Lịch sử tư tưởng trước Marx
Lịch sử tư tưởng trước Marx [phần 11]
Lịch sử triết học
Thứ năm, 05 Tháng 8 2010 11:16
Trần Đức Thảo (1917-1993)
PHẦN MƯỜI MỘT
*
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
*
NỘI DUNG KHÁI NIỆM
CỦA
TRIẾT HỌC KANT
I - NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT
+ Giai đoạn «tiền phê phán» ở thời tuổi trẻ của Kant là một giai đoạn ngắn, có hướng duy vật. Trong quyển sách nổi tiếng «Lịch sử phổ cập của tự nhiên và lý thuyết về bầu trời»[1](1755), lần đầu tiên được trình bày một quan niệm duy vật có tính cách lịch sử về tư tưởng. Kant quan niệm bầu trời với những tinh tú, mặt trời, quả đất, đều là kết quả của một quá trình lịch sử tự nhiên.
+ Giai đoạn «phê phán», khi Kant đặt vấn đề về triết học căn bản tức là vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và thực tại, thì Kant lại chuyển sang duy tâm.
Năm 1781, ông viết cuốn «Phê phán lý tính thuần túy», tiếp theo đó là những cuốn «Phê phán lý tính thực tiễn» (1788) và «Phê phán năng tính nhận xét» (1790)[2].
+ Cách đặt vấn đề của Kant. Kant đặt vấn đề triết học trên lập trường phê phán. Đó là một mặt thay đổi mới so với hướng huyền học. Hướng huyền học đặt vấn đề: thực tại là gì? Trái lại, Kant đặt vấn đề: chúng ta hiểu biết đối tượng khách quan thế nào, làm thế nào mà hiểu biết được thực tế khách quan - Do chỗ phê phán năng lực hiểu biết mà quy định được đối tượng thực tế.
Kant quan niệm cách đặt vấn đề như vậy là cách mạng, giống như Copenic[3] đã đảo lộn vũ trụ quan cũ bằng cách chủ trương rằng quả đất chạy chung quanh mặt trời, trái hẳn với quan niệm cũ là mặt trời xoay quanh quả đất. Trước kia, người ta quan niệm lý tính hướng theo thực tại, người ta cải thiện lý tính theo thực tại. Kant cho rằng đặt vấn đề như vậy thì không giải quyết được, vì chúng ta chưa biết thực tại là gì. Do đó Kant đặt vấn đề: chúng ta hiểu biết thực lại bằng cách thế nào?
Nhưng cách mạng của Copernic đi từ chủ quan sang khách quan, trái lại cách mạng của Kant đi từ khách quan vào chủ quan, cho lý tính quy định thực tại chứ không phải thực tại quy định lý tính như trước nữa. «Cách mạng» của Kant là một «cách mạng duy tâm».
Sự đảo ngược đó thực hiện thế nào? Thực hiện bằng cách phê phán chủ quan của ta xem nó đạt được đến đâu.
+ Cách phê phán của Kant. Kant phê phán chủ quan theo 3 hướng:
1 - Phê phán lý tính thuần túy.
[Kant] chứng minh rằng lý tính thuần túy không đạt được đối tượng, mà thực tế nó cũng không có đối tượng, nên nó không đạt được chân lý - muốn có đối tượng thì phải có kinh nghiệm. Ở chỗ này, Kant có phần tiến bộ vì đã chống lại hướng huyền học cũ (huyền học đòi đặt đối tượng là tinh thần và Thượng đế bằng lý tính thuần túy. Kant cho lý tính thuần túy không có đối tượng, tức là không có khoa học nào nắm được Thượng đế, chỉ có khoa học tự nhiên. Vấn đề Thượng đế không thể đặt ra được trên cơ sở lý luận).
b - Phê phán lý tính thực tiễn.
Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta thường bám vào sự việc trước mắt. Đó là chủ quan của sự hoạt động. Trong chủ quan nghiên cứu, chúng ta có hướng bỏ quên kinh nghiệm, nhưng trong hành động thực tiễn, chúng ta lại hay quên mục đích cao xa, quên quy luật phổ cập.
Kant phê phán luân lý kinh nghiệm chủ nghĩa, tức là luân lý linh báo dựa vào Giáo hội của chế độ cũ, luân lý dựa vào tình cảm. Ông nói hoạt động thực tiễn của ta cần phải nhằm một mục đích cao xa là thực hiện một lý tưởng phổ cập của nhân loại hoạt động theo lý tính (có nghĩa là lý tính thuần túy), chứ không để cho cảm tính làm chủ, không theo điều kiện sự việc vụn vặt trước mắt.
