Lich Su Part 2
BÀI 1
NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp
1.1. Bối cảnh
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Pháp bị tổn thất nặng nề: hàng loạt nhà máy, đường sá, cầu cống và làng mạc bị tàn phá, sản xuất công nghiệp bị đình trệ, lạm phát tràn lan, giá cả gia tăng.
Để nhanh chóng khắc phục những thiệt hại, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, chính quyền Pháp đã ra sức khôi phục và thúc đẩy sản xuất trong nước, đồng thời tăng cường đầu tư khai thác các nước thuộc địa của Pháp ở Đông Dương và Châu Phi.
1.2. Chính sách khai thác của Pháp ở Đông Dương
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã chính thức triển khai chương trình khai thác lần thứ hai ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam;
Tư bản Pháp đã tăng cường đầu tư vào Việt Nam với quy mô lớn, trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp và khai thác khoáng sản: trong 6 năm (1924 - 1929), tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương, trong đó chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ Phờ - răng (tăng 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh).
Chương trình khai thác lần thứ hai đã làm biến đổi mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam.
1.3. Hoạt động đầu tư khai thác lần thứ hai ở Việt Nam
* Trong nông nghiệp
Năm 1927, số vốn đầu tư vào nông nghiệp mà chủ yếu là lập các đồn điền cao su lên đến 400 triệu phờ-răng, tăng 10 lần so với trước chiến tranh; diện tích cao su năm 1930 tăng lên 120.000 ha (năm 1918: 15.000 ha) và nhiều công ty cao su mới ra đời như: Đất Đỏ, Misơlanh, Công ty trồng trọt cây nhiệt đới...
* Trong lĩnh vực khai mỏ
* Tiểu thủ công nghiệp: Thực dân Pháp mở thêm nhiều cơ sở gia công, chế biến:
+ Nhà máy sợi ở Nam Định, Hải Phòng; nhà máy rượu ở Hà Nội, Nam Định, Hà Đông; nhà máy diêm ở Hà Nội, Hàm Rồng, Bến Thủy.
+ Nhà máy đường Tuy Hòa, nhà máy xay xác, chế biến gạo Chợ Lớn....
* Thương nghiệp:
Giao lưu buôn bán nội địa được đẩy mạnh, đặc biệt là ngoại thương: trước chiến tranh, hàng hóa Pháp nhập vào Đông Dương chiếm 37%, đến năm 1930 đã lên đến 63%.
Pháp thực hiện chính sách đánh thuế nặng đối với hàng hoá nước ngoài nhập vào Việt Nam để tạo thuận lợi cho hàng hóa Pháp nhập khẩu vào Việt Nam.
* Giao thông vận tải tiếp tục được đầu tư phát triển, đặc biệt là hệ thống đường sắt và đường thủy nhằm phục vụ cho công cuộc khai thác, vận chuyển vật liệu và hàng hoá. Các đô thị được mở rộng và cư dân thành thị cũng tăng nhanh.
* Tài chính ngân hàng
Ngân hàng Đông Dương nắm quyền chỉ huy nền kinh tế Đông Dương: nắm quyền phát hành giấy bạc và có nhiều cổ phần trong hầu hết các công ty tư bản Pháp..
* Ngoài ra, thực dân Pháp còn bóc lột nhân dân ta bằng các loại thuế khóa nặng nề. Nhờ vậy, ngân sách Đông Dương thu được năm 1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912.
2. Chính sách chính trị - xã hội và văn hoá - giáo dục của thực dân Pháp
2.1. Chính trị - xã hội
Một mặt, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế triệt để, tăng cường hệ thống cảnh sát, mật thám, nhà tù để trấn áp các hoạt động cách mạng.
Mặt khác, tiến hành một số cải cách chính trị - hành chính, lôi kéo một bộ phận địa chủ và tư sản Việt Nam tham gia vào Hội đồng quản hạt ở Nam kỳ, Viện dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ, khai thác vai trò của bộ máy chính quyền phong kiến tay sai.
2.2. Văn hoá - giáo dục
Hệ thống giáo dục Pháp - Việt được mở rộng từ cấp tiểu học đến trung học, cao đẳng và đại học, nhằm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ phục vụ cho việc khai thác và cai trị của Pháp.
Cho phép hàng chục tờ báo, tạp chí bằng chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp hoạt động, khuyến khích xuất bản các sách báo cổ vũ chủ trương "Pháp - Việt đề huề", gieo rắc ảo tưởng hòa bình và hợp tác giữa chúng với bọn bù nhìn.
Các trào lưu tư tưởng, khoa học - kĩ thuật, văn hóa nghệ thuật phương tây du nhập vào Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng còn khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan và tệ nạn xã hội.
Các yếu tố văn hóa truyền thống, văn hóa mới tiến bộ, ngoại lai, nô dịch cùng tồn tại, đan xen và đấu tranh với nhau.
3. Những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội Việt Nam
3.1. Chuyển biến về kinh tế
Thực dân Pháp đã du nhập vào Việt Nam quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa trong một chừng mực nhất định đan xen với quan hệ sản xuất phong kiến.
Các ngành kinh tế - kĩ thuật của tư bản Pháp ở Việt Nam phát triển hơn trước.
Mặc dù vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn rất lạc hậu, mất cân đối và lệ thuộc vào nền kinh tế Pháp, nhân dân ta càng đói khổ hơn.
3.2. Chuyển biến về giai cấp
Công cuộc khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc, bên cạnh các giai cấp cũ (Địa chủ - phong kiến và nông dân) đã xuất hiện các giai cấp mới (Tư sản, tiểu tư sản và công nhân) với quyền lợi, địa vị và thái độ chính trị khác nhau.
3.2.1. Giai cấp địa chủ - phong kiến
Một bộ phận được thực dân Pháp dung dưỡng để làm chỗ dựa cho chúng, nên lực lượng này thường để tăng cường cướp đoạt ruộng đất, bóc lột nhân dân.
Tuy vậy, vẫn có một bộ phận địa chủ, nhất là địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước, sẵn sàng tham gia các phong trào chống Pháp và tay sai.
3.2.2. Giai cấp tư sản
Mấy năm sau khi chiến tranh kết thúc, giai cấp tư sản Việt Nam được hình thành; họ phần lớn là những tiểu chủ trung gian làm thầu khoán, đại lí cho tư bản Pháp,... đã tích luỹ vốn và đứng ra kinh doanh riêng trở thành tư sản như: Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thu, Trương Văn Bền...
Giai cấp tư sản Việt Nam tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh như Công thương (Tiên Long Thương đoàn (Huế), Hưng Hiệp hội xã (Hà Nội), xưởng chế xà phòng của Trương Văn Bền (Sài Gòn)), kinh doanh tiền tệ (Ngân hàng Việt Nam ở Nam Kì), Nông nghiệp và khai mỏ (công ty của Bạch Thái Bưởi, đồn điền cao su của Lê Phát Vĩnh và Trần Văn Chương).
Ngay khi vừa mới ra đời giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư bản Pháp chèn ép, kìm hãm nên số lượng ít, thực lực kinh tế yếu, nặng về thương nghiệp và sau một thời gian phát triển thì bị phân hoá thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản: Có quyền lợi gắn liền với đế quốc nên họ câu kết chặt chẽ với thực dân Pháp.
Tư sản dân tộc: Kinh doanh độc lập, bị chèn ép. Họ có khuynh hướng dân tộc và dân chủ và giữ một vai trò đáng kể trong phong trào dân tộc.
3.3.3. Giai cấp tiểu tư sản thành thị (Những người buôn bán nhỏ, viên chức, tri thức, học sinh, sinh viên...)
Sau chiến tranh, giai cấp tiểu tư sản phát triển nhảy vọt về số lượng; họ bị tư bản Pháp ráo riết chèn ép, khinh rẽ, bạc đãi, đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản và thất nghiệp.
Họ có tinh thần dân tộc, chống thực dân và tay sai. Đặc biệt bộ phận học sinh, sinh viên, tri thức có điều kiện, khả năng tiếp xúc với các tư tưởng tiến bộ nên có tinh thần hăng hái tham gia cách mạng.
3.3.4. Giai cấp nông dân (90% dân số)
Bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề dẫn đến bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn. Một bộ phận trở thành tá điền cho địa chủ - phong kiến, một bộ phận nhỏ rời bỏ làng quê vào làm việc trong các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ của tư sản => Trở thành công nhân.
Họ có mâu thuẫn sâu sắc với đế quốc, phong kiến và sẵn sàng nỗi lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
3.3.5. Giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Trước chiến tranh, giai công nhân Việt Nam khoảng 10 vạn người, đến năm 1929 tăng lên đến 22 vạn.
Ngoài những đặc trưng chung của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nét riêng:
+ Có quan hệ gắn bó tự nhiên với giai cấp nông dân.
+ Chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến và tư bản người Việt.
+ Kế thừa truyền thống bất khuất, anh hùng của dân tộc.
+ Sớm tiếp thu những ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới.
Là một giai cấp mới, nhưng công nhân đã sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất, tự giác và vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo khuynh hướng tiến bộ.
Tóm lại, Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của thế kỉ XX, Việt Nam có những chuyển biến quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục. Những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai, đẩy tinh thần cách mạng của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lên một độ cao mới.
BÀI 2
PHONG TRÀO DÂN TỘC DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1925
1. Bối cảnh quốc tế và tác động của nó đến Việt Nam.
Tháng 11/1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, đưa giai cấp công nông lên nắm chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến học thuyết của Mác thành hiện thực.
Tháng 2/1919, Quốc tế cộng sản (Quốc tế 3) thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Quốc tế III, phong trào cách mạng vô sản thế giới phát triển nhanh chóng:
Tháng 12/1920, Đảng cộng sản Pháp thành lập.
Năm 1921, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời.
Từ năm 1923 trở đi, một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được du nhập vào Việt Nam qua một số sách báo của Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Trung Quốc và tác động trực tiếp đến một số trí thức Việt Nam yêu nước ở nước ngoài mà tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc.
2. Phong trào dân tộc dân chủ trong nước do giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản lãnh đạo giai đoạn 1919 - 1925
Những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào dân tộc dân chủ do giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản lãnh đạo diễn ra khá mạnh mẽ:
2.1. Phong trào của giai cấp tư sản dân tộc
Để chống lại sự chèn ép, kìm hãm của Pháp, vươn lên giành lấy vị trí khá hơn về kinh tế - chính trị trong xã hội, giai cấp tư sản dân tộc đã phát động nhiều hoạt động đấu tranh sôi nổi:
+ Phong trào chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá diễn ra vào năm 1919.
+ Chống độc quyền thương cảng Sài Gòn (1923).
+ Ra một số tờ báo để làm diễn đàn đấu tranh như: Diễn dàn Đông Dương, Tiếng vang An Nam...
+ Thành lập Đảng Lập Hiến để tập hợp lực lượng đấu tranh đòi tự do, dân chủ
Phong trào diễn ra khá rầm rộ, nhưng khi thực dân Pháp nhượng bộ cho họ một số ít quyền lợi thì những người lãnh đạo đã thỏa hiệp và ngừng đấu tranh.
2.2. Phong tràoTiểu tư sản tri thức
Ngày 19/6/1924, tiếng bom Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc) của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa đấu tranh và đánh thức lòng yêu nước, mở màng cho một thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng Việt Nam;
Ở trong nước, những tri thức Việt Nam yêu nước đã tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ, thành lập nên nhiều tổ chức chính trị như: Hội Phục Việt, Đảng Thanh Niên, ra một số tờ báo như Chuông Rè, An Nam, Người nhà quê...để đấu tranh đòi tự do dân chủ.
Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (1925) và đám tang cụ Phan Chu Trinh (1926).
=> Tất cả họat động đấu tranh do tầng lớp tiểu tư sản tổ chức đều thất bại vì tổ chức không chặt chẽ, thiếu một đường lối chính trị rõ ràng.
Sự thất bại của phong trào dân chủ công khai trong giai đọan 1919 - 1925 do giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo đã cho thấy sự bế tắc về lực lượng lãnh đạo và con đường giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam.
3. Phong trào công nhân từng bước trưởng thành, sẵn sàng tiếp nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin và lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam cũng từng bước trưởng thành:
+ Năm 1919, công nhân ở nhiều nơi đã đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, nhưng vẫn còn mang tính lẻ tẻ, thiếu tổ chức và liên kết. (25 vụ đấu tranh)
+ Năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã thành lập Công hội đỏ (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu.
+ Năm 1922: công nhân viên chức ở các sở công thương tư nhân Bắc kỳ đòi trả lương ngày chủ nhật, thợ nhuộm ở Chợ Lớn bãi công.
+ Năm 1924: công nhân dệt, rượu ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương bãi công.
+ Đặc biệt, tháng 8/1925, công nhân Ba Son (Sài Gòn) đã lấy cớ đòi quyền lợi để bãi công nhằm ngăn cản tàu chiến của Pháp chở quân sang đàn áp phong trào đấu tranh của các thủy thủ Trung Quốc => Cuộc bãi công kết thúc thắng lợi với sự hưởng ứng và hỗ trợ của công nhân các ngành khác ở Sài Gòn.
Đây là cuộc bãi công có tổ chức và mục tiêu chính trị rõ ràng, không còn mang tính tự phát, vì mục đích kinh tế đơn thuần như trước đây. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Sự lớn mạnh về quy mô và trưởng thành về tổ chức và chính trị của phong trào công nhân Việt Nam là điều kiện thuận lợi cho quá trình truyền bá và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn sau này.
4. Hoạt động yêu nước của Nguyễn Ái Quốc (1919 - 1924) ở nước ngoài
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Văn Ba đã rời cảng Nhà Rồng trên con tàu vận tải La-tus-trê-vin để sang các nước phương Tây.
Từ 1911 đến 1917, Người đến nhiều nước ở Châu Phi, Châu Mĩ và đến cuối năm 1917 Người trở về Pháp và gia nhập Đảng xã hội Pháp.
Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc cùng với các chí sĩ cách mạng Việt Nam tại Pháp đã gửi tới Hội nghị Vec-xai "Bản yêu sách của nhân dân An Nam" đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đã không được chấp nhận.
Tháng 7/1920, Người đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin, từ đó Người tin theo Lênin và đứng về phía Quốc tế cộng sản.
Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin một con đường mới cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là Con đường cách mạng vô sản.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pháp.
Năm 1922, ra báo "Người cùng khổ" để vạch trần tội ác của Chủ nghĩa đế quốc. Ngoài ra còn viết bài cho các báo "Nhân đạo", "Đời sống"... và viết cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp"...
Năm 1923, Người đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân và ở lại làm việc tại Quốc tế 3, viết bài cho báo Sự thật, Tạp chí thư tín Quốc tế...
Năm 1924, Người dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), chuẩn bị cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.
BÀI 3
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TRƯỚC THÀNH LẬP ĐẢNG (1925 - 1930)
1. Sự phát triển của khuynh hướng cách mạng vô sản và phong trào công nhân
1.1. Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên
1.1.1. Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Sau khi trở về Quảng Châu - Trung Quốc (1/11/1924), Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam ở đây cùng với một số thanh niên Việt Nam hăng hái mới từ trong nước sang.
Tháng 2/1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên Việt Nam tích cực để tuyên truyền giác ngộ họ và lập ra tổ chức "Cộng sản đoàn".
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên, trong đó tổ chức "Cộng sản đoàn" là nòng cốt và ra tuần báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
1.1.2. Truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
Từ năm 1924 đến năm 1927, Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào tạo được 75 thanh niên Việt Nam thành những chiến sĩ cách mạng để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đầu năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp những bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu và in thành tác phẩm "Đường Cách Mệnh".
Nội dung cơ bản của tác phẩm "Đường Cách Mệnh":
* Ba tư tưởng cơ bản của cách mạng Việt Nam:
Cách mệnh là sự nghiệp của quần chúng đông đảo, nên phải động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc lột.
Cách mạng phải có Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo.
Cách mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ phận của cách mạng thế giới.
* Sáu mục đích nói cho đồng bào ta biết rõ:
Vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm cách mệnh?
Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người?
Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi.
Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ.
Ai là bạn ta và ai là thù ta?
Cách mệnh thì phải làm như thế nào?
Năm 1926, Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên đã có những tổ chức cơ sở ở nhiều trung tâm lớn trong nước (Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn...)
Song song với việc phát triển cơ sở hội trong nước, tác phẩm "Đường Cách Mệnh" và tuần báo Thanh Niên được bí mật đưa về nước để tuyên truyền và phổ biến chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp vô sản.
Năm 1928, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên thực hiện chủ trương "Vô sản hoá": Đưa hội viên đã được đào tạo vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền..., cùng sống, lao động với công nhân để tự rèn luyện, đồng thời trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào giai cấp công nhân Việt Nam.
Đến tháng 5/1929, Hội đã có tổ chức cơ sở hầu khắp cả nước.
1.2. Phong trào công nhân trở thành một lực lượng độc lập 1925 - 1929
Những hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tác động mạnh mẽ đến sự giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam. Thêm vào đó là sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Quảng Châu và những Nghị quyết về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5..., phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 1926 - 1929:
* Trong hai năm 1926 - 1927: Nhiều cuộc bãi công của công nhân viên chức đã nổ ra liên tiếp ở nhiều nơi như: Nhà máy sợi Nam Định, đồn điền cao su Cam Triêm, Phú Riềng, đồn điền cà phê Rayan (Thái Nguyên).
* Trong hai năm 1928 - 1929: Có đến 40 cuộc đấu tranh nổ ra trên khắp cả nước, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân ở nhà máy ximăng, sợi Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm - cưa Bến Thủy, đóng xe lửa Trường Thi (Vinh), Xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội), Xưởng đóng, sửa chữa tàu Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền Phú Riềng.
Đặc điểm của phong trào công nhân trong giai đoạn này là đã vượt ra khỏi phạm vi của một nhà máy, công xưởng, bước đầu có sự liên kết giữa nhiều ngành, nhiều địa phương và đã trở thành một phong trào liên tục, mạnh mẽ. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt và giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Cùng với sự lớn mạnh và trưởng thành của phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp yêu nước khác cũng phát triển, tạo nên một làn sóng cách mạng dân tộc khắp cả nước.
2. Phong trào đấu tranh do tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo (1925 - 1930).
2.1. Tân Việt Cách Mạng Đảng và sự phân hoá của nó
Cùng với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên ở nước ngoài, tháng 7/1925, tại Vinh (Nghệ An), nhóm chính trị phạm ở Trung kỳ và các sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội đã thành lập Hội Phục Việt.
Đây là một tổ chức yêu nước, nhưng khi mới thành lập, Hội chưa có lập trường rõ ràng.
Sau cuộc đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu (11/1925), thực dân Pháp đã phát hiện và theo dõi, phá hoại, nên Hội đã đổi tên thành Hội Hưng Nam.
Trong quá trình hoạt động, Hội Hưng Nam đã chịu tác động mạnh mẽ của lập trường, tư tưởng cách mạng vô sản của Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên:
+ Hội Hưng Nam đã nhiều lần liên lạc để hợp nhất với Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên, nhưng không thành.
+ Nhiều lần đổi tên: Năm 1926: Việt Nam cách mạng Đảng; Năm 1927 đổi thành Việt Nam cách mạng đồng chí hội; và tháng 7/1928, lấy tên Tân Việt cách mạng Đảng.
* Nội bộ của Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hoá mạnh mẽ do tác động của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên:
- Một bộ phận lớn theo đường lối vô sản và nhóm này cũng phân thành 2 nhóm:
+ Một nhóm nhỏ gia nhập vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên.
+ Nhóm còn lại chuẩn bị thành lập một chính đảng mới theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Bộ phận còn lại theo đường lối dân chủ tư sản.
2.2. Việt Nam Quốc dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái
2.2.1. Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập
Đầu năm 1927, một nhóm thanh niên yêu nước do Phạm Tuấn Tài đứng đầu đã lập ra một nhà xuất bản tiến bộ - Nam Đồng thư xã.
Lúc đầu, họ chưa có đường lối chính trị rõ rệt, nhưng sau đó đã tiếp thu tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc) và lập ra Việt Nam quốc dân Đảng vào cuối năm 1927. Đây là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản.
+ Mục tiêu của đảng là đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền.
+ Thành phần của đảng gồm sinh viên, học sinh, công chức, tư sản lớp dưới, người làm nghề tự do, một số nông dân khá giả, thân hào, địa chủ, binh lính sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp...
+ Về tổ chức, Việt nam Quốc dân Đảng có 4 cấp từ Trung ương xuống chi bộ cơ sở nhưng chưa bao giờ trở thành một hệ thống trong cả nước, việc kết nạp đảng viên dễ dàng, lỏng lẽo...
2.2.2. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (02/1930)
* Nguyên nhân bùng nổ
Ngày 9/2/1929, ở Hà Nội xảy ra vụ ám sát tên trùm mộ phu Ba - Danh (Bazin), thực dân Pháp đã tiến hành đàn áp các tổ chức và đảng phái cách mạng Việt Nam.
Lực lượng của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị tổn thất lớn trong đợt truy quét này. Thay vì phải tập trung để khôi phục và củng cố lực lượng, các yếu nhân còn lại của Đảng này đã quyết định dốc hết lực lượng cho một cuộc bạo động với mục tiêu "Không thành công cũng thành nhân".
* Diễn biến
Đêm 9/2/1930, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái, sau đó là Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình. Ở Hà Nội có ném bom phối hợp.
Ở Yên Bái, quân khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số quân Pháp, nhưng không làm chủ được tỉnh lị nên hôm sau đã bị Pháp phản công và tiêu diệt.
