Linh tinh lang tang

Nguồn gốc của ngày Tết Đoan Ngọ

Thứ tư, 14 Tháng 9 2011 14:43 Quản trị viên

NGUỒN GỐC CỦA NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ

(ĐOAN NGỌ TIẾT ĐÍCH KHỞI NGUYÊN - 端午節的起源)

ThS - GV. Võ Minh Hải

(Khoa Ngữ văn, Đại học Quy Nhơn)

Về nguồn gốc của tết Đoan ngọ端午節, từ trước đến nay đã tồn tại nhiều cách lý giải khác nhau. Từ cuối thời Đông Hán 東漢末年, người ta đã tìm thấy những thư tịch sưu tầm về tết Đoan ngọ, các học giả thời đó cho rằng nguồn gốc của lễ tiết này có liên quan đến sự tưởng niệm thi hào nổi tiếng của nước Sở 楚國-  danh nhân văn hoá Khuất Nguyên 屈原.

Khuất Nguyên, tên là Bình 平sinh vào khoảng năm 280 TCN, là vương công, đại quý tộc của nước Sở. Ông là người có tài năng xuất chúng, “xuất khẩu thành chương, thạo việc giấy tờ” (Tư Mã Thiên) và vô cùng ái quốc. Năm 25 tuổi, ông đã đảm nhận chức vụ Tả đồ 左徒, một cương vị trọng yếu trong bộ máy cai trị, chỉ thấp hơn Tể tướng 宰相 một bậc. Do sớm thành đạt nên Khuất Nguyên đã bị người đời ganh ghét, đố kỵ ngay cả vương phi của vua Sở Hoài Vương 楚懷王 là nàng Trịnh Tụ 鄭袖 cũng tỏ thái độ bất mãn đối với ông. Đương thời, Sở vương là kẻ bất tài, vô đạo, chỉ biết hưởng lạc. Điều đó khiến cho Khuất Nguyên vô cùng lo lắng, ông muốn cải tổ nền chính trị quốc gia, chủ trường liên hợp với các nước khác để ngăn chặn sự ảnh hưởng của nước Tần秦國. Hoài Vương lúc đầu rất tín nhiệm Khuất Nguyên, nhưng về sau vì nghe lời xúc siểm của bọn gian thần, hầu cận nên ngày càng không tin vào những lời khuyên trung thành của Khuất Bình. Vào lúc ấy, cả ba nước Tần 秦, Tề 齊và Sở楚 đều nổi lên tranh bá, giành lấy sự ảnh hưởng đối với các nước nhỏ ở phía Tây, Đông và Nam. Quan viên của nước Sở đã hình thành 02 phái: Thân Tần 親秦 và Thân Tề 親齊. Để thực hiện âm mưu ly gián của mình, nước Tần đã phái Trương Nghi 張儀, một biện sĩ nổi tiếng đến thương thuyết với vua Sở, nước Tần tình nguyện cắt 600 dặm đất tặng cho Sở và yêu cầu nước Sở phải ly khai với Tề, phá bỏ hội ước trước đây của hai nước. Quả nhiên, vua Sở đã trúng kế và tuyên bố tuyệt giao với Tề. Thế nhưng, đến khi nhận đất thì Trương Nghi đã lật lọng nói là chỉ tặng có 06 dặm. Hoài vương tức giận và hạ lệnh phái binh đánh Tần, nhưng bị bại binh ở đất Đan Dương 丹陽 và buộc phải cắt đất bồi thường chiến phí cho Tần.

Trong sự việc này, Khuất Nguyên là người đầu tiên phản đối đàm phán với Tần. Nhưng khi bị Tần đã đánh bại, vua Sở lại phái Khuất Nguyên làm sứ giả đến Tề, hy vọng nối lại liên minh với Tề. Nước Tần nhận thấy tình thế không thuận lợi cho mình, lại đề nghị kết làm thông gia với Sở, Khuất Nguyên cũng nhận thấy sự tráo trở trong sự vụ này nên cũng cực lực phản đối, Sở Hoài Vương một lần nữa lầm lẫn, tin vào quỷ kế của Tần và đày Khuất Nguyên đến tận Hán Thuỷ 漢水. Sau đó, Sở Hoài vương đi phó hội bị nước Tần giam cầm và lâm bệnh rồi chết nơi đất khách quê người. Con trai của ông ta là Tương vương 襄王 lên ngôi, quan lệnh doãn là Tử Lan 子蘭 từ trước đã phản đối chính sách của Khuất Nguyên, bây giờ thì càng kịch liệt hơn và đề nghị lưu đày ông ra khỏi đất Sở, càng xa càng tốt. Trong thời gian này, nhà thơ đã viết nên thiên trường ca ái quốc nổi tiếng - Ly Tao 離騷. Não nề thay, khi hoàn thành tác phẩm cũng là lúc mà ông nghe tin kinh thành Dĩnh Đô 郢 都 đã bị quân Tần công phá hoang tàn.

Vào ngày mồng 5 tháng 05 âm lịch, trong nỗi uất hận khôn tả và sự vỡ tan của hoài bão cống hiến, lý tưởng canh tân đất nước, ông đã gieo đầu xuống dòng Mịch La  汨羅 tự vẫn. Người đời sau, vì kỷ niệm sự kiện này đã lấy ngày 05 tháng 05 làm tết Đoan ngọ.

Về nguồn gốc của tiết lễ này, đến nay đã tồn tại khá nhiều quan điểm tranh luận khác nhau và chưa ngã ngũ. Về cơ bản có 05 thuyết như sau:

1. Thuyết thứ nhất cho rằng, đây là một câu chuyện lịch sử, bao hàm dụng ý chỉ vua sáng, tôi hiền, trung thần, hiếu tử, tiết liệt nữ…, chẳng hạn như: Giới Tử Thôi 介子推, Ngũ Tử Tư 伍子胥, Câu Tiễn 勾踐, Khuất Nguyên 屈原, Tào Nga 曹娥…

2. Thuyết thứ hai là quan điểm của Văn Nhất Đa 聞一多, ông cho rằng Đoan ngọ tiết là ngày lễ, là hoạt động cúng tế mang tính sùng bái rồng (Thuỷ long 水龍) trong văn hoá của hai nước Ngô Việt 吳越.

3. Thuyết thứ ba quan niệm tết Đoan ngọ vào đúng ngày mồng 05 tháng 05 âm lịch, cũng chính là tháng Trọng hạ 仲夏, là thời điểm mà dịch bệnh đang hoành hành, tục gọi là ác nguyệt 惡月. Hoạt động mang tính tâm linh của ngày này là giải trừ dịch bệnh để bảo vệ sức khoẻ. Nguyên tắc này đến nay vẫn còn được lưu truyền trong tâm thức dân gian.

4. Thuyết thứ tư xác định thời gian của tết Đoan ngọ chính là đang ở trong tiết Hạ chí 夏至.

5. Theo các nhà phong tục học, tết Đoan ngọ là tập tục dân gian và cũng chính là một tiết khí 節氣, do đó mới có những hoạt động tiêu độc 消毒 (giải độc), tỵ tà 避邪 (tránh tà khí).

Theo chúng tôi, qua khảo sát sự ghi chép trong một số điển tịch Trung Hoa, Đoan ngọ vốn là Đoan ngũ 端五. Người Trung Quốc ngay ở thời kỳ Tiên Tần 先秦 đã sớm nhận thấy ngày mồng 05 tháng 05 là ngày bất tường, không may mắn. Về sau, dân gian đã định tục là vào ngày này lấy chu tác 朱索 (tức kết nút bằng tơ ngũ sắc) và Ngũ sắc đào五色桃 (cành đào ngũ sắc) treo ngay trước cửa, hoặc đeo tơ ngũ sắc ở bên vai, dán bùa đỏ ở trước bụng…

Từ đời Hán漢代 trở về sau, tết Đoan ngọ từ một tập tục cúng tế nguyên thuỷ đã chuyển dần sang hoạt động cúng tế mang tính tưởng niệm có liên quan đến nhân vật lịch sử - nhà thơ yêu nước vĩ đại Khuất Nguyên. Từ đó, tập tục này càng lưu truyền và ảnh hưởng rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân. Kể từ sau sự thống nhất của Nam Bắc triều 南北朝, phong tục của hai miền cũng trở nên nhất quán và tục cúng tế Khuất Nguyên vào ngày tết Đoan ngọ từ nước Sở ở phương Nam đã lan ra khắp Trung Nguyên.

Về phong tục trong ngày tết Đoan ngọ, theo ghi chép của học giả Chu Xử 周處 trong quyển Phong Thổ ký 風土記 , tập tục tết Đoan ngọ của nhà Tấn 晉朝 là: dùng hoa ngải cứu (Ngải hoa 艾花) treo trước của nhà, dẫm trên cỏ và đua thuyền. Treo hoa ngải cứu mang hàm nghĩa nghĩa tiêu độc, dẫm trên cỏ hay còn gọi phát cỏ là hoạt động vui chơi. Đặc biệt, hoạt động đua thuyền cũng từ thời kỳ này mà phát tích. Lễ hội đua thuyền trong ngày này là sự tưởng niệm sự kiện Khuất Nguyên gieo đầu xuống sông Mịnh La tự trầm. Trong Sử ký 史記, sử gia Tư Mã Thiên 司馬遷 vẫn chưa xác định rõ thời gian tự trầm của Khuất Nguyên. Vì thế, theo chúng tôi những ghi chép của Tư Mã Thiên trong Khuất Nguyên liệt truyện 屈原列傳 (Sử ký) cũng chính là những tư liệu được thu thập từ trong dân gian. Thời Nam Bắc triều, tết Đoan ngọ còn được gọi là Dục Lan tiết 浴籣節. Căn cứ sự chú giải của từ điển Từ Nguyên 辭源, Lan 籣 có nghĩa là “túi đựng tên, hình dáng của nó như cái hộp gỗ” (Tr.2881). Vùng Kinh Sở 荊楚 ngày nay vẫn còn lưu truyền tập tục hái cây ngải cứu vào ngày lễ Đoan ngọ.

Đến thời Tống 宋代, lễ tục này cũng có những chuyển biến của nó. Mạnh Nguyên Lão 孟元老 trong bài tựa của cuốn Đông kinh mộng hoa lục 東京夢華錄 (bản in năm 1147) đã viết: “Những đồ vật của tết Đoan ngọ là trăm sợi tơ trắng (Bách tác 百索), hoa ngải cứu (Ngải hoa 艾花), quạt giấy có vẽ hoa (Hoa hoa xảo hoạ phiến花花巧畫扇), kẹo ngọt thơm (Hương đường quả tử 香糖果子), bánh nếp (粽子), lá tía tô (Tử tô紫蘇), cây Xương bồ (Xương bồ 菖蒲)… từ ngày mồng 01 đến mồng 04 tháng 05, người dân mua đào, liễu, bồ diệp 蒲葉 … là những loại thực vật có khả năng trừ tà. Đến ngày mồng 05, nhà nhà đều treo những loại cây ấy ở trước cửa, sau đó chuẩn bị trà, hoa, quả cúng thần và mọi người bắt đầu tổ chức các lễ hội vui chơi…”.

Từ đời Minh明代 trở về sau, bùa trừ ngũ độc (Ngũ độc phù 五毒符) đã trở thành vật trang sức, là cây trâm cài đầu của phụ nữ. Trầm Bảng 沉榜trong Uyển thự tạp ký 宛署雜記 (quyển 17, bản in năm 1593) cũng cho rằng, “thời trước, phụ nữ thường vẽ hình con rết (Ngô công 蜈蚣), rắn (Xà ), bò cạp (Hiết), cọp (Hổ ), cóc (Thiềm thừ 蟾蜍) trên những cây gỗ đào gọi là ngũ độc phù và cài trên đầu làm trâm (Thoa )…”. Kiểu trâm cài này, ở vùng Giang Nam江南 từ đời Thanh清代 trở đi gọi là Kiện nhân 健人 hoặc Đậu Nương 豆娘. Khu vực vùng ven của kinh thành Bắc Kinh 北京 cũng lấy tết Đoan ngọ làm Nữ nhi tiết 女兒節 (tết con gái), Trầm Bảng trong tài liệu đã nêu cũng viết: “từ ngày mồng 01 đến ngày mùng 05, các cô gái chưa xuất giá thì trang điểm làm đẹp, con gái đã lấy chồng thì được trở về thăm nhà cha mẹ đẻ nên gọi là Nữ nhi tiết…”. Tập tục này chỉ lưu truyền ở vùng Bắc Kinh. Một trong những tập tục mang tính nghi lễ của ngày tết này là đeo túi thơm (Hương nang 香囊), các khuê nữ vào ngày này đều đeo túi thơm, do đó Hương nang còn được gọi là Hương bao 香包, Hinh hương 馨香. Tuy nhiên, chỉ cần xem xét một lễ tục quan trọng có ý nghĩa văn hoá của ngày này là khử độc, trừ ôn dịch, chúng ta cũng cảm nhận được giá trị văn hoá và tầm quan trọng của nó. Vì thế, Đoan ngọ cũng chính là Đoan ngũ, nên người xưa gọi là Trùng ngũ 重五.

Vì sự trùng ngày trùng tháng này mà cổ nhân còn gọi nó là Đoan Dương tiết 端陽節, Ngọ 午và Dương 陽 đều do khí ấm dần thịnh mà thành, có khả năng trừ âm tà. Ác Nhật 惡日 và Long đồ đằng 龍圖騰 (sùng bái rồng) đều có khả năng là khởi nguyên của tết Đoan ngọ. Xét trong quá trình phát triển của lịch sử, quan niệm về ngày Ác và tập tục sùng bái Rồng đã kết hợp với nhau, cho đến khi bổ sung thêm câu chuyện bi thương về Khuất Nguyên thì tết Đoan ngọ dường như đã có thêm một ý nghĩa văn hoá mới và do đó nó đã trở thành một trong những ngày lễ quan trọng của dân gian.

Đoan ngọ là một trong những ngày lễ truyền thống có nội hàm văn hoá phong phú. Vào ngày này khắp nơi đều tổ chức lễ hội, cúng tế và các hoạt động văn hoá khác nhau hình thành một phong tục tốt đẹp của dân gian vẫn còn lưu truyền đến ngày nay.

[SMCC] Trung Hoa thập đại danh khúc

From: "Nguyen Khanh Quoc" <khanhquoc78@xxxxxxxxx>

To: <"Undisclosed-Recipient:;"@freelists.org>

Date: Sat, 14 Mar 2009 04:15:25 +0700

Trung Hoa thập đại danh khúc

http://www.4shared.com/file/92753061/3f270f41/CoNhacTrungHoa.html

Cổ nhạc Trung Quốc lưu truyền mười nhạc khúc nổi tiếng

được xưng tụng “Trung Hoa thập đại danh khúc”. Mười

nhạc

khúc đó bao gồm:

1. Cao sơn lưu thuỷ

2. Quảng lăng tán

3. Bình sa lạc nhạn

4. Mai hoa tam lộng

5. Thập diện mai phục

6. Tịch dương tiêu cổ

7. Ngư tiều vấn đáp

8. Hồ gia thập bát phách

9. Hán cung thu nguyệt

10.Dương xuân bạch tuyết.

Đằng sau mỗi nhạc khúc là những giai thoại thú vị. Nghe

nhạc khúc mà không biết nguyên nhân dẫn khởi nhạc khúc

tất không thể đi đến tận cùng cái vi diệu của khúc ý.

Mỗi nhạc khúc có những câu chuyện lịch sử và văn chương

đằng sau chúng. Cần biết để có thêm hứng thú khi thưởng

thức nhạc khúc.

1. Cao sơn lưu thuỷ

Cao sơn lưu thuỷ gắn liền với một giai thoại về mối

tình

tri âm tri kỉ giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Ngay từ thời

Xuân Thu Chiến Quốc( thế kỉ 4 tr.CN), Liệt Ngự Khấu,

người nước Trịnh, trong Thang vấn, sách Liệt Tử chép: “

Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng

giỏi. Bá Nha chơi đàn, chí tại núi cao, Chung Tử Kỳ

nói:

‘Hay thay! vời vợi tựa Thái sơn’. Chí để nơi dòng nước

chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! mênh mang như sông

nước’. Bất luận là chí tại cao sơn hay chí tại lưu

thuỷ,

Bá Nha trong mỗi khúc nhạc đều biểu hiện chủ đề hoặc ư

tưởng của mình, nhờ đó Chung Tử Kỳ có thể lĩnh hội được

ư tứ đó. Nghe nhạc vốn dĩ là cảm cái khúc ư mà người

chơi gửi gắm, đạo lư này vốn dĩ đă có từ ngàn xưa vậy.

Cầm phổ sớm nhất của nhạc khúc này được ghi trong Thần

kỳ bí phổ. Giải thích về nhạc khúc này sách viết: “Cao

sơn lưu thuỷ ban đầu chỉ có một đoạn, đến đời Đường nó

được phân thành hai khúc nhạc giống nhau, không phân

đoạn, đến đời Tống người ta mới phân Cao sơn thành 4

đoạn, lưu thuỷ thành 8 đoạn”.

2. Quảng lăng tán

Trong truyện Kiều, khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe tại

vườn Thúy, có đoạn:

Kê Khang này khúc Quảng Lăng

Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân

Câu đầu chính là để chỉ khúc "Quảng lăng tán" . Nhắc

đến

"Quảng lăng tán", thì phải nhắc đến hai câu chuyện,

chuyện của thích khách Nhiếp Chính thời Chiến Quốc và

chuyện của Kê Khang. Cha của Nhiếp Chính vì Hàn Vương

đúc kiếm, do trễ ngày giao kiếm mà bị thảm sát, Nhiếp

Chính vì trả thù cha luyện đàn mười năm, nổi tiếng khắp

nơi, được Hàn Vương triệu vào đàn. Nhiếp Chính nhân cơ

hội này giết chết Hàn Vương rồi hủy dung tự tử để khỏi

liên lụy thân nhân. Người đời sau vì cảm khái câu

chuyện

này mà soạn nên khúc "Quảng lăng tán". Sáu trăm năm

sau,

đời Ngụy Tấn, có Kê Khang là một nhạc gia nổi tiếng

trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền” đã phát triển khúc này

thành một khúc nhạc tuyệt luân. Đương thời họ Tư Mã

đang

tiếm quyền Tào Nguỵ, Kê Khang tài giỏi nhưng tính cương

liệt, đứng về phía nhà Nguỵ một mực tỏ thái độ không

hợp

tác với họ Tư Mã. Năm 262 tr.CN Kê Khang vì tội làm

loạn

triều chính đã bị chặt đầu giữa chợ, trước khi chết ông

đã tấu khúc "Quảng lăng tán" một lần cuối cùng rồi thốt

lên rằng: "Quảng Lăng Tán từ nay thất truyền!"

3. Bình sa lạc nhạn

Thời Minh triều còn có tên Lạc nhạn bình sa, khúc điệu

du dương, dìu dập, trong tiếng đàn có tiếng nhạn. Miêu

tả chim nhạn đáp xuống giữa không trung, ngoái đầu ngắm

cảnh.

4. Mai hoa tam lộng

Nhạc khúc thuộc loại "tá vật vịnh hoài", mượn hình ảnh

tinh khiết,sự thơm ngát và sức kiên cường chống chọi

với

cái lạnh của hoa mai để tán tụng những người có tiết

tháo cao thượng.Nửa đầu khúc nhạc giai điệu du dương,

thanh u gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại an

tường của hoa mai. Nửa đoạn sau vội vàng, hấp tấp biểu

hiện động thái bất khuất của hoa mai.Giai điệu tiết tấu

hai đoạn đầu và cuối như là bất đồng, tương phản rõ

rệt...

5. Thập diện mai phục

Nhạc khúc miêu tả tình cảnh quyết chiến oanh liệt cuối

cùng của chiến tranh Sở Hán vào năm 202 trước công

nguyên. Trận ấy, tứ diện Sở ca, bốn bề mai phục, Hạng

phải tự tử ở Ô Giang, Lưu Bang giành được thắng lợi.

Theo GS Trần Văn Khê thì “Thập diện mai phục” là một

trong những bản khó đàn nhất, đặc biệt từ chương Ba đến

sau có mấy đoạn khi đàn phải chen ngón giữa của bàn tay

trái vào các dây làm âm thanh phát ra đục và giống như

tiếng gươm giáo chạm nhau, như Nguyễn Du đã tả khi Kiều

đàn cho Kim Trọng nghe khúc này:

Khúc đâu Hán Sở chiến trường

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau

6. Tịch dương tiêu cổ

Là khúc nhạc trữ tình khoảng trước sau năm 1925.

7. Ngư tiều vấn đáp

Bày tỏ niềm an vui tự tại của “ngư tiều” giữa chốn rừng

xanh núi biếc (thanh sơn lưu thuỷ). Nhạc khúc dùng

phương thức đối thoại giữa “ngư giả” và “tiều giả”,

những lúc mà nhạc khúc lên cao chính biểu đạt câu hỏi,

lúc mà giai điệu thấp xuống thì biểu thị câu trả lời.

Toàn khúc phiêu dật tiêu sái, biểu hiện thần thái thong

dong tự tại của "ngư tiều"…

8. Hồ gia thập bát phách

“Hồ gia thập bát phách” kể về về cố sự “Văn Cơ quy

hán”.

Trong khung cảnh chiến loạn thời mạt Hán, Thái Diễm (

Thái Văn Cơ) lưu lạc ở đất Hung Nô 20 năm. Nàng thân

tuy

là sống bên cạnh của nhà vua, nhưng lòng thì luôn hoài

niệm về cố hương. Lúc Tào Tháo phái người đón nàng về

cố

hương, nàng không nỡ rời xa hai đứa con nhỏ, niềm vui

hồi hương bị nỗi đau cốt nhục chia ly bao phủ làm tâm

tình nàng cực kỳ mâu thuẫn… Có thể nói đây chính là

khúc

bi ai nhất trong “Trung Hoa thập đại danh khúc”.

9. Hán cung thu nguyệt

Kể lại tâm tình của cung nữ thời xưa thường bị áp bức,

khóc lóc thê lương, gợi nên sự đồng cảm

10.Dương xuân bạch tuyết.

“Dương xuân bạch tuyết” dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa

xuân sang, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao mùa

vẫn còn cái hơi lạnh của mùa đông nhưng đã có cái ấm áp

của mùa xuân. Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, nhẹ nhàng

như nước chảy bên tai, làm người nghe quên cả trời đất,

cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái, mơ màng như

thấy có những tia nắng ấm áp lan tỏa lên thân mình, xa

xa những lớp tuyết đang từ từ tan ra trên một cành mai

gầy...

Follow-Ups:

Tiết Hàn Thực ( Lễ tết mùng 3 tháng 3)

Lịch sử - Điển tích

TIẾT HÀN THỰC (Lễ tết mùng 3 tháng 3)

Cao Thanh 007

         Theo sử Trung Hoa, đời nhà Tấn ( 265-419 )* con vua Tấn Hiến Công là công tử Trùng Nhĩ, sau hơn 19 năm lưu lạc, nay trở về nối nghiệp chúa, lên làm vua, tên là Tấn Văn Công .

         Nguyên vua Tấn Văn Công - tức công tử Trùng Nhỉ ngày trước bị vua cha ghét bỏ và có ý hãm hại để lập dòng thứ... khiến nên Trùng Nhỉ cùng một vài bầy tôi trung phải trốn đi, lưu lạc qua nhiều nước, trãi qua nhiều hiểm nguy, gian khổ... Giới Tử Thôi là bề tôi trung, theo phò Trùng Nhĩ từ thuở tòng vong, từng vào sinh ra tử, hết lòng phụng sự... Truyền thuyết kể rằng, có lần Chúa Tôi chạy giặc, nguy cấp, đói kém, hết cả lương ăn... Giới Tử Thôi không ngần ngại cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng chúa...Sau này khi phục quốc, lên làm vua, nhớ người từng theo phò trợ, Chúa đã phân hạng và trả ơn rất hậu, ban thưởng nhiều vàng bạc, chức tước... Riêng Giới Tử Thôi - công thần bậc nhất , người có công lớn thì vua lại quên !?

        Với tính người điềm đạm, mực thước, không hám lợi danh, Giới Tử Thôi không vì việc ấy mà buồn, vẫn xử sự như không. Ông lui về quê nhà, chăm sóc mẹ già, sống đời nghèo khó...May nhờ có Giải Trương - người bạn nghèo năm xưa biết chuyện nên bức xúc tâu vua...Tỉnh ngộ và hối hận, vua liền sai người vời gọi, đón rước về kinh. Nhưng lòng người đã quyết, để giữ liêm sỉ - Giới Tử Thôi bèn cõng mẹ già trốn vào núi sâu Miên Thượng...<

         Vua Tấn Văn Công phải đích thân vào núi kiếm tìm, mấy ngày liền không gặp bèn sai quân lính phóng hỏa đốt rừng, vì biết Giới Tử Thôi là người con chí hiếu tất phải cõng mẹ chạy ra...để vua còn dịp gặp mặt, tạ ơn. Than ôi ! tính người đã quyết , hai mẹ con Giới Tử Thôi thà ôm cây chết cháy chứ nhất định không ra... Quá ăn năn và hối hận, để chuộc lỗi, vua sai người cho lập miếu thờ dưới chân núi, bao nhiêu ruộng lúa xung quanh đều lấy làm ruộng thờ, lại đổi tên núi là Giới Sơn... Hôm ấy là ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch. Người dân trong nước tiếc thương hai mẹ con Giới Tử Thôi bị chết cháy nên hàng năm đến ngày này có tục không đốt lửa, chỉ ăn đồ nguội ( Hàn thực ), trước sân nhà thường cắm cành liễu, chiêu hồn Giới Tử Thôi...

         Thật thú vị khi tích truyện trên được ghi lại trên Đồ Sứ Ký Kiểu, tức Đồ Sứ Trung Hoa sản xuất theo đơn đặt hàng của các vương triều phong kiến Việt Nam. Hình họa Giới Tử Thôi lưng cõng mẹ già , tay cầm gậy gỗ, theo dòng nước ngược lầm lũi tìm đường vào núi sâu Miên Thượng trông cảm động biết bao ! Cảnh vẽ cây cầu gãy kề bên như ngụ ý trách cứ, ám chỉ sự xa cách của Quân Vương và bề tôi trung... như muốn nói : Kể từ nay mỗi người đôi ngã, không còn chung một con đường, không cùng chí hướng... Cảnh vật về đêm thật hoang vắng, tĩnh lặng được thể hiện qua hình vẽ mặt trăng có quầng. Rừng núi hoang vu, vực sâu thác đổ... trông thật buồn, như đồng cảm, như thấu hiểu tâm trạng của người quân tử, như trách cứ ai sao quá vô tình, sao nỡ quên đi tình xưa nghĩa cũ....

         Trong "Cổ Tâm Bách Vịnh" - tức 100 bài thơ họa về lịch sử và nhân vật Trung Hoa của vua Lê Thánh Tông ( 1442-1497) có nhắc đến tích truyện trên cùng bài thi ngũ ngôn tuyệt cú :

Nguyên tác:

Miên Thượng Điền

Trùng Nhĩ tương quy quốc

Tòng vong bị sủng vinh

Quân vương ân nghĩa bạc

Giới Tử bất cầu sinh.

Dịch thơ:

Ruộng Miên Thượng

Cái ngày Trùng Nhĩ trở về

Bề tôi ngày trước đề huề vinh phong

Bởi vua quên phắt nghĩa tình

Cho nên Giới Tử cầu vinh chẳng màng.

( Bản dịch của viện nghiên cứu hán nôm )

Mai Xuân Hải

        "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" . Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, đó là quan điểm, là định chế, là qui luật muôn đời trong xã hội phong kiến. Xem lại truyện cũ, tích xưa... Thấy sao đời phong kiến lắm chuyện bất công, lúc hoạn nạn Quân thần chung lưng đấu cật, khi thái bình cộng lạc nào đâu ? Đọc tích xưa giúp ta có dịp chiêm nghiệm, nhìn lại chính mình. Cổ nhân thật thâm ý và sâu sắc. Cám ơn người xưa đã cho chúng ta bài học hay về đối nhân xử thế, về tình người, đề cao tính cao thượng, liêm sĩ của người quân tử...

         Ở đời không có chi là tồn tại, là trường cửu mãi. Cuộc đời như phù vân, như mây nổi, gió đánh mây tan. Ví như hoa kia sớm nở, tối tàn... Khi gặp thời đưa ta đến tột đỉnh vinh hoa, lúc thất thế như diều đứt dây. Tranh danh đoạt lợi để mà chi, sống nhân nghĩa, tình người mới là trọng !

* Tên một nước nhỏ kéo dài từ đời Xuân Thu đến đời Chiến Quốc.

Những Điển Tích Hay

Thần đồng vấn Khổng Tử

Thần đồng vấn Khổng Tử là câu chuyện Thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử nhiều điều mà Ngài không trả lời được, nên chịu phục Hạng Thác làm thầy.

Đức Khổng Tử cùng một số học trò, trên đường đi qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên xe nhìn đám trẻ, thấy có một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà không đùa nghịch. Đức Khổng Tử dừng lại hỏi cậu bé :

- Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ kia ?

Cậu bé đáp :

- Đùa giỡn thì vô ích. Sự đùa giỡn có thể làm rách quần áo, nhọc công mẹ vá khâu và làm buồn lòng đến cha, nên tôi không đùa nghịch.

Nói xong, cậu tiếp tục đắp thành. Đ. Khổng Tử lại hỏi :

- Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao ?

Cậu bé thản nhiên đáp :

- Từ xưa đến giờ, xe phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, thấy cậu bé nầy có vẻ khác lạ, liền xuống xe đến gần cậu bé bàn luận nhiều việc xa xôi. Cậu bé đều trả lời xuôi rót, nhưng có tánh cách biến trá. Đức Khổng Tử trách rằng :

- Cậu hãy còn bé mà sao đã biến trá lắm vậy ?

- Người ta sanh ra 3 ngày đã biết tìm vú mẹ, con thỏ sanh ra 3 ngày đã chạy tung tăng trên đồng nội, con cá sanh ra 3 ngày thì biết xuôi ngược khắp sông hồ. Đó là tánh tự nhiên, sao gọi là biến trá ?

- Cậu ở xóm nào, làng nào, cha mẹ ở đâu ?

- Tôi sanh tại đây, họ Hạng tên Thác, chưa có tên tự.

- Ta muốn cậu cùng đi chơi với ta, ý cậu thế nào ?

- Trong nhà tôi còn có cha, cần phải phụng, còn có mẹ cần phải dưỡng, có anh để phụ tùng, có em phải dạy dỗ, còn có thầy để học hỏi, đâu có rảnh để đi chơi với ông.

- Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng lòng không ?

- Thiên tử mê cờ thì bốn biển không người gìn giữ, chư Hầu mê cờ thì chính sự không an, nho sĩ mê cờ thì việc học đình trệ, nông phu mê cờ thì quên việc cày cấy, vì thế tôi không đánh cờ.

- Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không ?

- Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tỳ thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên tôi không bình luận việc thiên hạ.

Đức Khổng Tử lại hỏi :

- Lửa nào không khói ? Nước nào không cá ?

Núi nào không đá ? Cây gì không cành ?

Người nào không vợ ? Ai kẻ không chồng ?

Trâu nào không nghé ? Ngựa nào không con ?

Trống nào không mái ? Mái nào không trống ?

Ai là quân tử ? Ai kẻ tiểu nhân ?

Vật gì không đủ ? Vật gì có thừa ?

Thành nào không chợ ? Người nào không con ?

Cậu bé Hạng Thác liền đáp :

- Lửa đôm đốm không khói. Nước giếng không cá.

Núi đất không đá. Cây khô không cành.

Tiên Ông không vợ. Ngọc Nữ không chồng.

Trâu đất không nghé. Ngựa gỗ không con.

Trống độc không mái. Mái độc không trống.

Hiền là quân tử. Kẻ dại tiểu nhân.

Ngày Đông không đủ. Ngày Hạ có thừa.

Hoàng thành không chợ. Đứa trẻ không con.

Sau khi Hạng Thác trả lời xong, Đức Khổng Tử hỏi tiếp :

- Cậu có biết gì về lẽ Đạo hằng của Trời Đất ?

Sự cuối cùng của Âm Dương ?

Đâu là phải ? Đâu là trái ?

Đâu là trong ? Đâu là ngoài ?

Ai là Cha ? Ai là Mẹ ?

Ai là chồng ? Ai là vợ ?

Gió từ đâu đến ? Mây từ đâu ra ?

Sương từ đâu có ? Trời Đất xa nhau mấy dặm ?

Cậu bé Hạng Thác liền trả lời :

- 9 lần 9 chu kỳ là 81. Ấy là đạo của Trời Đất.

8 lần 9 là 72. Ấy là Âm Dương cùng cuối.

Tây là phải. Đông là trái.

Trong là lý. Ngoài là biểu.

Trời là Cha. Đất là Mẹ.

Mặt Trời là chồng. Mặt Trăng là vợ.

Gió từ cây xao động. Mây trong núi bay ra.

Sương từ đất dậy. Trời Đất xa nhau ngàn ngàn

vạn vạn dặm.

Cậu bé Hạng Thác đã trả lời đầy đủ các câu hỏi của Đức Khổng Tử. Bây giờ cậu bé xin thỉnh giáo Đức Khổng Tử đôi điều :

- Thưa Ngài, vịt ngỗng sao nổi trên mặt nước ?

Chim hồng chim nhạn sao lại kêu to ?

Tùng bách sao ngày Đông vẫn xanh lá ?

Đức Khổng Tử đáp rằng :

- Vịt ngỗng vì chân nó banh mà nổi bơi trên mặt nước.

Chim hồng chim nhạn kêu to là vì cổ nó dài.

Tùng bách ngày Đông xanh lá là vì ruột nó đặc.

Cậu bé Hạng Thác cười nói rằng :

- Chắc không hẳn như vậy đâu.

Tôm cá vẫn nổi trên mặt nước mà chân nó có banh đâu.

Ễnh ương, ếch nhái kêu to mà cổ của nó có dài đâu.

Cây trúc rổng ruột mà ngày Đông vẫn xanh lá.

Sau khi bắt bẻ các câu trả lời của Đức Khổng Tử, Thần đồng Hạng Thác hỏi tiếp :

- Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu vì sao ?

- Chuyện dưới đất không thiếu gì sao lại hỏi chuyện trên Trời.

- Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà ?

Đức Khổng Tử lại nói rằng :

- Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần gì nói chuyện Trời Đất.

- Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi ?

Đức Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi.

Ngài quay lại nói cùng các học trò rằng : “ Hậu sanh khả úy.” (kẻ sanh sau đáng sợ thật). Đó là kẻ rất khó tìm thấy trong thiên hạ. Nói xong Ngài trở lên xe đi thẳng.

Bài thi : Thần đồng vấn Khổng Tử :

Hưu khi niên thiếu thông minh tử,

Quảng hữu anh tài trí quá nhân.

Đàm luận thế gian vô hãn sự,

Phân minh Cổ Thánh hiện kỳ thân.

Tạm dịch :

Đừng khinh tuổi trẻ bậc Thần đồng,

Có lắm anh tài trí quảng thông.

Luận việc thế gian không giới hạn,

Thánh xưa hiện rõ thể vừng đông.

Tối hôm ấy, Đức Khổng Tử ngồi thẩn thờ trước án, ngọn đèn bạch lạp lụn tàn. Tử Lộ mạo muội vào hỏi thầy :

- Thầy trầm tư về cuộc tranh luận với Hạng Thác ? - Phải.

- Thầy không vui vì mình yếu lý ? - Không.

Thấy Tử Lộ có ý hồ nghi, nên Đức Khổng Tử nói tiếp :

- Nầy Do, bình sanh ta đi chu du thiên hạ để truyền bá Nhơn đạo, mặt luôn luôn hướng thẳng, lòng sáng tợ gương, ý thành, ngôn chánh. Còn miệng lưỡi của Hạng Thác là miệng lưỡi của phường biện sĩ, nên có thể chứng minh ngựa trắng không phải là ngựa trắng. Khi xướng thuyết Liên Hoành cũng thuận, mà bày kế Hợp Tung cũng thông. Xét từ bản chất của ngôn ngữ, cuộc tranh luận vừa qua cũng như nước chảy dòng đôi, xa trăm ngàn đợt sóng nhấp nhô, nhưng kỳ thật không lượn lớn lượn nhỏ nào va chạm. Do làm sao hiểu được !

(Tử Lộ là học trò giỏi của Đ. Khổng Tử, tên Trọng Do, kêu tắt là Do)Tử Lộ hỏi : - Vậy cớ nào thầy buồn ?

- Ta buồn vì có Khổng Khâu mà còn phường biện sĩ. Hạng Thác nhắc cho ta nhớ đến vai trò của kẻ biện sĩ. Biện sĩ chỉ thuyết cho sự lợi ích mà không thuyết cho Chơn Lý. Khắp thiên hạ, kẻ cầu lợi đông như kiến cỏ, người hướng về Chơn Lý đốt đuốc khó tìm.Thế sự trôi chảy không ngừng. Chánh đạo của ta liệu truyền lưu được bao lâu nữa ? Đó chẳng phải là điều đáng buồn hay sao ?

Tử Lộ toan lui ra, Đức Khổng Tử kêu lại hỏi :

- Trò Do, trò còn nhớ người hiền nước Sở ?

- Bẩm, có phải là Sở cuồng Tiếp Dư ca hát nghêu ngao.

- Trò còn nhớ 2 ẩn sĩ họ Kiệt, họ Tràng ?

- Bẩm, có phải 2 lực điền ở giáp ranh Sở, Thái ?

- Họ khuyên ta bỏ đi việc chính sự lụy phiền, để làm người tỵ thế. Khuyên ta : Trời không hề nói gì mà vạn vật điều hòa. Ta cũng muốn êm lời, nhưng gặp việc nghĩa mà không làm, biết Chơn Lý mà không nói thì phải sống với đồng loại hay sống với chim muông !

Tử Lộ ra ngoài nói với các bạn : Thầy nói : Hậu sinh khả úy. Không phải sợ kẻ sanh sau tài giỏi hơn mình, mà sợ họ làm sai lạc Chánh lý bằng ngoa ngôn xảo ngữ vị lợi đó thôi.

( Sưu Tầm )

Tôn Tẫn tầm sư học Đạo

Tôn Tẫn là người nước Yên, cha là Tôn Tháo, mẹ là Công Chúa Yên Đơn, ông nội là Tôn Võ Tử .

Công Chúa Yên Đơn thọ thai 48 tháng mới sanh ra Tôn Tẫn. Lúc sanh ra là lúc Công Chúa Yên Đơn đương bị khổn trong trận do Hỗn Thiên Tán của Túy Vân, nên nằm bất tỉnh rồi lâm bồn đúng giờ Tý tại núi Kinh Kha nước Yên.

Lúc Tôn Tẫn lên 9 tuổi thì Tôn Tháo mất, Tôn Kiều là chú đang làm quan Đại Phu nước Tề ddem Tôn Tẫn về nuôi dưỡng. Sau đó Tôn Kiều gặp nạn, phải lánh sang nước Châu, gia đình sa sút, Tôn Tẫn phải đi làm thuê để sinh sống .

Tôn Tẫn lớn lên, nghe đồn Quỉ Cốc Tiên Sinh có taì cao phép lạ , nên tìm đến xin thọ giáo. Nguyên ở Dương Thành thuộc địa phận nhà Châu, có một chỗ gọi là Quỉ Cốc, vì nơi ấy có núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề. Trong núi ấy có một ẩn sĩ họ Vương tên Hủ , trước ở núi Vân Mộng cùng Mặc Địch hái thuốc, tu Tiên, sau đến ẩn nơi Quỉ Cốc, nên người ta thường gọi là Quỉ Cốc Tiên Sinh .

Quỉ Cốc Tiên Sinh có học vấn uyên bác, tu Tiên đắc đạo, tinh thông lý số, thông hiểu lẽ huyền vi của Trời Đất, lại cũng tinh thông binh thơ đồ trân. Học trò của Quỉ Cốc Tiên Sinh có nhiều người tài giỏi như : Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi, vv... Tôn Tẫn và Bàng Quyên thì học về binh pháp. Còn Tô Tần và Trương Nghi thì học về du thuyết .

Bàng Quyên học được 3 năm, tự cho mình đã giỏi rồi, nên xin thầy cho xuống núi đi lập công danh.

Quỉ Cốc bảo Bàng Quyên đi hái một cành hoa đem vào đây để thầy đoán vận mạng cho. Bàng Quyên đi ra khỏi động, nhằm lúc khí Trời nóng nực, cây cối không ra hoa, chỉ thấy một bông hoa cỏ, liền nhổ lên cả gốc, toan đem trình thầy, bỗng nghĩ rằng bông hoa nầy mềm yếu và không đẹp nên ném xuống đất, rồi đi tìm hoa khác, nhưng không tìm được cành hoa nào, đành trở lại chỗ cũ, nhặt cành hoa đã bỏ lúc nảy, bỏ vào túi áo, rồi vào trình thầy rằng :

- Trong núi mùa nầy không có hoa.

- Không có hoa thì vật gì trong túi áo của ngươi đó ?

Bàng Quyên không giấu được, buộc phải đưa ra trình.

- Nhà ngươi có biết cái hoa nầy tên gì không ? Nó là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lần nở 12 bông, ứng với số năm vẻ vang của ngươi. Hoa nầy hái ở Quỉ Cốc, thấy mặt Trời thì héo, bên chữ QUỈ ( ) có chữ ỦY ( ) thành chữ NGỤY ( ) , nhà ngươi xuất thân ở nước Ngụy. Sau nầy nhà ngươi vì việc lừa dối người mà bị người lừa dối lại. Vậy nên lấy điều đó mà răn mình. Ta có 8 chữ nầy, nhà ngươi khá nhớ : “ Gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng.”

Bàng Quyên lạy thầy 2 lạy nói rằng :

- Lời giáo huấn của thầy, đệ tử hết lòng ghi nhớ.

Tôn Tẫn tiễn Bàng Quyên xuống chơn núi.

Bàng Quyên nói :

- Đệ cùng huynh kết nghĩa anh em, thề giàu sang cùng hưởng, khốn nàn cùng gánh. Chuyến đi nầy nếu đệ lập được công danh thì sẽ tiến cử huynh để cùng lập cơ nghiệp.

Hai người chia tay, Tôn Tẫn buồn rớm nước mắt, trở lên núi. Quỉ Cốc Tiên Sinh hỏi Tôn Tẫn :

- Ngươi bảo cái tài của Bàng Quyên làm được Đại Tướng không ?

- Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, lẽ nào Bàng Quyên không làm được Đại Tướng ?

- Không làm được, nhứt định không làm được.

Tôn Tẫn nghe thầy nói vậy thì lấy làm lạ nhưng không dám hỏi thầy lý do. Hôm sau, Quỉ Cốc bảo các học trò :

- Ban đêm, ta rất khó ngủ, ta rất ghét tiếng chuột kêu. Các trò phải luân phiên nhau thức mà đuổi chuột cho ta.

Các trò đều vâng lời, chia phiên thức gác. Tới phiên Tôn Tẫn, Tiên sinh lấy một quyển sách trao cho Tôn Tẫn nói :

- Đây là 13 thiên binh pháp của ông nội nhà ngươi tên là Tôn Võ Tử, xưa đem dâng cho vua Hạp Lư nước Ngô, nhờ đó mà Hạp Lư phá tan quân Sở. Hạp Lư giữ cuốn sách nầy làm gia bảo, bỏ vào hộp sắt, giấu vào cột Cô Tô Đài. Từ khi quân nước Việt đốt Cô Tô Đài, cuốn sách ấy mất tích luôn.Ta có chơi thân với ông nội ngươi, nên được xem sách ấy, ta nhớ và ghi lại, tự tay ta chú giải thêm nhiều điều bí mật trong cách hành binh. Ta chưa từng cẩu thả giao sách cho ai, nay thấy ngươi trung hậu, nên ta giao cho ngươi học, trong 3 ngày giao lại cho ta. Học cuốn sách nầy, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì hại rất lớn. Bàng Quyên không là người tốt, nên ta không dạy.

Tôn Tẫn đem sách về phòng, ngày đêm nghiền ngẫm, trong 3 ngày thì nằm lòng. Ba ngày sau, Tôn Tẫn đem sách nộp cho thầy. Tiên Sinh theo từng thiên hỏi lại Tôn Tẫn, Tôn Tẫn đối đáp rất trôi chảy. Tiên Sinh mừng rỡ nói :

- Ngươi biết dung tâm như thế, Tỗ phụ ngươi dầu đã qua đời chắc rất vui lòng.

Nói về Bàng Quyên, xuống núi thẳng đến nước Ngụy, vào cầu quan Tướng Quốc Vương Thác. Vương Thác tiến cử Bàng Quyên lên vua Ngụy Huệ Vương. Khi Bàng Quyên vào chầu vua, gặp lúc nhà bếp dâng lên món thịt dê. Bàng Quyên mừng thầm vì nhớ lời thầy dặn , gặp dê thì vinh .

Bàng Quyên được Huệ Vương trọng dụng, lần lần phong lên đến chức Nguyên Soái, kiêm Quân Sư. Con trai là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai đều được vua phong làm Tướng, cả nhà vinh hiển.

Lúc bấy giờ có Mặc Địch ghé Quỉ Cốc thăm bạn cũ là Vương Hủ (Quỉ Cốc Tiên sinh), Mặc Địch gặp Tôn Tẫn, đàm luận rất hợp ý, bèn bảo Tôn Tẫn :

- Anh học nghệ đã thành, sao không đi lập công danh ?

- Tôi có người bạn học là Bàng Quyên, đã ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí sẽ tiến cử tôi, nên tôi đợi.

- Bàng Quyên đã làm Nguyên soái nước Ngụy, để tôi vì anh mà đến đó dọ ý Bàng Quyên thế nào ?

Mặc Địch từ giã Quỉ Cốc rồi đi vào nước Ngụy, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không biết thẹn, không có ý tiến cử Tôn Tẫn. Mặc Địch vào nói cho Huệ Vương rõ các việc. Huệ Vương liền đòi Bàng Quyên đến hỏi :

- Ta nghe nói Tôn Tẫn cùng học một thầy với Nguyên soái, lại được học riêng binh pháp bí truyền của Tôn Võ Tử, tài giỏi không ai bằng, sao Nguyên soái chẳng vì Quả nhân mà tiến cử người ấy đến giúp Trẫm.

- Tâu Bệ hạ, hạ thần không phải không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng Tôn Tẫn là người nước Tề, nay làm quan nước Ngụy thì thế nào cũng liên lạc với Tề. Nay Bệ hạ muốn triệu Tôn Tẫn thì hạ thần xin viết thơ gọi đến.

Bàng Quyên ở vào thế buộc phải viết thơ gọi Tôn Tẫn, nhưng thâm tâm rất sợ Ngụy Vương trọng dụng Tôn Tẫn, bỏ rơi mình, nên thầm tính kế hại Tôn Tẫn.

Bàng Quyên viết thơ xong, Huệ Vương dùng xe Tứ Mã và đồ lễ long trọng, sai người đến Quỉ Cốc rước Tôn Tẫn.

Tôn Tẫn tiếp được thơ của Bàng Quyên, vội đem trình thầy. Tiên sinh bảo Tôn Tẫn đi hái một cành hoa để bói coi tốt xấu. Tôn Tẫn thấy bình hoa trên án có một cành hoa cúc, bèn đến rút lấy đem trình thầy, rồi đem cắm trở lại vào bình.

Tiên sinh đoán rằng : Cành hoa nầy bị bẻ, không hoàn hảo, nhưng tánh chịu rét, dẫu có bị tàn hại cũng không hề gì. Vả cắm trong bình, mọi người đều quí trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc cùng một loại với chung đỉnh, chắc rồi sẽ có tiếng tăm lừng lẫy. Nhưng cành hoa nầy 2 lần cất nhắc lại cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi chưa thể đắc ý ngay được, mà kết cuộc sẽ làm nên ở quê mình. Vậy ta đổi tên cho, có thể mong tiến thủ được. Tên ngươi là TÂN ( ) , ta thêm một chữ NHỤC ( ) ở bên tả thành chữ TẪN ÂÁ , vậy tên của ngươi là Tôn Tẫn ( ) . (Tân là khách, Tẫn là bị chặt xương đầu gối) Tiên sinh đổi tên như thế là vì Tiên sinh biết trước học trò mình bị cái hoạ chặt chưn, nhưng không dám tiết lộ.

Khi Tôn Tẫn lạy thầy từ biệt, Thầy trao cho một bức cẩm nang, dặn kỹ khi nào gặp việc nguy cấp mới mở ra xem. Tôn Tẫn lạy tạ thầy lần nữa, rồi xuống núi, lên xe Tứ Mã thẳng đến nước Ngụy, tạm ở trong phủ của Bàng Quyên.

Bàng Quyên biết Tôn Tẫn tài giỏi hơn mình, sợ Ngụy Vương dùng Tôn Tẫn, bỏ rơi mình, nên Bàng Quyên, ngoài mặt giả đò anh em thân thiết, nhưng ngầm lập kế ám hại Tôn Tẫn. Bàng Quyên giả mạo chứng cớ, cáo buộc Tôn Tẫn tư thông nước Tề để hại nước Ngụy. Huệ Vương nghe lời sàm tấu của Bàng Quyên, bắt Tôn Tẫn chặt chưn và thích vào trán 4 chữ “ Tư Thông Ngoại Quốc ”.

Tôn Tẫn trở thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung cấp 3 bữa ăn. Bàng Quyên lại dùng thủ đoạn để gạt người bạn cũ chép 13 thiên binh pháp truyền lại cho mình.

Tôn Tẫn vì lầm gian kế của Bàng Quyên nên rất khổ sở, quá chán nãn cho tình người đen bạc, lại bị vết thươngchặt chưn hành hạ quá đau đớn, muốn tìm kế thoát thân, nhưng chưa biết phải làm sao, sực nhớ bức cẩm nang thầy ban cho, liền bí mật mở ra xem, thấy thầy đề 2 chữ : Giả điên.

Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm đưa tới, Tôn Tẫn cầm đủa định ăn, bỗng làm ra dáng mê man, nôn oẹ, hồi lâu nổi giận giương mắt hét to lên rằng : Mày dùng thuốc độc hại ta, rồi hất đổ mâm cơm xuống đất, miệng lảm nhảm chửi hoài.

Bàng Quyên được lính hầu báo cho biết việc Tôn Tẫn nổi điên thì không tin, đến tận nơi xem xét và nhốt Tôn Tẫn vào chuồng heo, đem cơm đến cho ăn. Tôn Tẫn lại hét : “ Mày lại đem thuốc độc đến hại ta à ?” Nói rồi gạt mâm cơm đổ xuống đất. Tên lính hầu nhặt cơm cho chó ăn, lấy một cục bùn đưa Tôn Tẫn thì Tôn Tẫn liền lấy ăn ngay.

Bàng Quyên tin chắc Tôn Tẫn điên thật nên không lấy làm lo, dần dần thả lỏng Tôn Tẫn muốn đi đâu thì đi, nhưng ra lịnh cho người theo dõi, mỗi sáng phải trình báo cho biết Tôn Tẫn hiện đang ở đâu.

Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nhà Điền Kỵ nước Tề. Có người học trò tên Cầm Hoạt ở nước Ngụy đến. Mặc Địch hỏi thăm Cầm Hoạt lúc nầy Tôn Tẫn có đắc ý không ? Cầm Hoạt thuật lại việc Tôn Tẫn bị chặt chưn và trở nên điên khùng.

Mặc Địch nói :

- Ta muốn tiến cử hắn nào ngờ lại thành ra hại hắn.

Mặc Địch liền nói rõ tài học của Tôn Tẫn cho Điền Kỵ nghe và việc Bàng Quyên ganh tài ám hại Tôn Tẫn, khuyên Điền Kỵ tìm cách rước Tôn Tẫn sang Tề. Điền Kỵ vào tâu với vua Tề là Tề Uy Vương. Uy Vương muốn đem binh đón Tôn Tẫn thì Điền Kỵ can, nói phải lập kế mới rước Tôn Tẫn được.

Uy Vương sai Thuần Vu Khôn sang Ngụy dâng trà, đem Cầm Hoạt đi theo giả làm kẻ hầu. Qua đến Ngụy, Cầm Hoạt bí mật đi tìm Tôn Tẫn, rồi mướn người khác giả làm Tôn Tẫn, đặng rước Tôn Tẫn thật về Tề.

Thuần Vu Khôn và Cầm Hoạt đưa được Tôn Tẫn ra khỏi nước Ngụy thì đi thẳng về Lâm Tri, có Điền Kỵ thân hành ra đón. Tề Uy Vương rất mừng, muốn phong Tôn Tẫn làm Quân Sư, nhưng Tôn Tẫn tâu rằng :

- Hạ thần chưa có chút công chi nên chưa dám nhận quan tước. Vả nếu Bàng Quyên biết thần làm quan cho Tề ắt lo đề phòng, chi bằng tạm giấu đi mới dễ bề hành động.

Uy Vương bằng lòng, cho Tôn Tẫn ở trong dinh Điền Kỵ, tôn là thượng khách.

Lúc đó, Ngụy Huệ Vương sai Bàng Quyên đi đánh nước Triệu để đòi đất Trung Sơn. Quân Triệu bị thua. Triệu Thành Hầu cầu Tề cứu viện. Tề Uy Vương định phong Tôn Tẫn làm Đại Tướng đem binh cứu Triệu. Tôn Tẫn tâu rằng :

- Hạ thần là kẻ tàn phế, nếu cho làm Đại Tướng e cho quân địch sẽ cười Tề không có tướng tài, chi bằng Đại Vương cử Điền Kỵ làm Tướng, và hạ thần bí mật theo giúp mưu kế.

Tề Uy Vương cử Điền Kỵ làm Đại Tướng, Tôn Tẫn làm Quân Sư bí mật ở trong xe, kéo đại binh cứu Triệu.

Điền Kỵ muốn đem quân thẳng đến Hàm Đan là kinh đô của Triệu. Tôn Tẫn nói : Tướng nước Triệu không đánh nổi Bàng Quyên, nên khi ta kéo quân đến đó thì Hàm Đan đã mất về tay quân Ngụy rồi, chi bằng ta cứ đóng quân giữa đường, rêu rao nói rằng ta đi đánh Tương Lăng của Ngụy. Huệ Vương lo sợ, ắt phải gọi Bàng Quyên trở về giữ Tương Lăng. Bấy giờ ta đón đánh Bàng Quyên thì thế nào cũng thắng.

Điền Kỵ y theo kế đó mà làm. Quả đúng như lời Quân Sư Tôn Tẫn, Bàng Quyên kéo binh về giữ Tương Lăng. Điền Kỵ bày binh theo cách của Tôn Tẫn, đánh Bàng Quyên một trận tơi bời, Bàng Quyên ban đêm chạy trốn về Ngụy.

Năm sau, Bàng Quyền cùng Thái Tử Thân đem binh đánh nước Hàn. Hàn sang cầu cứu Tề. Tề Uy Vương cử Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi cứu Hàn.

Điền Kỵ muốn kéo quân đến nước Hàn. Tôn Tẫn nói :

- Không nên, trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến Triệu, nay cứu Hàn cũng y theo kế hoạch đó. Cái thuật giải cứu Hàn là phải đánh vào nơi yếu trọng của Ngụy thì quân Ngụy tất phải kéo về. Cái kế ngày nay là phải đem binh thẳng đến kinh đô Ngụy thì mới cứu được Hàn.

Bàng Quyên đang thắng thế ở nước Hàn, nhưng Ngụy Huệ Vương ra lịnh cho Bàng Quyên phải tức tốc rút binh về đón đánh quân Tề đang thừa cơ kéo đến đánh kinh đô của Ngụy. Tôn Tẫn bày kế lừa Bàng Quyên. Quân Tề làm như sợ hãi khi biết Bàng Quyên kéo quân trở về Ngụy. Ban đầu làm 10 vạn bếp, sau đó rút quân như bỏ chạy, hôm sau làm 6 vạn bếp, hôm sau rút chạy nữa, chỉ còn làm 3 vạn bếp.

Bàng Quyên cho quân quan sát các bếp của quân Tề, cười lớn nói với Thái Tử Thân :

- Thật là hồng phúc của Ngụy Vương, quân Tề hèn nhát, vào đất Ngụy có 3 ngày mà binh sĩ bỏ trốn quá nửa. Kỳ nầy, Quyên sẽ bắt sống bọn Điền Kỵ để rửa cái hận Tương Lăng năm trước.

Nói xong, Bàng Quyên chọn 2 vạn tinh binh tiến gấp đánh quân Tề, còn đại binh từ từ đi sau.

Tôn Tẫn dọ biết tin đó, tính toán và dự kiến đoàn quân của Bàng Quyên sẽ đến Mã Lăng vào lúc tối. Đường Mã Lăng ở giữa hai trái núi có cây cối um tùm, rất dễ phục binh. Tôn Tẫn sai chặt cây ngã ngang để chẹn lối đi, chỉ chừa một cây to giữa đường, cho cạo sạch một một ô vuông vỏ cây ở phía Đông, rồi dùng than viết lên đó mấy chữ : “ Quân Sư Tôn bảo : Bàng Quyên chết tại cây nầy.”

Tôn Tẫn sai bộ tướng Viên Đạt, Độc Cô Trần, kén 5000 quân cung nỏ, mai phục 2 bên tả hữu Mã Lăng, dặn kỹ hễ nơi gốc cây có ánh lửa phát ra thì nhất tề nhắm vào đó bắn.

Lại sai Điền Anh dẫn 1 vạn quân mai phục cách Mã Lăng 3 dặm chẹn đường quân Ngụy.

Tôn Tẫn phân phát binh xong thì cùng Điền Kỵ dẫn binh còn lại lên đóng phía Bắc để dự bị tiếp ứng.

Bàng Quyên kéo binh đến Mã Lăng thì Trời vừa tối, thấy cây cối bị đốn ngã nằm ngổn ngang, cho rằng quân Tề sợ quân Ngụy đuổi theo kịp nên đốn cây cản đường như thế.

Bàng Quyên cho thu dọn cây cối, bỗng thấy có một cây giữa đường, gần nơi gốc đẽo trắng, có viết chữ nhưng Trời tối không thấy rõ. Bàng Quyên sai một tên lính châm lửa lên xem, Bàng Quyên đọc xong mấy chữ thì la lên :

- Ôi ! Ta mắc mưu thằng què rồi !

Vừa la xong thì có cả muôn mũi tên từ nỏ bắn ra, quân Ngụy chết thôi vô số. Bàng Quyên bị loạn tên trọng thương, liệu không thoát được, bèn rút kiếm tự đâm cổ chết.

Cuộc đời của Bàng Quyên đúng y như lời của Quỉ Cốc Tiên Sinh đã nói trước : Ngươi sẽ vì lừa người mà bị người lừa lại, gặp dê thì vinh, gặp ngựa thì hỏng. Bàng Quyên chết tại Mã Lăng. (Mã là ngựa).

Giết xong Bàng Quyên rồi, Tôn Tẫn xin với vua Tề cho về ẩn dật tu luyện ở núi Thạch Lư. Một năm sau, không còn ai biết Tôn Tẫn ở đâu nữa.

Tích Mạnh Mẫu

Mạnh mẫu là mẹ của thầy Mạnh Tử. Thường nói : Mạnh mẫu trạch lân, nghĩa là : Bà mẹ của Mạnh Tử chọn chỗ ở có láng giềng tốt mới ở để dễ dạy con.

Theo Liệt Nữ Truyện, Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, mồ côi cha từ năm 3 tuổi, ở với mẹ, nhà nghèo, ở gần nghĩa địa nơi chân núi. Mạnh Kha thường thấy người ta đào đất đem chôn quan tài người chết, rồi nằm lăn ra khóc. Mạnh Kha về nhà, cùng với lũ trẻ nhỏ ở cùng xóm, bắt chước chơi trò chôn cất và nằm lăn ra khóc.

Mẹ của Mạnh Kha là Bà Chương thị, thấy thế thì nói rằng :

- Chỗ nầy không phải là chỗ cho con ta ở được.

Bà dọn nhà ra ở gần chợ. Mạnh Tử thấy người ta buôn bán, tráo trở đảo điên, thêm bớt, nói thách nói gạt. Cậu bé Mạnh Kha về nhà cũng bắt chước đùa nghịch một cách đảo điên như người ở ngoài chợ.

Bà mẹ của Mạnh Kha thấy thế thì nói :

- Chỗ nầy cũng không phải là chổ để con ta ở được.

Bà liền dọn nhà đến ở cạnh một trường học. Câu bé Mạnh Kha thấy trẻ con đua nhau cặp sách vở đi học tập rất có lễ phép, cậu về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép và cặp sách vở. Bà mẹ của Mạnh Kha bây giờ mới vui lòng nói :

- Chỗ nầy con ta ở được.

Một hôm, Mạnh Kha thấy nhà hàng xóm giết heo làm thịt, về nhà hỏi mẹ :

- Người ta giết heo để làm gì thế hả mẹ ?

Mạnh mẫu nói đùa với con :

- Để cho con ăn thịt đấy.

Nói xong, Bà biết mình lỡ lời nên ân hận, thầm nghĩ : Ta đã nói lỡ lời rồi. Con ta còn thơ ấu, trí thức mới mở mang, mà ta nói dối với nó thì chẳng hóa ra ta dạy nó nói dối sao !

Rồi Bà ra chợ mua thịt heo về nấu cho con ăn thật.

Lại một hôm, cậu Mạnh Kha đi học, bỗng bỏ về nhà chơi. Mạnh mẫu đang ngồi dệt vải trên khung cữi, bèn đứng dậy, kêu con lại, chỉ tấm vải trên khung, rồi Bà cầm dao cắt ngang. Cậu bé Kha cả kinh hỏi mẹ :

- Sao mẹ lại cắt ngang bỏ tấm vải như thế ?

Mạnh mẫu đáp :

- Con đang đi học mà con bỏ ngang trở về nhà thì cũng giống như mẹ đang dệt tấm vải nầy mà cắt ngang như thế.

Cậu bé Kha liền hiểu được ý mẹ, cậu cảm thấy xấu hổ, và từ hôm đó trở đi, cậu chuyên cần học tập, không dám chểnh mảng, cậu hay học tập việc tế lễ, việc học mỗi ngày một tăng tiến.

Khi lớn lên, Mạnh Kha theo học với thầy Tử Tư, tức là thầy Khổng Cấp, cháu nội của Đức Khổng Tử.

Thầy Tử Tư đem cái học trong sách Trung Dung truyền lại cho Mạnh Tử. Mạnh Tử hiểu rõ được cái đạo của Đức Khổng Tử, quán thông nghĩa lý sâu kín của Lục Kinh, làm điều gì cũng noi gương Đức Khổng Tử.

Mạnh Tử thọ được cái học Tâm truyền của Tử Tư, đạt được cái Tâm học cao siêu huyền bí của Nho giáo, nên đã trở nên một vị Thầy đứng sau Khổng Tử.

Người đời sau tôn Mạnh Tử là bực Á Thánh (bực Thánh đứng hàng thứ nhì sau Đức Khổng Tử), và truy phong Mạnh Tử là Á Thánh Trâu Quốc Công, được phối hưởng nơi miếu thờ Đức Khổng Tử.

Sưu Tầm

Thành Bình Định Võ Tánh thiêu mình

Theo Việt Nam Sử Lược, sau khi Nguyễn Vương (Nguyễn Ánh) đã bình định được Nam Việt, thì đem quân ra đánh Tây Sơn, lấy được thành Bình Định. Nguyễn Vương cử Võ Tánh và Ngô tùng Châu ở lại giữ thành, còn đại quân kéo trở về Gia Định, lúc đó là năm 1799.

Quân Tây Sơn trở lại vây chặt thành Bình Định, quân của Nguyễn Vương giải vây không nổi, chống cự được 2 năm thì trong thành hết lương thực, thành Bình Định thất thủ. Võ Tánh phải tự thiêu mình, còn Ngô tùng Châu thì uống thuốc độc chết để bảo vệ khí tiết của mình.

Võ Tánh, nguyên quán tại làng Phước Tỉnh, tỉnh Bà Rịa, cha mẹ mất sớm, ở với anh là Võ Nhàn.

Bấy giờ Tây Sơn dấy lên, đánh tan Chúa Nguyễn ở phương Nam, Nguyễn Ánh phải bôn tẩu qua Xiêm (Thái Lan). Anh em Tây Sơn để Nguyễn Lữ trấn thủ Gia Định và Nguyễn Lữ xưng là Đông Định Vương.

Các sĩ phu ở miền Nam không phục, trong đó có Đỗ thành Nhân, lập ra đạo binh Đông Sơn, chống lại Tây Sơn. Võ Nhàn ứng nghĩa vào đạo binh nầy. Sau Đỗ thành Nhân bị hại, Võ Nhàn cũng chết theo. Bà dưỡng mẫu đang nuôi Võ Tánh cũng tìm đường lánh nạn, đem Võ Tánh qua ngụ tại Gò Tre làng Thuận Ngãi tỉnh Gò Công. Bà buôn bán tảo tần nuôi Võ Tánh, lúc đó được 10 tuổi. Bà cho Võ Tánh đi học chữ, nhưng Võ Tánh không thích học chữ mà thích học tập võ nghệ, Bà thấy cũng hợp thời nên không ngăn cản.

Đời hỗn loạn, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Vùng Gò Tre thường bị bọn cướp đánh phá. Võ Tánh sẵn lòng nghĩa hiệp, lại biết võ nghệ, nên đứng ra chiêu dụ thanh niên tập hợp chống bọn cướp, bảo vệ thôn làng, đánh bọn cướp nhiều lần thua chạy, nên chúng không dám kéo đến Gò Tre nữa. Võ Tánh bắt đầu nổi tiếng là tay nghĩa hiệp.

Nguyễn Lữ nghe tiếng Võ Tánh nên cho người xuống Gò Công vào Gò Tre chiêu dụ Võ Tánh, nhưng Võ Tánh cự tuyệt. Nguyễn Lữ tức giận đem binh tới bắt Võ Tánh. Bà dưỡng mẫu, trong lúc gấp rút, bảo Võ Tánh chui trốn vào đống rơm, để bà đối phó với quân Tây Sơn. Bọn lính tìm không được Võ Tánh nên khảo tra bà dưỡng mẫu, nhưng bà một mực nói không biết Võ Tánh đi đâu. Bọn lính đành kéo binh về. Bà dưỡng mẫu bị tra tấn nên mang bịnh và chết.

Võ Tánh thù hận không cùng, liền qui tụ các bạn đồng chí, chiêu mộ anh hùng, khởi nghĩa tại Gò Tre. Các nhà hào phú trong vùng ủng hộ tiền bạc mua khí giới chống Tây Sơn.

Võ Tánh được người bạn là Ngô tùng Châu, một bậc văn tài nhiều mưu lược, ra giúp. Ngô Tùng Châu xuất thân là thủ khoa ở huyện Ninh Hoà tỉnh Bình Thuận, vào Gò Công lánh nạn Tây Sơn, kết bạn cùng Võ Tánh.

Bấy giờ, Võ Tánh xưng là Tướng quân, Ngô tùng Châu làm Tham mưu, chỉ huy một đội binh rất có kỷ luật, thường đi cứu khổn phò nguy, khiến mọi người đều mến phục.

Mấy lần quân Tây Sơn của Nguyễn Lữ kéo đến đánh, bị Võ Tánh đánh cho thảm bại trở về, và sau đó không dám kéo tới nữa. Nhờ vậy dân Gò Gông được yên ổn làm ăn.

Khi Nguyễn Ánh ở Xiêm trở về trú tại Vĩnh Long, nghe tiếng Võ Tánh, liền sai sứ giả là Trương phước Giao đem hậu lễ tới triệu. Võ Tánh cùng Ngô tùng Châu và các bạn đồng chí đồng lòng hưởng ứng, xem Nguyễn Ánh là chính thống của Chúa Nguyễn phương Nam. Võ Tánh liền kéo quân qua Vĩnh Long. Võ Tánh dâng Chúa Nguyễn Ánh một quả gạo và một quả trứng gà để làm lễ ra mắt. Kẻ thị thần thấy vậy thì cười khi dể.

Chúa Nguyễn Ánh biết là Võ Tánh có dụng ý nên tiếp đón niềm nở và hỏi :

- Thiên lý cống nga mao, lễ khinh nhơn ý trọng, ta muốn biết ý hậu của tướng quân.

Chúa Nguyễn Ánh đem lời trong Kinh Thi khuyến dụ, Võ Tánh thưa rằng :

- Xin Chúa ngự xem, hột gạo trắng trong, trứng gà to tròng đỏ lớn. Hai món thổ sản nầy tượng trưng tấm lòng trung dũng của dân Gò Công, đem kính hiến Chúa.

Nguyễn Ánh cả mừng, xuống ôm Võ Tánh nói :

- Thật quả là Địa linh Nhơn kiệt.

Chúa truyền luộc trứng gà và nấu một chén cháo cho Chúa dùng, còn bao nhiêu đổ vào nồi lớn nấu chia cho tướng sĩ để cùng nếm cái hương vị Trung Dũng của dân Gò Công.

Nguyễn Ánh cảm mến Võ Tánh nên đem em gái là Công chúa Ngọc Du gả cho Võ Tánh. Từ đây, Phò mã Võ Tánh giúp Chúa Nguyễn lập được nhiều chiến công hiển hách, uy danh lừng lẫy, đứng đầu Tam Hùng ở Gia Định .

Nguyễn Ánh lần lần đánh thắng quân Tây Sơn, thâu phục miền Nam, rồi kéo binh ra miền Trung, hạ thành Bình Định. Đây là nơi phát tích của 3 anh em Tây Sơn. Nguyễn Ánh giao cho Võ Tánh và Ngô tùng Châu trấn thủ thành Bình Định, còn Nguyễn Ánh rút đại binh về Gia Định, chỉnh đốn việc cai trị, tích thảo đồn lương, luyện tâp binh sĩ, chờ ngày Bắc tiến. Nguyễn Ánh lúc bấy giờ xưng Vương, gọi là Nguyễn Vương.

Tháng Giêng năm Canh Thân (1800), Tây Sơn sai 2 danh tướng là Trần quang Diệu và Vũ văn Dũng vào quyết đoạt lại thành Bình Định. Quân Tây Sơn vây phủ 4 mặt. Nguyễn Vương đem quân ra giải vây, nhưng không kết quả. Vương cho lệnh bảo Võ Tánh bỏ thành. Võ Tánh không chịu, lại dâng kế cho Nguyễn Vương, thừa lúc quân Tây Sơn dồn vào đây hãm thành, bỏ trống kinh thành Phú Xuân (Huế), Nguyễn Vương nên đem thủy quân đánh chiếm Huế thì tự nhiên giải vây được thành Bình Định.

Nguyễn Vương y kế thi hành, đem thủy quân chiếm Phú Xuân dễ dàng. Hai tướng Tây Sơn nghe tin Phú Xuân đã lọt vào tay Nguyễn Vương thì cả kinh, chia quân về cứu, nhưng bị tướng Lê văn Duyệt của Nguyễn Vương chận đánh nên không ra được.

Quân Tây Sơn quyết đánh gấp thành Bình Định để rảnh tay cứu viện các nơi khác. Võ Tánh và Ngô tùng Châu trong thành hiểu dụ tướng sĩ và dân chúng trong thành hết lòng chống giặc, ông cố thủ được 2 năm thì trong thành hết lương thực, ăn tới thịt ngựa thịt voi. Tướng sĩ xin Võ Tánh cho liều mình xông ra phá trùng vây, nhưng Võ Tánh không chịu, nói :

- Nếu phá đặng thì giặc vào thành giết hết binh sĩ và dân chúng, lòng ta không nỡ. Ta nhứt quyết ở lại để cứu dân.

Võ Tánh nói với quan Hiệp Trấn Ngô tùng Châu :

- Tôi là võ tướng nên không thể đầu giặc. Trước khi chết, tôi muốn cho giặc thấy nên đã cho chất củi sẵn nơi lầu Bát giác. Bạn là văn thần, chắc giặc không nói đến, bạn nên tự lo liệu để bảo toàn.

Ngô tùng Châu đáp :

- Cùng là bạn tri kỷ với nhau, võ tướng đã tận trung, há văn thần không biết báo ơn Chúa hay sao ?

Nói rồi, Ngô tùng Châu về tư dinh, uống thuốc độc tự tử.

Nghe quân vào báo, Võ Tánh khen Ngô tùng Châu :” Vẻ vang thay cho bậc trung thần Ngô tùng Châu.”

Võ Tánh liền viết một bức thơ cho 2 tướng Tây Sơn Trần quang Diệu và Võ văn Dũng, lời lẽ bi ai thống thiết, phân tích ai vì chúa nấy, phận làm tướng phải chết trước khi thành mất, xin 2 vị tướng quân thương hại đừng giết chết binh lính và lương dân.

Võ Tánh vào mặc triều phục, hướng về Nam lạy Nguyễn Vương rồi giã từ các tướng sĩ, đi lên lầu Bát giác, phóng hỏa tự thiêu.

Mọi người đều rơi lụy. Hồn người trung nghĩa hiển Thánh. Đó là ngày 27-5-Tân Dậu (1801).

Trần quang Diệu kéo quân Tây Sơn vào thành, rất khâm phục khí tiết của Võ Tánh và Ngô tùng Châu, rồi y theo lời cầu xin của Võ Tánh, tha chết cho các binh lính và dân chúng trong thành.

Sau đó, dần dần Nguyễn Vương diệt được Tây Sơn, thu phục giang sơn, lên ngôi Hoàng Đế, xưng hiệu là Gia Long.

Vua Gia Long truy tặng Võ Tánh là Khâm Sai Chưởng Hậu Quân Bình Tây ThamThặng Đại Tướng Quân, Hoài Quốc Công, tùng tự nơi nhà Thái miếu.

Vua Gia Long cũng truy tặng Ngô tùng Châu : Lễ Bộ Thượng Thư Vinh Hòa Quận Công.

LINH HỒN LÀ BẤT TỬ

Ngọn lửa tinh trung định Nguyễn trào,

Nam bang gầy dựng lắm công lao.

Thủ thành Bình Định, Tây Sơn đoạt,

Phạt ải Đông Kinh, Chúa Nguyễn thâu.

Đế nghiệp xây thành ba thước củi,

Quốc gia vững chặt ít tô dầu.

Anh hùng thân tử, thần vô tử,

Nêu tấm gương trung lại kẻ sau.

VÕ TÁNH

Sưu Tầm

Tô Huệ chức cẩm hồi văn

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ có tài văn chương và có nghề thêu rất khéo. Năm nàng 20 tuổi, cha mẹ gả nàng cho chàng hàn sĩ tên Đậu Thao.

Cưới nhau chưa được bao lâu thì đất nước bị giặc Phiên từ phương Bắc kéo binh vào đánh phá Trung nguyên. Vua ra lịnh trưng binh, các thanh niên phải sung quân, lên đường chinh chiến, giữ gìn bờ cõi đất nước.

Đậu Thao, chồng của nàng Tô Huệ, cũng tuân lịnh vua, nhập ngũ tòng chinh.

Thời gian kéo dài ngót 3 năm, nàng Tô Huệ quá nhớ chồng, khiến dung nhan thêm tiều tụy. Đêm đêm bên ngọn đèn khuya leo lét, lòng mong nhớ chồng không nguôi, hồn thơ xúc động, nàng viết ra 10 bài thi tứ tuyệt, lời thơ đầy tình cảm nhớ nhung chan chứa, nàng cầu xin đấng quân vương xét cho hoàn cảnh của nàng, tha cho chồng trở về sum họp cùng nàng.

Nàng lại lấy một bức gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc dệt 10 bài thơ tứ tuyệt ấy lên bức gấm, đọc theo lối hình trôn ốc từ ngoài xoay tròn vào trung tâm bức gấm. Nàng thêu khéo, chữ hay, nên bức gấm trông rất đẹp.

Xong nàng đem dâng lên vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng không ai đọc được, vua phải truyền gọi nàng Tô Huệ.

Đứng giữa triều đình, nàng Tô Huệ cất giọng ngâm 10 bài thơ, với một giọng não nùng bi thảm.

Nhà vua thương tài nàng nên đặc cách cho Đậu Thao trở về sum họp cùng nàng.

Bài thơ dệt trên gấm của nàng Tô Huệ được gọi là : CHỨC CẨM HỒI VĂN.

Sau đây là 10 bài tứ tuyệt của Tô Huệ dệt trên gấm :

I/ Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,

Tống quân tống biệt hà kiều lộ.

Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,

Mạc vong ân tình tiện trường khứ.

II/ Hà kỳ nhứt khứ âm tín đoạn,

Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.

Quỳnh diêu giai hạ bích đài không,

San hô trướng lý hồng trần mãn.

III/ Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,

Tương tâm hà thác cánh phùng quân.

Nhứt tâm nguyện tác thương hải nguyệt,

Nhứt tâm nguyện tác lãnh đầu vân.

IV/ Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,

Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.

Phi lai phi khứ đáo quân bàng,

Thiên lý vạn lý diêu tương kiến.

V/ Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách,

Hận quân tái ngoại trường vi khách.

Khứ thời tống biệt lư diệp huỳnh,

Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch.

VI/ Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,

Xuân ý thôi nhơn hướng thùy đạo.

Thùy dương mãn địa vị quân phan,

Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.

VII/ Đình tiền xuân tảo chánh phân phương,

Bão đắc Tần tranh hướng họa đường.

Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,

Phụ ký tình thâm đáo sóc phương.

VIII/ Sóc phương thiều đệ sơn hà việt,

Vạn lý âm thơ trường đoạn tuyệt.

Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y,

Kim lũ la thường hoa giai liệt.

IX/ Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh,

Thử thị ly nhơn đoạn trường tình.

Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,

Oán kết tiên thành khúc vị thành.

X/ Quân kim ức thiếp trọng như san,

Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn.

Chức tương nhứt bổn hiến Thiên Tử,

Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn ./.

GIẢI NGHĨA TỪNG CÂU :

C.1 : Chàng tuân chiếu chỉ của vua đi lính thú giữ yên biên giới.

C.2 : Đưa chàng tiễn biệt lối cầu sông.

C.3 : Ngậm sầu nén lệ nói với chàng,

C.4 : Chớ quên ân tình thuận tiện đi xa.

C.5 : Sao lần đi bặt vô âm tín,

C.6 : Lòng của thiếp ở trong phòng the không ấm hơi xuân.

C.7 : Dưới thềm Quỳnh dao bỏ không, mọc rêu xanh.

C.8 : Nơi màn San hô đầy bụi đỏ.

C.9 : Thử thời đường ly biệt, mỗi khi nghĩ tới lòng lo sợ.

C.10 : Đem lòng làm sao gởi đến gặp chàng ?

C.11 : Một lòng nguyện làm trăng ngoài biển xanh,

C.12 : Một lòng nguyện làm mây trên đầu núi.

C.13 : Mây trên núi năm nào cũng gặp chàng,

C.14 : Trăng ngoài biển năm nào cũng chiếu khắp biên thùy.

C.15 : Bay đi bay lại đến bên cạnh chàng,

C.16 : Ngàn muôn dặm xa nhìn thấy nhau,

C.17 : Xa xôi, đường xa, quan san cách trở,

C.18 : Hận chàng ở ngoài biên giới làm khách lâu dài,

C.19 : Khi đi tiễn chàng thì lá cây lau vàng,

C.20 : Ai tin mấy độ hoa mai trắng,

C.21 : Trăm hoa tan tác sớm gặp xuân,

C.22 : Ý xuân thúc giục người hướng về đường nào ?

C.23 : Nhành dương rủ xuống đầy đất vì chàng níu xuống,

C.24 : Hoa rơi đầy đất không ai quét.

C.25 : Trước sân xuân sớm hoa thơm phức,

C.26 : Ôm được cây đàn Tần tranh hướng đến nhà vẽ,

C.27 : Vì chàng mà khảy khúc nhạc Giang Nam,

C.28 : Nhờ gởi mối tình thâm đến phương Bắc,

C.29 : Phương Bắc xa xôi núi sông vượt qua,

C.30 : Ngàn dặm tin thơ cắt đứt đã lâu.

C.31 : Áo bạc trên gối nước mắt thấm vào áo,

C.32 : Tơ vàng, xiệm lụa hoa đều bị chia xé.

C.33 : Ba mùa xuân, chim hồng nhạn qua sông cất tiếng kêu,

C.34 : Ấy là ly biệt người, tình yêu đứt ruột.

C.35 : Dây đàn tranh chưa đứt, ruột đứt trước,

C.36 : Nỗi oán hờn kết thành trước khúc nhạc chưa thành.

C.37 : Nay chàng nhớ thiếp nặng như núi,

C.38 : Thiếp cũng nhớ chàng chẳng tạm yên.

C.39 : Dệt lụa một bức dâng lên Đức Vua,

C.40 : Cầu xin tha cho chồng thiếp kịp sớm trở về ./.

Diễn Nôm bằng thơ :

(của Hoàng Quang)

I/ Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại

Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông

Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng

Chớ tham chốn khác mà vong tình này

II/ Trông tin tức tớinay thăm thẳm

Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân

Từ ngày đôi ngả cách phân

Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong

III/ Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ

Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau

Nguyện làm trăng giữa biển sâu

Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao

IV/ Trăng giữa biển năm nào cũng thấy

Mây đầu non dầu mấy cũng thông

Bay qua bay lại bên chồng,

Dầu ngàn muôn dặm, xa trông như gần

V/ Quan sơn ấy mấy lần trở cách

Hềm nỗi chàng làm khách rất lâu

Chàng đi mới ố bóng lau,

Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai

VI/ Hoa trăm thức xuân tươi hớn hở,

Xuân giục người than thở với ai ?

