi lính ngụy. 

Đúng là lộn tùng phèo, cái vụ lập lại hòa bình này, cả nước có hòa bình, nhưng trong từng gia đình thì chẳng có hòa bình hòa biếc gì ráo, vẫn đang bắn giết nhau đó thôi.

Lần hồi rồi tôi cũng trồng được mấy hàng chuối, vài cây đu đủ. Sẵn cây chặt chất đống, tôi làm thêm cái giàn trồng mướp trước nhà. Hoa mướp vàng, nở thật dễ thương. Thỉnh thoảng mẹ tôi ở chợ Bò về, đem cho ít gạo, mắm, cá khô. Tôi cũng thấy vui, ráng mà sống để giữ cái mảnh đất cuối cùng của dòng họ.

Một đêm sáng trăng, từ trên thềm nhà, tôi thấy có ai đó thấp thoáng bên những hàng chuối. Người ấy đi tới đi lui vài bận, vòng ra giếng, rồi đến trước mặt tôi, hỏi” có biết ta là ai không?” Tôi thưa không biết. Người ấy nói, “không biết thì thôi!” Người ấy nhìn tôi, vẻ như cười, lắc đầu nói “mà biết làm sao được. Chính ta cũng không biết mi là ai nếu mi không ngồi đây!”

Thật là lạ, một người không có vẻ gì là cán bộ, cũng không có vẻ là người trong làng, một người thong dong thanh thoát, sao lại hỏi nói những câu nửa như đố, nửa như giỡn chơi.

Lấy cái quyền chủ nhà, tôi hỏi, vậy ông là ai?

“Là ai, thì rồi sẽ biết. Mà không biết cũng chẳng sao!”

Thật là cù cưa hết biết. Tôi đành ngồi im nhìn ra ngoài đồng, nơi có ánh trăng hòa với sương tạo thành một màn trắng đục. Nếu ông đứng ở đó, dễ lầm tưởng ông là ma.

“Cái vườn này, ông nói, không nên trồng chuối. Đất ở đây, trồng chuối bà hương thì được, chứ trồng chuối mốc thì bị tiêm. Đang lên nửa chừng tươi tốt, vừa mới trỗ buồng, đã chảy nước vàng, gãy cụp”.

Tôi vẫn ngồi im, chớ biết nói gì!

“Tốt nhất là trồng bông vải, nếu không thì trồng bắp”, ông lại nói, tôi lại ngồi im.

Như bỗng nhớ ra điều gì, ông bỗng vỗ tay lên trán, nói tiếp. “Này, sao không kiếm ít đọt mía về trồng. Ở nhà quê, có mía cũng đỡ lắm. Khi nào khát, bẻ một cây ngồi ăn, khỏi phải đi nấu nước.”

Là ai vậy trời, sao mà biết rõ ngọn nguồn nhà tôi như vậy? Chả là trước kia ở lối ngõ vào nhà, có một hàng mía, bà tôi nói, cha mày mỗi khi làm vườn hay đi cuốc đất đều bẻ theo một cây mía, mệt thì xiếc ăn. Giờ, người này cũng nói trồng mía, khát thì ăn, là sao?

Ông lại đi tới cuối vườn, nơi có những hàng tre là của nhà bên, đang ngã rạp gần như choán cả một góc.

Khi trở vào, ông nói, “phải chặt mấy cây tre đó đi, dựng sào lên mà chặt. Cái nhà ấy là bẻm lắm (tiếng Bình Định). Cứ muốn lấn đất, lấn vườn nhà mình”

A, nhà mình. Thế là người của nhà tôi chứ ai. Không là người trong nhà thì sao biết tường tận như thế. Nhưng mà tôi không có chú bác, cha tôi thì chết rồi. Tôi cảm thấy rờn rợn, có một vẻ gì dễ hiểu, mà lại cũng rất khó hiểu.

Và rồi ông đi. Phải nói là tan ra trong ánh trăng, vì vừa ra tới ngõ đã không thấy bóng ông nữa!

Bỗng dưng có một buổi học tập đặc biệt. Gọi là bỗng dưng vì dân thì chẳng biết gì ráo, nhưng các quan đã biết từ khuya. Đó là dời hết mồ mả lên núi để có đất sản xuất. Gọi là học tập tức là để đả thông (làm cho thông) những tư tưởng cổ hũ của bọn phong kiến. Rằng chết là hết, mồ mả thờ cúng chỉ là tốn đất tốn tiền. Trong tương lai, cái gò đình này sẽ làm công viên, sẽ có xe quay, cầu tuột, sẽ đào một cái hồ làm ao cá bác Hồ, cất nhà sàn như nhà của bác, sẽ trồng cây vú sữa lấy giống từ cái cây mà dân miền nam trong thời đánh Mỹ đã kiên trì anh dũng đem ra tặng bác. Nhiều thứ lắm, gò trên sẽ xây kho thóc, chỗ khúc cua sẽ xây cổng làng, đường sẽ mở lớn cho ô tô bin bin chạy vào, vân vân và vân vân. Nghe mà muốn rách cái màng nhĩ.

Vậy là mả của cha tôi, ông tôi bà tôi, của ông cố bà cố, của ông sơ bà sơ, của chú bác chết non chết yểu…đều phải dời hết qua núi!

Trong buổi học nhiều ý kiến cần đả thông. Miệng dân lâu nay ai cũng ngậm câm chứ không dám hó hé điều gì. Nhưng nay động đến ông bà mồ mả là họ phải mở miệng ra, dù có phải vì thế mà đi cải tạo mút mùa lệ thỉ như các sĩ quan. Rằng, bảo chết là hết, không cần mồ mả gì sao có nghĩa trang liệt sĩ? (có người thì thầm: còn ai ướp xác xây lăng nữa kia?)

Rằng, mả trên đất tư chứ đâu phải đất công mà cũng bắt phải di dời?

Rằng, ai mà dời nổi cho hết trong khi nhà nào cũng có mấy chục cái mộ, nhưng lại có rất ít những người đủ sức làm cái việc đào mồ cuốc mả đó. Những nhà chồng cha chết hết, chỉ còn đàn bà con nít thì làm sao?

Trên (tức là Đặng Hùng Anh) đả thông rằng. 

Liệt sĩ là những người đã phải đổ xương máu để giành lại xóm làng này, vì thế phải qui tập về nghĩa trang để tỏ lòng biết ơn, uống nước phải nhớ nguồn.

Rằng, giờ không còn là đất tư đất riêng nữa, đất là của toàn dân, nhà nước quản lý, tùy theo kế hoạch của từng địa phương mà xử dụng. 

Rằng nhà nào neo người thì sẽ có thanh niên xung phong, có xã viên, có đội Cờ Đỏ lo.

Đả thông như thế thì chẳng thông được chút nào. Nhưng mà, nếu không muốn bị truy tróc, bị quy chụp là phản động, thì cũng đành phải nghe thôi. Cái tội bất hiếu đào mồ đào mả này là tại CS chứ không phải tại con cháu. Ông bà có linh thiêng thì hãy về vật hết tụi nó đi, cho nó tự dưng hộc mồm hộc máu ra mà chết. 

Khắp xóm khắp làng, người ta xì xào như vậy.

Nhưng đem những nắm xương tàn qua nghĩa trang mới, lại càng buồn hơn. Chỗ nào bằng phẳng, ngon lành, thì đều ưu tiên cho thân nhân các vị cấp ủy, các chức sắc trong HTX, các gia đình liệt sĩ, có công cách mạng. Có nghĩa rằng phần tốt nhất của chân núi thì dành riêng cho ông bà tổ tiên của những người chiến thắng. Những chỗ dốc ngược, đầy đá sỏi, gai góc thì mời các vị tổ tiên ông bà của lũ dân đen hãy lên đó cho gần với tiên cảnh.

Hóa ra, cái gì cũng đã được phân chia rạch ròi. Chỉ khác một điều, người còn sống có chức có quyền thì ăn trên ngồi trước, mà chết rồi thì lại được nằm dưới cho tiện việc xây lăng xây mộ.

Thế nên, chỉ một vài năm sau, những nắm xương nắm đất tội nghiệp nằm trên cao chót vót kia, hoặc là trôi theo những cơn mưa, hoặc chìm khuất trong bụi cây không tài nào tìm ra được. Ngày tết, thân nhân có đến thăm cũng chỉ biết đứng dưới ngó lên, đốt ba cây nhang vái vái, rồi đành lủi thủi mà về với nỗi ray rứt khôn nguôi vì cái tội bất hiếu.

Trong khi đó, ở chân núi, cứ như một thành phố mới mọc lên với những lăng những mộ xanh đỏ hoành tráng lòe loẹt. Mộ của nhà bí thư này, lăng của nhà chủ tịch nọ, gạch men đá ốp láng coong. Trên bia lại có gắn ngôi sao màu vàng như cấp tướng!

Mấy tháng sau, khi mọi sự đã xong xuôi, nghĩa là mộ đã được dời đi hết, các gò đống chỉ còn lại những cái hố đào nham nhở. Một cơn mưa rào trút xuống khiến xương thịt ngấm trong lòng đất bốc lên, biến thành những con ma trơi, bay lập lòe như những con đom đóm. 

Từ trong lều nhìn ra, giật mình tưởng đây là cõi âm.

Mặc kệ những nỗi xót xa, cho là căm hận cũng được đi, của hơn một nửa dân làng, lãnh đạo vẫn tiến hành đào ao cá bác Hồ. Phải đào một cái ao thật to thật đẹp để xứng với cái làng được phong tặng anh hùng. 

Việc này thì một mình ông bí thư, ông trưởng ban, các vị trong HTX không làm được. Phải huy động sức dân thôi, nghĩa là cả lính ngụy, cả đàn ông đàn bà, (trừ bụng bầu đã lớn), cả ông già trẻ con nếu có đơn tình nguyện.

Ròng rã suốt tháng trời, nào mai nào cuốc, nào thúng, nào xe cút kít, kể cả tay không, người ta cũng hì hục đào  được cái ao vuông mỗi bề 50 thước, sâu 2 thước. Trong cuộc đào ao vẻ vang đó, người ta cũng nhặt được mấy cái đầu lâu và một mớ xương đã vàng xỉn. Nhưng có biết xương cốt của nhà ai đâu, nên vứt đại đâu đó, thế cũng xong.

Ngày khánh thành, đúng ngày sinh của Bác, cờ xí bốn bên gió thổi bay phần phật, nhiều nhứt là cờ lá chuối năm màu bắt chước của Liên xô.

Một thùng cá giống mang vào từ ao cá Bác ở Hà Nội. Nghe đâu phải mời cả bác sĩ để đưa 100 con cá cưng vào tới nơi an toàn mạnh khỏe. 

Hồi đó chưa cấm pháo nên sau khi ông bí thư Đặng Hùng Anh trịnh trọng thả cá, pháo nổ đì đùng thật vui tai. Các quan chức của làng chụm đầu lại nhìn lũ cá bơi lượn, ai cũng nói: sao mà thấy đáng yêu quá. 

Ông chủ tịch hội phụ lão, trong diễn văn chào mừng, bảo rằng, càng yêu cá bao nhiêu càng nhớ công ơn trời biển của Bác bấy nhiêu! 

Một ban văn nghệ đồng ca bài” cảm ơn Bác đã cho cơm, giờ cho cá”. Dứt bài được hoan hô nhiệt liệt.

Nhưng không biết có phải vì các bác sĩ kém tài, hay vì vui liên hoan, hay tại hồn những người chết từ khi lập làng không chịu đi, vẫn ấm ức nằm trong lòng hồ, nên hai hôm sau, cá chết nổi trắng mặt ao. 

Vớt lên đếm, thấy mất quá nửa. 

Nhưng vẫn phải thả cám, thả bèo, thả cỏ và cái đội trừ gian diệt ác được lệnh canh phòng nghiêm nhặt, cảnh giác và đập tan mọi âm mưu phá hoại thù địch.

Cuối năm đó lụt tràn vào. Cá trong hồ tung tăng bơi đi, cá ngoài sông nhởn nhơ bơi vào. Mùa khô, tát cạn, được một thúng những tràu, những trê, những rô. Chỉ bắt được hai con cá chắm nặng hơn một ký. 

Có lẽ vì cái sự đào ao ngu xuẩn đó mà bí thư Đặng mất chức, lấy cớ bố trí công tác khác.

Cái ao đem ra đấu giá, chẳng ai thèm đấu. Giờ thành ra cái nơi mà dân ở làng quen thói ỉa dất, thoải mái ngồi chổng khu, cả đêm lẫn ngày. Các chú du kích đã đến tuổi lấy vợ sinh con, cũng chẳng còn đứa nào thắc mắc hạnh họe nữa. Một vài anh, đôi lúc cầm cần câu thả vu vơ xuống hồ, mong kiếm vài con rô để thêm một món ăn cho bữa cơm chiều.

4.

Cái anh bí thư mới lên thay có vẻ dễ chịu hơn. Anh bị bắt lên núi chứ không phải tự nguyện. Dù gì thì cũng đã nhiều năm, trước khi cọng sản thành lập MTGP miền nam, anh cũng đã được ăn cơm quốc gia, nghĩa là được đi học, được lấy vợ để biết mùi đàn bà, nên dù có phải thờ ma CS thì cũng thờ vậy vậy thôi, chứ không mù quáng đội trên đầu một cách cuồng dại như bí thư Đặng Hùng Anh.

Anh ký cho tôi cái phép về thăm vợ con, dễ ợt. Đó là cái ơn cách mạng đầu tiên mà tôi được hưởng. Cầm cái phép trên tay, tôi cũng mê ly, sướng rơn như sắp bước vào đêm động phòng!

Tôi về không báo trước, nên vợ con rất bất ngờ. Có lẽ thấy tôi vừa già, vừa đen, vừa xấu vì đến từ cái nơi tự xưng là đánh Mỹ giỏi nhất nước, nên nàng nửa tin nửa ngờ hỏi: “anh đấy sao?”. Tôi cười như mếu: thì anh chớ còn ai nữa! Hai đứa con một trai, một gái, nép sau lưng mẹ chứ không chạy đến reo mừng. Cũng may, vợ tôi không phải như vợ chàng Trương, nên các con đã không kêu lên: không, không, bố tôi đêm tối mới về!.

Ôi chao gặp nhau trong hòa bình mà sao cứ như gặp nhau bên song sắt nhà tù vậy. 

Buổi sáng hôm sau theo vợ lên chợ, thấy cơ ngơi hàng họ của nàng mà muốn khóc. Trên một cái sạp gỗ nhỏ xíu đặt nhờ trước hàng hiên một người quen, bày ra vài lon hạt mướp, hạt bầu, cải, ngò. Có được một lon cải bẹ xanh bé xíu của Thái thì đổ ra đếm từng hạt, mỗi gói 10 hạt, bán 10 hào. Một bình dầu lửa 5 lít, đong bằng cái lít nhựa nhỏ hơn thì lời được một xị. Vài cây chổi đót, một bó roi mây (để đánh trâu bò). Vậy thôi! Hỏi làm sao sống được? Nàng cười (như mếu) “cũng được chứ anh. Bây giờ ai cũng trồng trọt nên cần hột. Đây là hàng của mẹ anh bày, không nhớ sao”. 

Hóa ra là vậy, bên hông chợ Gò Chàm mẹ tôi cũng bán vậy để nuôi tôi giữ đất của từ đường. Tôi vô tâm quá. “Thực ra, nàng nói thêm, sống được là nhờ bán phân và thuốc trừ sâu. Em dấu trong kia, ai hỏi mới lấy ra”. 

Thật thế ư, một cô gái cưng, được tiếng là xinh đẹp và ngoan hiền của ông bà nhạc tôi, mà giờ cũng phải “làm gian thương” mới sống được! Cũng may là chưa bị “cải tạo” công thương nghiệp!

Chơi vài ngày, thấy nơi đây có vẻ dễ thở vì cán bộ ít hơn dân. Ở Bình Định, chỉ có người già như mẹ tôi mới được bán buôn chút đỉnh, chứ như vợ tôi, nếu không còng lưng làm HTX thì cũng phải đi đào mương, đắp đập. Rồi cũng đen thui, già khú. Tôi có ở xa về, cũng lại phải hỏi, em đó sao?!

Trở về, tàu trễ nên đến nửa đêm mới tới làng. Đường vắng, đi một mình, nghĩ lan man. Cảm thấy thương vợ con và buồn cho thế hệ của mình. Sống mãi như thế này sao hỡ trời? Các con tôi rồi sẽ ra sao? Sẽ suốt ngày đêm “mơ em gặp Bác Hồ”, đi nhặt giấy rác để làm kế hoạch nhỏ, rồi lớn lên thì đi thanh niên xung phong, vào đội trừ gian diệt ác…Tương lai đó sao?!

Mệt mỏi bước vào nhà, tôi bất ngờ thấy có một bà già đang ngồi đợi. Tôi chưa kịp lên tiếng thì bà ấy nói: “đừng sợ, ta là bà cao của cháu đây!” Tôi dụi mắt mấy cái liền để biết là mình không nằm mơ.

“Cháu đi đâu về đó?”, bà hỏi.

“Thưa cháu về NH thăm vợ con”

“Được mấy cháu?”

“Dạ thưa hai cháu”

“Có trai không?”

“Dạ có”

“Thế thì tốt, cái nhà này độc đinh mãi, sợ đến đời cháu là tiêu luôn”. 

Vậy thì đây là bà nội của ông nội tôi, dễ chừng đến một trăm mấy chục tuổi. Tóc bà cũng không trắng lắm, da cũng không quá nhăn nheo. Có lẽ khi xuôi tay nhắm mắt bà cũng chưa già đến nỗi lụ khụ. 

Tôi nhớ mộ bà hình chữ nhật nằm trên một gò cao, được ông bác, anh thúc bá của ông nội tôi quý lắm. Bảo, nhờ cái mả đó mà ông được làm quan, rồi con trai làm luật sư nổi tiếng, ra ứng cử tổng thống, bị Nguyễn Cao Kỳ hăm he nếu đắc cử sẽ bắt nhốt vào chuồng cọp. Giờ cái mả đó bị một cái kho thóc to đùng nằm đè lên!

Thấy tôi cứ mãi đứng như trời trồng, bà nói tiếp.

“Ngồi xuống đi cháu. Ta không buồn vì cái mồ tức là nhà của ta bị đè dưới một cái kho thóc. Chết rồi thì ở đâu mà chẳng được. Như gió như sương, như cỏ như cây, chỗ nào cũng có thể là ta. Nhưng ta buồn vì cái thời gì mà nhiễu nhương quá. Chết rồi mà cũng chẳng được yên thân”

Nước mắt tôi trào ra. Phải nghe một con ma già than buồn thì thực cái nỗi buồn của tôi chẳng thấm vào đâu.

Bà ơi, tôi nói, cháu bất hiếu quá, chẳng thể làm gì được để giữ gìn mồ mả của ông bà. Nếu có phải vì vậy mà bà về bắt cháu đi thì cháu cũng đành chịu. Chỉ xin cho vợ con cháu được sống thêm ít lâu cho hết kiếp người.

“Bậy nào, bà nói, ông bà nào lại bắt con bắt cháu. Chuyện chết sống là tự trời. Đó là ngày xưa, chứ bây giờ, ta thấy được sống hay chết là tự người, những con người đang coi dân như cỏ rác đó, muốn lấy của ai thì cứ lấy, mốn nhốt ai thì cứ nhốt, muốn bắn ai thì cứ bắn, muốn chặt đầu ai thì cứ chặt, chẳng kỷ cương phép nước gì hết”.

Đúng là bà cố của một ông luật sư, ăn nói rành rẽ đến không ngờ. Đương nhiên là tôi không còn sợ bà. Chẳng những không sợ mà tôi còn thấy thân thiết gần gụi. Chưa có ai, những bạn bè thân quen, dám tâm sự với tôi như thế.

Tôi không biết một con ma ăn gì uống gì, nhưng tôi cũng nói: Để cháu đi đun nước, pha trà, bà uống chén nước cho ấm bụng nghe bà.

“Nghe mùi trà cũng thích, bà nói, nhưng mà thôi. Ai cũng tưởng người chết thèm ăn thèm uống nên cúng giỗ linh đình. Chẳng dễ gì mà về được đâu, như ta đây, gần một trăm năm, trôi dạt trong gió trong sương, may lắm mới tụ lại được một lần”

Bà đứng dậy, nói” thôi, hãy gắng chăm sóc các cháu nhỏ, ta sắp tan rồi đây”. 

Thế rồi, cũng như cha tôi đêm nào, chưa ra tới ngõ bà đã tan vào bóng đêm.

Thì cứ cho là tôi đang nằm mơ cũng được. Chuyện thấy cha tôi và bà tôi về thăm cái nền nhà cũ, rõ ràng như sờ được, chạm vào được, lại hỏi nói chuyện này chuyện nọ như người đang sống, nói ra chắc chẳng ai tin, kể cả vợ con. Tôi cũng nghĩ rằng, tôi thấy được thì chắc nhiều người trong làng cũng thấy được (trừ những cán bộ, đảng viên). Và tôi cũng linh cảm rằng, trong cái làng này, ma nhiều hơn người.

Có một thời gọi là dậy ma dương, bà tôi nói, ma và người lẫn lộn. Ma giả chồng chui vào buồng với vợ, ân ái xong, mới biết người chồng thật đang nằm ngủ khò khò ở bên ngoài. Chợ Gò Chàm tháng chạp nhóm đêm, người bán phải để một thau nước bên cạnh. Tiền kẽm thiệt của người sống thì chìm, tiền của ma thì nổi.

Nhưng những con ma ruột thịt như cha mẹ ông bà, hay thân thiết như bạn bè thì không thể nào làm một cuộc “dậy ma dương” quỷ quái kia được. Chẳng những nó không làm cho mọi nhà lộn tùng phèo, mà còn đem đến một cái gì đó dịu êm như một chút yên bình của một thời xa xưa. Đó là chưa kể nó đem đến một niềm tin giữa lúc mình đang tuyệt vọng. Tuy nhiên nó cũng để lại nhiều nỗi buồn.

Giờ đây, xuống gò đình hay lên gò trên, thấy những hố đào nham nhở và nhất là thấy cái ao cá Bác Hồ, tôi lại buồn thấm thía. Cái ngày mà làng bị ném bom, bị đốt, bà tôi bị thương, ông tôi bị bắn chết cũng không tan tành xơ xác như cái cuộc di dời mồ mả vừa rồi.

Nói như bà nội của ông nội tôi, thì mỗi hạt bụi, mỗi cọng cỏ, ngay cả mỗi hạt sương trên những nấm mồ cũ cũng đã từng thấm đẫm xương thịt của tổ tiên. Thế mà giờ đây, chỗ thì đào ao, chỗ thì làm sân phơi, kho thóc, chỗ để cho heo nái ũi, người ỉa thì bảo sao mà không buồn. Cái sự xới tung lên đó chính là một cuộc oanh tạc còn hơn B.52 của Mỹ rải thảm.

Một đêm có một người bạn cũ đến thăm. Anh ta là người thiệt chớ không phải ma. Anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Khi tôi đi học xa, anh ở nhà cưới vợ. Vợ anh là một người đàn bà đẹp nhưng rất buồn. Mỗi khi đi qua trước ngõ nhà tôi, chị cúi gầm mặt xuống. 

Chị buồn và có vẻ xấu hổ vì cứ phải kình cãi với cô em chồng tuổi dần, dữ như cọp. Chẳng những dữ mà còn ác. Chị kho cá thì lén bỏ thêm muối cho thật mặn đến nỗi ăn không được. Chị nấu cơm thì lén rút rơm ra để cơm sống hay chất thêm vào cho cháy khê cháy khét. Quần phơi thì lén xé ở những chỗ mà khi mặc vào đàn bà ai cũng mắc cỡ đỏ mặt. Tệ hơn nữa, có lần bắt đỉa mén bỏ trong rau sống. Trời tối bà mẹ chồng nhai mãi không đứt, nhả ra thấy máu kinh hoàng mới biết là đỉa. 

Cái vụ đó bà mẹ chồng chửi đến tối tăm mặt mũi. Hết chửi lại lôi vào buồng, bắt anh phải đánh. Hẹn không đánh thì từ. Anh phải đánh vào chính mình nghe trót trót bà mới chịu bỏ đi. Nhưng sau thấy chân tay mình mẩy anh lằn ngang lằn dọc, bà nổi giận bắt anh phải để, nghĩa là ly dị mà không cần ra tòa.

Chị có một đứa con gái rất dễ thương. Cháu cũng buồn và xấu hổ như mẹ. Nó không nói bà nội và cô ác. Nó chỉ nói ba cháu không phải đàn ông. Đó là khi gặp cháu đã lớn, có chồng rồi. Nhớ câu nói đó, mỗi lần gặp anh, tôi vẫn thấy anh thiếu thiếu một cái gì. Đó phải chăng là lòng dũng cảm, không cứ gì với kẻ thù mà còn với người thân.

Chỉ biết sau đó anh cưới vợ khác. Rồi cũng lại bị cô em chồng chơi ác đến phải để, bỏ.

Gặp nhau lần này, sau bao nhiêu năm xa cách, hỏi anh có mấy vợ rồi, anh bảo 5! Có nghĩa rằng 5 người đàn bà phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu. Năm tấn bi kịch mà vai chính là anh, chứ không phải mẹ, vợ, hay em gái. Vì sự thiếu dũng cảm của anh mà biết bao người phải chịu khổ nhục.

Anh rất thích đọc sách, thường đến nhà tôi chơi là cũng để chỉ mượn sách. Bà tôi ghét cái tính có thể gọi là hèn nhát đó, nên không vui mỗi khi thấy anh tới. Anh biết vậy và rón rén thò thụt, khiến bà tôi càng ghét thêm. 

Nhưng anh là một người quý sách và chân thật. Chưa bao giờ anh trả chậm chứ chưa nói tới cố tình quên không trả. Sách chưa bao bìa, hay sổ chỉ anh đều bọc và đóng lại. Anh đóng sách rất khéo. 

Cũng chỉ vì cái tính mê sách và quý sách đó mà giờ đây anh làm nghề bán sách trong các buổi chợ phiên. 

Cơ sự là như thế này, cái hồi chiến dịch bài trừ văn hóa phản động, bao nhiêu là sách bị đem ra đốt. Góc phố nào cũng có những đống lửa phần thư. Nhưng chỉ đốt vậy để báo cáo chứ đốt sao cho được hết sách trong dân miền nam này. Ai dấu được thì dấu, rồi đem ra lề đường bán. 

Lạ thay, khách hàng là những người mặc áo quần bộ đội,  nón cối. Dù rất rẻ, nhưng không ai tin họ bỏ tiền ra mua để đem đi đốt vì căm thù. Họ mua vì thèm đọc những thứ mà miền bắc không có. Những cuốn tự điển, những sách tham khảo, nghiên cứu và nhất là tiểu thuyết. 

“Cũng như họ săn lùng máy hát và đĩa hát, anh bảo, bán được lắm. Nếu cọng hết những người như anh, số sách bán ra mỗi tháng cũng đến cả goong xe lửa. Cũng như khung xe đạp, săm lốp và xe Honda. Tất cả đều ùn ùn chở ra Bắc, chớ đi đâu. Đó là cái sức mạnh văn hóa. Văn hóa cũng như nước, chỗ nào trũng thì nó chảy tới”.

Lạ lùng chưa, một người mà con gái bảo ba cháu không phải là đàn ông, lại có thể nói những câu dũng cảm như thế. 

“Định ở luôn đây hay về trỏng?, anh hỏi.

“Chắc phải về, nhưng cũng còn lâu”

“Em có nghĩ gì về…”

“Nghĩ gì được. Người khác dành quyền nghĩ của mình hết rồi. Giờ như hòn đá đẽo lâu quá cũng phải tròn, lăn đâu thì lăn”

Đột nhiên, nghĩ rằng anh có thể tin, tôi nói:

“Em vừa mới gặp cha và bà cao của em”

“Em nằm mơ?”

“Không, nhưng mà giờ đây, em thấy cái làng mình như đang chìm xuống cõi âm”.

Anh cười: “thì chết từ 75, không thành cõi âm thì thành gì nữa”. 

Đêm ấy, chúng tôi uống một vài ly rượu mía, rồi anh về. Nhức đầu quá, đi ngủ. Sáng ra hay tin anh đã chết. Mà lại chết từ chiều hôm qua!

5.

Một người bạn từ thời học Cường Đễ Quy Nhơn, lại một đêm trăng không tỏ cũng ghé thăm. Lần này, tôi quá biết anh ta là ma! Anh giữ một kho đạn ở Quảng Ngãi, mà kho đạn nổ tung thì anh còn sống thế nào được. 

Anh người Bắc, bị nhạo là thòng lòng sau đít một cọng rau muống.(cũng như tôi bị gọi là dân củ mì khi vào học Nha Trang). Cái chuyện bị nhạo ấy, cho dù là học trò cũng dễ làm cho người ta nổi khùng. 

Anh đã từng nổi khùng như thế, khi ném thẳng vào mặt tôi một hũ mực tím. Thật khổ thân, cái bộ đồ bà ba màu mỡ gà, (được mẹ cưng và bảnh lắm đó, vì cả lớp gần như mặc toàn bà ba đen) đã thay tôi lãnh trọn.

Nếu bảo một trái bom tàn phá như thế nào, thì cái hũ mực tím kia cũng tàn phá tôi như thế đó. Người tôi đầy mực, cũng may là màu tím chứ phải như màu đỏ, thì lúc ấy cô giáo đang bước vào lớp chắc ngất xỉu vì tưởng tôi bị giết. 

Chuyện đó khiến anh ân hận. Tôi cũng ái ngại ít nhiều. Nhưng để chúng tôi gần nhau hơn có lẽ là nhờ thầy giáo dạy lý hóa. Một hôm thầy mỉa mai chúng tôi;“Trước đây ít tháng, tôi thấy các anh mặc bà ba xấu xí nhưng lại học rất chăm và giỏi. Giờ ai cũng quần tây xanh, áo sơ mi trắng, đẹp đẽ quá mà lại lười học. Tôi ước gì lại được trông thấy các anh mặc bà ba đi học như trước!”.

Gì chớ, đồ bà ba thì thiếu gì. Và một cuộc đấu tranh bất bạo động đã diễn ra. Cứ đến giờ lý hóa là cả lớp đều mặc đồ đen. Hết tuần này đến tuần khác, khiến thầy chột dạ, phải nhở đến cô giáo dạy văn. Cô nói, “thôi các anh làm thế cũng đã đủ rồi”. 

Cô xinh đẹp, ăn nói ngọt ngào thì ai lại không nghe.

Một năm sau, chúng tôi đậu trung học. Anh đến tuổi quân dịch, phải đi. Khi về thì việc học đã dở dang nên anh thi vào Thủ Đức. Thực ra, anh không phải là một người ưa cuộc đời quân ngũ. Anh vẫn thích đời dạy học như tôi. Nhưng có lẽ, động cơ sâu xa chính là cái chết bi thảm của ông nội anh. 

Từ nhỏ anh vẫn nằm ngủ chung một giường với ông cụ. Trời rét, hai ông cháu đắp chung một tấm chăn. Bao giờ anh cũng kéo gần hết về mình. Ông biết, nhưng vẫn ráng chịu rét để anh ngủ ngon. Thế mà một hôm đi học về hỏi ông đâu, có người lén nói bị dẫn ra ngoài bãi. Anh chạy ra, vừa đúng lúc thấy ông cụ bị giết chết. Máu nhuộm đỏ cả chiếc áo dài trắng.

Sau cuộc đấu tố kinh hoàng đó, cả nhà tìm cách xuống Hải Phòng, rồi lên tàu di cư vào Nam.

Chiếc áo trắng nhuộm toàn máu đó, đã trở thành một lời nguyền ám vào cuộc đời ngắn ngủi của anh. Kho đạn nổ, anh biến mất trong màu máu và màu lửa dỏ rực. Không còn lại một chút gì!

Giờ gặp lại anh sau hơn 20 năm, dù anh đã là ma, cái chết của anh vẫn khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi nói, “sao anh biết đây là nhà tôi?”. 

“Đã một lần tôi đạp xe từ Quy Nhơn  lên đây, thì cậu đang ở Nha Trang. Bà nội của cậu nói chuyện rất thích”. 

“Đậu á khoa Thủ Đức sao không ở Sài Gòn, ra chi cái xứ Quảng Ngãi, đến nỗi phải chết thảm như thế!” 

“Chết, thì ở đâu chẳng chết, anh nói, chỉ tiếc là hơi sớm. Mình chưa biết gì nhiều về cuộc đời. Sống nhiều hơn tôi ngần ấy năm, cậu thấy đời thế nào?”

“Nói theo kiểu lạc quan thì nếu được cho sống thêm một phút vẫn xin được yêu người. Còn ngược lại, thì dù chỉ thêm một giây nữa thôi, cũng đếch có thèm nán lại”

“Như vậy là sao?”

“Là tùy từng người. Không thể bắt anh yêu trong khi anh ghét và ngược lại. Này, anh đã làm khổ một người con gái nào chưa?”

“Người ta làm khổ tôi thì có. Thực ra là bực mình. Có một cô lẳng nhẳng theo tôi, chán muốn chết được.”

“Theo không phải là yêu à?”

“Không.”

“Thế anh đã yêu ai chưa?”

“Yêu thì không, nhưng thích thì có. Cô ấy nhỏ hơn tôi 5 tuổi, hồi ấy mới học đệ ngũ, nhưng nhìn rất thích. Ngày tôi đi quân dịch, định gặp cô nhưng ngần ngừ lại thôi. Sau này, cô ấy vào Sài Gòn. Ở Thủ Đức mấy lần xin được cái phép ra tìm. Nhưng Sài Gòn mênh mông, biết tìm cô ấy ở đâu!”

“Chỉ có thế thôi à?”

‘Ừ, chỉ có thế”

”Còn đàn bà?”

“Chuyện này thì tôi ngại lắm. Sợ bệnh. Với lại cũng muốn để lại cái trinh trắng nhất cho người sẽ là vợ mình. Nhưng mà mình thì đợi nhưng cái số nó không đợi. Này, cho tôi hỏi cậu chuyện này nhé.”

“Chuyện gì?”

“Chuyện mái tóc của cô giáo dạy văn đó. Học trò mà đèo bòng yêu cô giáo!”

“Bậy nào. Mình chỉ yêu có mái tóc của cô thôi. Cậu cũng biết đấy, tóc cô dài và đẹp lắm. Thế mà cô lại đi phi dê quăn tít như râu bắp. Trông chán mớ đời. Ở Quy Nhơn hồi ấy chỉ có một tiệm uốn tóc nằm ở cuối đường Gia Long. Mình lấy cớ  bà chị bảo cho xin lại. Bà chủ gói cẩn thận, đưa mình. Phải nói là mình sướng run. Đêm lén mở ra xem rồi áp lên má. Có lần gục mặt ngủ quên trên đó luôn, may mà không có ai trông thấy”

“Lãng mạn quá, rồi sau ra sao?”

“Mình ra Huế học Hán văn. Cũng là mong được gặp cô để trả lại mái tóc. Trong khi chờ dịp, mình vẫn lên chùa Thiên Mụ nhặt hoa ngọc lan về ướp. Mái tóc xa chủ vì thế mà đêm đêm vẫn tỏa hương nồng nàn. Sau đó nghe cô lấy chồng, mà lại lấy thầy dạy lý hóa từng mắng tụi mình đó. Buồn quá, mình đem thả từng sợi xuống sông Hương. Có cảm giác mình cũng thả một phần hồn của mình xuống!”

“Chao ơi! cậu sống lâu hơn tôi là phải lắm. Yêu như thế mà chết sớm thì có tội với rất nhiều người đẹp”

“Chuyện trẻ con vớ vẩn thôi mà. Nhưng nhớ lại mình vẫn thấy thích”.

“Sao cậu lại thả xuống sông. Như mình, thì mình sẽ giữ đến bạc đầu. Thế này nhé, một người học trò đầu bạc kính tặng cô giáo bạc đầu một mái tóc đen. Như thế là tặng lại cho cô ấy thời gian đã mất, đẹp quá phải không?

“Thế thì cậu còn lãng mạn hơn tôi nhiều. Một con ma như cậu, thực thông minh và đáng yêu.”

Chúng tôi chuyện vãn, nằm gối đầu lên nhau kể cũng là chuyện lạ trong đời. Cái gì khiến cho anh ấy tụ lại được như bà tôi nói? Phải chăng đó là tình bạn. Mà tình bạn, dù có bền vững đến đâu cũng có lúc phải tan đi.

Chưa tới sáng, đã không còn thấy anh nữa.

Ít lâu sau cũng có một người gọi là bạn, đi tập kết về, tới thăm. Anh ta họ Lê tên Sáu, khi học tiếng Pháp, đề là Les Six, thật oai. 

Lúc nhỏ trong ban kịch thiếu nhi, anh thường hát bài ruột: tôi ra thăm đồng/ 

đêm tối không trăng không sao/

trên cây cao cao, cao/ 

gió đưa viu vu, vu! 

Trời ơi, đêm tối buồn tênh! 

Ô ô ô kìa/ 

tôi thấy con ma le/ 

ma đang nhăn răng, răng/ 

ma đang ăn tôi, tôi/ 

trời ơi tôi chết vì ma! 

Tôi thì chụp một cái mo cau giả làm ma múa may bên cạnh. 

Vở diễn lúc nào cũng được hoan hô tưng bừng. Chúng tôi đã có những ngày vui như thế.

Trước lúc tập kết, học sinh cuối cấp 2 được dự trại ở Bồng Sơn. Lần đầu tiên chúng tôi biết đường nhựa và đường sắt. Ngồi trên xe goòng chỉ có người đẩy chạy chứ không có đầu máy. Vậy mà đứa nào cũng thích, lúc qua hầm tung nón mũ hét như điên.

Trại có đến mấy trăm trại sinh, uống nước dừa nhảy xôn đố mì mệt nghỉ. Sau đó, lọc lừa chọn ra một số đi tập kết. 

Đứa được chọn vì lý lịch tốt, ra Bắc được gặp Bác Hồ, coi như lên thiên đường, nên vui ra mặt. 

Đứa ở lại, coi như xuống địa ngục, buồn, lo, và sợ vì phải sống trong vùng Pháp chiếm, có thể bị đóng đinh vào đầu! Vậy mà đứa nào cũng tin. Kinh khủng là cái sự tuyên truyền của CS!

“Cậu lên thiên đường thấy thế nào?”

“Đói bỏ mẹ! Cũng may là tớ được qua học bên Nga. Tiêu chuẩn hữu nghị, no hơn nhưng lạnh lắm.”

“Vào đảng chưa?”

“Chưa”

“Sao vậy?”

“Một phần vì lý lịch không rõ ràng. Nhà tớ là trung nông chứ không phải bần nông. Vả lại thử thách ghê quá, nằm ở cầu Long Biên để bắn máy bay. Nằm cho oai chớ bắn được chó gì. Chỉ lo nó bắn mà tan xác.”

“Vợ con gì chưa?”

“Đếch có”

“Sao vậy?”

“Đẹp thì không tới phiên mình. Chỉ “xây dựng” toàn những mụ “cốt cán” môi thâm, răng vẩu, nên chán!”

“Giờ về làng, định làm quan đấy à?”

“Không, ghé thăm anh mình ít bữa rồi đi Campuchia. Mình là kỹ sư hóa học. Không biết làm cái gì bên đó.”

Hết Lộc điên đến cái anh chàng tưng tửng này. Qua Liên xô về mà thở ra toàn mùi phản động. 

Sau cuộc gặp này, tôi nhận ra một điều. Những người mà sau này làm ông nọ bà kia, dù là cùng làng, cùng bạn học với nhau, không bao giờ họ ghé thăm tôi. Không phải vì tôi nghèo mà vị sợ cái mùi Mỹ ngụy.

Cái mùi đó, những người thua trận miền nam bảo thơm, vì đó là mùi tự do. Còn những người thắng trận miền bắc thì bảo thối, vì đó là mùi nô lệ.

Tôi bước đi giữa đường làng, không thấy mả thấy mồ, chỉ thấy mưa sa trên những sọ người lăn lóc. (nhại Trần Dần).

Tôi sống giữa làng cũ mà không phải làng, giữa quê hương mà không phải quê hương, được làm chủ mà thấy đầy tớ thì sợ run.

Chưa bao giờ tôi thấy thấm thía câu thơ của Trần Dần như lúc này. 

Ở đây khát gió thèm mây!

Cũng vì vậy mà rục rịch trong làng đã có người lần mò xuống biển để vượt biên. Kết quả là bị lừa gạt mất hết vàng một đời ky cóp, bị bắt, bị tù. Nếu may mà ra được tới biển, thì sóng cuồng gió dữ và hải tặc. Chưa lúc nào cái giá của một chút gió, một chút mây lại cao đến như vậy. Đổi cả mạng người cũng chưa chắc có được.

Không như những cán bộ, đảng viên lúc nào cũng lạc quan phơi phới vì mọi việc đã có đảng lo. Lo từ cái tã cho con nít đến cái hòm của người già. Lo đường gạo mắm muối, thịt nạt thịt mỡ, cá đồng cá biển, bột mì Canada không mọt, lo an dưỡng, lo đi tham quan chiến trường xưa, lo phân phối nhà, xe…lo đủ cả chỉ thiếu một điều là không lo cho ai ngoài đảng. 

Cho nên mừng đảng trước rồi mới mừng xuân sau là đúng. Không phải đảng sinh ra trước mùa xuân như có người bắt bẻ. Đảng sinh sau, nhưng đảng được đặt ngồi xổm lên đầu lên cổ cái nàng xuân phảng phất mùi gái bán bar kia, vì đảng là kẻ chiến thắng, là hậu sinh khả úy.

Vậy, yêu đảng và được đảng yêu như C, như T, như K, không  sướng sao?

Lại bày đặt xì ra cái mùi phản động, bất mãn như Lộc và Sáu, nên đứa thì chết đứa bị đưa đi đày. Ai cũng bảo là ngu, trừ tôi.

Cũng có một người bạn một thời với cha tôi, gặp mẹ tôi ở chợ Bò, hỏi thăm chút đỉnh, chớ chưa về làng. Lúc cha tôi nghỉ học sớm để cưới vợ, thì ông ấy xuống Qui Nhơn học tiếp, lấy được cái bằng Thành chung, thời ấy là oai lắm. Trong làng ông chỉ thua có mỗi Trương Đình D. Trong chín năm ông làm gì đó khá to trên tỉnh. Cha lại là dân biểu quốc hội. Vì vậy, tuy là địa chủ nhưng là địa chủ tiến bộ.

Dĩ nhiên cả nhà ông được đi tập kết, ông cụ nghe đâu có làm đại sứ ở Nam Dương. Ổng khoe với mẹ tôi, nhờ đảng mà cả nhà ông ai cũng thành kỹ sư bác sĩ. Vợ ông, cùng học bình dân với mẹ, nhưng giờ là bác sĩ phó giám đốc một xưởng đẻ nào đó ở Sài Gòn. 

Thực là vẻ vang hết sức. Thảo nào cái mộ to đùng, có xây thành vây quanh của nhà ông vẫn để yên đó chứ không một ông bí thư nào dám động đến.

Lại nói một chút về Trương Đình D, người gọi bà nội của ông nội tôi bằng bà cố, thì vì cái tội ứng cử tổng thống, tức là muốn chống lại miền Bắc, nên bị đưa đi cải tạo. Thế là ông thoát khỏi cái chuồng cọp của Nguyễn Cao Kỳ, nhưng lại  bị nhốt vào cái chuồng beo của Lê Duẫn. 

Tại cái mả của bà tôi nằm dưới đáy một kho thóc chăng?

6.

Bỗng dưng rộ lên câu chuyện vàng Hời. Có lẽ mơ được gặp Bác Hồ không “đã” bằng mơ được vàng, dù rằng mơ được vàng, cũng chỉ là mơ vẩn mơ vơ cho đỡ buồn trong cái cảnh nghèo rớt mồng tơi này vậy thôi. Dĩ nhiên không âm thầm kín đáo nhưng mãnh liệt như “giấc mơ Mỹ”.

Ai cũng biết đất này là của Chàm. Kinh đô Đồ Bàn chỉ cách làng tôi có 5 cây số. Năm trăm năm trước vua Lê Thánh Tông đem quân vào đánh chiếm, đuổi người Chàm đến tận đèo Cả. Giờ hãy còn núi Đá Bia là ranh giới của hai nước. 

Nguyễn Nhạc chỉ trong một đêm, cướp phủ Qui Nhơn để làm nên cơ nghiệp Tây Sơn. Trên nền Đồ Bàn cũ, Nhạc xây thành Hoàng Đế, những tưởng làm sống lại cái vang bóng một thời của công chúa Huyền Trân. Nhưng nếu giọt nước mắt của Nhạc khóc bì oa trữ nhục có làm cho Nguyễn Huệ động lòng, thì sau đó cũng lại bị Nguyễn vương san thành bình địa để xây lăng Võ Tánh và Ngô Tùng Chu.

Mỗi lần thành đổi chủ là mỗi lần thành bị phá. Không chỉ lòng tham mà còn có cả lòng hận thù. Vua Lê phá vì thù người Chàm đã dám giết một vua Trần trong cuộc nam chinh. Ánh phá vì thù tận xương tủy Huệ, Nhạc. Mà đã phá thì phá nát, phá tan luôn. Còn tệ hơn cái nền cũ của nhà tôi. Ít ra cũng hãy còn mấy cây cột kiềng kiềng cháy dở. Chứ trên nền Đồ Bàn thì chỉ còn đá ong và cây bàn chải. Cái tháp có tên mới Cánh Tiên còn sót lại chỉ vì to quá, phá không được, chứ không phải vì đây là một tuyệt tác cần giữ lại cho đời sau. 

Cho nên, đố mà tìm ra được chút gì của vàng son một thuở. Một vài tượng nữ thần, vũ nữ nằm lăn lóc, cái thì mất đầu, cái mất vú. Linga, chẳng biết là cái gì, thấy tròn tròn láng láng, thì để trước ngõ ngồi chơi cho sướng đít. Cái yoni trên một phiến đá vuông có hình tam giác lại có khe nước chảy,  tưởng là cái thớt dưới của cối đá xay bột. Tìm chưa ra thớt trên thì cứ việc kê cạnh lu nước để rửa chân.

Khi biết được đó là hai cái gọi là nọc đượng và bạch huê, linh vật của người Chàm, ai cũng bò lăn ra cười. Họ bảo thờ gì mà ngu dữ vậy. Nhưng lót đít ngồi, kê rửa chân liệu có khôn hơn không?

Trái tim của nước Chiêm, từ khi lọt vào tay người Việt, số phận lại càng bi đát hơn. Đây là miền đất bị tàn phá nhiều nhất ở miền trung. Chẳng những phá để xóa hẳn tàn tích cũ. Mà còn bày ra những cuộc trả thù, tức là “đào tận gốc, trốc tận rễ” những gì còn sót lại trong lòng người. 

Đã có bao nhiêu người Chàm bị giết? Bao nhiêu lính và dân của Tây Sơn bị chém? Bao nhiêu làng đã bị đốt, bao nhiêu dòng họ bị tru di tam tộc?

Khi những người CS tập kết ra Bắc, những người gọi là quốc gia tới tiếp thu cũng không quên trả thù cho những người bị đấu tố. Những người bị bắt không có chỗ giam, phải quây thép gai nhốt ở ngoài trời như trâu bò. Sau cùng, những người CS sau 30 tháng tư, lại trả thù cho những người gọi là VC. Lần này, không chỉ những sĩ quan hay những ai có nợ máu với nhân dân, mà bất cứ ai sinh ra ở miền nam, từ đứa bé mới lọt lòng mẹ cho đến cụ già sắp xuống lỗ, không nhiều thì ít cũng phải nhận những đòn thù. 

Không đủ chỗ để nhốt, thì nhốt luôn cả làng, cả huyện, cả tỉnh, cả miền nam từ Bến Hải đến Cà Mau. Sông Bến Hải đã nối lại đôi bờ, nhưng dòng sông có tên thù hận vừa được  đào lên giữa kẻ thắng người bại, thì hai bờ biết đến bao giờ mới nối lại được.

Đó là số mệnh của một vùng đất mà khí thiêng sông núi cứ bùng lên rồi bị dập tắt, bị chà đạp. Cái tiếng anh hùng mà dân ở đây được cả nước ngưỡng mộ, không sánh nỗi những khổ đau mà họ phải gánh chịu.

Liệu có phải đó là lời nguyền của các vị thần được mời đến từ Ấn Độ?

Bao nhiêu núi rừng, hùng vĩ như núi rừng Tây Sơn. Bao nhiêu sông, vằng vặc như sông Kôn. Bao nhiêu đồng lúa, bát ngát như An Nhơn, Tuy Phước. Bao nhiêu đầm rợp bóng tàu thuyền và tôm cá như đầm Thị Nại. 

Đâu có phải là của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đâu có phải của Tiên Dung và Chữ Đồng Tử. Lại càng không phải của Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân. Cũng không phải của Đào Tấn, Đào Duy Từ. Mà của Chế Mân, Chế Bồng Nga. Của những vị thần đã một thời ngự trên những tháp dù ngàn năm vẫn còn đứng ngạo nghễ kia.

Ngày nay, dân làng có bị coi như những kẻ thua trận đối với những người miền bắc thắng trận, thì cũng như những dân Hời lang thang 500 năm trước vì bị quân nhà Lê vào cướp đất, đoạt thành.

Nhưng họ không phải người Hời, cũng không phải dân bản địa Bana, Rađê, cũng không một chút nào pha trộn gọi là lai. Họ chính gốc từ núi Nùng sông Nhị, có người bây giờ hai ngón chân cái vẫn giao nhau. Vậy thì, họ, trong đó có tôi, là hậu duệ của những kẻ đi xâm lược chăng, những kẻ mà dân Hời cũng nguyền rủa như CS nguyền rủa giặc Mỹ cọp beo? 

Nhà bị đốt, mồ mả ông bà bị san bằng, ruộng đất bị mất quyền tư hữu, chồng con bị đưa ra bắc như Nguyễn Phi Khanh bị đưa sang Tàu, là cái nghiệp chướng mà họ phải trả nợ cho tổ tông chăng?

Rộ lên chuyện vàng Hời, cũng phải nói đến mả Hời. Đó là cội nguồn của những trái cau, những tượng bằng vàng. Và cũng là cội nguồn của những cái chết bí ẩn được gọi là thư.

Đang ngồi chơi bỗng dưng mắt trợn tròng, miệng sùi bọt,  chắc bị thư. Bụng to lên như cái trống, nhất định là bị thư rồi. Đẻ không ra, cũng thư.

Giải mã thư thì đó là cách trả thù của người Hời đối với hậu duệ của những kẻ đã cướp đất cướp làng của họ. Thư là nỗi ám ảnh khôn nguôi của những lưu dân từ 500 năm trước.

Cái mả Hời to nhất không nằm ở làng tôi mà ở làng bên. Chẳng biết người Chàm đặt tên là gì, nhưng dân ở đây gọi là mả thập miên, tức là mả có mười cái nhà che như một tử cấm thành. Cha tôi mùa lụt, đi đánh cá đêm thường chui vào ngủ. Bà tôi bảo cha mày ngủ ít được vì tụi ma nói chuyện rì rầm và đốt đèn đi lại suốt đêm. Vì vậy, bọn tôi dù nghịch phá nhưng chẳng đứa nào dám vào.

Tôi không phải là nhà khảo cổ học. Nhưng cái cách xây mộ có mái che, không hẳn là của người Chăm. Có thể là của một ông quan người Việt nào đó, xây theo kiểu nửa Tàu nửa Chăm. Nhưng dù có biết rõ là như thế, dân ở đây vẫn cứ gọi là mả Hời vì cái khối đen lù lù không giống ai và vì nỗi ám ảnh ma Hời.

Một phần vì những cái mả nằm khít bên nhau, kết thành một khối đồ sộ bằng vôi vữa rắn chắc, không dễ gì đào phá được. Một phần vì cái bí mật âm u rất đáng sợ của nó. Trải qua bao cuộc biển dâu, nó vẫn nằm im một cách đường bệ, vừa thách thức với thời gian, vừa thách thức những kẻ đào mả trộm. Bọn ấy, thì sợ gì thư. Nhưng chúng chưa động đến vì sức của chúng không đủ để phá.

