Lịch sử đảng
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo Hiến pháp (bản sửa đổi 1992), đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố tích cực của chủ nghĩa tư bản và cả một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức hệ phong kiến cũng có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt nam; theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước (Hiến pháp 1992).
Người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Là chiến sĩ trong đội tiền phong của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thực hiện thành công CNXH, cuối cùng là CNCS ở Việt Nam.
Lịch sử Đảng :
Tình hình thế giới:
Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km vuông với số dân 523,4 triệu người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km vuông và dân số 437,2 triệu).[3]
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Sự ra đời của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết vào năm 1922.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập.
Tình hình Việt Nam:
Kinh tế:
Quan hệ sản xuất phong kiến vẫn được duy trì bên cạnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới được du nhập vào Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, về cơ bản vẫn là nền kinh tế nông nghiệp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
Xã hội:
Từ xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Xã hội có sự phân hóa thành 5 giai cấp: Giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp nông dân, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp công nhân.
Chính trị: tồn tại 2 chế độ.
_Triều đình phong kiến bù nhìn.
_Chế độ thực dân Pháp.
Hình thành và các hoạt động đầu tiên:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930[4] đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.
Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảngtháng 7 năm 1936 do Lê Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Thượng Hải, Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương. Tháng 3 năm 1938, Hội nghị Trung ương do Hà Huy Tập chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên Mặt trận là Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tháng 3 năm 1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc. Tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc Môn, Sài Gòn do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Hội nghị Trung ương tháng 5 năm 1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu sự liên hệ cộng sản với nhà nước mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Song trên thực tế, đảng vẫn hoạt động và chỉ đạo công cuộc kháng chiến.
Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3 tháng 2 hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng
Cầm quyền tại miền Bắc:
Đảng được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào tháng 2 năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các bộ phận riêng.
Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy nhiên, cuộc cải cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số liệu cụ thể chưa được xác định). Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam.
Tại miền Nam, đảng bộ Miền Nam năm 1962 công khai lấy tên Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam, là thành viên và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Sau thống nhất:
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, tên Đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn. Đại hội khởi xướng chính sách đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa[6], trong khi vẫn duy trì vị trí lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng [8]
Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Năm 1991, tại Đại hội VII của đảng, ĐCSVN thông qua cương lĩnh thứ hai của mình, gọi là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991). Cương lĩnh 1991 đã tổng kết kinh nghiệm thực hiện cương lĩnh năm 1930, từ đó tuyên bố ĐCSVN sẽ:
1."Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội",
2.Xác định "sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, vì nhân dân",
3."Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết",
4."Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế",
5.Xác định "sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Cương lĩnh 1991 và các văn kiện bổ sung sau này khẳng định sẽ lãnh đạo Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa có 8 đặc trưng:
1."Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh",
2."Do nhân dân làm chủ",
3."Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất",
4."Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc",
5."Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện",
6."Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ",
7."Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản",
8."Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới".
Cương lĩnh 1991 và các văn kiện bổ sung sau này đề ra 8 phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
1. "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa",
2. "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa",
3. "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội",
4. "Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc",
5. "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân",
6. "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh",
7. "Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia",
8. "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Cưỡng lĩnh năm 1991 là xương sống chủ chốt để phát triển, nhận thức của Đảng ta cho đến nay.
Điều Lệ Đảng
Điều 1:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Điều 2:
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3:
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Điều 4:
Thủ tục kết nạp đảng viên (kể cả kết nạp lại):
1. Người vào Đảng phải:
- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;
- Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;
- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
2. Người giới thiệu phải:
- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất một năm;
- Báo cáo với chi bộ về lý lịch, phẩm chất, năng lực của người vào Đảng và chịu trách nhiệm về sự giới thiệu của mình. Có điều gì chưa rõ thì báo cáo để chi bộ và cấp trên xem xét.
3. Trách nhiệm của chi bộ và cấp uỷ:
- Trước khi chi bộ xét và đề nghị kết nạp, chi uỷ kiểm tra lại điều kiện của người vào Đảng và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức đoàn thể nơi người đó sinh hoạt.
Vấn đề lịch sử chính trị của người vào Đảng phải thực hiện theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
- Chi bộ xét và đề nghị kết nạp từng người một, khi được ít nhất hai phần ba số đảng viên chính thức trong chi bộ tán thành thì đề nghị lên cấp uỷ cấp trên; khi có quyết định của cấp uỷ cấp trên, chi bộ tổ chức lễ kết nạp từng người một.
- Đảng uỷ cơ sở xét, nếu được ít nhất hai phần ba số cấp uỷ viên tán thành kết nạp thì đề nghị lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp.
- Ban thường vụ cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng hoặc cấp uỷ cơ sở được uỷ quyền xét, quyết định kết nạp từng người một.
4. Nơi chưa có đảng viên hoặc có đảng viên nhưng chưa đủ điều kiện giới thiệu thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp cử đảng viên về làm công tác tuyên truyền, xem xét, giới thiệu kết nạp vào Đảng.
Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 5:
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.
3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.
4. Tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định công nhận đảng viên chính thức.
Điều 6:
Việc phát và quản lý thẻ đảng viên, quản lý hồ sơ đảng viên và thủ tục chuyển sinh hoạt đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.
Điều 7:
Đảng viên tuổi cao, sức yếu, tự nguyện xin giảm, miễn công tác và sinh hoạt đảng do chi bộ xem xét, quyết định.
Điều 8:
1. Đảng viên bỏ sinh hoạt chi bộ hoặc không đóng đảng phí ba tháng trong năm mà không có lý do chính đáng; đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, không làm nhiệm vụ đảng viên, đã được chi bộ giáo dục mà không tiến bộ thì chi bộ xem xét, đề nghị lên cấp có thẩm quyền xoá tên trong danh sách đảng viên.
2. Các trường hợp trên nếu đảng viên có khiếu nại thì chi bộ báo cáo cấp uỷ có thẩm quyền xem xét.
3. Đảng viên xin ra khỏi Đảng do chi bộ xem xét, đề nghị cấp có thẩm quyền chuẩn y kết nạp quyết định.
**********
CÁCH THỨC PHẤN ĐẤU ĐỂTRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
1- Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt nam; theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước (Hiến pháp 1992).
2- Người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Là chiến sĩ trong đội tiền phong của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thực hiện thành công CNXH, cuối cùng là CNCS ở Việt Nam.
II- ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CSVN:
Điểm 2, Điều I, Điều lệ ĐCSVN quy định:
Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng?.
Quy định trên bao gồm 3 điều kiện:
- Là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.
- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện: Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên.
- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.
1- Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên
* Công dân Việt Nam: Là người có quốc tịch Việt nam (Điều 49 - Hiến pháp 1992)
- Tại sao phải là công dân VN? Vì: Chỉ có công dân VN mới được hưởng quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật VN. Đây là đòi hỏi về địa vị pháp lý và nhân cách công dân của người xin vào Đảng.
* Từ 18 tuổi trở lên: Có đủ sức khoẻ, năng lực và trình độ cần thiết, có ý thức trách nhiệm về mọi suy nghĩ, hành động của mình.
(Trước: Tính cả năm sinh là một tuổi hoặc tính từ khi bước sang tuổi 18 vẫn được chấp nhận. Nay: Tròn 18 tuổi trở lên).
- Không quy định độ tuổi trên 18 vì công tác phát triển Đảng coi trọng yêu cầu về giác ngộ lý tưởng, phẩm chất chính trị, kiến thức và năng lực hành động. Tuy nhiên do tuổi đời bình quân của đảng viên hiện nay khá cao (45 tuổi, tỉ lệ đảng viên hưu trí: 23%) nên yêu cầu phải trẻ hoá đội ngũ, chú trọng phát triển Đảng trong thanh niên.
2- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng
Đây là điều kiện phân định rõ ranh giới giữa đảng viên với quần chúng tích cực ngoài Đảng.
a- Thừa nhận (nhận thức) - tự nguyện thực hiện (hành động thực tế, thước đo nhận thức tư tưởng, ý thức phấn đấu của người vào Đảng):
- Điều kiện này xuất phát từ vị trí, vai trò của người đảng viên: làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối chình trị của Đảng. Vì vậy, khác với công dân, đảng viên phải thừa nhận và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.
- Yêu cầu của điều kiện này: người vào Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đảng viên - phải có trình độ và sự tin cậy về chính trị.
* Cương lĩnh chính trị: Nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh?. Đó là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng mà Đảng đã chỉ ra.
* Điều lệ Đảng: là văn bản xác định mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Đảng, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức các cấp của Đảng.
* Tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên: Là những chuẩn mực cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực. Là cơ sở phân định ranh giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực ngoài Đảng, cơ sở để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng viên phải có nghĩa vụ chấp hành trên cơ sở tự nguyện thừa nhận.
* Tiêu chuẩn đảng viên:
- Là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân
- Về mặt thực tiễn: Là bộ phận kiên quyết nhất, luôn đi đầu, biết lôi kéo, cuốn hút quần chúng.
- Về mặt lý luận: Mác: Họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
+ Liên hệ:
- Ưu: Hiện nay, đảng viên chiếm hơn 3,12% dân số (> 2,4 triệu người): Vững vàng về chính trị, kiên định CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM; trong đổi mới đang hình thành một đội ngũ đảng viên có năng lực, phẩm chất, tư duy mới, bắt kịp yêu cầu của thời đại.
- Nhược: Một bộ phận hoang mang, dao động, thiếu tiền phong, gương mẫu.
- Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng:
+ Đảng: đội tiên phong của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với mục tiêu đấu tranh: giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xoá áp bức bóc lột, xây dựng CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH.
+ Đảng viên: tế bào cấu thành nên tổ chức Đảng, nên phải phấn đấu cho mục đích đó. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là lâu dài, bền bỉ - cần phải phấn đấu suốt đời.
- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Mác: Giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng mình đồng thời với giải phóng toàn thể nhân dân lao động?.
Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với lợi ích nhân dân lao động và ở Việt Nam: gắn bó máu thịt với lợi ích dân tộc. Do đó, lợi ích đảng viên gắn bó với lợi ích dân tộc, giai cấp và nhân dân lao động - "nước lên thuyền lên".
- Chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước:
+ Đảng viên phải gương mẫu, tiền phong để lôi cuốn quần chúng "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Có lao động, không bóc lột, hoàn thành nhiệm vụ được giao:
Cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, "cách mạng đến nơi": Thủ tiêu chế độ bóc lột.
Nay: trong thời kỳ quá độ: chấp nhận xã hội còn bóc lột nhưng về quan điểm, lập trường: phát triển kinh tế tư bản tư nhân không phải là mục đích mà là phương tiện. Đảng viên tham gia làm kinh tế phải vững lập trường, nhằm giải quyết việc làm, làm giàu cho xã hội.
- Đạo đức: lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân: Sống, làm việc trong lòng nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
- Phục tùng tổ chức, kỷ luật, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Đây là quy luật làm cho Đảng thật sự thống nhất, có sức mạnh.
* 19 điều đảng viên không được làm: (tài liệu)
b- Hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng:
3- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm (điều kiện thực tiễn)
- Tại sao phải được nhân dân tín nhiệm?
+ Bản chất giai cấp công nhân của Đảng: gắn bó mật thiết với nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.
+ Nhân dân cũng gắn bó máu thịt với Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng.
Vì vậy, phải được nhân dân tín nhiệm thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của người đảng viên: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
- Làm thế nào để được nhân dân tín nhiệm?
+ Gương mẫu:
- Chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới.
- Nêu gương về đạo đức.
- Có năng lực sáng tạo.
+ Kiên trì rèn luyện không ngừng trong thực tiễn:
"Lửa thử vàng, gian nan thử sức"
Thực tiễn là thước đo chính xác nhất đối với phẩm chất con người, là chỗ dựa tin cậy để nhân dân lựa chọn, giới thiệu.
Sự đánh giá trung thực, khách quan của nhân dân là cơ sở tin cậy để Đảng xem xét, kết nạp.
Đây là ba điều kiện cần thiết để Đảng xem xét kết nạp người vào Đảng.
III- PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐCSVN
Căn cứ vào những điều kiện trên, cần Làm gì? Phấn đầu như thế nào?
1- Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn
* Động cơ vào Đảng:
- Động cơ vào Đảng: trả lời câu hỏi: Tại sao vào Đảng? Vào Đảng để làm gì?
+ Để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên. Bác Hồ khuyên: "Nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng".
Sứ mệnh của Đảng: Đoàn kết, lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập dân tộc, CNXH.
+ Nay, trong công cuộc đổi mới: Đảng vẫn kiên định mục tiêu "Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới nhiều hình thức.
- Thực hiện CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển.
- Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công.
- Đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng, hành động sai trái, tiêu cực.
- Đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
- Bảo vệ độc lập dân tộc.
Bác Hồ: "Chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
* Làm thế nào để xây dựng động cơ đúng đắn khi vào Đảng?
Động cơ đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định vì: Đảng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng. Không thu nhận những người mang động cơ lệch lạc, thiếu trong sáng, nhất là không để những kẻ cơ hội lọt vào Đảng.
- Cần hiểu bản chất, mục đích của Đảng: Độc lập dân tộc ....văn minh?
- Thể hiện nhận thức bằng việc làm cụ thể: hoàn thành nhiệm vụ được giao, thường xuyên trau dồi tư cách đạo đức, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi.
- Mọi lúc, mọi nơi, cả trong lời nói việc làm đều nghĩ đến làm lợi cho Đảng, cho dân,vào Đảng không vì lợi ích cá nhân,để thăng quan tiến chức, tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc hay ví dụ như những kẻ phản động vào Đảng để "leo cao, chui sâu" phá hoại Đảng từ bên trong.
.2- Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
* Bản lĩnh chính trị: Là tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn (trong bất kỳ tình huống nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu).
- Khí tiết của người cách mạng: Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Độc lập, sáng tạo, không thụ động, trì trệ.
* Bản lĩnh chính trị thể hiện:
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
- Lấy CN Mác - Lê nin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
- ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam (không chấp nhận đa nguyên, đa Đảng).
- Nhà nước là của dân, do dân, vì dân.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
- Độc lập, sáng tạo, không thụ động, trì trệ.
* Muốn có bản lĩnh chính trị:
- Phải thường xuyên rèn luyện trong thực tế hoạt động.
- Đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng, giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn.
- Phấn đấu góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
- Trong khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng về chính trị.
- Tỏ thái độ, chính kiến rõ ràng, không mập mờ, "ba phải".
* Đạo đức cách mạng: Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là: "Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất".
Phẩm chất đạo đức theo tư tưởng HCM:
- Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
- Yêu thương con người, sống có tình, có nghĩa: Trong di chúc, 3 năm (1965 - 1968 ) người chỉ thêm có 1 dòng: " Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau".
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư?: Theo HCM đây là "tứ đức" của con người.
- Có tinh thần Quốc tế cao cả, trong sáng.
* Rèn luyện đạo đức cách mạng:
- Tại sao phải rèn luyện đạo đức cách mạng?
+ Trong lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà quan hệ lợi ích len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội thì vấn đề này phải đặt lên hàng đầu. Nếu không sẽ mất cán bộ, sự thoái hoá biến chất của đảng viên làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng.
+ Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng: Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Không phải chúng ta cứ dán lên trán hai chữ Cộng sản mà dân yêu, dân quý, quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách đạo đức.
- Làm gì ?
+ Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết: "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
+ Bền bỉ rèn luyện hàng ngày: Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Việc gì có lợi cho cách mạng, cho nhân dân thì khó mấy, kể cả hy sinh cũng làm. Việc gì có hại cho cách mạng, cho nhân dân thì nhỏ mấy cũng hết sức tránh.
Nay: đạo đức cách mạng là tự nguyện tự giác góp sức làm giàu cho đất nước, không tính toán thiệt hơn với Đảng, chống: cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng sơ hở của cơ chế, chính sách để tham nhũng, làm giàu phi pháp...
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ nhận vai trò, lợi ích cá nhân mà tôn trọng những lợi ích chính đáng .
3- Nâng cao năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
Hoàn thành tốt, thể hiện vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên.
- Để trở thành đảng viên: được giao nhiệm vụ gì phải hoàn thành tốt, có chất lượng, hiệu quả.
- Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao:
+ Có nhiệt tình cách mạng (tinh thần hăng hái, quyết tâm cao).
+ Có đủ năng lực cần thiết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Muốn vậy phải tích cực học tập, nâng cao học vấn, trình độ am hiểu KHCN, tránh tụt hậu về trí tuệ.
+ Đồng thời với nâng cao trí tuệ phải nâng cao năng lực thực tiễn: Ứng dụng kiến thức vào thực tế công tác, năng động sáng tạo.
Tóm lại: phải không ngừng học tập, học đi đôi với hành.
- Liên hệ :
+ Thực tế nhiều mặt của ta còn hạn chế, tình trạng "Học giả, chạy theo bằng cấp..." còn tồn tại phổ biến, kỹ năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế.
+ Không có kiến thức, không có năng lực mọi mặt, nhiều chủ trương của Đảng không đi được vào cuộc sống.
+ Đảng không thể châm chước, hạ thấp yêu cầu kết nạp những người lười học, học cốt lấy bằng, làm việc cầm chừng không thể hiện được tính tiên phong.
4- Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội.
- Gắn bó máu thịt với nhân dân là truyền thống, là bản chất của Đảng.
- Chỉ có hoạt động trong công tác đoàn thể mới có điều kiện đến với Đảng.
- Công tác xã hội, đoàn thể là môi trường để rèn luyện phấn đấu.
* Yêu cầu:
+ Gắn bó với đồng nghiệp, bạn bè nơi công tác, bà con nơi cư trú (quý trọng, thông cảm, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau).
+ Hoà mình với quần chúng nhưng không hùa theo những suy nghĩ, việc làm sai. Đề cao trách nhiệm vận động mọi người đoàn kết thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng.
+ Nhiệt tình tham gia sinh hoạt và các hoạt động đoàn thể.
+ Sẵn sàng, tự nguyện tham gia các hoạt động xã hội: Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây...
Cơ sở và tiền đề để đến với Đảng là cơ hội tốt để tiến bộ trưởng thành về chính trị, xây dựng tín nhiệm với nhân dân để phấn đấu trở thành đảng viên.
5- Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở
Không chỉ thừa nhận, tôn trọng và chấp hành mọi sự lãnh đạo của Đảng mà còn phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Đó là trách nhiệm của chúng ta.
- Mỗi chúng ta đều gắn bó với một tổ chức. Do đó, xây dựng Đảng trước hết là xây dựng Đảng ở cơ sở, đơn vị mình. Điều đó thể hiện ý thức chính trị vì: tổ chức Đảng vững mạnh là nhân tố đảm bảo cho cơ sở không ngừng đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN.
- Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình tham gia đóng góp ý kiến để tổ chức cơ sở Đảng đề ra nghiên cứu, chủ trương sát đúng; đưa chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn; phát triển nâng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, công tác, nâng cao đời sống nhân dân.
- Nêu cao tinh thần chủ động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn: Nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.
Kịp thời phản ánh những vấn đề nảy sinh, đề xuất những giải pháp giải quyết hoặc điều chỉnh bổ sung.
- Thường xuyên góp ý, phê bình, thẳng thắn đấu tranh, không lảng tránh, bao che, giám sát cán bộ.
Xác lập động cơ vào Đảng đúng đắn từ sự giác ngộ sâu sắc, mục đích lý tưởng của Đảng, mỗi chúng ta cần tự giác, nỗ lực phấn đấu trong đấu tranh thực tiễn sẽ trở thành đảng viên, người chiến sĩ tiên phong trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top