7-8
THƯƠNG THANG VÀ Y DOÃN
Ở hạ du Hoàng Hà có một bộ lạc tên là Thương. Truyền thuyết nói rằng, Khiết là tổ tiên của bộ lạc Thương, trong thời kỳ Nghiêu Thuấn, đã từng theo Vũ đi trị thủy. Sau đó, bộ lạc Thương nhờ phát triển nhanh nghề chăn nuôi nên đến cuối thời Hạ, khi Thang làm thủ lĩnh thì đã trở thành một bộ lạc lớn mạnh.
Vương triều Hạ đã thống trị hơn 400 năm, đến thế kỷ XVI trước Công nguyên, ông vua cuối cùng của Triều Hạ là Kiệt, nổi tiếng là một ông vua tàn bạo. Vua Kiệt và các quý tộc chủ nô đã bóc lột nhân dân một cách thậm tệ và ra sức trấn áp nô lệ. Hạ Kiệt còn cho xây dựng nhiều cung điện, sống cuộc đời hoang dâm xa xỉ.
Đại thần Quan Long Bàng khuyên can Kiệt, nói: "nếu cứ tiếp tục như thế thì sẽ mất lòng người". Hạ Kiệt đùng đùng nổi giận ra lệnh giết ngay Quan Long Bàng. Dân chúng căm giận Hạ Kiệt, nguyền rủa: "Mặt trời kia sao không tắt ngay đi. Chúng ta thề cùng chết với mày!". Thương Thang thấy Hạ Kiệt vô cùng hủ bại, liền quyết tâm tiêu diệt triều Hạ. Bề ngoài, ông tỏ ra phục tùng Kiệt, nhưng bên trong, ngấm ngầm không ngừng mở rộng thế lực.
Lúc đó, các quý tộc trong bộ lạc đều rất mê tín, coi việc tế trời đất tổ tông là việc quan trọng nhất. Bên cạnh bộ lạc Thương có bộ lạc Cát, thủ lĩnh là Cát Bá không tế tự đúng kỳ hạn. Thang phái người đến trách Cát Bá trả lời: "Chúng tôi rất nghèo. Không có súc vật để tế".
Thang đưa tới một số bò dê để làm đồ tế. Cát Bá cho làm thịt ăn hết, nhưng vẫn không tế. Thang lại cho người đến trách. Cát Bá nói: "Chúng tôi không có lương thực, lấy gì để tế?".
Thang lại phái người giúp đỡ Cát Bá cày ruộng và cử người già, trẻ em mang cơm cho họ. Không ngờ, nửa đường, Cát Bá cho cướp đi hết, lại giết chết một em bé đưa cơm.
Hành động đó của Cát Bá khiến ai nấy đều tức giận. Thang nắm lấy việc đó, liền mang quân tiêu diệt bộ lạc Cát. Sau đó, lại liên tục đánh chiếm một số bộ lạc lân cận. Thế lực của Thương Thang dần phát triển lớn mạnh, nhưng Hạ Kiệt ngu tối, vẫn chưa chú ý tới.
Trong những nô lệ theo vợ Thương Thang về nhà chồng, có một người tên là Y Doãn. Truyền thuyết nói, khi Y Doãn tới nhà Thương Thang, thì làm nghề nấu ăn, phục vụ Thương Thang. Dần về sau, Thương Thang phát hiện thấy Y Doãn không giống với những kẻ hầu người hạ khác. Hỏi chuyện, mới biết Y Doãn cố ý tham gia vào đoàn bồi giá là để tìm gặp Thương Thang, Y Doãn đàm đạo với Thương Thang về vấn đề trị nước, được Thương Thang tán thưởng. Vì vậy, Thương Thang lập tức dùng Y Doãn làm trợ thủ cho mình. Thương Thang và Y Doãn bàn bạc với nhau về việc đánh Hạ Kiệt. Y Doãn bày mưu: "Hiện nay Hạ Kiệt vẫn còn mạnh, trước hết chúng ta hãy thử bãi việc triều cống, xem thái độ thế nào?".
Thương Thang theo kế của Y Doãn, không tiến cống cho Hạ Kiệt nữa. Quả nhiên, Hạ Kiệt nổi giận, hạ lệnh cho bộ tộc Cửu Di đem quân đánh Thương Thang, Y Doãn thấy bộ tộc Cửu Di vẫn phục tùng lệnh của Hạ Kiệt, liền tạ tội và lại tiến cống như cũ. Một Năm sau, một số bộ lạc thuộc Cửu Di không chịu nổi sự bóc lột và trấn áp của Hạ Kiệt, dần dần rời bỏ triều Hạ, Thương Thang và Y Doãn mới quyết định mở cuộc tiến công lớn.
Từ Hạ Kiệt đến lúc đó, triều Hạ đã truyền được hơn bốn trăm năm. Muốn lật đổ một vương triều có lịch sử lâu dài như thế, không phải là một việc dễ dàng. Thang và Y Doãn quyết định họp các tướng sĩ, tổ chức lễ thệ sư. Tại cuộc lễ, Thang nói: "Không phải ta muốn làm loạn, nhưng Hạ Kiệt quá tàn ác, Thượng Đế hạ lệnh cho ta phải tiêu diệt hắn, ta không dám không nghe lời". Sau đó, ông tuyên bố về kỷ luật thưởng phạt.
Thương Thang mượn danh nghĩa Thượng Đế để động viên tướng sĩ, cộng thêm với nỗi căm giận của tướng sĩ muốn Hạ Kiệt chóng diệt vong, khiến họ chiến đấu rất dũng cảm. Quân Hạ và quân Thương đánh nhau một trận lớn ở Minh Điều (nay ở phía bắc trấn An Ấp, huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Tây) quân Hạ Kiệt bị đại bại.
Cuối cùng, Hạ Kiệt chạy đến Nam Sào (nay ở Tây Nam huyện Sào, tỉnh An Huy) Thang đuổi đến đó, bắt được Kiệt, đày Kiệt ở đó cho đến hết đời. Như vậy, triều Hạ bị triều Thương thay thế. Lịch sử gọi việc Thương Thang đánh Hạ là cuộc cách mạng Thương Thang. Vì giai cấp thống trị thời cổ gọi việc thay đổi triều đại là sự thay đổi mệnh trời, nên gọi đó là "cách mạng". Cách gọi đó hoàn toàn khác với khái niệm "cách mạng" ngày nay.
BÀN CANH DỜI ĐÔ
Khi Thương Thang thành lập triều Thương thì quốc đô đầu tiên đóng ở Bác (nay là Thương Khâu, Hà Nam). Trong khoảng ba trăm năm từ đó về sau, đô thành phải chuyển dời tất cả năm lần. Đó là do nội bộ vương tộc thường xuyên tranh đoạt ngôi vua và do vùng hạ du Hoàng Hà thường có thủy tai. Có một thần thủy tai lớn làm chìm ngập cả đô thành, nên buộc phải dời đô.
Bàn Canh, vua thứ 20 kể từ Thương Thang, là một ông vua có tài trị quốc. Để thay đổi cục diện xã hội không an định lúc đó, ông quyết định dời đô một lần nữa. Nhưng đại đa số quý tộc luyến tiếc cuộc sống an nhàn, không muốn dời đô, một số quý tộc có thế lực còn xúi giục bình dân nổi dậy, gây nên tình hình căng thẳng.
Đứng trước thế lực phản đối lớn mạnh, Bàn Canh không lay chuyển quyết tâm dời đô. Ông triệu tập các quý tộc đó lại bền bỉ thuyết phục: "Ta yêu cầu các khanh chuyển đi là để cho nước nhà được an định. Các khanh không thấy nỗi khổ tâm của ta mà còn gây rắc rối. Các khanh không thể làm thay đổi quyết tâm của ta đâu". Do Bàn Canh giữ vững chủ trương dời đô, làm thất bại thế lực phản đối, nên cuối cùng đã đem theo bình dân và nô lệ, vượt qua Hoàng Hà, di chuyển đến đất Ân (nay là thôn Tiểu Đồn, huyện An Dương, Hà Nam). Tại đây, ông đã chỉnh đốn nền chính trị, làm cho triều Thương từ chỗ suy yếu đã trở lại phục hưng. Từ đó đến suốt hơn hai trăm năm sau, không phải dời đô nữa. Vì vậy, triều Thương còn được gọi là Ân Thương hoặc triều Ân.
Từ đó tới nay đã hơn ba ngàn năm, đô thành cũ của triều Thương đã trở nên hoang phế. Đến thời cận đại, người ta khai quật được ở vùng Tiểu Đồn huyện An Dương, tỉnh Hà Nam rất nhiều di vật thời cổ, chứng tỏ rằng ở đây đã từng là quốc đô của triều Thương, nên gọi nó là "Ân Khư" (di chỉ đã đổ nát thời Ân). Từ những di vật khai quật được ở Ân Khư, có hơn mười vạn mảnh mai rùa và xương thú vật, trên đó có khắc nhiều chữ cổ rất khó đọc. Qua nghiên cứu của các nhà khảo cổ, những chữ đó mới được làm rõ. Thì ra, giai cấp thống trị triều Ân rất mê tín quỷ thần. Khi tế tự, đi săn và chinh chiến, họ đều dùng mai rùa và xương thú để bói toán điềm lành điềm dữ. Sau khi bói toán, liền khắc chữ lên trên mai rùa và xương thú về tình hình lúc đó và về kết quả bói toán. Chữ viết thời đó khác xa chữ viết ngày nay, nên được gọi là "văn giáp cốt". Chữ Hán sử dụng thời nay là do diễn biến từ văn giáp cốt mà có. Trong những di vật khai quật được ở Ân Khư, còn rất nhiều đồ đồng đen gồm vò chậu và vũ khí thuộc nhiều chủng loại, chế tạo rất tinh xảo. Trong số đó, có một chiếc đỉnh vuông, gọi là "tư mẫu tuất" nặng 875kg, cao hơn 1m30, có khắc hoa văn rất đẹp. Loại đồ đồng đen to như vậy nói lên rằng, trong thời kỳ Ân Thương, kỹ thuật đúc đồng và trình độ nghệ thuật đã rất cao. Nhưng ta cũng có thể tưởng tượng được, chiếc đỉnh lớn đẹp đẽ đó đã thấm đượm bao nhiêu mồ hôi và cả xương máu của nô lệ!
Các nhà khảo cổ còn khai quật được ở Ân Khư rất nhiều mộ huyệt của chủ nô thời Ân Thương. Trong ngôi mộ lớn của một quốc vương đào được ở thôn Vũ Quan,huyện An Dương, ngoài những đồ châu ngọc xa xỉ được chôn theo, còn có rất nhiều nô lệ bị giết và tuẫn táng. Trên đường vào ngôi mộ lớn, một bên chất nhiều bộ xương không đầu, bên kia bày toàn xương sọ. Theo ghi chép trên các mảnh giáp cốt, khi vua chúa tế tự tổ tiên, cũng giết nhiều nô lệ làm đồ tế, lần nhiều nhất có tới hai ngàn sáu trăm người. Đó là chứng cớ tội ác tàn sát nô lệ thời đó. Từ văn tự giáp cốt khai quật được ở Ân Khư, chúng ta có những tài liệu tin cậy về triều Ân – Thương. Có thể nói, lịch sử thành văn sớm nhất ở Trung Quốc là bắt đầu từ triều Ân – Thương.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top