Lần này, có sức không công của tập thể những người bị khổ sai và lưu đày tại quê hương, dại gì mà không đào cái mả ấy lên mà lấy vàng. 

Thế là xà beng và búa tạ thi nhau đục, nện chan chát xuống cái khối vôi vữa còn chắc hơn cả bê tông. Một cuộc tổng tấn công tưng bừng, có ca hát giúp vui, có nước chè giải khát, có đủ ban bệ chỉ huy đôn đốc. 

Nhưng đục đến tóe lửa, đập đến rã tay mà cái khối vôi vữa gan cóc tía kia vẫn trơ trơ như đá.

Thôi thì, đánh trực diện không xong, ta lại đánh du kích, tức là đào hang chui vào. Cái này thì dễ thôi, địa đạo còn đào tới đâu huống hồ là đào một cái hang nhỏ như hang dế. Chỉ mất một buổi, đã có cái hang ngon lành. Nếu là lô cốt của địch, đương nhiên là một đồng chí cảm tử vào trước. Nhưng đây là một kho báu, thì xin mời ngài bí thư vinh dự vào tiếp quản. 

Ngài bí thư của thôn TL.không lùn như của làng tôi, mà to cao, nặng nề như một ông hộ pháp. Phải ì ạch một lúc lâu ngài mới chui vào được. Hàng ngàn trái tim vừa bạn vừa thù cùng hồi hộp. 

Nhưng chờ mãi không thấy ngài chui ra. 

Lần này, cái nỗi ám ảnh khôn nguôi của ma Hời làm mọi người lo sợ. Đương nhiên là ngài phó bí thư kiêm trưởng ban quân quản không dám vào. Phải kêu gọi lòng dũng cảm và đức tính hy sinh của một vài anh du kích. 

Một chú oắt con được dẫn tới thí mạng, nhưng chú mới đút đầu vào đã vội chui ra nằm bật ngửa, mắt trắng dã, miệng sùi bọt mép.

Ma Hời vật chết rồi, bà con ơi!

Không phải tiếng kêu hốt hoảng mà đúng là một tiếng reo mừng. Trước những vụ việc như thế này, như mới cắt băng khánh thành mà tượng đã đổ, cầu đã sập, thì cái đám dân bị đè nén bấy lâu không gì hả dạ bằng. Đó là cách xả xì trét tốt nhất của họ. Đừng hậm hực mà gọi đó là đồ phản động.

Thế là có một người chết bên ngoài, người bên trong cũng chắc không sống nổi. Ma Hời thiêng thật.

Phải dừng lại thôi và tìm cách đưa xác ngài bí thư ra. Nhưng còn ai dám vào. Hời thư thì chỉ còn mỗi cách là tìm thầy Hời tới giải.

Phải đến mười ngày sau, khi cái xác đã bốc mùi không chịu được, người ta mới tìm được hai vị thầy Hời từ Phan Rang ra. Hai người da nâu, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng nói gì đó bằng tiếng Việt lơ lớ với đám chức dịch. Người ta liền vội vàng chở tới một xe bò rơm. 

Đun hết rơm và đợi khói tan, hai vị thầy cao tay kia chui vào khiêng ra được cái xác tím ngắt đã bắt đầu thúi rữa. 

Người ta để mặc hai vị thầy Hời đang ngồi rì rầm khóc than mà lo việc tang lễ. Lại vòng hoa, lại điếu văn ca tụng công lao cách mạng của người đã chết.

Quên mất rằng đốt khói là một cách khử khí độc từ trong mộ nên tối hôm đó, như hai bóng ma, hai vị thầy ranh mảnh kia đã thoải mái chui vào lấy hết của cải đi mất tiêu, không một lời từ biệt, chỉ để lại mấy cái ché không bị sứt mẻ không dùng gì được.

Ông bí thư mới vừa lên thay đến nhìn mấy cái ché, giậm chân kêu trời (chứ không kêu đảng), rằng mình ngu chứ không phải Hời nó ngu!

Có áp bức có đấu tranh. Có những cuộc đấu tranh máu đổ đầu rơi. Nhưng cũng có những cuộc đấu tranh âm thầm dai dẳng như thư, như yểm. Lại có những cuộc đấu tranh không dùng đến bùa yểm, như các xã viên của HTX. 

Đấu tranh bằng cách thây kệ cho lúa, cho bắp muốn lớn lên kiểu gì cũng được. Nghĩa là kẻng đánh thì ra đồng. Ai cầm cuốc thay vì cuốc bẩm nếu đất ruộng của nhà mình, còn của HTX ấy à, thì cuốc nửa lưỡi thôi, giơ lên cao từ từ rồi cũng thả xuống từ từ như sợ đất phải bị đau. Ai cầm liềm, thì liềm lụt cũng được cần chi bén. Đáng lẽ cắt một nhát đến cả bụi lúa nếu là của mình, còn của HTX ấy à, thì nhơi nhơi từng cọng, có chết thằng tây đen nào đâu!

Nếu mà ông bà tổ tiên của dân làng này từ xưa cũng lười cũng nhác như thế, thì cái làng này đã thành rừng từ lâu rồi, chứ không phải đợi đến cuộc chiến tranh này.

Trong khi dân làng hờ hững với chính công việc của ông cha để lại, thì các ngài lãnh đạo lại làm không hết việc. Nào lập hội cựu chiến binh, nào xây dựng đảng, nào “đốt đuốc soi cho sáng đường làng” để tìm cho ra những thằng phản động. Và dựng tượng công nông binh với những khối xi măng xám buồn như màu nắng của quê hương. 

Không biết nếu có một cuộc can qua nữa, thì có bị bẻ cụt đầu, bị lót đít ngồi hay đem kê rửa chân? Có lẽ mơ hồ lo sợ như vậy nên không có làng nào dám dựng tượng bác Hồ. Vả tại sao lại đem Bác ra phơi nắng như lời của cựu bí thư Đặng Hùng Anh, khi nhìn thấy một tấm ảnh dệt bằng lụa của Bác được dựng ở cổng chào.

Có người bảo chừng nào dựng được cái tháp như người Chiêm thì hãy dựng. Nhưng dựng những cái tháp to cao như thế mà không giữ được nước, thì dựng mà làm chi! Các ông vua Chàm, hỡi ơi cứ như những tay công tử Bạc Liêu. Đốt một tờ bạc lớn cho người đẹp soi tìm một đồng xu bé xíu, để nàng ngạc nhiên chơi, không sướng sao? Thì có sá gì hai châu Ô Rí mà không vung ra như trong một canh bạc để chỉ để sở hữu một cái bạch huê của một nàng công chúa Đại Việt, lại cũng không sướng sao? 

Ngông như thế mới thực ngông. 

Chơi như thế mới đáng chơi!

Nhưng chỉ sướng trong một đêm mà cả vạn dân phải bỏ cửa nhà, bỏ ruộng vườn lang thang lếch thếch, liệu có ác chăng? Ngay cả các vua cướp đất đoạt thành của nước người cũng đâu phải là không ác!

Chỉ vì cái “ta” của bọn họ đấy thôi!

Liệu có thực ‘không có gì quý hơn độc lập, tự do”? Hay là giọt sữa cho con mới là quý nhất, khi mẹ suốt ngày không có gì cho vào miệng thì lấy đâu ra sữa!

Nếu cần thì đốt cả dãy Trường Sơn để giải phóng miền nam, nhưng liệu các thành phố ở miền nam này thừa tự do xuống đường để lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ, có cần “được giải phóng” thì mới có “tự do”?

Làng lúc này có rất nhiều người tưng tửng nếu không muốn gọi là điên. 

Giô xép con bà Lãnh, suốt ngày không nói câu nào, chỉ ngửa mặt nhìn trời, vì bị bom hất tung lên, rớt xuống mà không chết. 

Hậu, co rút như con cuốn chiếu, úp mặt vào giữa hai đầu gối, chỉ muốn ngồi suốt ngày trong cái chòi đóng kín.  Sợ đi lính quốc gia, sợ bị bắt nên núi, trốn dưới hầm mười mấy năm nên giờ trông cứ như con cù lần.

Sương, trước kia xinh đẹp có hai con chết trên đường Cheo Reo- Tuy Hòa. Giờ, áo quần nhem nhuốc, tóc tai rũ rượi, cứ quỳ lạy các gốc cây bên đường. Vì khi hai con chết, chồng bắt phải bỏ xác lại bên bụi cây. Ngày thì như thế, tối cầm dao rượt chồng chạy khắp xóm, hỏi giấu con đâu?

Có một anh chỉ muốn nuôi cóc. Cóc to cóc nhỏ, cóc vàng cóc đen, cóc đực cóc cái. Cả trăm con dưới gậm  giường, đáy tủ. Nuôi không phải để bán cho mấy người bị bệnh cam tích, mà để trả thù vợ. Anh bảo, cóc thế mà đẹp hơn người, nó đâu có ngoại tình! 

Tội nghiệp nhất là bà cụ Quế. Nhà sát cạnh nhà tôi. Lúc sinh thời ông cụ làm cốm bắp cho bà bán. Khi học ở Quy Nhơn, thấy tôi ngồi học trong lớp, bà cứ đứng đợi bên ngoài để được cho tôi một gói cốm. 

Chồng chết, con trai đi quân dịch vừa tới quân trường, chưa bắn được viên đạn nào đã bị pháo kích chết. Nhà có được sáu sào ruộng, nhưng hộ khẩu chỉ có một người nên trừ vườn nhà ra không được giao lại một sào nào. Chỉ có mỗi cái rẻo ruộng phần trăm (coi như chia để xã viên trồng rau), bề ngang đúng một thước, dài 30 thước. 

Mọi người đều tận dụng chút tư riêng đó để trồng lúa. Cụ cũng vậy, nhưng cấy xong cụ lại nhổ lên. Rồi lại cấy xuống. Lại nhổ lên. Cứ thế quần quật suốt mấy tháng mà chưa cấy xong, trong khi các thửa bên cạnh đã gặt rồi.

Nếu gom hết những người như thế trong cả xã, cả huyện, cả tỉnh và cả nửa nước thì trại điên nào chứa đủ! Đôi khi tôi cũng muốn tưng tửng chơi vậy, nhưng không dễ gì tưng tửng khi mà mình còn nhận ra từng chút đau. Nhỏ thôi như kiến cắn, nhưng không cắn ở ngoài da mà cắn ở trong lòng. 

Thôi thì đành sống lây lất cho qua ngày. Có người nói, ráng sống để chờ đợi một ngày, một ngày có gió và mây nhưng   không có “mưa rơi trên màu cờ đỏ”.

7.

Một đêm tối trời, có người đánh thức tôi dậy. Cứ tưởng phen này chắc cho đi mò tôm. 

Đã bao nhiêu người trong những làng quê tối tăm của Việt Nam, nửa đêm bị dựng dậy. Mắt nhắm mắt mở chưa hiểu chuyện gì, thì đã bị một cái dây siết cổ, một đai cuốc đập vào đầu hay một cái mền trùm lên rồi nhét vào bao bố đạp xuống sông. Những cái chết như thế nhiều vô kể, đều do những người hoạt động bí mật gây ra. 

Nhưng may quá, người đánh thức tôi dậy, chính là người đã hỏi tôi trong một đêm trăng mờ, có biết ta là ai không? Giờ tôi chỉ vòng tay chào ông như lúc nhỏ, rồi ngoan ngoản đi theo. 

Tôi được dẫn tới một cái nền nhà. Nhìn kỹ thì đó là nền của chùa Phước Quang. Ngôi chùa trước đây lợp tranh, nhỏ, nghèo nhưng bà tôi vẫn mỗi tháng hai lần tới đảnh lễ. Sư cụ là một ông già như ông nội tôi, rất hiền. Lúc nhỏ tôi thường nắm áo theo bà. Lễ xong thế nào sư cụ cũng cho tôi một quả  cam hay trái chuối.

Dĩ nhiên làng bị đốt thì chùa cũng cháy. Chỉ còn mỗi cái bệ hình đài sen, trước đây có ông Phật thếp vàng ngồi xếp bằng trên đó.

Đã có sẵn năm người ngồi trên bệ. Ai cũng ăn mặc nâu sồng, không như người trong làng. Tôi lờ mờ hiểu họ là ai, nên không hề ngạc nhiên khi nghe một người nói:

“Ta đến đây đã hơn 500 năm rồi. Các cháu có biết không?” 

Cùng đến với tôi còn có bốn người sống. Họ có vẻ sợ. Tôi thì chỉ ngạc nhiên, không ngờ họ lại là những con ma nhiều tuổi đến như vậy! 

“Trọng cuộc đại sát dưới triều Lê, không chỉ của họ Nguyễn không thôi mà còn nhiều họ khác. Cái án ở vườn Lệ Chi chỉ là cái cớ của bọn tham quan ngu muội bày ra để hãm hại những người chính trực. Đại công thần Nguyễn Trãi bị giết thì gần một nửa các quan nhứt phẩm, nhị phẩm cũng bị xử trãm. 

“Bọn ta, các họ Trương, Nguyễn, Lý, Lê, Trần, chỉ là hạ quan, nên hãy còn giam hậu, chưa phải chết. May nhờ có cuộc đại xá của vua Thánh Tông mới được tha, nhưng phải bị đày vào đất Đồ Bàn. 

“Dù được ân xá, nhưng trên đường đi bọn ta vẫn phải mang gông. Năm người cùng mang chung một cái gông bằng gỗ, rất nặng. 

“Từ Bắc vào tới đây, vượt qua không biết bao nhiêu núi đèo, lội qua không biết bao nhiêu sông suối. 

“Dù cai ngục không cầm hèo mà quất nữa, nhưng vai thì sưng phồng, chân tươm máu, bụng đói, liu xiu không biết ngã xuống lúc nào. Một người quỵ, bốn người khác phải cố mà nâng dậy, dìu đi.

“Trải qua những cực nhục như thế, nên năm anh em ta sống chết với nhau, còn hơn Lưu, Quan, Trương.

Ta không nhớ rõ là bao nhiêu, nhưng cũng chắc không ít hơn 100 ngày đêm mới đến được nơi đây.

“Khi ngước nhìn những cái tháp, ta không ngờ nó to lớn, xinh đẹp đến như vậy. Một nước có những kỳ quan như thế, sao lại có thể thua trận được nhĩ?

“Ngày trước, dưới thời vua Trần, chiến thuyền của Chế Bồng Nga vẫn thường nổi sóng ở sông Phú Lương. Quân Chiêm ra vào kinh đô như đi chợ. Vua tôi nhà Trần đã mấy lần phải bỏ kinh thành mà chạy.

“Nhưng mà ta cũng lẩn thẩn mất rồi. Cũng chính vua Trần đã ba lần đánh thắng quân Nguyên, nhưng con cháu đời sau lại bạc nhược như thế, nên quân Minh mới vào chiếm nước ta hơn 20 năm.

“Thế thì cũng sông núi đó, thành quách kia, mạnh hay yếu là do con người mà thôi.

“Vào đến được nơi đây, bọn ta mới được tháo gông. Coi như đã được trở lại quyền làm người.

“Cùng đi một đoàn với bọn ta còn có nhiều người chịu án tù. Kẻ thì mưu phản, kẻ thì giết người, cướp của. Kẻ nhẹ hơn thì trộm cắp và hãm hiếp đàn bà.

“Sau cùng là cả vạn dân nghèo đói, lang thang lếch thếch không cửa không nhà.

“Biết rằng vào đây là có thể bị giết bỡi người Chiêm. Cũng như ta lén giết quân Nguyên, quân Minh vậy. Bao nhiêu người bị đem tới làm phên dậu bằng xương bằng thịt cho triều đình.Thoát được cái án tử này lại phải đối mặt với cái án tử khác. 

Quan quân trước đó đã giết chóc tàn phá quá nhiều. Bọn ta tuy không gây ra những cảnh đó, nhưng thấy người mình là bọn họ căm ghét. Đừng hòng mà lấy được một người con gái Chiêm làm vợ. Trước hết, họ giết người con gái ấy, sau là tìm giết người con trai táo tợn kia. Nếu không bằng giáo mác, cung tên thì cũng bằng thư yếm, thuốc độc. 

“Lúc đầu bọn ta bị quan quân đưa tới những chỗ hoang vắng, hoặc là bìa rừng, hoặc là trong chân núi. Sương lam chướng khí, bỏ mạng rất nhiều.

“Còn chỗ này hồi đó là của người Chiêm, một vùng giàu có, ruộng đồng phì nhiêu, nước ngọt cá ngon. Bọn họ sợ người mình giết nên rào làng bằng cây vót nhọn, chứ không phải lũy tre như ở ngoài mình.

“Họ vẫn cày bừa, trồng mía, làm gốm. Vẫn thờ cúng thần linh của họ. Vẫn múa hát theo điệu riêng.

‘Dĩ nhiên một số nhà giàu vẫn bỏ cả ruộng vườn nhà cửa mà chạy theo vua quan của họ. Nhưng họ vẫn đông hơn mình gấp bội.

“Như ta đã nói, trong đám có nhiều kẻ giết người cướp của, nhiều kẻ hư đốn tham lam. Bọn chúng không chịu đứng mà nhìn những kẻ thua trận lại sống no đủ, còn chúng, dù tù tội, vẫn là những kẻ thắng trận, lại đói rét cơ cực.

“Thế là họ, đêm đêm bịt khăn, buộc tóc, ngậm tăm leo vào các làng. Chỉ cần giết một vài người, hãm hiếp một hai cô gái, là sáng ra, tất cả chỉ trong một ngày hoảng sợ bỏ làng mà đi.

“Quan trên làm ngơ, chẳng bắt tội một ai.

“Thế là, một làng rồi hai làng. Một vùng rồi hai vùng. Tất cả kéo nhau đi vào nam không sót một người.

“Ruộng vườn họ bỏ lại, ngay cả vàng cũng chôn vội đâu đó. Quan đến xem, cười lớn. Rồi chia những miếng ngon cho bà con dòng họ, hay bán cho những người trước khi đi tù cũng là quan lại hay phú gia. Còn lại, thì chia cho những ai có công, những người nhẹ tội. Sau mới đến người nghèo.

“Bọn ta, nhờ vậy mà là đến được làng này. Vợ con ta lúc đó mới theo nhau vào. Bao nhiêu đời, dòng họ mỗi người tản mác khắp nơi. Nhưng nơi đây là cái gốc. Trải qua biết bao nhiêu cuộc chém giết, may mà dòng dõi của anh em ta không đứt mạch, còn mãi đến bây giờ”.

Như thế là bọn tôi đã được gặp năm cụ tổ của mình, những người bị lưu đày. Giả như những cái án tử không được vua Lê ân xá, thì đã không có chúng tôi ngày nay. Còn nếu tính đến các cụ tổ cao xa hơn nữa, thì cây phả hệ của năm dòng họ chúng tôi thật cao lớn, cành nhánh rườm rà, ngọn vươn lên tận trời.

Thế thì chúng tôi không phải là con cháu của quan quân, lại càng không phải quân trộm cắp, giết người. Cái mạch đời, chảy mãi đến tận bây giờ, dù sao cũng vẫn còn ít nhiều trong lành. Trong năm hậu duệ, không có ai là cán bộ, đảng viên. Thật là may!

Chúng tôi sụp lạy dưới chân các cụ tổ. Lúc ngẩng lên đã không còn thấy các cụ ngồi trên bệ nữa. Cha tôi cũng đã tan theo cùng các cụ. 

Tôi thì đã quen với cha, với bà và bạn, nên chỉ bùi ngùi nhìn vào bóng đêm. Nhưng các anh họ Lê, Lý, Trần, Nguyễn thì dụi mắt mấy lần, bàng hoàng không biết là thực hay mộng.

Trên đường về, chúng tôi yên lặng không nói gì, nhưng trong lòng rất bồi hồi xúc động. Có vẻ như thấy con cháu đang bị vùi dập xuống bùn, các cụ rủ nhau về nâng chúng tôi đứng dậy. Chi xiết cảm tạ tổ tiên!

Có một người cùng họ ở rất xa, đã nhiều năm chưa gặp lại, nhưng những chuyện về anh nhiều người biết, tôi cũng muốn ghi lại vào đây.

Anh ta tên Th. Lớn hơn tôi 2 tuổi. Tôi và anh chẳng những cùng làng, mà còn cùng xóm. Nhà anh nghèo, cha làm thợ mộc, mẹ đau bệnh liên miên. Khi bà mất, anh được 10 tuổi. Cái hình ảnh tôi không bao giờ quên được, ấy là cứ mỗi chiều anh đem trấu lên đốt trên mồ mẹ. Người ta bảo đốt để sưởi ấm cho người chết, vì mới xuống cõi âm, chưa quen với đất lạnh. 

Nếu trời không mưa chắc tôi cũng không nhớ. Vì chuyện đốt trấu, ở nhà quê chẳng có gì đáng nói. Nhưng trời lại mưa lè nhè suốt những ngày mẹ anh mất. Trấu ướt nên rất khó nhen lửa. Anh vừa khóc vừa khom lưng quỳ gối thổi phù phù. Nước mưa, nước mắt và nước mũi chảy tràn trên mặt anh. Gió lại thổi, sấm chớp lóa lòa. Đốt cho cháy hết đống trấu cũng phải mất đến nửa buổi.

Cái cảnh mồ côi mẹ đã khổ, mà đốt trấu cho mẹ càng khổ hơn. Lần nào tôi cũng theo anh lên mộ. Chỉ có ba bữa thôi mà tôi thấy sao lâu quá. Tôi nghĩ đến mẹ tôi, bà thường nói: mồ côi cha ăn cơm với cá/ mồ côi mẹ lót lá mà nằm. Như vậy tôi sướng hơn anh.

Vì mẹ mất, anh nghỉ học sớm, vừa giữ em vừa học nghề mộc của cha. Người anh ốm yếu xanh xao, mà phải cầm cái cưa đẩy lên đẩy xuống, hay cái bào đẩy tới đẩy lui, tôi thấy cực nhọc tội nghiệp quá. 

Khi tôi đi học xa, thì anh cũng theo cha lên Pleiku làm nghề mộc. Từ đó tôi chưa gặp lại anh nhưng nghe nói cha anh đã có vợ khác. Vậy là anh đã phải chịu thêm một cái khổ nữa là phải sống với bà dì ghẻ. Không biết bà ấy thế nào, nhưng bà và mẹ tôi đều nói họ là những người độc ác, thường bỏ đói và đánh chừi con chồng.

Bẵng đi một dạo, lúc Ban mê thuộc bị thất thủ, cả quân và dân Pleiku được lệnh bỏ cao nguyên rút về đồng bằng. Cái cảnh chen chúc nhau tìm xe, tìm người quen trong quân đội để nhờ vả, cảnh ùn ùn tranh nhau xuống tỉnh lộ 14, rồi bị tấn công phục kích, chồng lạc vợ, mẹ lạc con là những cảnh hỗn độn thê thảm nhất trong cuộc chiến vừa qua. 

Cấp tá chưa chắc đã có được một chỗ trên máy bay trực thăng. Vậy mà anh thuê cả một chiếc, đưa vợ con bay cái vù xuống Nha Trang, rồi thuê xe đò đi đường bộ vào Sài Gòn. Nhẹ nhàng cứ như các ông tướng trước đó đưa vợ con xuống Sài Gòn chơi.

Người ta bảo rằng anh im ỉm mà giàu ngầm. Trong tay có mấy xưởng gỗ, mấy cửa hàng sắt thép xi măng, có cả tạp hóa nữa. Anh buôn đồ gỗ với Mỹ, giỏi giao tiếp người Thượng, gỗ quý,trầm kỳ, mật ong…thứ gì người khác không mua được thì anh mua rất dễ dàng. Nghĩa là trước đó, của cứ ùn ùn chạy vào nhà anh. 

Dĩ nhiên, di tản như thế thì muốn đem theo bao nhiêu vàng bạc và hột xoàn mà chẳng được. Coi như anh chỉ phải mất một số của nổi là xưởng trại mà thôi.

Vào Sài Gòn, anh mua một nhà nhỏ trong hẽm. Khi Dương Văn Minh buộc phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, bao nhiêu người còn cố leo lên nóc tòa đại sứ để đu lên trực thăng, thì anh đạp xe đi lòng vòng. Nếu anh muốn, dám có một chiếc của Mỹ đưa vợ con anh ra hạm đội.

Khi mọi người chạy ngược chạy xuôi, tìm kiếm người thân, bồng bế nhau về quê, còn bộ đội tràn ngập các đường phố Sài Gòn mỏi cổ nhìn các cao ốc, thì anh đem một tủ thuốc nhỏ ra ngồi thong dong ngoài đầu hẽm.

Nhàn nhã chờ thời. Rồi thời cũng đến. 

Năm 79, bộ đội Việt Nam tấn công Pôn Pốt, đánh cái rốc chỉ trong một ngày là chiếm được Nam Vang. Sau đó, nói theo kiểu CS là hoàn toàn giải phóng Campuchia.

Chỉ một tuần sau là anh theo xe bộ đội đến Nam Vang. Quan sát thấy mọi người nháo nhác tìm nhau, xe đạp có đấy mà lốp ruột thì hư. Thế là anh về lại Sài Gòn, tung tiền mua  săm lốp, chở đầy 5 chiếc motorola. 

Bọn Khơ me đỏ không dùng tiền, mà anh cũng không cần tiền. Anh chỉ cần vàng. Dân Campuchia lại nhiều vàng. Thế là anh đổi chứ không bán. Cứ một cặp săm lốp thì đổi 2 miếng vàng lá. 

Không biết anh thu được mấy tấn, chỉ biết phải thuê cả trăm người giả làm người Việt chạy loạn rách rưới, gùi trên lưng một cái gùi vàng ngụy trang những chiếu mền vớ vẩn. 

Về tới Sài Gòn, anh lại mua thệm săm lốp, lại thuê xe bộ đội chở lên Nam Vang, vét đổi thêm một trận nữa mới thôi. 

Anh lại ngồi sau tủ bán thuốc lá, âm thầm thuê đóng tàu, mua bãi, cho hai cậu con trai và một cô con gái đi qua Thái Lan, rồi đi Mỹ.

Người ta bảo cái vố đó anh thu lại bằng mấy những của nổi bỏ lại ở Pleiku. Như một con trăn đớp được con mồi to, nằm lim dim chờ tiêu hóa để lại đớp một con mồi khác.

Con mồi ấy là kiếm hài cốt của lính Mỹ để bán cho Mỹ. 

Đánh hơi quá ngon ăn, anh lại lên Pleiku, nhanh chóng tìm gặp những người Thượng, ra giá rất sộp cho họ rồi về Sài Gòn. Cũng chẳng thèm đơn từ xin xỏ chút ít những gì đã mất.

Dân thượng quá biết chỗ nào có xác lính Mỹ. Không khó để họ tìm ra. Không chỉ một bộ xương mà rất nhiều bộ. Những cái gùi chất đầy đầu lâu, xương Mỹ cứ lặng lẽ đưa vào nhà anh. 

Và anh cũng lặng lẽ theo đướng bộ vượt Campuchia, đến tận tòa đại sứ Mỹ để bán, với thõa thuận nếu đúng là hài cốt của quân đội Mỹ thì hãy chuyển đô la vào trương mục ngân hàng do các con anh đứng tên.

Lần này thì không biết kiếm được bao nhiêu triệu đôla, chỉ biết anh đã qua lại đến 6 lần mới bị bắt và bị đưa đi cải tạo ở A.30. 

Cải tạo, nhưng nghe nói anh chỉ đánh cờ uống bia và chỉ 3 tháng là về lại Sài Gòn, chờ các con bảo lãnh đi Mỹ!

Khi tôi về với vợ con ở NH, thì nghe nói anh có về thăm làng, xây mộ cho mẹ, to đẹp hơn cả mộ của thân nhân bất cứ đồng chí cán bộ nào. Anh cũng có cho một ít tiền cho những người nghèo, nhiều nhất là những thương binh của chế độ cũ.

Chỉ tiếc một điều là qua tới Mỹ, anh bị bệnh mà chết, chưa hưởng được chút gì những của cải đem sang.

8.

Đã đến lúc mẹ tôi mua về một số tôn, cây gỗ để cất lại ngôi nhà. Cát thì có sẵn ngoài bãi, nhưng xi măng thì rất hiếm. Vừa đúc táplô, vừa xây nền mà chỉ có bốn bao ximăng. Phải lát bằng những miếng nền đục ra từ các trại của lính Mỹ hay Đại Hàn. Trông rất buồn cười, xấu xí. Nhưng dù sao cũng có được một ngôi nhà nhỏ tươm tất. 

Mẹ tôi thuê thợ đóng một cái bàn thờ chân giò nai, có tiện những nai những sóc, tuy không tinh xảo nhưng coi cũng được. Bộ chân đèn còn lại tuy bị cháy lem luốc nhưng là kỷ niệm của ông bà, nên được chưn lên để cúng giỗ.

Cái chỗ hương hỏa từ đường, trong thời buổi đói kém này, như thế cũng tạm ổn.

Vợ tôi muốn đem các cháu về quê nội một lần, cho biết. Làng tôi, bị đốt chứ không phải là chiến địa của hai bên, bom mìn không để lại nhiều. Tôi cũng an tâm muốn các con về chơi.

Tôi đi bộ lên đón các con ở ga xe lửa rồi thuê xe ngựa lóc cóc chạy về làng. Các con tôi rất thích. Lần đầu tiên chúng được nghe nhạc ngựa kêu leng keng, được ngồi sau bờm ngựa nhìn những soi bắp xanh mướt đang trổ cờ dọc theo bờ sông. Lúc ngang qua tháp Phú Cốc nằm trên một ngọn đồi tròn như nắp vung bên kia sông, vợ và các con tôi muốn dừng lại xem.

 Tháp hãy còn đỏ thắm như vừa mới xây, in bóng xuống lòng sông thật đẹp. Có một lúc nào đó tôi mơ được cùng ngồi với vợ, dựa lưng vào tháp ngắm trăng như lúc nhỏ có lần được lên cắm trại ở lại đêm. Nhớ lúc đó, mền mang theo được đem ra dựng trại, khuya sương xuống ướt lạnh. Không ngủ được, tôi dậy ngồi co ro một mình, nhìn ánh trăng xanh chiếu lên ngọn tháp ướt sương. Buồn nhưng đẹp. Tôi đã đưa hình ảnh ấy vào truyện Tiểu công chúa và cô gái trong truyện đó phảng phất ít nhiều hình ảnh của vợ tôi ngày nàng 14, 15 tuổi. 

Chúng tôi về đến nhà. Các con tôi tranh nhau ra bờ dậu hái những bông bụt đỏ, đang nở đong đưa như những chiếc chuông con. Tôi cũng đưa chúng đi tắm sông, đuổi bắt chuồn chuồn, nhưng trường cũ đã cháy nên không thể đưa chúng đi xem nơi tôi đã học ngày xưa.

Tôi đã kiếm sẵn mấy con cá tràu. Bữa cơm chỉ có một nồi canh cá nấu với măng và chuối mốc trong vườn, nêm rau răm, nhưng vợ và các con khen thơm ngon, ăn rất nhiều cơm.

Cứ định, khi nào có hòa bình sẽ đưa vợ con đi thăm hết ruộng đồng, thăm quê ngoại của tôi, quê ngoại của cha, quê ngoại của ông nội, những nơi lưu giữ trong tôi rất nhiều kỷ niệm. Nhưng hòa bình mà ngột ngạt khó thở như thế này, cả tôi và nàng cũng hết muốn đi đâu, dù các con vẫn hồn nhiên vô tư, cứ đòi đi chỗ này, đến chỗ nọ.

Hãy còn những buổi chiều ra ngõ nhìn những cánh cò nhịp nhàng bay về cuối chân trời. Nơi đó mây hoàng hôn vàng rực một màu mà bà tôi gọi là màu lúa chín. 

Hãy còn tháp Bánh Ít in rõ trên nền trời tím như hai chị em đứng bên đường thiên lý. 

Hãy còn nắng buổi sớm chiếu trên tháp Cánh Tiên như dát vàng. 

Hãy còn trông thấy những đồi cát Phương Mai ở đầm Thị Nại. 

Hãy còn núi Mò O, núi An Tượng.

Hãy còn con sông Kôn mà thầy Tàu qua yếm để cắt đứt long mạch của nhà Tây Sơn. 

Hãy còn nhiều, nhiều lắm. 

Nhưng cứ thấy nón cối, thấy cán bộ là bao nhiêu niềm vui như lúa bị nghẹn không trỗ được đòng đòng.

Sáng hôm sau bà nội vể đem theo bánh hỏi thịt heo. Các cháu lại được một bữa ăn quà no nê. Nhưng mẹ tôi không kể chuyện đời xưa hay như bà nội, lại phải xuống Quy Nhơn để bán hàng, nên chỉ chơi với các cháu có một ngày rồi đi.

Vợ tôi muốn hỏi ý tôi về việc gia đình. Tôi cũng bảo sẽ về với vợ con, nhưng còn mẹ, còn vườn nhà chưa biết tính sao. Vợ tôi bảo tính gì thì tính chứ em không đem các con về ở luôn được đâu.

“ở đây âm khí nặng nề quá!”, nàng nói. Tương lai không phải của mình mà của các con.

Tôi cũng nghĩ vậy. Một nơi mà “cán bộ nhiều hơn dân” thì cũng phải bỏ mà đi thôi, dù đây là quê hương.

Hai Cái Bụng

H

ôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở lề đường. miệng nó há hốc ra mà thở.

bởi vì, cũng như hôm qua, và cũng như hôm kia, hôm kìa, nó đã đi lang thang hết chỗ này đến chỗ nọ, mà chẳng kiếm được tí cháo lưng hồ.

nó?

nó là sự đói khát, kinh tởm, kết thành hình.

nó có cái sọ đếm được tóc. không biết một thứ bệnh gì hương hỏa của cha mẹ đã làm cho cả da chỗ ấy nhẵn thín, bóng lộn, đỏ đòng đọc như cái mụn đương loét, khiến tóc nó chỉ có thể mọc lơ thơ, như vầng cỏ trên tảng đá cằn.

nó có một cái mặt - mẹ ơi! không biết có gọi được là mặt không đấy! - mặt gì mà mắt lại thế kia, và miệng lại vô dụng thế được. phải, mắt đâu có thứ mắt xung quanh là một hình bầu dục, vẽ bằng vành thịt trơ đỏ lầy nhầy, lúc nào cũng ứa ra một dòng nước vàng và giữa thì lờ đờ một hột nhãn, thứ hột nhãn non choèn, vàng ễnh. còn cái miệng nó thì dô ra như miệng khỉ, hai hàm răng to tướng, lúc nào cũng cầm cập hục hặc với nhau. nhưng thế không phải để nhai, mà để run. vì trời rét.

những quần áo nó mang vào người chỉ có một mục đích là che cho thân nó không kín. chắc là những thứ giẻ khươm mươi niên, người ta vứt đi, vì bợt quá. nhưng nay nó buộc miếng nọ với miếng kia, díu mảnh này vào mảnh khác, và vì dùng lâu ngày, nên cũng dày thêm bằng tầng mồ hôi, quện với ghét, và bụi. Đố ai đếm nổi tất cả có bao nhiêu chỗ rách và những chỗ rách ấy hình gì. Đố họa sĩ nào pha đúng được màu quần áo ấy - và nếu có cởi những thứ ấy ra, đem treo lên cho công chúng đoán - đố ai dám nói đó là đồ mặc của người.

vậy thì, với bộ quần áo xơ mướp ấy, nó biến thành một cái bù nhìn. bù nhìn là cái khung có hai tay và hai chân làm bằng ống tre, thì nó cũng là cái khung có hai tay và hai chân chẳng to hơn mấy. bù nhìn có bộ mặt chẳng thành hình, thì nó có bộ mặt cũng dúm dó, xấu xí như con ma dại.

nhưng bù nhìn chỉ làm cho chim chóc phải sợ hãi, nhưng nó thì có thể làm cho người ta không dám đến gần. vì đến gần nó, trông thấy nước da đen sạm, dăn deo của nó, người ta tưởng như đó là cái thây ma chưa tiêu hết hiện về. và cũng có mùi hôi thối xông lên. và cũng có ruồi nhặng bám vào để hút chất bẩn.

thật thế, một đống rác, chưa đáng sợ, đáng tởm bằng nó. vậy mà nó phải đi hết chỗ này đến chỗ nọ, để kiếm cái nhét vào dạ dày.

Để nó sống.

vì nó chưa chết.

nó đã đi ăn mày. nhưng ai cũng đuổi nó quầy quầy. người ta quen cho những người sạch sẽ, có nét mặt đáng thương, có quần áo còn dính đôi chút mỹ thuật. người ta chỉ bố thí cho kẻ ăn xin "hạng nhất". còn nó, nó đi đến đâu, người ta đóng cửa, người ta chửi, hoặc người ta mặc kệ cho chờ chán thì phải cút.

cho nên nó phải làm lấy mà ăn. nó đến các chợ, vét những tí bánh còn dính trên lá, và gậm những mẩu khoai vứt còng queo trên đất sạn. nó lạy van đứa ăn xin khác bớt cho nó chút canh cặn cơm thừa.

nhưng mấy hôm, chỉ có ngần ấy thứ tọng vào bụng, nó sống làm sao được? nó phải ăn đến thịt nó. bởi thế, nó gầy hơn, nó còm hơn, nó đét lại, không đủ sức lê nổi tấm thân đã mòn. bởi thế, chân tay nó lúc nào cũng run rẩy như cầy sấy, mắt nó giương to tướng, nhưng vẫn lờ đờ. nó không bệnh tật gì, song nó ngây ngô như người ốm.

hôm nay thì nó lả đi rồi. tai nó ù. mắt nó loá. nó nằm vật ở lề đường. miệng nó há hốc ra vì đói.

nó chỉ thèm được ăn.

+ + + bà ấy thì đến một tháng nay, cứ phải uống thuốc mãi.

Đầu tiên, ông đốc tờ tây đi ôtô đến nhà, đem đủ các thứ đồ dùng để nghe ngực, thử máu. rồi ông bóp trán, kê cái đơn, mua mất ngót một chục đồng bạc thuốc.

nhưng uống thuốc, mà bà ấy vẫn thấy thế, bà bỏ dở không dùng.

có người mách một bác sĩ người nam chữa bệnh giỏi lắm. bà ấy cho mời liền. và cũng như bận trước, thuốc không công hiệu.

bà cho là thuốc tây không hợp với tạng bà. thuốc tây chỉ tài về khoa cấp cứu. chứ bà phải dùng thuốc bắc. thuốc bắc, tuy hiệu nghiệm chậm, nhưng khi đã ngấm vào trong tạng phủ người ta, thì nó chắc chắn lắm. nó hợp với bà hơn.

bà bèn mời một ông lang ta. quả nhiên, ông lang cũng đồng ý với bà, bảo rằng thuốc tây chữa người nam không được. vì nó chỉ làm để cho người tây dùng. vả lại, đốc tờ chỉ hay dọa dẫm, động một tí là lao, là đau dạ dày, là thương hàn, là đến một nghìn thứ bệnh nguy hiểm khác.

Ông lang rón hai ngón trên cổ tay bà, trầm ngâm. Ông lim dim đôi mắt. rồi lúc tóm trúng bệnh, ông lấy bút giấy kê đơn lập tức. Ông hẹn uống một chén, bà sẽ thấy khác ngay. uống đến ba chén, bà không còn một tí gì khó chịu trong người nữa. lúc đó, chỉ cần dăm thang thuốc bổ, là bà lại khỏe mạnh như thường.

bà cho người lên hiệu bào chế cân thuốc. bà yên trí thuốc có nhiều vị đắt tất là hay. bà chẳng tiếc tiền, bỏ ra hơn năm đồng, đổi lấy một bát nước sánh như mật.

nhưng nghe ngóng một hôm tròn, bà chẳng thấy bệnh chuyển. vẫn thế.

kiên tâm, bà lại cân chén nữa. và chén nữa. nhưng bà lắc đầu, chịu không thể tin được mấy ông lang ta chỉ khuyếch khoác cái mồm.

rồi bà mời đến ông thầy khách. thầy khoe nhà thầy đã ba đời làm thuốc ở bên an nam. thầy nói tiếng an nam sõi như người an nam, tuy thầy đã già và tứ đại đồng đường. nhìn bộ râu bạc dài dưới cằm thầy, con bệnh tín nhiệm ngay. vậy mà thầy cần làm khách hàng tín nhiệm hơn, nên hết gièm pha thuốc tây, đến chê bai các ông lang an nam. thầy rằng không ai biết gì hết. duy thầy mới khiến nổi bệnh này.

thầy cũng xem mạch, và xem cẩn thận lắm. thầy hỏi vặn từng tí, và sau hết, bảo bà cho người nhà theo về hiệu lấy thuốc. thầy cam đoan bà uống thuốc này không phí tiền.

nhưng chán chưa! thuốc ấy cũng chẳng ăn thua gì cả.

lạ quá. bệnh gì lại có bệnh thuốc không trị nổi bao giờ!

bà ấy có bệnh gì?

không biết.

vì mấy ông thầy thuốc không ông nào nói rõ.

nguyên là bà ấy béo quá - gớm! béo đâu có béo lạ béo lùng thế! - béo đến nỗi hai má chảy ra, cổ rụt lại. béo đến nỗi bụng sệ xuống. béo đến nỗi trông phát ngấy lên!

mà bà ấy lại giàu nữa mới rầy rà chứ! nhà, bà ấy có hàng dãy ở khắp các phố. ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà quê. tiền, cạnh tường buồng ngủ, cái két khổng lồ, lúc nào cũng chứa hàng tập giấy trăm lớn.

bà ấy có đủ điều kiện để sung sướng.

nhưng chỉ có một tí xíu mà trời chẳng chiều cho ai được hoàn toàn. là bà ấy yếu dạ lắm.

bà ấy chỉ phiền về mỗi chỗ ấy.

thế mà hôm cuối tháng trước, một bà bạn mời bà ấy đến ăn cỗ cưới con gái. bà ấy đã tính chối từ, song lại sợ bị trách.

cho nên bà ấy phải dằn lòng đến ngồi vào mâm cơm.

bà bạn gắp tiếp, ép ăn những bóng, những mực, những long tu, những vây cá, và đến trăm thứ khác nữa.

nể bạn, bà ấy ngắc lên đến cổ. và lo quá, vì biết rằng xong bữa cỗ này, rồi thế nào cũng có chuyện lôi thôi to đây.

quả nhiên, từ hôm ấy đến nay, bà ấy cứ thấy bình bịch cái bụng, lúc nào cũng đầy đầy, không tiêu, khó chịu quá.

khổ thật! thuốc thang chịu, uống đến thế mà bà ấy không đói cho!

bà ấy chỉ thèm ăn được.

Gò Ma

Ð

àn ông thuộc loại người xã hội, nhưng chỉ họa hoằn dăm anh có số “Xuân Tóc đỏ”, còn hầu hết rơi vào cảnh bị đày đọa. Nhất là cái thời cả thể chế xã hội ma quái đó nhập vào người đàn bà, trao quyền tiếp tay cho đàn bà, thì các gã đàn ông không chạy đâu cho thoát, bị hành hạ đến thảm hại.

Đàn ông buồn cười lắm. Chiều chiều cứ đến quán bia hơi Gò Nhân Sư thì khắc biết.

Gò Nhân Sư là quán bia có tiếng ở gần Gò Đống Đa, cạnh những vườn thuốc Nam. Giữa quán có cây si như có phép lạ, trước đây chẳng ai trồng một ngày đã thấy, cứ thế lớn nhanh như thổi, tỏa nhánh tám phương, có rễ buông đầy như hàng trăm tuổi. Tổ hợp bia hơi biết chộp lấy nơi ấy, quây nhà quanh cây si như đèn kéo quân. Trước cót ép vớ vẩn, thời đổi mới thì thay bằng những vật liệu nhẹ, rất đẹp. Quán bia hơi gần như là thế giới nửa đàn ông nửa đàn bà, đàn ông đến uống, đàn bà phục vụ. Thảy mọi thứ đều có ở đấy, sinh ra ở đấy.

Như đã thành luật sinh tồn, loại đàn ông thành đạt hung hăng ngồi một phí, loại thất cơ lỡ vận dạt về một phía. Phía này tối và ẩm, gần bếp với đầy dụng cụ nấu nướng, đa phần đàn bà cũng ở phía này. Đáng chú ý là cái bể cá khổng lồ, bong bóng nước cứ phụt liên hồi, nghe đâu ngồi gần thì có mùi hôi. Đương nhiên, người ta nuôi cá sống để mổ thịt. Đủ loại cá: Cá chày, cá chuối, cá đuối, cá rô phi... Gần như chàng cá nào vào đây, qua cái lăng kính, cũng như dị dạng, không mắt lồi thì môi cong, mặt gẫy v.v...

Đúng như thiên hạ nói, cứ chiều xuống là đám đàn ông xế bóng ra chiều thất cơ lỡ vận, chẳng ai hẹn ai, đến như bóng ma. Người nào ngồi vào ghế của người ấy, xoay lưng vào nhau. Người cởi áo quần đùi, kẻ chống nạng, người mũ phớt, kẻ quần cộc đi giày, lại cài thắt cà vạt... Nhất là mắt, thảy đều hấp háy hoặc dại đi, nhưng chẳng ai giống ai. Có người xộc từ cửa chính vào, cầm cây gậy dài giơ lên như người bồng súng, rồi vươn cái cổ dài ngoẵng, hát những lời về hạt bụi về sỏi đá như là nhạc Trịnh Công Sơn, như là hành khúc chiến tranh. Có người vào cổng nách, huơ cái nạng lên múa tít cứ như người làm xiếc. Đám đàn bà khoác áo trắng dài như nghề y, cười ré lên, tung áo chạy như bươm bướm. Một ngày dài như để chờ cái phút lạ lùng này. Từng đôi như hiểu nhau từ kiếp trước. Một người đàn bà bự nhất, túm áo ở bụng, tay tròn lẳn với chiếc vòng vàng chóe, cầm cái vợt lưới, nghiêng người trên bể cá, phô cái bụng đầy thịt trắng hếu... Chú cá xấu số nào đó quẫy tung nước. Tức thì rộ lên tràng cười của đàn bà. ở đây họ quen đặt tên cá cho từng người:

- Anh Chày đến rồi à! Hôm nay chôm được của mụ già bao nhiêu? Vẫn hai vại chứ?...

- Vưỡn!

- Anh Chuối đấy à? Sổ lồng chậm vậy. Vẫn như hôm qua chứ?

- Vưỡn!

- Anh Phi đấy à? Hát đi, rồi nộp tiền đây chúng em lấy bia mới cho...

- Anh xin chiều!...

Anh Chày mắt đỏ, là cái anh bồng súng gậy chào lúc nãy, đứng dậy tiếp tục bồng súng chào. Anh Chuối mình thuỗn như chú chuối, cứ trợn trừng mắt như sắp gây sự với người xung quanh. Anh Phi đứng dậy hát, cái hàm răng giả văng ra, rơi cạch một cái trên bàn... Các em cười chảy cả nước mắt và như đồng thành:

- Rõ khổ!

Rồi im bặt.

Bất chợt người đàn bà béo nẫng, tay như khúc giò lụa đeo vòng vàng, xách lên một chú cá chuối bự rõ dài, đầu bị tróc vẩy trắng hếu, quẫy đuôi bắn nước tung tóe:

- Đực, béo lắm đây, ha ha... Chỉ tội cắn nhau đến sứt cả đầu. Ha... Ha...

Đám đàn bà lại ré lên cười. Lập tức từ bàn giữa một người đàn ông từ ban nãy được nhận biệt hiệu là Chuối, đứng cả lên ghế, múa một điệu rất lạ lùng và thét toáng lên như vai tuồng.

- Anh đây. Chuối đây!...

Anh Ký Hấn chứng kiến cảnh đó, vừa buồn vừa cười, mắt nhìn ra cửa sổ. Cái ô cửa dài, cắt một mảng trời, sao giống lớp học của anh ở trường cấp hai Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đến thế. Mái trường cấp hai thân quen ấy ở trên gò, gần khu mộ đại thi hào Nguyễn Du, giữa những cây phi lao rì rào, nhìn thẳng ra cửa biển.

Thầy Khang mặt đỏ, gầy choắt, giọng trầm giảng Kiều vào loại hay nhất tỉnh. Một lần đến tiết giảng Kiều, thầy lặng nhìn qua bãi phi lao, có khu mộ Nguyễn Du, cứ nhìn mãi cho đến khi hai con mắt đỏ lên như hai hòn than...

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Rồi thầy lại đọc:

Đau đớn thay phận đàn bà!...

Đến những câu này thầy dừng lại rất lâu, như không muốn đọc tiếp câu sau nữa. Thầy chuyên như vậy, giữa bài giảng có những quãng lặng hút hết hồn vía học sinh. Có đoàn kiểm tra trên tỉnh về dự giờ phê bình thầy điều đó, có người còn bảo thầy dở người. Thường sau quãng lặng là thầy ho, có lần một tia máu đỏ bắn ra cả cổ áo. Thầy giỏi nhưng bị cấp trên định kiến nặng nề lắm. Lại còn biết thêm gia đình thầy mấy đời giàu có, đỗ đạt, sau bị qui oan, cứ sa sút dần. Hạnh phúc riêng của thầy cũng đổ vỡ. Hễ giảng đến câu “Lời rằng bạc mệnh...” là thầy rơi vào quãng lặng mơ hồ. Một lần đang giảng trích bái Kiều thì thầy gục xuống, máu trào cả ra miệng... Cứ thế thầy ra đi.

Trong ký ức thơ ngây của cậu bé Hấn cứ bị ám ảnh những chuyện đến kỳ lạ về hình ảnh những người đàn ông tài sắc. Sau chuyện thầy Khang là đến chuyện thầy Tạo.

Hễ tuần trước thầy Khang lên lớp giảng thơ Kiều, tức thì tuần sau có chuyện xảy ra với thầy Tạo. Thầy Tạo trẻ hơn thầy Khang nhiều, lại đẹp trai, môi đỏ thắm. Thầy viết chữ đẹp, văn hay, tính cẩn thận nên được cử làm chân thư ký hội đồng. Công việc đang trôi chảy thế, thầy đang cười tươi thế, đến một ngày thấy thầy buồn đến hoảng loạn. Hỏi mãi mới biết ở trường thầy bị nhiều kẻ ganh ghét, ông hiệu trưởng quen gia trưởng định kiến, thầy Tạo bị “đặt bẫy” sau một kỳ thi... Hễ mỗi lần ông hiệu trưởng gầm ghè quát tháo là thầy Tạo bị động kinh. Từ đó thầy sợ tất cả. Thầy luôn lên cơn co giật. Đôi môi đỏ thắm trở thành tím tái. ở quê người vợ trẻ dịp đó bỏ thầy. Thầy khóc như trẻ con. Người ta bảo: “Có khi khu trường gần mộ cụ Nguyễn Du, nên cái câu tài sắc bạc mệnh ám vào thầy Tạo”. Chỉ biết mỗi lần sợ sệt lên cơn thầy khóc lóc, rồi lăn xuống chân đồi cát như một bông cỏ khô. Cả khu trường lại nhao lên: “Đi cứu thầy Tạo”.

Chờ đến cuối tuần trọ học, cậu bé Hấn về nhà hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, sao nhứng người đàn ông giỏi dang như thầy Khang, thầy Tạo trường con khổ thế hả mẹ?

Mẹ bảo:

- Lớn lên rồi con sẽ hiểu!

Hình ảnh thầy Khang, thầy Tạo mà mái trường huyện Nghị Xuân sát bên khu mộ Nguyễn Du ấy ám ảnh vào hồn cậu bé Hấn và nhóm bạn vào đời. Hấn chọn nghề anh Ký cầm bút để nhằm lớn lên tìm kiếm mổ xẻ chính mình, về cuộc đời mệnh bạc của những người đàn ông. Cậu Từ, người bạn học cùng dãy bàn thì nói:

- Tớ vào ngành Y.

Vậy là Hấn thi thành anh Ký Hấn. Từ thì thành ông Đốc tờ Từ.

Ký Hấn vào đời, tự mổ xẻ mình không xong, chỉ gặp toàn cảnh đàn ông mệnh bạc. Họ như bị hành hạ từ kiếp nào. Anh bạn Minh vừa mới ngủ dậy thì lăn ra chết. Anh Tất chết sau một đêm. Có người chết sau một tuần ốm như anh Tiến. Có người sau ba tháng đổ bệnh, qua một kỳ mổ xẻ thì chết như anh Đặng. Đó là những cái chết ngay nhỡn tiền của đàn ông. Còn có cái chết dần chết mòn dai dẳng.

Chẳng ngờ cảnh ngộ thầy Tạo, thầy Khang lại nhập vào anh học trò học giỏi ngày xưa, về sau trở thành Đốc tờ Từ.

Từ là một bác sỹ phẫu thuật giỏi, rất thành đạt. Anh từng mổ hàng trăm ca bệnh hiểm nghèo thành công, lại có nhiều ca ở chiến trường khỏi lửa. Nhưng anh sớm bị ghen ghét, hành hạ. Chẳng bao lâu lâm vào tâm thần. Thể bệnh oái oăm, luôn cảm thấy bị ám hại.

- Chúng nó bàn nhau hãm hại tôi!

- Có một mụ đàn bà chuyên hãm hại tôi!

Cứ thế, sau những lần gào lên, Từ lại càng bị định kiến, quy chụp. Còn hình ảnh người đàn bà định mệnh trong cuộc đời người đàn ông - như người ta thường nói - thì không rõ là ai. Lần cuối cùng gặp Hấn, Từ còn đủ tỉnh táo để nói:

- Người ta bắt tớ. Người ta gí một cái gì như hơi lửa vào sau gáy tớ, thế là đời tớ đi toi...

Nói rồi, mắt nhìn bạn hết sức lạ lùng, đầy vẻ nghi hoặc. Bạn mời nước thì nói:

- Có bỏ thuốc độc vào không đấy?

Bạn rủ ra ghế ngồi chơi, thì nói:

- Có bày hiện trường giả không đấy?

Hấn giật mình: Đôi mắt của anh bạn đốc tờ Từ bây giờ giống hệt như đôi mắt của thầy Tạo năm nào.

Đến ngày Hấn chỉ còn thấy bạn sau cánh cửa Viện tâm thần Trâu Quỳ.

Lần chia tay bạn mới rồi, Từ vừa chạy vừa đọc hổn hển những câu thơ Kiều, hệt như giọng đọc thầy Khang.

Ký Hấn cảm thấy như mình cũng nhiễm bệnh, căn bệnh nan giải lạ lùng của đàn ông. Nhắm mắt lại là anh thấy cảnh tượng chiếc đèn kéo quân khổng lồ nơi quán bia hơi Gò Nhân Sư. Nghe nói dưới Gò Nhân Sư từ xưa toàn xác đàn ông chết trận. Đêm đêm hồn vía hóa thành lũ khỉ đu lên cành cây hát múa, ngâm thơ. Người ta còn gọi là Gò Ma./.

Đất

Mẩu rao vặt lạ chọc vào mắt: "Nhà bán. Đất ngang 10, sâu 20 mét. Đủ tiện nghi tân kỳ. Người giới thiệu 13 lượng 999, giá thực bán 120. Liên hệ 9404103, nhắn Bần chủ đất". Tôi bỏ tờ báo xuống, cười khẽ. Số điện thoại này là số của nhà tôi ! Hắn lại sắp giở trò gì đây? Khó hiểu thật!

    Năm ngoái, Bần làm tân gia. Hắn mời đủ loại thực khách. Cán bộ quận. Cán bộ phường. Cán bộ lãnh đạo cơ quan vợ. Lạc lõng làm sao, trong đám khách mời có cả ông Hai A, ông Tư Ngão và vợ chồng tôi.

    Thực ra, vợ chồng Bần mời chúng tôi tới để cảm ơn cũng là chuyện thường tình. Vì vợ hắn làm kỹ thuật cắt may ở công ti Mimimex, trong tổ do vợ tôi phụ trách. Còn tôi, tôi chính là người dẫn dắt ban đầu, khiến hắn có được ngày hôm nay.

    Tôi còn nhớ, sau bữa tiệc tốn hàng chục triệu, Bần ngà ngà say, chẳng biết thật hay giả, bảo tôi:"Em ngán cái xứ khỉ ho cò gáy này đến cổ rồi ! Sớm muộn gì thì em cũng phải chuồn ra phố thôi bác ạ ! Nhiều tiền lắm bạc thì được cái thá gì, nếu sống mà không biết hưởng thụ nhỉ? Thôi thì, tiện đây, em nhờ bác một việc. Nó là thế này... ". Là hắn lại muốn giúp lại tôi. Chứ điện thoại nhà hắn sờ sờ ra đấy, nhấc máy lên là "a lô" liền với khách. Là... Hắn nheo nheo mắt, cười khùng khục: "Bác nhớ đấy! Nhờ cái vía bác lành, em làm cái gì cũng đầu xuôi đuôi lọt. Ăắt lần này cũng vậy thôi !".

    Vía vái gì tôi không tin. Nhưng là một thầy giáo, bám trụ ngay từ những ngày ở huyện chỉ có một trường cấp ba độc nhất vô nhị đến nay, tôi rất có uy tín ở vùng đất mới được qui hoạch thành quận và đang trên con đường đô thị hoá như vũ bão này. Số học sinh tôi dạy có tới vài trăm, nhiều em bây giờ đã ra trường, về công tác ở quận, ở phường. Và, không ít gia đình trong vùng, đã coi tôi như người thân trong nhà họ. Ví như nhà ông Hai A chẳng hạn.

    Cái số ông Hai khổ! Lắm ruộng, nhiều vườn mà vẫn khổ! Khổ vì con, vì cháu. Người ta gà trống nuôi con. Ông Hai gà trống nuôi cháu! Đứa cháu ấy là giọt máu duy nhất của dòng họ ông còn sót lại. Ông Hai chặc lưỡi, âu cũng là cái số trời đày! Vậy thì ông phải ráng mà cho nó ăn học bằng chúng bạn chứ ! May mà con Bé ngoan. Ngoài giờ đi học, nó lủi thủi cùng ông gieo trồng sáu công lúa. Năm Bé học lớp 12, tôi thấy sức học của nó đuối lắm. Biết chuyện Bé phải lo làm đồng tối ngày đỡ ông, liền tìm đến nhà, gỡ thế kẹt cho nó bằng cách gợi ý ông Hai chia bớt ruộng cho người ta cấy rẽ.

    Năm 1988, vợ chồng Bần mới chuyển vào thành phố. Qua câu chuyện vợ tôi vui miệng kể cho chị em cùng tổ nghe, vợ Bần đưa hắn đến nhà tôi chơi. Vòng vo một hồi, hắn kêu ca đang thất nghiệp, rồi biếu tôi một chai rượi nếp, nhờ thưa dùm với người có ruộng cho hắn cấy rẽ. Tôi không nhận chai rượu nhưng vẫn đưa hắn tới gặp ông Hai.

    Họ thoả thuận với nhau, trúng vụ thì chia theo lối cấy chị hai, chủ ruộng và người cấy mỗi bên lấy một phần; thất vụ thì chia theo lối cấy chị ba, chủ ruộng lấy mọọt phần, người cấy lấy hai phần. Để tạêo điều kiện cho Bần trong việc trông coi lúa, ông Hai sang rẻ cho hắn một miếng đất nhỏ với giá một trăm ngàn đồng, vừa đủ để cất cái chòi con.

    Phải thừa nhận Bần, một kỹ sư lâm nghiệp bỏ ngang việc theo vợ, có tài nông gia. Số lúa hắn chia cho gia chủ vụ nào cũng gấp đôi những năm ông Hai cấy. Hắn được ông Hai qúy ra mặt, chẳng chầu nhậu nào mà ông không có hắn bên cạnh. Nâng lên đặt xuống, ba ba con con, tình cảm tưởng như ruột thịt chưa dễ bằng. Tôi lấy làm mừng. Phần vì Bần có bát ăn bát để. Phần vì con bé đã học tới được đại học.

    Bỗng một hôm ông Hai A kiếm tôi, buồn buồn bảo: "Ruộng nhà tôi sắp mất hết rồi !". Tôi gặng hỏi, ông ngẹn giọng trả lời rằng, nghe phong thanh, người ta đồn ầm lên là nhà nước sắp mở một cái lộ to lắm. Mặt lộ chiếm trọn phần ruộng nhà. Mà nghe nói thì giá đền bù đất ruộng chỉ vẻn vẹn năm ngàn đồng một mét. Ruộng còn sinh ra lúa gạo nuôi người. Chứ tiền vào tay nhà nông, như gió vào đất trống, hết, lấy gì mà ăn !

    Ông Hai kể lại, chính anh trắc địa trắc đồ gì đó đi đo đất, mách nước cho ông nên bán chạy trước đi, may còn vớt vát chút đỉnh chăng? Ông đã chạy đi tìm Bần làm"cò" đất. Bần cười khà khà nhận lời. Chừng nửa tháng sau, hắn trả lời chẳng có ma nào dám mua đất sắp trở thành đường chung cho thiên hạ cả. Hắn bảo, hay là hắn liều? Hứa vậy nhưng hắn vẫn cố ý thờ ơ, cố lánh mặt ông. Nhóm nhậu, kêu mãi hắn mới sang. Rồi ông nói khó. Ông nài nỉ. Hắn ậm ừ chê đất xa bờ kinh. Giá như cho không, mỗi công bảy chỉ vàng. Hắn kêu chỉ mượn được của người quen chừng ấy !

    Vậy mà, chỉ mấy hôm sau, Bần lại mượn được tiền mua luôn hai công công đất sát mé lộ dọc theo bờ kinh của nhà ông Tư Ngão. Nghe kể, hôm giao tiền cho ông Tư, hắn nói rồi vợ chồng hắn sẽ là tỉ phú, hoặc sẽ đi ăn mày. Hắn mà đi ăn mày, cô bác nhớ thương tình cho...

    Dạo ấy, do lòng kinh bị phù sa bồi, thuyền bè chỉ qua lại được khi nước lớn, thành phố phải cho tàu cuốc nạo vét thông luồng. Ôống hút bùn ồng ộc chảy vào ruộng lúa. Ai nhìn cũng xót, kêu đến tận chính quyền.

    Vô tình thế nào đấy, vào đúng dịp này, Bần làm đơn xin chuyển cơ cấu cây trồng. Một mô hình mới đây. Và quan trọng hơn, có chỗ cho tàu cuốc nhả bùn. Mấy anh trong uỷ ban nghĩ vậy và phê ngay vào đơn. Vậy là, dù không chủ định trước, tám công lúa của hắn thành gò thành đống. Chẳng tốn kém một cắc lẻ nào gọi là có ! Vẫn theo lời Bần kể, nể tình người chịu thiệt thòi vì lợi ích chung, người ta còn đồng ý nâng cấp hai trăm mét vuông từ đất nông nghiệp thành đất thổ cư cho hắn. Số đất thổ cư này Bần xin ở vị trí chính giữa khu đất gò. Hắn còn hài hước nói rằng, đó chính là cái bánh chưng mà vợ chồng người cấy rẽ hôm nào dành dụm từng hạt gạo và gói được...

    Cuộc đới lắm cái bất ngờ! Người ta lại thấy anh trắc địa đi đo đất. Chẳng hiểu đo làm gì mà đo lắm thế cơ chứ? Đo đến hai tuần lễ! Người hiếu kỳ ngó được mấy tờ giấy họ ghi chép về khoe những người tò mò rằng, khu ruộng gần bờ kinh sẽ thành khu dân cư, dành cho những hộ bị giải toả trong thành phố đến ở nay mai. Riêng Bần, hắn cứ gân cổ lên cãi, cho đó là tin đồn nhảm...

    Rồi khi thấy từng đoàn người xe xa lạ từ những đẩu đâu tới, dò hỏi mua đất rộ lên, Bần vẫn một mực chặc lưỡi, tỏ ý không tin. Mặc dầu thế, hắn bảo, cứ từ từ xem hư thực thế nào, biết đâu vận may tới thì sao ! Vậy thì hắn cũng thử với đời, tự tay vạch ba con đường rộng tám mét, chia đôi số đất của mình ra thành nhiều lô ! Thử rao bán xem sao nào !

    " Trời ơi !", hắn kêu lên với ông Hai trong một bữa nhậu, "Ngươì ta mua thật !".

    Giá lên vùn vụt ! Trong ba tháng liền, Bần viết giấy tay sang đất hết một cuốn tập nhỏ. Hắn trở thành tỉ phú chứ chẳng chơi ! Vẫn còn hai trăm mét vuông trên có cái nhân bánh ! Thì xây chơi ! Và thế là ngôi nhà ba tầng mà hắn rao bán trên báo, đã mọc lên sừng sững như sau một phép lạ huyền bí và mầu nhiệm.

    Mẩu rao vặt trên báo hại tôi. Chuông điện thoại liên tục reo trong suốt một tuâđn liền. Tôi lại phải giải thích, chỉ dẫn. Có người dò qua tổng đài 116, biết cả địa chỉ, đến tận nhà nhờ tôi đưa đi xem nhà Bần.

    Vía tôi lành. Chưa đầy ba tháng, nhà Bần đã về tay một ông cán bộ quận sở tại. Bên nhận tiền ra đi, bên dọn về nhà mới, chỉ làm giấy tay với nhau. Ông chủ mới tỏ ý hài lòng lắm, thành tâm biếu tôi một thùng rượu tây. Bần còn hả hê hơn. Hắn giữ đúng lời hứa, đem trả công tôi 13 cây vàng. Tôi từ chối. Hắn giận, bỏ về.

    Nhưng năm hôm sau, vợ hắn đi một chiếc xe Dreame mới tinh đến nhà chơi với vợ tôi. Rồi lấy cớ đến chung cư Vĩnh Hội thăm một người bạn trên lầu hai, chị ta dắt xe để vào một góc nhà.

    Buổi trưa, nhìn qua kính tủ chè, tôi bất chợt trông thấy một tờ giấy lạ, trên đè một cái chìa khóa. Mở ra xem mới biết là hóa đơn mua chiếc xe kia. Hoá đơn ghi rõ tên người mua là tôi. Dĩ nhiên, tôi vẫn không chịu, nhắn Bần tới lấy xe về. Chiếc xe vợ hắn để đâu vẫn còn nguyên đó.

    Cách nay nửa tháng, Bần đến thăm tôi. Hắn khoe đã mua được nhà ở quận Nhất. Sắp tân gia nên đến mời vợ chồng tôi. Hắn bảo vẫn cần cái vía may của tôi. Song hắn tỏ ta tiếc. Vì hắn mới hay thành phố qui hoạch khu đất đã bán thành khu nhà ở cao cấp...

    Tôi ngớ người hỏi trước đây sao mấy anh trắc địa nói đám ruộng kế bên lộ ven kênh tiêu nước kia chỉ là khu dân cư xoàng thôi mà? Bần cười mửa miệng, bảo hắn chưa học hết chữ ngờ ! Cũng tại hắn non gan, chỉ dám tung tin đến cỡ ấy qua miệng đám trắc địa ma, đám khách mua đất giả, tức là mấy thằng bạn thất cơ lỡ vận ăn tiền của hắn để làm cái việc láu cá này !

    Tuy vậy, lúc chia tay tôi, Bần vẫn cười hề hề, thản nhiên bảo những tờ giấy viết tay hôm nào, sẽ không làm hại nổi hắn đâu! Trước thời vận mới vừa mở ra đối với khu ruộng đất, nếu khéo léo và chịu suy nghĩ một chút, hắn có thể biến chúng thành một món tiền to, thậm chí còn lớn hơn cả số vàng bạc mà hắn đã hốt được từ việc sang đất trước kia !

    Nghe thì biết vậy thôi ! Chứ thực lòng, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu được cách mà Bần sẽ dùng để giải bài toán về những tờ giấy tay hóc búa ấy như thế nào?

"CÒ " RUỘNG

TRIỆU VĂN ĐỒI

Các cụ ta xưưa có câu: “Có răng răng nhai, có lợi lợi gặm” là muốn nói tới cái sự “Tự bằng lòng” và biết chấp nhận để sống thông qua việc nhai (ăn).

Nhắc tới câu châm ngôn này, tôi chợt nhớ ra một chuyện.

Có anh Luân ở quê tôi, gia cảnh tuy chưưa đến nỗi liệt vào loại khốn khó, nhưng với thu nhập thuần nông, mọi thứ chi tiêu đều trông chờ vào hạt thóc cả thì tiền mặt trong nhà vẫn thưường xuyên vóng bóng. Mấy sào ruộng khoán chịu khó làm lụng thì cũng chỉ đủ lương thực trong năm. Thành ra, trong khẩu phần ăn, bát cơm có thêm miếng thịt thì đưương nhiên là không thể xới đầy có ngọn. Bảo đời sống bây giờ đã bưước lên nấc thang ăn ngon, mặc đẹp. Đúng quá. Nhưưng là đúng với người ta, chứ gia đình anh thì ăn no trong giai đoạn hiện nay vẫn là “then chốt”. Mà cái giống ở đời, ăn uống kham khổ vẫn đi theo thói xô bồ, bỗ bã. Thiếu một lưng cơm là cái dạ dày cứ cả ngày bóc róc. Có thêm miếng thịt nửa mỡ nửa nạc, cắn ngập chân răng thì cái dạ dày lại càng “yêu sách” tợn. Thành ra bữa ăn có tý thịt, cá luôn là một khát khao, là một cái gì đang còn xa vời lắm của gia đình anh.

Tuổi tuy chưa cao nhưng răng lợi anh Luân thì “lởm khởm” hết chỗ nói. Răng mọc không có trật tự đã khổ, đằng này răng anh gãy lại không có trật tự còn khổ hơn nhiều. Không có trật tự là bởi cái trên còn thì cái dưưới mất. Chúng gãy so le, lúc nhai cứ như cài răng lược với nhau. Thành thử tiếng là có hai hàm răng mà nhưư không có. Mà không có răng thì không có hẳn, chứ dở dở dương dương như trường hợp của anh thì …Cơm, rau, thịt, cá cứ nhưư chúng cũng biết tránh răng, lọt vào khe cả. Cái sự ăn của anh bây giờ hoá ra có răng mà không nhai đưược, có lợi mà không gặm được.

Dạo ấy quê tôi đang rục rịch sắp sửa sát nhập với thủ đô (Thế là sắp tới, trong trích ngang của mình, nghiễm nhiên tôi là ngưười “Hà Lội” nhé. Oách chưa!) Nghe tin sắp tới sẽ có rất nhiều dự án đầu tưư xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị mới và các công trình nâng cấp hạ tầng cơ sở. Thông tin ấy tạo ra một cơn sốt đất ruộng. Cả ngày chỉ thấy rình rịch ngưười đi hỏi mua đất ruộng. Chỗ nào cũng xôn xao bàn tán về chuyện bán đất ruộng, về chuyện giá cả, về chuyện nhà nọ tự dưng đem một cục tiền to đem ném xuống giếng vì bán hớ, nhà kia bỗng nhiên trúng lớn....Từ ba bốn mưươi triệu một sào, vài hôm sau đã lên bảy tám mưươi triệu. Thời giá này không biết còn lên tới bao nhiêu nữa. Khó lường. Mua bán tất tật đều theo phương thức trao tay. Chỉ cần người bán viết một giấy cam kết: Nếu sau này đất nằm trong quy hoạch của dự án thì ngưười mua được hưởng tiền đến bù và các quyền lợi khác. Trong số những ngưười đi mua, phần đông đều thuộc loại “cò gỗ”, “cò nhà”.

Anh Luân cũng thuộc một trong những “cò gỗ”, “cò nhà” ấy. Đúng là thời buổi kinh tế thị trưường có khác, cái sự làm ăn cũng thông thoáng hơn. Hay nhất là chẳng cần vốn liếng, nhằng cái chỉ cần mua đưược một sào cho “chủ” đã cầm chắc trong tay hai triệu. Hai triệu đồng quy ra thóc gạo, dễ chừng làm cả vụ mới nên. Đây chưa nói tới nắng hạn, sâu rầy, rét chết mạ, chết trâu. ấy là còn chưa kể đến thuốc trừ sâu, thuỷ lợi phí, phân đạm phân lân các kiểu…Căn cơ, tính toán ra trừ chi phí các thứ thì nửa năm bán mặt cho đất, bán lưưng cho giời như gia đình anh thì hai triệu đồng quả là một khoản tiền không nhỏ. ấy là chưưa kể người bán cũng còn “lại quả” cho một ít. Nếu không thì cũng gọi đi bia bọt, đánh chén gọi là để cảm ơn cho có trưước có sau.

Anh cũng đã “cò” đưược chỗ này dăm thước, chỗ kia nửa sào. Cầm những đồng tiền dễ nhưư trở bàn tay nhờ “Chitromex” anh nhưư kẻ đi ra từ một giấc mơ. Từ cái ước muốn bữa cơm có thêm một tí thịt, cá bỗng nhiên trở nên quá tầm thường, nhỏ bé. Cứ cái đà này, chỉ nay mai thôi anh sẽ phất lên nhanh chóng. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta trở nên giàu có? Anh không thể tưởng tượng nổi bởi anh đã giàu có bao giờ đâu mà biết. Nhưng anh đã bắt đầu nghĩ tới sự hưởng thụ. Đã nói tới cái sự hưởng thụ thì không thể quên được nhóm tứ khoái. Trong cái nhóm “tứ khoái” thì chẳng phải tự nhiên mà ngưười ta xếp cái sự “ăn” lên trên các sự khác. Nhưưng khổ cho cái bộ răng của anh, có đem của ngon, vật lạ cho nó sài thì cũng bằng phí vì nó chỉ có thể nhai trệu nhai trạo mà thôi. Vô lý. Có tiền mà chẳng đưược ăn ngon. Vậy là anh quyết định phải đi cải tổ, nâng cấp bộ răng cho hoàn chỉnh.

Nghe ý kiến đề xuất, vợ con anh “biểu quyết” tán thành một trăm phần trăm. Riêng vợ anh, sau khi giắt bọc một ít tiền chồng đưưa thì bảo:

- Tôi đi xem quẻ, năm nay là năm anh làm ăn có nhiều lộc nhất từ trước tới nay đấy. Thôi, thầy nó cứ đi làm bộ răng mà ăn cho đỡ khổ. Ai lại đi uống rượu ở đâu cũng cứ phải giắt cái kéo con trong túi. Bất tiện quá! Mà không làm thì thôi, còn đã làm thì phải làm cái loại nào nó tôn tốt vào.

♣♣♣

Sốt đất ruộng. Cả làng sôi lên hơn cả mùa WORLD CUP. Ngõ dọc ngõ ngang chỗ nào cũng thấy bày bán thuốc lá thơm, rưượu bia các loại. Các quán ăn dã chiến đặc sản vịt nướng, gà ri mọc lên nhưư nấm sau mưa. Đêm đêm, tiếng karaoke mở hết công suất phát ra những giọng khê nồng. Chẳng thể phân biệt đâu là ngưười hát, đâu là rượu hát.

Trong lịch sử của làng, từ xa xưưa cho tới hôm qua, làng chỉ thuần nông. Cái sự chi tiêu hết thảy đều chi ly từ ngọn rau, con tép. Vậy mà bỗng dưưng người dân lại tiêu tiền vô tưư, hào phóng đến thế. Vẫn biết là bán ruộng đi rồi thì làm gì để sống. Nhưưng suy cho cùng thì có làm cũng chẳng được là bao. Ngày ba tháng tám, những lúc nông nhàn vẫn phải chạy chợ, vẫn phải buôn đứng bán bưng. Người không quen chợ búa thì đó đơm, te rủi kiếm con ốc con cua. Những người có sức khoẻ thì rủ nhau đi làm ăn tứ xứ, đến vụ gặt mới về, gặt xong rồi lại tiếp tục đi. Vả chăng, người ta đến mở khu công nghiệp chẳng lẽ lại chở hết tất cả người từ nơi khác đến hay sao. Với lại, ruộng hợp tác ngày xưưa là của chung, giờ giao khoán, giao quyền sử dụng đất cho mình, không bán thì mai kia hết thời gian giao khoán rồi cũng lại đem rũ rối, chia lại, chắc gì còn là của mình. Chi bằng bán quách lấy một cục tiền to giắt bọc là ăn chắc nhất. Xưa nay cái khó vẫn bó cái khôn. Lam lũ, chắt bóp lắm mà mấy khi đã có tiền triệu trong nhà (?). Có đồng tiền trong tay cũng dễ xoay xoả. Nào dỡ bỏ cái nhà từ thời các cụ để lại, mưa trận nào cũng dột, xô chậu cứ chạy vòng quanh, làm lại cái nhà mái bằng có nền lát gạch men, trưa hè lau sạch ngả cái lưng cho nó mát. Nào mua cái xe máy, đi đâu “vèo” cái đã tới nơi... Ngẫm kỹ lại thấy đời con người ta khổ nhiều chứ sướng thì có được là bao. âu nó cũng là thời cơ, vận hội của làng.

Hàng ngày anh Luân bỏ hết mọi việc, tập trung đi hỏi mua đất ruộng. Nhiều chỗ chắc mẩm trăm phần trăm, họ nhận lời rồi, đến khi đưưa “chủ” đến lại đòi tăng giá hoặc nguây nguẩy không bán nữa. Thế là công cốc công cò. Để chắc ăn, anh nghĩ ra cách “cốp” tiền trước. Nhưng mà lấy tiền đâu để “cốp”? Thì lại phải trông vào túi tiền của “chủ”. Anh chấp nhận làm một hợp đồng ứng trưước với chủ bốn mươi triệu đồng, tương đưương với khoản thù lao “Chitromix” của hai mẫu ruộng. Trong hợp đồng cũng có những điều khoản giàng buộc là nếu anh không hoàn thành, thì phải chịu nộp phạt gấp bốn lần, hoặc... mà còn hoặc gì nữa, nhất định là phải bán ruộng của chính nhà mình. Biết làm sao, thời buổi bây giờ đâu phải tự nhiên mà người ta bỏ ra một lúc mấy chục triệu đồng ứng trước cho mình. Chẳng ai dại gì lại thả gà ra để mất công đi đuổi.

Mua được vài ba chỗ dễ dàng, suôn xẻ nên anh coi việc đó đang ở trong tầm tay. Phen này có tiền “cốp” trước đừng có thằng nào lật đưược anh nữa. Trong cánh “cò gỗ”, “cò nhà” cũng nhiều anh chửa nghĩ ra kiểu mua đặt cọc này nên cứ lưượn lờ, cứ xông xáo chán rồi cũng lại thành Trần Văn Tõn. Đúng là “Quan sang không bằng hàng đắt”, đang lúc sốt đất ruộng, người bán có vị thế cao giá lắm. Có mụ nạ dòng mới hôm qua còn sấp sấp ngửa ngửa tối ngày, buông cái liềm ra lại vớ đôi quang gánh chạy chợ, giờ thì vênh mặt nói chỏng lỏn:

- Đây ý à! Cứ “Đại Từ” nhé! Cứ vô tư vén quần đến bẹn, gác chân lên đố thượng cho mát mà ngủ sướng mắt cái đã.

Thế đấy! Đắt thì bán chơi, rẻ thì để đấy. Chẳng có cớ gì bắt người ta phải bán cho mình. Anh cũng đã “cốp” được vài ba chỗ. Yên tâm, tạm coi như cá đã mắc câu, nhấc lên lúc nào thì nhắc.

♣♣♣

Anh ra Hà Nội. Chiêu thức để người ta khỏi chê mình quê mùa một cục là cứ phải nói vống lên. Mà có ai đánh thuế cái anh nói phét đâu. Anh đến một phòng răng và bảo với tay bác sỹ nha khoa:

- Tôi đi mấy phòng răng rồi, chỗ nào cũng chỉ có loại xoàng xoàng. ở đây có loại nào tuyệt hảo thì ông nói nhanh để tôi khỏi mất thì giờ.

Tay bác sỹ nhìn anh từ đầu đến chân và tỏ thái độ rất khó chịu. Bỗng tay này thay đổi nét mặt rồi vồn vã:

- Bác đến đúng địa chỉ rồi đấy! ở đây có đầy đủ các loại chất liệu: Compusit, Inốc, Ti tan, sứ thẩm mỹ… Nói chung là tiền nào của nấy. Tiền nhiều thì răng tốt. Chỉ sợ bác không chịu được “nhiệt” mà thôi!

- Chuyện nhỏ. Đáng là bao. Cùng lắm là dăm ba thước đất.

Tay bác sỹ lúc đầu còn coi thường anh, nhưng khi nói đến “đất” thì anh ta hiểu ngay là mình đang gặp một khách hàng có “máu mặt”. Thời buổi bây giờ chẳng có thứ gì có thể so sánh được với đất. Đài, báo suốt ngày ra rả thị trường bất động sản đóng băng mà mới nói tới đất đã phải nghĩ ngay tới tiền tỷ. Hèn nào thằng cha trông quê mùa mà nói cái giọng cứ như thể các đại gia.

- Bác yên tâm đi. Bác ở nông thôn chắc không lạ gì cái hàng rào. Đấy! Cái hàm răng của người ta cũng y như cái hàng rào. Chỉ cần đổ một cọc là cái hàng rào nó xiêu vẹo, lung lay. Mà của bác lại đổ cách quãng, trên bốn cái, dưới năm cái. Vậy có hai cách để củng cố cái hàng rào: Hoặc là “dặm” lại (không biết quê bác có nói thế không, có nơi người ta gọi là “cạp” lại cũng thế), hoặc là đào hố chôn ngay những cái cọc mới. Nói thế thì bác rõ quá rồi còn gì.

- Chú ở đâu ta mà nói năng về nông thôn có vẻ rành rẽ thế?

Tay bác sỹ nha khoa cười rồi mang ra một bộ răng bằng thạch cao giảng giải cụ thể:

- Bác nhìn đây! Nếu ta “dặm” cái hàng rào này thì chỉ cần mài bớt hai cái bên cạnh cái bị gãy, sau đó “bắc cầu” để cho nó gánh chiếc bị gãy. Chất liệu thì phải làm bằng i nốc cho nó khoẻ. Thế còn đào hố chôn cọc mới thì khỏi phải bàn. Sẽ khoan vào xương hàm rồi cấy một con vít bằng thứ nhựa đặc biệt, rắn hơn xương. Xương người ta cũng không khác xương gà là mấy, chỉ sau một thời gian ngắn, xương sẽ liền chặt vào chân vít bác hiểu chưa? Tức là sẽ tạo cho bác những cái răng có chân. Chắc không kém gì răng thật. Đảm bảo bác lại nhai xương gà rau ráu.

- Được thế thì còn gì bằng. Phen này...

Vậy là anh nghiến răng đồng ý, mặc dù biết giá của những chiếc răng làm theo công nghệ mới này cực đắt.

♣♣♣

Những thông tin về quy hoạch khu công nghiệp, khu đô thị mới, việc đền bù, việc tái định cư và việc bán đất dịch vụ như những cơn gió nóng rát, ào ạt thổi về làng. Những thông tin này lúc được thổi phồng hết cỡ khiến người ta sôi sục, khi bị bóp méo, vo viên lại làm người ta chưng hửng, đứng tim...Giá của mỗi sào đất ruộng vì thế lên xuống khó lường hơn cả thị trường chứng khoán. Cả người bán lẫn người mua đều bị cuốn vào một sân chơi... mạo hiểm. Cái kết cục là kẻ thắng người thua hiển nhiên là một sự nhãn tiền. Mới từ Hà Nội về, vừa bước chân vào nhà đã thấy mấy chủ đất ngồi đợi sẵn. Thì ra họ đến để chuộc lại số ruộng đồng ý bán cho anh mà họ đã nhận tiền đặt cọc trước đây. Mới vắng nhà có mấy hôm mà làng như chiếc mảng trôi mãi về đâu không biết. Những chiếc răng với giá cả mà nếu không sống và ngập chìm trong cái không khí sục sôi về đất ruộng của làng thì chắc anh Luân khi nghe nói cũng chỉ biết lắc đầu, lè lưỡi... Và, cũng vì nó mà anh chợt loé lên cái ý tưởng “của ruộng đắp lên bờ”. Các chủ đất đều chấp nhận trả lại số tiền gấp đôi tiền đặt cọc. Vậy là tự nhiên anh có trong tay mấy chục triệu đồng.

...Người viết truyện ngắn này đã có dịp ngồi uống rượu với anh trong một đám cưới con trai một người bà con trong làng. Ngồi cùng mâm với anh, sau khi cụng chén có người bảo:

- Giờ sướng nhất ông Luân. Đi uống rượu đâu không phải thủ sẵn cái kéo con trong túi. Răng chắc, nhai xương gà rau ráu thế này chắc phải đẻ thêm một thằng cu nữa chứ! Nào ta cạn.

Anh nâng chén rượu lên rồi lại đặt xuống. Cười buồn.

Chuyện anh Luân làm “cò” ruộng thì về sau cả làng ai cũng biết. Cả đời anh chỉ cắm cúi với ruộng vườn, ít va chạm, ít giao du. Thế mà bỗng dưng nảy nòi đi buôn “hàng xách”. Chính cái “khôn” mà “lỏi” của anh nông dân đã gạt anh sang phía những kẻ thua trên sân chơi mua bán ruộng trong làng. Anh buộc phải bán ruộng nhà vì không thực hiện đúng cam kết. Và, cái ảo tưởng sẽ giàu lên nhanh chóng đã nướng mấy sào ruộng của anh vào những chiếc răng lẽ ra không cần phải tốn nhiều tiền như thế.

- Lúc không có răng còn có cái mà ăn. Giờ có răng rồi biết lấy gì để cho vào miệng (?).

Anh ngửa cổ uống cạn chén rượu như cố nuốt trôi sự đời đắng đót. Nghe anh nói mà buồn. Làng này anh Luân không phải là trường hợp hy hữu. Phần đa những người bán ruộng, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ lâm vào cảnh ngộ như anh.

Ký ức Hà Nội

Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đât phía đông của xứ Đoài. Tiếng là cách một tỉnh Hà Đông cũ, nhưng theo đường chim bay cũng chỉ xa trung tâm Hà Nội chưa đầy hai mươi cây số. Mùa hè, những đêm vắng trăng sao, ngồi trên triền đê hóng mát, nhìn về phía quầng sáng hắt lên cả một khoảng trời, lũ trẻ trong xóm cứ ước ao được một lần “ra” Hà Nội. Còn tôi í à! Không chỉ có ước ao thôi, tuổi thơ tôi đã có cả một thời gian dài ngóng về Hà Nội.

Cha tôi mất trong một trận càn của giặc Pháp để lập vùng tề khi tôi chưa đầy một tuổi. Mẹ tôi ở lại, một mình tần tảo nuôi con. Với dăm gánh hàng xén (bà bảo là phải có gánh đi, gánh đứng, gánh nằm, gánh ngồi tức là gánh để chợ Phủ, gánh gửi chợ Gốt, chợ Bương, v.v…) thì cứ năm ngày mẹ tôi lại có mặt hai hôm ở Hà Nội để cất hàng. Dưới rặng tre đầu làng nghiêng ngả trong gió rải đồng, chúng tôi nhìn hút về phía đường cái quan. Khi chiếc xe ca đầu rụt màu vàng xỉn của hãng xe Vạn Lợi cuốn bụi trên đường, anh em tôi như cùng lúc nhảy cẫng vì sung sướng, liến thoắng reo lên: Mẹ đã về, mẹ đã về. Nhưng cũng nhiều lần chúng tôi mừng hụt, mếu máo và khóc tức tưởi vì trong cái đám bụi mù mịt kia, khi xe dừng lại không có bóng dáng mẹ mình. Những đêm như thế, anh em tôi lại dắt nhau lên triền đê nhìn về cái quầng sáng từ bầu trời Hà Nội. Nhiều lần mẹ bị nhỡ xe, phải quảy vã từ bến xe điện Hà Đông, qua Thanh Quang, Ngãi Cầu rồi đi tắt qua sông Đáy theo đường quán Sung về Phủ Quốc. Cái hình ảnh trong ánh sao khuya, mẹ tôi quăng vội gánh hàng, hớt hải chạy ào đến mà ôm lấy anh em tôi còn ngồi đợi mẹ trên bờ đê cùng vầng sáng của bầu trời Hà Nội đã theo tôi, và sẽ theo tôi đến trót cuộc đời. Những hình ảnh ấy khi đan xen, tách rời, lúc như nhập vào làm một. Để mỗi khi nghĩ về Mẹ, tôi lại nhớ về Hà Nội và, mỗi khi nghĩ về Hà Nội tôi lại nhớ về người Mẹ thân yêu.

Những đêm như thế, anh em tôi mỗi đứa bám một bên chân quần, hớn hở, lon ton theo mẹ về nhà. Khi ngọn đèn phẫn (loại đèn toạ đăng cỡ nhỏ) thắp lên, chúng tôi xoắn xuýt quanh gánh hàng, hau háu chờ được chia quà. Khi thì một chiếc bánh Tây (bánh mì), bao giờ mẹ cũng cắt cho tôi một nửa to hơn, thế mà tôi vẫn cứ liếc xéo nhìn nửa kia của anh tôi mà đo đếm. Tôi chỉ ăn giả vờ, ăn một tí rồi giấu biến vào cạp quần và quay sang ăn dỗ của anh. Phần bánh Tây to bằng nắm tay còn lại ấy, tôi dành để sáng mai. Tôi theo lũ trẻ trâu lên đê, sang bãi. Chỉ cần véo một miếng bằng ngón chân cái cho một thằng nào đấy là tôi được nó cho cưỡi trâu cả buổi. Cũng có khi quà mẹ chia là một cục đường phèn. Đường phèn thì thôi rồi. Tôi phải bấm móng tay làm cữ và lần lượt cho từng đứa mút. Mút xong, đứa nào cũng liếm môi thèm thuồng, kiên nhẫn chờ để được đến lần mút thứ hai… Vậy là tôi và lũ trẻ ở làng quê từ những năm xa xưa ấy đã ít nhiều “đụng” được vào “món ngon Hà Nội”. Món ngon Hà Nội theo cách nghĩ và sở thích rất trẻ con của lũ trẻ con chúng tôi thời ấy.

Mãi đến sau này, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và văn học được “cởi trói”, tôi mới được đọc

Những món ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai

của nhà báo Vũ Bằng. Ai đã từng được ăn những món ngon Hà Nội, nhất lại là người có gốc “kẻ chợ”, “Tràng An” khi xa Hà Nội hoặc xa đến quá nửa đời người như ông Vũ Bằng mới thấy hết được nỗi nhớ Hà Nội diết da, nỗi nhớ miền Bắc cồn cào, quay quắt. Khác với nỗi nhớ mộng mơ và đậm chất lãng tử của Quang Dũng với Hà Nội

(Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm),

Vũ Bằng từng sấp ngửa, khốn đốn một thời làm báo ở Hà Nội (qua hồi ức Bốn mươi năm nói láo), vả chăng, ông lại bị chính quyền Sài Gòn (và từng một thời, ngay cả phía ta nữa) o bế, thì viết về những món ăn ngon mà gần gũi với người Hà Nội, viết về những đổi thay thời tiết cùng những giao mùa qua mười hai tháng trong năm của xứ Bắc kỳ… đó cũng là nỗi nhớ! Nỗi nhớ Hà Nội của Vũ Bằng có thể cầm lên, đặt nó trên lòng bàn tay được, có thể đưa lên mũi. hít hà và chạm vào đầu lưỡi mà nuốt khan vào cổ… âu đó cũng là thế thái, nhân văn.

Quê tôi là vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông cũ. Là vùng giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tề nguỵ. Mẹ tôi kể rằng những người buôn bán như bà lúc ấy đều tiêu cả hai thứ tiền: Tiền Đông Dương (của Pháp) và tiền Cụ (tiền Cụ Hồ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Bà không kể rõ về “dịch vụ” đổi tiền lúc bấy giờ, chỉ biết ra Hà Nội cất hàng bằng tiền Đông Dương, về Phủ Quốc bán hàng lại bằng tiền Cụ. Những người buôn bán như bà đều chịu sự kiểm soát từ cả hai phía. Ra Hà Nội khám người, thấy có tiền Cụ, nhân viên sở Cẩm, nhà Đoan sẽ tịch thu và lôi vào bốt. ở vùng tự do khám có tiền Đông Dương, dân quân, du kích và liêm phóng cũng lại tịch thu. Người dân quê tôi khổ nhất là thường xảy ra loạn lạc. Hầu như năm nào cũng dăm ba bận tản cư. Người làng tôi thường chạy tản cư vào Đông Yên, Phú Mãn giáp đất Tiến Xuân của Hoà Bình. Chẳng hiểu suy nghĩ thế nào mà mẹ tôi lại đưa cả nhà tản cư ra Hà Nội, ở nhờ một người quen của bà ở phố Hàng Buồm. Lần nào ra khỏi nhà, mẹ tôi cũng dặn bà nội và cô út: “Bà với cô không được cho hai cháu ra ngoài phố. Nhà quê ra tỉnh lớ ngớ là bị mẹ Mìn nó bắt ngay đấy!”

Cha tôi mất rồi, hai giọt máu mà Người để lại được bà nội giữ gìn hơn vạn lần của gia bảo. Dưới sự trông giữ của bà, anh em tôi chỉ quanh quẩn trong vuông sân nhỏ bằng hai chiếc chiếu đậu sau cánh cổng có chấn song bằng sắt sơn xanh. Chán ngắt. Cũng may mà cô út chỉ hơn anh cả tôi bốn, năm tuổi nên cũng dễ đồng cảm, dễ vào hùa khi nghe anh cả bảo: “ Chờ cho bà ngủ trưa, ba cô cháu mình trốn ra phố chơi, cô nhỉ”.

Buổi trưa hôm ấy anh em tôi bỗng dưng ngoan đột xuất. Không cần bà phải giục giã, ăn cơm xong chúng tôi lặng lẽ lên phản trùm chăn. Tôi đoan chắc thời gian theo mẹ tôi ra Hà Nội trông cháu, đấy là một buổi trưa duy nhất bà nội ngủ ngon lành. Cô út tôi thuộc đường, thuộc phố vì hàng ngày cô vẫn đi chợ mua thức ăn cho cả nhà. Ngày ấy chắc cô chỉ mười hai, mười ba tuổi, thế mà cô đã biết chắt chiu từng hào, từng xu theo lời mẹ tôi dặn. Chúng tôi được cô mua cho mỗi đứa một cốc thạch đen có dầu bưởi thơm phức. Tôi lấy thìa xúc một viên thạch cho vào miệng. Mới nhai trệu trạo tôi đã vội nhè ngay ra hè phố. Nhạt thếch. Nhưng thứ nước trong cốc thì vừa thơm, vừa ngọt đến mê ly. Tôi ngửa cổ. Chỉ một loáng, những vuông thạch đen vừa nổi phập phều trên mặt đã nằm trơ dưới đáy cốc. Tôi đẩy chiếc cốc đã uống cạn nước về phía anh, nhanh tay đón lấy cốc thạch mới từ tay bà bán hàng… uống tiếp. Kết quả là anh tôi dỗi và bỏ đi rồi bị lạc. Cô út tôi mặt cắt không còn hạt máu, còn bà nội tôi thì đờ đẫn cả người khi nghe mẹ tôi vừa gào vừa khóc:

- Thế là mẹ Mìn nó bắt mất con tôi rồi. Giời ơi là giời! Thế có khổ cho cái thân tôi không hả giời!

… Rồi Hà Nội cũng không còn là nơi mà theo suy nghĩ của mẹ tôi có thể là chỗ cho gia đình tôi tản cư được nữa. Thỉnh thoảng trong đêm, tôi bỗng giật mình vì tiếng xe ô tô rú còi inh ỏi. Đâu đó lác đác đì đùng súng nổ. Tôi thức giấc. Tôi nghe rõ tiếng bà tôi không hẳn chì chiết, không hẳn van xin khi nói với mẹ:

- Thôi tôi xin chị. Tôi lạy chị. Chị đừng có mà nhẹ dạ, cả tin. Đạn bom loạn lạc thế này, người ta bỏ của mà chạy lấy người, hơi đâu mà chị giơ đầu ra hứng. Hôm qua tôi nghe vú già nói nhà họ chuẩn bị đi Nam. Bà vú người bên Bắc ở cho nhà này đã mấy chục năm. Bà ấy bảo đã đến tuổi gần đất xa giời. Nếu nhà họ đi Nam, bà ấy sẽ lại về quê ở cùng với cháu. Cáo chết ba năm lại quay đầu về núi đấy chị ạ! Số tiền định mua nhà, chị cứ mang về quê, tậu mấy sào ruộng là ăn chắc. Bằng không, chị cứ giắt bọc cho nó sướng!

Mẹ tôi thở dài.

Ngay ngày hôm sau, cả nhà tôi vội vàng khăn gói về quê.

Thời đi học phổ thông, tôi ớn nhất vì phải đánh vật với những trang giáo khoa lịch sử. Tôi hay nhầm lẫn thời gian của các sự kiện. Nhưng cũng nhờ môn lịch sử mà tôi xác định đựơc và vẫn nhớ như in những ngày tản cư ở Hà Nội. Đấy là thời gian giữa ta và địch đang giành nhau từng tấc đất trên chiến trường Điện Biên phủ. Rồi quân Pháp thất thủ ở Điện Biên buộc phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ. Hà Nội trở thành một trong những điểm co cụm của quân Pháp. Khi tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng lê gót giày ra khỏi phía bên kia đầu cầu Long Biên thì ở quê tôi, cờ đỏ sao vàng cũng rợp trời, rợp đất.

Từ Đầm Vạc – Vĩnh Yên, nơi Cửa hàng 2–9 (tên thời chiến của trường Trung cấp Giao thông Vận tải) sơ tán từ Cầu Giấy về, toàn bộ khoa Vận tải Thuỷ khoá 19 chúng tôi ra ga, lên tầu xuôi về Hà Nội đi phục vụ chiến dịch VT5 tại Đồng Hới – Quảng Bình. Chúng tôi ngồi quây thành từng vòng tròn lớn trước cửa ga Hàng Cỏ chờ xe. Với cánh học sinh, sinh viên chúng tôi hồi ấy, đi vào chiến trường mà hồ hởi như được đi du lịch không bằng. Còn tôi, vì vừa “chinh phục” được một trái tim – nàng hơn tôi hai tuổi, đã tham gia hết một nhiệm kỳ TNXP từ Quảng Bình ra học đi cùng (mà thời ấy, việc nảy nở tình yêu trong trường học là một điều cấm kỵ) thì chuyến đi ấy là một kỷ niệm nhớ đời. Hà Nội khi ấy hầu như vẫn vẹn nguyên sau nhiều lần đánh phá của máy bay Mỹ. Chỉ có cầu Long Biên, Tổng kho Đức Giang, Đại sứ quán Pháp và một vài điểm khác bị bom đánh trúng. Có lẽ bởi chúng ta đã chặn giặc từ xa, đã có Hà Tây xứ Đoài quê tôi làm “vọng gác” cho Thủ đô Hà Nội.

Sân ga Hàng Cỏ quá nửa đêm về sáng gió se se lạnh và yên lặng như một công viên, nếu như không có những đoàn tàu hối hả vào ga sau nửa tiếng đến một giờ. Có tiếng ghi-ta bập bùng, ai đó vừa cất lên bài hát

Bài ca Hà Nội

của Vũ Thanh. Tôi nhìn ra xung quanh, tôi nhìn Hà Nội bằng con mắt của một kẻ đang yêu. Hà Nội đêm ấy như dồn tụ trong mắt em với cái nhìn thiết tha, say đắm.

“…Em đi về đâu mà mắt em tươi sáng/ Em đi về đâu mà chân bước hiên ngang…”.

Em đang đi cùng tôi, đi về với tình đầu của chàng trai hai mươi tuổi. Tôi chỉ có thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh từ khi đoàn xe qua Phủ Lý, Nam Ngạn – Hàm Rồng, bến phà Ghép, Vinh – Bến Thuỷ và thị xã Hà Tĩnh. Đồng Hới, nơi chúng tôi dừng chân chỉ còn trơ trọi một tháp nước và một gác chuông nhà thờ. Tranh thủ thời gian ngừng bắn, ta ồ ạt vận chuyển lương thực, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Tôi còn nhớ tàu gạo đầu tiên cập cảng Sông Gianh, có bà mẹ già cứ ôm bao gạo mà khóc nức nở hàng giờ.

Chúng tôi làm việc không kể ngày đêm. Và, đôi mắt em lúc nào cũng như ngôi sao hôm lấp lánh. Những cây dương gãy gục bên Bàu Tró từng chứng kiến những đêm hò hẹn. Cát trắng nơi cửa Nhật Lệ mãi mãi trở thành chiếc giường cưới tinh khôi… Tôi đâu có ngờ rằng: Em mãi mãi nằm lại trên đất này ở cái tuổi hai mươi hai rực rỡ. Những ngày máy bay B52 ném bom Hà Nội, trong những căn hầm chữ A dọc theo đại lộ Đông Dương (đường 10, đường 20 Quyết thắng) chúng tôi chụm đầu bên chiếc đài bán dẫn, thót tim khi nghe tin máy bay B52 ném bom phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai… qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam. Hà Nội đã không bị san phẳng như cái giọng rêu rao của đài Tiếng nói Hoa Kỳ và đài Sài Gòn. Hà Nội đã bủa lưới lửa làm một Điện Biên Phủ trên không để trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, Mỹ buộc phải ký hiệp định chấm dứt chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc… Trước lúc trở ra đồng bằng, tôi cùng một số bạn bè lớp 19V1 đã đến thăm và đắp lại mộ cho em. Tôi biết chiếc áo đang mặc mà tôi đắp lên mộ em không thể nào che cho em khỏi ướt trước những cơn mưa rừng xối xả, không thể làm bóng mát cho em dưới nắng nung cùng những cơn gió Lào cháy khét. Chỉ mong em nhận lấy ở tôi một tình yêu không bờ bến của mối tình đầu và một tình yêu bao la của người đồng đội - những người đồng đội vội vã tìm nhau khi khói bom vừa tan…

Có một thời tôi vọc vạch làm thơ. Những câu thơ vu vơ, không đầu không cuối. Những câu thơ cứ quẩn quanh trong mô-típ sáo mòn, vay mượn và minh hoạ… Thật buồn cho một “thi sĩ” như tôi, đã làm đến cả trăm bài thơ mà chính mình cũng không nhớ nổi lấy dăm câu. Nhiều khi lẩn thẩn ngược dòng, lật giở những trang bản thảo đã cũ nhàu, bằng nhiều loại giấy, mực mới ngộ ra rằng:

Tại ta đâu có là ta.

Và, có một bài thơ (thực ra chưa phải là thơ), đấy là tôi chép lại sự việc khi đứng trước mộ em: Một sự chia xa - Một nỗi đau mất mát - Một lần vĩnh biệt và, một lần thầm hứa với người đã khuất. Chỉ có điều, khi “chép” lại sự việc ấy, tim tôi thực sự run rẩy, xốn xang… Tôi vốn trầm tính và kín đáo (ngoại trừ những lúc bốc đồng), vậy mà trong số bạn bè, có người mắt đã đỏ hoe, có người còn vanh vách đọc những câu mà tôi đã “chép” lại sự việc vừa nêu.

Hoá ra văn chương không chỉ đơn thuần những gì hiện hữu trên văn bản. Nó là những gì còn lại cho con người, cho cuộc đời sau những thông điệp, những dự báo… của nhà văn khi lấy văn bản làm phương tiện.

Sau này, thi thoảng có dịp qua hoặc “ra” Hà Nội, nhất là những lần qua trước cửa ga theo đường Lê Duẩn, tôi có cảm giác như gặp lại chính mình hơn bốn mươi năm về trước. Lại được nhìn Hà Nội bằng cái nhìn của một kẻ đang yêu. Ký ức Hà Nội theo tháng năm cứ được chồng xếp thành tầng, thành lớp. Tuổi thơ và một thời hăm hở lên đường ra trận. Mắt em và dáng mẹ tảo tần. Tất cả sẽ còn mãi và được chiếu dọi từ cái quầng sáng hắt lên bầu trời Hà Nội nghìn năm.

Người kéo vó bè

Lão đã gắn một phần đời với khúc sông này. Khúc sông mà khi chưa có đập thuỷ điện, dòng sông như con ngưạ bất kham dựng bờm trắng xoá, tung vó bay ngoạn mục qua thác Bờ rồi lồng lộn phi nước đại giữa hai bên vách đá cheo leo, dựng đứng như tường thành. Về đến bản Tháu thì đã đuối sức, kiệt hơi, con ngựa bỗng trở nên thuần nết, rũ bờm chạy nước kiệu xuôi về phía núi Tản Viên.

Lão vốn là dân lái xe hạng nặng. Mấy năm liền kíp bốn, ca ba tham gia các đợt lấp sông. Thoắt cái, lão trở thành thợ khiêng cột điện và kéo pa lăng xích. Giá như ngày ấy (chẳng biết trong đời người ta còn có thể xoay chuyển, còn có thể làm lại được bao nhiêu sau những cái gia như?), nếu lão không đánh vòng vô lăng về bên trái, không “bốc” một tí khi nhấn ga cho xe vượt lên trên đoạn đường trắng mù vì bụi đá(?). Rõ ràng đường rộng mà hà cớ gì các xe đi đầu lại cứ nép vào bên phải. Từ trên ca bin cao ngất nghểu, lão quan sát không thấy chướng ngại gì ngoài bụi trắng mịt mùng. Vượt. Chả có vấn đề gì. Lão cuồng cuống đạp phanh. Chiếc ca bin mấy tầng giảm xóc nhún xuống rồi như muốn nhao hẳn ra khỏi đầu xe. Chỉ cách chưa đầy hai mét nếu không phanh kịp chắc xe lão đã nghiến nát chiếc Volga đen bóng, mỏng manh như vỏ trứng trước xe lu. Tắc đường. Lão muốn cài số lùi nhưng … mẹ kiếp! Gương chiếu hậu đã choán đầy cả một đầu xe Benla sát đít. Vì thấy lão vượt lên mà mấy chiếc xe sau đã vội vã bám theo. Tài xế nào cũng hăm hở với định mức khoán chuyến, mọi thứ thu nhập đều được tính theo khối lượng khoán: Từ tiền ăn giữa ca tới mức thưởng và tiền độc hại…Bây giờ thì hiển nhiên là xe lão chắn đường chiếc Volga không rõ là của “Sếp” nào. Châu chấu không thể đá được voi, xe của “Sếp” đành phải cài số lùi một đoạn gần trăm mét. Lúc đánh được về phần đường bên phải, nhìn xuống dưới, lão chỉ kịp thấy một cánh tay múp míp nâng ngang làm ánh lên chiếc đồng hồ mạ vàng Poljot.

Lão bức xúc. Lão có thể xuýt nữa gây tai nạn, có thể làm chậm giờ giao ban của “Sếp”… Nhưng quá lắm thì mang ra mà kiểm điểm hoặc “treo” tay lái của lão một thời gian là cùng. Nào ngờ. Đúng cái hôm “sự cố” buổi sáng thì ngay buổi chiều đã có quyết định điều lão về đội chuyên lắp dựng đường dây. Thế mới biết trong lúc công trường đang khẩn trương và đồng bộ thi công thì các quyết định kỷ kuật, điều chuyển cũng luôn “bám sát” từng giờ theo tiến độ… Mấy chục năm sau này, nhiều khi lẩn thẩn lão nghĩ: Giá như không có “sự cố” chốc lát ấy, chưa chừng lão được đi báo cáo điển hình, có khi còn được theo lớp bồi dưỡng để xây dựng anh hùng lao động cũng nên.

Quá khứ có thể không còn nhớ lão. Nhưng lão thì quả chưa bao giờ quên quá khứ. Những năm tháng lao động vất vả trên công trường, lão đã có một “mối tình” mà theo lão là rất đẹp. Đẹp theo kiểu công trường. Nó vừa “tốc độ” lại vừa bạo liệt. Vốn là một tay lái ưa tốc độ, những chuyến chót đưa xe về bãi giao ca, lão đều cho những xe sau ăn “khói”. Không phải chuyến chót theo kiểu “mã hồi” mà cốt chỉ dành ra năm ba phút gặp Tươi. Tươi là thống kê của xí nghiệp Cơ giới. Nói là thống kê nhưng nếu không phải dân công trường thì ai cũng bảo là được ngồi bàn giấy. Thống kê công trường hồi ấy là đứng phơi mặt trên tuyến mà theo dõi khối lượng, trực tiếp đếm xe, phát thẻ. Nắng - bụi. Rét - bụi. Tươi chỉ khác những cô gái ở Thuỷ Nguyên lúc ra đồng là đi giầy vải với găng tay bảo hộ mà thôi. Tất cả chỉ còn hở hai con mắt. Kín là thế mà chẳng hiểu thế nào đêm ấy, lão lại bỗng hoạt ngôn. Chẳng ra ỡm ờ, chẳng ra thành thật, nói đằng tây chết cây đằng bắc khi quay kính và thò đầu ra khỏi cabin:

- Người đâu ta mà thon thả, trắng nõn trắng nà như thế!

- Lái xe Gấu hẳn hoi, đâu phải kẻ mò cua mà hay ăn ốc. Chỉ được cái nói mò. Trắng như than Hòn Gai thì có.

Nhìn Tươi lườm mà lão há hốc mồm. Nhăn nhở: - Cuộc nào?

- Cuộc thì anh thua là cái chắc. Thua rồi lấy gì mà đền?

- Đền người.

- Nỡm.

Tươi lại lườm khiến mặt lão thộn ra.

- Mà thôi. Chờ đây phát nốt mấy thẻ nữa cho mấy ông phát vãng rồi cho quá giang một đoạn.

Ruột gan lão nở bung. Từ điểm phát thẻ về bãi giao xe, con Gấu của lão cũng run lập cập như người bẻ lái. Chiếc xe Gấu của lão luôn chạy rẽ đất mà bây giờ cũng khổ sở như kẻ bị hành xác do phải biến thành con... Rùa. Lão giao xe chậm hơn mười phút.

Nhà ăn ca nêm chật cứng người. Bữa tối hôm ấy có bia hơi và bánh mì kẹp thịt. Tranh thủ người đứng trước đang loay hoay vì chiếc can nhựa không chứa hết tiêu chuẩn, lão chìa luôn phiếu bồi dưỡng cùng chiếc mũ lò. Phiếu của lão loại A, chiếc mũ lò cũng không chứa hết. Đúng là ăn, uống và ngủ như lái xe Gấu. Lão vục đầu, chưa được hai hơi, bia trong mũ đã vơi quá nửa. Một tay giơ cao chiếc mũ còn sàu trắng bọt bia, lão vừa lách vừa gạt những người xung quanh tiến về phía Tươi đang ngồi vắt vẻo trên một khối bê tông hình chóp cụt.

- Đằng ấy uống đi.

- Em á! Có biết uống bia đâu. Say thì chết!

- Say tớ cõng về.

Họ chuyền tay nhau chiếc mũ lò. Trong ánh đèn Senon trắng xanh như pháo sáng hắt xa từ trên đỉnh đồi Ông Tượng, hai má Tươi chín đỏ vì mấy ngụm bia. Lão như nghẹt thở trước cái màu đỏ khơi gợi chất men đàn ông, cái màu đỏ xúi dục sự sang đoạt khi trong đầu loé lên một ý nghĩ: Phải cắn một cái thật đau vào đó.

Những bước chân của Tươi đã không thật. Càng ra xa nhà ăn ca và nhất là đến chỗ rẽ vào khu tập thể, Tươi như tựa hẳn người vào lão. Đêm trên công trường xây dựng lúc hết ca thật bình yên. Bình yên như những phuy nước sau các dãy nhà tập thể. Sao khuya vằng vặc. Thứ ánh sáng ngỡ như là ánh sáng của viễn tưởng. Nó đối nghịch với không gian chói gắt, ầm ào, chát chúa và ngập ngụa bụi, bùn - bùn, bụi. Đôi tay vâm váp của lão bế thốc Tươi lên. Chỉ nghe những thân lau gãy rạp dưới đôi dày bảo hộ ngoại cỡ. Lão nhẹ nhàng đặt Tươi trên thảm cỏ đã dịu êm, mềm mướt bởi sương khuya. Đêm như cũng sáng thêm nhờ nước da trắng nõn trắng nà của Tươi mà vừa nãy lão tán mò. Thân thể Tươi chua, mặn sau một ca được ủ kín bởi lần áo bảo hộ cứng như mo nang cùng găng, tất mà vẫn ngất ngây mùi da thịt con gái. Những xung chấn. Những vách đá sạt ào sau những khối nổ lớn khi đào kênh dẫn nước như cùng đồng vọng, tích đầy trong khoảnh khắc. Tươi cắn vào ngực lão đến rớm máu để nén một tiếng thét… Rồi cả hai cùng mê đi trong hoan hỉ như ngày nào kênh dẫn nước đã thông.

Những ngày ở trong tù, ngoài nỗi khao khát tự do, thứ tự do bị tưước đoạt công bằng hay thiếu công bằng với lão cũng đều thế cả. Và, cũng vì ở trong tù, ngoài cái thời gian bị cưưỡng chế, lão khôn hơn những phạm nhân khác ở chỗ biết tìm cho mình những khoảnh khắc tự do. Đấy là lúc thiên hạ đã đi ngủ cả. Ai thức – Ngưười đó đưược tự do và tự do tuyệt đối trong ý nghĩ.

“Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”

là cách so sánh, ví von để nói về khao khát tự do của con người trong tù ngục. Lão biết tìm cho mình những khoảnh khắc tự do nên lại càng thấm thía câu nói đó. Về điểm này, lão tự nhận cho mình sự vưượt trội so với những kẻ khác. Những ngày đầu vào trại, lão đã phải trải qua hai lần tù tội. Tù vì án phạt. Tù vì phải làm nô lệ cho một lũ ăn uống bốc bải và cướp giật, nói năng mười câu thì chín câu có cái khởi đầu của sự tồn, sinh. Sao trong những cái mồm ấy lại có thể là những cái lưỡi được nhỉ(?). Bài bạc chán, đánh nhau chán rồi chúng lại thản nhiên lăn ra ngủ. Nằm chưưa kịp giãn lưưng, chưa kịp ấm chỗ đã thấy lảm nhảm những mê sảng cùng hú hét, đã thấy ngáy ran nhưư sấm và thấy “chim” thẳng đứng nhưư măng tre đội đất chui lên hết lượt. Lão nghĩ bọn này có ra tù, chẳng chóng thì chầy rồi cũng lại vào trại cả thôi. ở ngoài kia chúng lộng thế nào không biết chứ trong này thì đúng là anh hùng nhất khoảnh. Phòng giam có hai dãy bệ xi măng mà có đến ba bốn phe nhóm, băng đảng. Băng nhóm nào cùng muốn giành giật, lôi kéo những tù nhân mới để được “chăn dắt”.

Vợ lão mấy năm nay cứ “tắc” đều. Nói như bọn đàn anh trong trại, chuyên “chăn dắt” cánh tù mới thì lão đúng là một “con gà” công nghiệp, đẻ ra những “quả trứng vàng”.

…Ngày mới vào trại, bữa cơm tù đầu tiên lão tự nhiên không có xuất. Bụng đói mà không giám hỏi ai đành ôm bọc quần áo ngồi thu lu ở một góc bệ xi măng. Một thằng mặt choắt lại để ria, cao lêu đêu nhưư cây sào đi về phía lão. Hự. Thằng đó bất ngờ co chân đá thẳng vào mạng sườn khiến lão đau tái mặt.

- Đ. mẹ! Sao mày giám ngồi vào chiếu của bố mày.

Lão còn đang đau điếng, ngơ ngác chưa hiểu tại sao thì một thằng ở trần, ngực và lưưng đều xăm trổ vằn vện những hổ vờn, rắn quấn, cổ đeo sợi dây chuyền bạc có chiếc vuốt to bằng ngón tay cái (dáng nhưư đàn anh của bọn này – trưước đây lão có nghe loáng thoáng trong tù vẫn tồn tại một xã hội kiểu anh chị) nói như ra lệnh và vẫy lão lại gần.

- Thôi! Không đưược đánh nó. Mấy hôm nữa bắt nó giặt tất cả.

Lão như vẫn dính đít trên bệ xi măng. Một cú đá tiếp kèm một câu chửi tục: - Đ. cái thắng bố mày! Không nghe đại ca nói hay sao?

- Lại đây! Can tội gì?

- Tôi trót đánh chết người.

- Đánh chết ai?

- Thằng ngủ với vợ tôi.

- Nó ngủ với vợ mày thì đánh chết luôn cả cái thắng bố, con mẹ nó. Sao mà phải trót với trét!

- …

- Xử mấy gậy?

- ……….

Thằng mặt choắt đứng bên gí nắm đấm vào đầu lão: - Đ. cả họ nhà mày. Đại ca hỏi mày phải vào đây mấy năm?

- Tôi bị xử tù giam sáu năm.

- Sao nhẹ thế? Đánh chết ngưười mà chỉ có sáu gậy.

- Hắn chết ngay trong nhà tôi. Luật sưư bảo tôi có tình tiết giảm nhẹ do quyền được tự vệ chính đáng.

- Khá! Thằng này cũng hiểu luật ra trò đấy. Nhưưng mà nghe cho rõ đây: - - Ngoài kia có luật của ngoài kia, trong này cũng có luật riêng của nó đấy con ạ! Nhớ mà thuộc cho kỹ.

Rồi lão được xếp nằm sát cửa hố xí. Cái chiếu nằm của lão thành tấm trải lau chân cho cả phòng giam, lúc nào cũng nhớp nháp cái thứ nưước dấp dính, dậy mùi khăm khẳm. Mấy đêm đầu lão không thể nào nằm được, đành xuống lối đi giữa hai bệ xi măng ngồi gục đầu mà ngủ. Rồi lão cũng được xếp nằm xa dần hố xí cũng nhờ những “quả trứng vàng”.

Thấy tiếp tế đều, (nhất là những ngày đầu, nếu không nhờ những món quà tiếp tế thì chẳng biết bọn anh chị trong phòng giam còn hành hạ lão đến bao giờ) lão chừng như cũng nguôi bớt cơn lửa ghen tuông, thù hận khi vợ lão ngoại tình. Với vẻ đẹp lồ lộ, trắng thơm như xôi nếp của Tươi thì trăm thằng đàn ông, thằng nào mà chẳng đói khát, chẳng muốn thò tay mà bốc… Mà cũng một phần do lão. Đang từ mức lương lái xe Gấu, lại chạy khoán, tăng kíp tăng ca, đùng một cái xuống hưởng lương lao động phổ thông, chỉ còn bằng một phần sáu. Chẳng lẽ lão cứ để chiếc giường cưới được ghép lại từ hai chiếc giường cá nhân mãi hay sao… Nhiều đêm, khi được trở về những khoảnh khắc tự do, lão nhận ra cái sai lầm lớn nhất của người chồng, người đàn ông trong đời lão: Chỉ lo kiếm tiền (mà lão kiếm ra đồng tiền nào có dễ dàng, mát mẻ gì? Ngày đi làm, đêm ra cửa ngòi cất vó bè - cái thời mà hàng vạn người đều sống bằng tiêu chuẩn từ một cơ quan chuyên phục vụ hậu cần thì đó là một sự lựa chọn khôn ngoan) nên liên tục nhiều đêm, lão để quên người đàn bà hơ hớ, một mình vò võ trong đêm. Sáu năm trong trại giam, với lão là một thời gian dài khủng khiếp, đủ để gột rửa và sẵn lòng tha thứ. Chỉ có một điều, một điều cho đến ngày sắp mãn hạn tù lão vẫn không hiểu nổi: Tại sao Tươi chỉ gửi đồ tiếp tế mà không gặp lão lấy một lần.

Nhiều đêm công trường mất điện và cũng nhiều đêm không có kíp bốn, ca ba, cả công trường bừa bộn, ngổn ngang chìm sâu vào giấc ngủ. Chỉ có dòng sông vẫn thức. Vẫn mải miết trôi xuôi, vẫn mải miết đắp bồi cho những bờ bến mới. Tiếng cá quẫy cầm canh, tiếng cần vó bè kẽo kẹt đều đều của lão như phông nhạc trầm buồn, muôn thuở của bài ca đêm sông nước. Gió từ mặt sông mang theo hơi nước, hơi sương rười rượi, se se. Lão thiu thiu vắt ngang mình chiếc chăn chiên đã hết tuyết. Dưới sạp nứa, nước trong ngòi đang lặng lẽ ra sông, mang theo vô số phù du, lá ải. Mùi bùn, mùi cá tôm và cả mùi rượu Gốt mà lão vừa làm vài tợp cho ấm bụng như vây bọc trong khum lều. Đã từ lâu, lão có thói quen ngủ chớp nhoáng chỉ trong năm, mười phút và cũng chỉ trong năm, mười phút. Cứ như thể trong óc lão có sẵn một chiếc đồng hồ hẹn giờ chính xác đến từng giây. Nhìn đằng trước có ba, bốn xe đang chờ máy xúc, lão biết phải mất mười lăm phút. Vậy là lão tranh thủ ngủ mười phút. Ngủ thật sâu và tỉnh dậy đúng sau mười phút. Cả đội xe phải kính nể lão vì thời gian liên tục tăng ca mà vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Cũng nhờ thói quen ấy mà ban ngày đi làm, đêm nào lão cũng ở dưới vó bè. Thời gian mỗi lần cất vó không đòi hỏi chính xác, liên hoàn nên lão cũng ngủ được chừng bốn năm tiếng. Có đêm nhớ vợ, một hai giờ đêm lão cuốc bộ về nhà. ác cái vợ lão cũng lại ca đêm, lão đành phải khư khư ôm cái nỗi khát khao nhục thể xuống vó bè.

…Lão đã chìm vào giấc ngủ. Sao giấc ngủ đêm ấy cứ choán ngập, tràn phè những rong rêu, nhớt nhát. Chiếc vó bè của lão dập dềnh, dập dềnh. Tiếng giát nứa dưới lưng kêu kèo kẽo như sắp sửa bung ra từng mảnh. Người lão căng cứng, ứ đầy như đập nước vào mùa mưa lũ rồi bất thần rung lên bần bật. Xả tràn. Nước vọt từ sân tiêu năng xô vào hai bên bờ kè ọp ọp… Lão tỉnh. Không phải giấc mơ. Lão bối rối vì không thể hiểu tại sao như thế. Không biết phải xử lý thế nào ngoài việc hất người đàn bà đang trong tư thế ngồi trên bụng lão theo bản năng mạnh đến nỗi giá không có vách lều, chắc thị phải văng ra ngoài hàng mét. Thị cứ mằm tơ hơ. Thị có bối rối hay không cũng chẳng cần biết, nhưng rõ ràng trong chuyện này, thị là người chủ động và đương nhiên là lão bị... “cưỡng dâm”. Cái ý nghĩ bị cưỡng hiếp khiến máu trong người lão sôi lên. Lão muốn lao tới, xiết hai gọng kìm thép vào cổ thị. Nhưng khốn nỗi, mọi thứ đều chống lại lão. Rõ ràng tình thì ngay mà lý thì gian. Sau giấc mơ - sau khi bị cưỡng hiếp, thịt da, cơ bắp lão vẫn còn râm ran, căng cứng. Vậy thì lão cũng đích thị là kẻ tòng phạm, sao có thể gọi là bị cưỡng dâm? Không có lý lẽ nào để có thể chống chế, biện minh. Sự phản bội của cơ bắp đã quật ngã lý trí, đưa lão vào tâm trạng của một kẻ yếm thế và hổ thẹn. Lão chỉ còn cách là lao vội xuống ngòi. Những hạt phù sa li ti mịn mát vỗ về da thịt, nhanh chóng xóa đi dấu vết bản năng nhục thể, giúp lão trở về tâm thế của một anh chủ vó bè. Lão khêu to ngọn đèn bão và ném cho thị tấm chăn.

- Cô là ai?

Thị uể oải ngồi dậy và vấn lại tóc. Dưới ánh đèn vàng vọt, hai bắp đùi và bộ ngực thị bầm dập, đầy những vết tím thâm. Thị gục mặt trên hai đầu gối mà khóc nức nở. Trong đêm khuya, tiếng khóc của thị như loang khắp mặt sông, trườn lên bờ và len vào các ngõ ngách khiến lão lại càng bối rối:

- Sao cô giám…sao cô lại…?

Vài ba phút trần tình. Hóa ra từ rất lâu, chiếc vó bè của lão đã trở thành ngôi nhà lý tưởng cho thị đi, về sau những đêm len lỏi trong mọi ngõ ngách, bán cái xuân xanh như một thứ hàng rong. Đêm nay, thị ế khách. Bải hoải, rã rời thị đành trở về “nhà” vì không biết đi đâu. Với thị, việc trở về “nhà” như đêm nay thật hy hữu và cũng có thể là một ngoại lệ. Lần đầu tiên trong đời thị được nhìn một người đàn ông nằm ngủ: Hiền lành khi hai tay ôm vòng quanh ngực nhưng mạnh mẽ trong tư thế hai chân mở rộng, bên duỗi bên co. Nó trái ngược với hình ảnh những con hổ đói, lao vào cắn xé, dày vò như muốn nghiền nát thị khi phải bỏ ra những đồng tiều nhàu nhĩ, nhiều khi còn ẩm xấp mồ hôi thì đã

“mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng”.Cái ý nghĩ muốn được trả công (ai lại trả công như thế). Không, thị muốn trả ơn lão (mà đã trả ơn thì không thể miễn cưỡng) vì đã cho thị ở đậu bấy lâu nay (mặc dù anh ta chưa biết), để thị có thể yên tâm chìm sâu vào những giấc ngủ báo thù. Thị do dự. Trong khoảnh khắc do dự ấy, tố chất đàn bà làm đĩ tưởng như đã bị chai sạn và vô cảm bỗng như mềm lại, khiến nỗi khát khao được dâng hiến trào lên. Và, cũng chẳng khó khăn gì, thị nhanh chóng đưa lão vào một giấc mơ có thật.

Lão bồn chồn trước bao nhiêu dự cảm, dự định trong đầu. Phải khó khăn lắm lão mới loại bỏ được hình ảnh Tươi rướn người, rên lên hực hực trong cái đêm trước lúc xảy ra trọng án, khi lão bỏ mặc người đàn bà đã

“chịu ơn”

lão dưới vó bè. Lão sẽ tha thứ cho Tươi, tha thứ cho lỗi lầm đàn bà nông nổi mà trong đó - lão là một yếu nhân trong tư cách của kẻ dự phần. Lão sẽ bù đắp lại cho Tươi và cũng bù đắp, lấy lại những gì đã mất cho mình trong sáu năm nằm mốc trong tù.

Càng đến gần nhà, ngón chân nọ của lão đã nhiều lần đá vào gót chân kia. Đến lối rẽ vào khu tập thể thì tai lão bỗng u u, ù đặc. Hình như có ai đó đã gật đầu, đã mấp môi chào lão. Chẳng cần phải né tránh ai mà sao lão cứ cắm đầu vừa đi, vừa chạy như bị ma đuổi.

Vòng dây sắt sáu nín chặt bằng lực xiết của một chiếc tay công rất chắc giữ hai cánh cửa đốp vào mặt lão. Cửa sổ không còn cánh. Chỉ mới nhìn qua lão cũng thừa hiểu đó là một căn phòng đã nhiều năm hoang phế. Điệp khúc những cơn mơ được trở về ngôi nhà xưa yên ấm, có người vợ đẹp nhưng lẳng tính vỡ nhanh hơn bong bóng xà phòng. Lão gục đầu vào song cửa sổ. Đóng băng.

... Lê gót theo bước chân của ông hàng xóm bị tai nạn tập tễnh, ực liền mấy chén nước chè pha chưa kịp ngấm mà tay lão vẫn còn run. Hóa ra vợ lão đã theo đơn vị vào miền trung xây dựng công trình mới cũng ngót sáu năm rồi. Khu tập thể mấy chục nhà giờ chỉ con dăm bảy hộ... Cái nghề xây dựng khi xanh cỏ thì đến, đỏ ngói thì đi không có gì phải lạ. Vậy thì mấy năm qua... lão không thể đoán nổi không phải Tươi thì ai là người vẫn liên tục đến thăm nuôi? Ân oán chửa rõ ràng, lão không biết rồi đây sẽ xử sự ra sao.

- Thời buổi hậu công trường khó khăn lắm chú ơi! Nhưng cũng chẳng sao. Chú được về là mừng rồi. Cứ ở đây với vợ chồng tôi ít bữa hẵng hay.

- Vâng! Em rối ruột quá, chẳng biết nghĩ thế nào.

- Nghĩ làm quái gì cho nó mệt. Mọi sự thì cũng đã rồi. Hoặc là chú lại vào miền Trung mà xin cơ quan tiếp tục đi làm. Nhược bằng chẳng được thì xin nghỉ luôn một cục cho rồi. Những mấy nghìn người đã nghỉ một cục chứ chẳng phải một mình chú đâu mà ngại. Tôi là còn may vì bị tai nạn nên mới có chế độ mất sức, chứ vợ tôi, hai vợ chồng cùng thoát ly một ngày, giờ cũng phải một bảy sáu đấy!

Trong lúc chờ cơm chiều của người hàng xóm tốt bụng, bữa cơm đầu tiên sau hơn bốn nghìn bữa cơm trong trại cải tạo (có thể bữa cơm “tự do" đầu tiên ấy cũng không chênh lệch quá xa so với bữa cơm của ngày hôm qua), chỉ nghĩ vậy thôi mà sao buồng phổi lão ngập tràn không khí tự do. Tự do thấm vào những mao mạch phổi, tự do chảy ồ ạt trong huyết quản đi nuôi khắp toàn thân... Bước chân lang thang như có sự tiền định đưa lão ra phía bờ ngòi. Từ xa, lão đã nhận ra chiếc vó bè của mình nhờ những múi tôn Liên Xô vẫn thi gan cùng mưa nắng trên khum lều. Và, cái cảm giác hụt hẫng, bơ vơ trước đó khi nhìn sợi sắt sáu nín chặt cửa nhà mình bỗng dưng biến mất. Hóa ra, lão vẫn còn một “cõi” để đi, về. Đôi chân lão bỗng trở nên hoạt bát. Lòng lão lại bâng khuâng theo bước chân nhún nhảy trên những thân tre nối bờ ngòi ra bè vó.

Không bị đóng băng nhưng tim lão thì như ngừng đập khi vén manh chiếu cũ che cửa lều vó.

... Vẫn đôi mắt ầng ậc nước ngày xưa. Đôi mắt ấy đã làm lão nổi cơn điên. Đôi mắt ấy đã làm lão hổ thẹn, chấp nhận thỏa hiệp để rồi đọng mãi một nỗi buồn se sắt. Nước mắt từ đôi mắt ấy cứ tuôn và hai đầu gối lão cứ khuỵu dần... Quả tim khỏe khoắn và mạnh mẽ của lão giờ đã thoát ra khỏi sự đột trụy, hồi sinh khi những giọt nước mắt kia thấm đầy ngực áo, đánh thức sự tỉnh táo để nhận biết đó là đôi mắt của người đàn bà đã thực lòng yêu thương lão.

Lão đã quên lời khuyên của người hàng xóm. Nếu lão vào miền trung mong tiếp tục công việc, biết đâu có thể gặp lại người vợ bạc bẽo ấy... Sợ rằng nếu gặp, chắc lão sẽ phải trở lại trại giam...

Chặt đứt các dây néo, lão xăm xăm đẩy chiếc vó bè ra khỏi cửa ngòi. Đẩy. Lão cong người đẩy. Đẩy. Lão gập người đẩy. Khi đã gặp luồng nước chảy, lão quăng chiếc xào chống bằng tre hóp trả lại quãng sông đã neo giữ chiếc vó bè bấy nhiêu năm và neo giữ một phần đời của lão. Chiếc vó bè ngạo nghễ, nghênh ngang với bộ giằng như chiếc cần cẩu nổi trôi tự do trên mặt sông đã chuyển màu xám xẫm. Chiếc vó bè dạt vào bên lở. Bờ hẳn nhiên nhưng không hề có bến. Chiếc bè vó quay tròn, trôi, cứ trôi rồi mắc lại bên bồi. Cát trẻ, phù xa non tơ chẳng mặn mà níu giữ. Tất cả như muốn ruồng bỏ, tất cả như muốn đẩy xô giúp cho chiếc vó bè làm một cuộc hành trình vô định.

Giờ thì lão đang trắng tay. Lão biết từ khi chặt đứt các dây néo, lão đã tự chặt đứt cuộc đời mình với quá khứ. Một quá khứ thật bình thường, giản đơn nhưng buồn nhiều, vui ít. Những năm cuối cùng ở trại, lão đã nghĩ tới một viễn tưởng, viễn tưởng chung cục của hối cải và sắp đặt. Ai mà có thể lường hết được bất ngờ này đến bất ngờ khác. Hóa ra đời mình, chỉ sau non nửa một buổi chiều lại như chiếc bè vó đêm nay. Người đàn bà nằm gọn trong vòng tay của lão giờ đây như đang nối dài miên man những ý nghĩ. Không còn ranh giới giữa tột đỉnh với tận cùng của cao thượng với khinh khi...

Lão vẫn còn. Lão chưa thể trắng tay.

Bàn tay lão thô bạo. Bàn tay lão nâng niu. Đầu óc lão mụ mềm, đầu óc lão tỉnh khô trước thân thể một người đàn bà trần truồng và một nửa thế giới nhân sinh.

Thân thể người đàn bà vài ba phút trước còn mềm lả, nóng ran vì khao khát được hiến dâng và tận hưởng bỗng nhiên chống trả dữ dội đòi tự vệ.

Lão lại bất ngờ.

Đàn bà là cái quái gì vậy? Lão không thể nào hiểu nổi thế giới đàn bà.

Lão chết cứng khi nghe thứ âm sắc vừa giận dữ vừa van vỉ của nàng:

- Không được đụng vào em.

- ...

Người đàn bà trườn ra khỏi vòng tay lão, dướn người về ngọn đèn dầu. Dưới ánh sáng của ngọn đèn khêu to hết cỡ, thân thể nàng như được nạm lên những chùm hoa gấm.

- Tội cho anh quá! Em bị si - đa ở giai đoạn cuối rồi.

Dường như đã mấy chục năm, chưa có mùa đông nào rét vậy. Gió bấc hun hút thổi. Gió chỉ làm lạnh đất, lạnh cây hoặc theo liên tưởng của người đời, gió làm lạnh thêm nỗi lòng của những người đơn lẻ. Nhưng sông thì vẫn mang trong mình một năng lượng bẩm sinh. Sông biết ẩn mình dưới lớp mù giăng dày đặc. Vì lớp mù dày đặc đêm ấy mà không ai biết được chiếc vó bè trôi giữa dòng sông bốc cháy như một con thuyền lửa. Và cũng vì lớp mù dày đặc, không ai biết lão đã hì hục dọn sạch đáy ván của một ngôi mộ vừa cải táng ven sông. Không có một nén nhang nhưng khi trở về với đất, nàng là một người đàn bà hạnh phúc. Hạnh phúc bởi nàng vẫn hằng khao khát được yêu - Tình yêu dẫu có muộn màng vì phải chờ đợi và chỉ trong thoáng chốc. Nàng hạnh phúc.

Hạnh phúc có thể theo con người ta từ thuở ấu nhi đến cuối cuộc đời, nhưng với nàng, trước khi giã biệt cuộc đời này, nàng được chết trong vòng tay điên loạn của lão thì cũng coi như được hạnh phúc cả cuộc đời. Nàng được chết khi trên mình không cần một mảnh vải che thân. Với nàng, sự khâm liệm là một điều phỉ báng. Nàng đã hiến dâng, hiến dâng một hình ảnh của tuổi thanh xuân cho lão. Và, dường như ở thế gian này, kể cả các bậc vĩ nhân, chưa một ai khi trở về với đất có thể sánh với nàng khi được hóa thân thành một hài nhi.

Đôi tay lão đã bê bết máu vì phải cào, phải bốc. Mộ nàng chỉ vèn vẹn không khác gì ngôi mộ cải táng mà người ta vừa san lấp. Dân trong vùng vẫn đồn thổi rằng những đêm tối trời, ở nơi hung táng ấy có một ngôi mộ vẫn lập lòe những ánh đuốc ma.

Chỉ có điều, khi sáng ra, trên mộ nàng vẫn còn nhưng chân nhang mới cắm. Những thân nhang cháy chửa kịp tàn, vẫn uốn cong như những gọng vó bè thì không ai nhắc tới.

Còn lão, bây giờ ở đâu, làm gì thì người viết truyện ngắn này cũng...chịu.

Hắn rủ tôi đi chơi tối giao thừa. Hai đứa đi lòng vòng mấy chỗ rồi kéo nhau vào quán uống bia. Sau khi đã tìm được chỗ ngồi rộng rãi và thoải mái, hắn bảo:

- Tối nay cho mày “Tắm tất niên” thoải mái.

- Nào! Trăm phần trăm.

Ngồi uống đã dài dài mới thấy tửu lượng của hắn đúng là một cái…can nhôm. Hắn uống tì tì mà không “đi” mới giỏi, trong khi tôi thỉnh thoảng lại phải nhanh chân vào Toilet.

Bia uống nhiều cũng bốc, tôi chở hắn đi hết đường này qua phố khác. Đang đi, hắn đột ngột ra lệnh:

- Quay lại công viên Tuổi trẻ.

Tôi vòng xe lượn một đường trổ tài tay lái lụa hết sức ngoạn mục. Gửi xe xong, chúng tôi thả bộ trên con đường lát gạch cây dừa. Đi qua mấy hàng ghế đá không còn chỗ trống. Lướt qua mấy dãy gốc cây, gốc nào cũng có một cặp tình nhân đang cuống quít hôn nhau, làm như thể không hôn được sẽ phải chờ thêm một năm nữa. Tới một gốc cây vừa có một đôi tình nhân rời chỗ, hắn bảo:

- Đợi tao một phút!

Tôi hơi chờn, chẳng hiểu hắn định làm gì? Đi một mình ở đây không khéo họ tưởng là thằng xin đểu thì khốn. Tôi dừng lại châm lửa hút thuốc đợi hắn.

Tồ….Tồ…tồ…

Cha mẹ ơi!

Hắn đã quay lại với dáng đi thoải mái vì được nhẹ nhõm.

- Đi Café chồn quán Thơ Mộng.

Phải nói là quán Café Thơ Mộng có một địa điểm tuyệt vời. Những bộ bàn ghế trúc được đặt ẩn hiện bên các lùm cây cảnh. Ly Café sánh đặc cùng tiếng nhạc dịu êm như đưa ta về với cao nguyên lộng gió Ban mê.

Hắn lim dim nhả khói vào sương đêm rồi bất chợt nhỏm lên:

- Thanh niên bây giờ sống buông thả quá. Tự do quá. Họ đang tự làm mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của nghìn xưa để lại.

Cứ thế, cùng với khói thuốc mù mịt, bạn tôi thao thao thuyết giảng về luân lý, đạo đức. Về tương lai lớp trẻ trước cơ chế thị trường và xu thế hội nhập…

Chiếc đồng hồ điện từ nơi góc màn hình Tivi đang đếm ngược thời gian. Bạn tôi vẫn như đang còn trong cơ phấn khích của sự hùng biện. Xem chừng hắn sẽ nói qua lúc giao thừa. Sẽ nói mãi, nói mãi chừng nào tôi còn im lặng lắng nghe.

Chiếc đồng hồ đếm đến 10 rồi 9…Một năm mới sắp bắt đầu.

Tôi kéo ghế sát gần rồi ghé tai hắn bảo nhỏ:

- Người ta hôn nhau thì có gì xấu đâu. Tớ vừa xem trên mạng, ở Singapo (Tôi bịa) người ta vừa mới ra một đạo luật mới: Tất cả những kẻ “tưới cây” trộm ở công viên khi bị bắt sẽ được đưa vào bệnh viện phụ sản.

- Sao lại đưa vào bệnh viện phụ sản? Để làm gì?

- Không phải để đặt vòng tránh thai mà để cắt bỏ … ô doa.

Điếu thuốc lá trên tay hắn rớt xuống nền gạch. Đôi mắt hắn tròn như hai con số không trên chiếc đồng hồ điện tử đếm ngược ở góc màn hình.

Giao thừa rộn rã với những màn pháo hoa bung nở.

LÒNG THẦY

Ngày thầy bị bắt, người ta mới vỡ ra: Thầy chính là Việt Cộng nằm vùng. Trước những đòn tra tấn, là thịt da ai mà chẳng đớn đau. Nhưng với thầy, nỗi đau lớn nhất từ bấy đến giờ vẫn âm ỉ khôn nguôi: Trực tiếp lấy khẩu cung và tra tấn thầy lại là thằng học trò cũ.

Năm bảy nhăm, hắn di tản ra nước ngoài.

Tháng trước, hẵn trở về được địa phương đón rước với cái tên “Việt kiều yêu nước” khi ủng hộ một khoản tiền lớn để xây lại đình làng và trường tiểu học.

Một ông Cựu chiến binh trước đây từng được tổ chức phân công trừ diệt hắn (Một tên ác ôn khét tiếng) không thành, mát mẻ:

- Bây giờ có tiền, con người dễ dàng đổi trắng thay đen.

Thầy nghe liền bảo:

- Là con người, mấy ai tránh được lầm lỗi. Dân ta xưa nay vẫn luôn độ lượng, chỉ đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại.

Từ ngày về quê, sức khoẻ thầy ngày một yếu thêm. Thầy vẫn sống đạm bạc bằng đồng lương ít ỏi. Hắn đến biếu thầy hai nghìn Mỹ kim.

Thầy từ chối và chỉ nhận lời tạ lỗi.

Những đốm lửa bên hè phố

Trời lạnh thấu xương. Gió bấc rít từng cơn. Những chiếc lá xà cừ, keo lăn trên đường nhựa lào xào mỗi khi gió nổi. Hiền gọi Minh ngồi chắn cho gió bớt thốc vào chậu than. Mỗi khi gió thổi, than trong cái chậu nhôm rực lên, ngô nổ lép bép. Những người đi trên phố vội vã như cố chốn cái lạnh tê tái.

- Ăn ngô anh ơi !

- Ăn ngô nướng cô ơi !

- ...............................

Vừa nghiêng khuôn mặt tránh những tàn lửa, Hiền vừa chèo kéo khách qua đường. Lúc gió ngừng, hai chị em ngồi hếch mặt ngóng đợi. Phía bên kia là cửa hàng trà “ Cung đình” tấp nập người vào ra. Hình như trời càng lạnh thiên hạ đi uống càng đông. Tiếng nhạc du dương phát ra từ đôi loa như ru ngủ mọi người. Minh ngồi bó gối, kéo chiếc mũ liền áo và cố co người cho nhỏ lại tránh rét. Hiền giận dỗi vô cớ :

- Hình như con mẹ mặc váy bò mở hàng hôm nay ?

- Mụ gọi nướng năm bắp nhưng lúc ấy gió to quá, chờ lâu nên chỉ lấy có ba !

Hai cô gái thẫn thờ, tay phe phẩy chiếc quạt nan như quán tính phải thế. Một rổ nhựa đầy ắp ngô đã bóc bẹ. Nhìn những bắp ngô nếp chắc hạt, trắng ngà ngổn ngang, Minh rầu rĩ :

- Đêm nay ế nữa, mai nằm ngủ cho nó sướng mắt !

- Tao cũng có thích thú gì cái cảnh trơ mặt ngoài đường. Chẳng qua chúng mình hèn nên đành phải khổ. Cứ như mấy con vận măng tô kia có các thêm tiền tao cũng chẳng thèm đi đâu lúc trời lạnh cắt tai thế này!

Minh và Hiền cùng làm ở một công ty tư nhân. Hai đứa thuê một gian nhà cấp bốn, trải chiếu xuống đất nằm. Cơm ăn ở quán, nước uống ở hàng. Tài sản ngoài mấy bộ quần áo, chiếc xe đạp nhưng vẫn phải canh chừng bọn nghiện cậy cửa, phá tường. Cứ tối thứ bảy, chủ nhật hai người lại ra đầu phố nướng ngô. Mấy hôm nay lớp học bồi dưỡng của ngành nông nghiệp tan, khách qua đường chẳng ngó ngởn gì. Hai chị em cứ ngồi chầu hẫu, tàn tro bay trắng cả mái tóc.

- Bao nhiêu một bắp em ơi !

Đang gục đầu tránh rét, nghe có người hỏi Hiền bật lò so. Cô ngước nhìn khách. Một chàng trai khoác chiếc áo da thụng, đôi giầy đánh xi khá kỹ, ánh lên mỗi lần đèn xe máy chiếu vào.

- Anh ơi ngô mới ngon lắm ạ. Anh lấy nhiều không ?

- Các cô có bao nhiêu lấy tất !

Hiền nghi ngờ, bấm vai Minh. Đang quạt cho than hồng lên, Minh uể oải đứng dậy:

- Hôm nay bị ma ám, thôi về !

- Ơ, các cô bán hàng hay nhỉ. Tôi nói là tôi mua hết số ngô này, quạt đi !

Hiền sợ bị lừa, hỏi vặn lại :

- Lấy gì đảm bảo anh lấy hết chỗ ngô này. Anh chờ chúng em quạt cũng mất hai tiếng đồng hồ ?

- Thế này vậy, tôi gửi tạm trăm ngàn. Đúng hai giờ sau tôi quay lại, nếu không nướng hết các cô chịu phạt !

Anh ta đưa tờ một trăm cho Hiền và nổ máy lao vút đi. Hai chị em cứ đứng nhìn theo, lắc đầu...

Mạnh về phố núi được tám năm trời. Anh kỹ sư điện non trẻ ngày nào nay đã trở thành quản đốc phân xưởng. Quê Mạnh ở tận vùng biển. Nơi ấy có những cánh đồng nhìn tới tận chân mây. Lúa như sóng vàng lô xô chạy theo từng cơn gió. Ba mươi tuổi, Mạnh đã phải trải nếm đau đớn của đời người. Hai năm trước, Mạnh gạt nước mắt đưa người vợ về với chúa. Căn bệnh thế kỷ đã cướp mất vợ của anh, mất mẹ của con bé lên ba. Thu xếp gia đình, hai bố con đưa nhau ngược. Nhà cửa tạm giao cho ông bà trông coi chờ khi nào bán được anh về. Cơ quan thông cảm với hoàn cảnh của hai bố con nên cho anh ở nửa gian nhà bảo vệ. Anh cũng cố gắng và đợi thay áo cho vợ xong mới mua nhà ở. Mấy đêm nay trời quá lạnh. Hôm nào cứ giờ này anh lại tạt về xem con bé ngủ thế nào. Mạnh mở cửa, bật đèn đứng ngắm con gái đang ôm chặt chú gấu bông. Mùa hạ cũng như mùa đông, cứ hễ lên giường là Vân phải ôm thứ gì mới chụi nhắm mắt. Mạnh rém màn cho con xong, anh ngồi lục mấy quyển sổ cũ kỹ từ thời sinh viên lần dở từng trang.

12-2

Tối , kéo xe ba gác được năm ngàn. Bốc tám tạ phân bón được tám ngàn. Hiểu vay ba ngàn phô tô sách chuyên đề.

15-2

Cả ngày chủ nhật đánh vữa hồ được 15 ngàn. Chữa quạt cho cô Yến: 7 ngàn.

24-2

Cắt chữ trang trí đám cưới : 20 ngàn. Bác Trà thanh toán tiền dạy ngoại ngữ : 100 ngàn.

26-2

Ngân vay 150 ngàn mua thuốc cho mẹ ở quê.

........... ...... ......

Lật một hồi, Mạnh ném cuốn sổ xuống bàn. Anh ngả lưng,mơ mơ nghĩ về một thời đã từng lăn lộn giữa Thủ đô kiếm tiền ăn học. Từng hào, từng đồng sao mà quí giá lạ thường. Tháng lương kỹ sư đầu tiên Mạnh mua tấm vải nhung đen về cho bu và chiếc khăn voan hồng tặng mẹ con Vân bây giờ. Mạnh Vẫn nhớ xem tấm vải xong bu bảo : “ Con hoang quá, mẹ già rồi đâu có cần của tốt như vậy”. Bài học ấy anh không bao giờ quên. Bu dặn đồng tiền dễ làm người ta hư lắm, con đi xa cố giữ lấy mình...

Chiếc điện thoại rung bần bật. Mạnh mở máy, tiếng Hoàng tổ trưởng tổ dây gấp gáp :

- Anh Mạnh ơi về phân xưởng ngay nhé, có việc cần lắm !

Mạnh rém lại màn cho con, đẩy con gấu bông lại sát người con gái rồi tắt đèn khóa cửa. Văn phòng trực đã tề tựu đủ mấy gương mặt quen thuộc. Hoàng, Vĩnh, Nam. Thấy Mạnh về cả bọn đứng dậy vẻ quan trọng lắm. Mạnh bước vào hỏi ngay :

- Chuyện gì mà đến đây tụ tập ?

Hoàng đưa mắt nhìn mọi người một lượt. Nam nhanh chân ra khép cửa. Giọng nói của Hoàng nhỏ dần :

- Anh, chiều nay tổ dây sử lý năm chục bộ xà sứ đường sáu ki lô vôn tuyến Nà Lòn- Thung Bưởi. Tất cả nằm trong cái túi này, chúng em chờ anh về giải quyết bổ xung đời sống !

Mạnh nhíu mày hỏi buông sõng :

- Những ai biết việc các cậu làm ?

Vĩnh nhỏ nhẹ như nói thầm :

- Em, Nam và cô Tiến cậu Sung. Hai đứa kia chúng em phân phát mỗi tên năm triệu. Cỗ này còn lại tròn ba lăm triệu ạ !

- Các cậu liều thật. Việc rút ruột công trình không đùa đâu. Nếu xà hỏng, sứ nứt ai chịu tội ?

Vĩnh, Hoàng và Nam mặt thuỗn cả một lượt. Tình thế xoay chuyển quá bất ngờ làm cả bọn lúng túng. Hoàng nhìn gói tiền nuốt nước bọt. Chỗ này bằng cả năm lương của ba đứa. Hoàng nhìn Vĩnh đầy trách cứ, chỉ tại nó bảo đừng qua mắt ông Mạnh mà khốn. Vậy là tự nhiên “ lạy ông tôi ở bụi này ”. Nam vứt điếu thuốc hút dở ra cửa sổ, quay vào nói vẻ bất cần :

- Rút ruột thì không phải mà đây là chuyển chủng loại. Bọn thiết kế nào cũng sợ chết, vì vậy chúng nó tính xà thừa bền nhiều lắm. Chúng ta lắp loại xà gia công vẫn đảm bảo cơ mà. Ăn được chả ăn thì để cho thằng khác nó nhắm !

Mạnh tức run người, bây giờ anh mới biết công nhân của mình rất liều. Hóa ra chuyện đổi cột đường 220 tuyến xóm Hạ là có thật. Năm ấy Mạnh mới được bổ nhiệm quản đốc, anh liều mình bảo vệ ý kiến của công nhân. Thật may, phòng kỹ thuật sở quá bận, khi sờ đến thì công trình đã hết hạn bảo hành năm tháng nên cũng cho qua. Nhìn nét mặt căng thẳng của Mạnh, biết việc đạo diễn lấy bốn lăm triệu sẽ không trôi, Vĩnh nhăn nhở :

- Bọn em chót làm rồi, tiền cũng lấy rồi. Công trình đã đưa vào nghiệm thu, vận hành nếu bây giờ dỡ ra từ tướng đến quân đều chết. Anh tính sao thì tính. Chúng em đã thống nhất, ba lăm triệu còn lại anh cầm hai chục làm cái móng nhà, mỗi thằng em vài triệu chơi lô. Nói là to so với đồng lương chúng mình chứ so với bọn ăn phần trăm của B bõ bèn gì !

Mạnh đứng bật dậy, giọng dứt khoát :

- Các cậu đưa tất cho tôi chỗ tiền này !

Mạnh cầm mấy bó tiền còn thơm mùi mực in bỏ vào hai túi quần. Anh nổ máy lao xe vào trong đêm giá lạnh. Vĩnh, Nam. Hoàng ngơ ngác. Mạnh ra lệnh :

- Các cậu ngồi đây trực thay tôi, ai bỏ vị trí đừng có trách !

Ông Yên biết Mạnh từ ngày anh về sở. Ông thích cách làm việc sáng tạo và trách nhiệm của anh. Hoàn cảnh của Mạnh, ông được anh em nói nhiều lần. Ông đã bàn trong tập thể lãnh đạo xin quĩ đất của tỉnh dành cho gần chục gia đình cán bộ công nhân chưa có nhà ở, trong đó có Mạnh. Ông đẩy cốc cà phê đặc quánh về phía Mạnh và thăm dò thái độ :

- Cháu định sử lý vụ này thế nào ?

- Đau lắm chú ơi, đồng tiền ai chẳng quí nhưng ăn cắp mà có tiền thì nhục lắm. Cái tiếng phân xưởng dây lừa trên dối dưới bao giờ gột được. Cháu đề nghị chú cho lập biên bản thu lại số tiền bất chính!

Ông Yên lạnh lùng cầm máy điện thoại. Một lúc sau Kiên, Giáp cùng Mạnh lên xe về trạm trực. Biên bản vi phạm qui trình xây lắp của tổ 3 phân xưởng do Mạnh phụ trách đã đầy đủ chữ ký cùng với số tiền mặt từ bán trộm vật tư nhà nước. Vĩnh, Hoàng và Nam nhìn quản đốc của mình như muốn trút lửa. Mạnh dằn lòng nói với anh em :

- Các cậu về đi, ngày mai tôi cũng làm đơn xin từ chức. Chúng mình không thể sống gian dối mãi được. Thà chúng ta tự nhận còn hơn khi các ngành thanh tra, công an họ nhảy vào làm tội thêm người khác ! Mọi người đã về hết, một mình Mạnh ngồi thừ người. Anh thấy cô đơn quá, khép cửa rồi ra phòng bảo vệ với Quân. Chợt nhớ đến tiền đặt mua ngô nướng lúc tối. Mạnh nổ máy, nói với lại :

- Quân ơi, trông phòng cho tớ vài phút nhé !

Về khuya, trời càng lạnh, gió càng to. Mạnh chùm mũ chỉ hở hai con mắt. Anh vẫn nhìn thấy hai cô gái ngồi thu lu trên vỉa hè. Những đốm lửa từ chiếc chậu than đã tắt. Bụi tro bị gió thổi vương trắng cả tấm áo choàng mỏng manh của hai cô gái. Thấy xe dừng, Hiền cầm túi ngô nướng sẵn đến bên Mạnh :

- Em tưởng các anh nhiều tiền ăn miến, gà xé quên mất ngô rồi. Em bắt đền vì chờ anh mà hai chị em sắp bị đông máu đến nơi !

Mạnh cười, anh treo túi ngô Hiền đưa vào xe, móc túi lấy thêm tiền. Hiền nhanh nhẩu:

- Có tám mươi bắp thôi, em trả lại anh hai chục !

Mạnh không lấy nhưng cô gái dứt khoát không nghe và nhét tiền vào túi áo của anh :

- Ai lại làm thế mang tiếng chết. Mình có bao nhiêu hưởng bấy nhiêu ngủ mới yên giấc anh ạ !

Mạnh, Quân ngồi tẽ từng hạt ngô nướng bỏ vào miệng. Mọi ngày anh mê ngô nướng nhất, vậy mà hôm nay nhai như thể nhai cỏ khô. Nghĩ đến sự việc vừa xảy ra, nhớ tới câu nói của cô gái bán ngô anh thấy xấu hổ thay. Đừng nghĩ những người bình dị như hai cô gái anh chưa kịp hỏi tên trên hè phố đêm nay là người không cao thượng. Thế mới biết bài học cho đời có ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Mạnh lững thững bước ra sân cơ quan, nhìn những vì sao đặc trời, anh biết ngày mai đã ấm. Tự nhiên anh thích được vô tư như hai cô gái kia dù có phải cả đêm ngồi mặc cho những tàn lửa bay ngang mặt. Một thời Mạnh cũng đã đi kiếm tiền như thế. Hóa ra một đốm lửa trong đêm cũng có ích cho đời./.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: