LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KARATEDO
Lịch sử phát triển Karatedo (Phần 1)
________________________________________
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KARATEDO
Thời hồng hoang nguyên thủy, khi con người còn săn bắt hái lượm cũng đã biết võ thuật để tồn tại. Ngày nay, mọi người trên thế giới vẫn nghĩ về Okinawa - Một hòn đảo lớn nhất của quần đảo Ryukyu là đất tổ của Karatedo (Không Thủ Đạo).
Vào đời nhà Lương ở Trung Quốc, năm 520 (sau Công nguyên) có một vị sư (Tổ sư thứ 28 của Phật giáo) từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền đạo đó là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Tại đây, ông là Sơ tổ của Thiền tông. Vì vua Lương Võ Đế và triều thần không hiểu được diệu đạo nên ông vượt sông Trường Giang (theo truyền thuyết trên một cọng cỏ lau) đến trú trì tại chùa Thiếu Lâm (tỉnh Phúc Kiến) ngồi thiền ( Zazen) nhìn vách đá chín năm. Pháp môn tu tập của ông rất khó nghiên cứu mà phải chứng nghiệm trực tiếp (Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ chân tâm, Kiến tánh thành Phật). Một hôm, ông thấy môn đồ không chịu đựng nổi thời tiết giá rét khắc nghiệt khi hành thiền, nên thét lên một tiếng "Kiai" để lay thức nội tâm, hợp nhất sức mạnh, gia tăng khả năng chịu đựng cho các đệ tử. Từ đó, ông hướng dẫn Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh để bảo tồn sức khỏe và mười tám thế võ giúp đệ tử vượt qua trở ngại, khó khăn khi đi truyền đạo. Vì vậy, nên người ta gọi là Shorin Kempo (võ Thiếu Lâm), thời nhà Đường có tên gọi là Tote (Đường Thủ).
Đến thế kỷ 15, khi Ryukyu còn bị Trung Quốc thống trị, một vị Lãnh sự Trung Quốc đã mang môn Shorin Kempo của nước này đến Ryukyu . Tại đây, môn Kempo của Trung Quốc đã được chấp nhận và bản địa hóa. Lúc đầu, nó chỉ truyền bá trong khu kiều dân Trung Quốc, được hình thành ở ngoại ô thành phố Naha rồi sau đó xuất hiện ở Shuri và Tomari. Tuy nhiên, sau Kỷ nguyên Kamakura (năm 1200), môn Kempo này cũng không giữ được bí truyền. Nó được người Nhật khám phá, nghiên cứu và phối hợp với nhiều võ phái để có một môn võ khác khoa học và thực dụng hơn.
Năm 1429, vào thời Muromachi, vua Sho Hashi hoàn tất việc thống nhất các lãnh địa ở Okinawa . Để ngăn chặn mưu toan nổi loạn, nhà vua nghiêm cấm việc sử dụng vũ khí ngoại trừ quân đội, các nhà quý tộc và triều đình. Đến thế kỷ 17 (năm 1609), dân chúng trên đảo chịu sưu cao thuế nặng bởi sự xâm chiếm của Lãnh chúa Satsuma, nhất là lúc quyền lực tập trung trong tay của Tổng đốc Toyotomi Hideyoshi mà dân chúng thời đó gọi là "cuộc săn kiếm của Hideyoshi". Người dân chỉ được phép dùng dao khi đã đăng ký mượn trong một thời gian rất ngắn nên từ đó, các hệ phái môn Kempo đã phải hoạt động ngầm. Người dân đảo này muốn thắng được quân lính có trang bị vũ khí sắt bén họ phải nung nấu ý chí bằng cách hạ thủ đối phương chỉ bằng một đòn đánh. Muốn được vậy, họ bí mật khổ luyện hằng ngày, qua nhiều tháng năm đã biến tay chân và những bộ phận khác của cơ thể thành một thứ vũ khí có sức hủy diệt lớn. Để có hiệu quả của lực công phá, họ phải tập cho chai cứng các ngón tay, nắm đấm, phải xỉa hàng ngày vào thùng đậu dần dần cho đến tận đáy thùng hàng nghìn lần. Sau một thời gian luyện tập điều đặn, bài tập này được thay vào là cát, sạn, sắt vụn và các vật thể khác. Để có được một quả đấm trên 700Kg, hằng ngày họ phải đấm qua thác nước không để ướt tay hoặc gắp ruồi trên chén cơm để luyện một đòn đấm, một cú chặt bằng cạnh bàn tay. Muốn có một cú đá trên 1000Kg, họ đá hàng vạn lần vào các thân cây, bó mây có tính đàn hồi . Trong kỹ thuật của nghệ thuật tự vệ, đòn đấm, đá, đỡ... phải cực nhanh mới tạo ra sức mạnh và đạt tốc độ tối đa. Vận tốc sẽ làm tăng động lực theo công thức KE=1/2 M x V2 (KE là động lực, M là khối lượng, V là tốc độ). Nếu khối lượng (M) tăng gấp đôi thì động lực (KE) tăng gấp đôi. Nếu tốc độ (V) tăng gấp đôi thì động lực (KE) sẽ tăng gấp bốn lần. Đồng thời, họ áp dụng lực phản (→N = -→P) tức là đánh (hoặc đá) ra giật vào cùng một thời gian (trên một đường thẳng khương tuyến) như viên đạn bắn ra khi xuyên phá mục tiêu mới có hiệu quả. Đòn đỡ (Uke) cũng sẽ giảm tác dụng nếu không áp dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d). Vai trò của hông, vai, lưng... khi thực hiện kỹ thuật phối hợp với bụng dưới sẽ tạo lực rất nhiều cho sức mạnh tổng thể, xuyên suốt. Nguyên lý thăng bằng (F1d1= Fedz, →F21 = -→F12) được áp dụng là điều không thể thiếu vắng. Từ huyệt Đan Điền (Taden) trở xuống chân đế là nơi chịu trọng lượng cơ thể để giữ thăng bằng, vai trò của hai bàn chân làm nhiệm vụ di động cho trọng lượng đó. Nếu phối hợp liên động nguồn lực (Kime) toàn thân với các nguyên lý trên, đòn thế của họ khi đến mục tiêu sẽ mang lại kết quả tuyệt diệu. Khi cần dứt điểm, họ thét "Kiai"để huy động tập trung cường lực phối hợp với hơi thở mới có thể phá vỡ áo giáp sắt hay chiếc mũ thép của đối phương được. Phương pháp thở bằng cơ hoành cũng được phối hợp nhịp nhàng qua các kỹ thuật. Họ phải ngồi Thiền (Zazen) hằng ngày cho đầu óc trống không, tập trung tư tưởng để khai thác năng lượng bản thân. Sự phối hợp phòng ngự, công, thủ được các cao thủ chiêm nghiệm giữa thiên nhiên và con người, hoặc qua thực chiến để sáng tạo thành những quyền pháp (Kata) rất có ý nghĩa.
