lichsudang3
Lời nói đầu
Đổi mới là quy luật tất yếu của lịch sử và cũng là đòi hỏi khách quan của thời đại.Quá trình đổi mới ở đất nước ta không có nghĩa là hoài nghi tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội,thay đổi con đường mà Đảng,Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.Quá trình đổi mới ở nước ta dựa trên ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin,quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của nó,vận dụng sáng tạo nó vào thực tiễn,không ngừng xây dựng phát triển làm cho nó ngày càng phong phú để tìm ra con đường biện pháp có hiệu quả xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhanh hơn,tốt đẹp hơn.
I.Hoàn cảnh
Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá-lương-tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn(tháng 12/1986,giá bán lẻ hàng hóa tăng 845.3%).Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội,ổn định đời sống nhân dân.Số người bị thiếu đói tăng,bội chi lớn.Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng .Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn... Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế,tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư duy. Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm "trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế". Đại hội thẳng thắn cho rằng: "Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện", đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Từ thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II.Chủ trương đường lối của Đảng
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công - nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là "cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội". Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng.
- Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể.
- Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Quản lý hành chính - xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để khắc phục.
- Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao.
- Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.
Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
III.Quá trình Thực hiện
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, toàn Đảng, toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và từng bước tiếp tục tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.Trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục những nhận thức đơn giản và tư duy lý luận lạc hậu như: quan niệm không đúng về sản xuất hàng hoá và thị trường dưới chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta ở chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại không thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không chú ý vận dụng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang coi trọng vận dụng quy luật sản xuất hàng hoá và thị trường vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức không đầy đủ về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh quá mức về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất mà không coi trọng đúng mức các mặt quan hệ tổ chức, quản lý các quá trình sản xuất, quan hệ phân phối lợi ích, nhất là lợi ích người lao động, làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu động lực phát triển sản xuất và tǎng nǎng suất lao động; nhấn mạnh quá mức tính tập thể, tính cộng đồng trong quan hệ sản xuất mới mà không coi trọng đúng mức nhân tố cá nhân, làm triệt tiêu tính tích cực của cá nhân trong chủ nghĩa xã hội. Thiếu sự phân định đúng đắn giữa động lực cá nhân là nhân tố không thể thiếu trong mọi hoạt động của con người với chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đối lập với tập thể, cộng đồng. Cùng với sự đổi mới nhận thức về những vấn đề trên, trong mấy nǎm qua, kể từ sau Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã tập trung thực hiện nhiều đổi mới về kinh tế - xã hội, nên đã khắc phục, sửa chữa được một bước những lệch lạc, khuyết điểm, trong các thời kỳ trước đây.
Hiểu một cách giáo điều, sách vở về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức không sâu, vận dụng không sát những điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, trước nhất là đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cho nên chúng ta đã có những bước đi chưa đúng, chưa phù hợp. Do đó, Đảng ta đã phải nhận thức lại và vạch ra những hình thức, bước đi vững chắc, làm nhỏ, có hiệu quả, đi lên dần, chứ không thể làm lớn, đi nhanh ngay được.
Qua thực tiễn đổi mới tư duy, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng hơn, đầy đủ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đặc điểm kinh tế - xã hội trên quy định, mà thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải lâu dài, qua nhiều chặng với những nội dung, hình thức phù hợp, nhằm thực hiện từng bước sự cải tiến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, không được nóng vội, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
2.Đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm nǎng, phát triển sản xuất, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng và từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội
Từ nhận thức đến thực tiễn, chúng ta ngày càng cảm nhận sâu sắc chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ V, nhưng do tư duy chưa được đổi mới nên việc triển khai vào cuộc sống còn chậm trễ.
Thực tiễn chứng minh chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là sự phản ánh đúng đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhằm giải phóng mọi tiềm nǎng kinh tế. Nǎng lực sản xuất còn nằm trong các cá nhân và đơn vị kinh tế chưa được sử dụng. Tuy nhiên, trong bước đi ban đầu còn nhiều hạn chế và cũng nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp mới trong đời sống kinh tế - xã hội, nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế quốc dân thật sự đã có bước phát triển rõ rệt. Vốn cất giữ được đưa ra sử dụng, sức lao động nhàn rỗi được huy động, tài nguyên đất rừng, sông biển được khai phá, trồng cấy, chǎn thả ... Tuy hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao, chưa được như ý muốn, nhưng thật sự đã góp phần làm tǎng thêm của cải xã hội, thu nhập và đời sống của nhân dân được cải thiện một bước.
Kiên quyết và dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từng bước xây dựng và thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong sản xuất - kinh doanh của các thành phần và tổ chức kinh tế. Tuy còn nhiều khó khǎn, không ít những vướng mắc do sự thiếu đồng bộ, thiếu kinh nghiệm vận hành cơ chế mới, nhưng từ ý nghĩa chiến lược của nền kinh tế đất nước đến sự trưởng thành trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các cơ sở, các tổ chức kinh tế, đều không thể phủ nhận tính đúng đắn và triển vọng mở ra của cơ chế mới. Cơ chế mới khuyến khích, đồng thời bắt buộc mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phải thật sự coi trọng chất lượng và hiệu quả, tǎng nǎng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm, giành được lợi thế trong cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, khắc phục sự trì trệ, thiếu nǎng động, vô trách nhiệm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một bước điều chỉnh lớn về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu với sự đổi mới nhiều chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, giải phóng mọi tiềm nǎng, sức sản xuất trong nông nghiệp, như chính sách khoán sản phẩm, xoá bỏ chính sách thu mua theo định giá hành chính, tự do lưu thông và điều hoà cung - cầu lương thực, thực phẩm trên phạm vi cả nước, v.v...
Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong những nǎm thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng cơ bản của Đại hội VI, việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết việc làm, có thêm 4,2 triệu lao động sản xuất - kinh doanh. Chính sách kinh tế mới đã động viên và phát huy khả nǎng của toàn xã hội, khuyến khích người lao động tǎng thu nhập và làm giàu chính đáng, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do nǎng suất và hiệu quả lao động, tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực trên, cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực mới chậm được phát hiện và xử lý kịp thời. Như chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, bất công xã hội tǎng lên v.v...
Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại đã thúc đẩy nhanh và mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư sản xuất - kinh doanh với nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới với nhiều hình thức và quy mô, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tǎng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đôla nǎm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla nǎm 1990. Từ nǎm 1989 có thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô, và một số mặt hàng khác. Tuy nhiên, thị trường quốc tế mở ra còn chậm và chưa vững chắc, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, có sức mạnh cạnh tranh. Thị trường xuất khẩu còn phải mở rộng, vươn lên mạnh mới đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và trả nợ.
Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đến các đơn vị cơ sở theo hướng mở rộng quyền tự chủ về sản xuất, kinh doanh, đã tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động. Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức nǎng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành sản xuất - kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Việc xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.
Cơ chế quản lý mới bước đầu được hình thành, nhưng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm cho sản xuất, kinh doanh đúng hướng. Cơ chế quản lý mới chậm được tổng kết để tiếp tục thực hiện đổi mới cho tốt hơn. Sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các cấp còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thực hiện có hiệu quả chức nǎng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.
Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị được thực hiện từng bước vững chắc đồng thời với đổi mới kinh tế. Thực chất đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Về kinh tế là mở rộng quyền tự chủ của cơ sở, phát huy tiềm nǎng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật. Các hoạt động vǎn hoá, thông tin, báo chí, xuất bản đã có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực.
Trong sinh hoạt đảng, hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân cũng như trong xã hội, đã có không khí sinh hoạt dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, khắc phục dần hiện tượng dân chủ hình thức. Nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật đã được nhân dân tham gia ý kiến trước khi quyết định.
Từ thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới, có thể nêu lên mấy kinh nghiệm bước đầu:
- Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Tự kiểm điểm, phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không phủ định những thành tựu đã đạt được. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà nhằm thực hiện tốt hơn bằng những nhận thức và việc làm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đổi mới đều phải lấy kết quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta để kiểm nghiệm, tránh giáo điều, sao chép kinh nghiệm của nước ngoài. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện của nước ta.
Triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Từ đổi mới nhận thức, quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách về đời sống và việc làm của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nhiệm vụ chính trị - xã hội của nước ta.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tǎng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, tuyên truyền, giáo dục v.v.. Chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy các tiềm nǎng sản xuất - kinh doanh trong xã hội. Song thực tế cho thấy cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi nảy sinh nhiều loại tệ nạn xã hội, những tiêu cực, nên phải thực hiện tốt vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh. Đổi mới vì sự thành công của chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, tránh suy nghĩ giản đơn, một chiều, đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì dao động, hoang mang, muốn quay lại những cách làm cũ. Coi trọng tổng kết thực tiễn, không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm cho công cuộc đổi mới ngày càng trở thành hoạt động tự giác và sáng tạo, bớt đi những sai lầm, bước đi quanh co, phức tạp.
Từ sau Đại hội lần thứ VI, nhờ sự phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân ta, công cuộc đổi mới vì sự thành công của chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định và tiếp tục phát huy những thành tựu và ưu điểm đã đạt được, đồng thời hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên một cách vững chắc.
IV.Kết quả
Kết quả của quá trình đổi mới ở nước ta thì hẳn không ai phải bàn cãi. Không chỉ nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế đều thừa nhận những thành tựu to lớn của Việt nam trong công cuộc Đổi Mới.
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên nhiều lĩnh vực: tăng trưởng kinh tế nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện, duy trì tình hình chính trị-xã hội ổn định, mở rộng quan hệ quốc tế. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng gấp hai lần trong 10 năm qua (1991-2000) với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm. Tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo. Việt Nam được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có chỉ số HDI cao.
Trưởng Đại diện UNDP tại Việt Nam Jordan Ryan đánh giá: ...Toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam. UNDP coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đượng đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Theo ông Ryan, từ sau Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (12/1986), đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dung, tiết kiệm, đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống con người Việt Nam; tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam có dịp sử dụng một cách hiệu quả tiềm năng của mình.
Ông Giôn Cớt, chuyên gia công ty tư vấn AT Kearney, nhận xét bất cứ người nào đến Việt Nam đều rất ấn tượng trước những thành tựu như tốc độ tăng trưởng GDP luôn đứng trong nhóm dẫn đầu ở Châu Á, GDP tính theo đầu người tăng từ 289 USD năm 1995 lên 490 USD năm 2003, cuối 2006 là khoảng trên 650 USD/người và mục tiêu là trong năm tới GDP tính theo đầu người là trên 1000 USD/người. Theo ông một phần đáng kể trong sự tăng trưởng đó chính là nhờ tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ông đưa ra một loạt các chỉ số như tỷ lệ người dân có điện thoại, được tiếp cận với nguồn nước sạch, năng lực bốc xếp đường biển, hàng không để chứng minh rằng cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong quá trình đổi mới...
Tuy nhiên bên cạnh đó,vẫn còn một số hạn chế.
Việc thực hiện kinh tế thị trường đã làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tăng ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội.
Nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh thấp ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyên.
Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn chiếm 76,2% (2002), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa.Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Một số thị trường vẫn chưa được thiết lập đầy đủ như: thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường lao động, khoa học công nghệ...Một số thể chế pháp luật, pháp luật và hành chính cần thiết cho nền kinh tế thị trường vẫn chưa được quy định hay đã được quy định nhưng không được thực hiện, gây ra tình trạng tham nhũng, cửa quyền..., làm chỉ số minh bạch của môi trường kinh doanh thấp.
Sau 20 năm Đổi Mới, tuy thế, đồng tiền Việt Nam vẫn là đồng tiền không có khả năng chuyển đổi và nhiều quốc gia, tổ chức vẫn không công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
V.Kết luận
Những thành tựu nổi bật mà công cuộc Đổi mới đạt được đã chứng minh đường lối Đổi mới của Đảng ta trong hơn 20 năm qua là hoàn toàn đúng đắn.Tuy nhiên để hoàn thành mục tiêu xa hơn thì chúng ta cần phải tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận, khách quan, tỉnh táo đánh giá các thành tích và sai lầm, nắm bắt những phát triểm mới từ trong lao động sáng tạo của nhân dân, trên mọi lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, liên kết các quan niệm thành hệ thống từ đó dự báo một mô hình đổi mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2007.
2.Đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,nhà xuất bản quân đội nhân dân 1996.
3.Website chính thức của Đảng cộng sản Việt Nam.
4.Website của Bộ ngoại giao Việt Nam.
Bài luận Lịch sử Đảng
Sinh viên lựa chọn 1 trong 5 tiểu luận sau:
1. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Giải quyết mối quan hệ giữa chống đế quốc và chống phong kiến trong thời kỳ 1930 - 1945 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Những biện pháp cơ bản để giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng giai đoạn 1945 - 1946.
4. Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, vận dụng sách lược thắng từng bước của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946.
5. Quá trình chỉ đạo đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ (1960 - 1973).
Cách viết:
I. Đặt vẫn đề:
- Lý do chọn đề tài
- Hướng giải quyết của đề tài.
II. Nội dung:
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
- Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ...
- Cơ sở thực tiễn
2. Nội dung cơ bản của vấn đề
3. Ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thực tiễn, liên hệ vận dụng trong thực tiễn
III. Kết luận
Câu 1: Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tác động đến sự biến chuyển về xã hội, các giai cấp và mâu thuẫn của xã hội Việt Nam như thế nào
trả lời:
1. Khái quát chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Khái quát chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp là:
chuyên chế về chính trị: Thực dân Pháp dùng chính sách chia để trị, thẳng tay đàn áp và thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam
bóc lột nặng nề về kinh tế: Thực dân Pháp thi hành chính sách độc quyền về kinh tế, Duy trì phương thức bóc lột phong kiến đồng thời áp dụng một cách hạn chế phương thức sản xuất TBCN. Tuy có bổ sung một số cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng các ngành kinh tế đều không được cạnh tranh với kinh tế chính quốc mà chỉ được bổ sung, phụ thuộc vào kinh tế Pháp.
kìm hãm nô dịch về văn hoá: thi hành chính sách ngu dân, nô dịch gây tâm lý tự ti vong bản, khuyến khích mê tín dị đoan, ngăn chặn mọi nền văn hoá tiến bộ vào Việt Nam
2. Tác động của chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối với sự biến chuyển về xã hội, giai cấp và mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX cuối thế kỷ XX
a. Chuyển biến về xã hội:
dưới ách thống trị và bóc lột của thực dân Pháp đất nước Việt Nam chuyển từ một nước phong kiến độc lập sang thuộc địa nửa phong kiến
b. Tình hình giai cấp ở Việt Nam cũng có những biến chuyển sâu sắc.
Giai cấp địa chủ phong kiến: giai cấp địa chủ phong kiến vốn là giai cấp thống trị nay cấu kết chặt chẽ với đế quốc, làm tay sai cho chúng, ra sức bóc lột nhân dân, kìm hãm lực lượng sản xuất trong nước. Đế quốc Pháp dựa vào giai cấp địa chủ phong kiến để áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam. Trong giai cấp địa chủ cũng bị phân hoá, một bộ phận làm tay sai cho thực dân pháp để duy trì quyền lợi của bản thân, một bộ phận tiếp tục truyền thống đấu tranh dân tộc, chống lại thực dân Pháp và triều đình bán nước.
Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân chiếm 90% dân số chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc phong kiến làm cho giai cấp nông dân Việt Nam bị đẩy nhanh vào con đường bần cùng hoá không tìm ra lối thoát. Khác với các giai cấp nông dân ở các nước khác giai cấp nông dân Việt Nam không đi theo giai cấp tư sản không chịu ảnh hưởng của tư tưởng cải lương tư sản. Giai cấp nông dân Việt Nam sẵn sàng đi theo giai cấp công nhân làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp nông dân cùng với giai cấp công nhân là hai lực lượng nòng cốt của cách mạng.
Giai cấp tư sản: hình thành và phát triển trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng vì đế quốc Pháp ra sức kìm hãm cho nên sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản: có lợi ích gắn liền với quyền lợi của thực dân Pháp và là tầng lớp phản động vì thế đây là đối tượng của cách mạng
Tư sản dân tộc: bị thực dân PHáp chèn ép, cạnh tranh về kinh tế nên thế lực kinh tế yếu. Địa vị kinh tế đó đã tạo ra cho giai cấp tư sản dân tộcViệt Nam tính chất hai mặt: một mặt họ có tinh thần chống để quốc, phong kiến, có khuynh hướng dân tộc dân chủ; mặt khác họ bạc nhược về chính trị, không có khả năng lãnh đạo cách mạng, chỉ tham gia vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong những điều kiện nhất định.
Giai cấp tiểu tư sản: mới xuất hiện, có địa vị kinh tế bấp bênh, thấp kém, luôn bị đe doạ thất nghiệp vì thế họ rất khát khao độc lập, hăng hái tham gia các phong trào yêu nước. Đặc biệt là tầng lớp trí thức, học sinh rất nhạy cảm với thời cuộc, khi được giác ngộ họ đóng vai trò quan trọng trong các phong trào đấu tranh cách mạng là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân: giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế (tính tổ chức, kỷ luật; sống tập trung; có ý thức quốc tế, có năng lực cách mạng triệt để) giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng đó là:
Phần lớn xuất thân từ nông dân nên có mối liên minh tự nhiên với giai cấp nông dân
Ra đời trước giai cấp tư sản
Chịu 3 tầng bóc lột: đế quốc, phong kiến, tư bản bản xứ
Giai cấp công nhân Việt Nam không chịu ảnh hưởng của các tư tưởng cải lương tư sản
Kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất, lớn lên được trực tiếp tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin nên họ sớm có ý thức đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, từng bước trở thành lực lượng chính trị độc lập
Do địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã hội của mình giai cấp công nhân Việt Nam là người duy nhất có khả năng đưa nhân dân Việt Nam lên làm chủ vận mệnh của mình, nắm trọn vẹn ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội để lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thắng lợi
Tuy nhiên trước khi đảng tiên phong ra đời giai cấp công nhân Việt Nam chưa có điều kiện chín muồi để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Phong trào công nhân đòi hỏi được giác ngộ về ý thức giai cấp và đòi hỏi có đội tiên phong lãnh đạo.s
c. Xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản đó là
Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp, mâu thuẫn này mới xuất hiện nhưng bao trùm, ngày càng gay gắt
Mâu thuẫn giữa tầng lớp nhân dân lao động với địa chủ phong kiến, tiếp tục tồn tại tuy không giống trước
Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau. Trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với Đế quốc thực dân Pháp là mâu thuẫn chủ yếu. độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu chủ yếu trước mắt, phản ánh nguyện vọng bức thiết, của tầng lớp, giai cấp trong dân tộc
Câu 2: Tại sao trong quá trình đi tìm đường cứu nước (1911-1920) Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường cách mạng vô sản.?
Trả lời:
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong hoàn cảnh phong trào yêu nước Việt Nam đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp không những làm cho dân tộc ta mất độc lập, mà còn kìm hãm đất nước ta trong vòng lạc hậu. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp càng trở nên gay gắt . Đánh đuổi thực dân Pháp dành lại độc lập cho nước nhà là một đòi hỏi bức thiết của dân tộc ta.
Ngay từ khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta, tuy phong trào yêu nước đã diễn ra mạnh mẽ: (phong trào chống Pháp ở Nam kỳ, phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ, Trung kỳ, phong trào Yên Thế ở Bắc kỳ) nhưng đều không giành được thắng lợi. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có một lực lượng có đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công. Chưa có một đường lối lãnh đạo phù hợp với thời đại mớ: thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Vấn đề đặt ra lúc này là phải tìm được con đường cứu nước khác với con đường phong kiến và con đường dân chủ tư sản. Đó là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Con đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn là con đường cứu nước đúng đắn phù hợp với yêu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Ngày 5/6/l911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Người sang Pháp, hướng về nơi có tư tưởng "Tự do, bình đẳng, Bác Ái" tiến bộ, có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Người đi nhiều nước ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ.. người muốn xem xét họ làm thế nào để trở về giúp đồng bào cứu nước.
Trong thời gian sống và làm việc ở nước ngoài người đã tham gia vào các hoạt động chính trị và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và lao động các nước, được tiếp xúc với các sự kiện lịch sử quan trọng.
Qua thực tiễn đấu tranh, qua nghiên cứu lý luận Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức được những chân lý về giai cấp, dân tộc, và thời đại. Người thấy rõ chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc của mọi đau khổ của giai cấp công nhân và nông dân thuộc địa cũng như ở chính quốc.
Người khâm phục cách mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp (1776) cách mạng tư sản Mỹ (1789) nhưng người cho rằng những cuộc cách mạng đó là những cuộc cách mạng không đến nơi. Người chỉ rõ cách mạnh Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng này được. Người vạch rõ bản chất của cách mạng tư sản: trong thì tước lục công nông ngoài thì áp bức thuộc địa. Người quan điểm: Chúng ta đã hy sinh để làm cách mạng thì phải làm cách mạng cho đến nơi tức là quyền lực thuộc về số đông nhân dân, ... thế mới khỏi phải hy sinh nhiều lần thì dân chúng mới được hạnh phúc.
Cách mạng tháng 10 thắng lợi là một sự kiện quan trọng, mở ra một thời đại mới thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng tháng 10 có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Người đã tìm ra ở đó những tư tưởng mới mở ra con đường giải phóng cho dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Tháng 7-1920 Bản " Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của V.I.Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc. Bản đề cương đó chỉ cho Người và cho cả đồng bào bị đạo đày đau khổ của Người cái cần thiết nhất là con đường tự giải phóng, con đường giành độc lập cho Tổ Quốc, tự do cho đồng bào. Người nói rằng " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
Như vậy trải qua môt cuộc hành trình đầy gian khổ, qua nhiều đại dương và lục địa, cuộc khảo sát vô cùng phong phú đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một tình cảm cách mạng sâu sắc, một lựa chọn đúng đắn con đưòng cứu nước, con đường cách mạng của Lênin. Từ đây người đã dứt khoát đi theo con đường đó.
Đó là con đường giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác lêni, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn bộ xã hội. Là con đường cứu nước đúng đắn nhất vì đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử thời đại.
Câu 8: Hội nghị lần thứ VIII (5-1941) của Ban chấp hành Trung ương Đảng do Nguyễn Ái quốc chủ trì đã đề ra những vấn đề cơ bản về chiến lược Cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta như thế nào?
Trả lời:
Hoàn cảnh lịch sử
1/9/1939 Phát xít Đức xâm lược Ba Lan
3/9/1939 Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ và lan ra khắp thế giới
ở Đông Dương thực dân Pháp thi hành chính sách thống trị thời chiến, vơ vét sức người sức của của nhân dân ta phục vụ cho chiến tranh.
Năm 1940 Phát xít Nhật nhày vào xâm lược Đông Dương, Nhật-Pháp cấu kết bóc lột, đàn áp nhân dân ta.
Chiến tranh và chính sách áp bức bóc lột đàn áp dã man của Pháp-Nhật làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc thực dân và bọn tay sai trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Yêu cầu bức thiết của nhân dân ta lúc này không chỉ là đòi quyền dân sinh dân chủ nữa mà còn là đòi quyền độc lập dân tộc.
Phân tích tình hình thế giới và trong nước trong chiến tranh. Hội nghị trung ương lần thứ VIII(5-1941) đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản của chiến lược giải phóng dân tộc ở nước ta
Những vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta
Thứ 1: cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp là giải phóng dân tộc
hội nghị xác định: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và trong giai đoạn hiện tại...nếu không đánh đuổi được Pháp Nhật thì nhân dân ta sẽ chịu kiếp sống trâu ngựa suốt đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Hội nghị còn xác định cuộc Cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp là dân tộc giải phóng, do đó tính chất của cách mạng Đông Dương là Cách mạng giải phóng dân tộc.
thứ 2: tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc.
Tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Đánh Pháp, đuổi Nhật, giành quyền tự do độc lập cho các dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đối với dân tộc Việt Nam sau khi đánh đuổi được PHáp Nhật sẽ lập ra nhà nước Việt Nam mới theo chế độ cộng hoà.
thứ 3: thành lập mặt trận Việt Minh để tập hợp sức mạnh của mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội
Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh để có sức mạnh hiệu triệu đồng bào trong cả nước. Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp trong các hội cứu quốc.
thứ 4: chuyển hướng từ đấu tranh chính trị công khai và nửa công khai sang đấu tranh chính trị bí mật, tích cực chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang
Chuyển hướng hình thức đấu tranh từ hình thức đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp đòi quyền lợi dân chủ dân sinh sang đấu tranh chính trị bí mật bất hợp pháp, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta, phải ra sức chuẩn bị lực lượng trong toàn quốc, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa trong cả nước
Ý nghĩa lịch sử
Bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, về xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
Chuyển hướng chiến lược cách mạng từ "Tư Sản dân Quyền" mà nội dung cơ bản là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc coi đó là nhiệm vụ chính cốt của Đông Dương. Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương trong giai đoạn đầu là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh hơn tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng Sản. Đây là một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng về lãnh đạo cách mạng và xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Cùng với hội nghị trung ương tháng 11-1939, Nghị quyết hội nghị trung ương VIII (5-1941) có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945.
Hội nghị Trung ương (5-1941) có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng mục tiêu chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra những chủ trương sáng tạo nhằm thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với nghị quyết Trung ương tháng 11-1939 Hội nghị trung ương 5-1941 có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945.
Câu 11: phân tích ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng tháng 8-1945?
Trả lời:
Ý nghĩa lịch sử
1. Cách mạng tháng tám là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu một biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc ta. Nó đập tan sự thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật nhào chế độ quân chủ hàng nghìn năm và ách thống trị của Phát xít Nhật. Lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do, đúng lên làm chủ vận mệnh của mình.
2. Với thắng lợi của cách mạng tháng 8 Đảng và nhân dân ta đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám khẳng định cuộc các mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Mác Lênin lãnh đạo, có đường lối đúng đắn lãnh đạo có thể giành thắng lợi
3. Bổ sung nhiều kinh nghiẹm lịch sử góp phần xây dựng kho tàng lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các nước thuộc địa nửa phong kiến. Để lại nhiều kinh nghiệm, và thế lực mới cho cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp và Mỹ sau này
4. Đánh thẳng vào khâu yếu nhất của chủ nghĩa thực dân. Dự báo trước sự sụp đổ trong tương lai của chủ nghĩa thực dân. Cổ vũ cho phong trào đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa.
Bài học kinh nghiệm
1. 1.Nắm chắc ngọn cờ độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội, kịp thời thay đổi chiến lược giải phóng dân tộc. Coi nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống Đế quốc
2. 2. Tăng cường khối liên minh giữa giai cấp nông dân, giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức để Tranh thủ được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh to lớn của đại đoàn kết dân tộc
3. 3. Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ của kẻ thù nhằm cô lập đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động, tranh thủ hoặc trung lập được những phần tử lừng chừng làm cho cách mạng có thêm lực lượng dự bị đông đảo, giành được thắng lợi nhanh gọn.
4. 4. Không bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cải lương tư sản. Có chủ trương nhất quán là Dùng bạo lực cách mạng. Biết dùng bạo lực cách mạng đúng thời điểm để đập tan bộ máy nhà nước cũ xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
5. 5.Chớp thời cơ. Biết phân tích dự đoán chính xác các biến chuyển trên thế giới và trong nước để đưa ra quyết định tổng nổi dậy đúng thời cơ nhằm giành thắng lợi nhanh chóng, hạn chế thương vong.
6. 6. Xây dựng đảng vững mạnh, thống nhất ý chí trung thành vô hạn với đân tộc và giai cấp.
Câu 12: Trình bày hoàn cảnh nước ta sau cách mạng 8-1945. và phân tích nội dung bản chỉ thị kháng chiến toàn quốc tháng 11-1945.
Trả lời:
Hoàn cảnh lịch sử
Thuận lợi:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai với thắng lợi của nhà nước Xô Viết ,Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống chủ nghĩa được lan rộng ra trên khắp thế giới từ Châu Á, Châu Âu, và Châu Phi.
Thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước ta. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ nay đã được giải phóng được hưởng quyền tự do, bình đẳng có quyền tự quyết định số mệnh của mình.
Khó khăn:
Nước ta vẫn trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Sau chiến tranh nhiều cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế lạc hậu. Năm 1945 xảy ra nạn đói làm cho hơn 2 triệu người chết. Rồi lũ lụt xảy ra làm cho 80% ruộng đất canh tác bị bỏ hoang. Tình trạng dân trí rất thấp, hơn 95% không biết chữ
Ở miền Bắc; Quân Tưởng cùng bọn Việt Quốc Việt Cách điên cuồng chống phá nhà nước cách mạng.
Ở miền Nam: 20 triệu quân Anh nhảy vào với cớ giải giáp quân phát xít Nhật với âm mưu tiếp tay cho Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ 2.
Trước những diễn biến hết sức bất lợi. Đảng đã ra bản chỉ thị toàn quốc kháng chiến kiến quốc: "Tổ quốc lâm nguy! Tình thế nước ta như ngàn cân treo sợi tóc"
Nội dung cơ bản của bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc tháng 11-1945
1. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng ở Đông dương hiện nay vẫn là giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu lúc này là "dân tộc trên hết tổ quốc trên hết"
2. kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm lược.
3. Lực lượng chủ yếu của cách mạng là giai cấp công nhân
4. Nhiệm vụ bao trùm của cách mạng giải phóng dân tộc là xây dựng bà bảo vệ các thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ cơ bản trước mắt của toàn dân tộc là củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
5. Chỉ thị vạch ra các biện pháp để thực hiện nhiệm vụ trên là
Về chính trị: tổ chức bầu cử quốc hội, lập ra hiến pháp. Trừng trị những kẻ phản động. củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến.
về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc " Bình đẳng tương trợ " thi hành chính sách ngoại giao hoà bình, thêm bạn bớt thù. Đối với quân Tưởng thực hiện khẩu hiệu Hoa Việt thân thiện
Bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc tháng 11 năm 1945 đã đưa ra được những chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn trong thời kỳ đất nước mới giành được chính quyền, đưa nước ta vượt qua tình thế " ngàn cân treo sợi tóc."
Câu 14: Phân tích chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong toàn quốc (12-1946) và nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng?
Trả lời
1. Đảng quyết định phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
8-1945 đến 12-1946: Đảng ta đã đề ra các chủ trương về các mặt kinh tế, chính trị, tăng cường đoàn kết toàn dân, giữ vững chính quyền.
từ 9-1945 đến 3-1946 Đảng chủ trương hoà hoãn với quân Tưởng để chống Pháp. Và hoà hoãn với Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về nước bằng việc ký hiệp định sơ bộ 6-3-1946, đàm phán tại hội nghị phôngtennơblô , và ký tạm ước 14-9-1946
Thực dân Pháp ngang nhiên vi phạm các hiệp ước đã ký.
7-12 đến 15-12 năm 1946 Chúng chiếm Tiên Yên (Quảng Ninh) rồi Hải Dương, Đà Nẵng
17-12 Chúng gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh
18-12 Chúng gửi tối hậu thư cho đòi chiếm đóng Sở Tài chính giải tán cận vệ. Đòi kiểm soát tình hình Hà Nội
Trước những vi phạm trắng trợn của Thực dân Pháp, ta không thể nhựợng bộ hơn được nữa vì nhượng bộ lúc này đồng nghĩa với việc mất nước quay trở lại cuộc đời nô lệ.
Tối 19-12-1946 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
19-12-1946 Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. 22-12-1946 Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến nêu một cách khái quát đường lối kháng chiến. Nội dung ấy được đồng chí Trường Chinh bổ sung phát triển trong tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" xuất bản năm 1947.
Nội dung cơ bản của Đường lối kháng chiến thể hiện trong các văn kiện trên là:
Đường lối
Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là Thực Dân Pháp đang dùng vũ lực hòng cướp lại nước ta, giành độc lập tự do, hoàn thành nhiệm vụ giải phóngdân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
Cuộc Kháng chiến chống Pháp là tiếp tục của cuộc cách mạng tháng 8 nên nó có tính chất giải phóng dân tộc. Lúc này nhiệm vụ giải phóng là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất
Cuộc kháng chiến chống Pháplà cuộc cách mạng trường kỳ gian khổ, là cuộc kháng chiến Toàn dân toàn diện, dựa vào sức mình là chính
Cuộc kháng chiến chống Pháp còn mang tính chất dân chủ mới. Trong quá trình kháng chiến phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và thực chất của vấn đề dân chủ lúc này là người cày có ruộng
Cụ thể
Về chính trị: Củng cố xây dựng mối đoàn kết với 2 dân tộc anh em Lào và CamPuChia, tranh thủ sự ủng hộ của Nhân dân Pháp, các dân tộc, tổ chức yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Tích cực tiến công địch trên mặt trận ngoại giao
Về quân sự: cuộc kháng chiến trải qua 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công triệt để dùng du kích vận động chiến, tiến công địch khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng, tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự
Về Văn hoá: đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân xâm lược của thực dân Pháp, xoá nạn mù chữ. Vận động các nhà văn hoá tham gia kháng chiến
Về kinh tế: kết hợp vừa kháng chiến vừa sản xuất.,Toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo hướng " vừa kháng chiến vừa kiến quốc" ra sức phá kinh tế địch không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Ta chủ trương đánh lâu dài để chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế, chỗ yếu ngày càng bộc lộ. Chỗ yếu của ta được khắc phục, chỗ mạnh của ta được phát huy.
Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực toàn dân, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào các điều kiện thiên thời địa lợi nhân hoà, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để đánh thắng kẻ thù.
3.Ý nghĩa
Đường lối kháng chiến của Đảng ta là ngọn cờ hướng đạo quân và dân ta chiến đấu chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ dẫn đến chiến công Điện Biên Phủ (1954).
Câu 20: PHân tích đặc điểm nước ta sau khi hoà bình lập lại (7-1954) và trình bày nội dung và phân tích đường lối chiến lược cách mạng Việt Nam do Đại hội lần thứ III của Đảng tháng 9 năm 1960 vạch ra.
Trả lời:
1. Đặc điểm tình hình nước ta sau khi hoà bình lập lại (7-1954)
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến thắng lợi của hội nghị Giơ-ne-vơ (1954) về Đông Dương, công nhận chủ quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng.
Ở miền Nam, Mỹ đã hất cẳng Pháp hòng biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, Lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông-Nam Á.
Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, có hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc đã hoàn thành xong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam, về cơ bản xã hội miền Nam là thuộc địa kiểu mới.
2.Nội dung cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam của Đảng.
Sau khi chỉ rõ mâu thuẫn của từng miền và mâu thuẫn chung của cả nước. Đại hội lần thứ III của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này là: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Châu Á và thế giới.
Đại hội vạch rõ chiến lược cách mạng ở hai miền là:
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước
Vị trí nhiệm vụ cụ thể của cách mạng mỗi miền.
Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng chung của cả nước, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất đất nước, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ sau tháng 5-1954 đến 5-1975 chứng minh đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền của Đảng Cộng Sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn sáng tạo, thể hiện tính nhất quán của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Một Đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời chia cắt làm đôi, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau, đó cũng là đặc diểm lớn nhát và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ sau 7-1954 đến 5-1975.
Câu 27+28: Đại hội lần thứ 8 (6-1996) đã đánh giá thành tựu khuyết điểm và kinh nghiệm của 10 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới như thế nào?
Trả lời:
Đánh giá thành tựu của 10 năm đổi mới
Trong những năm 1986-1991 nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lạm phát hoành hành. Trước tình hình đó đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 đã đánh giá tình hình và đưa ra giải pháp phát triển nền kinh tế.
Sau đại hội lần thứ 7 (1991) , nhất là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, những thử thách đối với chúng ta càng thêm gay gắt.. Vì thế Đại hội đã thông qua các chiến lược, sách lược phù hợp để thúc đẩy kinh tế phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 (6-1996) đã nghiêm túc đánh giá các thành quả cũng như khuyết điểm trong quá trình 10 năm thực hiện đổi mới
Chúng ta đã thực hiện vuợt chỉ tiêu nhiều kế hoạch 5 năm.
Về kinh tế: Điển hình trong 5 năm 1991-1995 nhịp độ Tăng trưởng bình quân về tổng sản sản phẩm trong nước là GDP là hơn 8 %. về sản xuất công nghiệp tăng hơn 13 %, nền nông nghiệp tăng hơn 4 %, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng hơn 20%. đầu tư cơ bản bằng nguồn vốn trong và ngoài nước tăng năm 1990 là 15,8 %GDP, sang năm 1995 là hơn 27%GDP . Nước ta đã bước đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được bình quân 2 triệu tấn gạo.. Lạm phát giảm từ hơn 67% xuống còn hơn 12%. Đây là những kết quả đáng mừng.
Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trưòng có sự định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng
Về văn hoá xã hội : trung bình 1 năm có thêm 1 triệu lao động có việc làm, đời sống văn hoá của nhân dân được nâng cao, số gia đình có thu nhập trung bình và số hộ giàu ngày một tăng lên.
Trình độ dân chí được tăng lên, mức độ hưởng thụ văn hoá của nhân dân được tăng lên. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của dất nước, vào Đàng và nhà nước tăng lên
Về củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững chính trị,
ĐẢng ta đã chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo bảo vệ tổ quổc trong tình hình mới. thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh trính chị và trật tự xã hội được tăng cường
Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị
Trên cơ sở cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hoá đường lối trên các lĩnh vực, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong toàn xã hội. Đã ban hành hiến pháp năm 1922, sửa đổi và bổ sung ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể có nhiều tiến bộ hơn
Về ngoại giao: thoát ra khỏi bao vây cấm vận về kinh tế, mở rộng quan hệ ngoại giao với hơn 160 quốc gia
Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới. Nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước
Đánh giá khuyết điểm 5 khuyết điểm
Đất nước ta còn nghèo và kém phát triển.
Xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề cần giải quyết
Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng và buông lỏng
Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu
Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm
Bài học kinh nghiệm của 10 năm đổi mới
6 bài học lớn
Nắm chắc ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. ĐẢng ta Lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi chiến lược, sách lược đảm bảo cho mọi thành công.
Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhậy cảm nắm bắt cái mới
Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đổi mới chính trị phải phù hợp với đổi mới kinh tế.
Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi thủ đoạn lợi dụng "dân chủ", "nhân quyền" nhằm gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. kHông chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Ngoại giao: mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên cơ sở hợp tác bình đẳng, hữu nghị hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Do đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại phải dựa trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, giữgìn, phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tăng cường vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng Công Sản Việt Nam, Phát huy tính dân chủ, tăng cường công tác phê bình và tự phê bình, xây dựng đảng ta thành một đảng trong sạch vững mạnh. tích cực đề phòng mọi âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng ĐẢng là nhiệm vụ then chốt. ĐẢng ta phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tình tiền phong gương mẫu của đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đối với một Đảng cộng sản cầm quyền hoạt động trong nền kinh tế thị trường lại có sự tác động của những thủ đoạn diễn biến hoà bình của các thế lực từ bên ngoài thì việc luôn luôn cảnh giác với hai nguy cơ là chệch hướng và tha hoá biến chất của đội ngũ dẫn đến xa dân phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên và có ý nghĩa sống còn đối với vai trò lãnh đạo của ĐẢng.
Câu 30: Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của bài học kinh nghiệm nắm vững ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội ?
Trả lời:
I. Nội dung bài học kinh nghiệm
a. Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc có 2 mối quan hệ trọng tâm đó là
kết hợp đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động bị áp bức, bóc lột.
Giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
b. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo linh hoạt bài học nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ Bác Hồ đi tìm đường cứu nước 1911-1930 và chuẩn bị vận động thành lập đảng
cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sau khi đọc bản Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của LêNin Hồ Chí Minh đã chỉ rõ con đường duy nhất để giải phóng toàn bộ dân tộc Việt Nam ra khỏi ách nô lệ chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản. Và chỉ có chủ nghĩa xã hội vã chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức bóc lột và những người lao động trên toàn thế giới ra khỏi ách nô lệ.
Trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, luận cương chính trị đều chỉ rõ cách mạng Việt Nam, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Múc đích cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam
Thời kỳ cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 1930-1945
Trong 15 năm ngắn ngủi kể từ khi được thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đã dành được thắng lợi to lớn đó là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tranh thủ thời cơ lật đổ ách thống trị của Thực dân Pháp khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cách mạng xã hội chủ nghĩa mới là phương hướng triển vọng để tiến lên của cách mạng Việt Nam.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo được đặt trong phương hướng triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ quy định tính triệt để của cuộc cách mạng đó. Là tiền đề vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều kiện cơ bản để thực hiện cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Nam (1945-1975)
Trước hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền. Miền Nam vẫn nằm trong ách thống trị của Đế quốc Mỹ và quân đội Việt Nam cộng Hoà. Đảng ta đã quyết định tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam đồng thời tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có tác dụng quyết định đến thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp thống nhất đất nước.Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam có tác dụng quyết định sự nghiệp đánh đuổi đế quốc Mỹ và quân đội nguỵ quền tay sai giải phóng miền Nam
Nhờ kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và xác định đúng vị trí nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền, Đảng ta đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trong xây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc đã bảo vệ thành công thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn chi viện đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường lớn là Miền Nam tiến tới cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 hoàn thành sự nghiệp thống nhất tổ quốc, Non sông thu về một mối.
Thời kỳ cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ 1975 cho đến nay.
Sau khi hoàn thành thống nhất đất nước, Nước ta bước vào thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu bức thiết lúc này là khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất để đưa đời sống nhân dân đến ấm no hạnh phúc.
Bài học nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn còn nguyên giá trị. Có xây dựng và bảo vệ tốt những thành quả cách mạng thì mới giữ vững độc lập dân tộc từ đó tạo ra cơ sở vật chất để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác khi đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội mới có thể thực hiện được quyền bình đẳng trong phân phối sản phẩm, từ đó đảm bảo cho các nhu cầu khác của con người là điều kiện để bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
II. ý nghĩa của bài học nắm vững ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội
từ khi có ĐẢng đường lối đó Là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam
Với đường lối cơ bản này, ĐẢng ta đã giải quyết thắng lợi được một loạt các vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cho phép Đảng ta khơi dậy được sức mạnh của quá khứ, của hiện tại, của tương lai, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh
Câu 32: chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trả lời:
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phát huy truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản chống Pháp rất sôi nổi. Nhưng rút cuộc các phong trào đó đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là các giai cấp lãnh đạo hoặc không đủ tư cách hoặc đã hết vai trò lịch sử.
Đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nạm. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước, chấm dứt thời kỳ đấu tranh tự phát chyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Đảng ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mở ra thời kỳ cách mạng Việt Nam đấu tranh dưới sự lãnh đạo của ĐẢng cộng sản Việt Nam có đường lối đúng đắn, và khoa học, phù hợp với quy luật của nước ta trong thời đại mới
Ra đời và phát triển mới được hơn 70 năm nhưng Đảng Cộng SẢn Việt Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
được thành lập năm 1930, ngay sau đó đảng đã tổ chức được cao trào cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931.
thoát khỏi tình trạng thoái trào của cách mạng 1932-1935, ĐẢng tập hợp lãnh đạo quần chúng nhân dân đòi quyền dân sinh dân chủ, đòi cơm áo, hoà bình, chống phát xít, chống chiến tranh 1936-1939.
Nhờ giác quan chính trị nhạy bén, biết chớp thời cơ, và được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng tháng 8-1945 đánh đổ ách thống trị của thực dân PHáp, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thắng lợi đã đưa dân tộc ta vào một kỷ nguyên mới kỷ nguyên của độc lập tự do.
Trong những năm 1945-1954, ĐẢng lãnh đạo nhân dân ta chống thù trong giặc ngoài, khắc phục khó khăn của đất nước để giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, Đảng ta đã kiên cường lãnh đạo quân và dân kháng chiến chống Pháp. Mà đỉnh cao là thắng lợi Điện Biên PHủ đã đánh dấu thất bại hoàn toàn của Thực Dân Pháp
1954-1975 Mỹ nhảy vào thay chân PHáp, chúng thực hiện rất nhiều kiểu chiến tranh hiện đại: Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hoá chiến tranh, chiến tranh đặc biệt nhưng ĐẢng ta vẫn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đồng thời tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Dưới sự lãnh đạo của ĐẢng, miền Bắc đã bảo vệ thành công thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn chi viện đầy đủ sức người, sức của cho tiền tuyến lớn là Miền Nam. Chính vì có đường lối nhất quán ĐẢng ta đã kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mà đỉnh cao là cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân năm 1975 hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước non sông thu về một mối.
từ 1975 đến nay, Đất nước bước vào thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế thì lạc hậu, công nghiệp chiểm tỷ trọng nhỏ chủ yếu là nông nghiệp. Nhưng nhờ có những chiến lược và sách lược đúng đắn Đảng ta đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng lạm phát, phát triển kinh tế không thua kém những nước trong khu vực Đông Nam Á.
ĐẢng cộng sản Việt Nam luôn đứng ở vị trí trung tâm của các sự kiện lịch sử vĩ đại. Đảng là nhân tố cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam bởi vì
Đảng là đội tiền phong đầu tiên, là một tổ chức có kỷ luật và là một tổ chức cao cấp nhất của giai cấp công nhân.
ĐẢng cộng sản Việt Nam là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao cấp nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam
ĐẢng là người đại diện đầy đủ cho quyền lợi của giai cấp công nhân và đảm bảo các quyền tự do bình đẳng cho đông đảo tầng lớp nhân dân lao động
Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ nhất lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. ĐẢng lấy phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân làm nhiệm vụ cao cả nhất của mình.
Đảng có tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, và chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng cho mọi chiến lược sách lược của mình.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động nhằm giải quyết kịp thời và đúng đắn những vấn đề về chiến lược sách lược của cách mạng nước ta.
Đảng có mối quan hệ gần gũi, chặt chẽ với quần chúng nhân dân, đây là yêu cầu chủ yếu để ĐẨng được quần chúng nhân dân tín nhiệm.
ĐẢng có mối liên hệ máu thịt với quần chúng. Đây là tiêu chuẩn cơ bản của một đảng cách mạng chân chính.
Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, kỷ luật nghiêm minh, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, đoàn kết thống nhất ĐẢng, chống tập trung quan liêu, độc đoán chuyên quyền, chia rẽ bè phái trong Đảng.
Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức kỷ luật nghiêm minh, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhằm phát huy dân chủ,tăng cường kỷ luật, đoàn kết thống nhất. Đảng, chống tập trung quan liêu, độc đoán chia rẽ bè phái trong đảng..
Tuy nhiên bên cạnh những thành công Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm khuyết điểm nhất là trong thời kỳ trước đổi mới, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí. Kéo theo đó là chậm trễ trong việc nhận khuyết điểm và sửa chữa đã làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Yêu cầu bức thiết lúc này của quần chúng nhân dân là Đảng ta phải kịp thời đổi mới những nội dung sau:
Đổi mới các chính sách, chiến lược, sách lược đây là vấn đề cốt lõi trong xây dựng chỉnh đốn đảng
Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra cương lĩnh đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn, có căn cứ khoa học phù hợp với thực tiễn nước ta. Đây là vấn đề cơ bản cốt lõi nhất và cũng là lý do tồn tại của Đảng.
Cần đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của ĐẢng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.
Đẩy mạnh công tác phê bình và tự phê bình. Tăng cường dân chủ trong đảng.
PHải phát huy dân chủ trong đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng
Làm trong sạch hàng ngũ Đảng Viên
Làm trong sạch đội ngũ đảng viên, củng cố và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.
Nâng cao phẩm chất năng lực của cán bộ ĐẢng Viên, vì cán bộ đảng viên là gốc rễ của ĐẢng
Đổi mới công tác cán bộ của ĐẢng, vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc...công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém."
Bàn thêm về vấn đề thời cơ trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 diễn ra và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước trong vòng hai tuần (từ 14-8 đến ngày 28-8-1945). Đã có hàng nghìn bài viết về công trình vĩ đại này, trong đó đề cập đến quá trình chuẩn bị, diễn biến, kết quả cũng như nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa, ảnh hưởng của cuộc tổng khởi nghĩa. Về nguyên nhân thắng lợi, hầu hết các nhà nguyên cứu trong nước và quốc tế đều cho rằng, nguyên nhân chủ quan (bên trong) đóng vai trò quyết định. Đó là một sự thật vững chắc không thể bát bỏ. Tuy nhiên, cũng còn có ý nghĩa của một vài học giả nước ngoài cho rằng, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công là do "ăn may", do lúc đó "tại Việt Nam tồn tại một khoảng trống quyền lực", nên Đảng Cộng sản Đông Dương và mặt trận Việt Minh đã dể dàng lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền.
Thực tế, do đây là một cuộc cách mạng có quá trình chuẩn bị trong một thời gian dài, diễn ra trong một không gian rộng, trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động lớn, thành quả của cuộc cách mạng có ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam tại thời điểm đó và về sau; do chưa có đầy đủ thông tin cần thiết,.. nên việc nhìn nhận, đánh giá có những điểm còn khác nhau, là điều không khó giải thích.
Cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm rất đặc biệt: Pháp chạy, Nhật hàng, chính phủ thân Nhật tê liệt, triều đình phong kiến Nhà Nguyễn bất lực, trong khi đó quân đồng minh chưa vào. Đấy là nhìn về mặt hình thức. Còn trong thực tế, Phát - xít Nhật tuy đại bại trước Hồng quân Liên Xô tại Mãn Châu, ở Việt Nam và Đông Dương thì tinh thần bạc nhược, mất sức chiến đấu, song vẫn là lực lượng đông, đang kiểm soát tình hình chính thức từ Tokyô, nên đội quân này vẫn có thể sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào.
Nhà Việt Nam học người Nauy Xtên Tôn netxơn, trong cuốn sách nghiên cứu về Việt Nam Cách mạng Việt Nam năm 1945 - Rudơven, Hồ Chí Minh và Đờ Gôn trong một thế giới chiến tranh, ở Lời giới thiệu đã viết: "Mục đích của công trình nghiên cứu này là... một cuộc thăm dò có hệ thống các nguyên nhân của cách mạng, cuộc thăm dò sẽ đi theo hai hướng chính, mỗi hướng sẽ đi theo một trong hia đường dây chủ yếu: Một dẫn tới tình trạng chân không quyền lực; một dẫn tới việc giành quyền lực ". Theo X. Tônnetxơn, "Tình trạng chân không quyền lực có thể được mô tả chính xác như là một sự vắng mặt của các lực lượng Pháp và Đồng Minh, sự thiếu quyết tq6m của người Nhật trong việc nắm giữ quyền kiểm soát cho tới khi Đồng Minh tới và sự bất lực đối với các quan lại và chính quyền của họ dể có thể tự tồn tại được ". Vì thế, ông nhấn mạnh: " Khoảng trống quyền lực sau sự đầu hàng của Nhật ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn,... là chủ yếu trong bất cứ sự giải thích nào về cách mạng Việt nam"(1).
Để đánh giá về nhận định nêu trên của X.Tônnetxơn, chúng ta cần xét mấy điểm sau:
Thứ nhất các lực lượng vũ trang và quân dân Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa như thế nào và tận dụng thời cơ "có một không hai" đưa lại để giành chính quyền ra sao?
Tháng 9 - 1939, chiến thanh Thế giới lần 2 nổ ra. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát-xit Đức chiếm đống. Trước tình hình này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, đã nhận định: "Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Tả phải tìm cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng ". Đến tháng 9 - 1940, mặc dù lực lượng phát xít đang chiếm ưu thế, quân Nhật đã kéo vào Việt Nam, Người vẫn dự đoán: "Đồng Minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chầy sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập"
Là người có tầm nhìn chiến lược, có dự cảm thiên tài, lãnh tựu Nguyễn Ái Quốc cho rằng, thời cơ giành độc lập đã đến với vận mệnh dân tộc. Người quyết định trở về nước đầu năm 1941, sau gần 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 5 - 1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì, đã khẳng định: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được "(2). Hội nghị còn xác định những vấn đề cụ thể của cuộc khởi nghĩa; dự kiến những điều kiện để khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi, trong đó có điều kiện phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương,..
Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm mục đích giành độc lập dân tộc. tại Hội nghị này, Đảng ta đã đề ra những chính sách và biện pháp cụ thể xây dựng chính trị, lực lượng vũ trang cơ sở quần chúng và căn cứ địa cách mạng, coi đó là điều kiện chủ yếu, quyết định tạo tiền đề cách mạng, để khi có thời cơ thuận lợi từ bên ngoài đưa lại, Tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 7-5- 1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa đổi khởi nghĩa, trong đó nhận định thời cơ thuận lợi cho nhấn dân ta giành chính quyền sắp tới, "Song thời cơ không phải tự nó đến, một phần lớn do ta sửa soạn nó, thúc đẩy nó"(3).
Tháng 10-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi Thư kêu gọi đồng bào toàn quốc. Trong thư, Người chỉ rõ: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng Minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh"(4).
Ngày 9-3 -1945, phát- xit Nhật đảo chính thực dân Pháp, độc chiếm Việt Nam và Đông Dương. Ngày 12-3, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của ủa chúng ta. về vấn đề thời cơ, Chỉ thị cho rằng, "Mặc dù tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa được chín muồi."(5) Vì thế, phải phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách, cho đến những hình thức cao như biểu tình, thị uy võ trang, du kích, sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện (ví dụ khi quân Đồng Minh bám chắc và tiến mạnh trên nước ta)"(6). Chỉ thị còn xác định:"ngay bây giờ phát động du kích, chiếm căn ứ địa, duy trì và mở rộng đấu tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng Minh một cách tích cực"(7). "Song dù sao ta không thể đem việc quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện.... nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần,thì khi ấy dù quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc Tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi"(8).
Chủ trương của Đảng đã được các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân quán triệt trong việc tổ chức các đội vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng căn cứ địa, lập khu giải phóng, thực hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở một số địa phương. Những kết quả đạt được trong quá trình vận động cách mạng, chuẩn bị lực lượng, đã chủ động góp phần tạo ra thời cơ, tình tiết cách mạng trực tiếp, chứ không do điều kiện khách quan (bên ngoài) quyết định.
Tháng 5-1945, phát-xit Đức đầu hàng Đồng Minh. Đầu tháng 8-1945, đạo quân chủ lực Quan Đông của Nhật, bị Liên Xô đánh cho tơi tả, khiến Nhật phải tính chuyện đầu hàng. Chớp thời cơ đó, ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng, hợp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh: Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi người đều phải nhằm vào những việc chính. Thống nhất - thống nhất về mọi phương tiện quân sự, chính trị, hành động, không bỏ lỡ cơ hội. Ngay trong đêm 13-8, Uỷ ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: "Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta"!(9).
Trong giờ phút khẩn trương và quyết định này, khi thời cơ lớn đã xu61t hiện, lãnh tụ Hồ Chí mInh khẳng định quyết tâm: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
Quốc dân đại hội họp tại Tân Trào trong hai ngày 16 đến 17-8-1945, sau khi tán thành và thông qua quyết định Tổng khởi nghĩa, cũng nhấn mạnh: "Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập". Nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải luôn khéo và kiên quyết. "Khôn khéo" để tránh những sự không lợi cho ta. "Kiên quyết để giành được nền độc lập. Một dân tộc quyết tâm và nhất trí đòi quyền độc lập thì nhất định được độc lập"(10). Trong thư kêu gọi đồng bào sau khi Uỷ ban dân tộc giải phóng việt Nam được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh đất nước đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức mình mà tự giải phóng cho ta ...Chúng ta không thể chậm trễ"(11).
Phần nêu khái quát trên cho thấy, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa của Đàng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và toàn dân ta đã diễn ra trong nhiều năm, luôn quán triệt phương châm "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Đây là một phương châm đúng đắn, sáng suốt, coi nội lực, nhân tố chủ quan là quyết định, hoàn toàn không dựa vào sự "ăn may" từ nhân tố khách quan (bên ngoài) đưa lại.
Thứ hai, trong thời gian diễn ra cuộc Tổng khởi nghĩa (từ ngày 14 đến 28-8-1945), trên lãnh thổ Việt Nam không hề tồn tại một khoảng trống quyền lực nào. Trước hết, đối với quan Nhật. Như trên đã trình bày, mặc dù Nhật Hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng vào ngày 15-8-1945, nhưng trên thực tế, quân Nhật ở Đông Dương chưa nhận được lệnh đầu hàng, vẫn thực hiện quyền kiểm soát trật tự, an ninh. Ông Lê Trọng Nghĩa, nguyên Uỷ viên Uỷ ban nhân dân cách mạng Bắc Bộ, người được cử đi gặp trực tiếp đại sứ Nhật bản Tsukamôtô tối ngày 19-8, cho biết: "Phải đến ngày 21, tập đoàn quân 38 của Nhật, với hơn một vạn quân đóng giữ một vạn quân quanh Hà Nội, mới nhận được lệnh ngừng bắn. Vì vậy, trước đó, trong những ngày 17,18,19, quân đội Nhật vẫn có đủ lý do để nổ súng can thiệp, hoặc để tự vệ, hoặc để gi an ninh,... mà họ chịu trách nhiệm cho đến khi quân đội Đồng Minh đến tiếp quản "(12). Ông Nghĩa, trong bài viết của mình, cũng dẫn ra tài liệu của Nhật về bức điện từ Hà Nội gửi vào Tôkyô ngày 19, rằng phía Nhật đã thực hiện một "cuộc giàn xếp thoả thuận" với chính phủ (Trần Trông Kim- TG) nhưng không thành (13). Điều này cho thấy, đã có việc Nhật đứng đằng sau chính phủ Trần Trọng Kim "mặc cả" với Việt Minh về việc chia sẽ quyền lực sau này, nhưng đã bất bại. Trên thực tế, trong những ngày diễn ra cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và nhiều địa phương trên cả nước, quân Nhật đã tổ chức chống lại các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền hoặc bố trí lực lượng xe tăng sẵn sàng nổ súng đàn áp. điều này bác bỏ ý kiến cho rằng, quân Nhật ở Việt Nam đã "bỏ mặc tình hình" để cho Việt Minh dễ dàng nổi dậy giành chính quyền.
Về Chính phủ Trần Trọng Kim. đây là chính phủ được Nhật dựng lên ngày 7-5- 1945 (sau khi đã đảo chính Pháp ngày 9-3-1945) gồm 10 bộ, nhưng thực chất không có sức mạnh và quyền hành gì đáng kể. Tuy nhiên cho đến ngày 17-8-1945, Chính phủ này vẫn còn nắm quyền và cử người đi "mặc cả" với Việt Minh. Trước đó, ngày 14-8, chính phủ này ra tuyên bố: "Nhất quyết không chịu lùi một bước trước một khó khăn nào để làm tròn sứ mệnh ... và vẫn hợp tác chặt chẽ với các nhà đương cục Nhật"(14).
Thứ ba,thời điểm phát động Tổng khởi nghĩa mà Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí minh đưa ra là thời điểm có một không hai về nghệ thuật tạo dựng và đoán thời cơ ở cả nước và quốc tế. Học giả XTônnetxơn cho rằng, "... chính sách của Đồng Minh đối với Đông Dương từ tháng 3 đến tháng 8-1945 là ngu dốt và quên lãng, còn chính sách của Pháp đối với Đông Dương là bối rối và bất lực".
Thực tế tình hình diễn biến lúc đó không phải là như vậy. Bởi vì, các nước Đồng Minh như mỹ, Anh và chính phủ lâm thời Pháp của Đờ Gôn điều thừa hiểu, sớm, muộn Nhật cũng lật Pháp để độc chiếm Đông Dương, phòng trừ hậu họa. Mặc dù biết như vậy, nhưng Mỹ và Anh đều không thể ngăn chặn được do không đủ khả năng đánh bại Nhật tại khu vực này vào thới điểm đầu năm 1945, và do còn có những mục tiêu khác quan trọng, cần kíp hơn. Do vậy, không thể nói chính sách của Đồng Minh đối với Đông Dương lúc đó cũng không thể nói là bối rối và bất lực. Vì, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, lực lượng Pháp ở Việt Nam hoàn tòn bị tê liệt, phần lớn bị bắt giam, một số ít chạy thót sang Lào, Trung Quốc, số còn lại tổ chức "kháng chiến" chống lại quân Nhật, song không có kết quả. Chính phủ Đờ Gôn chỉ đưa ra một bản tuyên bố ngày 14-3-1945, nhắc lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và tổ chức được vài đơn vị ở Xrilanca, Ấn Độ, Trung Quốc để chuẩn bị đưa sang Đông Dương. Cho đến mãi ngày 17-8, tức là khi cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam đã và đang diễn ra, Chính phủ Pháp mới có quyết định bổ nhiệm tướng Lơcléc làm Tổng chỉ huy đạo quân viễn chinh và Đô đốc Đácgiăngliơ làm Cao uỷ, để chuẩn bị sang Đông Dương. Thêm nữa, đến tận ngày 12-9-1945, nửa tháng sau ngày cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, đại hội đầu tiên của quân Pháp mới theo chân quân Anh tới sài Gòn. Thực chất, vào thời điểm cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra, thực dân Pháp không có vai trò đáng kể nào ở Việt Nam. Đối tượng của cuộc Tổng khởi nghĩa là phát-xít Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật hậu thuẫn. điều này đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong tuyên ngôn độc lập: sự thực, nhân dân ta giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
Như đã trình bày, cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân ta được tiến hành và diễn ra trong bối cảnh thật đặc biệt. Điều cần nhấn mạnh là, bối cảnh quốc tế lúc đó không phải chỉ thuận lợi đối với riêng Việt Nam mà còn thuận lợi đối với một số nước trong khu vực Đông Á- Nam Á. Tuy nhiên, chỉ có cuộc Tổng khởi nghĩa ở Việt Nam giành được thắng lợi nhanh chóng và triệt để. Điểm mấu chốt để lý giải vì sao nhân ta được thắng lợi là gì? Đó chính là do thực lực của chúng ta, do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí mInh sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc (nhân tố chủ quan) và sớm nắm bắt thời cơ khách quan thuận lợi để phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. Nếu không xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, không tập dượt cho các lực lượng này trong thực tế đấu tranh từ thấp đến cao, thì khi điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện, khi thời cơ tới, cũng không thể tận dụng được để tiến hành khởi nghĩa thắng lợi. Đó là một thực tế không thể bàn cãi.
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH VÀ CUỘC TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG 8 - 1945
Kính thưa các đồng chí!
Ngay từ khi mới thành lập (2 - 1930), Đảng ta với chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, điều lệ tóm tắt do Hồ Chủ Tịch soạn thảo đã vạch ra đường lối đúng đắn, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Trải qua các lần hội nghị BCH TW và các lần đại hội, con đường và phương pháp cách mạng đã được đảng ta vạch ra một cách đúng đắn và khoa học là "CM tư sản dân quyền" do giai cấp công nhân lãnh đạo tức là CM dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập và xóa bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển CNTB.
Cả nước hưởng ứng sục sôi phong trào CM do Đảng khởi xướng và lãnh đạo chống thực dân và phong kiến - cao trào (1930 - 1931) bạo động giành chính quyền - cao trào dân chủ Đông Dương (1936 - 1939) đấu tranh thực hiện "Hòa bình, dân chủ, dân sinh" tuy không giành thắng lợi nhưng đây là một cuộc diễn tập cho cuộc CMT8 năm 1945.
Cho đến tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, đế quốc Pháp tham chiến, ở Đông Dương thực dân Pháp thi hành chính sách thống trị thời chiến. Phát xít Nhật liền nhảy vào Đông Dương từ đó dân ta bị một cổ 2 tròng áp bức Pháp - Nhật. Bao nhiêu quyền lợi tất cả các giai cấp đều bị cướp giật, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, hội nghị BCH TW Đảng tháng 11/1939 do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì và đặc biệt hội nghị BCH TW họp vào tháng 5/1941 do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo có những thay đổi cơ bản về đường lối "CM tư sản dân quyền" là "...cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp: dân tộc giải phóng. Vì trong lúc này nếu không đánh đuổi Pháp - Nhật thì vận mệnh dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết".
Từ quan điểm đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết đánh Pháp, đuổi Nhật. Đồng thời Người cùng toàn Đảng ra sức lãnh đạo đất nước chuẩn bị khởi nghĩa.
* Nắm thời cơ lãnh đạo Cách Mạng giành chính quyền thành công
- Mâu thuẫn Nhật - Pháp đã trở nên gay gắt, cả 2 kẻ thù của ta đang sửa soạn tiến tới giai đoạn "1 sống 1 chết " - và do thất bại ở Thái Bình Dương buộc Nhật phải lật đổ Pháp để chiếm Đông Dương.
- 9/3/1945 Nhật nổ súng đảo chính Pháp thì 12/3/1945 Thường vụ TW Đảng ra chỉ thị " Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" - nêu rõ thời cơ cách mạng đang nhanh chóng chín mùi.
- Trải qua thời gian dài chuẩn bị cách mạng, đến giữa tháng 8-1945 cách mạng có 1 ưu thế lực lượng rộng rãi ở cả nông thôn lẫn thành thị bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Khắp nơi quần chúng nô nức tự vũ trang và hừng hực khí thế tiến lên tổng khởi nghĩa.
- Nhật đầu hàng Liên Xô, quân Nhật ở Đông Dương tê liệt, chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ.
- Trước tình hình đó: hội nghị TW toàn quốc từ 13 - 15/8/1945 ở Tân Trào khẳng định cơ hội giành quyền Độc Lập đã tới, chủ trương, phương châm lãnh đạo khởi nghĩa được xác định rõ (trong Nghị quyết hội nghị).
- Trong 2 ngày16 và 17/8/1945 đại hội Đại biểu toàn quốc họp ở Tân Trào đã nhất trí với chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của Đảng.
- Nắm bắt cơ hội ngàn năm có 1 Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước: " Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta...chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên!" Trước lời kêu gọi, nhân dân cả nước, triệu người như một đã nhất tề nổi dậy với ý chí " Dù có hy sinh đến đâu, dù có đốt dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Tiến lên khởi nghĩa từng phần chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa - Chỉ trong 15 ngày từ 14 đến 28/8/1945 cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn mà không phải mất mát thương vong nhiều. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thật sự thuộc về nhân dân. Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trịnh trọng đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chù Cộng Hòa (nay là nước Cộng Hòa Xã Hội Chũ Nghĩa Việt Nam), tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.
--------------------Tóm tắt các mốc lịch sử quan trọng và thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước sau 60 năm
1- Các mốc lịch sử trong quá trình 60 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945-1975) và thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (từ năm 1975 đến nay)
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Cách mạng Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cách mạng Việt Nam đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng 8/1945 thành công và Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1946-1954) đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Cuộc kháng chiến lần thứ hai (1954-1975) đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI của Đảng (12/1986), đường lối đổi mới đã được hoạch định. Các kỳ Đại hội VII (1991), VIII (1995) và IX (2001) đã tổng kết thành tựu và bài học, làm rõ thêm nhiều vấn đề lớn trong đường lối đổi mới.
2- Thành tựu của Việt Nam từ khi tiến hành công cuộc đổi mới.
Kiên trì thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa khởi xướng từ năm 1986, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực cả đối nội lẫn đối ngoại: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng, kinh tế tăng trưởng bình quân 7,5% trong mười năm gần đây (đứng thứ hai châu Á). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng dần, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần.
Thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1991-2005
Thời kỳ 1991-2000 2001-nay 2004 6 tháng đầu năm 2005
GDP bình quân 7,5% 7% 7,6% 7,6%
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1985-2004
Thời kỳ Nông lâm thuỷ sản Công nghiệp - XD Dịch vụ
1985 40,2% 27,4% 32,5%
2004 21,76% 40,09% 38,15%.
Vốn đầu tư hàng năm từ mọi nguồn công và tư đạt mức 36% GDP. Hơn 100 doanh nghiệp lớn thuộc các công ty xuyên quốc gia đã có mặt ở Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là điểm đến đầy tiềm năng của các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế.
Thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn đến 6 tháng đầu năm 2005
Thời kỳ Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện
Đến hết tháng 11/2004 5.100 45,5 tỷ USD 26 tỷ USD
2004 4,1 tỷ USD
6 tháng đầu năm 2005 350 2,7 tỷ USD 1,5 tỷ USD
Kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt 100% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tốc độ tăng trưởng đạt xấp xỉ 20%/năm; xuất khẩu tăng liên tục trong nhiều năm; là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu...
Kim ngạch Xuất nhập khẩu giai đoạn 2004 và 6 tháng đầu năm 2005
Thời kỳ Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu
2004 26 tỷ USD 31,5 tỷ USD 5,5 tỷ USD
6 tháng đầu năm 2005 14,439 tỷ USD 18 tỷ USD
Từ khi Luật Doanh nghiệp được thi hành (năm 2000), hơn 150.000 doanh nghiệp ra đời với vốn đăng ký đạt hơn 15 tỷ USD, đóng góp khoảng 10 tỷ USD, chiếm 27% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội, giải quyết việc làm cho gần 6 triệu lao động.
Việt Nam đang xóa bỏ nhanh các rào cản, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Cùng với quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư, kinh doanh nhiều lĩnh vực mà trước đây còn hạn chế như điện lực, xi-măng, bảo hiểm. Hiện Việt Nam đang xây dựng Luật cạnh tranh cùng với việc hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, hệ thống luật pháp Việt Nam đang được hoàn thiện, phù hợp thông lệ quốc tế. Trong năm 2005, Quốc hội sẽ xem xét thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Ðầu tư thống nhất.
Chính phủ đặc biệt quan tâm tới phát triển và giữ ổn định lĩnh vực tài chính-ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối và tiền tệ đã hình thành, phát triển và đang trên đường hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Thị trường tiền tệ của Việt Nam đã có sự tham gia rộng rãi của 31 chi nhánh của 26 ngân hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên doanh, 6 ngân hàng thương mại Nhà nước...
Du lịch hiện đang phát triển, được WTO đánh giá có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới. Giai đoạn 1990-2000 khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250 nghìn lượt (năm 1990) lên 2,05 triệu lượt (năm 2000); khách nội địa tăng 11 lần, từ 1 triệu lượt lên 11 triệu lượt; thu nhập du lịch tăng gần 13 lần từ 1.350 tỷ đồng lên 17.400 tỷ đồng. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng đạt bình quân hai con số (cơ sở hạ tầng lẫn số lượng du khách), doanh thu đạt hơn một tỷ USD/năm, đóng góp khoảng 4% GDP.
Việt Nam đã dành hơn 1/3 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho các nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá... Sau 60 năm, các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của người dân Việt Nam tốt hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên trong suốt 20 năm qua; tuổi thọ trung bình của Việt Nam đã đạt 71 tuổi.
Đời sống mọi mặt của người dân Việt Nam từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi đã được cải thiện nhanh chóng. Hầu hết các chỉ tiêu phát triển xã hội đều đạt và vượt kế hoạch: tạo việc làm mới cho 1,5 triệu lao động, thu nhập GDP theo đầu người đã tăng gấp đôi trong giai đoạn từ 1995-2003...
Việt Nam đã thực hiện thành công Chương trình quốc gia về xóa đói Giảm nghèo giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 17,2% năm 2001 (2,8 triệu hộ) xuống còn 8,3% năm 2004 (1,44 triệu hộ). Dự báo, cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước giảm còn 5%.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách, đổi mới trong hoạt động của hệ thống chính trị và luật pháp; thể chế chính trị và hệ thống pháp luật của Việt Nam không ngừng được hoàn thiện nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hiện nay, Việt Nam có 553 cơ quan báo chí, trong dó có 157 báo và 396 tạp chí với hơn 713 ấn phẩm báo chí và khoảng 1.000 bản tin. Báo nói và báo hình, Trung ương có một đài truyền hình, bốn đài truyền hình khu vực; 64 tỉnh, thành phố trung ương đều có đài phát thanh-truyền hình; 50 báo điện tử, khoảng 2.500 trang thông tin điện tử (webpage) đang hoạt động trên cả nước và hơn 13.000 phóng viên, biên tập viên hội viên nhà báo...
Các quyền công dân, kể cả quyền tự do tín ngưỡng và quyền sinh hoạt tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam được tôn trọng và được quy định trong Hiến Pháp và được bảo đảm trên thực tế. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ 15/11/2004, đã thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Số lượng tín đồ, các nhà tu hành cũng như các cơ sở tôn giáo tại Việt Nam ngày càng tăng. Tham gia vào các sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam có khoảng 20 triệu người, gần 62.500 chức sắc, nhà tu hành và 22.354 cơ sở thờ tự tôn giáo; các cơ sở đào tạo tôn giáo được mở rộng. Hiện nay, tại Việt Nam có 10 trường Đại học Tôn giáo, 3 Học viện Phật giáo, 6 Đại Chủng viện Thiên chúa giáo, 1 Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, 40 trường đào tạo các giáo chức tôn giáo ở các cấp độ khác nhau, các ấn phẩm tôn giáo, nhất là kinh sách được xuất bản theo yêu cầu của các tôn giáo.
Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 168 nước trên thế giới và quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Nhiều hiệp định, thỏa thuận song phương và đa phương đã được ký kết, trong đó có 80 Hiệp định thương mại song phương; 41 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và nhiều hiệp định đa phương khác trên hầu hết các lĩnh vực. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM... Sau khi kết thúc đàm phán song phương với hầu hết các đối tác quan trọng như EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và Ca-ca-đa, Trung Quốc... Việt Nam đang tiến gần đến việc gia nhập WTO. Từ đầu năm 2005 đến nay, Việt Nam đã đẩy mạnh đàm phán song phương để kết thúc trước tháng 9/2005 và hoàn thành nốt các thủ tục gia nhập WTO vào cuối năm 2005. Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực tiến hành cải cách về luật pháp và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế trong nước cho phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế cũng như các nguyên tắc cơ bản của WTO nhằm tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của mình.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top