Phần thực hiện nhằm ngó lên trời.
c - Phê phán năng 1ực phán đoán (tính nhận xét)
Thống nhất hai điểm mâu thuẫn trên như thế nào? Lý tính và kinh nghiệm, lý tưởng và thực tế sẽ phối hợp làm sao? Kant cho rằng có thể tìm giải pháp trong vấn đề năng lực của sự nhận xét. Trong những nhận xét của chúng ta, có hai hạng nhận xét độc lập, tự túc, không dựa vào cái gì hết, chỉ dựa vào nội dung của nó, đó là nhận xét thẩm mỹ và nhận xét về mục đích trong tự nhiên. Nhận xét mỹ thuật là cái này đẹp, cái kia đẹp; nhận xét mục đích tự nhiên là vật này có mục đích của nó. Nội dung của những nhận xét ấy bao hàm một sự điều hòa căn bản giữa lý tính và kinh nghiệm, lý tưởng và thực tế.
Trong hai hạng nhận xét trên, hạng nhận xét thẩm mỹ là quan trọng hơn cả. Kant là người đầu tiên sáng lập khoa thẩm mỹ học, sau đó có hai quan niệm thẩm mỹ nữa của Hegel và Marx. Kant nhận định sở dĩ chúng ta nhận xét một vật đẹp, mà nhận xét đúng, là vì tư tưởng về vật chất ấy thống nhất được những điểm đối lập về 4 mặt:
- Nhận xét thẩm mỹ bao hàm phổ cập không khái niệm: nó là nhận xét phổ cập về một cá thể, nhằm tính chất cá thể.
- Nó bao hàm một cái lý thú vô tư, không dựa vào cảm giác khoái lạc.
- Nó có tính chất mục đích tuy không nhằm một mục đích cụ thể.
- Chân lý thẩm mỹ không nhằm một thực tế khách quan.
Tóm lại, triết học Kant bộc lộ một nhân sinh quan đòi hỏi [con] người thực hiện mọi giá trị nhân bản trong đời sống thực tế: đấy là phần tiến bộ.
Nhưng khi nêu ra vấn đề làm việc theo cách nào, thì Kant lại không xuất phát từ thực tế. Ông cho quy luật của mục đích đời sống người ta, tiêu chuẩn quy định mục đích ấy là ở lý tính xa rời kinh nghiệm, xa rời thực tế. Về điểm này, Kant lại còn lạc hậu hơn cả nhà duy vật thế kỷ XVIII. Các nhà triết học thế kỷ XVIII còn cho mục đích của đời sống, tiêu chuẩn sự hoạt động là ở trong thực tế, nguyên lý khoa học và luân lý đều xuất phát từ thực tế.
II - CƠ SỞ XÃ HỘI ĐỨC CUỐI THẾ KỶ XVIII PHẢN ÁNH TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT
Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một nước lạc hậu so với các nước Tây Âu chung quanh. Tập đoàn phong kiến Đức đang thống trị vững mạnh. Giai cấp tư sản Đức còn yếu đuối, nhỏ mọn, chưa có điều kiện lên nắm chính quyền. Giai cấp tư sản chưa đòi thực hiện nhân sinh quan của nó trong thực tế khách quan, trong xã hội thực tại; mà trong thực tế khách quan là thực tế xã hội phong kiến Đức, tư sản không thể tìm tiêu chuẩn để hoạt động được.
Trong khi đó, ảnh hưởng cách mạng tư sản các nước xung quanh, nhất là cách mạng tư sản Pháp, đã vang dội mạnh vào tư tưởng của giai cấp tư sản Đức; giai cấp tư sản Đức cũng đặt vấn đề cách mạng, nhưng trong tư tưởng thôi, chứ không phải là trong thực tế.
Lý tưởng đó thực hiện như thế nào, cái gì bảo đảm cho lý tưởng đó có thể thực hiện được? Kant chỉ nêu ra nhận xét là có lý tưởng đã thực hiện được, như có tác phẩm mỹ thuật hay trước tác tự nhiên có giá trị, thành công, thì sao trong thực tế xã hội lại không thực hiện được. Chẳng qua những tác phẩm mỹ thuật thống nhất được lý tính và cảm giác, lý tưởng và thực tế chỉ là một sự gặp gỡ ngẫu nhiên, không có một nguyên lý gì làm cơ sở cho sự thành công chắc chắn cả. Kant còn cho nó nguồn gốc của sự điều hòa đó là Thượng đế.