Để qua mắt đối phương, họ sáng tạo các vũ khí trá hình làm cho đối phương bất ngờ, phải khiếp sợ. Đó là những nông cụ để tác nghiệp của người nông dân chống lại giáo, gươm, thương, kích... khiến đối phương phải nhiều phen chiến bại. Những vũ khí này trước tiên là đòn gánh dài khoảng 2m như trường côn (Bo) sử dụng quyền biến trong mọi tình huống. Tiếp theo là chiếc néo đập lúa (còn gọi là côn nhị khúc hay Nunchaku) được sử dụng vừa bảo vệ thân thể vừa tấn công đa phương, làm đối phương có vũ khí sắt bén khó xoay xở được. Câu liêm (Kama), cặp câu liêm (lưỡi hái) cũng là vũ khí nguy hiểm cho đối phương mang kiếm. Đòn xay bột (Tonfa) với đường đi rất khó nhận biết vô cùng lợi hại khi sử dụng hai cái. Xóc rơm đinh ba hay dùng để xỉa cá (Sai) như một kiếm ngắn nhưng trùi mũi, đánh được cả hai đầu, có hai mấu để bắt, khóa, có thể sử dụng hai hoặc ba Sai trong tay một người sử dụng thành thạo. Lúc lâm trận, nó có thể gài bắt, ném, phóng và bẻ gãy kiếm đối phương một cách dễ dàng. Đa phần các loại vũ khí của Okinawa đều làm cho đối phương không ngờ và dấu diếm an toàn ở tay áo hoặc ngực áo. Với trình độ cao, người sử dụng có thể khống chế kiếm, kích, mã tấu v.v....
Đến thế kỷ 18, chính sách nghiêm cấm sử dụng vũ khí trong dân chúng nói trên chấm dứt. Năm 1901, Karatedo được chấp nhận như một môn học trong chương trình giáo dục thể chất tại các trường phổ thông ở Shuri của Okinawa nên còn được gọi là Okinawate. Vì có sự hòa trộn giữa võ cổ truyền người Nhật và môn võ gốc Okinawa nên qua các thời kỳ nó có nhiều tên gọi khác nhau.
Vào đầu thế kỷ 20 (năm 1916), thầy Gichin Funakoshi - Người đã Hiện đại hoá Karatedo (Học trò của Tổ sư Yasutsune Itosu) từ Okinawa về Nhật Bản truyền bá môn Karatedo hiện đại. Tháng 5 - 1922, tại trung tâm Thể dục thể thao Tokyo, thầy đã giới thiệu và biểu diễn môn võ này. Sau đó, thầy giữ chức Chủ tịch Hội võ thuật Cấp tiến Xã hội Okinawa (Okinawa - Shobukai). Đến năm 1929, thầy Gichin Funakoshi đã thay đổi các từ tượng hình để viết chữ "Không" theo nghĩa "Hư vô" nhấn mạnh tính không của vạn pháp dựa theo nguyên lý "Vô hành, vô tâm, tâm vô trú xứ" và lấy tên là Karatedo (Không Thủ Đạo). Thầy cũng hệ thống lại môn võ này thành ba phần chính là : Kỹ thuật căn bản (Kihon Kititsu), Quyền (Kata) và Đối luyện (Kumite) được các hệ phái khác ủng hộ, thời kỳ này gọi là Shin Karatedo (Tân Không Thủ Đạo). Cũng ở thời gian này, các câu lạc bộ được thành lập trong các trường Đại học Hoàng gia ở Tokyo, Shoka, Takusoku...
Lịch sử phát triển Karatedo (Phần 2)
________________________________________
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KARATEDO (tiếp theo)
Năm 1930, thầy Kenwa Mabuni (Chưởng môn Hệ phái Shito Ryu) và Chojun Miyagi (Chưởng môn Hệ phái Goju Ryu) cũng đã thành lập nhiều Câu lạc bộ Karatedo lớn ở Osaka. Đến năm 1935, thầy Gichin Funakoshi biên soạn và xuất bản cuốn sách "Karatedo Kyohan" tạo bước phát triển vững chắc trong làng võ thuật Nhật Bản. Năm 1936, thầy đã thành lập Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu). Sau này, thầy Hironiri Ohtsuka cũng thành lập Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu). Bốn hệ phái chính này có một số nét đặc trưng phòng ngự như sau:
1) Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu): "Đòn đỡ cũng là đòn tấn công dưới sự bộc phát của cường lực (Kime) cao nhất" .
a) Sức mạnh: Tốc độ càng nhanh thì sức càng mạnh, cường lực càng dũng mãnh mới xuyên phá được mục tiêu như khi luyện công phá. Môn sinh phải tập trung sức mạnh bàn tay (hoặc chân) và khi va chạm phải xuyên suốt bất kỳ vật cản nào mới mang lại hiệu quả. Trong đối kháng hiện đại, khi một đòn đấm thuận vào trung tâm cơ thể đối phương, bạn dùng bàn chân trước để xoay mũi chân sau về trước, tay cùng chiều với chân đấm ra chuyển thân mình thành tấn trước, vai nghiêng 450 khi chân chạm đất trước mặt. Hiệu quả của nó là ở cường lực xuyên phá. Trong đối kháng truyền thống, lúc đối phương đang lao nhanh vào tấn công bạn là thời điểm bạn sử dụng sức mạnh tối đa, chỉ cần một kỹ thuật đá ngang (Yoko geri) cho hai lực nghịch cộng lại sẽ có hiệu quả tốt. Đỡ bằng nắm đấm (Ken) để ngăn chặn đòn tấn công của đối phương trực tiếp là lấy sức mạnh để phá vỡ sức mạnh.
b) Tốc độ: Đỡ nhanh nhẹn, nhu nhuyễn. Nó thuần về kỹ thuật tay mở (Sho), không va chạm trực tiếp, để linh hoạt dự bị cho những kỹ thuật phản công ngay sau khi đỡ. Đồng thời, môn sinh phải phối hợp tốt di chuyển thân pháp nhanh nhẹn để thực hiện kỹ thuật.
Những kỹ thuật căn bản nhưng được tập luyện thường xuyên như: Jodan age uke, Chudan uchi uke, Gedan Barai để được chuẩn xác phương hướng, phát lực hiệu quả. Sau đó, môn sinh tăng tốc độ, di chuyển theo đòn tấn công của đối phương. Những kỹ thuật này được biến thế qua kỹ thuật tay mở. Dạng này cũng được áp dụng trong các quyền thức các bài quyền nhập môn chủ yếu là nắm tay. Khi quá trình luyện tập lâu hơn, theo trình độ tăng tiến, bàn tay mở sẽ áp dụng nhiều hơn. Đòn đỡ của Shotokan Ryu là Tốc độ + Sức mạnh = Kime.
2) Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu): " Đòn đỡ cũng là điều kiện để tấn công".
Đòn đỡ luôn là động tác dự bị tấn công, nó sẽ không thực hiện nếu không nhằm mục đích tấn công. Đòn đỡ muốn có hiệu quả phải trên cơ sở đòn tấn công của đối phương nương theo chiều tấn công, không cản lại bằng những kỹ thuật Nagashi (dòng chảy), Inashi (đã qua) và Nori (cưỡi) để làm giảm lực tấn công của đối phương.
Khi đỡ đòn, kỹ thuật rất đa dạng, nhiều bộ vị trên cơ thể được sử dụng triệt để, tiến thoái xoay chuyển được chia đều cho toàn thân để nương một cực nhỏ chống đối lại cực lớn với phương pháp "Tam vị nhất thể" (3 trong 1). Ví dụ: đối phương tấn công một đòn đấm vào mặt, môn sinh sẽ nương theo đòn ấy chia đều khoảng cách cho các kỹ pháp: chuyển vị tức là thay đổi vị trí chân, chuyển thể tức là xoay chuyển toàn thân bằng hông và chuyển kỹ tức là làm biến đổi kỹ pháp. Nếu được vậy, môn sinh sẽ không chỉ vận dụng nhiều kỹ thuật ở đôi tay mà là của kỹ thuật toàn thân.
Trong tập luyện, bạn luôn ý thức "Phòng ngự là tấn công và tấn công cũng là phòng ngự", không sử dụng kỹ thuật đơn điệu mà phải sáng tạo.
3) Hệ phái Shito Ryu (Mịch Đông Lưu): "Quán tưởng (nhìn thấy) đối phương để có kỹ thuật phù hợp".
Hệ phái này chú trọng các động tác nhanh nhẹn, tư thế đối kháng với tấn cao di động hữu hiệu, ít sử dụng lực, không cứng nhắc nguyên tắc mà sáng tạo phù hợp theo thể tạng mỗi người.
Quan điểm của Hệ phái Shito Ryu theo phương châm:
a) Rakka (Cánh hoa rơi): Đón đỡ đòn tấn công của đối phương đến như hứng đỡ cánh hoa đang rơi xuống mặt đất.
b) Ryusui (Dòng chảy): Khi đỡ đòn tấn công của đối phương, ta phải nương theo lực đánh của họ như dòng nước chảy chứ không đỡ trực tiếp.
c) Ten-i (Hoán vị): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta di chuyển thích hợp theo một trong tám hướng với đòn tấn công đó.
d) Kussin (Ẩn thân): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta hóa giải bằng cách co duỗi thân thể, tạo khoảng cách an toàn mà đòn tấn công không thể va chạm được, ngay sau đó trở về vị trí cũ để phản công.
e) Hangeki (Phản kích): Phòng ngự và tấn công là một (Công phòng nhất thể), các bạn hóa giải được từ dự đoán được đòn tấn công của đối phương và phản công ngay cử động đầu tiên.
Tất cả phương pháp hóa giải của Hệ phái Shito Ryu được tập luyện từ kỹ thuật căn bản đến quyền thức, luôn ước lượng tốc độ, sức mạnh đối phương để áp dụng kỹ thuật có lợi thế cho ta. Nếu bạn cảm thấy tình huống khoảng cách không có lực, hãy áp dụng "Cánh hoa rơi". Bạn hãy luôn soi rọi, tìm kiếm kẻ hở của đối phương để có kỹ thuật phù hợp.
4 )Hệ phái Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu):
Quan niệm của hệ phái này là "Chuyển động tròn" tức ứng dụng trong phòng ngự hoặc tấn công muốn có hiệu quả tốt, phải xoay chuyển liên động của các thành phần thân thể: hông, vai, cánh tay, chân v.v...Để hóa giải, môn sinh ứng dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d ) vào kỹ thuật để lực mạnh nhất phát sinh vào giai đoạn giữa, khi lực va chạm đến sẽ bị triệt tiêu. Trong Goju Ryu, kỹ thuật được ước lượng tốc độ và sức mạnh, những sức mạnh không có lợi sẽ bị loại bỏ dần, kết hợp với các kỹ thuật nhu để cương nhu được nhuần nhuyển tạo ra sức mạnh tối đa. Hệ phái này chú trọng những điểm nhấn về các động tác nhanh - chậm - thả lỏng kết hợp sự điều khí hít thở cơ bụng, các kỹ thuật ngắn gọn, chặt chẽ. Phương pháp tập luyện có 3 cách:
a) Luyện kỹ thuật Hachisabaki (Tám tám): Cánh tay xoay chuyển theo hình số 8 tạo sự linh hoạt cho chân và hông. Phương pháp di chuyển 4 phương hướng chính 900 và 4 hướng chếch 450.
b) Kakie (Quái thủ): Tạo sự niêm dính của hai cánh tay.
c) Sanchin (Tam chiến): Bài quyền giúp tấn pháp kiên cố để phát triển toàn diện.
Karatedo có trên một trăm hệ phái, mặc dù có rất nhiều hệ phái khác nhau nhưng tất cả đều theo một hệ thống võ thuật thế giới.
Đến năm 1940, Karatedo được tôn vinh ở Nhật Bản, trở thành bộ môn tiêu biểu nhất trong làng võ thuật nước này, rất nhiều trường Trung, Đại học đã thành lập Câu lạc bộ riêng. Karatedo không những được giới trẻ yêu thích để phát triển thân thể cường tráng, giáo dục tinh thần và thể chất mà còn đến với giới trung niên, các em thiếu niên như một phương cách gìn giữ sức khỏe. Môn võ này cũng rất tiện ích cho người phụ nữ nào muốn có một thân hình thon thả và để tự vệ khi cần thiết. Cũng vào năm này, thầy Choji Suzuki (Tổ sư của Karatedo Việt Nam) - Thuộc Hệ phái Takeno Uchi Ryu (Trúc Chi Nội lưu) của dòng thiền Soto (Tào Động) ở Nagasaki truyền thụ với mục đích "làm giàu tri thức, giàu ứng xử và giúp người là giúp mình". Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc vào năm 1945, thầy tình nguyện ở lại Việt Nam dạy những bài võ Karatedo truyền thống đầu tiên mang tính chiến đấu thực dụng cho bộ đội, tự vệ ở Liên khu bốn, sau đó chuyển công tác về Liên khu năm.
Lịch sử phát triển Karatedo (Phần 3)
________________________________________
Lịch sử phát triển Karatedo (tiếp theo)
Đến năm 1956, thầy thành lập Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo (Suzucho Karatedo Dojo Noen Ryu) tại Huế, Suzucho là họ và tên ghép của người sáng lập nhưng cũng có nghĩa là "Tiếng chuông vang xa". Hệ thống giảng dạy của hệ phái này là phương pháp Tewaza, Ashiwaza, Ukewaza, Ozodosad... cùng 9 bài quyền Yen và Maki nhằm mục đích "làm giàu tri thức, giàu ứng xử và không vì danh lợi cá nhân, quyền lực, được, mất, thực, hư ở cõi người" với tôn chỉ truyền thống: "Nhân ái, Trí tuệ, Dũng cảm" để rèn luyện tinh thần và thể chất, hành xử quang minh, chính trực, công bằng và cao thượng. Lấy sự chính trực và lòng chân thật làm hành trang đi tới Đạo. Với môn quy rất nghiêm khắc, người nhập môn phải chuẩn mực đạo đức, tôn trọng Đạo đường (Dojo), nghi thức, trung thực với mọi người, không chửi thề, thậm chí không hút thuốc lá, uống rượu. Họ được tôi luyện để bình thản với thắng, thua ở đời thường bằng một niềm tin, thấu đáo mọi lẽ, với khát vọng, ước ao đã hoạch định để hành động nổ lực đến mục đích mong muốn, nhằm vươn tới Chân - Thiện - Mỹ. Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu có độ dày hoạt động khá lâu và nhất là thầy Chưởng môn sống gắn bó hơn nữa cuộc đời mình với Việt Nam - Nơi có truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng nên hấp thụ nền văn hóa ở đây. Vì thế, môn võ này mặc nhiên trở thành Karatedo Việt Nam, có lực lượng môn sinh đông đảo nhất. Hiện nay hơn bốn vạn người tập luyện hằng ngày với năm khu vực của sáu mươi tư tỉnh, thành. Ngoài ra, hệ phái còn có trên mười Phân đường đã phát triển ở các quốc gia khác như Australia, Mỹ, Canada và Đông âu...Thời gian qua, Karatedo Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả vẻ vang với rất nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới mang vinh quang về cho Tổ quốc. Tổ chức Hệ phái hoạt động theo truyền thống của cố Chưởng môn đời thứ nhất: Choji Suzuki, được sự bảo trợ của Uỷ ban Thể dục Thể thao Việt Nam. Chưởng môn bổ nhiệm Trưởng tràng thành lập Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban Chuyên môn. Chưởng môn có thể bãi miễn nếu Trưởng tràng và Ban Chấp hành làm việc không hiệu quả. Hiện nay, Hệ phái này đã chuẩn hóa kỹ thuật hài hòa với bốn Lưu phái chính là Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu), Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu), Shito Ryu (Mịch Đông Lưu) và Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu) để cải tiến phương pháp huấn luyện và luyện tập được phát triển trên diện rộng. Môn võ này có thể hoà trộn, thẩm thấu Karatedo Hiện đại và Karatedo Truyền thống để trở thành Karatedo Việt Nam nhưng nét đặc trưng của Suzucho Ryu - Nền móng của tự vệ truyền thống sẽ không lẫn vào đâu được. Ngày 18-3-2007, Hệ phái Suzucho Ryu đã tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2007-2012) tại TP.Hồ Chí Minh, đã thống nhất 9 chương trình hành động cụ thể của nhiệm kỳ này với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, chủ động hội nhập và phát triển. Đại hội đã thông qua sửa đổi môn quy, quyết định kể từ nay hệ phái có tên gọi là Suzucho Karatedo Ryu (Linh Trường Không Thủ Đạo Phái), phù hiệu hệ phái theo đúng mẫu cũ (Sư huynh Hạ Quốc Huy thiết kế từ tháng 3-1973), Tổ sư Suzucho Karatedo Ryu : Choji Suzuki (Phan Văn Phúc), Chưởng môn đời thứ hai: Tokuo Suzuki (Phan Văn Minh Đức). Học trò xuất sắc của thầy Choji Suzuki là Lê Văn Thạnh, hiện Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Trọng tài Quốc gia - Huấn luyện viên Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trưởng Bộ môn Karatedo tỉnh TT Huế; Lê Công - Phó Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Huấn luyện viên Trưởng Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trọng tài Quốc gia; Phó Trưởng tràng Ngô Văn Thanh, Phó Trưởng tràng Nguyễn Tấn Kiệt và Tổng thư ký Nguyễn Ngọc Thạo...ngoài ra, còn có các cao đồ và môn đồ như Henry Nguyễn Xuân Dũng, Hạ Quốc Huy, Trần Đình Tùng, Khương Công Thêm, Hoàng Như Bôn, Nguyễn Bá Kiều, Trần Định, Dương Đình Vinh, Nguyễn Chí Trí, Tôn Vĩ Đại, Trương Dẫn, Nguyễn Đình Kỉnh, Phan Hữu Bốn, Nguyễn Thông, Trương Đình Hùng, Lê Văn Phước, Hoàng Công Minh, Nguyễn Đình Anh Tuấn, Nguyễn Thành Tự, Nguyễn Phi Hổ, Huỳnh Văn Muôn, Lê Văn Lộc, Hồ Vũ Sang, Nguyễn Đình Sơn, Dương Phước Hùng, Võ Ngọc Tín, Dương Đình Hội, Nguyễn Kính, Hoàng Mai Sơn, Phạm Hồng Hà, Nguyễn Thị Thảo Quyên, Hồ Thu Nguyệt Hằng, Nguyễn Hoàng Ngân v.v...đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển Karatedo Việt Nam ngày nay.
Vào năm 1950, các giải Karatedo được lần lượt tổ chức và phát triển mạnh mẽ tại các trường Đại học Nhật Bản. Thời kỳ này, ở đất Phù Tang, Karatedo tiến xa hơn những khu vực khác cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đến năm 1958, Hội Karatedo Nhật Bản tổ chức giải vô địch Karatedo Toàn quốc đầu tiên. Luật lệ thi đấu Không Thủ Đạo đã được đặt ra nhằm mục đích hạn chế tối đa chấn thương, tử vong của vận động viên khi tranh giải. Vì vậy, các cuộc tranh tài càng phát triển, nhất là giữa các trường Đại học và Karatedo đã trở thành môn võ thuật mang tính thể thao. Trong tất cả kỹ thuật của Karatedo đều phải dựa trên nguyên lý toán học, vật lý học và phù hợp tâm - sinh lý học, kỹ thuật cương và nhu được phối hợp khoa học, với những va chạm ngắn, gọn, hẹp nên rất hiệu quả trong thực chiến. Hơn nữa, nó là một môn võ sau nền tảng căn bản là sự sáng tạo, không mặc định, là một loại vũ khí tự có của người tập để chiến đấu trong mọi địa hình, địa vật, trong cả không gian và thời gian hạn chế.
Trong Karatedo, tự vệ, phòng ngự có nghĩa là tấn công nên từ kỹ thuật sơ cấp cho đến cấp thượng đẳng đều không tấn công trước "Karate ni sente nashi" tinh thần của nó là không bạo lực, luôn nhẫn nhịn, đa phần hệ thống quyền pháp (Kata) của Karatedo đều bắt đầu bằng đòn đỡ. Mục đích đòn đỡ trong Karatedo là làm lệch hướng đòn tấn công của đối phương. Tuy nhiên, đòn đỡ để tự vệ cũng chính là đòn tấn công và không mang ý nghĩa thụ động mà phải sáng tạo triệt để. Vì vậy, trong Karatedo phòng ngự tức tấn công và tấn công cũng là phòng ngự nên phải có kỹ pháp để bảo toàn sự phòng ngự đó và nhất là không dùng sự hiểu biết về nó vào mục đích không chính đáng. Bởi vậy, khi tranh tài đối kháng, vận động viên có tâm an, thần định, có tinh thần thượng võ và hiểu rõ huyền vi trong cõi người mới lĩnh hội được điều này.
Sở dĩ Karatedo hấp dẫn mọi người khắp năm châu chính vì tính chất khoa học, thực dụng, mang tính thẩm mỹ và văn hóa đạo đức của môn võ này: chiến thắng nhưng tôn trọng đối phương, không hãnh tiến. Cho đến nay, Karatedo đã được truyền bá khắp nơi trên thế giới, từ Đông sang Tây với sự năng nổ của các Võ sư, Huấn luyện viên nhiều quốc gia khác nhau. Vì thế, Karatedo đã trở thành tài sản chung của cả nhân loại.
Năm 1960, tổ chức Hiệp hội Không Thủ Đạo Thế giới gọi tắt là W.U.K.O (The World Union of the Karatedo Organization) được thành lập. Kể từ đó, bằng nổ lực của mình, tổ chức Hiệp hội đã gieo vào nhận thức của các môn sinh Không Thủ Đạo những ước mơ cao đẹp, tất cả vì hạnh phúc của con người qua các kỳ thi Thế vận hội. Đến năm 1994, Hiệp hội này được đổi tên thành Liên đoàn Karatedo Thế giới (W.K.F), điều hành các hoạt động Karatedo khắp nơi trên thế giới, ban hành luật chuyên môn và tổ chức tranh giải quốc tế. Hiện nay, tổ chức này có trên 156 quốc gia, chia thành 5 Liên đoàn: LĐ Karate Châu Âu (EKF), LĐ Karate Liên minh Mỹ (PKF), Liên minh Châu Phi (UFAK), LĐ Karate Châu Á (AKF) mà Việt Nam cũng là thành viên và LĐ Karate Châu Đại Dương. Karatedo đã trở thành biểu tượng thành tựu về thể lực đẹp nhất của nhân loại. Nổi trội với tính đại chúng trên khắp toàn cầu là yếu tố không thể thiếu để cấu thành Liên đoàn Không Thủ Đạo Thể thao Quốc tế (International federation for Karatedo Sport).
Quá trình phát triển của Karatedo được biết nhiều từ Ấn Độ sang Trung Quốc đến Okinawa về Nhật Bản và ra thế giới. Karatedo là một Đạo mà người Nhật đã đem nó áp dụng vào cuộc sống và xã hội nên phải có chương trình đào tạo khoa học cũng như được hệ thống hóa toàn cầu. Hơn thế nữa, nó giúp con người - một "tiểu vũ trụ" điều hòa quân bình âm dương để tâm, trí được an định, bớt tham dục.
Trà đạo, Kiếm đạo, Hoa đạo cũng có nguồn gốc từ lục địa nhưng hưng thịnh ở Nhật Bản vào thế kỷ 13 - Thời Hojo Tokimare. Mỗi khi được bắt rễ trên các đảo thì luồng văn hóa đó phát triển một cách đặc biệt, nó không hoàn toàn phá hủy cái mới mà làm cho cái mới hoàn thiện hơn. Nghệ thuật tự vệ Không Thủ Đạo cũng vậy, chủ yếu là nó giáo dục thể chất và tinh thần để mang tính thể thao thời thượng đến với Thế vận hội.
Môn sinh diễn đạt một bài quyền (Kata) sẽ kích thích và khơi dậy tính sáng tạo trong con người. Một bài quyền Karatedo là cách điệu hóa các động tác kỹ thuật qua một chuỗi liên động thi đấu với đối thủ tưởng tượng, nó có khả năng truyền tải một lượng thông tin và sức mạnh lớn lao. Chức năng của đối kháng (Kumite) là dẫn dắt để khám phá ra sự thật trong bản tính con người thông qua việc tiếp cận và lý giải khi trận đấu đang xảy ra, từ đó tự tìm cho mình một vị trí chiến đấu thích hợp, hoàn hảo. Nếu chúng ta ứng dụng trong cuộc sống, nó sẽ bồi đắp thêm sự hăng say, sáng tạo trong công việc, luôn yêu thương giúp đỡ mọi người, phát triển thể chất, tâm và trí với tinh thần tự tại, tự giác. Võ đạo của Karatedo là văn hóa ứng xử giữa con người với tự nhiên, con người với con người và con người với chính bản thân mình.
Karatedo là môn võ khoa học hiện đại, là nghệ thuật chiến đấu thực dụng nhưng bằng đức công bằng và lòng nhân ái. Thẩm thấu về Karatedo rất giống với sự thưởng thức nghệ thuật, phải chăng nó là bản tổng phổ trong âm nhạc, một bài thơ, một công trình kiến trúc hay một tác phẩm điêu khắc? hoặc cũng có thể hơn một kiệt tác nghệ thuật? Xét cho cùng thì Karetedo do tự thân sinh ra, nó chính là Đạo và được con người bắt gặp như một kiệt tác văn hóa.
Hiện nay, Karatedo dù là thể thao hay truyền thống cũng đều phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các vận động viên toàn cầu cùng đến với nghệ thuật. Tất cả nhằm tạo dựng tinh thần, hoàn thiện nhân cách, phát triển tuệ giác, tính trung thực và đúng đắn của nhân loại
Ngày lịch sử của Karatedo
________________________________________
Ngày lịch sử của Karate
Điều đầu tiên mà mọi học sinh mới học Karate, duy nhất chỉ học về lịch sử của Karate. Nó là duy nhất bởi vì con đường đi của Karate đã trải qua nhiều thế kỷ. Không có cuốn sách nào viết về nó cả, và cách học duy nhất mà một học sinh cần phải học đó là chăm chú lắng nghe người hướng dẫn và sẳn sàng nhắc lại bất cứ điều gì mà vừa nghe được. Bây giờ tôi sẽ rất dễ dàng nhắc lại bất cứ điều gì mà người Thầy của tôi đã nói với tôi .
Cách đây khoãng 5000 năm ở Ấn Độ có một vị hoàng tử giàu có, người mà đã truyền bá một phương cách tự vệ không cần vũ khí tuy chưa được hoàn chỉnh lắm - Vị Hoàng Tử này đã quan sát cách di chuyển của các loài động vật và nghiên cứu cách thức bảo vệ của chúng. Anh ta đã kín đáo ghi lại hình ảnh của con Hổ khi bắt con mồi, Anh ta nghiên cứu những con chim rừng đánh nhau như thế nào, để ghi lại sự chuyển động cánh và chân của chúng - Vị Hoàng Tử này đã áp dụng những kỹ thuật chiến đấu này tới cơ thể con người và nhận thấy rằng có rất nhiều điều trong đó có thể sử dụng thành công được .
Sau đó vị Hoàng Tử này đã thử nghiệm lên những người nô lệ để tìm ra những điểm yếu của cơ thể con người. Anh ta đã làm điều này rất thành công bằng cách đâm, thọc vật nhọn vào cơ thể của một nô lệ, kết quả một mũi thọc đã giết chết người nô lệ đó . Những trò trứ danh này mà trên 100 người nô lệ đã được dùng vào việc thí nghiệm kỳ quái này. Tất cả những điểm vùng áp lực đó và những điểm yếu của cơ thể con người đã được tìm ra. Vị Hoàng Tử này đã sử dụng những kỹ thuật chiến đấu của những động vật và điều khiển chúng vào các điểm yếu của cơ thể con người thành phương pháp tự vệ không cần vũ khí của Anh ta.
Tiếp đó nhân vật quan trọng trong lịch sử Karate là Bồ Đề Dạt Ma, nổi tiếng như Durama Taishi ở Nhật Bản, Ông góp một phần quan trọng nhất cho Karate và đã từng nhận danh hiệu : "Linh hồn của đạo Thiền". Bồ Đề Đạt Ma một nhà tu hành đã nghiên cứu Phật giáo tại Ấn Độ. Trong suốt thời gian Ông ở đó, có nhiều trộm cướp và bọn này đã giết một người du lịch chỉ vì tiền của anh ta, vì nghĩ anh ta là một nông dân hay một tu sĩ nào đó . Từ khi những nhà tu không được phép mang vũ khí, họ đã được dạy cách tự vệ ngay trong các tu viện song song cùng với Đạo Phật.
Bồ Đề Đạt Ma đã đến Trung Quốc và dạy tại Shaolinszu (tiếng Nhật Shorin-ji ) một đền ở Tỉnh Honan. Ở đó Ông nhận thấy rằng người Trung Quốc không thể nắm bắt ngay được các kỹ thuật phức tạp của Phật Giáo Ấn Độ, vì vậy Ông đã dạy về vấn đề tôn giáo một cách tự nhiên và dễ hiểu hơn : Như là Đạo Thiền của Phật giáo, thậm chí qua việc giảng dạy về đạo thiền đó đã đơn giản hơn cả Đạo Phật Ấn Độ, đạo mà một số người nông dân Trung Quốc vẫn thấy nó thật khó mà hiểu được. Những bài tập về trí não được thể hiện trong các buổi tập về Đạo Thiền đã chứng tỏ là quá khó . Những người nông dân chán chường những bài tập này và họ thấy rằng trí não họ vẫn luôn luôn để ở đâu ấy. Sau đó Bồ Đề Đạt Ma bằng trực giác của mình, Ông thấy muốn đưa được "ánh sáng "Đạo Thiền vào họ thì tốt hơn hết là dạy họ cách học những bài tập tự vệ sử dụng cơ bắp, bởi vì họ có phản ứng với cơ thể của họ nhưng lại không có đối với đầu óc của mình .
Bồ Đề Đạt Ma đã đưa ra một loạt di chuyển mà đã được làm gần như hoàn hảo và tổ chức một buổi biểu diễn mang lại nhiều điều sáng tỏ - một lần Ông đã đạt được điều này và tự biết bên trong của sự mở mang sáng tỏ này là gì, Ông đã có thể áp dụng và thực hành cảm nghĩ này vào cuộc sống hàng ngày của mình . Thậm chí qua bài tập này đã được đánh dấu rất lớn vào việc mang lại nhiều điều mở mang sáng tỏ cho người tập Đạo Thiền (Zen) nó trở thành nền tảng Ch'uan - fa của người Trung Quốc (theo nghĩa của chử : Con đường đầu tiên) Người Nhật gọi là KEMPO, chúng ta sẽ đề cập đến nó bắt đầu từ đây . Bài tập này được gọi bằng nhiều tên khác nhau, bởi vì những chuyển động của nó có vẽ như đơn giản và vô nghĩa, ngày nay phần lớn những người đề xướng Karate sau đó không còn đếm xỉa đến nó nữa .
May thay, một số ít người võ sư Trung Quốc đã nhận ra và hiểu được tầm quan trọng của bài tập này. Tuy nhiên thời gian qua đi Thiền và Karate trở nên ít liên kết với nhau. Số ít võ sư này đã truyền bài tập này đến học sinh của họ, họ nói với học sinh của mình rằng : Bài tập này là nền tảng của Karate, mặc dù hiếm khi họ giải thích được là tại sao! Những võ sư này tin tưởng người học trò họ sẽ trải qua sự quan trọng của nó ngay trong bản thân của anh ta mà không cần phải nói tại sao nó lại quan trọng như vậy - nếu anh ta thực hiện nó vào chính bản thân anh ta, thì sự ảnh hưởng vào anh ta càng tốt hơn .
Trong thế giới Karate hiện đại nhiều Trường học đã nhận ra sự cần thiết của Thiền (Zen) trong các chuyển động và thậm chí còn đi xa hơn đó là các phần thuộc về Đạo Thiền (Zen) là quan trọng nhất họ đã nói với học sinh của mình như vậy. Nhưng họ đã thất bại khi đưa bài tập vào theo phương pháp hoàn thiện những nguyên tắc này.
Như đã được biết Karate được thể hiện qua trí óc mà vẫn chưa hoàn toàn được để ý đến (suy nghỉ tự do chẳng hạn) và không duy trì tốt, bạn không thể đạt được sự vô thức này bằng "suy nghĩ" mà trong khi đó tư tưởng của bạn lại không hề lưu tâm đến - Cũng được biết cơ thể của bạn sẽ dự đoán được tất cả trong số sức mạnh của nó ở một đòn đấm, đòn đá hay một đòn bất ngờ tấn công là một trong số những nguyên tắc chính tạo nên hiệu quả của Karate, nhưng việc thực hiện này sẽ như thế nào trong khi trí óc không hề nghỉ đến những dự đoán này ?
Karate và Đạo Thiền (Zen) sẽ theo những nguyên tắc này ở chiều rộng hơn. Tôi không mong chờ bạn sẽ có thể áp dụng những nguyên tắc này đơn giản bằng cách đọc về chúng, mà tôi muốn bạn làm nó trở nên thân thuộc đến mức cuối cùng là bạn đã có kinh nghiệm với chúng và bạn sẽ biết được cách áp dụng kinh nghiệm đó vào Karate .
Bài tập mà Bồ Đề Đạt Ma đã sáng tạo ra qua dạng gốc của nó và dựa theo nền tảng của một dạng kiếm thuật Trung Hoa được biết như là PANGAI - NOON .
Vào năm 1900 Ông Uechi Kanei, một người dân Okinawa đã đến phía Nam Trung Hoa và đã nghiên cứu 3 kiểu kiếm thuật cao nhất, Ông đã nghiên cứu khoảng 10 năm với một trong số những võ sư kiếm thuật vĩ đại nhất sống dưới thời đó - Kết thúc 10 năm Ông Uechi mang những bài quyền tốt nhất (những bài tập định hình) Từ 3 dạng đó, từ cả kiểu dạng PANGAI - NOON của chính nó, Ông đã gìn giử bài tập mà Bồ Đề Đạt Ma đã phát triển gọi là SANCHIN - Từ Pangai - Noon và 2 dạng kia, ông đã làm thích ứng với bài quyền SEISAN và SAN-JU-ROKU ( San-Shih -Liu tiếng Trung Quốc) Ba bài Kata này trở thành nền tảng cho Hiệp hội Karate Okinawa.
Bạn phải trải qua những nguyên tắc của (Zen) được sử dụng trong Karate thì bạn mới trở nên hoàn hảo trong bài Sanchin được - mới đầu bạn trải qua những nguyên tắc này với cách gọi thoả thuận chung là "con mắt thứ ba" bạn sẽ có thể áp dụng chúng vào các kỹ thuật trong Karate .
Mới đầu Bồ Đề Đạt Ma chỉ giới thiệu và phát triển bài tập " con mắt thứ ba" của Ông trong những học trò của mình, Ông đã nói với họ điều mà tôi cho rằng vô cùng quan trọng đối với cả trong Karate và trong cuộc sống : " Linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau, bởi vì bạn khó mà cưỡng lại được với những đòi hỏi của cơ thể, hình như bạn không thể hiểu được mối liên quan mật thiết giữa cơ thể và trí óc , mặc dù vậy tôi sẽ đưa ra cho bạn một bài giảng ; huấn luyện cơ thể và trí óc của bạn với điều kiện đó mà bạn có thể có được một sự nhận thức cao hơn "
Nguồn: Trưởng tràng suzucho karatedo : Bát đẳng Lê Văn Thạnh
5 điều huấn thị và 20 điều răn của võ sư Gichi Funakoshi
________________________________________
Năm điều huấn thị của võ sư Funakoshi
Võ sư Funakoshi Gichin (1868-1957) đưa ra năm điều huấn thị đối với người luyện Karate chi phái Shotokan để rèn luyện đạo đức.
1.Nỗ lực hoàn thiện nhân cách:
Jinkaku kansei ni tsutomuru koto.
2.Luôn luôn chân thành:
Makoto no michi wo mamoru koto.
3.Nuôi dưỡng tinh thần nỗ lực:
Doryoku no seishin wo yashinau koto.
4.Trọng lễ nghĩa
Reigi wo omonzuru koto.
5.Kiềm chế các hành vi nóng nảy:
Kekki no yu wo imashimuru koto.
Hai mươi điều về Karate của sư tổ Funakoshi
1. Đừng quên Karate bắt đầu bằng Lễ, kết thúc cũng bằng Lễ.
Karate wa rei ni hajimari rei ni owaru koto o wasuru na.
2. Karate không nên ra đòn trước.
Karate ni sen te nashi.
3. Karate phải giữ nghĩa.
Karate wa gi no tasuke.
4. Trước tiên phải biết mình rồi mới đến biết người.
Mazu jiko o shire shikoshite hoka o shire.
5. Kỹ thuật không bằng tâm thuật.
Gijutsu yori shinjutsu.
6. Cần để tâm thoải mái.
Kokoro wa hanatan koto o yosu.
7. Khinh suất tất gặp rắc rối.
Wazawai wa ketai ni shozu.
8. Đừng chỉ có lúc nào ở võ đường mới nghĩ về karate.
Dojo no mi no karate to omou na.
9. Rèn luyện karate cả đời không nghỉ.
Karate no shugyo wa issho dearu.
10. Biến mọi thứ thành karate, như thế sẽ nắm được sự tuyệt vời của nó.
Arayuru mono o karate kasase soko ni myomi ari.
11. Karate giống như nước nóng, nếu ngừng hâm nóng thì sẽ nguội lạnh.
Karate wa yu no gotoku taezu netsu o ataezareba moto no mizu ni kaeru.
12. Đừng nghĩ thắng, hãy nghĩ đừng bại.
Katsu kangae wa motsu na, makenu kangae wa hitsuyo.
13. Chuyển hóa bản thân tùy theo đối phương.
Teki ni yotte tenka seyo.
14. Kết quả cuộc đấu phụ thuộc vào khả năng kiểm soát.
Ikusa wa kyojitsu no soju ikan ni ari.
15. Hãy nghĩ chân tay người cũng là kiếm.
Hito no teashi o ken to omoe.
16. Hễ ra khỏi nhà là có cả triệu địch thủ.
Danshimon o izureba hyakuman no teki ari.
17. Người mới tập Karate có thể còn gượng gạo, nhưng về sau phải thật tự nhiên.
Kamae wa s oshinsha ni, ato wa shizentai
18. Phải tập kata thật chuẩn, nhưng nhớ là thực chiến sẽ khác đi.
Kata wa tadashiku, jissen wa betsu mono.
19. Nhớ kiểm soát độ mạnh yếu của lực, độ linh hoạt của cơ thể, độ nhanh chậm của đòn thế.
Chikara no kyojaku, karada no shinshuku, waza no kankyu o wasuru na.
20. Luôn chín chắn khi dụng võ.
Tsune ni shinen kofu seyo.
Bốn hệ phái lớn của Karatedo
________________________________________
Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu):
"Đòn đỡ cũng là đòn tấn công dưới sự bộc phát của cường lực (Kime) cao nhất".
Sức mạnh: Tốc độ càng nhanh thì sức càng mạnh, cường lực càng dũng mãnh mới xuyên phá được mục tiêu như khi luyện công phá. Bạn phải tập trung sức mạnh bàn tay (hoặc chân) và khi va chạm phải xuyên suốt bất kỳ vật cản nào mới mang lại hiệu quả. Trong đối kháng hiện đại, khi một đòn đấm thuận vào trung tâm cơ thể đối phương, bạn dùng bàn chân trước để xoay mũi chân sau về trước, tay cùng chiều với chân đấm ra chuyển thân mình thành tấn trước, vai nghiêng 450 khi chân chạm đất trước mặt. Hiệu quả của nó là ở cường lực xuyên phá. Trong đối kháng truyền thống, lúc đối phương đang lao nhanh vào tấn công bạn là thời điểm bạn sử dụng sức mạnh tối đa, chỉ cần một kỹ thuật đá ngang (Yoko geri) cho hai lực nghịch cộng lại sẽ có hiệu quả tốt. Đỡ bằng nắm đấm (Ken) để ngăn chặn đòn tấn công của đối phương trực tiếp là lấy sức mạnh để phá vỡ sức mạnh.
Tốc độ: Đỡ nhanh nhẹn, nhu nhuyễn. Nó thuần về kỹ thuật tay mở (Sho), không va chạm trực tiếp, để linh hoạt dự bị cho những kỹ thuật phản công ngay sau khi đỡ. Đồng thời, bạn phải phối hợp tốt di chuyển thân pháp nhanh nhẹn để thực hiện kỹ thuật.
Những kỹ thuật căn bản nhưng được tập luyện thường xuyên như: Jodan age uke, Chudan uchi uke, Gedan Barai để được chuẩn xác phương hướng, phát lực hiệu quả. Sau đó, bạn tăng tốc độ, di chuyển theo đòn tấn công của đối phương. Những kỹ thuật này được biến thế qua kỹ thuật tay mở. Dạng này cũng được áp dụng trong các quyền thức các bài quyền nhập môn chủ yếu là nắm tay. Khi quá trình luyện tập lâu hơn, theo trình độ tăng tiến, bàn tay mở sẽ áp dụng nhiều hơn. Đòn đỡ của Shotokan Ryu là Tốc độ + Sức mạnh = Kime.
Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu):
"Đòn đỡ cũng là điều kiện để tấn công". Đòn đỡ luôn là động tác dự bị tấn công, nó sẽ không thực hiện nếu không nhằm mục đích tấn công. Đòn đỡ muốn có hiệu quả phải trên cơ sở đòn tấn công của đối phương nương theo chiều tấn công, không cản lại bằng những kỹ thuật Nagashi (dòng chảy), Inashi (đã qua) và Nori (cưỡi) để làm giảm lực tấn công của đối phương.
Khi đỡ đòn, kỹ thuật rất đa dạng, nhiều bộ vị trên cơ thể được sử dụng triệt để, tiến thoái xoay chuyển được chia đều cho toàn thân để nương một cực nhỏ chống đối lại cực lớn với phương pháp "Tam vị nhất thể" (3 trong 1). Ví dụ: đối phương tấn công một đòn đấm vào mặt, bạn sẽ nương theo đòn ấy chia đều khoảng cách cho các kỹ pháp: chuyển vị tức là thay đổi vị trí chân, chuyển thể tức là xoay chuyển toàn thân bằng hông và chuyển kỹ tức là làm biến đổi kỹ pháp. Nếu được vậy, bạn sẽ không chỉ vận dụng nhiều kỹ thuật ở đôi tay mà là của kỹ thuật toàn thân.
Trong tập luyện, bạn luôn ý thức "Phòng ngự là tấn công và tấn công cũng là phòng ngự", không sử dụng kỹ thuật đơn điệu mà phải sáng tạo.
Hệ phái Shito Ryu (Mịch Đông Lưu):
"Quán tưởng (nhìn thấy) đối phương để có kỹ thuật phù hợp". Hệ phái này chú trọng các động tác nhanh nhẹn, tư thế đối kháng với tấn cao di động hữu hiệu, ít sử dụng lực, không cứng nhắc nguyên tắc mà sáng tạo phù hợp theo thể tạng mỗi người. Quan điểm của Hệ phái Shito Ryu theo phương châm:
a) Rakka (Cánh hoa rơi): Đón đỡ đòn tấn công của đối phương đến như hứng đỡ cánh hoa đang rơi xuống mặt đất.
b) Ryusui (Dòng chảy): Khi đỡ đòn tấn công của đối phương, ta phải nương theo lực đánh của họ như dòng nước chảy chứ không đỡ trực tiếp.
c) Ten-i (Hoán vị): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta di chuyển thích hợp theo một trong tám hướng với đòn tấn công đó.
d) Kussin (Ẩn thân): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta hóa giải bằng cách co duỗi thân thể, tạo khoảng cách an toàn mà đòn tấn công không thể va chạm được, ngay sau đó trở về vị trí cũ để phản công.
e) Hangeki (Phản kích): Phòng ngự và tấn công là một (Công phòng nhất thể), các bạn hóa giải được từ dự đoán được đòn tấn công của đối phương và phản công ngay cử động đầu tiên.
Tất cả phương pháp hóa giải của Hệ phái Shito Ryu được tập luyện từ kỹ thuật căn bản đến quyền thức, luôn ước lượng tốc độ, sức mạnh đối phương để áp dụng kỹ thuật có lợi thế cho ta. Nếu bạn cảm thấy tình huống khoảng cách không có lực, hãy áp dụng "Cánh hoa rơi". Bạn hãy luôn soi rọi, tìm kiếm kẻ hở của đối phương để có kỹ thuật phù hợp.
Hệ phái Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu):
Quan niệm của hệ phái này là "Chuyển động tròn" tức ứng dụng trong phòng ngự hoặc tấn công muốn có hiệu quả tốt, phải xoay chuyển liên động của các thành phần thân thể: hông, vai, cánh tay, chân v.v...Để hóa giải, bạn ứng dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d ) vào kỹ thuật để lực mạnh nhất phát sinh vào giai đoạn giữa, khi lực va chạm đến sẽ bị triệt tiêu. Trong Goju Ryu, kỹ thuật được ước lượng tốc độ và sức mạnh, những sức mạnh không có lợi sẽ bị loại bỏ dần, kết hợp với các kỹ thuật nhu để cương nhu được nhuần nhuyển tạo ra sức mạnh tối đa. Hệ phái này chú trọng những điểm nhấn về các động tác nhanh-chậm-thả lỏng kết hợp sự điều khí hít thở cơ bụng, các kỹ thuật ngắn gọn, chặt chẽ. Phương pháp tập luyện có 3 cách:
a) Luyện kỹ thuật Hachisabaki (Tám tám): Cánh tay xoay chuyển theo hình số 8 tạo sự linh hoạt cho chân và hông. Phương pháp di chuyển 4 phương hướng chính 900 và 4 hướng chếch 450.
b) Kakie (Quái thủ): Tạo sự niêm dính của hai cánh tay.
c) Sanchin (Tam chiến): Bài quyền giúp tấn pháp kiên cố để phát triển toàn diện.
Okinawa - Cái nôi của Karate truyền thống.
________________________________________
Karatedo - Không Thủ Đạo
Okinawate - Đôi nét chấm phá
Vào thế kỷ 19 , quần đảo Okinawa sát nhập vào Nhật Bản . Thời điểm này đã xuất hiện ba nhân vật Không Thủ Thuật (Karate) nổi tiếng vượt hẳn khỏi tước vị Sư Phạm (Shihan) và Quyền Thánh. Các thầy đã phát triển Okinawate, đặt những nền tảng đầu tiên cho các hệ phái Karate sau này. Đó là :
( 1 ) - Sáng tổ Higaoshionno Kanryo (1855 - 1915) phát triển Okinawate tại Naha với trường phái Shorei Ryu (Chiêu Linh Phái).
( 2 ) - Sáng tổ Yatsusune Itosu Anko (1830 - 1916) phát triển Okinawate tại Shuri với trường phái Shorinji Ryu (Thiếu Lâm Phái) - Thầy Anko chính là thầy của Gichin Funakoshi Shihan (người khai sáng Karate hiện đại Shoto Ryu).
( 3 ) - Sáng tổ Kosaku Matsumora (1829 - 1898) phát triển Okinawate tại Tomari.
Naha , Shuri & Tomari là 3 địa danh được xem như cái nôi của Okinawa Karate... và Không Thủ Thuật ở 3 nơi này được biết đến với 3 danh xưng Naha-te , Shuri-te và Tomari-te.
Okinawa , cái nôi của thuật chiến đấu tay không
Tỉnh Okinawa nằm ở cực nam quần đảo Nhật Bản . Khí hậu bán nhiệt đới và nhiều hòn đảo có san hô vây bọc dưới một vùng biển xinh đẹp. Karate ra đời tại đây, rồi về sau lan truyền khắp thế giới, với số môn sinh ngày nay khoảng 30 triệu .
Thời cổ Okinawa có tên là Ryukyu (Lưu Cầu). Nó trở thành một vương quốc độc lập vào đầu thế kỷ 15 và phồn thịnh nhờ giao thương với Nhật Bản, Trung Quốc, và các nước láng giềng khác. Việc giao thương với Đông á đã kích thích sự phát triển của một soos bộ môn võ nghệ ở Okinawa.
Võ thuật tiến hóa một cách độc đáo ở quần đảo này vì những phát triển dị thường của lịch sử trong suốt một thời kỳ dài khoảng 400 năm. Trong nhiều thế kỷ, người dân đảo này không được phép cất giữ vũ khí, vì thế họ tự về bằng những kỹ thuật tay không, chỉ dùng thân thể hoặc những kỹ năng võ thuật cổ xưa dùng những dụng cụ thô sơ làm vũ khí.
Khi vương quốc được thống nhất vào hậu bán thế kỷ thứ 15, nhà vua tước đoạt toàn bộ vũ khí của các thủ lãnh địa phương và tùy tùng của họ để đề phòng hậu loạn. Rồi đến đầu thế kỷ 17, dòng hộ Shimazu của vùng Satsuma (nay là tỉnh Kagoshima) chinh phục Ryukyu. Vương quốc vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng tất cả đảo dân đều bị cấm dùng vũ khí.
Tuy nhiên qua nhiều thế kỷ, Karate và những môn võ thuật cổ xưa dùng vũ khí thô sơ vẫn được các bậc thầy bí truyền cho các đệ tử. Về sau, Okinawa trở thành một tỉnh của Nhật vào năm 1879. Chẳng bao lâu sau, Karate đã được giảng dạy tại các trường học ở Okinawa và được nhiều đảo dân tập luyện. Từ năm 1920, Karate lan truyền đến nhiều vùng khác của Nhật Bản, rồi ra khắp thế giới. Tại Okinawa ngày nay, tất cả mọi trường phổ thông cấp ba và một số trường cấp hai đề có môn Karate trong chương trình giáo giục thể dục thể thao. Okinawa có hơn 250 võ đường karate khác nhau dạy nhiều chi phái khác nhau. Khoảng một phần ba số nam giới ở Okinawa đã từng tập luyện Karate.
Chúng tôi đến thăm một võ đường tên là Bunbukan (Văn võ quán), nơi khoảng chừng 30 người đang luyện tập các thế võ cổ truyền dùng vũ khí thô sơ. Trên tường, chúng tôi thấy những vũ khí cổ truyền như gậy, sai (chĩa ba ngắn) , nuchanku (song côn) , tonfa (đoản côn có tay cầm), và kai (giầm). Một số vũ khí dùng trong các môn võ cổ truyền phát xuất từ Trung Quốc và Đông Nam Á, nhưng cũng có nhiều loại do chính người Okinawa tự sáng tạo ra từ những dụng cụ bình thường, vì họ không được phép mang vũ khí.
Nakamoto Mashahiro, chủ nhân võ đường, cho biết Karate và kỹ thuật dùng vũ khí dụng cụ cổ truyền liên hệ mật thiết với nhau. " Qua bao nhiêu thế kỷ, những môn sinh ở Okinawa đề phải học các kỹ thuật võ trang cổ truyền. Chúng ta có thể nói rằng vũ khí chỉ là một công cụ trợ giúp cho ta mà thôi, chứ không phải là cái gì khác được. Cái tinh túy của Karate là kỹ thuật chiến đấu tay không, nhưng ta cũng có thể hiểu được cái tinh túy này qua việc học sử dụng những vũ khí công cụ dài ngắn trong tay ta.
Sau đó, chúng tôi đến thăm một võ đường Karate tên là Jundokan (Thuận Đạo Quán). Một số người đang tự luyện tập trong võ đường rộng lớn, học các kỹ thuật của trường phái Karate Goju-ryu (Cương Nhu Karate). Tại võ đường này, các võ sư và môn sinh cao cấp chỉ cho môn sinh mới các tư thế, bất cứ lúc nào môn sinh mới muốn được hướng dẫn. Các hội viên có thể đến tập bất cứ lúc nào, vì võ đường mở cửa từ 6 giờ sáng đến 10 giờ tối mỗi ngày.
Chủ nhân của võ đường Jundokan, võ sư Miyazato Eiichi, cho biết các môn sinh Karate học được nhiều qua việc luyện tập các bài quyền Kata. Võ sư Miyazato không cảm thấy hài lòng về việc một số người học Karate chỉ với mục đích thi đaaus và giành thắng lợi . "Nếu bạn tập trung luyện tập các bài quyền Kata, bạn sẽ tiếp tục luyện tập Karate suốt đời. Mục tiêu tối hậu của Karate là để tự vệ, vì thế, nếu bạn chỉ nghĩ đến việc thắng bại, bạn sẽ không thể nào hiểu được ý nghĩa đích thực của các bài quyền Kata".
Sự quyến rũ của Okinawa, cái nôi của Karate, khiến người nước ngoài thường nô nức kéo đến đây để học tập. Chúng tôi được xem võ sư Miyazato đang truyền thụ võ nghệ cho một môn sinh người Canada trông rất say mê rèn luyện môn Karate truyền thống này.
Karate và những kỹ thuật võ nghệ cổ truyền khác được những người dân Okinawa yêu chuộng hòa bình tự hào về truyền thống võ thuật của mình tạo ra. Vì Karate đã trở thành một môn thể thao phổ biến thu hút ngày càng nhiều người yêu thích trên thế giới, người Okinawa ngày nay mong rằng những người mến mộ khắp nơi hãy để tâm vào tinh thần karate thực sự và thực hành các kỹ thuật Okinawa truyền thống.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top