Liễu kia rủ những tơ dài

Hoa kia rã cánh không người quét cho

VII/ Sân xuân sớm thơm tho trăm thức

Chốn hoa đường lựa bậc đàn tranh

Giang Nam khúc nhạc đành rành

Mượn đầu năm móng gởi tình sóc phương

VIII/ Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi

Âm thư nầy nhắn gởi không thông

Gối riêng nước mắt tuôn dòng

Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan

IX/ Ba xuân tới, tiếng nhàn nhắn gởi

Xuân giục người bối rối như tơ

Năm dây còn đó sờ sờ

Buồn đà đứt ruột, khảy chưa rồi đàn

X/ Chàng thương thiếp tình hơn núi nặng

Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua

Dệt đem bức gấm dâng vua,

Xót lòng dạ thiếp tha cho chàng về .

Sưu Tầm

Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi

Bạng là con trai, thuộc loài sò hến, nhưng lớn, thịt béo.

Duật là con cò, giống chim mỏ dài, cổ cao, lưng màu tro, lông trắng ở ngực và bụng, thường ở ngoài đồng, ăn các loài sò, hến, hay cá nhỏ. Tục truyền rằng, khi Trời sắp mưa con Duật kêu lên, nên sách Thuyết văn gọi con chim Duật là : Tri Thiên tương vũ điểu (con chim biết Trời sắp mưa). Thời Xuân Thu, người ta dùng lông chim Duật để làm mũ cho các quan coi Thiên văn, nên sách Lễ Ký có câu : Tri Thiên văn giả quan Duật (Người biết Thiên văn là quan đội mão bằng lông chim Duật).

Tương trì là kéo níu lẫn nhau. Ngư ông là ông làm nghề chài lưới. Đắc lợi là được lợi.

Bạng Duật tương trì, ngư ông đắc lợi là con trai và con cò kéo níu nhau làm ông chài được lợi, vì ông chài túm bắt cả 2 con đem về làm thịt, nấu chung một nồi.

Trong Chiến quốc sách có viết một đoạn nói về “Bạng Duật tương trì, ngư ông đắc lợi” như sau :

Vào Thời Chiến Quốc bên Tàu, 2 nước Yên và Triệu thường đánh nhau. Chiến tranh giữa 2 nước kéo dài từ năm nầy sang năm khác, khiến nhơn lực và tài nguyên của 2 nước bị suy kiệt dần.

Một người nước Yên tên là Tô Đại (anh của Tô Tần) tới yết kiến vua nước Yên là Huệ Vương, tâu rằng :

- Trên đường đi tới đây, tôi đi ngang qua bờ sông Dịch Thủy, thấy một con trai đang há miệng phơi nắng. Lúc đó một con cò đáp xuống, thấy thịt trai có vẻ ngon, thò mỏ mổ vào thịt trai, con trai lập tức khép chặt miệng lại, kẹp cứng mỏ cò. Hai con trì níu nhau một hồi lâu.

Con cò bảo :

- Hôm nay mầy không há miệng ra, ngày mai mầy không há miệng ra, mầy sẽ chết đói.

Con trai đáp :

- Hôm nay mầy không rút được mỏ ra, ngày mai mầy cũng không rút được mỏ ra, mầy cũng sẽ chết đói.

Hai con tiếp tục trì kéo nhau, không con nào chịu buông tha con nào.

Một ông chài đi ngang trông thấy, mỉm cười thích chí, thò tay túm bắt cả 2 con : trai và cò, đem về nhà làm thịt, nấu chung một nồi, gia đình ông chài được một bữa ăn ngon lành.

Hiện nay, nước Triệu đang muốn đánh và thôn tính nước Yên; nước Yên cũng đang chuẩn bị đánh lại. Hai nước cứ tiếp tục đánh nhau, khiến dân chúng 2 nước điêu linh khổ sở, người và tài nguyên thiệt hại, chẳng khác chi hai con trai và cò trì kéo lẫn nhau.

Tôi e rằng nước Tần hùng mạnh kia sẽ đóng vai ngư ông, chờ 2 nước Yên và Triệu không còn đủ sức tự vệ nữa thì đem quân thôn tính của 2 nước. Vua Yên Huệ Vương cho là lời nói của Tô Đại rất xác đáng, giựt mình tỉnh ngộ, khen thưởng Tô Đại là người thấy xa biết rộng, rồi cử Tô Đại làm sứ giả, đi qua nước Triệu giảng hòa, bãi việc chiến tranh.

Sưu Tầm

Đầu lòng hai ả TỐ NGA

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

(Câu 15,16. Giới thiệu chị em Kiều)

Tố NGA:Tố là trắng. Nga là đẹp. Bài Nguyệt phú của Tạ Trang có lời chú: "Thường Nga thiết dược bôn nguyệt; nguyệt sắc bạch, cố vân Tố Nga" (Thường Nga lây trộm thuốc tiên, thoát lên cung trăng; mặt trăng sắc trắng cho nên nói là Tố Nga). "Thần Tiên truyện" chép rằng: Thường Nga là vợ Hậu Nghê.. Hậu Nghệ xin thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫụ Hậu Nghệ là người tính tình không tốt, hay làm việc phản bạn, Thường Nga khuyên chồng mãi mà không được. Nàng giận thừa cơ uống trộm thuốc tiên và bay lên cung trăng.

Lại có truyền thuyết nói rằng vua Đường Minh Hoàng (tức Đường Huyền Tông) lên chơi nguyệt điện thấy có mười người con gái mặc toàn trắng và cỡi hạc trắng múa hát; cho nên nhà vua dùng chữ Tố Nga để chỉ mặt trăng và cũng để chỉ người con gái đẹp.

MAI CỐT CÁCH, tuyết tinh thần.

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

(Câu 17 và 18. Phẩm chất chị em Kiều)

MAI CỐT CÁCH là thân hình mảnh mai, yếu đuối như cây maị Đây là quan niệm của người xưa, người con gái được coi là đẹp phải có thân mình ẻo lả mảnh mai như thế.

Điển hình cho người đẹp "mai cốt cách" là nàng Mai Phi, một người phi sủng ái của vua Đường Huyền Tông khi ông chưa có nàng Dương Quý Phị

Mai Phi tên thận là Giang Thái Tần, chào đời và lớn lên ở Mai Hoa thôn. Nàng được Thái gaím Cao Lực Sĩ tuyển chọn vào cung dâng cho vua Đường Huyền Tông. Nàn có nhan sắc diểm lệ và thân hình mảnh dẻ gió thổi cũng baỵ Hơn nữa, nàng rất yêu thích hoa mai nên được nhà vua đặt là Mai Phị

Va'o cung, Mai Phi đã được vua Đường Huyền Tông sủng ái rất mực một thờị Đến khi nhà vua có được Dương Quý Phi thì Mai Phi bị thất sủng. Nàng sầu khổ lâm bệnh và cuối cùng chết đi như một cành hoa mai héo hắt.

Cùng mẫu người "mai cốt cách" như Mai Phi còn có Đào Hoa Nữ trong bài thơ của Thôi Hộ, nàng Thôi Oanh Oanh trong Tây Sương Ký và nàng Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu Mô.ng.

Loại phụ nữ như thế chỉ là một loại hoa quý để cấm trong bình cho người khác thưởng thức chứ không thể là mẫu người làm vợ lý tưởng được. Tại saỏ Vì thân thể họ nhuyển nhược, mềm yếu quá có làm nên chuyện gì đâủ Nhất nhất chuyện gì họ cũng đều trông cậy vào người khác mà thôị Và mẫu người như thế thường là "hồng nhan bạc phận", sớm bị yểu vọng chứ không thể trường thọ được

======

Nhân vật chính trong truyện Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần là Lâm Đại Ngọc, cũng là một mẫu người "mai cốt cách". Lâm Đại Ngọc tự là Tần Khanh, biệt hiệu là Tiêu Sương Phi Tử quê quán ở Tô Châu; xuất thân trong một gia đình quan chức suốt bốn đờị

Ngoài thân hình yếu đuối "mai cốt cách", Lâm Đại Ngọc còn là một người mang nét "mã diện sầu dung" luôn luôn. Trông phong thái nàng thật là u nhàn, thanh tĩnh như một cành hoa soi bóng nước; lại thêm tính tình cũng rất thanh cao trang nhã.

Mồ côi mẹ năm mười tuổi, Lâm Đại Ngọc ở với bà ngoại và rất được bà cưng chiềụ Sống chung và chơi đùa chung với nhau bao nhiêu năm trời là Giả Bảo Ngọc, người anh họ của nàng. Do đó, tình cảm yêu thương ngày càng nẩy nở giữa Lâm Đại Ngoc. và Giả Bảo Ngọc nhưng cả hai chẳng dám thố lộ cho nhau, chỉ nghe ngóng động tĩnh của nhau để vui buồn với nhau mà thôị

Sau một thời gian chung sống ở vườn Đại quan, Giả Bảo Ngoc. dọn về Di Hồng, còn Lâm Đại Ngọc thì đến Tiêu Sương quán. Sự xa cách này khiến hai người thương nhớ nhau và tìm cách trao tình cho nhau nên mối tình thầm kín của họ bị lô.. Lâm Đại Ngoc. ngày càng thêm u sầu, ai oán. Cứ chiều là nàng ra vườn gom những cánh hoa rụng và đem chôn; lại làm hai câu thơ táng hoa rằng:

"Ngã kim táng hoa nhân tiếu si

Tha niên táng ngã tri thị thuỳ"?

(Nay ta chôn hoa, người cười ta dại

Sang năm ta chết, ai người chôn ta).

Sau đó, mẹ Giả Bảo Ngọc cưới Tiết Bảo Thoa cho chàng. Lâm Đại Ngọc thổ thuyết chết ngay trong đêm động phòng hoa chúc của người yêu ...

Vân xem trang trọng khác vời

KHUÔN TRĂNG ĐẦY ĐẶN NÉT NGÀI NỞ NANG

(Câu 19 val' 20. Nhan sắc Thúy Vân)

Cổ tướng thư nói: "Diện như mãn nguyệt, mi nhược ngoạ tàm"; nghĩa là mặt như trăng tròn, lông mày như con tằm nằm ngang. Đây là một cách tả ước lệ của người xưa về đoan trang của người phụ nữ.

Cũng sách Cổ tướng thi còn ghi: "Diện như mãn nguyệt, thanh tú nhi thần thái xạ nhân gia vi chi chiêu hà chí diện, nam chủ công hầu tướng, nữ chủ hậu phi phu nhân". (Mặt như trăng rằm thanh tú, tinh thần rực rỡ sáng sủa gọi là cái mặt của ráng trời buổi sớm, con trai công hầu, con gái hậu phi, phu nhân).

Người phụ nữ được cái tướng như thết là tốt, đoan trang hiền thục mà lại phúc hậu; có thể yên tâm là có một cuộc đời an nhàn. Vạn nhất, nếu sống trong một xã hội tao loạn, có vì gia biến hay một hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà phải lưu lạc bèo dạt hoa trôi thì cũng chỉ là nhất thời mà thôị Và cuộc sống cũng không quá lao đao lận đận như phần đông ca nhi, kỹ nữ khác.

Câu chuyện sau đây có thể chứng minh được cho điều đó:

Lý Sư Sư là một kỹ nữ danh tiếng ở king đô Khai Phong đời vua Tống Huy Tông. Mặt mày đầy đặn phương phi, tánh tình ôn nhu hoài thuận. Tuy là kỸ nữ nhưng rất chững chạc đoan trang.

Khách hàng chơi vặn mặc thảy đều tỏ ý tiếc cho nàng. Ai ai cũng nghĩ có lẽ nàng xuất thân con nhà đường hoàng nhưng vì một hoàn cảnh gì đó mà phải đem thân vào chốn kỹ viện. Do đó, tuy là kỹ nữ nhưng Lý Sư Sư rất được khách hào hoa tôn tro.ng.

Tiếng tăm nàng đến tai Huy Tông hoàng đế khiến nhà vua trẻ tuổi, đa tình này cũng háo hức muốn gặp nàng. Một hôm Huy Tông Hoàng đế cải dạng thường dân đến kỹ viện tìm nàng.

Lần đầu tiên gặp gỡ, Huy Tông cứ nghĩ rằng Lý Sư Sư cũng chỉ là một kỹ nữ như bao nhiêu kỹ nữ khác nên Hoàng Đế tỏ ra suồng sã với nàng. Lý Sư Sư liền bỏ đi, không tiếp. Nhà vua cho thị vệ chạy theo rỉ tai nàng, bảo cho nàng biết ông chính là đương kim Hoàng Đế. Dù biết là Hoàng Đế nhưng Lý Sư Sư cũng mặc, nhất định không thèm tiếp một người thô tục, có cữ chỉ khiếm nhã. Tống Huy Hoàng đế đành phải chiu thua kỹ nữ Lý Sư Sư và ra về.

Về sau nhà vua phải mất một thời gian khá lâu dài mới chinh phục lại được cảm tình của nàng kỹ nữ họ Lý ấỵ Rồi nhà vua cho triệu nàng vào cung.

Khi nhà Tống bị Mông Cổ xâm lăng, tướng Mông Cổ cho đòi Lý Sư Sư đến hầu rượu, nàng cũng nhất định không nghẹ Để tránh bị ô nhục, Lý Sư Sư bẻ cây trâm cài đầu nuốt vào cổ để tự tận...

Last edited by qcluu; 03-17-2005 at 08:15 PM.

Một hai NGHIÊNG NƯỚC, NGHIÊNG THÀNH

Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.

(Câu 27, 28. Tài sắc Thúy Kiều)

"Ví chăng duyên nợ ba sinh

Làm chi những thói KHUYNH THÀNH trêu ngươi!".

(Câu 257, 258. Kim Trọng than thở)

"Lạ cho cái sống KHUYNH THÀNH

Làm cho đổ quán, xiêu đình như chơị"

(Câu 1301, 1302. Thúc Sinh đam mê Kiều)

Nhìn một cái xiêu thành người, nhìn một cái đổ nước ngườị Ý là muốn nói đến cái nhan sắc cực kỳ đẹp khiến người ta say mê đến mất thành mất nước mà cũng không haỵ

Câu này Nguyễn Du dịch lời ca của Lý Diên Niên trong tích Hán Vũ Đế tuyển người đẹp.

Năm Nguyên Sóc, Hán Vũ Đế cho xây dựng đền Minh Quang và kén chọn hai ngàn gái đẹp ở vùng Yên, Triệu đưa vào ở trong đó. Những người đẹp được tuyển chọn này chỉ tuổi từ mười lăm trở lên, nhưng quá ba mươi thì bị thải hồị

Ngoài Đền Minh Quang, Hán Vũ Đế còn nhiều nơi khác để chứa gái đẹp. Tổng cộng số gái đẹp của nhà vua này lên đến một vạn tám ngàn. Ấy mà Hán Vũ Đế vẫn còn cho là thiếu.

Một hôm ca nhân Lý Diên Niên hát cho Hán Vũ Đế nghe rằng:

"Bắc phương hữu giai nhân

Tuyệt thế nhi độc lập.

Nhất cố khuynh nhân thành,

Tái cố khuynh nhân quốc.

Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc,

Giai nhân nan tái đắc".

(Phương BẮc có người đẹp

Tuyệt vời đứng riêng bậc

Một nhìn, người nghiêng thành

Hai nhìn, người nghiêng nước.

Há rằng chẳng biết nước thành nghiêng,

Chỉ vì người đẹp khó tìm được.)

Hán Vũ Đế bèn hỏi:

- Thế gian có người đẹp đến thế sao ?

Tả hữu thưa:

- Tâu bệ hạ, người đẹp trong bài ca ấy chính là cô em gái của Lý Diên Niên vậỵ

Hán Vũ Đế bèn ra lên cho Lý Diên Niên đưa em gái vào cung. Nhà vua rất sùng ái nàng và bắt cả triều thần phải gọi nàng là Lý phu nhân. Vua lại phong cho Lý Diên Niên từ chức Cẩn Giám lên chức Hiệp Đô Uý.

Lý phu nhân ở với Hán Vũ Đế hơn một năm thì sinh được một con trai, tức là Sương Ấp Vương sau nàỵ

Một thời gian sau Lý phu nhân bị bệnh nă.ng. Hán Vũ Đế tự đến thăm hỏi nhưng không được nàng tiếp. Nàng trùm chăn kín mít và nói với nhà vua:

- Thiếp bị đau nặng đã lâu, hình dung tiều tuỵ lắm, không dám đem cái nhan sắc héo úa ra mắt nhà vuạ Chỉ xin gởi lại nhà một người con trai và mấy người anh em.

Hán Vũ Đế nói:

- Phu nhân bệnh nặng e khó qua, hãy mở chăn nhìn ta mà ký thác con và anh em có phải hơn không?

Lý phu nhân vẫn trùm khăn kín mà nói:

- Theo lễ, đàn bà mặt mũi không sạch, không nên được trông thấy đấn quân phụ

Nhà vua cố nài nỉ:

- Phu nhân hãy ra mắt trẫm một lần này thôi, trẫm sẽ ban cho phu nhân nghìn vàng, cho con và anh em của phu nhân làm quan tọ

Lý phu nhân vẫn một mực khước từ:

- Cho làm quan là quyền ở nhà vua, không do sự ra mắt của thần thiếp.

Nói đoạn, Lý phu nhân quay vào vách, thở dài rồi nín lă.ng. Hán Vũ Đế cả giận, đứng phắt dậy bước ra ngay, không nói thêm tiếng nàọ

Các người thân thích biết chuyện, đến trách Lý phu nhân rằng:

- Sao quý nhân không mở mặt ra cho đấng quân vương trong thấy, rồi đem con và anh em ký thác có phải hơn không ? Sao làm cho nhà vua tức giận đến thế ?

Lý phu nhân đáp:

- Đàn bà là kẻ lấy nha sắc thờ ngườị Nay nhan sắc đã kém tất nhiên tình yêu phải phai nhạt. Tình yêu đã phai nhạt thì sẽ không còn ân huệ gì nữạ Bấy lâu nhà vua sủng ái ta là chỉ vì ta còn nhan sắc. Nay ta đã ốm nặng, nhan sắc tiều tuỵ, nếu để nhà vua trong thấy thì thử hỏi ngài còn yêu ta như trưỚc nữa không. Dĩ nhiên khi tình yêu không còn thì làm sao ngài còn thương đến anh em ta nữạ Nay ta không ra mắt nhà vua là muốn gởi gấm anh em một cách thiết tha vậỵ

Ít hôm sau Lý phu nhân từ trần. Hán Vũ Đế cho chôn cất nàng rất hậụ Nhà vua lại sai hoạ nhân vẽ ảnh nàng treo trong cung Cam Tuyền để ngày ngày nhìn ngắm. Nhà vua cũng phong cho các anh em của Lý phu nhân làm quan caọ

Hán Vũ Đế ngày đêm thương nhớ Lý phu nhân khôn nguôị Nhà vu sai người đào ao Côn Linh, đóng thuyền hình chim phượng để ở ao ấỵ Ngài tự chế bài hát, lên thuyền đi chơi bắt các cung nhân hát để giải buồn.

Một hôm, ca nhi hát bài "Lá rụng ve kêu" như sau:

"Xuyên vòng im bặt tiếng kêu

Thềm son mấy đợt bụi rêu lờ mờ

Phòng không lạnh ngắt như tờ,

Gió đưa lá rụng phất phơ cửa ngoàị

Bấy lâu tướng háo mong hoài,

Trông ai chẳng thấy, bùi ngùi lòng ta..."

Vũ Đế nghe bài hát càng buồn rầu thêm, sai lấy nến mỡ rồng soi trong khoang thuyền để tìm hình ảnh Lý phu nhân. Rồi ngài ôm mặt khóc nức nở như một đứa trẻ con ...

Last edited by qcluu; 04-15-2004 at 09:35 PM.

Êm đềm trướng rũ, màn che

TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai

(Câu 37, 38. Nề nếp của Thúy Kiều và Thúy Vân)

"Sông hồ cửa khép cánh mây

TƯỜNG ĐÔNG hé mắt, ngày ngày hằng trông."

(Câu 283, 284. Kim Trọng đi tìm Thúy Kiều)

TƯỜNG ĐÔNG nghĩa đen là bức tường ở phía Đông, nghĩa bóng là nơi có gian nhân cư ngụ

Sách Mạnh tử có câu: "Du đông lân nhi lâu kỳ xử tử" (Trèo sang nhà láng giềng ở phía Đông để dụ dỗ con gái nhà người ta). Đường thi cũng có câu: "Đông lân Tống Ngọc tường" là để ám chỉ nơi trai gái giao tình với nhau vì chàng Tống Ngọc (1) người nước Sở thời Chiến quốc là một thanh niên đẹp trai, thơ hay phú giỏi và tánh tình trăng hoa, ong bướm, đã làm cho bao nhiêu người đẹp phải ôm mối hận tình với chàng tạ

Trong một bài phú tự tình gởi lên vua nước Sở, Tống Ngọc có viết:

"Thiên hạ chi giai nhân, mạc nhược Sở quốc

Sở quốc chi lệ giá, mạc nhược thần lý

Thần lý chi mỸ giá, mạc nhược thần đông gia chi tứ"

(Người đẹp trong thiên hạ không đâu bằng nước Sở.

Người đẹp trong nước Sở không đâu bằng ở xóm hạ thần.

Người đẹp trong xóm hạ thần không ai bằng nàng con gái láng giềng ở phía tưỜng đông nhà hạ thần).

Nhà thơ Lý Bạch thời Đường cũng có câu:

"Tự cố hữu tự sắc

Tây Thi do đông lân".

(Từ xưa có nhan sắc

Tây Thi ở xóm đông).

Hai chữ Tường Đông đã có một trang tình sử lâm ly như sau:

Nước Sơ/ có loạn, nhà vua sai đại thần Vương Trung đem binh dẹp loạn. Vì chậm trễ viê.c quân, Vương Trung không cứu vãn được tình thế nên bị vua giáng chức, làm Thiên hộ vệ quân tại Nam Dương. Vương Trung đem cả gia quyến theo mình đến nhiệm sở mớị

Bấy giờ Vương Trung có người con gái rất đẹp, tên Vương Kiều Loan, chẳng những đẹp mà còn thông mình và rất giỏi văn mặc, cho nên đã tới tuổi cặp kê mà mắt xanh vẫn chưa để ai vàọ Vương Trung có người em gái tên Tào Di sớm bị goá bụa, nên đem về ở chung trong gia đình để sớm hôm bầu bạn với Kiều Loan.

Năm họ vào tiết Thanh Minh, Kiều Loan cùng Tào Di và thi nữ đi ngoạn cảnh bên ngoàị, Khi ra khỏi nhà thì Kiều Loan phát hiện ở phía tường đông có một chàng trai đang nhìn mình đăm đăm không chớp mắt. Đôi mắt của ai kia sao đầy vẻ tình tứ khiến tiểu thư họ

Vương không kihỏi bối rối trong lòng, đôi má ửng hồng e thẹn. Kiều Loan vội núp sau lưng người cô và giục Tào Di trở vào, không muốn đi chơi nữạ

Khi Vương Kiều Loan đã trở về nhà, chàng trai kia thở dài ngẩn ngơ tiếc rẻ. Chợt chàng trông thấy dưới một gốc hoa kia có chiếc khăn the của người đẹp đánh rơi lạị Chàng vội bước đến nhặt chiếc khăn lên, mùi hương còn thoang thoảng. Bỗng chàng nghe bên trong tường vào Vương phủ có tiếng động, rồi có bóng một thiếu nữ hiện rạ Chàng trai vội vàng núp vào một khóm hoa theo dõi bóng người con gáị Thì ra cô gái ấy là một cô hà^u của tiểu thư Vương Kiều Loan, đi ra ngoài tìm chiếc khăn của tiểu chủ đánh rơi lúc nãỵ Chàng trai đứng lên và mạnh dạn đánh tiếng:

- Cô nương ơi, đừng tìm kiếm cho mất công., Chiếc khăn của tiểu thư đã vào tay kẻ khác rồị

Cô gái nhìn chàng trai lạ từ đầu đến chân và nhận thấy hàng có vẻ phong lưu tuấn tú, bèn đến gần kính cẩ hỏi:

- Thưa công tử, nếu quả thật công tử đã nhặt được chiếc khăn của tiểu thư tôi, thì dám xin công tử vui lòng cho xin lại Ơn ấy tiểu thư tôi chắc không quên.

Chàng trai không đáp. Cô gái nói tiếp:

- Xin ân nhân cho biết tôn danh để tiểu thư tôi còn tạ ơn

Chàng trai đáp:

- Tôi họ Tống tên Ngọc, người quận Ngô Châu, hiện cư ngụ ngay phía sau tôn phủ. Còn tiểu thư của nàng là ai vậỷ

- Dạ tiểu thư tôi tên Vương Kiều Loan, con gái của quan Thiên Hộ

Tống Ngọc cười:

- Tên của tiểu thư nàng thật đẹp, thế còn nàng tên gì?

Cô gái e thẹn đáp:

- Dạ, tiện nữ tên gọi Minh Hà.

Tống Ngọc cười, trêu chọc:

- Cả thầy lẫn trò đều đẹp cả. Vậy bây giờ tôi nhờ nàng trao cho tiểu thư Kiều Loan một bức thư có được không ?

Minh Hà ý không muốn nhận, nhưng sợ làm phât lòng Tống Ngọc thì chàng ta không trả lại chiếc khăn cho chủ mình, nên nói:

- Xin vâng, công tử cứ trao thư cho tôị

- Vậy nàng ở đây chờ tôi một chút, tôi sẽ quay trở lại ngaỵ

Tống Ngọc nói xong, quay g'ót đi liền. Một lúc sau chàng trở lại trao cho Minh Hà một tờ hoa tiên. Minh Hà thấy Tống Ngọc trao thư mà không trả khăn, trong lòng không vui nên nói:

- Công tử không trả khăn mà chỉ gởi thư, tôi không dám nhận đâụ

Tống Ngọc cười nói:

- Nàng đừng lọ Nếu tiểu thư chịu phúc đáp thì tức khắc vật sẽ hoàn cố chủ.

Bất đắc dĩ Minh Hà phải nhận tờ hoa tiên của Tống Ngọc và quay vào phủ.

Vương Kiều Loan đang ngồi đợi Minh Hà trong phòng, cảm thấy lòng bồn chồn không yên.

Minh Hà vừa vào tới, Kiều Loan vội hỏi ngay:

- Thế nào, có tìm ra chiếc khăn của ta không?

Minh Hà ấp úng:

- Thưa tiểu thư, chiếc khăn đà lọt vào tay ... chàng công tử nhìn trộm tiểu thư lúc ban chiều rôị

Kiều Loan nghiêm mặt hỏi:

- Tai sao em không đòi lại cho ta ?

- Em có đòi nhưng chàng trai lần khân không chịu trả, lại còn gởi cho tiểu thư tờ hoa tiên này nữạ

Minh Hà vừa nói vừa lấy tờ hoa tiên trao cho Kiều Loan. Vương tiểu thư vừa nhận tờ hoa tiên vừa nói:

- Chàng trai ấy có xưng tên học và nói quê quán ở đâu không?

Minh Hà đáp:

- Chàng ta họ Tống, tên Ngọc, người Ngô quận. Hiện chàng ta cư ngụ sát vách sau phủ đường tạ

Kiều Loan có vẽ xúc động, mở tờ giấy ra xem. Trong tờ hoa tiên có bài thơ sau:

"Phạ xuất qui nhân phận ngoại hương

Thiên công giao phó hữu tình lang.

Ân cần kỳ thú tương tư cú

Nghi xuất hồng ty xuất động phòng".

(Khăn rơi mỹ nữ đượm mùi hương

Tạo hoá xui chi kẻ vấn vương

Gởi khúc tương tư tình tha thiết

Chỉ hồng buộc chặt mối lương duyên).

Kiều Loan xem xong bài thơ tứ tuyệt rồi nói:

- Từ nay em đừng đòi chiếc khăn ấy nữa mà sinh lôi thôị Nếu chàng có nhờ đưa thư nữa thì em cũng đừng nhận, coi như không có việc gì.

Tuy làm ra vẻ bình thản như thế nhưng thật ra lòng Vương Kiều Loan vô cùng xúc đô.ng.

Nàng đi nằm để trấn tĩnh lòng, nhưng chỉ một lúc sau ngồi lên đi quanh quẩn trong phòng. Rồi cuối cùng nàng lấy tờ hoa tiên ra đề thơ phúc đáp:

"Thiếp thân nhất điểm ngọc vô hà

Linh thị hầu môn tướng tướng gia

Tình ly hữu thân đồng đối nguyệt

Nhàn trung vô sự độc khán hoa

Biệt ngô chi hứa lai kỳ phượng

Thúy trúc nan dung nhập lãi hoa

Kỳ dữ dị hương cô lãnh khách

Mặc tương tâm sự loạn như ma"

(Thân em như khối ngọc trong lành

Khuê các sớm chiều với tuổi xanh

Ngày vắng dạo xem hoa dưới mát

Đem thanh thưởng thức nguyệt bên mành

Cành ngô phượng vĩ chen màu biếc

Khóm trúc ô môn đượm mảnh tình

Nhắn nhủ phượng xe người lữ khách

Đừng trao tâm sự rối ren lòng).

Vương Kiều Loan trao thơ cho Minh Hà, dặn đi ngõ sau trao cho Tống Ngọc và đừng để ai trong thấỵ Minh Hà theo lời dặn của chủ, ra ngõ sau và gặp Tống Ngọc. Chàng Tống hỏi:

- Vương tiểu thư có phúc đáp thư tôi chứ ?

Minh Hà gật đầu đáp:

- Có, nhưng công tử phải trả lại chiếc khăn trước đã.

Tống Ngọc cười nói:

- Tiểu thư cô đã phúc đáp thư; thì thiết tưởng chiếc khăn kia không còn cần thiết nữạ Cô hãy đưa thư cho tôi rồi sẽ haỵ

Minh Hà đành trao thư cho Tống Ngọc. Chàng Tống xem bài thơ của Vương Kiều Loan, rất khâm phục tài văn chưƠng của nàng. Chàng ta nói:

- Cô hãy đợi tôi ở đây một chúc để tôi viết thư phúc đáp cho tiểu thự

Rồi chàng ta vào phòng viết một bài thơ tứ tuyệt đem ra đưa cho Minh Hà nhờ trao lại cho Vương Kiều Loan.

Từ đó, qua sự trung gian của Minh Hà, Vương Kiều Loan và Tống Ngọc thơ qua thơi lại luôn luôn. Và mối tình của hai người ngày càng thêm khắng khít.

Một thời gian sau, Kiều Loan gợi ý Tống Ngọc nên tính chuyện mai mối hỏi cưới nàng, nhưng Tống Ngọc cứ lần khân mãi, viện cớ song đường bận làm việc không rảnh rang.

Mặt khác, chàng ta lại tỏ ý muốn gần gũi Kiều Loan về thể xác.

Một hôm Tống Ngọc trèo tưỜng vào vườn hoa trong phủ của Kiều Loan gặp nàng và tỏ ý muốn vào phòng nàng. Kiều Loan từ chối, Tống Ngọc đành ra về. Nhưng sau đó Kiều Loan lại sai Minh Hà đem cho Tống Ngọc một tờ hoa tiên. Chàng mở ra xem:

"Ám tương tế ngữ ký anh tài

Tháng hướng nhân tiên mạc loạn khai

Kim dạ hương khuê xuân bất toá

Nguyệt di hoạ ánh, ngọc nhân lai".

(Đôi lời xin ngõ cùng ai

Nỗi riêng chớ để người ngoài thị phi

Phòng xuân mở rộng đêm nay

Bông hoa rung động, gót hài rẽ sang).

Tống Ngọc xem xong lòng mừng vui như mở cờ. Đêm hôm ấy trời vừa sụp tối Tống Ngọc đã treo qua tường đông để đến với Kiều Loan. Lúc ấy Vương Kiều Loan đang đi đi lại lại trong phòng. Khi Minh Hà dẫn Tống Ngọc vào thì Kiều Loan nghiêm nét mặt sai Minh

Hà đi mời cô Tào Di đến để hội kiến. Tống Ngọc lòng đang rạo rực tưởng nghĩ đến chuyện vu sơn cùng người ngọc, bỗng thấy thái độ Kiều Loan nên đâu ra lo lắng, mặt mày xám ngắt.

Kiều Loan tỏ ý thương hại, mỉm cười nói:

- Thiếp vốn là người đoan chính, mong chàng cũng không phải là kẻ phàm phụ Sở dĩ ngày nay chúng ta yêu nhau là do sắc tài gắn bó. Đã yêu chàng thì thiếp còn tiếc chi nữa, song vườn xuân cánh bướm, biết lòng kia có giữ được lời nguyện ước cho chăng ?

Vậy chúng ta hãy cùng thề chung thủy với nhau đến đầu bạc răng long. Nếu không thề thì chàng chỉ là kẻ muốn ân aí mà không nghĩ đến nghĩ đá vàng.

Tào Di vào phòng, chứng kiến lời thề nguyện của Tống Ngọc và Kiều Loan. Sau đó, rượu và quả được dọn ra, Tào Di, Kiều Loan và Tống Ngọc ăn uống vui vầy say sưa đến khuyạ Tào Di cáo biệt. Kiều Loan và Tống Ngọc đưa nhau vào phòng bày cuộc ái ân.

Trời vừa tảng sáng, Kiều Loan thẹn thùng với tình lang.

- Cuộc đời và tấm thân thiếp đã trao cho chàng rồi, chỉ mong chàn giữ lấy lời thề để cành hoa không vì gió đông mà phai sắc nhạt hương. Từ nay về sau nếu có dịp thiếp sẽ sai Minh Hà đến đón chàng, chúng ta chớ nên phóng túng quá mà sinh ra điều dị nghị

Rồi Kiều Loan sai Minh Hà đưa Tống Ngọc ra về. Đôi mắt của người tỳ nữ đượm vẻ buồn u ẩn nào ai hiểu được nguyên dọ

Từ đó, đôi trai tài gái sắc không còn xướng hoạ thi thơ với nhau nữa; mà chỉ trao nhau tình yêu xác thịt Cứ vài bốn hôm Kiều Loan lại sai Minh Hà đi đón Tống Ngọc đến để ái ân.

Khổ thay, Minh Hà là một cô gái cũng đang độ phơi phới xuân tình, làm sao chịu đựng nổi cảnh yêu đương, ân ái của cô chủ mình và chàng trai hào hoa phong nhả kiạ Một ngày kia không cầm lòng được, Minh Hàđàn thố lộ lòng mình với Tống Ngọc. Thế là chàng trai phóng đãng ấy "cuỗm" luôn cô tớ gái của người tình. Cuộc tình tay ba vẫn âm thầm diễn ra theo thời gian, không ai hay biết trừ Tao Dị

Rồi một ngày kia, Tống Ngọc ngỏ ý cầu hôn Kiều Loan. Vương Thiên Hộ lâu nay đã từng nghe tiếng Tống Ngọc là một tay trăng hoa ong bướm, một tay đã bẻ biết bao cành thiên hương, nên nhất định không chịu gả Kiều Loan cho chàng. Nhưng Vương Trung có biết đâu rằng trong ba năm qua, tường đông nhà ông đã bị ong bướm quậy tưng bừng. Và chính con gái của ông là Kiều Loan cũng đã góp phần mua vui cho chàng trai đàng điếm Tống Ngọc.

Bị Vương Trung từ hôn, Tống Ngọc cũng buồn nên chàng cất bước giang hồ từ đó, mặc cho Vương Kiều Loan ôm mối tương tự Rồi Vương Kiều Loan ngã bệnh, ngày càng nặng thêm. Hình dáng gầy gò và sức lực ngày một kiệt dần đến mỗi người con gái đáng thương ấy phải lìa bỏ cõi đời ...

======================

(1) Tống Ngọc, người nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, học trò của Khuất Nguyên; lại là học trò giỏi nhất.

Tiểu sử của Tống Ngọc rất mơ hồ. Người ta chỉ biết rằng từ khi Khuất Nguyên chết, nước Sở còn lại có ba người rất giỏi về Sở từ, đó là Tống Ngọc, Cảnh Sai và

Đường Lặc.

Tác phẩm của Tống Ngọc để lại gồm có các thiên Chiêu hồn, Đại Chiêu và Cửu biện cùng nhiều bài phú. Tống Ngọc có tài miêu tả, văn điêu luyện; mở đầu cho thế phú đời Hán về saụ

Thuyền Tình

THUYỀN TÌNH vừa ghé đến nơi

Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ

(Câu 69, 70. Vương quan nói về Đạm Tiên)

Hai câu này lấy ý từ hai câu thơ cổ:

"Nhất phiến tình chu dĩ đáo ngạn

Bình trâm hoa chiết dĩ đa thời".

(Một chiết thuyền tình vừa mới tới bến,

Cái bình đã chìm, cành hoa đã gãy tự bao giờ).

Hai câu thơ ấy diễn tả tình yêu của đôi trai gái không được thoả mãn theo ước mong.

THUYỀN TÌNH là chiếc thuyền chở tình yêu, có một câu chuyện thương tâm sau đây:

Đào Sư Nhi là một kỹ nữ nổi tiếng đời Đường được chàng lãng tử Vương Sinh yêu thương rất mực. Mẹ Vương Sinh biet^' con trai mình yêu kỹ nữ không bằng lòng nên ngăn cấm hai ngưỜi không được gặp nhaụ Vì thế mối tình của Vương Sinh và Đào Sư Nhi không được thoả mãn.

Ngày kia, Vương Sinh đưa người yêu đi chơi Tây Hồ, chỉ có một tớ trai và một hầu theo cùng. Thông thường mọi người đi chơi thuyền trên Tây Hồ thì sáng đi chiều về. Nhưng Vương Sinh và Đào Sư Nhi đã có hẹn ước trước nên cứ cho thuyền đi mãi đến khi trời tối mịt nới chịu cặp vào bờ. Lúc bấy giờ cổng thành đã đóng nên không thể trở về nhà được. Vương Sinh nói với đứa tớ rằng:

- Đêm nay trăng sáng rất đẹp, ta đi chơi suông thế này thì thú vị gì. Mày đi mua rượu và thức nhắm ngon về đây, chúng ta thả thuyền ra giữa hồ thưởng thức trăng trong.

Tên đày tớ vâng lệnh đi mua rượu thịt về. Vương Sinh cho thuyền đi ngang dọc ra tận giữa hồ, cùng Sư Nhi, đứa tớ và con hầu ăn uống say sưạ Đến khuya, đứa tớ và con hầu mệt mỏi nằm nghỉ. Vương Sinh cho thuyền ghé bến Tĩnh Tự, vào sâu trong đám sen, rồi cùng Sư Nhi ôm nhau nhảy xuống nước tự trầm. Đứa tớ trai và con hầu gái hay ra thì không còn cứu kịp nữa ...

Giới văn nhân ở kinh thành biết chuyện, bèn làm hai bài hát "Trường kiều nguyệt" và "Đoạn kiều nguyệt" phổ biến trong dân chúng. Còn chiếc thuyền của đôi trai gái ấy trở thành đồ phế bỏ, cột một nơi trơ gan cùng tuế nguyệt, chẳng còn ai dám đụng đến nữạ

Một năm và tiết Hàn thực, trai thanh gái lịch kinh thành rủ nhau đi chơi rất đông, thuyền bè san sát bên trên mặt Tây Hồ. Có một chàng trai trẻ từ phương xa đến, lên lầu Phong Nhạc ngắm nhình cảnh vật. Rồi chàng ta nổi hứng muốn thuê một chiếc thuyền để du ngoạn trên hồ nhưng lúc ấy chẳng còn một chiếc thuyền dư nào cả; ngoài chiếc thuyền của Vương Sinh và Đào Nhi đi trước kia nay bị bỏ phế một chổ. Chàng trai muốn dùng con thuyền ấy để du ngoạn nhưng có người mách chuyện Vương - Đào trước kia và khuyên chàng không nên dùng chiếc thuyền ấy, e có chuyện không hay xảy rạ Chàng trai cười lớn bảo:

- Thế thì tuyệt quá đi thôị Chính tôi cũng muốn được như thế đấỵ

Rồi chàng ta mướn ngay chiếc thuyền ấy, mua rượu thịt đem xuống bơi đi chơi khắp mặt hồ và lấy làm thỏa thê lắm. Từ đó dân chúng ở kinh thành càng truyền tụng gai thoại Vương - Đào và tranh nhau thuê chiếc thuyền ấy đi du ngoạn trên mặt hồ; không còn ai tỏ ý sợ gì cả.

"If you are going to walk on thin ice, you may as well dance." -- ./ fortune

Reply With Quote

04-25-2003, 08:56 AM #12

qcluu

TưởngRằngĐãQuên..

Join DateJul 2002LocationĐời vốn buồn nên tiếc một lần vui ... (TTD)Posts1,848Thanks0Thanked 0 Times in 0 Posts

Châu Sa

Lòng đâu sẵn món thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm CHÂU SA

(Câu 81,82. Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên)

"Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối, CHÂU SA ngắn dàị"

(Câu 103, 104. Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên)

"Ngại ngùng một bước một xa

Một lời trân trọng, CHÂU SA mấy hàng".

(Câu 561, 562. Kim Kiều chia tay)

CHÂU SA là nước mắt rơi xuống. Nước mắt của người đẹp được ví như hạt châu theo tích xưa sau đây:

Đời Thượng Cổ dưới bể Nam Hải có một giống người gọi là Giao Nhân. Giống người này hàng năm lên bờ sinh sống, buôn bán với người trần thế, đến cuối năm phải trở về đáy biển để chầu vua Thủy Tề.

Những lần chia tay từ biệt người trần thế, những Giao Nhân thân tình với người trần đều khóc lóc thảm thiết, tỏ ra quyến luyến lắm. Những Giao Nhân này khóc bao nhiêu thì nước mắt rơi ra trở thành ngọc châu hết bấy nhiêụ

Do tích này mà về sau giới văn nhân thi sĩ ví nước mắt như giọt châu mà gọi là Châu Sa.

Last edited by qcluu; 04-25-2003 at 06:52 PM.

"If you are going to walk on thin ice, you may as well dance." -- ./ fortune

Reply With Quote

04-28-2003, 05:10 PM #13

qcluu

TưởngRằngĐãQuên..

Join DateJul 2002LocationĐời vốn buồn nên tiếc một lần vui ... (TTD)Posts1,848Thanks0Thanked 0 Times in 0 Posts

Suối Vàng

"Gọi là gặp gỡ giữa đường

Hoạ là người dưới SUỐI VÀNG biết cho"

(Câu 93,94. Kiều than thở trước mộ Đạm Tiên)

"Nợ tình chưa trả cho ai

KHối tình mang xuống TUYỀN ĐÀI chưa tan".

(Câu 709, 710. Kiều than thở một mình)

"Chị dầu thịt nát xương mòn

Ngậm cười CHÍN SUỐI hãy còn thơm lây".

(Câu 732, 733. Kiều tâm sự với Thúy Vân)

"DẠ ĐÀI cách mặt khuất lời

Rảy xin chén nước cho người thác oan"

(Câu 747, 748. Kiều nói với Thúy Vân)

"Trên Tam đảo, dưới CỬU TUYỀN

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng."

(Câu 1685, 1686. Tài ba của thầy phù thủy)

"Kiếp này duyên đã phụ duyên

DẠ ĐÀI còn biết sẽ đền lai sinh."

(Câu 2787, 2788. Vương ông nói với Kim Trọng)

"Minh, dương đôi ngã chắc rồi

Cõi trần mà lại thấy người CỮU NGUYÊN."

(Câu 2999, 3000. Kim Kiều sắp tái họp)

Suối vàng, Tuyền đài, Chín suối, Dạ đài, Cữu tuyền và Cữu nguyên đều cùng một nghĩa; là nơi linh hồn người đã chết cư ngụ

Sách Đông Châu Liệt Quốc kể rằng:

Trịnh Trang Công chiều ý mẹ là Khương thị phong đất Kinh thành cho em là Cung Thúc Đoạn. Khương thị vốn yêu thương Đoạn hơn Ngộ Sanh (tên húy của Trịnh Trang Công) và từ trước đã có ý muốn Đoạn làm vua nước Trịnh nhưng không được

Khi Đoạn chào từ biệt mẹ để đi nhận đất phong, Khương thị bày mưu cho Đoạn chiếm lấy nước Tri.nh. Sau đó không lâu Đoạn khởi sự nhưng việc không thành, phải chạy về Cung thành là đất phong cũ rồi tự sát.

Trịnh Trang Công xét trong mình Đoạn thấy có bức thư của mẹ hẹn làm nội ứng thì giận lắm, lấy bút phê vào câu "Bất cập hoàng tuyền, vô tương kiến giả" (Nếu không phải là chốn suối vàng, thì vĩnh viễn không gặp nhau) rồi gởi trả thư cho mẹ Nhận được thư, Khương thị xấu hổ bèn rời cung ra ở đất Dĩnh.

Tring Trang Công về cung không thấy mẹ, lòng buồn thầm nghĩ "Ta đã ép lòng làm hại đứa em, nay nỡ nào làm hại đến mẹ nữạ Nhưng đã lỡ thề rồi, biết làm sao".

Dĩnh Khảo Thúc là quan trấn Dĩnh ấp, nổi tiếng là người con có hiếu; nghe chuyện Trịnh Trang Công từ bỏ mẹ lấy làm bất bình than rằng:

- Dù mẹ có lỗi đến đâu, phận làm con cũng không nên bất hiếụ Chúa công làm thế là trái đạo vô cùng...

Ít hôm sau Khảo Thúc nghĩ được kế răng vua, bèn bắt mây con chim cú đem dâng cho Trịnh Trang Công và nói rằng:

- Đây là giống chim cú, ban ngày dù vật to bằng quả núi nó vẫn không thấy, nhưng đến đêm dù vật nhỏ bằng sợi tóc nó cũng trông rõ. Nó là giống vật chỉ thấy cái nhỏ mà không thấy cái lớn. Thứ đến, lúc còn nhỏ nhờ chim mẹ tìm mồi cho ăn nhưng lớn lên thì lại không biết gì đến mẹ; thật là một giống chim bất hiếu nên bắt làm thịt ăn.

Trịnh Trang Công nghe thế ngồi lặng thinh. Ngay lúc ấy thị vệ bưng mâm thịt vào dâng vua nhắm rượụ Trịnh Trang Công cắt một miếng thịt ban cho Dĩnh Khảo Thúc. Khảo Thúc không ăn ngay mà lại cắt ra một phần gói lại vào tay áọ Nhà vua hỏi:

- Khanh làm vậy để chi thế?

- Tâu chúa công, mẹ tôi già mà lại nghèo khó, ít khi nào được ăn miếng ngon vật lạ Nay đội ơn Chúa công ban thưởng, tôi phải dành phần cho mẹ thì mới ăn ngon miệng được

Trịnh Trang Công thở dài bảo:

- Ngươi thật là con hiếu thảO, tiếc rằng ta không được như ngươị

Dĩnh Khảo Thúc làm bộ ngạc nhiên hỏi:

- Quốc mẫu vẫn được an khang quý thế, cớ sao Chúc công buồn bã làm vậy ?

Trịnh Trang Công bèn đem việc Cung Thúc Đoạn tạo phản nói cho Khảo Thúc nghe, và tỏ ý hối hận vì lời thề nên không chăm sóc mẹ được.

Nghe xong, Dĩng Khảo Thúc tỏ ý buồn mà tâu rằng:

- Cung Thúc Đoạn đã mất, tình cốt nhục chia lìa, nay chi>? còn Quốc mẫu mà Chúa công bỏ bề phụng dưỡng e lỗi đạo làm con. Nếu Chúa công lỡ lời thề, tôi xin dâng một kế nhỏ có thể giải lời thề cho Chúa công được

Trịnh Trang Công tỏ ý mừng rỡ, nói:

- Nhà ngươi có kế hay mau giúp trẫm.

- Chúa công thề khi nào xuống suối vàng mới gặp lại mẹ ?

Trịnh Trang Công gật đầụ Dĩnh Khảo Thúc nói tiếp:

- Vậy bây giờ Chúa công hãy cho đào một con suối sâu tận mạch nước rồi cho làm một cái nhà dưới hầm và coi đó là suối vàng. Chúa công cho rước Quốc mẫu đến đóđể hai mẹ con cởi mở tấm lòng. Thế là Chúa công không phạm lời thề gì cả.

Trịnh Trang Công nghe theo, cho Dĩnh Khảo Thúc đem năm trăm tráng dân đến Khúc vị đào một cái hầm dưới chân núi Ngưu Kỳ, cất một cái nhà gỗ trên mặt nước rồi cho rước Khương thị đến. Trịnh Trang Công đến sụp lạy mẹ và nói:

- Ngộ Sanh này bất hiếu, cúi xin mẫu hậu rộng tình dung thạ

Khương thị buồn vui lẫn lộn trong lòng, ứa nước mắt nói:

- Ấy là lỗi của mẹ, con nào có tội gì...

Hai mẹ con ôm nhau khóc ròng...

"If you are going to walk on thin ice, you may as well dance." -- ./ fortune

Reply With Quote

04-29-2003, 03:13 PM #14

qcluu

TưởngRằngĐãQuên..

Join DateJul 2002LocationĐời vốn buồn nên tiếc một lần vui ... (TTD)Posts1,848Thanks0Thanked 0 Times in 0 Posts

Đồng Tước

"Vẫn nghe thơm nức hương lân

Một nền ĐỒNG TƯỚC khoá xuân hai Kiều"

(Câu 155, 156. Kim Trọng gặp Kiều)

ĐỒNG TƯỚC là tên một cái đàị Câu "Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều" là Nguyễn Du dịch từ câu thơ của Đổ Phủ "Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều" trong bài Xích Bích hoài cổ của thi nhân.

Trong thời Tam quốc, Tào Mạnh Đức (Tào Tháo) cho xây trên bờ sông Chương Giang thuộc tỉnh Hà Nam một cái đài và đặt tên là Đồng Tước.

Trong lễ khánh thành đài Đồng Tước, con trai thứ của Tào Tháo là Tào Tử Kiến (Tào Thực) là một người văn chương trác tuyệt, đã làm một bài phú vịnh đền Đồng Tước; trong đó có câu:

"Liên nhị kiều ư đông tây hề

Nhược trường không chi nhuế đống"

(Bắc liền đông tây hai cây cầu nổi lên như cái cầu vồng giữa lưng trời).

Sau đó, khi chiến trạnh Nguỵ Ngô sắp xảy ra, Thừa Tướng nước Thục là Khổng Minh (Gia Cát Lượng) sang Ngô du thuyết để liên kết Thục, Ngô chống Ngụỵ Bấy giờ quyền hành ở Đông Ngô nằm trong tay Đại Đô Đốc Châu Du, mặc dù Tôn Quyền là chúd Đông Ngộ

Khổng Minh biết Châu Du và Tôn Sách (anh Tôn Quyền) là hai anh em bạn rể. Tôn Sách lấy Đại Kiều, Châu Du lấy Tiểu Kiều là hai ngườ con gái của Kiều Công, nổi tiếng đẹp nhất Giang Đông thời bấy giờ.

Để khích Châu Du căm hận Tào Tháo hầu dốc toàn lực liên kết với Thục đánh Ngụy, Khổng Minh kể cho Châu Du nghe việc Tào Tháo cho xây đền Đồng Tước, rồi hỏi:

- Tướng quân có biết Tào Mạnh Đức cho xây nền Đồng Tước với mục đích gì chăng ?

Châu Du lắc đầu đáp:

- Du tôi làm sao hiểu được dụng ý của Tào A Man.

Khổng Minh điềm nhiên nói:

- Hiện nay Tào Tháo đang cho luyện tập thủy binh ráo riết để chuẩn bị đánh Đông Ngô

- Điều ấy tôi biết.

Khổng Minh chậm rãi nói tiếp.

- Cùng với việc luyện tập thủy binh, hò Tào cho xây đài Đồng Tước với mục đích là sau khi thắng Đông Ngô, sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều đem về đài Đồng Tước hưởng lạc.

Nghe đến đây Châu Du nổi giận phừng phừng, hỏi lớn:

- Tiên sinh lấy bằng cớ đâu mà nói như thế ?

Biết Châu Du đã mắc mưu mình, Khổng Minh cười nhẹ nói:

- Đô Đốc hãy bình tĩnh nghe tôi đọc bài phú vịnh đài Đồng Tước của Tào Tử Kiến để mà biết rõ thâm ý của Tào Tháọ

Rồi Khổng Minh đọc bài phú vịnh đền Đồng Tước. Đến câu "Liên nhị Kiều ư Đông Tây hề, Nhược trường không chi nhuế đống" thì vị Thừa tướng nước thục sửa lại thế này: "Lãm nhị Kiều ư Đông Nam hề, Lạc triêu tịch chi dữ cộng". (Bắt hai nàng Kiều ở Giang Nam về để sớm tối chung vui). (1)

Châu Du vì không biết rõ bài phú của Tào Thực vịnh đài Đồng Tước nên tinh ngay lời Khổng Minh là thật. Lòng căm hận Tào Tháo dâng cao, Châu Du quyết định liên kết với Thục để cùng đánh Ngụỵ Rồi sau đó, trên sông Trường Giang, với sự tham mưu của Khổng Minh Gia Cát Lượng, Châu Du đã chỉ huy quân Đông Ngô đánh tan tám mươi ba vạn quân Tàọ Tào Tháo đại bại, tạo cơ hội cho Lưu Bị chiếm lấy Kinh Châu và tiến vào Lưỡng Xuyên.

Trận hoả công trên lửa cháy ngất trời, nung đỏ vách núi nên về sau người ta gọi là núi Xích Bích.

Nhà thơ Đỗ Phủ (2) đời Đường, khi qua chơi Xích Bích có làm bài thơ hoài cổ, có hai câu:

"Đông phong bất dữ Chu lang tiện

Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều"

(Nếu gió đông không giúp phương tiện cho chàng Châu Du thì đền Đồng Tước sẽ nhốt kín hai nàng Kiều).

========

(1) Chữ "nhị kiều" của Tào Thực dùng trong bài phú là chỉ hai cây cầụ Còng chữ "nhị Kiều" do Khổng Minh sửa lại là chỉ hai nàng Kiều, tức Đại Kiều và Tiểu Kiềụ

(2) Theo link này thì gọi là Đỗ Mụchttp://thivien.maihoatrang.com/tho.p...sid=116&nid=11

Last edited by qcluu; 04-29-2003 at 09:07 PM.

"If you are going to walk on thin ice, you may as well dance." -- ./ fortune

Reply With Quote

04-29-2003, 07:45 PM #15

BangHuu

Registered User

Join DateAug 2002LocationĐào Hoa ĐảoPosts906Thanks0Thanked 0 Times in 0 Posts

Chào QCLuu

Trước hết xin cám ơn Q. đã bỏ công đễ đưa những điển tích này lên đây cho anh em cùng đọc,hay quá chừng luôn mà nhất là BH mê mấy cái thứ này lắm

Bây giờ đến phiên BH đóng góp nhe,trong cái tích về "Đồng Tước" có nói 2 câu :

"Đông phong bất dữ Chu lang tiện

Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều"

là củaĐỗ Phủ ,BH không biết sách của Q. in lộn hay Q. đọc lầm vì BH biết chắc rằng 2 câu này lấy từ bài "Xích bích hoài cổ" của Đỗ Mục đó.Đây là một bài thất ngôn tứ tuyệt,nguyên tác:

Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu

Tự tương ma tẩy nhận tiền triều

Đông phong bất dữ Chu Lang tiện

Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều

Dịch Nghĩa

Mũi kích gãy nằm trong cát, sắt chưa mòn hết

Tự tay mình mài rũa, đã nhận thấy dấu vết triều đại vừa qua

Gió đông ví không thuận tiện cho chàng Chu Du

Thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khóa chặt hai nàng Kiều

Dịch Thơ

Xích Bích hoài cổ

Cát vùi lưỡi kích còn trơ,

Rũa mài nhận dấu triều xưa rõ ràng

Gió đông ví phụ Chu Lang

Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều

Bản dịch:Tương Như

--------------------------

Giáo chìm, sắt vẫn còn trơ,

Rửa xem nhận biết triều xưa rõ ràng.

Gió Đông không giúp Chu Lang,

Khóa xuân Đồng Tước đã giam hai Kiều.

Bản dịch: Trần Trọng San

BH biết Q. là người không chấp nhất nên xin được góp ý đôi chút

Chúc Q. vui

điển tíchh gghjfhggh

Ông Táo về Trời

- Không khí Tết nhộn nhịp bắt đầu kể từ ngày "tiễn" Táo quân về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp. Táo Quân; Táo Vương hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và Trung Hoa được xem là vị Thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà, Táo (tiếng Hán) có nghĩa là bếp.

Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam vị thất thế (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất. Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép lại như sau:

Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo khổ. Chồng tên là Trọng Cao, vợ là Thị Nhi. Họ lấy nhau đã lâu mà không có con, cho nên thường buồn phiền cãi lẫy với nhau.

Một hôm Trọng Cao quá tức giận mà đánh vợ. Tức mình, Thị Nhi bỏ nhà ra đi, rồi gặp một chàng trai là Phạm Lang, anh này đã dùng lời ngon ngọt và khéo léo quyến rũ được Thị Nhi. Hai người ăn ở với nhau thành vợ chồng. Khi Trọng Cao hết giận, thấy vợ bỏ đi mất, liền đi tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy tăm hơi, buồn rầu bỏ công ăn chuyện làm, ra đi làm người hành khất để đi tìm vợ.

Một hôm, Trọng Cao đến một nhà khá giả xin ăn, bà chủ nhà đem cơm ra cho. Thì ra đó là Thị Nhi. Hai người nhận ra nhau, tình xưa nghĩa cũ dễ nào quên. Thị Nhi hối hận vì đã lấy Phạm Lang. họ đang hàn huyên thì bất ngờ người chồng mới là Phạm Lang từ ngoài đồng đi làm về, Thị Nhi mới nói Trọng cao vào ẩn trong đống rơm. Phạm Lang về nhà để cốt lấy tro bón ruộng, nên đốt đống rơm lấy tro. Trọng Cao đang say ngủ trong đống rơm vì đường xa mỏi mệt ấy bị chết cháy, người vợ cũ là Thị Nhi, thấy vậy cũng lao vào lửa chết theo. Phạm lang thấy vợ chết cũng lao mình vào đống rơm đang cháy ấy mà chết.

Cũng có tích khác: sau khi Thị Nhi lấy Phạm Lang, một hôm trong nhà cúng đốt mã ngoài sân, có một hành khất vào ăn xin. Thị Nhi nhận ra người chồng cũ của mình, động lòng thương đem gạo ra cho. Bị Phạm Lang nghi ngờ, Thị Nhi lấy làm xấu hổ đâm đầu vào đống lửa đang đốt mã mà tự tử. Trọng Cao cảm tình ân nghĩa cũng lao vào lửa mà chết theo, Phạm lang vì mối tình thương vợ, cũng nhảy vào cùng chết.

Thượng đế thấy ba người có nghĩa mới phong cho làm Táo Quân, và phân chia mỗi người một việc.

-Phạm Lang là Thổ Công trông lo việc bếp.

-Trọng Cao là Thổ Địa trông nom việc nhà.

-Thị Nhi là Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa.

Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế (hay Ông Trời), nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công. Vị Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể. Lễ vật cúng Táo quân gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy.

Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Công.

Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy!

Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ "phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra sông sau khi cúng).

Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.

Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...v...v) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc..v...v..) để tiễn Táo quân.

(Sưu tầm Internet)

Vài nét phong tục ngày tết cổ truyền VN.

Sắp đến tết rồi, hiepkhach xin gửi tặng các bạn bài viết sưu tầm, về các phong tục đón tết cổ truyền của người Việt Nam.

Tết là dịp để người ta biểu tỏ tình thương nhân loại, xum họp gia đình, thăm viếng thân nhân, và thờ phượng tổ tiên. Tết cũng là dịp nghỉ ngơi, chơi đùa để chuẩn bị làm việc hăng say hơn trong năm mới.

Như lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh của Tây phương, Tết là lúc gia đình góp mặt đông đủ. Con cái, cháu chắt đi làm, đi học ở xa đều được nghỉ phép về thăm nhà khoảng 23 tháng Chạp âm lịch. Tuy vậy, gia đình Việt Nam trung bình dành ra nửa tháng Chạp để chuẩn bị đón Tết cho chu đáo. Có rất nhiều việc để làm: nào thăm mồ mả tổ tiên, nào mua hoa, pháo, nhang, đèn, nào sắm sửa quần áo mới, nào gói bánh chưng, bánh dầy, nào quét dọn nhà cửa. Đến đêm 30 tháng Chạp, mọi việc mua sắm phải hoàn tất, bàn thờ tổ tiên phải được sắp đặt tươm tất, các món ăn phải làm xong, pháo phải sẵn sàng.

1. Đi thăm mộ tổ tiên

Từ ngày 23 cho đến chiều 30 tháng Chạp, con cháu trong gia tộc tề tựu đông đủ và cùng đi thăm và quét dọn mồ mã tổ tiên. Mỗi gia đình đều đem theo hương đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Khi chưa có nghĩa trang ở nông thôn Việt Nam, ít nhà có ruộng đất lớn để làm mộ phần tổ tiên, nên những điền chủ có nhiều ruộng đất trong làng cho mượn đất chôn nhờ. Vì thế, cuối năm, mỗi gia đình đi thăm mộ đều mang theo quà Tết để biếu điền chủ đã cho mình mượn đất hay người coi sóc nghĩa trang (nếu mộ phần đặt trong nghĩa trang).

2. Đưa Táo quân về trời

Sự tích Táo quân (gồm ba vị thần coi quản bếp núc, nhà cửa của mỗi gia đình) đại khái như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo nhưng ăn ở với nhau rất đằm thắm. Nhưng làm hoài mà vẫn chỉ đủ ăn, anh chồng quyết định đi xa một chuyến thử thời vận, mong làm giàu để chị vợ đỡ lam lũ. Không may, anh ra đi được ba năm vẫn chưa quay lại. Chị vợ chờ mãi, chắc là anh đã chết nên tái giá với một anh nhà giàu. Dù vậy, lòng chị vẫn vương vấn tình cảm cũ. Một hôm, gần ngày Tết (có lẽ nhằm ngày 23 tháng Chạp?), gia đình làm cỗ cúng tổ tiên rất lớn nên có mấy người đến ăn xin trước cửa. Khi chị vợ đưa thức ăn cho họ, chị bất chợt nhận ra một trong những người ăn xin là anh chồng cũ của chị. Anh chồng sau thấy vậy, vội cho là vợ mình không chung thủy, nên nặng lời với chị. Uất ức vì bị hiểu lầm, chị liền nhảy vào đống lửa đốt vàng mã cao ngun ngút ngoài sân, tự vẫn. Anh chồng cũ thương vợ, cũng nhảy theo vào đống lửa. Anh chồng mới ăn năn thì sự đã rồi, nên anh nhảy luôn vào đống lửa. Hồn ba người lên thượng giới chầu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng cảm thương tình cảnh của ba người, bèn phái cả ba về hạ giới để coi sóc bếp lửa của mỗi gia đình và cuối năm về thượng giới tâu lại những chuyện tốt xấu xảy ra trong từng gia đình trong năm.

Trên đây chỉ là một trong những sự tích về Táo quân. Nói chung, câu chuyện được kể lại nhằm giải thích nguồn gốc tục đưa Táo quân về trời và răn dạy con người tự giữ gìn hạnh kiểm vì mọi việc làm của con người đều được trình báo với Ngọc Hoàng. Ngày 23 tháng Chạp, mỗi nhà đều làm cơm, cúng tiễn Táo quân về trời. Ngoài mâm cơm với các món ăn tươm tất (tùy gia đình giàu, nghèo), còn có mũ và áo mã (bằng giấy) để Táo quân mặc và một hoặc ba con cá chép thả trong chậu nước để Táo quân cưỡi về thiên đình.

3. Lễ rước vong linh ông bà

Chiều 30 tháng Chạp, các thức ăn và trái cây được xếp thành cỗ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên. Đây là dịp cả gia đình quây quần trước vong linh cửu huyền thất tổ, ôn lại những sự việc đã xảy ra trong năm để rút tỉa kinh nghiệm cho năm mới. Gia trưởng (người đứng đầu gia tộc, thường là người cao tuổi nhất) trịnh trọng thắp nén hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau gia trưởng, mọi người trong nhà đều nghiêm trang chắp tay cung thỉnh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.

4. Đốt pháo

Đúng giao thừa (tức là thời điểm giao hòa giữa 12 giờ đêm 30 tháng Chạp của năm cũ với rạng sáng mùng Một của năm mới), nhà nhà nhất loạt châm ngòi đốt pháo. Pháo tiểu, pháo trung, pháo đại đồng thanh nổ đùng đùng, dòn dã, và mùi khói nồng khét của thuốc pháo quyện vào mùi nhang thoang thoảng trên bàn thờ thành một thứ mùi rất đặc biệt, rất Tết.

Ngày xưa, dưới thôn quê, người ta tin rằng tiếng pháo trừ khử được ma quỷ và mang lại hạnh phúc cho dân làng. Lâu rồi thành tục. Ngày nay, tuy chỉ còn một số người tin vào việc trừ khử tà ma kiểu này, nhà nào cũng đốt pháo từ đêm giao thừa sang sáng mùng Một, mùng Hai, mùng Ba để đón vong hồn tổ tiên về ăn Tết, đón khách tới chơi, và đón khí xuân vào nhà. Đôi khi, đến mùng Mười vẫn nghe tiếng pháo lách tách ở xóm trên xóm dưới. Tiếng nổ đì đùng, vui tai của pháo phản ảnh sự tưng bừng nhộn nhịp của ngày Tết, và người ta tin rằng màu hồng thắm của xác pháo tượng trưng cho những điều may mắn.

5. Xuất hành

Khi tiếng pháo đã ngớt đêm 30, mỗi gia đình thường cử một người xuất hành (tức là bước ra khỏi nhà) trong những giây phút mới mẻ ngày đầu năm. Xuất hành phải xem lịch (xin xem bài viết về Âm Lịch) để chọn hướng tốt, hạp với tuổi của mình (xin xem bài viết về Các Con Giáp), ngụ ý để mang đến điều may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà trong năm mới. Sau khi xuất hành xong, người ta có thể tự xông nhà.

6. Xông nhà (hay "xông đất")

Đầu năm, nhiều người Việt cho rằng người đầu tiên bước vào nhà mình sẽ đem đến vận hên, xui cho gia đình suốt cả năm. Vì thế, cứ mỗi đầu năm là chủ nhà nhờ người có vận may xông nhà dùm. Người may mắn là người làm ăn phát đạt trong năm, gia đình sung túc, hạnh phúc. Nếu không tìm ra người, đôi khi chủ nhà đi xông nhà cho chính họ. Khách đi xông nhà thường ăn mặc chỉnh tề, bước vào cửa chính gian nhà, rồi rảo một lượt quanh nhà, xuống tận bếp, cốt để mang vận may vào từng xó nhà.

7. Chúc thọ

Trong gia đình Việt Nam, người cao tuổi được kính trọng hơn hết vì có nhiều kinh nghiệm. Sáng sớm mùng Một Tết là lúc con cháu trong gia tộc tỏ lòng hiếu thảo qua việc chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Người Việt quan niệm rằng cứ mỗi độ xuân về là mọi người đều thêm một tuổi, bất kể sanh nhằm ngày nào trong năm.

8. Lì xì

Chữ "lì xì" được phiên âm từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ "lợi thị" (tiền bạc, lợi lộc) trong Hán tự. Để mừng tuổi các em, những người lớn trong gia đình, họ hàng, bạn bè của cha mẹ tặng các em những món tiền nho nhỏ (lì xì) và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ đạt, v. v. Những món tiền này được cho vào phong bao màu đỏ trơn hoặc có hoa văn vàng. Cũng như màu hồng thắm, màu đỏ hoặc các màu có sắc đỏ được tin là tượng trưng cho sự may mắn. Thưở trước, sau khi nhận những lời chúc thọ, các vị cao niên trong gia đình lì xì tất cả con cháu bất kể tuổi tác với những món tiền nho nhỏ, vừa bạc lẻ vừa tiền chẵn, ngụ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi nảy nở trong năm mới.

9. Thăm viếng

Sau khi xông nhà xong, chủ nhà bắt đầu tiếp đón bạn bè, thân quyến đến thăm, và cũng đi thăm trả lễ. Thông thường, mùng một được dành để chúc thọ các bậc trưởng thượng trong gia tộc, thăm hỏi họ hàng. Mùng Hai được dành để các trò đến viếng và tạ ơn thầy cô giáo đã tận tình dạy dỗ mình trong năm qua, nêu cao truyền thống "tôn sư trọng đạo" của học sinh Việt Nam. Mùng Ba là ngày thăm hỏi, vui chơi với bè bạn.

10. Kiêng cữ

Vì cho là các hành vi trong những ngày đầu năm có thể đem lại vận hên, xui trong năm, nên người Việt hết sức thận trọng với lời ăn tiếng nói và các hành động vào ba ngày đầu năm. Có một số việc nên tránh, chẳng hạn: quét rác, đặc biệt là xác pháo, ra khỏi nhà vì bị xem là quét tiền ra cửa; biếu tặng các vật "cấm" như thuốc men hay dao nhọn vì bị xem là mang dấu hiệu của bệnh hoạn và xung khắc; nói các lời nặng nề, thô tục; khóc lóc, than thở; đập vỡ chén dĩa hay gương soi vì bị xem là dấu hiệu của sự đổ vỡ trong gia đình; mặc quần áo trắng hay đen vì bị xem là màu tang tóc, v. v. Vài việc kiêng cữ nêu trên đã đơn giản hóa theo thời gian, nhưng phần lớn vẫn được người Việt tin tưởng đến ngày nay.

Theo internet

Ý Nghĩa Tục Lì Xì Tết.

ừ xa xưa, ở nước ta thường có tập tục người lớn nhân ngày đầu năm tặng các em những đồng tiền lì xì để mừng tuổi, cho đến nay phong tục ấy vẫn tồn tại như một truyền thống mang tính lịch sử.

Trong cổ thư “Đồng tiền lì xì mừng tuổi” đó được gọi là áp tuế tiền. Ngày xưa “áp tuế tiền” là những đồng tiền được xỏ xâu lại với nhau cột bằng sợi chỉ đỏ, có hình dạng con rồng hoặc thanh kiếm. Phía trên các đồng tiền có chạm các hình tượng gắn liền với cuộc sống như chim, hoa, cỏ… “áp tuế tiền” được đặt ở chân giường hoặc bên cạnh gối ngủ nhằm ngăn chặn tà ma, yêu quái bảo vệ trẻ em được bình yên.

Theo thời gian các hình vẽ trên đồng tiền được biến đổi dần để trở thành một tập tục mang đậm tính dị doan quái gỡ.

Căn cứ vào sách xưa thì phong tục này xuất hiện vào thời nhà Minh, nhà Thanh ở Trung Hoa. nhưng thay vì những xâu tiền họ biến đổi thành những bao tiền lì xì đỏ.

Qua sử sách. những đồng tiền được đúc bằng đồng hay bạc thuở xưa, ngày nay rất khó tìm thấy, một đồng áp tuế chính thống của Trung Hoa hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Bắc Kinh và Đài Bắc. Các đồng tiền này bao gồm nhiều loại khác nhau như: Ngoại điển, tạp điển... Tuy nhiên, các hình dạng tiền có chữ hoặc hình ảnh vẫn chiếm phần lớn người ta gọi đó là "các ngôn tiền". Có nghĩa là đồng tiền có những chữ tốt. "Các ngôn tiền" thường có những dòng chữ nối như "Phước - Lộc - Thọ - Toàn", "Trang nguyên cặp đệ", "Phước như Đông Hải"... còn mặt trái là những hình ảnh nỗi như hình ông Thọ, con nhện, con dơi...

Ngày nay, phong tục "lì xì" bằng những đồng tiền giấy lưu hành bỏ trong những phong bì gọn, nhỏ màu đỏ xinh xắn đã hoàn toàn thay thế cho "Áp tuế tiền" ngày trước.

Tục phong bì mừng tuổi trẻ em, trên sáu mươi năm trước báo Phong Hóa đã có bài chế diễu - và sau Cách mạng tháng Tám, nó đã mất đi khá lâu ở nhiều địa phương có nếp sống mới. Nhưng những năm gần đây, nó cũng đã trở lại gần khắp mọi nơi. Đi chúc tết, gặp những cháu bé người ta đưa mừng tuổi mỗi cháu một phong bì có tiền ở bên trong.

Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc của nó thế nào? Chúng tôi lân la "tầm nguyên" qua các nhà nghiên cứu, hỏi trực tiếp bằng miệng có, giở sách vở các vị có, thấy giải thích hai chữ "lì xì" tựu trung là "tiền mừng tuổi".

Cuốn từ điển thời nay do Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học chẳng hạn, mục từ lì xì giải thích: "Lì xì là mừng tuổi (bằng tiền). Tiền lì xì cho các cháu ngày mùng một Tết". "Lì xì" bằng tiền không chỉ giới hạn trong mùng một Tết, mà "liền tù tì" suốt ba ngày đầu năm, thậm chí kéo dài tận những ngày "mùng" cuối cùng của Tết như mùng 9, mùng 10. Theo một số vị mà chúng tôi hỏi chuyện, như cụ Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Đan Quế, thì tục mừng tuổi vẫn cứ nên giữ. Nhà nghiên cứu Thông Hội bảo: "Đó là một phần đậm đà của phong vị Tết Việt Nam, đặc biệt đối với trẻ con, khiến trẻ nhớ tới Tết như một thời điểm mở đầu năm mới, đẹp như cổ tích". Với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, tác giả Dư âm, cứ nên lì xì "miễn là đừng lì xì tiền đô cho trẻ, không đúng chỗ, mà tập hư cho chúng ăn xài". Vũ sư Hoài Nhơn (Trần Trinh Nhơn), con trai lớn của công tử Bạc Liêu (Trần Trinh Huy), thì kể rằng: "Ba tôi mất ngày 21 tháng chạp năm Quý Sửu 1973 ở Sài Gòn. Đầu năm đó, ăn cái Tết cuối cùng, ông còn lì xì tôi mặc dầu tôi đã 27 tuổi. Tôi vẫn không quên cái phong bì màu đỏ ấm áp, biểu lộ tình cảm của một người cha lúc nào cũng nhìn xuống con mình như thời còn nhỏ tại Bạc Liêu". Nhà nghiên cứu Cao Sơn giải thích: - Lì xì tiếng chữ là lợi thị, đọc theo âm Quảng Đông, Triều Châu thành "Lê - i - xị", chỉ số tiền được cho, tặng trong các dịp đầu năm, khai trương và cả trong lễ thành hôn nữa, chứ không bó hẹp trong dịp Tết Nguyên đán.

Lì xì nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Thường người Tàu bỏ tiền vào bao giấy màu đỏ. Người Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến ở miền Nam ngày Tết. Ở miền Trung thì ông bà cha mẹ, người tôn trưởng cho con cháu tiền mới vào dịp Tết gọi là "tiền mừng tuổi". Không chỉ người lớn mừng tuổi con cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới sáng sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng ông bà, cha mẹ. Không chỉ lạy suông, cũng không thể muốn lạy mấy lạy thì lạy, mà theo nhà văn Toan Ánh, chỉ lạy... hai lạy rưỡi. Lạy xong con cháu phải biết "thơm thảo" với đấng sinh thành bằng cách cung kính dâng lên những thứ bánh trái tươi ngon và một phong giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm này có đặt một món tiền, để lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các cụ nhận cho, đó là "tiền mở hàng". Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn. Tục mừng tuổi nay còn đó. Ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân quyến tới nhà ai chúc Tết lì xì trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ nhà đón khách tới chúc Tết lì xì trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa chính không nằm ở "tiền" mà ở "tình", tức ở lòng mong ước cầu chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là điều đáng để tâm lắm. Thậm chí không có một cắc bạc mà chỉ có... chữ. Chữ viết rõ to, đậm nét để "làm quà" mừng tuổi như chuyện dưới đây.

Xưa, có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba đứa con trai. Tết đến người cha không có tiền để lì xì. Chiều ba mươi, ông nghĩ ra một cách, lấy giấy đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài trông thẳng thớm tươi tắn đỏ thắm như các phong lì xì khác. Nhưng bên trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3 miếng giấy được ông viết 3 chữ nắn nót: Phước - Lộc - Thọ. Qua sáng mùng một, người cha gọi 3 đứa con trai đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng, tươi cười mừng tuổi chúng bằng 3 cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải thích Phước là gì, Lộc là gì, Thọ là gì... Qua Tết, bước vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông phát tài, tiền vô như triều cường. Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp. Ý chừng nhớ lại Tết xưa nghèo thiếu, đạm bạc, ông định bụng sẽ tái diễn cách "lì xì" bằng chữ để ba đứa "Phước Lộc Thọ" đừng bao giờ quên rằng, chúng đã được ăn no mặc ấm từ một quá khứ đói rách gần đây. Ai đời, khi nhận phong bì xong, ba đứa con bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến đâu mất. Người cha cũng ngạc nhiên không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng một người từ đâu đến bảo: "Ta là phúc thần của đất này. Chữ Phước đó do ta ban cho. Chỉ cần có nó cũng gồm đủ cả ba: phước, lộc, thọ, vì có phước mới hưởng được lộc, mới thọ lâu. Vì thế chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ phước để mừng tuổi đầu năm là đủ". Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong lì xì, cả bốn cha con sửng sốt một lần nữa vì chữ phước cũng biến mất luôn, trên mặt giấy trống trơn, trắng toát.

Bấy giờ vị thần thứ hai hiện ra kể cho bốn cha con nghe một chuyện mừng tuổi xa xưa. Đó là câu chuyện nổi tiếng khắp châu Á, loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến cả lưu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, về một người cầu phước được phước, trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt. Ông ta quên những điều tốt đẹp, những ban phát ngọt ngào, rộng lượng mà mình đã làm ở tiền kiếp, vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc về riêng mình, trong kiếp này, bỏ vào chiếc hũ, đem chôn ở một vị trí bí mật trong nhà không cho ai hay. Ngay cả con trai của ông cũng không được biết nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh. Khi chết, linh hồn ông bị hũ vàng ám ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm cách chui vào xác chết cứng lạnh của mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một con chó gần nhà có linh tính đã nhường thể xác hèn mọn của mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi bay lên không trung thoáng đãng. Còn ông nhà giàu thay thế làm chủ thể xác của con vật bốn chân, thỏa mãn được "sống" lại, dầu với tấm thân thuộc hàng súc sinh như chó. Con chó đó lạ thay suốt ngày không đi đâu cả, cứ nằm lì trước hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất định sát cửa ra vào. Hễ người con (bây giờ đã là chủ nhà) đuổi đi, một lát không lâu nó lại quay về chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy là nó rời sự sống của nó vậy. Các phước quả mà nó hưởng là hũ vàng ngọc, giờ đây trở thành điều vô phước cột chặt nó vào tham si. Ngày nọ, một đại sư ngang qua, nói với đứa con: "Này anh kia, anh có biết con chó đó là ai không?". "Dạ thưa không". "Ta nói cho biết, nó chính là cha của ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa đó? Ấy là vì nó luyến tiếc của cải chôn dưới đất. Hãy đào lên". Người con lấy làm lạ, cho đào thử chỗ con chó thường nằm, thì quả nhiên thấy hũ vàng bên dưới. Bị rúng động vì việc này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở hữu số vàng, rời nhà theo vị đại sư lên núi, về sau trở thành một trong những vị tổ đầu tiên của lịch sử Thiền tông. Vị này tỉnh ngộ rằng: nếu làm phước, được phước mà thiếu huệ tức trí huệ sẽ trở nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ, thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể xong, vị thần bảo: "Đó là lý do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước trong bao lì xì mừng tuổi của các ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt đẹp nếu sinh đôi cùng huệ, bằng không chỉ là động lực cho những cuộc thăng trầm bất tận. Giờ đây ngươi hãy nhìn xem".

Bốn cha con thấy trên bao lì xì hiện lên hai chữ Phước Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi tâm hồn đã đi qua mùa đông để mở đầu một năm mới thăng hoa.

cả nhà lấy ít tiền lẻ về lì xì tết nha

* Ghi chú: "Lì xì" tiếng Quảng Ðông có nghĩa là "lợi thị" (tài lộc).

tổng hợp từ internet

Sách Hoài Nam Tử có chép một câu chuyện như sau:

"Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần Trường thành, có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão.

Ông lão là người thông hiểu việc đời nên rất bình tỉnh nói: - Biết đâu con ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ.

Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão, và nhắc lại lời ông lão đã nói trước đây.

Ông lão không có vẻ gì vui mừng, nói: - Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Con trai của ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết nên nhảy loạn lên. Có lần con ông lão không cẩn thận để ngựa Hồ hất xuống, té gãy xương đùi, khiến con ông lão bị què chân, tật nguyền.

Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế.

Ông lão thản nhiên nói: - Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa nầy mà được phúc.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống ngăn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình."

Sau khi kể câu chuyện trên, sách Hoài Nam Tử đưa ra luận điểm: Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó.

Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: Tái ông thất mã, an tri họa phúc. Nghĩa là: ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc.

Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top