Sau khi đã phê phán mọi mặt hoạt động chủ quan của người ta, sau khi đã chứng minh không thể để hoạt động của người ta ngoài thực tế (phủ định huyền học), thì Kant lại trở lại tôn giáo, không có cách gì thực hiện khác. Sự bất lực trong tư tưởng của Kant phản ánh sự bất lực của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ thống Châu Âu đã tiến bộ nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản. Tính chất bất lực ấy phản ánh trong quan niệm bị động về nhận xét thẩm mỹ, cho nó là sự gặp gỡ giữa lý tính và cảm giác, có mục đích mà không tiến tới mục đích.
III - ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC KANT
Giai cấp tư sản Âu Tây sau khi làm cách mạng thành công, sau khi đã nắm chính quyền thì nó hết vai trò của nó. Lực lượng kinh tế của nó đã được thỏa mãn, đồng thời nó đang phải e sợ, chống đối với một lực lượng xã hội mới đang lên là giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản trở thành lạc hậu, phản động. Những mục đích cao xa mà nó đề ra khi đứng lên làm cách mạng như công lý, bình đẳng, bác ái... chỉ còn là lý tính, lý tưởng, không phải là cái để thực hiện nữa. Những mục đích đó chỉ còn được nhớ lại như một lý tưởng, một lý tưởng cần thực hiện và là một lý tưởng có thể thực hiện được.
Tư tưởng triết học Kant ở cuối thế kỷ XVIII đã phù hợp với tư tưởng giai cấp tư sản Âu Tây của thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX này. Triết học Kant thành tư tưởng thống trị, mang dạy trong các trường học ở Âu châu, đến nỗi sách giáo khoa tư sản Âu Tây phân hai giai đoạn tư tưởng nhân loại về cổ điển và cận đại, lấy Kant làm mốc.
Ba cuốn phê phán của Kant tương đương với 3 phần trong Triết học: triết học lý thuyết, triết học thực tiễn, triết học thẩm mỹ; nó nghiên cứu ba vấn đề căn bản: giá trị của Chân lý, Luân lý, Mỹ cảm.
IV - TRIẾT HỌC LÝ THUYẾT
(Phê phán lý tính thuần tuý)
A - BỐI CẢNH VÀ CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuối thế kỷ XVIII, nước Đức còn ở trình độ rất lạc hậu vì hai lý do:
Về địa lý đứng ngoài những đường thương mại quốc tế lớn, chủ yếu bấy giờ đang phát triển ở bờ biển Đại Tây Dương (tư bản phát triển ở Anh, Hà Lan, Pháp), trong tình trạng bấy giờ Đức không có điều kiện phát triển ngoại thương.
Trong lịch sử thế kỷ thứ XVI vả XVII, các lực lượng tiến bộ ở Đức đã bị đàn áp và tiêu hủy phần lớn, đặc biệt là trong «Chiến tranh nông dân» là cuộc chiến tranh trong đó cải cách tôn giáo của Luther chống phong kiến. Phong trào Luther lúc đầu lôi cuốn nông dân đi với công thương và tiểu phong kiến chống lại phong kiến và Giáo hội. Nhưng kết quả của nó chỉ là sự thất bại của nông dân, và chỉ đi đến sự xóa bỏ một phần quyền lợi Giáo hội, đề cao quyền lực các hoàng thân (Chúa chư hầu) với cải cách của Luther. Nó chỉ là thắng lợi của chế độ hoàng thân dựa vào tiểu phong kiến và lôi cuốn bọn tư sản và tiểu tư sản đầu hàng, còn nông dân thì bị đàn áp hoàn toàn. Sau đó, những hạng tiểu tư sản và tư sản cũng bị đàn áp không ngóc đầu lên được. Chế độ thắng là chế độ phân quyền, các hoàng thân cát cứ ngăn trở kinh tế tư sản phát triển. Qua nửa đầu thế kỷ XVII, lại có chiến tranh 30 năm với sự can thiệp của hầu hết các cường quốc Âu châu, đã tiêu hao gần hết lực lượng của Đức.
Do những nguyên nhân đó, tới thế kỷ XVIII, Đức rất lạc hậu: phong kiến còn phân quyền, nhưng giai cấp tư sản lại được ảnh hưởng tư tưởng giai cấp tư sản Âu Tây nói chung (nhất là Anh, Hà Lan, Pháp). Mức yêu cầu đứng về khái niệm là mức yêu cầu của cách mạng Âu Tây, nhưng lại mâu thuẫn với tình trạng thực tế rất thấp, chỉ đi đến liên minh các chư hầu mở đường cho giai cấp tư sản phát triển phần nào về kinh tế, tham gia hành chính phần nào, nhưng chưa có vấn đề nắm chính quyền. Do đó tư tưởng Đức cuối thế kỷ XVIII, một mặt về nội dung thì rất tiến bộ, đặt vấn đề sâu sắc, nhưng về lập trường thì lại lạc hậu, chỉ quan niệm những khái niệm tiến bộ trên một lập trường duy tâm thôi. Về văn học có phong trào nổi tiếng là Sturm und Drang[4], một phong trào lãng mạn có tính chất cách mạng tư sản đề cao cá nhân tuyệt đối -- cá nhân đây là những đức tính tự phát của cá nhân -- nhưng lại đầu hàng về chính trị. Về tư tưởng triết học, cái gọi là Cổ điển Đức (danh từ của Marx) có 4 triết gia: Kant, Fichte[5], Schelling[6]và Hegel. Đặc biệt là tư tưởng Kant và Hegel phản ánh trong phạm vi duy tâm (vì hoàn cảnh nghèo nàn của Đức) những yêu cầu của Cách mạng tư sản Âu châu nói chung, nhất là Cách mạng tư sản Pháp. Lập trường thì duy tâm, nhưng nội dung thì lại có phần sâu sắc hơn những nhà tư tưởng Pháp, Anh, vì những người này hạn chế những vấn đề nghiên cứu trong phạm vi những đòi hỏi thực tế trước mắt. Cụ thể Kant đặt vấn đề: về mặt triết học lý thuyết, phải tiêu diệt những mơ hồ của huyền học và tôn giáo, biện chính khoa học mới. Các nhà tư tưởng tư sản tiến bộ Anh, Pháp đã thực hiện trên nhiệm vụ ấy về hai mặt: xây dựng vũ trụ quan duy vật, và xây dựng lý thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa về quá trình hiểu biết của người ta (Locke, Condillac[7], Diderot, Helvétius[8]...). Kant cũng đặt vấn đề phê phán huyền học, phê phán khoa học giả dối chứng minh bằng lý tính những cái mơ hồ như tồn tại của Thượng đế, bất diệt của Linh hồn, tuyệt đối của Tự do. Chúng ta hiểu biết thế nào mà dám chứng minh những vấn đề lớn lao như thế? Đặt vấn đề phê phán lý tính thuần túy, Kant có điều kiện đi sâu vào cơ cấu sự hiểu biết. Nhưng mặt khác, yêu cầu lại hữu hạn, không triệt để: Kant không trực tiếp phê phán tôn giáo và huyền học mà phê phán những nhận thức có tính chất trước kinh nghiệm. Trong ấy, Kant lại đặt một số vấn đề về những khoa học mà Kant cho là thực tế có trước kinh nghiệm và có giá trị chân chính. Cạnh huyền học, Kant nhận thấy có hai khoa học có trước kinh nghiệm và chân chính: toán pháp thuần túy và vật lý học thuần túy (toán học đi từ những nguyên lý không phụ thuộc vào kinh nghiệm; về vật lý, Kant lấy một số nguyên lý mà người ta bấy giờ cho là thuần túy: nguyên lý hoả lực, thăng bằng giữa động lực và phản lực, v.v..., vì bấy giờ khoa học còn chịu nhiều ảnh hưởng của huyền học). Sự phê phán lý tính thuần túy của Kant không triệt để ở chỗ phá bỏ huyền học có tính chất tôn giáo, nhưng lại biện chính cho toán học và vật lý học thuần túy, như thế Kant đã giữ lại một phần những thành kiến huyền học mà không cho đó là những thành kiến huyền học. Vì duy trì nó nên phải tìm cho nó một nguyên lý triết học có tính chất huyền học. (Sau này, Kant viết «Nguyên lý huyền học của khoa học tự nhiên» (1786) và «Nguyên lý huyền học về pháp lý»(1785)[9], và đều cho là chân chính). Đó là phần hữu hạn của phê phán luận của Kant.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top