Ở các nơi khác, nghĩa quân cũng chỉ tạm thời làm chủ mấy huyện lị nhỏ, sau đó bị Pháp chiếm lại.
Cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông bị thực dân Pháp kết án tử hình.
* Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử
Cuộc khởi nghĩa chưa được chuẩn bị đầy đủ cả về tổ chức lẫn lực lượng, trong khi đó thực dân Pháp còn rất mạnh, đủ sức để đàn áp.
Tuy thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa đã góp phần cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân.
Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã chấm dứt vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào giải phóng dân tộc.
BÀI 4
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI (03 - 2 - 1930)
1. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam
1.1. Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng
Sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc dân chủ và đặc biệt là phong trào công nhân trong những năm 1928 - 1929 cho thấy đã đến lúc cần phải lãnh đạo giai cấp công - nông cùng các lực lượng yêu nước khác đấu tranh chống đế quốc, phong kiến tay sai giành độc lập, tự do.
Những yêu cầu mới đó đã vượt quá khả năng lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên.
Cuối tháng 3/1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Bắc kỳ đã họp ở số nhà 5D Hàm Long (Hà Nội) và lập ra chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm 7 người, mở đầu cho quá trình thành lập Đảng cộng sản thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên.
Tháng 5/1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên (ở Hương Cảng - Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề nghị thành lập Đảng cộng sản, nhưng không được chấp nhận nên họ đã rút khỏi Hội nghị về nước và tiến hành vận động thành lập Đảng cộng sản.
Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở của Hội VNCMTN ở miền Bắc đã họp và quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ Đảng và ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Đông Dương Cộng Sản Đảng ra đời đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của quần chúng, uy tín và tổ chức Đảng phát triển rất nhanh, nhất là ở Bắc và Trung kỳ.
Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng, tháng 7/1929, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Trung Quốc và Nam kỳ cũng đã quyêt định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.
1.2. Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn
Sự ra đời và ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng đã tác động mạnh mẽ đối với những đảng viên theo chủ trương cách mạng vô sản trong Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Tháng 9/1929, nhóm theo chủ nghĩa Mác trong Tân Việt Cách Mạng Đảng đã tách ra, thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.
1.3. Ý nghĩa
Đó là kết quả tất yếu trong quá trình vận động cách mạng Việt Nam.
Đánh dấu bước trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam và chứng tỏ xu hướng cách mạng vô sản là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Đây là bước chuẩn bị trực tiếp cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (03 - 07/02/1930)
2.1. Bối cảnh lịch sử
Sự ra đời của ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là một xu thế tất yếu và ba tổ chức cộng sản đá lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh mạnh mẽ hơn.
Song, trong quá trình tuyên truyền vận động quần chúng, các tổ chức này đã tranh giành, công kích lẫn nhau, gây nên tình trạng thiếu thống nhất, đẩy phong trào cách mạng Việt Nam đứng trước nguy cơ bị chia rẽ.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam.
2.2. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng
Từ ngày 03 đến ngày 7/2/1930, tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Tham dự Hội nghị có đại diện của Đông Dương Cộng Sản Đảng và An Nam Cộng Sản Đảng.
Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích tình hình thế giới, trong nước, phê phán những hành động thiếu thống nhất của các tổ chức Cộng sản, và đề nghị các tổ chức cộng sản hợp nhất thành một Đảng cộng sản duy nhất.
Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất thành một Đảng Cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2.3. Nội dung của cương lĩnh chính trị đầu tiên (03/02/1930)
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là tiến hành cuộc cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc Pháp cùng bọn phong kiến, tư sản phản cách mạng để làm cho nước Việt Nam độc lập, thành lập chính phủ công - nông - binh, tiến tới làm cách mạng ruộng đất. Trong đó, quan trọng nhất là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
Lực lượng cách mạng bao gồm chủ yếu là công - nông. Ngoài ra còn phải liên kết với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tranh thủ hay ít ra cũng trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ, và tư sản An Nam chưa lộ rõ bản chất phản cách mạng.
Lãnh đạo cách mạng là Đảng cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng cùng mặt trận với các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới.
Cương lĩnh đầu tiên này tuy vắn tắt, nhưng thể hiện rõ tư tưởng cách mạng đúng đắn, sáng tạo, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn.
2.4. Cương lĩnh chính trị 10/1930
Tháng 10/1930, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Hội nghị đã bầu Ban chấp hành chính thức do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng Sản Đông Dương và thông qua luận cương chính trị do Trần Phú soạn thảo.
Nội dung của luận cương chính trị 10/1930:
Tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền. Sau khi thắng lợi sẽ bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng là đánh đổ các thế lực phong kiến, các hình thức bóc lột theo lối tiền tư bản, thực hiện triệt để cách mạng thổ địa, đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính, vô sản nắm quyền lãnh đạo cách mạng.
Điều kiện cốt yếu dẫn đến thắng lợi là Đảng cộng sản lãnh đạo. Khi tình thế cách mạng xuất hiện, Đảng lãnh đạo quần chúng đánh đổ chính quyền địch, giành chính quyền cho công - nông. Đảng phải liên lạc với vô sản và các thuộc địa trên thế giới, nhất là vô sản Pháp.
2.5. So sánh Cương lĩnh đầu tiên 3/2/1930 với Luận cương chính trị 10/1930
So với Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương tháng 10/1930 có một số điểm khác biệt và chưa phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đưa vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trong khi đó Luận cương tháng 10/1930 lại quá đặt nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất. Điều đó cho thấy, Luận cương chính trị 10/1930 đã chưa vạch rõ được những mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Thứ hai, nếu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên chủ trương tranh thủ lôi kéo các bộ phận tầng lớp giai cấp thì Luận cương tháng 10/1930 chỉ đề cao vai trò tuyệt đối của công - nông, bỏ qua nhiều lực lượng yêu nước khác. So với thực tế xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, Luận cương tháng 10 đã chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của nhiều tầng lớp khác trong xã hội và chưa thấy được sự phân hoá của tư sản và địa chủ.
3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Là kết qủa tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam thời đại mới.
Là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối đấu tranh của cách mạng Việt Nam.
Nó chứng tỏ rằng, giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Và cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Sự ra đời của Đảng là nhân tố quyết định sự phát triển nhảy vọt về sau của dân tộc Việt Nam. Nó đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.
BÀI 5
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931 VÀ CUỘC ĐẤU TRANH PHỤC HỒI LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG 1932 - 1935
1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 và những tác động của nó đối với xã hội Việt Nam
Trong giai đoạn 1929 - 1933, các nước tư bản chủ nghĩa nói chung và đế quốc Pháp nói riêng lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nặng nề. Cuộc khủng hoảng đã tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam:
+ Thực dân Pháp rút vốn đầu tư ở Đông Dương về các ngân hàng Pháp và dùng ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho tư bản Pháp => Sản xuất công nghiệp ở Việt Nam bị thiếu vốn dẫn đến đình trệ.
+ Lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá làm cho lúa gạo Việt Nam không xuất khẩu được => Ruộng đất bị bỏ hoang.
Hậu quả là nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng; Ruộng đất bỏ hoang, công nghiệp suy sụp, xuất khẩu đình đốn..., làm cho đời sống của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khốn cùng:
Công nhân thất nghiệp ngày càng đông, số người có việc làm thì tiền lương bị giảm từ 30 đến 50%.
Nông dân tiếp tục bị bần cùng hoá và phá sản trên quy mô lớn.
Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.
Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó khăn do không thể buôn bán và sản xuất.
Thêm vào đó, thực dân Pháp còn tăng sưu thế lên gấp 2, 3 lần và đẩy mạnh chính sách khủng bố trắng hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam... làm cho cuộc sống của người dân lao động khốn khổ đến tột cùng.
2. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ - Tĩnh
2.1. Phong trào đấu tranh trong cả nước nửa đầu năm 1930
Trong bối cảnh mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam đối với thực dân Pháp và tay sai đang trở nên gay gắt như vậy, Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa mới ra đời (3/2/1930) đã nhanh chóng nắm bắt tình hình và kịp thời lãnh đạo giai cấp công - nông cùng người dân lao động vùng lên đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Sự lãnh đạo kịp thời của Đảng đã làm bùng lên cao trào cách mạng trong năm 1930 - 1931 trên khắp cả ba miền Bắc - Trung - Nam:
+ Từ tháng 2 đến tháng 4/1930, 3000 công nhân đồn điền Phú Riềng, 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định bãi công. Sau đó là những cuộc bãi công của công nhân nhà máy diêm - cưa Bến Thủy, xi măng Hải Phòng, dầu Nhà Bè, đồn điền Dầu Tiếng... Đồng thời, nông dân ở Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... cũng biểu tình.
+ Trong ngày Quốc tế lao động 1/5/1930, công nông và dân chúng Việt Nam từ thành thị đến nông thôn khắp cả ba miền đất nước đã tiến hành bãi công, tuần hành và biểu tình dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Sau ngày 1/5/1930, làn sóng đấu tranh tiếp tục dâng cao; trong tháng 5/1930, cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc của nông dân, 4 cuộc của học sinh và dân nghèo thành thị.
2.2. Phong trào đấu tranh mạnh mẽ ở Nghệ - Tĩnh
Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5/1930, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tại Nghệ An đã lãnh đạo công nhân nhà máy diêm, cưa Bến Thủy cùng hàng ngàn nông dân các vùng lân cận thị xã Vinh rầm rộ biểu tình thị uy, giương cao cờ đỏ Búa liềm và các khẩu hiệu đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế, Ban hành luật lao động, chống khủng bố chính trị...
Thực dân Pháp đã xã súng vào đoàn người biểu tình, làm 7 người chết, 18 người bị thương và chúng bắt hơn 100 người.
Cũng trong ngày 01/5/1930, 3000 nông dân huyện Thanh Chương biểu tình, phá đồn điền Kí Viện, cắm cờ Búa liềm trên nóc nhà, lấy ruộng đất chia cho nông dân. Thực dân Pháp đàn áp làm 18 người chết và 30 người bị thương.
Ngày 1/8/1930, tổng bãi công của toàn thể công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy nhân ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc nổ ra.
Sau ngày 1/8/1930, nhiều vùng nông thôn Nghệ - Tĩnh đã nổ ra những cuộc đấu tranh trên quy mô lớn dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ của nông dân. Tiêu biểu như nông dân huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Can Lộc...
Ngày 12/9/1930, phong trào được đẩy lên giai đoạn đỉnh cao khi 2 vạn người ở Hưng Nguyên (Nghệ An) đã biểu tình hưởng ứng cuộc đấu tranh của nông dân các huyện và cuộc bãi công của công nhân Vinh.
Pháp đã cho máy bay ném bom làm 217 người chết và 125 người bị thương.
Hành động khủng bố của Pháp như thêm dầu vào lửa, nông dân huyện Thanh Chương, Diễn Châu (Nghệ An) và Hương Sơn (Hà Tĩnh) đã khởi nghĩa vũ trang, công nhân Vinh - Bến Thủy đã bãi công trong suốt tháng 9 và 10 năm 1930.
Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ đó, chính quyền thực dân và phong kiến tay sai ở nhiều huyện bị tê liệt, tan rã. Các tổ chức Đảng ở địa phương đã lãnh đạo quần chúng bầu ra Ban chấp hành Nông hội xã hoạt động theo kiểu các tổ chức Xô Viết.
2.3. Tổ chức và hoạt động của chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh
Sau khi được thành lập, các chính quyền Xô Viết đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân:
Về kinh tế: Chia ruộng đất cho nông dân, bắt địa chủ giảm tô, xoá nợ, bãi bỏ các thứ thuế của đế quốc, phong kiến.
Về chính trị: Thực hiện các quyền tự do dân chủ, lập các tổ chức quần chúng như: hội tương tế, công hội, hội phụ nữ giải phóng...tiến hành các cuộc mittinh, hội nghị để tuyên truyền, giáo dục quần chúng.
Về quân sự: Lập những đội tự vệ vũ trang ở các vùng.
Về xã hội: Bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục, khuyến khích nhân dân học chữ quốc ngữ nhằm xây dựng đời sống mới.
Chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh duy trì 4 - 5 tháng thì bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp. Tuy chỉ tồn tại ở một số xã trong vòng 4, 5 tháng, nhưng hoạt động của của chính quyền Xô Viết Nghệ - Tĩnh đã thể hiện được bản chất cách mạng của một chính quyền công nông.
2.4. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
Đây là một sự kiện lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, nó đã giáng một đòn mạnh mẽ và quyết liệt vào bè lũ đế quốc và phong kiến tay sai.
Phong trào đã cho thấy rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng, nếu giai cấp công nhân và nông dân đoàn kết với các tầng lớp nhân dân khác thì hoàn toàn có khả năng lật đổ nền thống trị của đế quốc và phong kiến.
Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm về phân hoá kẻ thù, giành và bảo vệ chính quyền.
Đây là cuộc diễn tập đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
3. Chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp và quá trình phục hồi lực lượng cách mạng 1931 - 1935
Cuối năm 1931, Pháp đã thi hành chính sách khủng bố trắng, thẳng tay đàn áp, làm cho lực lượng cách mạng Việt Nam bị tổn thất nặng nề:
+ Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt; bị giết hoặc tù đày.
+ Các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương lần lượt bị phá vỡ.
Phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống.
Mặc dù bị khủng bố ác liệt, các đảng viên cộng sản yêu nước vẫn tìm cách nối lại liên lạc để gây dựng lại lực lượng cách mạng:
+ Các đảng viên trong tù tìm cách liên lạc với nhau và bắt liên lạc với bên ngoài để hoạt động.
+ Số đảng viên còn lại bên ngoài bí mật tìm cách gầy dựng lại các tổ chức cơ sở của Đảng.
Đến cuối năm 1934 đầu 1935, hệ thống tổ chức Đảng trong nước đã được khôi phục:
+ Các xứ ủy Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ được lập lại.
+ Các đoàn thể như công hội, nông hội...cũng được lập lại.
+ Đến tháng 03/1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng đã họp ở Macao (Trung Quốc) chuẩn bị cho một thời kì đấu tranh mới.
BÀI 6
CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1936 - 1939
1. Tình hình thế giới và trong nước sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 và chủ trương chiến lược của Đảng
1.1. Tình hình thế giới và nước Pháp
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã đẩy các nước tư bản phát triển muộn và có ít thuộc địa đi đến con đường phát xít hoá bộ máy chính quyền để trấn áp phong trào cách mạng trong nước và chuẩn bị gây chiến tranh phân chia lại thế giới. Trong đó, tiêu biểu là chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật...
Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít đã trở thành một mối nguy cơ không những đe doạ các nước đế quốc mà còn đe dọa trực tiếp đến nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Đứng trước nguy cơ đó, Đại hội 7 của Quốc tế cộng sản (7/1935) xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít và đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân để chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh.
Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng xã hội làm nòng cốt được nhân dân ủng hộ đã lên cầm quyền. Chính phủ mới này đã thực hiện nới rộng quyền tự do dân chủ cho các nước thuộc địa.
1.2. Tình hình trong nước
Hậu quả của cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 vẫn tiếp tục kéo dài, thêm vào đó là khủng bố trắng kéo dài... làm cho cuộc sống của đa số người dân vào cảnh khó khăn, cơ cực, tạo nên động lực thúc đẩy họ tham gia các phong trào đấu tranh.
Chủ trương nới rộng quyền tự do dân chủ cho các nước thuộc địa của chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp đã mang lại nhiều điều kiện thuận lợi mới cho cách mạng Việt Nam:
+ Một số tù chính trị ở Việt Nam được trả tự do đã tìm cách hoạt động trở lại.
+ Chính phủ Pháp chủ trương tiến hành điều tra tình hình thuộc địa ở Đông Dương.
1.3. Chủ trương của Đảng
Căn cứ tình hình trên và đường lối của Quốc tế cộng sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã nhận định rằng: "Kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này không phải là thực dân Pháp nói chung, mà là bọn thực dân phản động Pháp".
Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ trước mắt là "Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình"; tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đuổi đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập".
Đảng đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi tên thành Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước, dân chủ, tiến bộ đứng lên đấu tranh chống Phát xít, đế quốc Pháp phản động.
Hình thức đấu tranh: hợp pháp, nửa hợp pháp, công khai, nửa công khai.
2. Phong trào dân chủ 1936 - 1939
Giữa năm 1936, được tin Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp cử một phái đoàn sang điều tra tình hình thuộc địa Đông Dương, Đảng đã phát động một phong trào đấu tranh công khai:
Mở đầu là cuộc vận động lập Ủy Ban trù bị Đông Dương Đại hội, nhằm thu thập nguyện vọng của quần chúng để đưa lên Chính phủ Pháp.
Quần chúng khắp nơi đã sôi nổi tổ chức hội họp diễn thuyết, lấy chữ kí và đưa ra các yêu sách; Đòi Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp trả lại tự do cho tù chính trị, đòi thực hiện ngày làm 8 giờ, trả lương các ngày nghỉ... Nhưng sau đó phái đoàn này không sang.
Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, dân sinh: Năm 1937, nhân dịp đón phái viên Chính phủ Pháp và toàn quyền mới xứ Đông Dương; Quần chúng nhân dân trong đó đông đảo và hăng hái nhất là công nhân và nông dân đã tổ chức nhiều cuộc mittinh, biểu tình để đưa dân nguyện đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời sống (ở nông thôn và thành thị).
Bên cạnh những hoạt động trên, phong trào bãi công, bãi thị, bãi khoá... đã nổ ra mạnh mẽ ở các thành phố, khu mỏ và đồn điền:
+ Năm 1936, tổng bãi công của công ty than Hòn Gai.
+ Năm 1937, bãi công của công ty xe lửa Trường Thi.
+ Năm 1938 (01/5), một cuộc mittinh lớn của 2,5 vạn người đã diễn ra tại Quảng trường nhà đấu xảo Hà Nội, với các khẩu hiệu: "Tự do lập hội Ái hữu, nghiệp đoàn, giảm thuế, chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hòa bình...".
Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động thông qua báo chí và nghị trường:
Nhiều tờ báo của Đảng, Mặt trận dân chủ... công khai ủng hộ phong trào dòi tự do dân chủ ra đời như: Tiền phong, Dân chúng, Bạn dân, Lao động, Tin tức...
Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như: Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố, Giông Tố, Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng; Kịch có tác phẩm Đời Cô Lựu của Trần Hữu Trang...
Đảng đưa người của Đảng tham gia tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam kỳ, Viện dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ... để mở rộng công tác tuyên truyền và đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc.
Phong trào đấu tranh đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ: Những đảng viên Đảng cộng sản và tù chính trị được trả tự do, Ban hành một số quy định về giảm giờ làm, tăng lương...
Cuối năm 1938, Chính phủ Mặt trận nhân Pháp hạn chế dần các chính sách tự do dân chủ => Thực dân Pháp ở Đông Dương đã trở lại chính sách ngăn cấm các hoạt động dân chủ và đàn áp các phong trào đấu tranh.
Đảng đã nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, thu hẹp phong trào đấu tranh công khai và đến tháng 9/1939 thì chấm dứt hẳn để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới.
3. Kết quả và ý nghĩa lịch sử
Lợi dụng thời cơ thuận lợi, Đảng đã lãnh đạo quần chúng và phát động một phong trào đấu tranh công khai, bán công khai mạnh mẽ và rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng.
Tổ chức Đảng có điều kiện để cũng cố và phát triển sau khi phục hồi, tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai... Đồng thời Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc...
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các chủ trương, đường lối của Đảng đã được phổ biến, tuyên truyền một cách rộng rãi và công khai trong một thời gian dài thông qua sách báo và các hoạt động khác của phong trào dân chủ.
Đặc biệt, Đảng đã tập hợp được một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam sau này.
Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 như một cuộc diễn tập thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám - 1945.
BÀI 7
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 9/1939 ĐẾN THÁNG 3/1945
1. Chiến tranh thế giới II bùng nổ và sự chuyển hướng chiến lược của Đảng
1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và chính sách của thực dân Pháp
Ngày 01/9/1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Pháp chính thức lâm chiến. Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.
Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các tổ chức chính trị và đóng cửa các tờ báo tiến bộ, tiến hành khám xét và bắt giam hàng nghìn đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng thời, chúng còn vơ vét, bóc lột nhân dân Đông Dương và ra lệnh tổng động viên nhằm bắt thanh niên Việt Nam đưa sang Pháp tham gia chiến tranh.
Những chính sách đó đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp lên cao và đòi hỏi Đảng ta phải thay đổi sách lược đấu tranh cho phù hợp.
1.2. Hội nghị TW 6 (11/1939) và chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng
Trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước trong giai đọan chiến tranh mới bùng nổ, Trung ương Đảng đã nhanh chóng ra chỉ thị rút vào hoạt động bí mật và tạm đình chỉ các cuộc biểu tình để bảo toàn lực lượng.
Ngày 6/11/1939, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã diễn ra tại Bà Điểm - Hóc Môn.
Hội nghị nhận định: Chế độ cai trị ở Đông Dương sẽ trở thành chế độ phát xít tàn bạo, các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Đông Dương đều bị chính sách của chính quyền thực dân làm điêu đứng, mâu thuẫn giữa mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam với chính quyền thực dân sẽ trở nên gay gắt, đẩy tinh thần chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên cao.
Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt là: đánh đổ đế quốc tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hội nghị chủ trương:
+ Tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu chống địa tô cao, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ tay sai chia cho dân cày nghèo.
+ Thay khẩu hiệu "Thành lập chính quyền Xô Viết công nông" bằng khẩu hiệu "Chính phủ cộng hòa dân chủ".
+ Đưa ra chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về phương pháp đấu tranh: Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Hội nghị còn khẳng định: chiến tranh đế quốc và họa phát xít sẽ làm cho nhân dân phẫn uất và cách mạng sẽ bùng nổ.
1.3. Ý nghĩa lịch sử
Hội nghị đã đánh dấu sự mở đầu cho việc thay đổi chủ trương chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất.
Thể hiện sự nhạy bén và sáng tạo của Đảng trong việc nắm bắt tình hình, kịp thời tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, mở đường đi tới thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ mới
2.1. Tình cảnh của thực dân Pháp ở Đông Dương sau năm đầu tiên của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
Tháng 6/1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức => Thực dân Pháp ở Đông Dương bị yếu thế.
Ở Viễn Đông, phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt - Trung và giúp Xiêm gây xung đột ở biên giới Lào và Campuchia, uy hiếp thực dân Pháp ở Đông Dương. Đồng thời ở trong nước, phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang đe doạ trực tiếp đến thực dân Pháp.
Thực dân Pháp phải đối mặt cùng một lúc hai nguy cơ: bị tiêu diệt bởi lực lượng cách mạng Đông Dương và bị phát xít Nhật hất cẳng.
Để đối phó, chúng đã một mặt thỏa hiệp với phát xít Nhật: 6/1940, Nhật buộc Pháp đóng cửa biên giới Việt - Trung; tháng 8/1940, Pháp kí hiệp ước chấp nhận cho Nhật nhiều đặc quyền ở Đông Dương; tháng 9/1940, cho Nhật dùng 3 sân bay ở Bắc Kì (Gia Lâm, Cát Bi và Phủ Lạng Thương) và sử dụng các con đường ở Bắc kì để chuyển quân vào Trung Quốc.
Mặt khác chúng đã thực hiện chính sách bắt lính, đàn áp, khủng bố cách mạng, tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương để tạo sức mạnh đối phó với phát xít Nhật.
Nhân dân ta sống trong cảnh bần cùng, ngột ngạt, đẩy tinh thần cách mạng lên cao và đã làm bùng nổ một số cuộc khởi nghĩa.
2.2. Những cuộc đấu tranh đầu tiên
2.2.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940)
* Nguyên nhân
- Ngày 22/9/1940, Nhật đánh vào Lạng Sơn, Pháp thua và rút lui qua Châu Bắc Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa.
* Diễn biến và kết quả
Nhân dân Bắc Sơn đã tước khí giới tàn quân Pháp để tự vũ trang, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng.
Sau đó, được sự thỏa hiệp của Nhật, thực dân Pháp đã quay trở lại đàn áp cuộc khởi nghĩa rất tàn khốc.
Đảng bộ ở Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt chống khủng bố, xây dựng căn cứ quân sự và thành lập đội du kích Bắc Sơn để kháng chiến.
Ngày 20/10/1940, thực dân Pháp đánh úp lực lượng cách mạng ở căn cứ Vũ Lăng làm nghĩa quân tan vỡ. Đội du kích Bắc Sơn phải rút vào vùng rừng núi để củng cố lực lượng.
* Ý nghĩa
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học về khởi nghĩa vũ trang cho Đảng. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập - Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của ta.
2.1.2. Khởi nghĩa Nam kỳ (23/ 11/ 1940)
* Nguyên nhân
Tháng 11/1940, quân phiệt Xiêm đã khiêu khích và gây xung đột dọc đường biên giới Lào và Campuchia. Thực dân Pháp đã đưa binh lính người Việt và người Cao Miên sang làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng. Sự việc này làm cho nhân dân Nam kỳ rất bất bình.
Trước hoàn cảnh đó, Đảng bộ Nam kỳ đã quyết định chuẩn bị phát động khởi nghĩa và cử đại diện ra xin chỉ thị của Trung ương. Trung ương quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa.
* Diễn biến và kết quả
Người mang chỉ thị của Trung ương về đến Sài Gòn thì bị địch bắt. Do đó, Xứ ủy không biết và phát hành lệnh khởi nghĩa vào đêm 22 rạng ngày 23/11/1940.
Nắm được kế hoạch của ta, thực dân Pháp đã ra "thiết quân luật", ra lệnh giới nghiêm và bủa lưới săn lùng các chiến sĩ cách mạng.
Theo kế hoạch đã định, đêm 22 rạng sáng 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở hầu khắp các tỉnh Nam kỳ, triệt hạ nhiều đồn bốt giặc, lập được chính quyền ở nhiều vùng thuộc Mỹ Tho, Gia Định, Bạc Liêu. Trong cuộc khởi nghĩa, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện.
Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa vô cũng tàn khốc, lực lượng cách mạng Nam kỳ bị thiệt hại nặng nề, một số cán bộ ưu tú của Đảng như: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai... bị địch sát hại. Lực lượng còn lại phải rút về Đồng Tháp Mười và U Minh để củng cố lực lượng.
2.2.3. Cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941)
* Nguyên nhân
Pháp bắt binh lính người Việt ở Nghệ An sang Lào đánh nhau với quân Xiêm. Trước sự tác động mạnh mẽ của các cuộc khởi nghĩa trong năm 1940, những binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở đây đã bí mật chuẩn bị nổi dậy chống lại quân đội Pháp.
* Diễn biến và kết quả
Ngày 13/01/1941, Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã chỉ huy binh lính ở đồn Chợ Rạng nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi kéo về Vinh định phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành.
Thực dân Pháp đã kịp thời đối phó, ngày 11/02/1941, Đội Cung bị bắt, cuộc binh biến thất bại.
Ngày 24/4/1941, Đội Cung cùng 10 đồng chí của ông bị bắt và xử tử.
2.2.4. Ý nghĩa và bài học của ba sự kiện trên
Ba cuộc khởi nghĩa trên thất bại là do kẻ thù còn quá mạnh, lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị đầy đủ.
Tuy vậy, ba cuộc khởi nghĩa vẫn có ý nghĩa to lớn:
Nêu cao tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương.
Để lại cho Đảng những bài học kinh nghiệm quý báu về chuẩn bị lực lượng và xác định thời cơ cách mạng, phục vụ cho việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám sau này.
3. Tình hình Đông Dương sau khi Nhật nhảy vào
3.1. Pháp câu kết với phát xít Nhật để bóc lột nhân dân Đông Dương
Trong thế bị suy yếu, thực dân Pháp đã chấp nhận nhượng bộ phát xít Nhật để duy trì quyền lợi của mình. Đồng thời Nhật cũng muốn tạm thời sử dụng bộ máy thống trị của Pháp để bóc lột nhân dân Đông Dương:
Ngày 23/7/1941, Pháp kí với Nhật hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cho Nhật có quyền đóng quân trên toàn cõi Đông Dương.
Ngày 29/7/1941, Pháp đồng ý cho Nhật sử dụng tất cả các sân bay và cửa biển của Đông Dương vào mục đích quân sự.
Ngày 7/12/1941, Nhật lại buộc Pháp kí hiệp ước cam kết cung cấp lương thực, bố trí doanh trại...cho quân Nhật.
Pháp chấp nhận "mở cửa" cho các công ty của Nhật tự do đầu tư vào Đông Dương.
3.1.1. Những thủ đoạn bóc lột của Nhật
Sau khi buộc Pháp phải nhượng bộ, các công ty tư bản của Nhật bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương để khai thác nguồn tài nguyên và thị trường Đông Dương.
Mặt khác, Nhật gián tiếp bóc lột nhân dân ta bằng cách buộc Pháp phải cung cấp các nhu yếu phẩm (gạo, ngô,...) cho chúng, bắt dân ta phải nhổ lúa để trồng đay và thầu dầu...
3.1.2. Những hoạt động bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp
Để đáp ứng những yêu cầu của Nhật và đảm bảo được quyền lợi như trước đây, thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để bóc lột nhân dân ta:
+ Thi hành chính sách "kinh tế chỉ huy". Tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới... đồng thời sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, kiểm soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả.
+ Tiến hành thu mua thực phẩm mà chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức với giá rẻ mạt, làm cho lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng.
Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy dân ta tới cảnh cùng cực. Hậu quả là cuối năm 1944, đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào ta ở miền Bắc bị chết đói.
3.2. Nhật - Pháp ra sức chuẩn bị để hất cẳng nhau
3.2.1. Những thủ đoạn chính trị lừa bịp của Nhật
Việc duy trì bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ là một giải pháp tình thế nhằm che giấu bộ mặt xâm lược của phát xít Nhật. Đồng thời lợi dụng thực dân Pháp để đàn áp và bóc lột nhân dân Đông Dương.
Để thực hiện âm mưu thống trị Đông Dương lâu dài, phát xít Nhật đã tìm cách xây dựng lực lượng tay sai của mình để đi đến thành lập chính quyền tay sai nhằm thay thế và loại bỏ thực dân Pháp:
+ Ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, thuyết "Đồng văn đồng chủng", tuyên truyền văn hoá và sức mạnh vô địch của Nhật và hứa hẹn trao trả độc lập cho Việt Nam.
+ Bí mật tập hợp những phần tử bất mãn với Pháp như Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ... để lập ra hàng loạt các đảng phái thân Nhật: Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Việt Nam ái quốc...
+ Nhật thành lập "Việt Nam phục quốc đồng minh hội" để tập hợp các tổ chức, đảng phái thân Nhật, chuẩn bị thành lập một chính phủ bù nhìn và "trao trả độc lập" cho Việt Nam, gạt Pháp ra khỏi Đông Dương.
3.2.2. Những thủ đoạn lừa bịp của Pháp
Trong tình thế lực lượng bị suy yếu, thực dân Pháp một mặt phải cam chịu khuất phục Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, nhưng mặt khác chúng lại ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội lật lại tình thế:
Thứ nhất, tiếp tục khủng bố, đàn áp cách mạng để giữ vững quyền thống trị.
Thứ hai, tiến hành nhiều chính sách lừa bịp để nhân dân ta lầm tưởng chúng là bạn chứ không phải là thù:
v Cho một số người Việt thuộc giới thượng lưu nắm giữ một số chức vụ quan trọng để ràng buộc họ với Pháp.
v Mở thêm một vài trường cao đẳng (khoa học, kiến trúc, nông lâm...), lập Đông Dương học xá cho một số sinh viên lưu trú nhằm dụ dỗ, lôi kéo thanh niên.
v Tạo điều kiện, hỗ trợ các nhóm thân Pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, lôi kéo quần chúng ủng hộ chủ trương "Pháp - Việt phục hưng", để chống lại phát xít Nhật...
v Khuấy động một phong trào thanh niên giả tạo nhằm lôi kéo thanh niên xa rời nhiệm vụ cứu nước.
Tháng 3/1945, quân đội Nhật ở Thái Bình Dương lâm vào tình trạng nguy cấp, Nhật đã đảo chính Pháp (9/3/1945) và độc chiếm Đông Dương.
3.3. Tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật
Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp và Nhật, đã đẩy các tầng lớp nhân dân nói chung, đặc biệt là nông dân, lâm vào cảnh khốn cùng:
Giai cấp nông dân: Do bị cưỡng bức thu mua lương thực, phải nhổ lúa trồng đay, sưu cao thuế nặng..., nên đời sống cơ cực. Phần lớn họ là nạn nhân của trận đói làm 2 triệu người chết cuối năm 1944 đầu 1945.
Giai cấp công nhân: Thường xuyên bị cúp phạt, giảm lương, tăng giờ làm..., trong khi đó giá cả sinh hoạt lại tăng cao làm cho cuộc sống của họ rất khó khăn.
Các tầng lớp tiểu tư sản: Cuộc sống bấp bênh, không có lối thoát.
Giai cấp tư sản và địa chủ: Phần lớn bị sa sút nghiêm trọng và phá sản hàng loạt.
Tóm lại: dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật, đời sống của đại đa số người dân Việt Nam lâm vào cảnh cùng bần, điêu đứng, lòng căm thù giặc của họ sôi sục, nếu được lãnh đạo, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đứng lên tiêu diệt kẻ thù.
4. Hội nghị TW 8 và quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền (5/1941 - 9/3/1945)
4.1. Hội nghị Trung ương 8
4.1.1. Bối cảnh
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày một lan rộng.
Thực dân Pháp đầu hàng và liên kết với phát xít Nhật thống trị nhân dân Đông Dương làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với bọn Nhật - Pháp và đồng thời mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt.
4.1.2. Hội nghị Trung ương 8 (10 - 19/5/1941)
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau khi nghiên cứu sự biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pác Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến 19/5/1941.
Hội nghị khẳng định chủ trương đúng đắn của Hội nghị Trung ương 6 và Hội nghị Trung ương 7 và nhận định: mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách đó là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc - phát xít Pháp - Nhật; "Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" và đưa ra chủ trương: phải giải phóng Đông Dương ra khỏi ách thống trị của Pháp - Nhật.
Hội nghi quyết định:
+ Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, phong kiến, chia ruộng đất cho dân cày" và thay vào đó là các khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức"...
+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho Việt Nam: Việt Nam độc lập đồng minh - Việt Minh, bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là Hội cứu quốc...
+ Chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.
4.1.3. Ý nghĩa
Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược đề ra từ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939):
+ Giương cao hơn nữa và đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương.
+ Chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
4.2. Quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
4.2.1. Tập hợp quần chúng và xây dựng lực lượng chính trị
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập bao gồm các Hội cứu quốc: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ lão cứu quốc...để tập hợp quần chúng nhân dân.
Năm 1943, Đảng đã ra Đề cương văn hoá Việt Nam.
Cuối năm 1944, lập Hội Văn hoá cứu quốc và Đảng dân chủ Việt Nam nằm trong lực lượng Việt Minh nhằm tập hợp lực lượng học sinh, sinh viên, tri thức, tư sản dân tộc; tăng cường công tác địch vận...
Ngoài ra Đảng còn ra nhiều ấn phẩm báo chí để tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia cách mạng.
* Kết quả:
+ Năm 1942, khắp 9 Châu của Cao Bằng đều có Hội cứu quốc, Ủy Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và sau đó là Ủy Ban lâm thời Cao - Bắc - Lạng được thành lập.
+ Năm 1943, Ủy Ban Việt Minh Cao - Bắc - Lạng đã lập ra 19 đội quân xung phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
4.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một bộ phận lực lượng vũ trang đã chuyển thành các đội du kích hoạt động ở vùng căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai. Đến năm 1941, những đội du kích này đã thống nhất thành Cứu quốc quân.
Sau tháng 2/1942, Cứu quốc quân phân tán thành nhiều bộ phận để gây dựng cơ sở ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15/9/1941, đội cứu quốc quân 2 ra đời.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng, tại Hội nghị Trung ương 7 (11/1940) Đảng đã chọn Bắc Sơn - Vũ Nhai làm căn cứ địa; sau khi Bác về nước, Cao Bằng được chọn làm căn cứ địa thứ hai của Đảng.
Đến năm 1943, chủ nghĩa phát xít bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Hoạt động chuẩn bị diễn ra sôi nổi ở khắp nơi từ nông thôn đến thành thị trên cả nước. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc: ở căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh; ở Cao Bằng, năm 1943 ban Việt Minh Cao - Bắc Lạng đã lập ra 19 ban xung phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Bắc Sơn...
Ngày 07/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp "sửa soạn khởi nghĩa" và kêu gọi nhân dân "sắm sửa vũ khí đuổi kẻ thù chung"; không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục trong khu căn cứ:
Tháng 11/1944, ở Vũ Nhai nổ ra khởi nghĩa, nhưng bị tổn thất nặng nề do thời cơ chưa thuận lợi, buộc phải chuyển sang chiến tranh du kích.
Ở Cao - Bắc - Lạng cũng chuẩn bị phát động khởi nghĩa, nhưng Bác đã kịp thời hoãn lại để chờ thời cơ.
Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Ngay sau khi thành lập, đội đã liên tiếp giành thắng lợi: Phay Khắt (25/12/1944), Nà Ngần (26/12/1944), mở rộng ảnh hưởng khắp chiến khu Cao - Bắc - Lạng.
Đồng thời, đội Cứu quốc quân cũng phát động chiến tranh du kích và giành được nhiều thắng lợi ở Chiêm Hoá, Vĩnh Yên, Phú Thọ.
Như vậy, từ Hội nghị Trung ương 8 đến cuối năm 1944 đầu 1945, Đảng đã xây dựng và tập hợp được một lực lượng chính trị hùng hậu dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, và một lực lượng vũ trang đang trưởng thành nhanh chóng cùng một vùng căn cứ cách mạng vững chắc, sẵn sàng cho việc tiến tới một cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang giành chính quyền khi thời cơ đến.
BÀI 8
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 VÀ SỰ THÀNH LẬP CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
1. Cao trào kháng Nhật cứu nước (Khởi nghĩa từng phần từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945)
1.1. Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) - thời cơ cách mạng đến gần
Đầu năm 1945, chủ nghĩa phát xít liên tục thất bại nặng nề:
+ Ở Châu Âu: Đức bị đánh bật khỏi Liên Xô, đồng thời liên quân Anh - Mĩ đổ bộ vào giải phóng nước Pháp, sau đó các nước Trung và Đông Âu cũng được giải phóng.
+ Ở mặt trận Thái Bình Dương: Phát xít Nhật cũng bị liên quân Anh - Mĩ tấn công dồn dập.
+ Thực dân Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị cho việc hất cẳng Nhật khi quân Đồng Minh tấn công vào Đông Dương.
Nhật biết rõ ý đồ của Pháp nên đã hành động trước: Đêm 9/3/1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương => Thực dân Pháp nhanh chóng tan rã và đầu hàng.
Sau khi hất cẳng Pháp, Nhật tuyên bố "trao trả độc lập cho các dân tộc Đông Dương" và đưa lực lượng thân Nhật ra lập nên chính phủ bù nhìn ở Việt Nam do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng và Bảo Đại làm Quốc trưởng.
Nhưng trên thực tế, Nhật lại tiến hành nhiều hành động trái ngược:
+ Đưa người Nhật thay thế các vị trí của người Pháp trong bộ máy chính quyền thực dân để thống trị và bóc lột dân ta.
+ Tiếp tục vơ vét, bóc lột nhân làm cho nhân dân ta đói khổ.
+ Tiến hành hàng loạt các hoạt động đàn áp lực lượng cách mạng và nhân dân.
1.2. Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám
1.2.1. Đảng ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" để điều chỉnh chiến lược
Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra chỉ thị: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".
Chỉ thị đã xác định:
Kẻ thù trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật.
Thay khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng "Đánh đuổi phát xít Nhật".
Đưa ra khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng" để chống lại chính quyền bù nhìn thân Nhật.
Hình thức đầu tranh: biểu tình thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
Hội nghị quyết định phát động cao trào "Kháng Nhật cứu nước", chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
1.2.2. Khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa
Ở căn cứ Cao - Bắc - Lạng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã lãnh đạo quần chúng giải phóng hàng loạt các xã, châu, huyện...
Ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang...vùng giải phóng tiếp tục được mở rộng.
Năm 1945, nạn đói đang hoành hành làm 2 triệu người miền Bắc chết, trong khi các kho thóc của Nhật thì đầy ắp. Đảng đã kịp thời phát động phong trào đánh chiếm kho thóc của Nhật để cứu đói.
Ở Quảng Ngãi, các đồng chí tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy chiếm đồn giặc và lập ra đội du kích Ba Tơ.
Ngày 15/4/1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ họp và quyết định:
+ Thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.
+ Thành lập Ủy Ban quân sự Bắc kỳ.
Ngày 15/5/1945, Việt Nam giải phóng quân ra đời.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam và Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp.
Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, Tân Trào được chọn làm "thủ đô" của Khu giải phóng, đồng thời thi hành 10 chính sách lớn của Việt Minh.
Như vậy, đến trước tháng 8/1945, lực lượng cách mạng Việt Nam đã chuẩn bị chu đáo và đang từng bước khởi nghĩa, sẵn sàng cho một cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ xuất hiện.
2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
2.1. Nhật đầu hàng quân Đồng Minh - thời cơ cách mạng xuất hiện
Ở Châu Âu, ngày 8/5/1945, Đức đầu hàng quân Đồng Minh không điều kiện.
Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Nhật tại Trung Quốc. Đến trưa 15/8/1945, Nhật chính thức đầu hàng quân Đồng Minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương và chính quyền Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam đã gục ngã, thời cơ giành chính quyền đã xuất hiện.
Trước đó, lực lượng Đồng Minh đã có sự phân công quân đội vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật. Chính vì vậy, thời cơ giành chính quyền bị giới hạn từ khi Nhật đầu hàng đến trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
2.2. Đảng đã nắm bắt thời cơ và phát động tổng khởi nghĩa
Trước tình hình phát xít Nhật liên tục bị thất bại, ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đang họp ở Tân Trào - Tuyên Quang (từ 13/8 đến 15/8/1945). Ngay khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Hội nghị quyết định:
+ Phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào.
+ Thành lập Ủy Ban kháng chiến toàn quốc và ra Quân lệnh số 1.
Từ ngày 16 đến 17/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào đã quyết định:
+ Tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng.
+ Thông qua 10 chính sách của Việt Minh.
+ Lập Ủy Ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch(Sau này là Chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa).
+ Lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kì, bài hát Tiến quân ca làm quốc ca.
Sau đó, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước nổi dậy giành chính quyền.
Chiều ngày 16/8/1945, theo lệnh của Ủy Ban khởi nghĩa, Võ Nguyên Giáp chỉ huy một đội quân tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
2.3. Giành chính quyền trong cả nước
Từ ngày 14/8/1945 đến ngày 18/8/1945, 4 tỉnh đầu tiên giành được độc lập là: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tỉnh, Quảng Nam.
Từ tối 15/8/1945 đến ngày 19/8/1945, nhân dân Hà Nội đã giành được chính quyền.
Ngày 23/8/1945, Huế được giải phóng. Đến 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị.
Ngày 25/8/1945, Sài Gòn được giải phóng.
Đến ngày 28/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công hoàn toàn trong cả nước (trừ một số thị xã: Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu... đang bị lực lượng của Tưởng Giới Thạch chiếm đóng).
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
3. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
3.1. Nguyên nhân thắng lợi
* Khách quan: Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh đánh bại chủ nghĩa phát xít mà trực tiếp là phát xít Nhật đã tạo ra một thời cơ thuận lợi để nhân dân ta đứng lên giành chính quyền.
* Chủ quan: Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước sâu sắc. Vì vậy, khi Đảng đứng ra kêu gọi và lãnh đạo kháng chiến chống giặc thì mọi người đã hăng hái hưởng ứng, tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù.
Do sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Bác Hồ:
Động viên, giác ngộ và tổ chức được các tầng lớp nhân dân đoàn kết dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trong một mặt trận dân tộc thống nhất.
Kết hợp tài tình giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh du kích với khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Nắm bắt thời cơ kịp thời, từ đó đưa ra được những chỉ đạo chiến lược đúng đắn.
3.2. Ý nghĩa lịch sử
* Đối với dân tộc
Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật và lật nhào chế độ phong kiến.
Đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người làm chủ nước nhà, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền.
Mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
* Đối với quốc tế
Là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới của dân tộc nhược tiểu trên con đường đấu tranh tự giải phóng mình khỏi ách đế quốc - thực dân.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới.
3.3. Bài học kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học quý báu:
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, trong đó nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu.
Đánh giá đúng vị trí của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, khơi dậy tinh thần dân tộc, tập hợp và khai thác triệt để sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, cô lập và phân hoá cao độ kẻ thù để từng bước tiến lên đánh bại chúng.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị lâu dài về lực lượng và kịp thời nắm bắt thời cơ, tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi hoàn toàn.
BÀI 9
CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN 1945 - 1946
1. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám
1.1. Những thuận lợi
Dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập, tự chủ và bước đầu được hưởng những quyền lợi do chính quyền cách mạng đem lại, nên họ vô cùng phấn khởi và sẵn sàng đứng lên để bảo vệ quyền lợi ấy.
Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo giờ đây đã vững vàng và dày dặn kinh nghiệm sau 15 năm thử thách, tôi luyện.
Hệ thống chủ nghĩa xã hội đang hình thành, phong trào cách mạng thế giới đang phát triển mạnh mẽ đã cổ vũ nhân dân ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ thành quả của cách mạng.
1.2. Những khó khăn
1.2.1. Về đối nội
Ngay sau khi giành được độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải đối mặt với muôn vàn khó khăn:
* Nạn đói
Hậu quả nạn đói năm 1945 vẫn chưa khắc phục nổi. Đê vỡ do lũ lụt đến tháng 8/1945 vẫn chưa khôi phục, hạn hán làm cho 50% diện tích đất không thể cày cấy.
Công thương nghiệp đình đốn, giá cả sinh hoạt đắt đỏ.
Nạn đói mới có nguy cơ xảy ra trong năm 1946.
* Nạn dốt
Hơn 90% dân số không biết chữ.
Các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc...tràn lan.
* Ngân sách cạn kiệt
Ngân sách quốc gia trống rỗng: Còn 1.230.000 đồng, trong đó có đến một nửa là tiền rách không dùng được.
Hệ thống ngân hàng vẫn còn bị Nhật kiểm soát.
Quân Tưởng đưa vào lưu hành đồng "Quốc tệ", "Quan kim" làm rối loạn nền tài chính nước ta.
1.2.2. Về đối ngoại
* Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra)
20 vạn quân Tưởng và các đảng phái tay sai của chúng như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) tràn vào nước ta với mưu đồ tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương, lập nên chính quyền tay sai của chúng.
Dựa vào quân Tưởng, các đảng phái này đã lập nên chính quyền phải động ở Yên Bái, Móng Cái, Vĩnh Yên.
* Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào)
Quân đội Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Các lực lượng phản động thân Pháp như Đảng Đại Việt, một số giáo phái...hoạt động trở lại và chống phá cách mạng.
Ngoài ra, còn có 6 vạn quân Nhật trên khắp đất nước.
Những khó khăn về đối nội và đối ngoại trên là một thách thức quá lớn đối với Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đang còn non trẻ lúc bấy giờ. Việt Nam lúc này như đang trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc".
2. Những chủ trương và biện pháp khắc phục khó khăn, củng cố chính quyền nhằm giữ vững nền độc lập
2.1. Củng cố chính quyền dân chủ nhân dân
Một tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Chính phủ lâm thời đã công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri cả nước tham gia bỏ phiếu bầu cử Quốc hội và đã bầu ra 333 đại biểu.
Ngày 02/03/1946, Quốc hội khoá 1 họp phiên đầu tiên và đã quyết định thành lập Chính phủ chính thức do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Sau ngày bầu cử Quốc hội, cử tri cả nước cũng đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và sau đó Ủy ban hành chính các cấp cũng được thành lập.
Quốc Hội ban hành hiến pháp, pháp luật.
Việt Nam giải phóng quân được củng cố và phát triển sau đó đổi tên thành vệ quốc đoàn (9/1945) và đến tháng 5/1946 đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam.
Ý nghĩa:
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khẳng định lòng ủng hộ son sắc của cả dân tộc đối với Đảng và Chính phủ cách mạng trước những âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và tay sai.
Trên đây là những điều kiện ban đầu để Đảng và Nhà nước vượt qua được tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" lúc bấy giờ.
2.2. Giải quyết khó khăn về đối nội
2.2.1. Diệt giặc đói
Biện pháp trước mắt:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập "hũ gạo tiết kiệm", không dùng gạo, ngô nấu rượu để đem cứu dân nghèo.
Tổ chức "ngày đồng tâm", thực hiện "nhường cơm sẽ áo" để cứu đói...
Biện pháp lâu dài:
Phát động phong trào thi đua tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: "không một tất đất bỏ hoang", "tấc đất tấc vàng"...
Củng cố đê điều, Chia ruộng cho dân cày nghèo, giảm tô 25%, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác.
Kết quả: Đến cuối năm 1946, nền nông nghiệp được phục hồi, sản lượng lương thực tăng lên và nạn đói được đẩy lùi.
2.2.2. Diệt giặc dốt
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ.
Đến đầu tháng 3/1946, ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên, các trường tiểu học, trung học phát triển mạnh.
2.2.3. Giải quyết khó khăn về tài chính
Chính phủ đã thành lập quỹ độc lập, phát động tuần lễ vàng... để kêu gọi nhân dân tự nguyện đóng góp giúp Chính phủ.
Nhân dân đã hăng hái đóng góp. Sau một thời gian ngắn Chính phủ đã thu được 20 triệu bạc và 370 kg vàng.
Ngày 31/01/1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.
Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trên toàn quốc.
2.3. Giải quyết khó khăn về đối ngoại
2.3.1. Trong giai đoạn trước ngày 28/2/1946
* Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược
Ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, chính phủ Pháp đã có kế hoạch tái chiếm Đông Dương.
Ngày 2/9/1945, thực dân Pháp đã xã súng vào nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đang tham dự mittinh mừng ngày độc lập.
Ngày 6/9/1945, quân Anh đến Sài Gòn và đã thả hết quân Pháp bị Nhật bắt giam trước đó; trang bị vũ khí cho chúng và tiến hành chiếm đóng nhiều nơi.
Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công trụ sở Ủy Ban nhân dân Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trước tình thế đó, nhân dân Nam bộ đã chủ động kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 5/10/1945, sau khi có viện binh thực dân Pháp đẩy mạnh đánh chiếm các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ.
Trước tinh thần kháng Pháp của nhân dân Nam bộ, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã ra sức ủng hộ và phát động phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến để giam chân địch.
* Hòa hoãn với Tưởng Giới Thạch
Để tránh trường hợp cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, đồng thời tranh thủ điều kiện hòa bình để xây dựng và củng cố chính quyền, Đảng đã chủ trương hòa hoãn và tránh xung đột với quân Tưởng Giới Thạch:
+ Chấp nhận tăng thêm 70 ghế không qua bầu cử cho tay sai của Tưởng.
+ Dành 4 ghế Bộ Trưởng cho bọn Việt Quốc, Việt Cách. Cho Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch nước.
+ Chấp nhận cung cấp một phần lương thực thực phẩm cho quân Tưởng.
+ Đồng ý để Tưởng đưa đồng "Quan kim", "Quốc tệ" vào lưu hành ở miền Bắc.
2.3.2. Từ 28/2/1946 trở đi
Hiệp ước Hoa - Pháp và âm mưu của Pháp
Sau khi chiếm đóng Nam bộ và Nam Trung bộ, thực dân Pháp chuẩn bị mở rộng xâm lược ra miền Bắc. Nhưng do lực lượng còn yếu (3,5 vạn), chúng không thể đương đầu nổi với nhân dân miền Bắc và sự cản trở của 20 vạn quân Tưởng đây.
Để có thể đưa quân ra miền Bắc một cách "hòa bình", Pháp đã thương lượng và ký với Tưởng Hiệp ước Hoa - Pháp vào ngày 28/2/1946 với nội dung:
+ Pháp trả lại một số quyền lợi cho Tưởng ở Trung Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng miễn thuế.
+ Tưởng đồng ý cho Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật.
Mặt khác, Pháp tìm cách điều đình với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Như vậy, sau 28/2/1946, ta đang đứng trước hai con đường:
+ Hoặc chống lại thực dân Pháp ngay sau khi chúng đưa quân ra miền Bắc.
+ Hoặc tạm thời hòa hoãn với Pháp để nhanh chóng đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi đất nước ta, sau đó mới chống lại Pháp.
Chủ trương của ta sau ngày 28/2/1946
Chính phủ của ta đã chọn giải pháp thứ hai - hòa hoãn với Pháp:
* Kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ với nội dung:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và Tài chính riêng nằm trong khối Liên Hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay Tưởng, và số quân này sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên thực hiện ngừng bắn ngay ở Nam Bộ; Tạo điều thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán ở Paris.
* Ký tạm ước 14/9/1946
+ Ta tranh thủ điều kiện hòa bình để ra sức củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị để đối phó với thực dân Pháp.
+ Thực dân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định: Gây xung đột ở Nam Bộ, tìm cách trì hoãn và phá hoại các cuộc đàm phán, làm cho cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô giữa hai Chính phủ bị thất bại. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh đến gần.
Trước tình hình đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp một bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ một số quyền lợi ở Việt Nam cho Pháp để kéo dài thời gian hòa hoãn nhằm củng cố và xây dựng lực lượng.
Sự nhân nhượng thực dân Pháp trong giai đoạn sau ngày 28/2/1946 đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng và tay sai ra khỏi miền Bắc, tạo ra được một giai đoạn hòa bình để củng cố và xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.
BÀI 10
NHỮNG NĂM ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN 1946 - 1950
1. Cuộc kháng chiến bùng nổ và đường lối kháng chiến của ta
1.1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), nhưng thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích ta:
+ Tháng 11/1946, chúng gây xung đột và khiêu khích ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn.
+ Đầu tháng 12/1946, chúng ngang nhiên chiếm Đà Nẵng, Lạng Sơn.
+ Ngày 17/12/1946, chúng khiêu khích ta ở Thủ đô và bắn đại bác vào phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, cầu Long Biên....
+ Nghiêm trọng hơn, ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng trong vòng 48 giờ.
Nếu tiếp tục nhân nhượng, thuận theo những điều kiện lúc này của thực dân Pháp thì đồng nghĩa với việc trao độc lập, chủ quyền của ta cho chúng. Nhân dân ta chỉ còn một con đường duy nhất là cầm vũ khí đứng lên.
Ngày 18,19/12/1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.
Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, cuộc khởi nghĩa bắt đầu nổ ra ở Hà Nội. Và ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát đi khắp cả nước:
"Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...
... Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm..."
1.2. Đường lối kháng chiến
Sau lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1946, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị "Toàn dân kháng chiến", và sau đó, Tổng Bí thư Trường Chinh đã cho xuất bản cuốn "Kháng chiến nhất định thắng lợi"... và đã xác định đường lối kháng chiến:
1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là sự tiếp tục của cuộc Cách mạng tháng Tám.
2. Kháng chiến toàn dân: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên chống thực dân Pháp cứu tổ quốc.
3. Kháng chiến toàn diện: Trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế,văn hoá.
4. Tự lực cánh sinh: Kháng chiến dựa vào sức mình là chính.
5. Kháng chiến trường kỳ: Theo 3 giai đoạn: Phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.
2. Cuộc kháng chiến ở các đô thị và chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài
2.1. Cuộc kháng chiến ở các đô thị
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, quân dân các thành phố và thị xã ở Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đã đồng loạt nổ súng:
Tại thị xã Hải Dương, quân ta đã nhanh chóng tiêu diệt địch ở trường Nữ học và cầu Phú Lương. Nhưng ngay sau đó, Pháp đã phản kích và giành lại quyền kiểm soát.
Tại Hải Phòng, nhân dân đã phá cầu, chôn mìn đặt chướng ngại vật... để chặn đường tiếp tế cho Hà Nội của Pháp.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...nhân dân ta đã nổ súng tấn công địch ở khắp nơi, chiếm giữ được nhiều vị trí quan trọng. Nhưng do bị phản công của Pháp quá mạnh nên ta buộc phải rút lui ra ngoại thành và các vùng nông thôn để bảo toàn lực lượng và tiếp tục kháng chiến.
Trong các cuộc đấu tranh đó, tiêu biểu nhất là cuộc chiến 60 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, quân và dân Thủ đô đã chiến đấu dũng cảm, quyết liệt để giam chân và tiêu hao sinh lực địch. Nhưng do lực lượng của Pháp quá mạnh, nên Trung ương Đảng đã cho Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội trở về hậu phương để kháng chiến lâu dài.
2.2. Tích cực chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài
Song song với cuộc chiến đấu ở các đô thị, Đảng và Chính phủ cũng đã thực hiện thắng lợi cuộc tổng di chuyển ra các vùng căn cứ kháng chiến.
Đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương đã chuyển lên căn cứ Việt Bắc an toàn.
Di chuyển được hàng vạn tấn máy móc, nguyên liệu, lương thực - thực phẩm ra vùng căn cứ phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Cùng với việc di chuyển, ta thực hiện chủ trương phá hoại để kháng chiến lâu dài.
Bên cạnh đó, Chính phủ còn chủ trương bằng mọi cách phải duy trì sản xuất để đảm bảo đời sống nhân dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.
Như vậy, sau 3 tháng chiến tranh, thực dân Pháp chỉ chiếm được những vùng đô thị đổ nát do chiến tranh phá hoại và chính sách "Tiêu thổ kháng chiến" của ta. Cơ quan đầu não kháng chiến vẫn tồn tại cùng với một phong trào kháng chiến mạnh mẽ ở các vùng nông thôn và miền núi, làm cho kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp không thành công.
3. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947
3.1. Bối cảnh
Sau khi chiếm được các đô thị và một số tuyến đường giao thông quan trọng, thực dân Pháp bắt đầu gặp khó khăn do chiến tranh kéo dài và thiếu quân.
Tháng 03/1947, Chính phủ Pháp triệu hồi Đắc-giăng-li-ơ và cử Bô-léc sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Bô - léc đã đưa ra kế hoạch như sau:
- Xúc tiến việc thành lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại.
- Chuẩn bị tấn công vào căn cứ Việt Bắc để:
+ Tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
+ Tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta.
+ Khoá chặt biên giới Việt - Trung.
- Sau khi giành thắng lợi, Pháp sẽ đẩy mạnh thành lập chính quyền bù nhìn trên toàn quốc và kết thúc chiến tranh
3.2. Diễn biến
Ngày 7/10/1947, Pháp huy động 12.000 quân và hầu hết máy bay hiện có ở Đông Dương tấn công lên Việt Bắc:
+ Một bộ phận nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới.
+ Một binh đoàn bộ binh tấn công từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, sau đó chia một bộ phận theo đường số 3 xuống Bắc Cạn.
Ngày 9/10/1947, binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thủy đánh bộ từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang, bao vây Việt Bắc từ phía Tây.
Pháp dự định sẽ khép hai gọng kìm này lại tại Đài Thị.
Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp":
+ Ở Bắc Cạn, ta bao vây tập kích quân nhảy dù của Pháp.
+ Ở sông Lô, ta phục kích địch ở Đoan Hùng, Khe Lau, Khoan Bộ, bắn chìm nhiều tàu chiến và canô của chúng.
+ Trên đường số 4, ta tập kích mạnh quân pháp và giành thắng lợi lớn ở đèo Bông Lau, cắt đôi đường số 4.
Đồng thời với cuộc phản công ở Việt Bắc, quân dân cả nước đã đấu tranh chính trị, vũ trang hưởng ứng, buộc Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó.
Sau hơn 2 tháng chiến đấu, ngày 19/12/1947, đại bộ phận quân Pháp đã rút khỏi Việt Bắc.
3.3. Kết quả và ý nghĩa
Ta đã đánh bại cuộc tấn công căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, loại khỏi vòng chiến 6.000 tên địch, bắn hạ 16 máy bay, 11 tàu chiến và ca nô...
Căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững, cơ quan đầu não của ta được bảo vệ an toàn.
Chiến thắng Việt Bắc đã đánh bại hoàn toàn kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.
Thực dân Pháp tuy vẫn kiểm soát được tuyến biên giới Lạng Sơn - Cao Bằng - Bắc Cạn nhưng đã không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra.
4. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện chống âm mưu mới của Pháp từ sau chiến dịch Việt Bắc 1947 đến trước chiến dịch Biên giới 1950
4.1. Âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp sau chiến dịch Việt Bắc 1947
Không giành được thắng lợi trong chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt và lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" để đánh lâu dài với ta:
+ Xây dựng và phát triển lực lượng Việt gian.
+ Tăng cường mở rộng các vùng tự do và bình định các vùng tạm chiếm.
+ Thực hiện các chính sách "Đốt sạch, phá sạch, cướp sạch" và chiến dịch "phá lúa" để vơ vét của cải gây khó khăn cho ta.
Trong nửa đầu năm 1948, thực dân Pháp đã giành được nhiều kết quả làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân ta bị tổn thất lớn.
4.2. Chủ trương đối phó của ta
Để đối phó với những âm mưu của thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ chủ trương: Một mặt, phát động chiến tranh du kích ở các vùng bị tạm chiếm nhằm tiêu hao sinh lực địch; mặt khác, đẩy mạnh củng cố chính quyền, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế... ở các vùng tự do để tạo sức mạnh phục vụ cho kháng chiến.
4.2.1. Đẩy mạnh chiến tranh du kích
Đảng đã chủ trương phân tán 1/3 bộ đội chủ lực, đưa về các vùng bị địch chiếm đóng để hỗ trợ và lãnh đạo nhân dân thực hiện chiến tranh du kích.
Nhờ chủ trương này, phong trào cách mạng đã được phục hồi và phát triển nhanh chóng: Các phong trào chống thu thóc, chống nộp thuế, các hoạt động trừ gian diệt ác, chống càng, bảo vệ làng mạc...diễn ra khắp nơi và rất mạnh mẽ.
Đến năm 1948, bộ đội chủ lực bắt đầu tập đánh vận động chiến, tiêu biểu như: Chiến dịch Nghĩa Lộ, chiến dịch Lao - Hà, chiến dịch Đông Bắc...
Đồng thời, Đảng còn lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị ở khắp các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn - Chợ Lớn.... Tiêu biểu là cuộc biểu tình của 2.000 sinh viên, học sinh Sài Gòn vào ngày 9/01/1950 và cuộc biểu tình của 300.000 đồng bào Sài Gòn vào ngày 19/3/1950.
4.2.2. Củng cố chính quyền, xây dựng kinh tế, văn hoá, giáo dục
Đảng và Chính phủ đã tăng cường củng cố chính quyền từ Trung ương xuống địa phương; Thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thành Hội Liên Việt.
Chống phá hoại kinh tế của địch: Chống chiến dịch "phá lúa", chống chủ trương "đốt sạch, phá sạch, cướp sạch" của địch.
Xây dựng và phát triển kinh tế như: Phát động phong trào thi đua ái quốc, đẩy mạnh sản xuất. Thực hiện giảm tô 25%, chia ruộng cho nông dân. Giảm tức, xoá nợ, hoãn nợ cho nông dân. Xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc phòng.
=> Kinh tế ở các vùng tự do phát triển nhanh chóng, tạo tiếm lực cho chính quyền cách mạng.
Phát triển văn hoá, giáo dục, y tế:
Đảng chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, thúc đẩy xây dựng nếp sống mới vui tươi lành mạnh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Phong trào chống mù chữ được đẩy mạnh, nền giáo dục phổ thông được mở rộng, hệ thống giáo dục Chuyên nghiệp và Đại học bước đầu hình thành.
Hệ thống y tế được xây dựng và phát triển để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
* Kết luận: Những thành công của chiến tranh du kích và thành tựu xây dựng kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế trong giai đoạn này đã tiếp tục làm thất bại âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp. Đồng thời tạo thêm sức mạnh cho cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới.
5. Chiến dịch Biên Giới thu - đông 1950
5.1. Bối cảnh lịch sử
Tiếp theo những thắng lợi trong giai đoạn sau năm 1947 đến trước năm 1950, lực lượng cách mạng Việt Nam tiếp tục gặp những điều kiện thuận lợi mới:
Ngày 01/10/1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, sau đó thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ tháng 01/1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Cchủ Cộng hòa.
Tháng 6/1950, Ủy Ban dân tộc giải phóng Campuchia thành lập và tháng 8/1950 Chính phủ kháng chiến Lào cũng ra đời đã gây khó khăn cho thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương.
Trước tình hình đó, Mĩ đã giúp Pháp đẩy mạnh chiến tranh. Thực dân Pháp đã thông qua Kế hoạch Rơ - ve với 3 hoạt động cơ bản như sau:
Tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4 để khoá chặt biên giới Việt - Trung.
Thiết lập một "hành lang Đông - Tây" (Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La) để cô lập căn cứ Việt Bắc.
Chuẩn bị tấn công lên căn cứ Việt Bắc lần thứ hai để tiêu diệt cơ quan đầu não Việt Minh và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
5.2. Diễn biến
Để tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới, đồng thời xóa bỏ tình trạng bị bao vây, cô lập, tháng 6/1950, Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm:
+ Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
+ Khai thông biên giới Việt - Trung.
+ Củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.
Chuẩn bị cho chiến dịch, ta huy động hơn 120.000 dân công, vận chuyển đến chiến trường 4.000 tấn lương thực, súng đạn...
Sáng 16/9/1950, quân ta nổ súng tấn công Đông Khê, đến ngày 18/9/1950 ta tiêu diệt hoàn toàn Đông Khê làm cho Cao Bằng bị cô lập và Thất Khê bị uy hiếp.
Thực dân Pháp đã lên kế hoạch rút khỏi Cao Bằng bởi một "cuộc hành quân kép": Đưa quân đánh Thái Nguyên buộc ta phải đối phó, đồng thời đưa lực lượng từ Thất Khê đánh lên Đông Khê và rút quân ở Cao Bằng theo đường số 4 tiếp đánh Đông Khê.
Đoán biết ý đồ của Pháp, ta cho quân mai phục và đánh bại cánh quân tiếp viện từ Thất Khê lên và cả cánh quân từ Cao Bằng rút về. Đồng thời, ta đập tan cuộc hành quân tấn công lên Thái Nguyên của địch.
Trong khi chiến dịch diễn ra, quân và dân cả nước đã phối hợp tấn công, buộc Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó, không thể chi viện cho chiến trường Biên giới.
5.3. Kết quả và ý nghĩa
Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, quân ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 8.300 tên địch, thu 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh.
Giải phóng biên giới Việt - Trung, chọc thủng hành lang Đông - Tây (ở Hòa Bình), làm cho kế hoạch Rơ - ve bị phá sản.
Sau chiến thắng Biên giới 1950, căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và không còn bị bao vây cô lập. Cách mạng Việt Nam đã nối được quan hệ với cách mạng thế giới.
Ta đã nắm được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính (Bắc bộ), đẩy thực dân Pháp vào thế bị động chiến lược.
BÀI 11
GIỮ VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN THẾ CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH 1951 - 1953
1. Âm mưu và kế hoạch mới của Pháp - Mĩ
Sau thất bại 1950, thực dân Pháp phải dựa vào Mĩ để tìm cách xoay chuyển tình hình, giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Tháng 12/1950, Chính phủ Pháp cử tướng Đờ-lát-Đờ-tát-xi-nhi làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương
Đờ-lát đưa ra một kế hoạch mới gồm 4 điểm:
Gấp rút tập trung quân Âu - Phi, xây dựng lực lượng cơ động mạnh và ra sức phát triển ngụy quân.
Lập tuyến phòng thủ "Boongke" và "Vành đai trắng" bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Tiến hành chiến tranh tổng lực và bình định vùng tạm chiếm.
Đánh phá căn cứ và hậu phương của ta, chuẩn bị tấn công ra vùng tự do để giành lại quyền chủ động chiến lược.
Đờ - lát trển khai kế hoạch bằng cách tiến hành bắt lính, xây dựng hệ thống phòng tuyến "Boongke" ở Bắc Bộ, tăng cường càng quét, bình định và lập "Vành đai trắng"... gây cho ta nhiều khó khăn và tổn thất lớn.
2. Đánh bại âm mưu giành lại thế chủ động của thực dân Pháp
Để đối phó với những hoạt động càng quét và bình định của thực dân Pháp, quân ta đã liên tiếp mở các chiến dịch đánh vào hệ thống phòng tuyến của địch:
Mở đầu là chiến dịch Trần Hưng Đạo (Chiến dịch Trung Du) - từ 25/12/1950 đến 17/1/1951 - đánh vào hệ thống phòng ngự của Pháp ở Vĩnh Yên, Phúc Yên.
Tiếp đến là chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch Đường số 18) - từ 29/3/1951 đến 4/5/1951), quân ta tấn công địch từ Phả Lại đến Uông Bí, buộc chúng phải rút khỏi Uông Bí.
Thứ ba là chiến dịch Quang Trung (CD Hà - Nam - Ninh) - từ 28/5/1951 đến 20/6/1951 - quân ta tấn công địch ở Hà Nam Ninh
Những cuộc tấn công của ta đã giành được một số thắng lợi, nhưng lúc này Pháp vẫn còn mạnh và vẫn tiếp tục theo đuổi âm mưu giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Sau một năm củng cố thế phòng ngự, xây dựng và phát triển lực lượng, tháng 11/1951, thực dân Pháp đã mở một cuộc hành quân lớn ra Hòa Bình nhằm nối lại hành lang Đông - Tây, củng cố tinh thần của quân đội Pháp và tranh thủ thêm viện trợ của Mĩ.
Ngày 10/11/1951, Pháp đưa quân tấn công Hòa Bình.
Ta quyết định mở chiến dịch Hòa Bình và tiến hành vây hãm chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích trên chiến trường Bắc Bộ.
Đến cuối tháng 02/1952, Pháp buộc phải rút khỏi Hòa Bình.
Trong chiến dịch này, quân ta đã loại khỏi vòng chiến 22.000 tên, căn cứ địa cách mạng được mở rộng. Đánh bại âm mưu giành lại thế chủ động trên chiến trường của thực dân Pháp.
3. Đẩy mạnh tiến công, phát triển thế chủ động trên chiến trường
Tiếp tục đà thắng lợi, ngày 14/10/1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc và đã giành được thắng lợi sau 2 tháng chiến đấu, giải phóng thêm 28.500 km2 và 25 vạn dân.
Tháng 4/1953, bộ đội ta phối hợp với bộ đội Pha-thét - Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Sau gần một tháng chiến đấu, liên quân Việt - Lào đã giành được thắng lợi, giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa, mở rộng và nối liền căn cứ địa Thượng Lào với Việt Bắc, tạo nên một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn uy hiếp Pháp.
* Tóm lại, từ chiến dịch Biên giới 1950 đến năm 1953, quân ta đã giữ vững và phát huy được thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính
BÀI 12
KẾ HOẠCH NAVA VÀ SỰ THẤT BẠI HOÀN TOÀN CỦA THỰC DÂN PHÁP (1953 - 1954)
1. Kế hoạch Nava và âm mưu mới của Pháp - Mĩ
1.1. Bối cảnh
Sau 8 năm xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bị suy yếu rõ rệt: Thiệt hại gần 390.000 quân, tiêu tốn 2000 tỉ Phờ - răng, liên tục bị ta đẩy vào thế bị động chiến lược.
Trước sự sa lầy của Pháp, Mĩ can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, thúc ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh.
Để tìm lối thoát, thực dân Pháp đã tranh thủ viện trợ của Mĩ để đẩy mạnh chiến tranh cố tìm một thắng lợi quân sự để "rút lui trong danh dự".
Ngày 07/5/1953, với sự thỏa thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử Tướng Nava sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương và thông qua Kế hoạch Nava với hy vọng sẽ "chuyển bại thành thắng" trong vòng 18 tháng.
1.2. Nội dung của kế hoạch Nava
Bước 1: trong thu đông 1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược trên chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với quân chủ lực của ta. Thực hiện tiến công chiến lược, bình định miền Trung và miền Nam Đông Dương, phát triển ngụy quân, xây dựng lực lượng cơ động mạnh.
Bước 2: từ thu đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc để đẩy mạnh tiến công chiến lược và cố giành thắng lợi quyết định, buộc ta phải đàm phán theo điều kiện có lợi cho chúng.
Để triển khai kế hoạch, Nava đã huy động một lực lượng cơ động lên đến 84 tiểu đoàn trên toàn chiến trường Đông Dương, trong đó ở đồng bằng Bắc bộ có 44 tiểu đoàn. tiến hành những cuộc càn quét, bình định và mở những cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hóa...
2. Từng bước đánh bại kế hoạch Nava
2.1. Chủ trương chiến lược của ta
Phương hướng chiến lược:
Giữ vững thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính.
Tập trung lực lượng, mở những cuộc tấn công vào các hướng địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một phần sinh lực, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó với ta.
Phương châm chiến lược: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, đánh ăn chắc và tiến ăn chắc".
Với phương hướng và phương châm chiến lược đó, ta đã từng bước đánh bại kế hoạch Nava.
2.2. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của ta đã bước đầu làm phá sản kế hoạch Nava
Giữa tháng 11/1953, ta tiến quân theo hướng Tây Bắc và Trung Lào. Thực dân Pháp phát hiện; Ngày 20/11/1953, Nava đã cho 6 tiểu đoàn cơ động nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm bảo vệ Tây Bắc và Thượng Lào.
Ngày 10/12/1953, quân ta tấn công và giải phóng thị xã Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ. Nava buộc phải điều thêm 6 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc bộ lên tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến đây thành nơi tập trung quân thứ hai của Pháp.
Đầu tháng 12/1953, quân ta phối hợp với bộ đội Pha-thét Lào mở chiến dịch Trung Lào, uy hiếp mạnh Sênô, buộc Nava phải điều thêm lực lượng lên Sê-nô, biến đây thành nơi tập trung quân lớn thứ ba của Pháp.
Cuối tháng 01/1954, ta tiến quân sang thượng Lào, phối hợp với Pha-thét Lào tấn công và uy hiếp Luông-pha-băng, Na-va phải tăng quân cho Luông -pha-băng, biến căn cứ này trở thành nơi tập trung quân lớn thứ tư của Pháp.
Đầu tháng 02/1954, ta mở chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum và uy hiếp Plây cu. Na-va phải điều lực lượng ở Nam bộ và Bình Trị Thiên lên tăng cường cho Tây Nguyên, biến An Khê và Plây-cu thành nơi tập trung quân lớn thứ năm của Pháp.
Ở vùng sau lưng địch, phong trào chiến tranh du kích cũng phát triển mạnh hỗ trợ cho mặt trận chính.
Như vậy, đến đầu năm 1954, lực lượng của Pháp bị phân tán trên khắp chiến trường Đông Dương để đối phó với ta làm cho kế họach Na-va bước đầu bị phá sản.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ và sự thất bại hoàn toàn của kế hoạch Nava
3.1. Sự điều chỉnh kế hoạch của Nava và chủ trương đối phó của ta
Sau khi đưa quân lên Điện Biên Phủ để bảo vệ Tây Bắc và Thượng Lào không thành công, ngày 5 tháng 3 năm 1954, Na-va quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, chấp nhận một cuộc quyết chiến chiến lược tại đây và sẵn sàng "nghiền nát" bộ đội chủ lực của ta.
Như vậy, từ chỗ không có trong kế hoạch, Điện Biên Phủ đã trở thành trung tâm của kế hoạch Na-va.
Đến tháng 3 năm 1954, Điện Biên Phủ trở thành căn cứ quân sự lớn nhất Đông Dương với lực lượng lúc cao nhất lên đến 16200 tên, được bố trí thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu với các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại.
Đầu tháng 12/1953, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ để tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc.
Toàn dân, toàn quân ta với tinh thần "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", đã huy động 261.464 dân công với 10.301.570 ngày công và hàng vạn thanh niên xung phong tham gia vận chuyển lương thực, đạn dược, mở đường... phục vụ cho chiến dịch.
3.2. Diễn biến của chiến dịch
Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta bắt đầu nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; chiến dịch diễn ra 3 đợt:
Đợt 1 (Từ 13 đến 17/3/1954): quân ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc (Độc Lập, Bản Kéo), loại khỏi vòng chiến đấu 2000 tên địch.
Đợt 2 (Từ 30/3/1954 đến 26/4/1954): quân ta tấn công cứ điểm phía Đông và phân khu trung tâm Mường Thanh, từng bước khép chặt vòng vây và tiến sát sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp viện duy nhất của địch.
Sau đợt này, Mĩ viện trợ khẩn cấp cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử ở Điện Biên Phủ.
Đợt 3 (Từ 01/5/1954 đến 07/5/1954): ta tiêu diệt khu trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam - Hồng Cúm; quân Pháp định tháo chạy sang Lào.
Chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân ta tổng tấn công vào sở chỉ huy; tướng Đờ - cát - tơ - ri đầu hàng, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.
3.3. Kết quả và ý nghĩa
3.3.1. Kết quả
Ta tiêu diệt và bắt sống 16200 tên, hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
3.3.2. Ý nghĩa
Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam.
Đánh bại hoàn toàn kế họach Na-va của Pháp - Mĩ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đấu tranh ngoại giao ở Giơ-ne-vơ để đi đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chứng minh chân lý của thời đại: dù là một dân tộc đất không rộng, dân không đông nhưng nếu quyết tâm, biết đoàn kết chiến đấu với đường lối cách mạng đúng đắn, được sự ủng hộ của quốc tế thì hoàn toàn có khả năng chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.
4. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương
4.1. Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, lập trường của ta là sẵn sàn thương lượng để giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam trên cơ sở độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng thực dân Pháp vẫn cố tình phát động và đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nước ta.
Đến cuối năm 1953 đầu năm 1954, khi đã thất bại nặng nề và liên tiếp gặp khó khăn, Pháp mới chịu chấp nhận giải pháp thương lượng để giải quyết vấn đề Việt Nam.
Tháng 01 năm 1954, Hội nghị ngọai trưởng bốn nước: Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ tại Béc-lin đã thỏa thuận triệu tập một hội nghị quốc tế tại Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 26/4/1954, giữa lúc quân ta chuẩn bị mở đợt tấn công Điện Biên Phủ lần thứ 3, hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc.
Ngày 8/5/1954, Phái đoàn của ta do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đã đến tham dự hội nghị với tư thế là đại biểu của một dân tộc chiến thắng.
Trong quá trình hội nghị, phái đoàn của ta đã kiên trì đấu tranh chống âm mưu phá họai của đế quốc Pháp-Mĩ và các thế lực phản động quốc tế. Ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết.
4.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơ-ne-vơ
Các bên tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng cácquyền dân tộc cơ bản (độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ) của Việt Nam, Lào và Campuchia và không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước này.
Hai bên ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu vực phi quân sự hai bên giới tuyến.
Các nước Đông Dương không được gia nhập những khối liên minh quân sự và không được để các nước khác sử dụng lãnh thổ của mình để gây chiến tranh. Nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương.
Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7 năm 1957, dưới sự kiểm soát của một ủy ban quốc tế (Ấn Độ, Ba Lan và Canada).
Trách nhiệm thi hành hiệp định thuộc về những người kí kết hiệp định và những người kế tục họ.
4.3. Ý nghĩa của Hiệp định
Hiệp định Giơ-ne-vơ cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp (có sự giúp sức của Mĩ), buộc Pháp phải rút về nước.
Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
5. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp
5.1. Nguyên nhân thắng lợi
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam:
Đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nhờ đó, Đảng đã động viên được toàn dân tham gia kháng chiến.
Xác định đường lối kháng chiến thích hợp: toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Nhờ vậy, Đảng đã tạo nên được thế trận cả nước đánh giặc.
Do toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, theo tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".
Nhờ có hậu phương vững chắc mà Đảng đã vận động được cao nhất sức người, sức của để phục vụ cho kháng chiến.
Nhờ có sự đoàn kết phối hợp giữa nhân dân ba nước Đông Dương, sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn của các nước XHCN và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
5.2. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của nhân dân ta đã buộc thực dân Pháp phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của Pháp - Mĩ ở Đông Dương.
Bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng tháng Tám, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo thuận lợi cho miền Bắc tiến hành cách mạng ruộng đất, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống thực dân, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, đồng thời đánh tan âm mưu của đế quốc Mĩ muốn thay chân Pháp nô dịch nhân dân Đông Dương, ngăn chặn sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Nam Á.
Làm sáng tỏ chân lí: trong thời đại ngày nay, dù là một dân tộc đất không rộng, dân không đông nhưng nếu quyết tâm, biết đoàn kết chiến đấu với đường lối cách mạng đúng đắn, được sự ủng hộ của quốc tế thì hoàn toàn có khả năng chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới mà trước hết là ở châu Á và châu Phi.
BÀI 13
TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU HIỆP ĐỊNH GIƠ - NE - VƠ VÀ NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG TRONG THỜI KÌ MỚI 1954 - 1975
1. Đặc điểm tình hình hai miền Nam - Bắc sau hiệp định Giơ-ne-vơ
1.1. Miền Bắc
Sau khi hiệp định được kí kết, thực dân Pháp cố tình trì hoãn rút quân. Ta đã đấu tranh buộc quân Pháp phải rút khỏi Hà Nội vào ngày 10 tháng 10 năm 1954.
Ngày 01/01/1955, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về đến Hà Nội.
Trong khi rút quân, thực dân Pháp đã phá họai cơ sở hạn tầng kinh tế ở miền Bắc, đồng thời chúng cùng với Mĩ - Diệm dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào Công giáo vào miền Nam.
Ngày 13/5/1955, quân Pháp hoàn toàn rút khỏi miền Bắc nước ta.
1.2. Miền Nam
Chúng ta thực hiện nghiêm chỉnh việc đình chiến, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực.
Trước khi Hiệp định được kí kết, Mĩ đã ép Pháp phải đưa tay sai của Mĩ là Ngô Đình Diệm vào chính phủ bù nhìn của Bảo Đại. Sau đó, Mĩ đã không kí vào bản cam kết thực hiện Hiệp định.
Hai ngày sau khi Hiệp định được kí kết, ngoại trưởng Mĩ đã tuyên bố can thiệp vào miền Nam Việt Nam để "ngăn chặn sự bành trướng của Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á".
Ngày 14 tháng 5 năm 1956, Chính phủ Pháp thông báo sẽ rút hết quân viễn chinh ở miền Nam về nước, trút bỏ trách nhiệm thi hành nhiều điều khoản còn lại của hiệp định, trong đó có việc tổ chức tổng tuyển cử ở hai miền Nam Bắc cho chính quyền Ngô Đình Diệm.
=> Miền Nam rơi vào tay đế quốc Mĩ và chính quyền tay sai.
2. Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
Những âm mưu của Mĩ - Diệm ở miền Nam đã đưa đất nước đứng trước nguy cơ bị chia cắt lâu dài; miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, miền Nam rơi vào tay đế quốc Mĩ. Trước tình thế đó, Đảng ta đã đề ra hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau cho hai miền:
Miền Bắc: chuyển sang giai đoạn cách mạng Xã hội Chủ nghĩa nhằm hoàn thành cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế... xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở miền Nam.
Miền Nam: Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống lại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mĩ, tiến đến giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai nhiệm vụ trên tuy khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích chung là đánh đổ đế quốc Mĩ và tay sai của chúng để đi đến thống nhất đất nước. Trong đó, miền Bắc giữ vai trò là hậu phương, đảm bảo cho sự thắng lợi của toàn cuộc cách mạng; miền Nam là tiền tuyến trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ và tay sai.
BÀI 14
MIỀN NAM CHỐNG "CHIẾN TRANH ĐƠN PHƯƠNG" CỦA MĨ - DIỆM (1954 - 1960)
1. Âm mưu chiến lược của Mĩ - Diệm ở miền Nam sau Hiệp định Giơ - ne - vơ
Sau khi thực dân Pháp thất bại, Mĩ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Ngày 7/11/1954, Mĩ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mạng XHCN ở Đông Nam Á.
Dựa vào Mĩ, Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng dựng lên một chính quyền độc tài, gia đình trị ở miền Nam và ra sức chống phá cách mạng.
Giữa năm 1954, Diệm lập ra đảng Cần lao nhân vị làm đảng cầm quyền.
Cuối năm 1954, chúng thành lập "phong trào cách mạng quốc gia" và đưa ra mục tiêu: "chống cộng, đả thực, bài phong".
Tháng 10/1955, Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, phế truất Bảo Đại.
Tháng 3/1956, Diệm tổ chức bầu cử và thành lập Quốc hội lập hiến ở miền Nam, bất chấp hiệp định Giơ-ne-vơ; đến tháng 10/1956, Diệm cho ban hành Hiến pháp và lập ra cái gọi là "Nước Việt Nam Cộng Hòa".
Sau khi đứng vững ở miền Nam, Diệm bắt đầu đẩy mạnh chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng"; vây bắt, tàn sát, tù đày những người kháng chiến cũ, những người đấu tranh đòi tuyển cử thống nhất đất nước và cả những người không phục tùng chúng với phương châm "tiêu diệt cộng sản không thương tiếc", "thà giết lầm còn hơn bỏ sót"... nhằm làm nhụt ý chí đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam.
Chính quyền Diệm còn thực hiện chương trình cải cách điền địa nhằm lấy lại ruộng đất mà cách mạng đã giao cho nhân dân, lập ra các khu dinh điền, khu trù mật để kìm kẹp nhân dân.
Chính quyền Ngô Đình Diệm còn gây nhiều tội ác đối với nhân dân:
Ngày 04/9/1954, chúng tàn sát nhân dân ở Chợ Được - Quảng Nam làm 39 người chết, 37 người bị thương.
Ngày 21/01/1955, chúng trả thù những người kháng chiến cũ ở Vĩnh Trinh (Quảng Nam).
Ngày 01/12/1958, chúng đầu độc 6000 người yêu nước ở nhà tù Phú Lợi, làm hơn 1000 người chết.
Nghiêm trọng hơn, Diệm ra sắc lệnh "đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật" và tháng 5/1959, ra đạo luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam giết hại những người vô tội.
2. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng (1954 - 1959)
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ mới cho cách mạng miền Nam là: chuyển từ cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp sang cuộc đấu tranh chính trị chống Mĩ - Diệm đòi chúng thi hành Hiệp định để củng cố hòa bình, giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo đó, tháng 8 năm 1954, phong trào hòa bình của tri thức và các tầng lớp nhân dân ra đời ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã tổ chức nhiều cuộc Mittinh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, hiệp thương tổng tuyển cử..., nhưng đã bị chính quyền Diệm đàn áp và khủng bố.
Tiếp sau đó, phong trào chống "trưng cầu dân ý", chống bầu cử quốc hội, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống khủng bố, đàn áp, chống chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", đòi quyền tự do dân chủ... lại tiếp tục dâng cao và lan rộng từ thành thị đến nông thôn.
Các cuộc đấu tranh chính trị hòa bình của ta đã bị chính sách khủng bố và tàn sát dã man của Diệm dìm trong bể máu, lực lượng cách mạng tổn thất nặng nề: nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt bớ, giam cầm và giết hại. Nhưng cũng chính sự tàn bạo đó của Diệm đã làm cho tinh thần cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao.
3. Phong trào Đồng Khởi 1959 - 1960
Những tổn thất to lớn của cách mạng miền Nam trong giai đoạn 1954 - 1959 cho thấy, chủ trương đấu tranh chính trị hòa bình đã không còn thích hợp, cách mạng miền Nam cần phải có một đường lối đấu tranh mới.
Tháng 01/1959, Trung ương Đảng đã tiến hành hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 15; Hội nghị đã ra nghị quyết xác định: con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang nhân dân.
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của nghị quyết 15 như một ngọn gió thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng; phong trào Đồng Khởi bùng lên khắp miền Nam.
Mở đầu là cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Thạnh (Bình Định) và Bắc Ái (Ninh Thuận) vào 02/1959. Sau đó lan đến Trà Bồng (Quảng Ngãi) - 8/1959 và đặc biệt là cao trào Đồng Khởi ở Bến Tre:
Ngày 17/01/1960, tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp và Bình Khánh (Mỏ Cày) với gậy, gộc, súng ống... đồng loạt nổi dậy đánh đồn bốt và giải tán chính quyền địch.
Cuộc nổi dậy lan khắp huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre, phá tan từng mảng lớn bộ máy cai trị của địch, thành lập chính quyền cách mạng, chia ruộng đất cho dân cày nghèo.
Từ Bến Tre, phong trào lan rộng khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung bộ.
Đến cuối năm 1960, ta đã giải phóng được 600/1298 xã ở Nam bộ, 904/3829 thôn ở Trung bộ, 3200/5721 thôn ở Tây Nguyên.
Trên đà thắng lợi, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, trực tiếp lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng miền Nam.
* Ý nghĩa của phong trào Đồng Khởi
Phong trào Đồng Khởi đã giáng một đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mĩ ở miền Nam; làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công và làm thất bại chiến lược "chiến tranh đơn phương" của Mĩ - Diệm.
BÀI 15
MIỀN BẮC HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, KHÔI PHỤC KINH TẾ, CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT (1954 - 1960)
1. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế (1954 - 1957)
Sau khi miền Bắc được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách ruộng đất. Tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, ta đã tiến hành 5 đợt cải cách:
Kết quả của 5 đợt cải cách, ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua 810.000 ha ruộng đất, 106.448 trâu bò, 148.565 ngôi nhà và 1.846.000 nông cụ các loại do giai cấp địa chủ chiếm giữ chia cho 2.104.138 hộ nông dân lao động.
Tuy nhiên trong quá trình cải cách ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm. Tháng 9/1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình thực hiện cải cách.
Công tác sửa sai đã dần dần củng cố được lòng tin của nhân dân, cán bộ đối với Đảng, làm ổn định hành chính trị, giữ vững được trật tự, trị an, củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tập trung mọi nỗ lực để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định và bước đầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân:
Trong nông nghiệp: nhân dân đã khôi phục sản xuất trên những vùng đất bỏ hoang, củng cố hệ thống thủy nông, đê điều, đẩy mạnh sản xuất phân bón, gầy dựng lại số trâu bò bị thiệt hại trong chiến tranh, cải tiến nông cụ, phương thức canh tác... Đến năm 1956, miền Bắc sản xuất hơn 4 triệu tấn lương thực, nạn đói giáp hạt được đẩy lùi.
Trong công nghiệp, ta đã khôi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây mới 55 xí nghiệp mà chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng.
Kết quả: giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỉ đồng năm 1957.
Giao thông vận tải: nhà nước đã đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện: Năm 1954 dành 54.4% tổng số vốn đầu tư cho xây dựng và kiến thiết cơ bản, năm 1956 giảm xuống 28.4%, đến 1957 là 20.9%.
Nhờ được đầu tư lớn, giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng: khôi phục 657km đường sắt, 168 cầu cống trong 3 năm từ 1955 đến 1957; đường bộ khôi phục được 1624 km, sửa chữa lớn 1.660km, làm mới 600km đường trục chính ...
Thương nghiệp: nhà nước đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán; ngoại thương đúng nghĩa kể từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thành lập đến thời điểm này.
Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng: từ năm 1955 đến 1957, miền bắc có hơn 1 triệu người thoát nạn mù chữ, số người được bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2 tằng nhanh; năm học 1956 - 1957, miền bắc có 606.000 học sinh vỡ lòng 952.000 học sinh phổ thông 3.664 sinh viên.
Năm 1957, miền Bắc có 55 bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh, 5130 ban phòng bệnh, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi.
2. Cải tạo chủ nghĩa xã hội, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958 - 1960)
Tháng 11/ 1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân miền Bắc thực hiện kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa (1958 - 1960) và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh. Đồng thời song song với cải tạo là ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh làm lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Trong cải tạo nông nghiệp: đến cuối năm 1958, số lượng hợp tác tăng lên 4.721 và tháng 11/1960 là 41.401 hợp tác xã với 76% diện tích đất canh tác.
Đây là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với nông thôn và nông dân miền Bắc. Nó tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đảm bảo lương thực, thực phẩm cho miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Trong cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh: nhà nước chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất của tư sản và trả dần tiền chuộc cho họ. Tất cả các cơ sở công thương sau khi cải tạo được tổ chức thành các xí nghiệp công thương hợp doanh, hợp tác..., xóa bỏ sự bóc lột của tư bản, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển trong điều kiện có chiến tranh.
Trong cải tạo thủ công nghiệp và những người buuôn bán nhỏ: toàn miền Bắc đã đưa 81% thợ thủ công vào các hình thức hợp tác xã, 60% số người buôn bán nhỏ được cải tạo tham gia vào các tổ hợp mua bán hoặc các hợp tác xã mua bán.
Tiến hành phát triển kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế quốc doanh:
Trong công nghiệp: Giai đoạn 1958 - 1960, tổng số ngân sách đầu tư cho công nghiệp tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1955 - 1957, giá trị sản phẩm công nghiệp miền Bắc chiếm 41% tổng giá trị kinh tế quốc dân; trong đó, công nghiệp quốc doanh chiếm 90,8% sản lượng công nghiệp.
Trong nông nghiệp: Năm 1957, miền Bắc có 16 nông trường quốc doanh, đến năm 1960 tăng lên 59 nông trường. Vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn này tăng gấp đôi so với giai đoạn 1955 - 1957.
Trong xây dựng cơ bản: Nhiều công trình quan trọng đã được xây dựng như: nhà máy điện vinh, Lào Cai, nhà máy sứ Hải Dương; cao su, thuốc lá ở Hà Nội, các công trình thủy lợi ...
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Đến năm 1960, số học sinh phổ thông tăng gấp 2 lần, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4 lần, đại học tăng 4 lần với 9 trường Đại học và 11.000 sinh viên, nâng tỷ lệ người học/100 dân lên mức 18/100.
Số bệnh viện, bệnh xá, trạm xá, cơ sở hộ sinh .. tăng gấp 11 lần, số giường bệnh tăng gấp đôi so với trước.
Đồng thời với nhiệm vụ khôi phục, cải tạo, phát triển, văn hóa, Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng để biến miền Bắc trở thành một hậu phương lớn, vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
BÀI 16
MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1961 - 1965)
1. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mĩ ở miền Nam
1.1. Âm mưu chiến lược mới của Mĩ - "chiến tranh đặc biệt"
Sau phong trào Đồng Khởi, chiến lược chiến tranh đơn phương hoàn toàn thất bại, của Mĩ - Ngụy phải đối mặt với một thực tế là phong trào cách mạng miền Nam đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam, Mĩ đề ra chiến lược chiến tranh mới - "chiến tranh đặc biệt".
Đây là hình thức chiến tranh xâm lược mới của Mĩ được tiến hành bằng quân đội tay sai dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn quân sự Mĩ, dựa vào vũ khí, trang thiết bị kĩ thuật và phương tiện chiến tranh hiện đại của Mĩ nhằm chống lại lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Thực chất đây là âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của Mĩ.
Lúc đầu, Mĩ dự định thực hiện chiến lược này bằng kế hoạch Stalay-Taylor với mục tiêu bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Nhưng Mĩ đã không thành công và phải giảm mục tiêu xuống bằng một kế hoạch mới - kế hoạch Giôn-xơn - Mác-na-ma-ra - bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965)
1.2. Mĩ - Ngụy triển khai chiến lược "chiến tranh đặc biệt"
Mĩ đã tăng cường viện trợ quân sự cho Ngô Đình Diệm, đưa lực lượng cố vấn quân sự và hỗ trợ chiến tranh vào miền Nam Việt Nam với số lượng ngày càng lớn: Cuối năm 1960: 1.100, cuối 1962: 11.000, cuối 1964: 26.000.
Ngày 08/02/1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập ở Sài Gòn.
Ngụy ra sức bắt lính để tăng nhanh quân số: giữa năm 1961: 170.000 quân, đến cuối năm 1964: 560.000 quân.
Quân đội Sài Gòn được trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, đặc biệt là chúng đưa vào sử dụng chiến thuật "trực thăng vận" và "thiết xa vận".
"Ấp chiến lược" được Mĩ và Ngụy coi như "xương sống" của "chiến tranh đặc biệt", chúng đã ráo riết tiến hành dồn dân, lập "ấp chiến lược" để tách lực lượng cách mạng khỏi quần chúng, "tát nước bắt cá", tiến tới năm dân và "bình định" miền Nam.
Dựa vào sự hỗ trợ và chỉ huy của cố vấn Mĩ, Ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng; tiến hành nhiều họat động phá hoại miền Bắc, kiểm soát, phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chăn sự tiếp viện của miền Bắc vào miền Nam.
2. Quân dân miền Nam chiến đấu chống "chiến tranh đặc biệt"
2.1. Hoàn chỉnh về tổ chức lãnh đạo cách mạng
Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Tháng 01/1961, Trung ương cục miền Nam thành lập thay cho Xứ ủy Nam bộ cũ.
Ngày 15/02/1961, các lực lượng vũ trang cách mạng đã thống nhất thành quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
2.2. Đánh bại kế hoạch Stalây - Taylor 1961 - 1963
Trên mặt trận chính trị:
Ngày 8/5/1963, 2 vạn tăng ni, phật tử ở Huế biểu tình phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ phật. Diệm đàn áp làm cho phong trào lan rộng khắp cả nước.
Ngày 11/6/1963, tại Sài Gòn, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối Diệm đàn áp Phật giáo.
Ngày 16/6/1963, 70 vạn quần chúng Sài Gòn biểu tình làm cho chế độ Mĩ Diệm lay chuyển.
Trước tình hình đó, ngày 01/11/1963, Mĩ đã ủng hộ Dương Văn Minh làm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm.
Trên mặt trận chống và phá "Ấp chiến lược":
Cuộc đấu tranh giữa ta và địch trong việc lập và phá "ấp chiến lược" diễn ra gay go và quyết liệt. Đến cuối năm 1962, gần 8000 ấp chiến lược với 70% nông dân toàn miền Nam vẫn còn do cách mạng kiểm soát.
Trên mặt trận quân sự:
Năm 1962, quân giải phóng cùng với nhân dân đã liên tiếp đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của Ngụy vào chiến khu Đ, Tây Ninh, phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn...
Đặc biệt, tháng 01/1963, quân dân miền Nam đã giành chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc - Mĩ Tho. Với lực lượng ít hơn địch 10 lần, ta đã đánh bại cuộc hành quân càn quét của hơn 20000 quân ngụy dưới sự chỉ huy của cố vấn Mĩ và hỗ trợ của pháo binh, xe bọc thép và máy bay lên thẳng; diệt 450 tên địch, 8 máy bay, 13 xe bọc thép.
Chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ quân dân miền Nam có khả năng đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến thuật "thiết xa vận", "trực thăng vận" của Mĩ - Ngụy và làm bùng lên phong trào "thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công " trên khắp miền Nam.
Kết luận: những thắng lợi của ta trên khắp các mặt trận đã làm cho Mĩ - Ngụy không thể hoàn thành kế hoạch Stalây-Taylor trong 18 tháng như dự định.
2.3. Đánh bại kế hoạch Giôn xơn - Mác-na-ma-ra (1964 - 1965)
Trước sự thất bại của kế hoạch Stalây-Taylor, năm 1964, Giôn-xơn đã đưa ra kế hoạch Giôn-xơn - Mác-na-ma-ra để tiếp tục thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt với mục tiêu bình định miền Nam có trọng điểm trong vòng 2 năm (1964 - 1965).
Trên mặt trận chính trị
Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng) tiếp tục lên cao, đặc biệt là sau khi Nguyễn Khánh ra những sắc lệnh phát xít mới và chính quyền Ngụy sát hại Nguyễn Văn Trỗi (15/10/1964).
Trên mặt trận chống phá "Bình định"
Trong năm 1964 và đầu năm 1965, từng mãng lớn ấp chiến lược do địch lập nên đã bị ta phá, nhiều ấp chiến lược đã trở thành căn cứ cách mạng, vùng tự do của ta ngày càng được mở rộng.
Trên mặt trận quân sự
Kết hợp với đấu tranh chính trị, quân dân Đông Nam Bộ mở chiến dịch tiến công Đông - Xuân 1964-1965:
Ngày 02/12/1964, quân ta đã thắng lớn ở Bình Giã (Bà Rịa), tiêu diệt 17000 tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
Sau chiến thắng Bình Giã, quân ta mở tiếp chiến dịch xuân - hè 1965 và đã liên tiếp giành được thắng lợi ở An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Biên Hòa); đánh dấu sự phá sản của kế hoạch Johnson - Mc. Namara.
Kết luận: sự phá sản của hai kế hoạch Stalay-taylor và Johnson-Mc. Namara đã làm cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ thất bại hoàn toàn.
BÀI 17
MIỀN BẮC XÂY DỰNG BƯỚC ĐẦU CƠ SỞ VẬT CHẤT - KĨ THUẬT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1961 - 1965)
1. Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960)
Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã diễn ra. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo của Đảng trong 10 năm kể từ Đại hội II (2/1951), thảo luận và vạch ra đường lối đấu tranh cho cả hai miền trong giai đoạn mới, xác định nhiệm vụ mới của cách mạng cả nước và của từng miền.
Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của cả hai miền là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường mau chóng lực lượng của miền Bắc về mọi mặt, và "trách nhiệm của cách mạng ở miền Nam là phải trực tiếp làm nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước".
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết; bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, và đồng chí Lê Duẫn làm Bí thư thứ nhất.
Đại hội đã đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình xác định đường lối cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1961 - 1975.
2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)
Miền Bắc là nền tảng, gốc rể đảm bảo cho sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã xác định: Phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, biến miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho các mạng cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, đại hội đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bước đầu công nghiệp hóa nước nhà.
Từ năm 1961 đến năm 1965, nhân dân miền Bắc đã dồn sức thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất với nhiều phong trào thi đua sôi nổi như trong nông nghiệp có phong trào "đại phong", trong công nghiệp có phong trào "duyên hải", trong quân đội có phong trào "ba nhất", trong thủ công nghiệp có phong trào "thành công" ....
2.1. Công nghiệp
Nhà nước đã thực hiện những biện pháp và chính sách nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật và quản lý, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cải tiến kỹ thuật... Kết quả sau 5 năm thực hiện, ngành công nghiệp miền Bắc đã có những bước phát triển đáng kể:
Tính đến năm 1965, ngành điện tăng gấp 10 lần so với năm 1995; ngành cơ khí tăng bình quân hàng năm là 30%, một số nhà máy lớn đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy hóa chất Việt Trì, phân đạm Bắc Giang, Supper phốt phát Lâm Thao, ...
Công nghiệp phục vụ nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy quá trình cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
2.2. Nông nghiệp
Nhiệm vụ trọng tâm của nông nghiệp là giải quyết vấn đề lương thực đồng thời coi trọng cây công nghiệp, chăn nuôi, mở mang nghề cá, nghề phụ .. phấn đấu nâng cao mức sống của người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc.
Nông dân miền Bắc đã tích cực hưởng ứng những chủ trương của Đảng, có trên 90% hộ nông dân đã vào hợp tác xã, trong đó có 50% là hợp tác xã bậc cao; năm 1960, toàn miền Bắc có 4.300 hợp tác xã bậc cao thì đến năm 1965 đã tăng lên 18.600 hợp tác xã, năng suất tăng: năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha/năm.
2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế
Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục để xây dựng một nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam.
Trong 5 năm (1961 - 1965) số trường phổ thông tăng từ 7066 lên 10.294 trường, số trường đại học từ 9 trường lên 18 trường; ngoài ra nhà nước còn ban hành các chế độ, chính sách phát triển giáo dục ... Nhờ vậy, số học sinh phổ thông tăng 3,5 lần, số sinh viên đạt 34.000 người, 6 vạn học sinh trung cấp và cơ bản đã xóa được nạn mù chữ ở miền Bắc.
Mạng lưới y tế được xây dựng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tính đến năm 1965, đã có 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế với đội ngũ y bác sĩ, tăng gấp 5 lần so với năm 1960 (1525 bác sĩ, 8043 y sĩ).
Đời sống văn hóa được nâng cao, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
2.4. Quân sự, quốc phòng
Trong giai đoạn 1961 - 1965, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung cho việc xây dựng quân đội chính qui hiện đại theo kế hoạch quân sự lần thứ hai để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh không ngừng cả về chất lượng và số lượng.
Để đảm bảo yêu cầu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chính phủ đã cho cải tạo, nâng cấp và mở rộng hệ thống giao thông chiến lược ở cả 2 miền Nam - Bắc.
Công tác chi viện cho miền Nam trong giai đoạn 1961 - 1963 bắt đầu được tăng cường: tổng cộng có 4 vạn cán bộ được chuyển vào miền Nam. Đến năm 1964, các đơn vị cơ động cấp trung đoàn đã được đưa vào Nam.
BÀI 18
MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA MĨ (1965 - 1968)
1. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam
Đầu năm 1965, đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Giônxơn đã chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ": ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân chư hầu cùng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam.
Chiến lược "chiến tranh cục bộ" chính thức bắt đầu từ giữa năm 1965. Đây là hình thức xâm lược thực dân mới được tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu và ngụy quân. Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng lẫn trang bị.
Tính đến cuối năm 1964, lực lượng quân Mĩ có mặt ở miền Nam khoảng 26.000, đến cuối năm 1965 là 200.000, đến cuối năm 1967 là 537.000. Chưa kể 70.000 lính Mĩ ở Hạm đội 7 và 20.000 lính chư hầu sẳn sàng tham chiến.
Mĩ đã mở hàng loạt cuộc hành quân lớn với mục tiêu "tìm diệt và bình định" nhằm vào các căn cứ cách mạng:
Mở đầu là cuộc hành quân "tìm diệt" mang tên "ánh sáng sao", đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Tường - Quảng Ngãi.
Tiếp đó Mĩ mở liên tiếp hai cuộc phản công lớn trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 với hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" vào những vùng "đất thánh Việt Cộng", hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của ta.
2. Miền Nam đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mĩ
2.1. Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi)
Ngày 18/08/1965, sau khi chiếm được Chu Lai, Mĩ đã huy động hơn 9.000 lính thủy đánh bộ cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công vào Vạn Tường để "tìm diệt" lực lượng của ta.
Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta, sau một ngày chiến đấu ta đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe bọc thép và máy bay của địch.
Chiến thắng Vạn Tường đã mở đầu cho phong trào "tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam. Và đồng thời cho thấy ta có thể đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mĩ.
2.2. Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967
* Mùa khô 1965 - 1966
Tháng 01/1965, Mĩ-ngụy tập trung lực lượng mở cuộc phản công lần thứ nhất với 72 vạn quân. địch mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân "tìm diệt" then chốt, nhằm vào hai hướng chính là Đông Nam Bộ và Đồng bằng khu 5 nhằm tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, "bẻ gãy xương sống Việt Cộng", giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Với thế trận chiến tranh nhân dân, bằng nhiều hình thức tác chiến khác nhau đã chặn đánh địch ở khắp mọi hướng, tiến công địch ở mọi nơi...
Trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 67.000 tên địch, trong đó có 35.000 quân Mĩ và chư hầu, bắn hạ 940 máy bay, phá hủy 600 xe tăng, thiết giáp và trên 1.000 ôtô của địch.
* Mùa khô 1966 - 1967
Mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng lên đến 980.000 quân (trong đó có 440.000 lính Mĩ và chư hầu), Mĩ đã mở cuộc phản công mùa khô lần thứ hai nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bược ngoặt trong chiến tranh.
Chúng đã tiến hành 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân "tìm diệt" then chốt:
+ At-tơn-bo-rơ đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng 11/1966)
+ Xê-da-phôn đánh vào Trảng Bàng, Bến Súc, Củ Chi (tháng 1/1967)
+ Gian-xơn-city đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (tháng 4/1967)
Quân và dân Nam bộ đã phối hợp với các chiến trường khác đã mở hàng loạt cuộc phản công, từng bước đánh bại các cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" của địch; loại khỏi vòng chiến 175.000 tên, trong đó có 76.000 lính Mĩ và chư hầu, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
2.3. Đấu tranh chính trị phát triển
Các vùng nông thôn ở miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu tranh chống kìm kẹp, trừng trị bọn ác ôn, phá vỡ từng mảng "ấp chiến lược" do chúng lập ra.
Ở các thành thị, công nhân, học sinh, sinh viên, phật tử... đã nổi lên đấu tranh đòi Mĩ cút về nước, đòi tự do, dân chủ, dân sinh...
Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
Sau 2 cuộc phản công mùa khô, so sánh tương quang lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Hơn nữa trong năm 1968, cuộc bầu cử Tổng thống Mĩ sẽ nảy sinh những mâu thuẫn mà ta có thể lợi dụng được.
Đảng đã chủ trương mở cuộc "Tổng tiến công và nổi dậy" trên khắp chiến trường miền Nam, chủ yếu là ở các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ - ngụy, buộc Mĩ phải rút quân về nước.
Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968, quân chủ lực của ta đã đồng loạt tấn công và nổi dậy ở 37/44 thị xã, 5/6 thành phố trên toàn miền Nam.
Ở Sài Gòn, quân ta đã tấn công vào các vị trí cơ quan đầu não của địch như Tòa Đại sứ, Dinh Độc lập, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ...
Trong đợt này, quân ta đã loại khỏi vòng chiến 147.000 tên, trong đó có 43.000 lính Mĩ và chư hầu, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của địch.
Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ và chính quền Sài Gòn được mở rộng.
Sau đợt tấn công Tết, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (4/5 - 18/6) và đợt 3 (17/8 - 23/9).
Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng, nhưng do lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá nặng nề.
Tuy vậy, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm cho phong trào phản chiến đòi Mĩ rút quân khỏi Việt Nam ở Mĩ dâng cao, buộc tổng thống Giôn- xơn phải tuyên bố "phi Mĩ hóa" chiến tranh, ngừng mọi hoạt động bắn phá miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với ta để chấm dứt chiến tranh.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mĩ, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
BÀI 19
MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ I CỦA MĨ VỪA SẢN XUẤT (1965 - 1968)
1. Mĩ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch được tiến hành song song với chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nhằm đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam. Để có cớ tấn công miền Bắc, ngày 31/7/1964, Mĩ dựng lên "sự kiện vịnh Bắc bộ" và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Nghệ An...
Ngày 7/02/1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác.
Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống.
Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng...
2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn
2.1. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ
Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã họp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẳn sàng chiến đấu.
Để chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, miền Bắc đã thực hiện "quân sự hóa toàn dân", đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời sống ổn định cho người dân.
Nhân miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá.
Trong hơn 4 năm (từ 5/8/1964 - 1/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích.
Cùng với những thất bại ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân - 1968, Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20 trở ra kể từ ngày 31/3/1968 và đến ngày 01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc hoàn toàn.
2.2. Tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội
Để phù hợp với tình hình mới, Đảng đã chủ trương chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tập trung vào việc xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương nhằm bảo đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến tranh ác liệt.
Nhân dân miền Bắc đã vượt qua được những khó khăn, thách thức, dấy lên một cao trào cách mạng rộng lớn chưa từng có trong lao động sản xuất; Tất cả nhân dân miền Bắc chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần "tất cả cho tiền tuyến tất cả để chiến thắng" và "mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền nam ruột thịt", "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Kết quả:
Trong nông nghiệp: Hai ngành sản xuất phát triển mạnh nhất là chăn nuôi và trồng trọt; diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên: năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha/năm đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thành Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây) trở thành "quê hương 5 tấn" đầu tiên.
Trong công nghiệp: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh.
Trong giao thông vận tải: Nhân dân miền Bắc đã bất chấp bom đạn, ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc - Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam.
Trong lĩnh vực tài chính - thương mại: đảm bảo được việc cung ứng vốn, hàng hóa phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thời chiến và yêu cầu chiến đấu.
Trong văn hóa, giáo dục và y tế: nền giáo dục vấn tiếp tục phát triển, đặc biệt là giáo dục đại học, số sinh viên tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá hoại; số cán bộ có trình độ đại học năm 1965 là 20.000, đến năm 1969, lến đến 40.000 người.
Các ngành văn hóa, nghệ thuật hoạt động sôi nổi phục vụ cho quần chúng, y tế đã có những thành tựu mới về chuyên môn ...
3. Chi viện cho miền Nam
Những thành quả trên còn là một nguồn lực đánh kể giúp cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho miền Nam trong 4 năm (1965 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước: hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men ...
Sự chi viện to lớn đó đã góp phần quyết định thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc chiến đấu chống "chiến tranh cục bộ" của Mĩ - Ngụy.
BÀI 20
MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN LƯỢC VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1969 - 1973)
1. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mĩ
Sau thất bại của "Chiến tranh cục bộ", Ních-xơn đưa ra chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với hai chiến lược khác ở Campuchia và Lào là: "Khơme hóa chiến tranh" và "Lào hóa chiến tranh".
"Việt Nam hóa chiến tranh" là hình thức chiến tranh xâm lược kiểu mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội tay sai (ngụy quân) có sự phối hợp của lực lượng chiến đấu Mĩ. Do Mĩ chỉ huy, cung cấp tiền bạc, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhằm đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng và đàn áp nhân dân ta.
Mĩ đưa ra kế hoạch này để tăng cường sử dụng lực lượng ngụy quân, thay thế dần vai trò của người Mĩ từ đó rút dần quân viễn chinh và quân chư hầu về nước nhằm giảm bớt xương máu của người Mĩ trên chiến trường. Thực chất đây là Mĩ đang tiếp tục âm mưu "dùng người Viêt đánh người Việt".
Để thực hiện chiến lược này, đế quốc Mĩ đã thực hiện một loạt các biện pháp sau:
+ Tăng viện trợ quân sự cho chính quyền tay sai để giúp ngụy quân có thể "tự đứng vững", "tự gánh vác lấy chiến tranh".
+ Tăng viện trợ kinh tế giúp ngụy quân đẩy mạnh các hoạt động "bình định" lấn chiếm để giành đất, giành dân với cách mạng.
+ Tăng cường đầu tư vốn và khoa học kĩ thuật vào phát triển kinh tế miền Nam nhằm lừa bịp và bóc lột nhân dân ta.
+ Tiến hành "chiến tranh phá hoại" miền Bắc, mở rộng chiến tranh sang Campuchia (năm 1970) và Lào (1971), đưa ngụy quân đánh sang Lào và Campuchia nhằm thực hiện âm mưu "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".
+ Câu kết với các nước xã hội chủ nghĩa để cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
2. Miền Nam chiến đấu chống "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mĩ
Trong những năm đầu, lực lượng cách mạng đã gặp không ít khó khăn và tổn thất do ta chủ quan trong việc đánh giá âm mưu mới của địch. Nhưng những khó khăn đó đã từng bước được khắc phục; quân dân hai miền Nam - Bắc đã phát huy những thuận lợi, chiến đấu chống địch và đã giành được nhiều thắng lợi trên tất cả các mặt trận:
2.1. Trên mặt trận chính trị - ngoại giao
Thắng lợi đầu tiên là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (6/6/1969). Đây là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam, đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước chính thức đặt quan hệ ngoại giao.
Trên khắp các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt là tại Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào của học sinh, sinh viên diễn ra rất rầm rộ, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham gia.
Tại các vùng nông thôn, phong trào "phá ấp chiến lược", chống "bình định nông thôn" diễn ra rất quyết liệt. Đến đầu năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3.600 "ấp chiến lược" với hơn 3 triệu dân.
2.2. Trên mặt trận quân sự
2.2.1 Đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia
Ngày 18 tháng 3 năm 1970, Mĩ giật dây Lon-non đảo chính Xihanúc và dựng lên chính quyền tay sai của chúng để cắt đứt con đường tiếp viện qua Campuchia của ta và mở rộng chiến tranh sang Campuchia để truy quét các cơ quan trung ương cách mạng miền Nam.
Đồng thời, Mĩ còn mở rộng chiến tranh sang Lào để cô lập cách mạng miền Nam và cắt đứt con đường tiếp viện chiến lược - đường trường sơn của ta.
Trước tình hình đó, ngày 24, 25/4/1970, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã họp hội nghị cấp cao để biểu thị quyết tâm đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
Từ 30/4 đến 30/6/1970, quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với quân cách mạng Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của hơn 10 vạn quân Mĩ - Ngụy Sài Gòn; loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 quân Mĩ - Ngụy, giải phóng 5 tỉnh Đông Bắc Campuchia, giam chân một lực lượng lớn quân ngụy Sài Gòn ở đây.
Cũng trong thời gian trên, quân tình nguyện của ta đã cùng quân dân Lào đập tan cuộc hành quân lấn chiếm cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng) của Mĩ - Ngụy, giải phóng một vùng rộng lớn (A-tô-pô, Saravan, Nam Lào).
2.2.2. Đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mĩ - Ngụy
Đầu năm 1971, Mĩ-Ngụy mở một cuộc hành quân lớn mang tên Lam Sơn 719 nhằm chiếm giữ đường 9 Nam Lào, cắt tuyến chi viện chiến lược của ta trên đường Trường Sơn.
Từ 12/2/1971 đến 23/3/1971, quân dân ta đã phối hợp với quân dân Lào đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của hơn 450.000 quân Mĩ-ngụy, buộc chúng phải rút khỏi đường 9; giữ vững được tuyến đường chi viện chiến lược của ta.
2.2.3. Ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972
Phát huy thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao trong hai năm 1970 - 1971, ta đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam trong năm 1972.
Ngày 30/3/1972, quân ta tấn công vào Quảng Trị, Từ đó mở rộng tiến công ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972.
Trong năm 1972, Quân ta đã tấn công địch trên quy mô lớn với cường độ mạnh và ở hầu hết các địa bàn chiến lược quan trọng của địch; chọc thủng 3 tuyến phòng thủ mạnh nhất của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Trong 3 tháng đầu, quân ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 20 vạn quân ngụy, giải phóng một vùng lãnh thổ rộng lớn với hơn 1 triệu dân.
Sau đòn tấn công bất ngờ của ta, quân ngụy được sự yểm trợ của không quân và hải quân Mĩ đã phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Đồng thời, Mĩ cũng tiến hành ném bom và bắn phá miền Bắc trở lại.
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 cho thấy, quân ngụy với quân số hơn 1 triệu được trang bị hiện đại vẫn không đủ khả năng để "tự đứng vững" và "tự gánh vác lấy chiến tranh" khi quân viễn chinh Mĩ rút lui. Trước tình thế đó, Mĩ đã tuyên bố "Mĩ hóa" trở lại cuộc chiến tranh - tức là thừa nhận sự thất bại của Việt Nam hóa chiến tranh.
BÀI 20
MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 - 1973)
1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế (1969 - 1972)
Sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhân dân miền Bắc đã ra sức thi đua học tập, lao động sản xuẩt để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội:
Trong nông nghiệp: Các hợp tác xã tích cực áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật thâm cạnh, tăng vụ, nhiều giống lúa mới được đưa vào trồng trên diện tích rộng.
Năng suất lúa tăng nhanh, có hợp tác xã đạt 6.7 tấn/ha/năm. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968; năm 1972, mặc dù bị thiên tai, mất mùa nhưng sản lượng vẫn tăng gần 30 vạn tấn so với năm 1968.
Trong công nghiệp: nhanh chóng khôi phục những cơ sở công nghiệp ở Trung ương và địa phương do chiến tranh tàn phá. Trong giai đoạn này, nhà máy thủy điện đầu tiên của nước ta là nhà máy Thác Bà (Yên Bái) đã khánh thành và đưa vào sử dụng vào tháng 10/1971; các ngành công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, vật liệu xây dựng.... Đều có bước phát triển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1970 vượt kế hoạch 2,5%.
Trong lĩnh vực giao thông vận tải: trong một thời gian ngắn, các tuyến giao thông quan trọng, hệ thống cầu, phà từ Lạng Sơn đến Vĩnh Linh (Quảng trị) được khai thông, khối lượng hàng hoá luân chuyển đạt và vượt mức trước chiến tranh phá hoại.
Trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục, y tế:
Năm học 1965 - 1966, toàn miền Bắc có 4,9 triệu người đi học, đến năm 1971 - 1973, lên đến 6 triệu; trung bình 1 vạn dân có 2500 học sinh và 61 sinh viên đại học.
Các cơ sở khám chữa bệnh được khôi phục và xây dựng mới, số bệnh viện tăng từ 252 (năm 1965) lên 431 (năm 1971), tỉ lệ bác sĩ/ 1 vạn dân đạt 11/10.000.
2. Chi viện cho miền Nam
Năm 1969, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua tuyến đường 559 đạt 170.000 tấn, tăng 29% so với năm 1968; hơn 80.000 quân cũng được điều động vào chi viện cho các chiến trường miền Nam trong năm này.
Tháng 6/1970, Bộ chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Hội đồng có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức, huy động sức mạnh của hậu phương miền Bắc, chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam và Lào, Campuchia.
Trong năm 1970, 1971, miền Bắc đã tiếp tục đưa thêm 195.000 quân vào chiến trường miền Nam cùng với một khối lượng lớn vật chất, phương tiện phục vụ chiến tranh.
Đầu năm 1972, giữa lúc nhân dân miền Bắc đang khẩn trương thực hiện kế hoạch nhà nước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng thì đế quốc Mĩ lại gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
3. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II của Mĩ (1972 - 1973)
Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân dân ta ở miền Nam, Nich - xơn ra lệnh ném bom, bắn phá trở lại miền Bắc và ồ ạt tham chiến ở miền Nam nhằm cứu vãn tình thế.
Ngày 06/4/1972, Mĩ đã cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16/4/1972 Nich - xơn tuyên bố chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2.
Miền Bắc đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động sang thời chiến. Các lực lượng vũ trang nhân dân của ta đã được chuẩn bị trước và luôn trong tư thế thế sẵn sàng chiến đấu. Nhờ vậy, quân dân miền Bắc đã chủ động, lập tức chống trả địch ngay từ trận đầu.
Chỉ trong vòng 1 tháng (6/4 - 8/5/1972), ta đã bắn rơi 90 máy bay địch, bắn cháy 20 tàu chiến và bắt sống nhiều giặc lái; đồng thời vẫn đảm bảo thông suốt các tuyến đường chiến lược chi viện cho tiền tuyến.
Từ ngày 18 đến hết ngày 29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích chiến lược không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác ở miền Bắc nước ta.
Với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, ngay trong đêm đầu tiên địch bắn phá, ta đã hạ 3 chiếc B52. Tổng cộng trong suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972, ta đã hạ 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111, 21 máy bay F4, 12 máy bay A7, 1 máy bay F105, 4 máy bay A6, bắt sống 44 giặc lái, bắn chìm và phá hỏng 9 tàu chiến.
Do bị thiệt hại quá nặng nề, ngày 15/1/1973, Mĩ tuyên bố ngưng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền Bắc để kí kết hiệp định Pari. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần 2 của nhân dân miền Bắc kết thúc thắng lợi.
BÀI 21
ĐẤU TRANH VỚI MĨ TRÊN MẶT TRẬN NGOẠI GIAO - HIỆP ĐỊNH PARIS 1965 - 1973
1. Đấu tranh đòi Mĩ xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc
Đầu năm 1967, ta đã chủ trương mở thêm mặt trận tấn công ngoại giao với mục tiêu trước mắt là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện hoạt động bắn phá miền Bắc.
Ngày 31/3/1968, sau đòn tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân 1968, Giôn-xơn đã ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và tuyên bố sẽ thương lượng với ta.
Ngày 13/5/1968, cuộc thương lượng chính thức giữa hai bên (Việt Nam và Hoa Kì) đã họp phiên đầu tiên tại Paris. Phía Việt Nam đã khẳng định lập trường không thay đổi của mình: Trước hết, Mĩ phải chấm dứt không điều kiện hoạt động ném bom và mọi hành động chiến tranh khác trên tòan miền Bắc, sau đó mới bàn đến các vấn đề khác.
Ngày 01/11/1968, Giôn-xơn đã tuyên bố ngừng hoàn toàn mọi hoạt động ném bom bắn phá miền Bắc để thúc đẩy tiến trình đàm phán. Kết quả, hai bên đã thống nhất mở rộng Hội nghị thành Hội nghị 4 bên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, Mĩ và Việt Nam Cộng Hòa.
2. Đấu tranh đòi Mĩ chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam
Sau cuộc họp trù bị vào ngày 18/01/1969, Hội nghị 4 bên đã chính thức họp phiên đầu tiên vào ngày 25/1/1969 tại Paris.
Hội nghị 4 bên đã trải qua nhiều cuộc họp chung công khai và nhiều cuộc tiếp xúc riêng bí mật. Trong quá trình đàm phán, lập trường của 4 bên (mà thực chất là 2 bên - Việt Nam và Mĩ) mâu thuẫn nhau gay gắt:
+ Phía Việt Nam: Kiên quyết đòi phía Mĩ phải rút hết quân viễn chinh cùng quân chư hầu về nước và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
+ Về phía Mĩ: Chúng đòi phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải "có qua có lại", tức là cả quân miền Bắc và quân Mĩ cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Những mâu thuẫn đó đã làm cho cuộc thương lượng kéo dài, căng thẳng, quyết liệt và bị gián đoạn nhiều lần, kéo dài đến cuối năm 1972 vẫn chưa có kết quả.
3. Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam
Để vượt qua cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm 1972, Ních - xơn đã dùng thủ đoạn lùi bước trên bàn đàm phán và xuống thang chiến tranh để xoa dịu dư luận Mĩ.
Đầu tháng 10/1972, phái đoàn đàm phán của Mĩ đã đến Paris để nối lại đàm phán. Các bên đã thỏa thuận ngày sẽ kí kết chính thức vào ngày 31/10/1972.
Ngay sau khi tái đắc cử tổng thống (08/11/1972), Ních-xơn đã trở mặt, chúng đòi xét lại bản Hiệp định đã được thỏa thuận, theo hướng có lợi cho chúng.
Để gây sức ép buộc ta phải nhượng bộ, Ních-xơn đã phê duyệt kế hoạch tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng vào cuối năm 1972.
Chúng bị quân dân ta đánh bại bằng một trận "Điện Biên Phủ trên không" và buộc phải trở lại bàn đàm phán.
Ngày 23/01/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được kí tắt; và ngày 27/01/1973 bản hiệp định được chính thức kí kết.
Ngày 02/3/1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam (gồm 12 nước) đã kí định ước ghi nhận và đảm bảo việc thi hành Hiệp định Paris.
4. Nội dung cơ bản của Hiệp định Paris
- Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
- Hai bên ngừng bắn ở miền Nam vào lúc 24h00 ngày 27/01/1973 và Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.
- Hoa Kì phải rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu về nước, hủy bỏ hết các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu hay can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
- Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
- Các bên thừa nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
- Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam.
5. Ý nghĩa của Hiệp định Paris
Là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của quân và dân ta trên cả hai miền đất nước. Buộc Mĩ phải thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta.
Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên đánh sụp ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
BÀI 22
MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, RA SỨC CHI VIỆN CHO MIỀN NAM (1973 - 1975)
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế:
Sau Hiệp định Pa - ri, quân Mĩ và đồng minh của Mĩ rút về nước, tình hình so sánh lực lượng thay đổi theo hướng có lợi cho cách mạng miền Nam. Miền Bắc trở lại hòa bình, có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam.
Trong hai năm 1973 - 1974, trên khắp miền Bắc, giai cấp công nhân, nông dân tập thể, tri thức...đã hăng hái lao động, sản xuất. Nhờ vậy, những hậu quả của hai cuộc chiến tranh phá hoại nhanh chóng được khắc phục, nền kinh tế từng bước khôi phục và phát triển.
Cuối tháng 6 năm 1973, miền Bắc đã hoàn thành công tác tháo gỡ bom mìn.
Đến cuối năm 1974, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, kinh tế về cơ bản đã được khôi phục, các cơ sở cũng đi vào ổn định và có bước phát triển mới. Tổng sản phẩm xã hội năm 1973 cao hơn năm 1965 (trước chiến tranh phá hoại), năm 1974 cao hơn năm 1973 là 12,4%.
Những kết quả trên đã góp phần ổn định đời sống nhân dân miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi để miền Bắc chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ - Ngụy ở miền Nam và Lào, Campuchia trong giai đoạn 1973 - 1975.
2. Tăng cường chi viện cho miền Nam
Ngay sau khi Hiệp định Pa - ri được kí kết, Đảng và Nhà nước đã chủ trương tập trung sức người, sức của sẳn sàng chi viện đột xuất cho miền Nam.
Trong năm 1973 - 1974, 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, kĩ thuật đã được đưa vào chi viện cho miền Nam. Đặc biệt trong những tháng đầu năm 1975, miền Bắc đã đưa 57.000 bộ đội vào chiến trường miền Nam.
Từ mùa khô 1973 - 1974, đến đầu mùa khô 1974 - 1975, miền Bắc đã chi viện cho miền Nam một lượng hàng hoá, phương tiện, vũ khí rất lớn: 26 vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng, xăng dầu,... tăng gấp 9 lần so với năm 1972.
Bên cạnh đó, miền Bắc còn viện trợ cho Lào và Campuchia.
BÀI 23
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1973 - 1974
1. Thế và lực mới của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định Pa - ri
Sau hiệp định Paris, Miền Bắc trở lại hòa bình; nhân dân miền Bắc ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh khôi phục và phát triển kinh tế; đảm bảo khả năng chi viện lớn về sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Lực lượng cách mạng miền Nam đã được phục hồi và phát triển nhanh chóng.
Trong khi đó ở miền Nam, ngụy quân gặp nhiều khó khăn do quân đội Mĩ và chư hầu phải rút về nước, viện trợ của Mĩ ngày càng bị cắt giảm.
Như vậy, sau hiệp định Paris, so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam thay đổi nhanh chóng theo hướng có lợi cho ta.
2. Đấu tranh chống chiến dịch "bình định lấn chiếm", tạo thế và lực tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam
Ngày 29/3/1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rời khỏi nước ta. Tuy vậy, Mĩ vẫn còn duy trì được chính quyền tay sai (Ngụy quyền) ở miền Nam nên đã giữ lại hơn hai vạn cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ kinh tế, quân sự cho chính quyền Ngụy.
Được sự viện trợ và chỉ huy của cố vấn quân sự Mĩ, chính quyền ngụy ngang nhiên chống phá Hiệp định Paris, chúng đã huy động toàn bộ lực lượng để thực hiện chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhằm đẩy mạnh hoạt động "bình định lấn chiếm" vùng giải phóng.
Trong thời gian đầu, do ta quá nhấn mạnh đến hòa bình và hòa hợp nên mất cảnh giác; để địch lấn chiếm nhiều địa bàn quan trọng.
Trước tình hình trên, tháng 7 năm 1973, Hội nghị trung ương 21 đã xác định: "bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng là con đường bạo lực. Do đó, phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao nhằm tiến lên phản công để giành toàn thắng".
Từ cuối năm 1973, quân dân ta đã kiên quyết đánh trả những cuộc hành quân "bình định lấn chiếm" của địch để bảo vệ vùng giải phóng. Nhiều nơi còn tổ chức tấn công vào những căn cứ xuất phát các cuộc hành quân của địch, tiếp tục mở rộng vùng giải phóng, củng cố thế chủ động.
Cuối năm 1974 đầu 1975, quân ta mở hoạt động quân sự Đông - Xuân đánh vào hai hướng chính là đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ; giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long và đường 14 cùng với 50.000 dân và loại khỏi vòng chiến hơn 3.000 tên địch.
Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, ta đã hợp nhất các sư đoàn chủ lực thành các quân đoàn lớn, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam:
Tháng 10/1973 lập quân đoàn 1 đóng ở Bắc Bộ.
Tháng 5/1974 lập quân đoàn 2 đóng ở Trị Thiên.
Tháng 7/1974 lập quân đoàn 4 đóng ở Đông Nam Bộ.
Tháng 3/1975 lập quân đoàn 3 đóng ở Tây Nguyên.
Đồng thời với các hoạt động quân sự, quân dân miền Nam còn đẩy mạnh tấn công địch trên các mặt trận chính trị, ngoại giao... Ở các vùng giải phóng, nhân dân tích cực khôi phục và đẩy mạnh sản xuất nhằm ổn định đời sống và tăng nguồn dự trữ chiến lược.
BÀI 24
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
1. Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Đảng đã họp Hội nghị Bộ chính trị (30/9 đến 7/10/1974) và Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (18/12/1974 đến 8/1/1975) bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam.
Qua hai Hội nghị, Bộ chính trị đã đưa ra và hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Cụ thể là trong năm 1975, tranh thủ thời cơ bất ngờ ta tấn công địch trên quy mô lớn, tạo điều kiện cho năm 1976 sẽ tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bên cạnh kế hoạch đó, Bộ chính trị còn nhận định rằng: "Cả năm 1975 là thời cơ" và chỉ rõ: "nếu thời cơ xuất hiện vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975". Đồng thời Bộ chính trị còn nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân,... giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.
2. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975
2.1. Chiến dịch Tây Nguyên
Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng đối với chiến trường miền Nam, nhưng do địch nhận định sai về hướng tiến quân của ta nên đã tập trung lực lượng cho việc bảo vệ Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng; ở Tây Nguyên, chúng chỉ chốt giữ bằng một lực lượng mỏng, bố phòng sơ hở.
Phát hiện sơ hở đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10/1974 đã quyết định chọn Tây Nguyên đánh trận mở đầu và là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong năm 1975.
Ta tập trung binh lực lớn cùng với vũ khí, vật chất kĩ thuật mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Ngày 04/3/1975, ta đánh nghi binh địch ở Kontum và Plâycu để thu hút lực lượng của địch về phía Bắc Tây Nguyên làm cho việc phòng thủ Đắc Lắc và Buôn Ma Thuột ở phía nam Tây Nguyên trở nên sơ hở.
Ngày 10/3/1975, ta bất ngờ tấn công vào Buôn Ma Thuột làm cho địch không kịp trở tay. Sau 2 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột.
Thất thủ Buôn Mê Thuột, ngày 12/3/1975, địch cố sức dồn quân tái chiếm lại vị trí chiến lược này nhưng đã bị ta đánh bại.
Ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên về giữ vùng ven biển Nam Trung Bộ, chờ cơ hội để tái chiếm lại Tây Nguyên.
Nắm được kế hoạch rút lui của địch, ta đã bố trí mai phục và truy kích địch trên đường rút lui làm cho chúng tan rã hòan tòan.
Đến ngày 24/3/1975, ta đã giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên với 60 vạn dân.
Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển cả chiến trường niềm Nam, làm suy sụp ý chí và tinh thần chiến đấu của Ngụy quân, Ngụy quyền và đồng thời cho thấy, thời cơ thuận lợi để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
2.2. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng
Diễn biến thuận lợi của chiến dịch Tây Nguyên cho thấy, thời cơ chiến lược đến nhanh và hết sức thuận lợi. Bộ chính trị đã kịp thời đưa ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong Năm 1975; trong đó, nhiệm vụ trước mắt là giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Ngày 19/3 quân ta đã tấn công vào Quảng Trị, địch bỏ Quảng Trị rút về Huế và Đà Nẵng; sau đó, chúng có dấu hiệu bỏ Huế rút vào cố thủ ở Đà Nẵng.
Ngày 21/3/1975, quân ta thọc sâu vào căn cứ của địch, đồng thời chặn đường rút chạy của chúng (Quốc lộ 1, Cửa Thuận An và cửa Tư Hiền).
Ngày 25/3/1975, quân ta tiến thẳng vào cố đô Huế, ngày 26/3 thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng.
Cùng với chiến thắng ở Huế, ngày 24/3/1975, ta giải phóng Tam Kì, ngày 25/3/1975, giải phóng Quảng Ngãi, ngày 26/3/1975, giải phong Chu Lai.
Như vậy, đến ngày 26/3/1975, Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ - ngụy - bị rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ở đây trở nên hoảng loạn và mất hết khả năng chiến đấu. Địch đã phải sử dụng máy bay để di tản cố vấn quân sự Mĩ và một bộ phận Ngụy quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng.
Sáng 29/3/1975, từ cả ba phía Bắc, Tây và Nam, quân ta tiến vào Đà Nẵng và đến 3 giờ chiều thành phố Đà Nẵng được giải phóng hoàn toàn.
Cùng lúc với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, sau khi giải phóng Tây Nguyên, lực lượng của ta đã tiến xuống giải phóng các tỉnh ven biển miền Trung: Quy Nhơn, Phú Yên (01/4/1975), Khánh Hòa (03/4/1975) ...
Như vậy, đến đầu tháng 4 năm 1975, ta đã giải phóng được một vùng rộng lớn và liên tục từ Quảng Trị đến Khánh Hòa.
LƯỢC ĐỒ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
2.3. Chiến dịch Hồ Chí Minh
Sau khi thất bại liên tiếp ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, địch lùi về lập tuyến phòng thủ từ xa (Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh) để bảo về Sài Gòn.
Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình, ngày 25/3/1975, Bộ chính trị đã họp và nhận định: "Thời cơ cách mạng đã đến,... phải tập trung lực lượng giải phóng miền Nam trước mùa mưa" và quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên "Chiến dịch Hồ Chí Minh".
Ngày 08/4/1975, Bộ chỉ huy "Chiến dịch Hồ Chí Minh" đã được thành lập, với 5 quân đoàn và chuẩn bị ra quân với tinh thần "đi nhanh đến, đánh nhanh thắng", "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".
Ngày 09/4/1975, quân ta bắt đầu tấn công vào Xuân Lộc - hệ thống phòng thủ quan trọng nhất bảo vệ Sài Gòn của địch.
Ngày 16/4/1975, quân ta phá tan tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang, tiếp đó là Bình Thuận, Bình Tuy.
Ngày 18/4/1975, Tổng thống Mĩ đã ra lệnh di tản toàn bộ người Mĩ ra khỏi Sài Gòn.
Ngày 21/4/1975, Xuân Lộc thất thủ, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc đã tháo chạy, quân ta từ các hướng nhanh chóng áp sát Sài Gòn. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức cùng ngày (21/4/1975).
Ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tấn công Sài Gòn, tất cả 5 cánh quân từ các hướng nhanh chóng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào Sài Gòn.
Đêm 28 rạng sáng ngày 29/4/1975, quân ta tấn công vào trung tâm thành phố, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.
Đến 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến thẳng vào Dinh độc lập, bắt sống toàn bộ Ngụy quyền trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện vào lúc 11 giờ 30 phút cùng ngày. Chiến dịch Hồ Chí Mính kết thúc hoàn toàn thắng lợi.
Thừa thắng, nhân dân các tỉnh còn lại trên khắp miền Nam đã đồng loạt nổi dậy tấn công địch. Đến ngày 02/ 5/1975, miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng.
3. Kết quả, ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ
3.1. Kết quả
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đập tan bộ máy chính quyền tay sai của Mĩ, đánh bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của Mĩ ở miền Nam Việt Nam qua 5 đời tổng thống với 4 chiến lược chiến tranh và kéo dài 21 năm.
3.2. Ý nghĩa lịch sử
3.2.1. Đối với dân tộc
Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, giải phóng trọn vẹn miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
Kết thúc 21 năm chống Mĩ, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của đế quốc tay sai, rửa sạch nỗi nhục mất nước hơn một thế kỉ của dân tộc.
Mở ra một kỉ nguyên mới của cách mạng Việt Nam: độc lập, thống nhất, đi lên XHCN.
Cùng với chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân 1975 đã cắm thêm một mốc vinh quang chói lọi trong quá trình đi lên của lịch sử Việt Nam.
3.2.2. Đối với quốc tế
Đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử 200 năm của Mĩ, tác động mạnh đến nội tình nước Mĩ và cục diện thế giới.
Đây là một thắng lợi có tính có tính chất thời đại, làm phá sản học thuyết Ni - xon, đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ và đồng minh, thu hẹp và làm yếu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa đế quốc.
3.3. Nguyên nhân thắng lợi
3.3.1. Chủ quan
Có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối quân sự, chính trị độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối tiến hành đồng thời Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và Cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc được khơi dậy và phát huy một cách tối đa, tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam.
Miền Bắc đảm bảo nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện kịp thời về sức người sức của, tiếp thêm sức mạnh cho cách mạng miền Nam.
Ngoài ra, tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương cũng đã góp phần làm nên thắng lợi của mỗi nước.
3.3.2. Khách quan
Nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCH anh em.
Sự đồng tình ủng hộ của phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc và các lực lượng dân chủ hòa bình thế giới trong đó có nhân dân Mĩ.
BÀI 25
HOÀN THÀNH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - MỞ RỘNG QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ ĐẤU TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1979)
1. Hoàn thành thống nhất đất nước
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước đã thống nhất về mặt lãnh thổ. Song, mỗi miền vẫn còn tồn tại một hình thức nhà nước khác nhau, làm cho nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt nhà nước vẫn chưa hoàn thành.
Xuất phát từ thực tế đó, Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần 24 đã đề ra chủ trương đẩy mạnh việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị hiệp thương giữa 2 miền Bắc Nam đã nhất trí tán thành chủ trương thống nhất của hội nghị TW lần thứ 24.
Ngày 25/4/1976, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu.
Cuối tháng 6, đầu tháng 7 Quốc hội mới (khóa VI) họp kì thứ nhất tại Hà Nội và quyết định:
+ Lấy tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Quyết định quốc huy, quốc kì, quốc ca và đổi tên Tp. Sài Gòn thành Tp. Hồ Chí Minh.
+ Bầu các chức vụ lãnh đạo cao cấp: Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch UB thường vụ quốc hội Trường Chinh.
Như vậy, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành.
Ngày 31/01/1977, tại Tp. Hồ Chí Minh, mặt trận dân tộc ở cả hai miền đã họp và thống nhất thành mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Ngày 18/12/1980, hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua.
2. Mở rộng quan hệ quốc tế
Việt Nam hòa bình thống nhất đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới: tính đến ngày 2/7/1976, ta đặt quan hệ với 94 nước, đến 31/12/1980 tăng lên 106 nước và đến 31/12/1989 là 114 nước.
Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc và là thành viên của 20 tổ chức quốc tế khác.
Bên cạnh những thuận lợi đó, hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn này cũng vấp phải khó khăn, thách thức lớn do chính sách bao vây cấm vận, chống phá của Mĩ và các thế lực thù địch cùng với chính sách "đóng cửa" của ta.
3. Đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc
3.1. Đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
Do có âm mưu từ trước, nên ngay sau khi giành được độc lập, tập đoàn Pôn-pốt (Khơme đỏ) ở Campuchia đã quay súng bắn vào nhân dân ta: Ngày 03/5/1975, chúng đánh chiếm Phú Quốc, ngày 10/5/1975, chúng đánh chiếm đảo Thổ Chu.
Ngày 22/12/1978, chúng huy động 19/23 sư đoàn bộ binh cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng tiến đánh Tây Ninh nhằm tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
Để tự vệ, ta đã tổ chức phản công và tiến công mạnh, tiêu diệt cánh quân xâm lược của địch, truy kích đến tận sào huyệt của chúng, làm tan rã đại bộ phận chủ lực của Khơme đỏ, lập lại hòa bình trên tuyến biên giới Tây Nam.
3.2. Đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
Lấy cớ Việt Nam đưa quân sang Campuchia, từ năm 1978, Trung Quốc đã cắt viên trợ, rút chuyên gia về nước và đưa quân áp sát biên giới Việt - Trung khiêu khích ta.
Sáng 17/2/1979, Trung Quốc cho 32 sư đoàn mở cuộc tiến công xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta (Từ Móng Cái đến Lai Châu).
Để bảo vệ lãnh thổ tổ quốc, quân dân ta đã chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Trước sự phản công của ta và sự lên án mạnh mẽ của dư luận quốc tế cũng như nhân dân Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc buộc phải rút quân khỏi nước ta từ ngày 05 đến 18/3/1979.
BÀI 26
ĐẤT NƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI 1986 - 2000
1. Bối cảnh
Hơn 10 năm cả nước tiến hành xây dựng CNXH, Đảng và nhân dân ta vừa làm vừa tìm tòi thể nghiệm con đường XHCN. Kết quả là đã đạt được những thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực. Song chúng ta cũng đã vấp phải những khó khăn to lớn và ngày càng gia tăng, làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt.
Để khắc phục những sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp CNXH tiến lên, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới.
2. Đường lối đổi mới và xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1996) đã đánh dấu sự mở đầu của thời kì đổi mới. Đây là đổi mới đất nước trong quá trình đi lên CNXH chứ không phải thay đổi mục tiêu CNXH. Đổi mới toàn diện, đồng bộ từ kinh tế, chính trị đến tư tưởng - xã hội:
2.1. Đổi mới kinh tế
- Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành nghề, nhiều quy mô với hai bộ phận chủ yếu là công nghiệp và nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau.
- Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự phát triển.
- Xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
- Thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế.
2.2. Đổi mới chính trị
- Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân do Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Xây dựng nền dân chủ XHCN, nhấn mạnh quan điểm "lấy dân làm gốc".
- Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, chuyên chính đối với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác.
3. Quá trình đất nước thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 2000)
3.1. Kế hoạch 5 năm 1986 - 1990: bước đầu công cuộc đổi mới
3.1.1. Nhiệm vụ, mục tiêu của Đại hội VI
Đại hội VI đã thay đổi nhận thức về CNXH khoa học, xác định lại thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là cả một thời kì lịch sử lâu dài, khó khăn và trải qua nhiều chặng.
Đại hội VI đã đề ra "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát" của chặng đường đầu tiên là "ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong chặng đường tiếp theo".
Trước mắt, trong 5 năm 1986 - 1990, tập trung sức người, sức của, thực hiện những mục tiêu của ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là mặt trận hàng đầu.
3.1.2. Thành tựu và hạn chế bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1990)
* Thành tựu
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng nhân dân, huy động được sức mạnh của toàn xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội;
Đặc biệt là chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước đã thực sự phát huy quyền làm chủ kinh tế của nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của quần chúng để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội:
+ Về lương thực thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập 45 vạn tấn gạo, đến năm 1990 chúng ta đã đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân.
+ Về hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng, mẫu mã - chất lượng tiến bộ hơn trước, lưu thông tương đối thuận lợi.
+ Về kinh tế đối ngoại, phát triển mạnh và mở rộng hơn trước: từ năm 1986 đến 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần, hàng nhập khẩu giảm đáng kể.
+ Kiềm chế được một bước đà lạm phát, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.
+ Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
Những thành tựu trong bước đầu thực hiện đường lối đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới là phù hợp.
* Hạn chế
Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao, thất nghiệp gia tăng.
Chế độ tiền lương còn bất hợp lí, mức sống của những người sống chủ yếu bằng lương và của một bộ phận nông dân bị giảm sút.
Sự nghiệp văn hóa có những mặt tiếp tục xuống cấp, hiện tượng tham nhũng, hối lộ, bất công xã hội, vi phạm pháp luật, kỉ luật, kỉ cương... vẫn còn khá nặng nề và phổ biến.
3.2. Kế hoạch 5 năm 1991 - 1995: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới
3.2.1. Nhiệm vụ, mục tiêu của Đại hội VII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI và tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên.
Đại hội VII thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000".
Nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 là: "đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát. Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế".
Để thực hiện mục tiêu trên, cần phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa.
3.2.2. Thành tựu và hạn chế bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1990)
* Thành tựu
Thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch nhà nước 5 năm (1991 - 1995), trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới, nhân dân ta đạt được những thành tựu và tiến bộ to lớn:
- Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đã hoàn thành vượt mức:
Kinh tế tăng trưởng đạt trung bình 8,2%/ năm. Lạm phát được đẩy lùi, tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được kiềm chế.
Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với 1990, vận tải hàng hóa tăng 62%.
- Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh: Trong 5 năm, xuất khẩu đạt 17 tỉ USD, nhập khẩu trên 21 tỉ USD. Vốn đầu tư tăng trung bình 50%.
- Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hóa - xã hội có những chuyển biến tích cực.
- Ổn định tình hình chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được củng cố.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế.
* Hạn chế
Nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ còn thấp.
Tình trạng tham nhũng, lãnh phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp cũng như hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước chưa được ngăn chặn triệt để.
Sự phân hóa giàu nghèo, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn.
3.3. Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000: Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa
3.3.1. Nhiệm vụ mục tiêu của Đại hội VII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (7/1996) đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện nghị quyết Đại hội VII và đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 là:
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
3.3.2. Thành tựu và hạn chế bước đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1990)
* Thành tựu
Nền kinh tế vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực:
Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7%. Công nghiệp tăng bình quân 13,5%, nông nghiệp tăng 5,7%...
Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển: xuất khẩu đạt 51,6 tỉ USD, nhập khẩu đạt 61 tỉ USD, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt khoảng 10 tỉ USD (tăng 1,5 lần so với 5 năm trước). Đặc biệt, đến năm 2000, Việt Nam đã có 40 dự án đầu tư ra nước ngoài.
Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển đáng kể.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng.
Những thành tựu và ưu điểm trong 5 năm (1996 - 2000) nói riêng và 15 năm đổi mới nói chung đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
* Hạn chế
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất lao động, sức cạnh tranh thấp.
Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết, tình trạng thất nghiệp còn cao, khoa học và công nghệ còn lạc hậu, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tình trạng tham nhũng chưa khắc phục triệt để.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top