69-70

TÔ VŨ CHĂN DÊ

Sau khi Hung Nô bị Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh đánh bại, mấy năm liền không có chiến tranh với triều Hán. Nhưng tuy bên ngoài, Hung Nô tuyên bố là sẽ hòa hảo với triều Hán, trên thực tế vẫn âm mưu xâm phạm Trung nguyên. Thiền vu Hung Nô thường phái sứ giả tới triều Hán, nhưng khi sứ giả triều Hán tới Hung Nô thường bị họ giữ lại. Do đó, triều Hán cũng giữ lại một số sứ giả Hung Nô.

Năm 100 TCN, Hán Vũ Đế đang dự tính đem quân đánh Hung Nô, thì sứ giả Hung Nô đến cầu hòa và thả hết sứ giả Hán về. Để đáp lại thiện ý đó, Hán Vũ Đế liền phái trung lang tướng Tô Vũ cùng phó đoàn Trương Thắng và tùy viên Thường Huệ đi sứ Hung Nô, đem theo cờ tiết của triều Hán. Tô Vũ đến Hung Nô, trao trả các sứ giả bị bắt giữ và dâng tặng lễ vật. Tô Vũ đang đợi thiền vu Hung Nô viết thư trả lời để mang về thì không ngờ xảy ra một chuyện rủi ro. Trước khi Tô Vũ đến Hung Nô, có một người Hán tên là Vệ Luật, sau khi sang sứ đã đầu hàng Hung Nô. Thiền vu đặc biệt trọng dụng, phong y làm vương.

Vệ Luật có một bộ hạ tên là Ngu Thường, rất không bằng lòng với Vệ Luật. Ngu Thường là bạn cũ của Trương Thắng, phó đoàn của Tô Vũ, liền bàn với Trương Thắng muốn giết Vệ Luật và bắt cóc mẹ của thiền vu rồi về Trung Quốc. Trương Thắng đồng tình. Không ngờ kế hoạch của Ngu Thường không thành, lại bị người Hung Nô bắt giữ, ra lệnh cho Vệ Luật thẩm vấn Ngu Thường và tra ra những người đồng mưu. Tô Vũ vốn không biết việc này, đến lúc đó, Trương Thắng sợ liên lụy, mới cho Tô Vũ hay.

Tô Vũ nói: "Sự việc đã đến mức thế này, nhất định sẽ liên quan đến ta. Nếu để họ tra khảo đến chết thì sẽ làm mất mặt triều đình". Nói rồi rút dao toan tự sát. Trương Thắng và Thường Huệ nhanh tay dằng lại được rồi hết sức khuyên can. Ngu Thường bị đánh đập dã man, chỉ biết thừa nhận là bạn với Trương Thắng, có nói cho biết, nhưng không thừa nhận là đồng mưu.

Vệ Luật báo cáo với thiền vu. Thiền vu nổi giận, muốn giết Tô Vũ, nhưng các đại thần ngăn lại. Thiền vu lại sai Vệ Luật đi dụ dỗ Tô Vũ đầu hàng. Tô Vũ nghe lời dụ dỗ của Vệ Luật, liền nói: "Ta là sứ giả triều Hán, nếu phản bội lại sứ mạng, đánh mất khí tiết thì còn mặt mũi nào sống để nhìn người khác". Nói rồi lại rút dao đâm vào cổ.

Vệ Luật hoảng sợ, ôm chặt lấy Tô Vũ. Tô Vũ đã bị trọng thương, ngất đi. Vệ Luật vội gọi người đến cứu chữa cho tỉnh lại. Thiền vu thấy Tô Vũ là một hảo hán có khí tiết, rất khâm phục. Khi Tô Vũ bình phục, thiền vu lại khuyên ông theo Hung Nô. Thiền vu sai Vệ Luật tra hỏi Ngu Thường trước mặt Tô Vũ. Trước hết, Vệ Luật ghép Ngu Thường vào tội chết, đem giết đi. Sau đó lại vung kiếm uy hiếp Trương Thắng. Trương Thắng tham sống sợ chết, liền hàng Hung Nô.

Vệ Luật nói với Tô Vũ: "Cấp phó của ông có tội, ông cũng bị liên đới".

Tô Vũ nói: "Tôi không đồng mưu với anh ta, cũng không phải là thân thích của anh ta, sao lại bị liên đới?".

Vệ Luật lại giơ kiếm dọa Tô Vũ. Tô Vũ không hề biến sắc. Vệ Luật phải hạ kiếm xuống khuyên nhủ: "Bản thân tôi cũng bất đắc dĩ phải hàng Hung Nô. Thiền vu đối đãi với tôi rất tốt, phong tôi làm vương, cho tôi mấy vạn người hầu hạ và từng đàn bò dê, hưởng mọi vinh hoa phú quí. Nếu tiên sinh đầu hàng Hung Nô thì ngày mai cũng như tôi. Việc gì phải uống phí sinh mạng của mình?".

Tô Vũ bừng bừng nổi giận, đứng dậy nói: "Vệ Luật, ngươi là con dân nhà Hán, là bầy tôi trong triều. Ngươi đã vong ân bội nghĩa, phản bội lại cha mẹ, phản bội lại triều đình, làm một tên Hán gian vô sĩ, còn mặt mũi nào mà nói chuyện với ta. Ta quyết không đầu hàng. Ngươi đừng nói nhiều vô ích".

Vệ Luật tiu nghỉu trở về tâu lại với thiền vu. Thiền vu cho giam Tô Vũ trong hầm đất, không cho ăn uống, toan dùng cách dày vò lâu ngày để khuất phục Tô Vũ. Lúc đó đang là mùa đông, tuyết xuống nhiều. Tô Vũ chịu đói khát, chỉ hứng tuyết để ngậm, vặt dây da để nhấm cho qua cơn đói. Mấy ngày sau vẫn không chết. Thiền vu thấy không có kết quả, liền đưa Tô Vũ tới vùng cạnh hồ Bai Can bắt chăn dê, ngăn cách Tô Vũ và Thường Huệ ra hai nơi, không cho liên hệ với nhau. Đồng thời nói với Tô Vũ: "Bao giờ dê đực đẻ con, sẽ tha cho ngươi về". Nói như vậy, tức là muốn giam hãm, đầy đọa Tô Vũ mãi mãi.

Tô Vũ tới Bai Can, xung quanh không có bóng người, chỉ có lá cờ tiết của nhà Hán làm bạn. Hung Nô không cho lương ăn, Tô Vũ phải đào hang bắt chuột và ăn rễ cây. Lâu ngày, tua cờ đem theo cũng rụng hết. Mãi tới năm 85 TCN, thiền vu Hung Nô chết. Hung Nô phát sinh nội loạn, chia sẻ làm ba nước. Thiền vu mới không có đủ lực lượng để gây chiến với triều Hán, liền cử sứ giả đi cầu hòa. Lúc đó Hán Vũ Đế đã chết, con là Hán Chiêu Đế nối ngôi. Hán Chiêu Đế phái sứ giả đến Hung Nô đòi thả Tô Vũ. Hung Nô nói dối là Tô Vũ đã chết. Sứ giả tưởng là thực, không nhắc đến chuyện ấy nữa.

Năm sau, sứ giả Hán lại đến Hung Nô. Thường Huệ, tùy tùng của Tô Vũ còn ở Hung Nô. Ông nhờ người Hung Nô giúp đỡ, tìm gặp sứ giả, nói cho sứ giả biết tình hình Tô Vũ chăn dê ở Bai Can. Sứ giả gặp thiền vu nói nghiêm khắc: "Nếu Hung Nô thực lòng muốn hòa hảo với Hán triều thì không nên lừa dối nữa. Vừa rồi hoàng thượng của chúng tôi bắn được trong ngự hoa viên một con chim nhạn, dưới chân có buộc một dải lụa, trên đó ghi rõ là Tô Vũ đang còn sống. Tại sao các người lại nói là đã chết rồi?".

Thiền vu giật nảy mình, tưởng lòng trung nghĩa của Tô Vũ đã làm cảm động đến loài chim chóc, nên chim nhạn đã giúp ông truyền tin tức, liền vội nói với sứ giả: "Quả thật Tô Vũ hiện còn sống. Chúng tôi sẽ thả ông ta về nước".

Khi đi sứ, Tô Vũ mới 40 tuổi. Qua 19 năm chịu đủ mọi đày đọa, khổ cực, đến nay râu tóc ông đã bạc trắng. Ngày ông về tới Trường An, nhân dân Trường An đều xô ra đường chào đón. Họ thấy Tô Vũ râu tóc bạc phơ, lá cờ tiết trên tay chỉ còn cái cán. Ai cũng cảm động rơi nước mắt. Tất cả đều ca ngợi ông là một đại trượng phu có khí tiết.


TƯ MÃ THIÊN VIẾT SỬ KÍ

Một năm sau khi Tô Vũ đi sứ Hung Nô, Hán Vũ Đế phái Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi đem 3 vạn quân đánh Hung Nô, bị đại bại, hầu như toàn quân bị tiêu diệt, Lý Quảng Lợi phải chạy về. Cháu của Lý Quảng (đây là Lý Quảng đã kể ở phần trên, không phải Lý Quảng Lợi) là Lý Lăng, lúc đó là Kỵ đô úy, đem 5000 quân bộ, tác chiến với Hung Nô. Thiền Vu Hung Nô thân chỉ huy 3 vạn kỵ binh vây chặt toán quân ít ỏi của Lý Lăng. Mặc dù Lý Lăng có tài bắn tên rất giỏi, binh sĩ cũng hết sức dũng cảm, nhưng 5000 bộ binh sau khi đã giết chết năm, sáu ngàn kỵ binh Hung Nô  vẫn bị quân địch đông đảo đánh bại. Do không có quân cứu viện, nên cuối cùng chỉ còn hơn 400 quân Hán chọc được vòng vây chạy thoát. Riêng Lý Lăng bị quân Hung Nô bắt được, phải đầu hàng.

Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô làm chấn động triều đình. Hán Vũ Đế bắt mẹ và vợ con Lý Lăng giam vào ngục, rồi triệu tập đại thần, nghị tội Lý Lăng. Các đại thần đều buộc tội Lý Lăng tham sống sợ chết, nên đã đầu hàng Hung Nô. Hán Vũ Đế hỏi ý kiến Thái sử lệnh Tư Mã Thiên về việc này. Tư Mã Thiên nói:  "Lý Lăng chỉ đem theo không tới 5000 bộ binh, đi sâu vào đất địch, đánh lại với mấy ngàn kỵ binh. Tuy bị thua trận, nhưng ông ta đã giết được nhiều địch như thế, cũng có thể tạ tội với thiên hạ. Lý Lăng không chịu hy sinh tính mệnh, hẳn là có chủ ý để sau này lập công chuộc tội báo đáp lại hoàng thượng".

Hán Vũ Đế nghe nói, cho rằng Tư Mã Thiên có ý chê bai Lý Quảng Lợi (Lý Quảng Lợi là anh ruột của Lý quý phi của Hán Vũ Đế) liền đùng đùng nổi giận, nói: "Ngươi ra sức biện bạch cho kẻ đầu hàng, chẳng phải là cố ý phản bội lại triều đình sao?". Liền quát võ sĩ lôi Tư Mã Thiên vào nhà giam, giao cho đình úy luận tội.

Sau khi luận tội, Tư Mã Thiên bị xử vào tội đáng bị phủ hình (tội bị thiến). Tư Mã Thiên không có tiền chuộc tội, phải chịu hình phạt và giam vào ngục. Tư Mã Thiên cảm thấy bị phủ hình là một điều hết sức nhục nhã, đã định tự sát. Nhưng lại nghĩ bản thân còn một việc hết sức quan trọng chưa hoàn thành xong, không thể chết được. Ông đang dồn hết tinh lực để viết một bộ sử, đó là một trước tác lịch sử vĩ đại nhất của Trung Quốc cổ đại - Bộ Sử ký. Vốn là, ông cha mấy đời của Tư Mã Thiên đều làm quan chép sử. Cha ông là Tư Mã Đàm cũng làm thái sử lệnh. Khi lên 10 tuổi, Tư Mã Thiên đã theo cha lên Trường An và đọc rất nhiều sử sách. Để sưu tập sử liệu, mở mang tầm mắt, từ năm 20 tuổi, Tư Mã Thiên đã đi khắp nơi trong nước. Ông đã tới Cối Kê của Triết Giang, thăm nơi vua Vũ đã triệu tập thủ lĩnh các bộ lạc, đến Trường Sa, viếng nơi Khuất Nguyên trẫm mình trên sông Mịch La; đến Khúc Phụ, khảo sát nơi Khổng Tử từng dạy học; đến quê hương của Hán Cao Tổ, nghe các phụ lão kể chuyện khởi binh của Lưu Bang. Việc đi thăm thú và khảo sát đó, khiến Tư Mã Thiên thu nhận được nhiều tri thức và học tập được nhiều ngôn ngữ dân gian phong phú, đặt cơ sở vững chắc cho việc viết văn của ông sau này.

Sau này, Tư Mã Thiên còn làm quan tùy tòng của Hán Vũ Đế, được theo nhà vua đi các nơi và được cử đi thị sát ở các vùng Ba, Thục, Côn Minh. Sau khi Tư Mã Đàm chết, Tư Mã Thiên kế thừa chức vụ của cha, làm thái sử lệnh, lại càng sưu tập và đọc được nhiều sử liệu. Chính lúc ông đang chuẩn bị bắt tay vào việc viết bộ sử đó thì xảy ra sự kiện Lý Lăng, và do biện hộ cho Lý Lăng mà ông bị xử phủ hình, giam vào ngục. Ông đau đớn nghĩ rằng do sai lầm trong nói năng mà thân thể bị tàn phế, không còn đáng sống nữa. Nhưng nghĩ lại, trước kia Chu Văn Vương bị giam ở ngục Dĩu Lý, đã viết nên bộ "Chu Dịch"; Khổng Tử chu du các nước, bị khốn ở Trần, Thái, sau đã viết nên bộ "Xuân Thu"; Khuất Nguyên bị đày đã viết nên "Ly Tao"; Tả Khâu Minh bị mù, đã viết "Quốc ngữ"; Tôn Tẫn bị tháo xương bánh chè, đã viết "Binh pháp". Còn 300 bài trong Kinh Thi, tuyệt đa số là do người xưa đã viết nên trong tâm tình bi phẫn. Những trước tác nổi tiếng đó đều do các tác giả có điều uất ức trong lòng hoặc khi lý tưởng không thực hiện được mà viết ra. Tại sao không nhân lúc này mà hoàn thành tác phẩm đã ôm ấp và chuẩn bị từ lâu?.

Vì vậy, ông bắt đầu mải miết viết Sử ký, ghi chép từ thời Hoàng Đế trong truyền thuyết đến năm thứ hai niên hiệu Thái Thủy đời Hán Vũ Đế (95 TCN), soạn thành một cuốn sách đồ sộ gồm 130 thiên, tất cả 52 vạn chữ. Trong tác phẩm Sử ký, Tư Mã Thiên đã thuật lại tỉ mỉ về sự tích các nhân vật nổi tiếng thời cổ. Ông đã đánh giá rất cao các lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Trần Thắng, Ngô Quảng; luôn giữ thái độ thái độ đồng tình với những nhân vật bị áp bức thuộc tầng lớp dưới. Ông còn thay đổi chữ viết rất khó của thời cổ thành chữ viết tương đối đơn giản đương thời. Sự miêu tả nhân vật với tình tiết sinh động, hình tượng trong sáng, lời văn sống động trôi chảy, đã làm cho Sử ký không những là một trước tác lịch sử, mà còn là một trước tác văn học kiệt xuất.

Sau khi ra khỏi nhà ngục, Tư Mã Thiên làm trung thư lệnh, sau đó đã mất trong đau buồn. Nhưng tác phẩm "Sử Ký" của ông còn sống mãi và có địa vị cao trong sử học và văn học Trung Quốc và thế giới.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: