Lí luận
Văn học - hình thái ý thứcthẩm mĩVăn học là một hình thái ý thức xã hội, bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏmột quan điểm, một cách nhìn, một tình cảm đối với đời sống. Nhưng văn học nói riêngcũng như nghệ thuật nói chung, không giống các hình thái ý thức xã hội khác bởi có nhữngđặc thù riêng mang tính thẩm mĩ về đối tượng, nội dung và phương thức thể hiện.1.1 Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học1.1.1 Đối tượng của văn họcNội dung là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau của văn học so với các hình thái ý thứcxã hội khác như chính trị, đạo đức, tôn giáo, lịch sử, địa lí, sinh học... Nội dung, trước hếtlà cái được nhận thức, chiếm lĩnh từ đối tượng.Vậy đối tượng của văn học là gì?Mĩ học duy tâm khách quan từ thời Platông đến Hêghen đều cho rằng đối tượng củanghệ thuật chính là biểu hiện của thế giới thần linh, của những linh cảm thần thánh, củaý niệm tuyệt đối - một thế giới sản sinh trước loài người. Nghĩa là, mọi đối tượng của nghệthuật cũng như của văn học đều là thế giới của thần linh, của những điều huyền bí, cao cả.Văn học nghệ thuật suy cho cùng là sự hồi tưởng và miêu tả thế giới ấy, một thế giới khôngthuộc phạm vi đời sống hiện thực.Quan điểm này đã đề cao và thần thánh hóa đối tượng của văn học nghệ thuật. Cho nênkhông lạ gì khi chúng ta bắt gặp hầu hết đối tượng phản ánh của văn học, nghệ thuật thờicổ chính là các câu chuyện về các vị thần linh: từ người khổng lồ Khoa Phụ đuổi bắt mặttrời, Nữ Oa vá trời trong thần thoại Trung Quốc, đến các vị thần trên đỉnh Olempơ và concháu của của các vị thần đó như Hécquyn, Asin trong văn học Hi Lạp cổ đại, rồi ThánhGióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Lạc Long Quân và Âu Cơ của người Việt.81.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn họcMĩ học duy tâm chủ quan lại cho rằng, đối tượng nghệ thuật chính là những cảm giácchủ quan, là cái tôi bề sâu trong bản chất con người của nghệ sĩ, không liên quan gì đến đờisống hiện thực. Đây là một quan điểm đầy mâu thuẫn, bởi mọi cảm giác của con người baogiờ cũng chính là sự phản ánh của thế giới hiện thực.Còn các nhà mĩ học duy vật từ xưa đến nay đều khẳng định, đối tượng của nghệ thuậtchính là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan. Tsécnưsépxki đã nói: Phạm vi của nghệthuật gồm tất cả những gì có trong hiện thực (trong thiên nhiên và trong xã hội) làm chocon người quan tâm1. Quan điểm này đã đưa đối tượng của nghệ thuật về gần gũi với hiệnthực đời sống.Thực ra, từ thời xa xưa, con người đã biết văn học nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống.Ở Trung Quốc, thuyết cảm vật đã chỉ rõ: mùa xuân, mùa thu, các mùa thay thế nhau, làmcảnh vật biến đổi, tâm hồn cũng thay đổi theo. Còn theo các thuyết thi ngôn chí, thi duyêntình: văn chương tạo nên do con người có cảnh ngộ trong lòng mình muốn bộc lộ, mà cảnhngộ đó cũng là do tác động của đời sống tạo nên.Như vậy, có thể nói, đối tượng của văn học, nghệ thuật là toàn bộ đời sống xã hội vàtự nhiên. Tsécnưsépxki từng nói: "Cái đẹp là cuộc sống" vì lí do đó. Nhưng phạm vi này vôcùng rộng. Bởi lẽ, nếu nói đối tượng của văn học là đời sống thì chưa tách biệt với đối tượngcủa các ngành khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác như lịch sử, địa lí, hóa học, yhọc, chính trị, đạo đức... Văn học phải có cách nhận thức và thể hiện đối tượng khác biệt.Nếu như đối tượng của triết học là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tưduy, là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; đối tượng của lịch sử là các sự kiện lịch sử, sựthay thế nhau của các chế độ; đối tượng của đạo đức học là các chuẩn mực đạo đức trongmối quan hệ người với người... thì đối tượng của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực,nhưng chỉ là hiện thực có ý nghĩa đối với đời sống tâm hồn, tình cảm con người. Tức là, dùvăn học có miêu tả thế giới bên ngoài như thiên nhiên, lịch sử, chiến tranh, hòa bình..., vănhọc cũng chỉ chú ý tới quan hệ của chúng đối với con người. Văn học, nghệ thuật nhìn thấytrong các hiện tượng đời sống những ý nghĩa "quan hệ người kết tinh trong sự vật" 2.Thế giới khách quan trong văn học là thế giới được kết cấu trong các mối liên hệ với conngười. Người ta gặp tất cả các hình thức đời sống trong văn học, từ những hiện tượng tựnhiên "mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông", tiếng sấm rền vang, giọt mưa rơi tí tách, tiếngsóng ào ạt xô bờ, một tiếng chim ban mai đến những biến cố lịch sử lớn lao. Nhưng cái vănhọc chú ý là kết quả, ý nghĩa của tất cả những hiện tượng đời sống đó đối với con người.Văn học không nhìn thiên nhiên như một nhà sinh học, một nhà khí tượng học, mà thấy ởđó tâm trạng, số phận, vận mệnh con người: tiếng chim ban mai là âm thanh của niềm vuisống, đám mây trắng vô tận là hình ảnh của sự hư vô, cái hư ảo, phù du của kiếp người.Ngay cả các hiện tượng lịch sử cũng được văn học nhìn nhận dưới góc độ khác biệt. Saunhững những biến cố dữ dội của cách mạng Nga tháng Hai và tháng Mười năm 1917, Rôtsinđã nói với Katia: "Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ còntấm lòng em dịu dàng ngàn đời bất diệt" (Con đường đau khổ - A. Tônxtôi). Khi nhìn thấyngôi sao chổi trên bầu trời Matxcơva năm 1812, trong lòng Pie Bêdukhốp tràn ngập nhữngtình cảm cao thượng và mới mẻ (Chiến tranh và hòa bình - L. Tônxtôi). Điều văn học quan1Tsécnưsépki. Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực, tập 2, Nxb Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Matxcơva,1949, trang 64 (tiếng Nga). Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử... Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 1242Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 12591.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn họctâm là tác động của những biến cố lịch sử, của tự nhiên, của thế giới xung quanh tới tâmhồn con người chứ không phải bản thân những biến cố ấy.Như vậy, đối tượng của văn học là hiện thực mang ý nghĩa người. Văn học không miêutả thế giới trong ý nghĩa chung nhất của sự vật. Điều mà văn học chú ý chính là một "quanhệ người kết tinh trong sự vật": dòng sông là nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, đầm senlà nơi gặp gỡ, giao duyên, con đê làng là ranh giới của hồn quê và văn minh thị thành... Đóchính là những giá trị nhân sinh thể hiện trong sự vật. Có thể nói, đối tượng của văn họcnói riêng, nghệ thuật nói chung, là toàn bộ thế giới hiện thực có ý nghĩa đối với sự sống conngười, mang tư tưởng, tình cảm, khát vọng của con người. "Nghệ thuật được tác thành bởicon người. Nó là sự biểu đạt của con người trước thế giới tự nhiên và đời sống" (Bách khoatoàn thư Comtorp's). Trong toàn bộ thế giới hiện thực đó, con người với toàn bộ các quanhệ của nó là đối tượng trung tâm của văn học.Toàn bộ thế giới khi được tái hiện trong tác phẩm đều được tái hiện dưới con mắt mộtcon người cụ thể. Đó có thể là người kể chuyện, là nhân vật hoặc nhân vật trữ tình... Conngười trong văn học trở thành những trung tâm giá trị, trung tâm đánh giá, trung tâm kếttinh các kinh nghiệm quan hệ giữa con người và thế giới. Khi lấy con người làm hệ quychiếu, làm trung tâm miêu tả, văn học có một điểm tựa nhìn ra thế giới, bởi văn học nhìnthế giới qua lăng kính của những con người có cá tính riêng. Do đó, miêu tả con người làphương thức miêu tả toàn thế giới3.Văn học không miêu tả con người như một nhà triết học, chính trị học, đạo đức học, yhọc, giải phẫu học..., mà thấy đó là con người có lịch sử cá nhân, có tính cách, có tình cảm,có số phận với những quan hệ cụ thể, cá biệt. Khi nhà thơ Tố Hữu viết về Bác Hồ: Chađã đi đày đau nỗi riêng, Còn nghe dưới gót nặng dây xiềng, Mẹ nằm dưới đất hay chănghỡi, Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng (Theo chân Bác) ta thấy hiện lên hình ảnh Bác Hồkhông phải như một nhà chính trị trừu tượng mà là một con người có tâm hồn, tình cảm vàsố phận riêng.Con người trong văn học còn tiêu biểu cho những quan hệ xã hội nhất định, vì vậy, conngười được miêu tả vừa như những kiểu quan hệ xã hội kết tinh trong những tính cách(tham lam, keo kiệt, hiền lành, trung hậu...), vừa cả thế giới tâm hồn, tư tưởng của chínhhọ. Có thể nói, toàn bộ lịch sử văn học của nhân loại chính là lịch sử tâm hồn con người.Vì thế, con người trong văn học không giống với con người là đối tượng của các ngành khoahọc khác như lịch sử, đạo đức, sinh học, y học... Điều đó khẳng định tính không thể thiếuđược của văn học trong lịch sử ý thức nhân loại.Bên cạnh con người là đối tượng chính, văn học còn hướng tới đời sống trong toàn bộtính phong phú và muôn vẻ của các biểu hiện thẩm mĩ của nó. Đó là toàn bộ đời sống trongtính cụ thể, sinh động, toàn vẹn, với mọi âm thanh, màu sắc, mùi vị... vô cùng sinh động vàgợi cảm. Văn học cũng như nghệ thuật luôn hướng tới cái đẹp của đời sống, đặc biệt là cáiđẹp về hình thức của sự vật: ánh chiều tà đỏ ối, một lá ngô đồng rụng, giọt sương mai longlanh. Nhưng tất cả cái đẹp này của cuộc sống cũng đều được tái hiện dưới con mắt của mộtcon người cụ thể với những kinh nghiệm, ấn tượng và sự tinh tế. Có những bài thơ chỉ nhưbức tranh thiên nhiên, thiếu vắng con người:Lạc hà dữ cô lộ tề phi,3Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 126101.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn họcThu thủy cộng trường thiên nhất sắc(Ráng chiều vạc lẻ cùng bay,Nước thu cùng với trời thu một màu)(Vương Bột)Nhưng bức tranh thực sự vẫn bộc lộ gián tiếp về cái nhìn của con người về tự nhiên,một tự nhiên giàu màu sắc và nhịp điệu, giàu sức sống và sức biểu hiện, làm thư thái tâmhồn con người. Đúng như Hêghen nhận xét "Đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núinon, phong cảnh mà là những hứng thú về tinh thần" 4, hoặc "Thiên nhiên là mẫu mực vĩnhhằng của nghệ thuật, và trong thiên nhiên thì đẹp đẽ và cao quý nhất vẫn là con người"(Biêlinxki)5. Vì vậy, có thể khẳng định, đối tượng của văn học là toàn bộ thế giới mà đờisống của con người là trung tâm. M. Gorki nhận xét "Văn học là nhân học" chính vì nhữnglí do đó.1.1.2 Nội dung của văn họcNội dung của văn học thống nhất với đối tượng của nó. Nội dung văn học cũng chính là conngười với những quan hệ của nó ở một bình diện phức tạp hơn: Nội dung văn học là toànbộ đời sống đã được ý thức, cảm xúc, đánh giá và phán xét phù hợp với một tư tưởng về đờisống, một cảm hứng và một lí tưởng thẩm mĩ và xã hội nhất định. Đó là một nội dung hòaquyện giữa hai mặt khách quan và chủ quan, vừa có phần khái quát, tái hiện đời sống kháchquan vừa có phần bắt nguồn từ nhận thức, cảm hứng và lí tưởng của nghệ sĩ.Nội dung khách quan của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực được tái hiện, từ cácvấn đề lịch sử, con người, phong tục, đạo đức, xã hội, từ các chi tiết hiện thực đời sống nhỏnhặt đến những biến cố xã hội lớn lao. Song như Lênin đã phát biểu về L. Tônxtôi "Nếutrước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thực sự vĩ đại, thì chí ít trong tác phẩm của anh tacũng phản ánh được vài ba khía cạnh căn bản của cuộc cách mạng" 6. Điều đó có nghĩa lànội dung của đời sống khi đi vào tác phẩm văn học còn phải phản ánh được những chiềurộng, chiều sâu hiện thực và tầm cao tư tưởng của thời đại mình. Theo Lênin, Tônxtôi sởdĩ vĩ đại, bởi ông đã chỉ ra được sự bất bình, phẫn nộ của hàng triệu nông dân Nga khibắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phơi bày một bứctranh hiện thực đầy rẫy những bất công, oan trái của xã hội phong kiến, mà thậm chí mànđoàn viên cũng là "bản cáo trạng cuối cùng" theo lời đánh giá của Xuân Diệu. Các nghệ sĩlớn mọi thời đại đều là những người đứng giữa trung tâm của các vấn đề rộng lớn của hiệnthực. Từ Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Thi Nại Am đến Tào Tuyết Cần, từ Secxpia đếnBairơn, Đichken, Tháccơrây, Bandắc, Huygô, Đôtxtôiépxki, Puskin, Tônxtôi, Gôgôn, Gorki,Hêminguê, Sôlôkhốp, Macket... không ai đứng bên lề các cơn bão táp của lịch sử và số phậncủa nhân dân. Các tác phẩm của họ đều đề cập đến số phận rộng khắp của nhân dân trêncác vấn đề trung tâm của thời đại mình: niềm khao khát tự do, hạnh phúc, sự bạo ngượccủa cường quyền, quá trình làm giàu của tư sản và sự bần cùng hóa con người, các cuộcchiến tranh giành quyền bính của các tập đoàn phong kiến, các cuộc khởi nghĩa của nôngdân, số phận con người trong dòng thác lịch sử cách mạng...4Hêghen. Mĩ học, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, trang 4845Biêlinxki. Nhận định về văn học Nga năm 1847, Tư liệu khoa Ngữ văn ĐHSPHN, 2000, trang 386Lênin. Bàn về Văn hóa Văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1979, trang 249111.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn họcBên cạnh đó, còn có những nội dung khách quan không mang những tầm vóc hiện thựclớn lao song ít nhiều đều chứa đựng ý nghĩa nhân sinh. Cứ tưởng rằng thế giới trong tácphẩm của Sêkhốp nằm bên lề những con đường lớn của lịch sử, những xung đột phức tạpcủa thời đại, nhưng nó lại đụng chạm đến lịch sử ở bề sâu tâm hồn và đời sống, qua nhữngnỗi chán chường, sự đơn điệu, cuộc đời ngưng đọng7. Thơ ca trữ tình, từ những bài ca dângian giản dị, mộc mạc đến những bài thơ tâm tình đều có những ý nghĩa nhân sinh đặc biệt:niềm yêu cuộc đời, nỗi xót xa thân phận, niềm mơ ước và khát vọng về hạnh phúc, tình cảmthiết tha nồng thắm về tình mẹ con, nghĩa vợ chồng... Tất cả những nội dung đó đều gópphần bộc lộ thế giới tinh thần vô cùng phong phú của con người.Văn học phản ánh nội dung ý thức xã hội của thời đại mình. Văn học là sự vật thể hóa,ngưng kết hóa đời sống lịch sử với cấu trúc tâm lí thẩm mĩ của con người thuộc các thời đạilà như thế.Không chỉ miêu tả đời sống khách quan (nội dung mang tính khách quan, gắn liền với đốitượng), trong văn học còn thể hiện những tình cảm xã hội, ước mơ, khát vọng, cảm hứng,lí tưởng thẩm mĩ, những chân lí được thể nghiệm, những thiên hướng đánh giá... của chínhtác giả. Toàn bộ đời sống hiện thực đi vào tác phẩm đã hóa thành nỗi niềm, khát vọng. ĐọcTruyện Kiều, ta đâu chỉ thấy bộ mặt đời sống hiện thực xã hội phong kiến mà còn cảm nhận"tấm lòng sáu cõi, rộng nghìn đời" của Nguyễn Du thấm từng con chữ. Người xưa nói "viếtnhư máu chảy đầu ngọn bút" chính là nói đến phần nội dung đầy cảm xúc chủ quan mãnhliệt này của chính bản thân con người sáng tác. Như vậy, nội dung chủ quan của văn học làhiện thực được nhìn nhận dưới con mắt nghệ sĩ, được khái quát theo kiểu nghệ thuật, đượcphơi bày dưới ánh sáng một thế giới quan, một lí tưởng thẩm mĩ và những thiên hướng tìnhcảm nhất định.Nội dung chủ quan có những khi được phát biểu trực tiếp, nhưng phần lớn ẩn đằng saucách miêu tả hiện thực đời sống.Trong cấu trúc chủ quan của các yếu tố nội dung, yếu tố tình cảm là quan trọng nhất.Tình cảm, là thái độ, là phản ứng của con người đối với hiện thực. Đó là sự nhạy cảm vàchiều sâu của những rung động tâm hồn, là sự phong phú của của các cung bậc cảm xúc,là sự mãnh liệt, say mê của lí tưởng, là sự phẫn nộ của con tim và khối óc... Tình cảm, dođó, vừa là đối tượng mô tả, vừa là nội dung biểu hiện của nghệ thuật nói chung, là độngcơ sáng tạo, làm cho cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng trở thành bức tranh, lời thơ, nốt nhạc, photượng. Tình cảm được thể hiện qua nhiệt tình, qua trực giác, qua cảm xúc thấm đẫm câuvăn, lời thơ: Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô (Chimtrong lồng - Nguyễn Hữu Cầu), Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuốitrời (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Có những câu ca dao, lời lẽ rất đơn giản, nhưng vẫn làtác phẩm văn học bởi sức nặng của tình cảm chứa đựng trong đó: Chiều chiều ra đứng ngõsau, ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Không có yếu tố tình cảm không thể có tác phẩmvăn học.Tình cảm trong văn học là tình cảm mang tính xã hội. Đó là loại tình cảm dù là củacá nhân nhưng vẫn hướng tới mẫu số chung trong tình cảm nhân loại: tình yêu quê hương,niềm thương cha nhớ mẹ, lòng chung thuỷ, khát vọng tự do, hạnh phúc, chí khí bất khuấttrước cường quyền... Chính những tình cảm như vậy mới có khả năng chia sẻ và "lây lan7Pôxpêlốp. Những vấn đề phát triển lịch sử văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1971, trang 25 (tiếng Nga)121.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn họctình cảm" (L. Tônxtôi), làm cho văn học không chỉ là tiếng nói riêng của một người mà trởthành tiếng nói chung của mọi người, thể hiện sâu sắc dấu ấn tinh thần thời đại và dân tộc.Tình cảm trong văn học còn thấm đượm màu sắc thẩm mĩ: đó là những tình cảm hướngtới những giá trị thẩm mĩ. Thơ ca cổ điển hướng tới cái đẹp hài hòa, tĩnh lặng; thơ ca lãngmạn thiên về hai thái cực: rực rỡ và u buồn; thơ ca cách mạng chiêm ngưỡng vẻ đẹp anhhùng, cao cả như những tiêu chuẩn của lí tưởng thẩm mĩ từng thời đại.Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là tiếng nói tình cảm. Biêlinxki cho rằng, bản thân tìnhcảm chưa tạo thành thi ca. Bên cạnh tình cảm, nghệ thuật còn mang sức mạnh của tư tưởngvà nó dùng tiếng nói của tình cảm để thể hiện quan niệm, lí tưởng thẩm mĩ của nghệ sĩ.Nghệ thuật bởi vậy không chỉ là tiếng nói tâm sự, giãi bày mà còn là tiếng nói của nhữngtình cảm lớn, những tư tưởng lớn.Giá trị của tác phẩm còn nằm ở tầm tư tưởng của nó. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng lànhà tư tưởng lớn. Qua tác phẩm, người nghệ sĩ thể hiện nguyện vọng, tư tưởng, tâm tư, yêucầu xã hội. Tính cấp bách, chiều sâu, tầm cỡ và khuynh hướng xã hội - lịch sử của nhữngtư tưởng và vấn đề được nêu ra xác định giá trị tác phẩm. Giá trị của những tác phẩmnhư Chiến tranh và hòa bình (L. Tônxtôi), Con gái viên đại úy (Puskin), Hội chợ phù hoa(Tháccơrây), Tấn trò đời (Bandắc), Con đường đau khổ (A. Tônxtôi), Chuông nguyện hồnai (Hêminguê)... nằm ở nội dung tư tưởng của những tác phẩm đó.Nhưng, tư tưởng tác phẩm không đơn thuần khô khan, thuần lí mà phải biến thành khátvọng, cảm hứng, thấm đượm tình cảm. Tư tưởng về nhân đạo trước hết phải gắn liền vớinỗi đau về số phận con người, lòng thông cảm sâu xa (Truyện Kiều - Nguyễn Du), niềm tựhào về sức mạnh và khả năng con người (Hămlét - Sếchxpia). Tư tưởng về tự do thường gắnliền với nỗi đau về sự ràng buộc, về những giới hạn của con người (thơ Puskin). Tất nhiên,cũng có tác phẩm nghệ thuật mà ta thấy ở đó chủ yếu là kinh nghiệm, tư tưởng, như nhữngcâu tục ngữ, những loại thơ triết lí (thơ hai ku chẳng hạn), nhưng về cơ bản, những loạinghệ thuật đó cũng không tách rời được tình cảm ở phương thức biểu đạt, ở động cơ sángtạo...Tác phẩm văn học luôn mang khát vọng thiết tha muốn thể hiện một quan niệm về chânlí đời sống (chân lí về cái đẹp, cái thật, thể hiện trong các hiện tượng tự nhiên, trong tínhcách và phẩm chất con người, trong các quan hệ người với người...). Đó là những chân líđời sống mà nghệ sĩ đã thể nghiệm và muốn thuyết phục mọi người thấu hiểu. Trong thiêntruyện Số phận con người của Sôlôkhốp là chân lí: lòng nhân ái có thể giúp con người vượtlên trên số phận bất hạnh. Trong cảnh sống khốn cùng vì đói khát, con người vẫn khát khaohạnh phúc và có quyền được hạnh phúc là chân lí của tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.Gắn liền với khẳng định chân lí là cảm hứng mãnh liệt, một trạng thái tình cảm mạnhmẽ, khẳng định phủ định một điều gì đó. Cảm hứng tự do trong những câu chuyện thời kìsáng tác đầu tay của M. Gorki được thể hiện với hình ảnh chàng trai Đancô giơ cao tráitim mình làm ngọn đuốc tỏa ánh sáng dẫn đường cho mọi người đến với tự do, với cô gáiRátđa thà bị người yêu giết chết chứ không muốn chàng từ bỏ giấc mơ tự do của mình. Tấtcả những nhiệt tình khẳng định đó biểu hiện thành một khuynh hướng tư tưởng nhất định,phù hợp với những xu hướng tư tưởng đang tồn tại trong đời sống.Thực ra, trong văn học, hai nội dung khách quan và chủ quan này không hề tách bạch,mà xuyên thấm trong hình tượng. Khi chúng ta chiêm ngưỡng một hình tượng nghệ thuật,131.2. Hình tượng văn họctrong đó đã bao hàm sự phản ánh, đánh giá, cũng nhưng sự lí giải đời sống một cách trọnvẹn.Tóm lại, nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tuởng và giá trị, gắnliền với tình cảm, với một quan niệm về chân lí đời sống, với cảm hứng thẩm mĩ và thiênhướng đánh giá. Nhận thức nội dung của văn học, ý thức được những ưu thế riêng của vănhọc, cho phép khẳng định, văn học có thể đáp ứng những nhu cầu xã hội phổ biến mà cáchình thái ý thức xã hội khác không đáp ứng được.1.2 Hình tượng văn học1.2.1 Khái niệmVăn học nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, khát vọng và mơ ước của con ngườithông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng chính là phương thức phản ánh thế giới củavăn học.Khái niệm hình tượng có những cội nguồn khác nhau. Trong tiếng la tinh, imago có nghĩalà chân dung, hình ảnh. Trong tiếng Nga, obraz có nghĩa là sự là sự lột tả theo mẫu nào đó.Trong tiếng Hán, tượng có nghĩa là hình vẽ để biểu đạt. Kinh Dịch, thiên Hệ từ truyện cócâu: Thánh nhân lập tượng để tận ý (nghĩa là thánh nhân làm ra hình tượng để nói hết ýmình). Trong lí luận văn học cổ Trung Quốc, hình tượng thường được gọi là ý tượng hoặcđơn giản là tượng.Theo L. I. Timôphêép, hình tượng là bức tranh về đời sống con người vừa cụ thể vừa kháiquát, được sáng tạo bằng hư cấu và giàu ý nghĩa thẩm mĩ 8. Đây là định nghĩa quen thuộcvà phổ biến nhất.Tuy nhiên không nên hiểu đơn giản hình tượng chỉ là những bức tranh đời sống, nhữnghình ảnh (tượng). Vì thế, ở đây cần phân biệt hai khái niệm hình ảnh và hình tượng. Hìnhảnh chính là những bức tranh đời sống mà chúng ta gặp trong tác phẩm: cây đa, giếng nước,con đò, và cả con người... Nhưng tất cả mới chỉ là hình ảnh khi chúng chỉ mang ý nghĩabiểu vật cho chính nó. Thí dụ, cây tre chỉ cây tre, giếng nước chỉ giếng nước. Nhưng nếunhững hình ảnh đó đã mang những ý nghĩa khác ngoài nó, những ý nghĩa mới, kết tinh,chứa đựng tư tưởng tình cảm của con người, tức những ý nghĩa nhân sinh, khi đó hình ảnhmới trở thành hình tượng. Các nhà mĩ học phương Tây cho rằng hình tượng có chức năngbiểu ý, còn người Trung Hoa thường dùng khái niệm ý tượng (hình ảnh có ý) là vì thế. Câytre trong bài thơ Tre Việt Nam (Nguyễn Duy) là hình tượng bởi ngoài nghĩa cụ thể, nó cònmang ý nghĩa khái quát về con người Việt Nam bất khuất, kiên cường, bền bỉ trong khókhăn, vất vả, đói nghèo. Cô Tấm (Tấm Cám) là hình tượng, bởi vì nhân vật đó đã thể hiệnước mơ về hạnh phúc, công lí của người xưa.Bên cạnh đó, văn học chuyển những cảm thụ và nhận thức đời sống không chỉ bằng nhữnglời lẽ đơn thuần mà chủ yếu bằng những đối tượng cảm tính. Theo Lưu Hi Tái: Tinh thầncủa núi không bút nào tả được, phải lấy sương khói mà tả, tinh thần của mùa xuân khôngtả được, lấy cây cỏ mà tả9. Đó chính là việc phải dùng tới những hình thức đời sống nhưhình ảnh thiên nhiên, đồ vật, con người... để chuyển tải tư tưởng và cảm xúc.8L. I. Timôphêép. Nguyên lí lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1976, trang 609Dẫn theo Lưu An Hải, Tôn Văn Hiến. Lí luận văn học, Nxb ĐHSP Hoa Trung, Vũ Hán, 2002, Nguyễn Ngọc Minh dịch,trang 54141.2. Hình tượng văn họcMọi hình thức của đời sống khi đã chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh mới mẻ, giàu tínhthẩm mĩ, chứa đựng tư tưởng và tình cảm của con người sẽ trở thành hình tượng. Cho nên,hình tượng vừa cụ thể vừa khái quát, vừa khách quan vừa chủ quan, vừa vật chất vừa tinhthần là vì thế. Bởi lẽ, văn học xây dựng hình tượng vừa để khái quát hiện thực, cắt nghĩa,lí giải đời sống, vừa thể hiện tư tưởng, tình cảm dưới ánh sáng của một lí tưởng thẩm mĩnhất định.Như vậy, có thể hiểu, hình tượng là phương thức phản ánh thế giới đặc thù của văn họcbằng những hình thức đời sống, được sáng tạo bằng hư cấu và tưởng tượng, vừa cụ thể vừakhái quát, mang tính điển hình, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện tư tưởng và tình cảm conngười.1.2.2 Đặc trưng của hình tượng1.2.2.1 Hình tượng là một khách thể mang tính tinh thầnNghệ sĩ sáng tạo ra hình tượng, những khách thể đời sống tồn tại trong tác phẩm. Gọi hìnhtượng là những khách thể, bởi vì trước hết nó là những hình thức đời sống được nhà văntưởng tượng sáng tạo để trình bày về một hiện thực đời sống nhất định. Ai cũng có thể nhìncác hình tượng ấy như một cái bên gì bên ngoài, như một khách thể. Khách thể đó khi đãđược ra đời, có một cuộc sống độc lập riêng, không phụ thuộc vào ý muốn người sáng tạo.Gọi hình tượng là một thế giới tinh thần vì nó chỉ tồn tại trong cảm nhận, chứ khôngphải là một thế giới vật chất để ta có thể nhìn, sờ, nắn được. Cái hiện thực tinh thần đóđược gìn giữ và truyền đạt trong những phương tiện vật chất nhất định (âm thanh, hìnhkhối, màu sắc). Con người không chỉ sống trong thế giới vật chất mà còn sống trong thế giớitinh thần do các thế hệ trước truyền lại và do thực tiễn dời sống không ngừng tạo ra. LạcLong Quân, Âu Cơ, vua Hùng, Thánh Gióng đều đang tồn tại như những khách thể tinhthần trong tâm hồn người Việt. Những gì tinh túy nhất trong hiện thực đều được tinh thầnhóa để trở thành những khách thể tinh thần như vậy10.Hình tượng còn được sáng tạo là để thỏa mãn những khát vọng tinh thần của con người,những khát vọng mà hiện thực cuộc đời không mang đến được. Thỏa mãn về ước mơ cônglí: cái ác bị trừng phạt, oan khuất được đền bù, kẻ hiền gặp lành. Thỏa mãn về ước mơ:nồi cơm ăn hết lại đầy là ước mơ của những người quá cực nhọc vất vả vì miếng ăn ; chàngtrai, cô gái nghèo xấu xí bỗng chốc hóa thành đẹp đẽ, khỏe mạnh, giàu có là ước mơ củanhững con người vất vả, nghèo hèn, đầy tủi nhục... Hình tượng văn học mang ý nghĩa đốivới đời sống tinh thần con người. Cái vầng trăng ai xẻ làm đôi trong Truyện Kiều tô đậmthêm tâm trạng cô đơn, và chính vì thế càng làm dấy lên nỗi khát khao hạnh phúc của conngười. Truyện cổ tích Trầu Cau đâu chỉ là chuyện phong tục mà là chuyện tình nghĩa anhem, vợ chồng gắn bó thắm thiết keo sơn.Hình tượng mang tính tinh thần còn vì nó được xây dựng bởi hư cấu và tưởng tượng, bởinó chỉ tồn tại trong thế giới tinh thần, trong trí tưởng tượng của con người. Tuy nhiên kểcả khi nhà văn sáng tạo theo một nguyên mẫu nào đó, thì nguyên mẫu ấy cũng đã đuợc lắpghép, tái tạo, lựa chọn theo một góc nhìn và ý tưởng nhà văn muốn tô đậm. Do mang tínhtinh thần nên thế giới của hình tượng là một thế giới khác, đó là một thế giới có không gian,10Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 139151.2. Hình tượng văn họcthời gian, nhịp điệu với những quy luật và giá trị riêng. Ở cuộc đời thật, đã mấy cô Tấmtrở thành hoàng hậu, mấy chàng trai nghèo đuợc lên ngôi vua? Nhưng trong văn học, conngười đã thực hiện được ước mơ đổi đời đó của mình.1.2.2.2 Hình tượng mang tính tạo hình và biểu hiệnTạo hình là làm cho khách thể tinh thần vốn vô hình có được một tồn tại cụ thể, cảm tínhbề ngoài. Nó bao gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện vànhững quan hệ, tạo dựng được môi trường và những con người có ngoại hình, nội tâm, hànhđộng, ngôn ngữ.Hình tượng vốn là một khách thể tinh thần nên phải có cái hình mới tồn tại. Theo LưuHiệp: có cái hình xuất hiện thì cái đẹp mới nảy sinh (Văn tâm điêu long). Còn Hêghen cũngkhẳng định, hình ảnh chính là sự khách thể hóa những rung động nội tại để con người nhìnthấy bộ mặt tinh thần của chính mình qua ngoại vật (Mĩ học). Ví như, tư tưởng về chủquyền quốc gia: Sông núi nước Nam vua Nam ở (Lí Thường Kiệt), hay cảm xúc về sự mấtmát: Ai đem con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng bay đi (ca dao). Như vậy, tạo hìnhchính là để cho sự vật và cả những cái trừu tượng như một tư tưởng, hoặc mơ hồ như mộtcảm xúc cũng hiện lên rõ rệt.Tạo hình không đòi hỏi trình bày mọi chi tiết của đối tượng. Nó chỉ chọn lọc những chitiết ít ỏi nhất nhưng giàu màu sắc biểu hiện, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tìnhhuống, một tính cách. Giá trị và ý nghĩa của tạo hình là thể hiện chỉnh thể. Sêkhốp từngnói, chỉ một mảnh chai vỡ lấp loáng thể hiện được cảnh sắc một đêm trăng. Nguyễn Tuânthích chi tiết tiếng ếch trên sông làm sống dậy một niềm hoài cổ của Tú Xương trong bàiSông lấp. Nói cách khác, chính là thể hiện được tính toàn vẹn của chỉnh thể với cái thần, khícủa sự vật. Có như vậy, tạo hình mới thành công. Người xưa thường nói đến quan hệ giữahình và thần, hình và khí tức với cái tinh thần, cái vận động nội tại, cái khí chất, phong tháiriêng của sự vật đó. Quan niệm hình thần chỉ ngoại hình và khí chất tinh thần của sự vậtgắn chật với nhau trong một sự vật. Xưa Lưu Ân đời Hán trong sách Hoài Nam tử đã từngnhận xét có người vẽ Tây Thi đẹp mà không có duyên, họa mắt Mạnh Bôn to mà khôngđáng sợ, để nói những bức vẽ không có hồn. Hình vẽ trở thành hình tượng khi nó truyềnđược cái thần, cái khí của khách thể tinh thần11.Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong,cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm sâu kín của tâm hồn. Biểu hiện giúp hìnhtượng được cảm nhận một cách toàn vẹn, nhất là thể hiện được khuynh hướng, tư tưởng,tình cảm của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống.Tạo hình và biểu hiện của hình tượng được bộc lộ qua chi tiết, tình tiết (những thànhphần nhỏ nhất của hình tượng), một hình ảnh, một cảm xúc, một âm thanh, một màu sắc,một quan hệ. Chúng liên kết với nhau, tạo thành một hình tượng toàn vẹn, hiện lên rõ néttrong tâm trí người đọc. Chẳng hạn, cánh buồm lẻ loi đơn độc tan biến vào bầu không cùngdòng sông cuồn cuộn chảy ngang trời đã diễn tả được nỗi buồn và sự cô đơn của con ngườitrong cảnh biệt li trong thơ Lí Bạch. Hêghen gọi các chi tiết trong tác phẩm là những 'conmắt', qua đó chẳng những thấy được thế giới nghệ thuật mà còn thấy được 'một tâm hồn11Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 140161.2. Hình tượng văn họctự do trong cái vô hạn' của tác giả12. Như vậy, tạo hình là để biểu hiện, và muốn biểu hiệnphải nhờ tạo hình.Cơ sở của tạo hình là sự tương đồng của hình tượng so với cái được miêu tả. Cơ sở củabiểu hiện là sự khác biệt, là cái không bình thường, cái bất thường. Trong câu ca: Thân emnhư tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai, cái tương đồng ở đây là sự so sánh làmnổi bật vẻ đẹp phẩm chất của cô gái, nhưng cũng nói được tính không xác định của số phậncô. Một cô gái có những phẩm chất tốt đẹp lẽ ra phải có số phận tương ứng. Nhưng thựcsự, số phận cô lại phụ thuộc vào sự ngẫu nhiên nào đó. Đó là cái bất thường. Chính điềunày tạo nên sự xót xa trong lời than về số phận. Đây chính là nội dung biểu hiện của hìnhtượng.Sự kết hợp tạo hình và biểu hiện làm cho hình tượng có một hình thức độc đáo. Đó làmột thể thống nhất giữa thực và hư, trực tiếp và gián tiếp, ổn định và biến hóa, mang đầynội dung cuộc sống, tư tưởng và cảm xúc.1.2.2.3 Tính quy ước và sáng tạo của hình tượngHình tượng văn học, về bản chất, là một loại kí hiệu. Kí hiệu là phương tiện gìn giữ và truyềnđạt kinh nghiệm: chẳng hạn như từ ngữ, còi báo động, tín hiệu đèn xanh đèn đỏ trong giaothông. Kí hiệu có khi chỉ là một hình vẽ, một màu sắc, một từ ngữ, nhưng nó mang một nộidung có tính quy ước hợp lí của lôgic đời sống để mọi nguời có thể nhận biết được.Hình tượng khi được vật chất hóa bằng từ ngữ, bằng các chi tiết tạo hình và biểu hiệncũng mang tính kí hiệu. Thí dụ, Sen tàn, cúc lại nở hoa là hình tượng kí hiệu của mùa thu.Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông là kí hiệu của mùa hè. Khi hình tượng được coi là mộtkí hiệu nghĩa là nó có những nội dung hợp lôgic, mang tính truyền thống, ổn định, mà mọingười có thể hiểu và chia sẻ được.Hình tượng văn học còn là những kí hiệu mang tính thẩm mĩ, bởi vì nó không chỉ diễntả nội dung thực tại ổn định mà bao giờ cũng chỉ ra cái mới, phát hiện cái độc đáo mangcá tính nghệ sĩ13. Cũng là những hình tượng mang kí hiệu của mùa thu, nhưng Nguyễn Duviết: Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng, còn theo VươngDuy: Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu. Cùng một hiện tượng, nhưng mỗi nghệsĩ lại chọn những kí hiệu khác nhau.Hình tượng luôn thể hiện, khái quát một tư tưởng, một thái độ, một quan niệm của chủthể về cuộc đời. Để biểu hiện ý nghĩa khái quát ấy, hình tượng phải có một hình thức chủquan đặc biệt, ghi dấu cách cảm nhận và thể hiện thế giới độc đáo, riêng biệt, không lặp lạicủa từng tác giả. Ví như, cùng là diễn tả cái buồn chán, tội nghiệp của những kiếp sống vôdanh, vô nghĩa, sống như chưa hề được sống, Thạch Lam đã dùng hình ảnh bóng đêm vàniềm khao khát ánh sáng của hai chị em trong Hai đứa trẻ, còn trong Tỏa nhị kiều, XuânDiệu lại miêu tả sự quẩn quanh, xám xịt, lỡ cỡ của cuộc đời hai cô gái trẻ và hình ảnh haihạt cơm nguội chính là một hình ảnh khái quát về kiếp sống vô nghĩa đó.Mỗi hình tượng, vừa là sự tái hiện một hiện tượng thực tại, vừa mã hóa một nội dungcảm xúc do hiện tượng gợi lên trong những tình huống xã hội nhất định. Bông sen gợi sựtrong trắng, thơm đẹp nơi ao bùn, không gian cao xa gợi sự hùng vĩ, ngưỡng mộ. Vì vậy,12Hêghen. Mĩ học, tập 1, Matxcơva, 1968, trang 163, (tiếng Nga)13Xem Khrapchencô. Bản chất của kí hiệu thẩm mĩ, Sách Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực và con người, Matxcơva, 1978,trang 262-293, (tiếng Nga)171.2. Hình tượng văn họckhi Tố Hữu viết: Tôi lại về quê Bác, làng Sen, Ơi hoa sen đẹp của bùn đen thì ai cũng hiểu.Còn như khi nhà thơ viết: Hỡi những chàng trai cô gái yêu, Trên những đèo mây, nhữngtầng núi đá, nếu bỏ qua cái đẹp cao cả, hào hùng trong các yếu tố đèo mây, tầng núi thì đãbỏ mất cái cao xa, lung linh vời vợi của hình tượng14.Như vậy là, trong các chi tiết tạo hình luôn có sự mã hóa các tư tưởng, cảm xúc xã hội,thẩm mĩ. Mỗi thời kì văn học dân tộc, đều có cách mã hóa khác nhau tạo thành ngôn ngữnghệ thuật riêng của từng thời kì. Chẳng hạn, nếu như trong văn học dân gian Việt Nam,thuyền tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, trôi dạt, vô định, thì ở phương Tây xưa, thuyềnlại tượng trưng cho sự phiêu du của linh hồn sang thế giới bên kia. Từ đó ta thấy nguồngốc phương Tây của hình ảnh thuyền hồn trong bài 14 tháng 7 của Tố Hữu hoặc trong câuthơ của Huy Cận: Hiu hiu gió đẩy thuyền lên biển trời, Chở hồn lên tận chơi vơi. Như vậy,hình tượng có sự vận động qua lịch sử, các kí hiệu thẩm mĩ có khác nhau qua từng thời kì.Muốn hiểu hình tượng nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự giải mã các kí hiệu nghệ thuật, kí hiệuthẩm mĩ 15.Nhưng bản chất của kí hiệu lại có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức, dễ rơi vàosáo mòn. Vì vậy kí hiệu phải luôn được đổi mới, cắt nghĩa mới, sáng tạo kí hiệu mới. Mộttrong những cách làm cho hình tượng luôn mới là cấu trúc lại các kí hiệu thẩm mĩ quenthuộc, làm cho nó có thêm những ý nghĩa mới. Cũng hình tượng thuyền và bến như trongca dao xưa, nhưng trong bài thơ Lòng anh làm bến thu của Chế Lan Viên: Buổi sáng em xachi, Cho chiều mùa thu đến, Để lòng anh hóa bến, Nghe thuyền em ra đi, chúng lại mangnhững ý nghĩa mới mẻ về vị trí, phẩm chất, biểu tượng.1.2.2.4 Hình tượng chứa đựng tình cảm xã hội và lí tưởng thẩm mĩHình tượng không phải là sự sao chép nguyên xi đời sống hiện thực mà còn mang sẵn quanniệm, đánh giá về thế giới, chứa đựng một tư tưởng nhân sinh. Nỗi khát khao bắt Nữ thầnMặt trời về làm vợ (Đăm San) chính là nỗi khát khao chinh phục tự nhiên, là sự khẳng địnhsức mạnh, ý chí của con người thuở xa xưa. Hình ảnh bi đát, thê thảm của đám tang lãoGôriô (Lão Gôriô - Ban dắc) hiện lên như lời tố cáo của tác giả về thực chất các quan hệngười và người trong xã hội tư sản. Như vậy, hình tượng văn học vừa thể hiện quan niệm,tư tưởng vừa thể hiện thái độ, tình cảm của nhà văn.Tình cảm xã hội là tình cảm của một con người riêng biệt nhưng đã được ý thức trên cấpđộ xã hội và được soi sáng bằng một lí tưởng xã hội nhất định. Nó không chỉ là những dấuấn, những rung động cá nhân riêng lẻ mà còn mang tính phổ quát bởi mọi vận động của đờisống xã hội đều đi qua số phận của cá nhân. Tình cảm xã hội trong văn học cao hơn tìnhcảm bình thường bởi nó hướng tới những tình cảm chung, bởi cội nguồn của nó là nhu cầutinh thần, là lí tưởng, ước mơ. Cái nuối tiếc trong bài ca Trèo lên cây bưởi hái hoa, khôngchỉ là cái nuối tiếc về sự đã trót ràng buộc, mà cao hơn là ý thức cay đắng về số phận, từ đódấy lên một khát vọng tình yêu, khát khao được chia sẻ, đồng vọng trong những tâm hồnkhác. Không chỉ là tình cảm xót thương của một người chú đối với đứa cháu nhỏ (Lượm)đã hi sinh, nhà thơ Tố Hữu còn khẳng định sự bất diệt của một tuổi thơ trong sáng đã hiến14Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 14215Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 143181.2. Hình tượng văn họcdâng đời mình cho tự do của dân tộc. Tư tưởng này mang dấu ấn của tâm thức của mọingười Việt nói chung: những con người đã hi sinh vì Tổ quốc sẽ còn sống mãi với non sông.Tình cảm xã hội thường đi đôi với lí tưởng thẩm mĩ tức những khát vọng cao cả nhất,tích cực nhất, nhân tính nhất của con nguời về cái tốt, cái đẹp, cái hoàn thiện trong cáclĩnh vực khác nhau. Do đó, các hình tượng nghệ thuật thường mang những giá trị kết tinhlí tưởng thẩm mĩ không chỉ của tác giả mà còn của một thời đại, một dân tộc. Hình tượngnguời anh hùng, từ con người mang kích thước phi thường như ông Gióng đến những anhbộ đội bình dị: Mái chèo một chiếc xuồng con, Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương (TốHữu) là kết tinh của quan niệm về người anh hùng, một hình mẫu đẹp trong tâm thức dântộc Việt Nam, một dân tộc hàng nghìn năm sống trong ngọn lửa chống ngoại xâm.1.2.2.5 Tính nghệ thuật của hình tượngHình tượng mang tính thẩm mĩ, nói cách khác là mang tính nghệ thuật, bởi vì nó được sángtạo là để thưởng thức và thoả mãn về mặt thẩm mĩ. Người ta đọc một câu thơ, một câuchuyện, thường thích thú vì những hình ảnh đẹp, những vần thơ réo rắt, những cốt truyệnli kì, hấp dẫn, những nhân vật có hình thức và tính cách quyến rũ... Sức hấp dẫn của hìnhtượng là một dấu hiệu quan trọng. Điđơrô nói với nghệ sĩ: "Trước hết, anh phải làm cho tôicảm động, kinh hoàng, tê mê, anh phải làm cho tôi sợ hãi, run rẩy, rơi lệ hay căm hờn" 16.Sức hấp dẫn đầu tiên được tạo thành từ sự sinh động, giống như thật của hình tượng.Gorki đã từng đưa trang sách lên soi qua ánh sáng để xem có đúng là có những con người ởđằng sau trang sách thật không là vì vậy. Nhưng tính sinh động không chỉ đơn giản là giốngnhư thật, mà còn ở sự mới mẻ, lạ kì trong cảm nhận về thế giới chỉ thuộc một hình tượngnào đó. Khi viết về Bác Hồ: Ta lẫn Bác với bầu trời và giọt lệ, Với hương mộc trong đêm vàlộc nõn trên cành, Chế Lan Viên đã thể hiện một cái nhìn lạ hóa đối tượng. Nhân vật và sựkiện sinh động thường có những biến hóa bất ngờ không lường trước được. Con chim đếnăn khế tự nhiên lại nói: ăn một quả, trả cục vàng. Miếng trầu têm cánh phượng không ngờlại là dấu hiệu giúp Vua nhận ra cô Tấm, vợ mình. Anh Tràng chỉ định hát ghẹo mấy côgái cho vui không ngờ nhặt được vợ. Chí Phèo định đi giết con khọm già nhà nó, bỗng quaysang nhà Bá Kiến đòi làm người lương thiện!. Chính những biến hóa vô cùng ấy đã làm chohình tượng có sức lôi cuốn đặc biệt.Hình tượng còn hấp dẫn bởi những chân lí đời sống được phát biểu dưới những hình thứcđộc đáo: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn (Chế Lan Viên); Gió đưacây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay (ca dao). Nhưng chân lí đời sống trong hìnhtượng luôn được thể hiện bằng cái nhìn mang tính chủ quan mãnh liệt. Vì vậy, ta hay bắtgặp những lời than, câu hỏi, những trạng thái sững sờ, đột ngột, choáng ngợp của chủ thểtrước cuộc đời: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, Em có chồng anh tiếc lắm thay! (ca dao); Noncao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Tản Đà). Nếu thiếu đinhững biểu hiện chủ quan thì những hình tượng đó chắc bớt đi nhiều tính sinh động, biểuhiện của những chủ thể đang cảm xúc trước cuộc đời.Như vậy, hình tượng là một phương thức chiếm lĩnh đời sống đặc thù của văn học. Tronghình tượng, có sự thống nhất của cái cá biệt và khái quát, tình cảm và lí trí, tái hiện và biểu16Điđơrô. Bàn về hội hoạ. Sách Tây phương văn luận tập, tập 1, Thượng Hải, 1964, trang 387 (tiếng Trung). Dẫn theo Líluận văn học (sách đã dẫn), trang 145191.3. Hướng dẫn học tậphiện, truyền thống và sáng tạo, thể hiện tính muôn màu của thế giới và sức mạnh chủ thểcủa người sáng tạo.***Những đặc trưng riêng biệt về đối tượng, nội dung, phương thức phản ánh hiện thực đãphân biệt văn học là một hình thái ý thức thẩm mĩ đặc thù. Với những nét riêng ấy, việctiếp nhận văn học đòi hỏi có những phương pháp, cách thức, và con đường riêng.1.3 Hướng dẫn học tậpKiến thức cơ bản cần nắm vững1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học trong sự so sánh với các hình thái ý thứcxã hội khác:∙ Đặc trưng đối tượngMĩ học duy vật khẳng định đối tượng văn học là toàn bộ thế giới khách quan. Nhưngthế giới khách quan ấy được văn học chiếm lĩnh, nhìn nhận ở góc độ khác với các ngànhkhoa học khác: Văn học chú ý các "kinh nghiệm quan hệ" (I. Bôrep). Đó chính là ýnghĩa quan hệ người kết tinh trong các sự vật và hiện tượng của thế giới hiện thực đượcmiêu tả. Do đó, con người trở thành trung tâm của các quan hệ đời sống được miêu tả.Ở đây cần phân biệt con người với tư cách là đối tượng của văn học với con người làđối tượng của các ngành khoa học khác.Rất nhiều ngành khoa học lấy đối tượng của khoa học là con người. Nhưng con ngườivới tư cách là đối tượng của văn học khác với con người là đối tượng của các ngànhkhoa học khác.Nếu sinh học, y học chú ý con người ở khía cạnh sinh học (trao đổi chất, sinh trưởng,phát triển, cấu tạo cơ thể), y học (giải phẫu, chức năng các cơ quan trong cơ thể liênquan đến sự sống, tuổi thọ, sức khỏe... của con người), triết học tìm hiểu con ngườiở khía cạnh chung nhất: bản chất xã hội, bản chất cá nhân, ý thức xã hội, tư tưởng,quan điểm... thì văn học chiếm lĩnh con người dưới một góc độ riêng biệt:Thứ nhất, con người trong văn học được tái hiện trong những quan hệ xã hội, bộc lộqua những tính cách cụ thể như anh hùng, hèn nhát, trung thực, giả dối, tham lam,keo kiệt, nhân hậu, hiền lành... những tính cách ấy được tái hiện trong những hoàncảnh, môi trường cụ thể, trong cuộc đời và số phận riêng biệt, cá lẻ. Nếu như đạo đứchọc quan tâm tới thói tham lam ích kỉ của con người như là những nét đạo đức phichuẩn mực nói chung thì văn học cũng chú ý tới sự keo kiệt của con người thông quamột cuộc đời, một số phận, một tình huống cá biệt (Đến chết vẫn còn hà tiện, Ăn cágỗ, Lão hà tiện) với những ý nghĩ, việc làm, tình cảm của họ.Thứ hai, con người trong văn học được tái hiện trong tính toàn vẹn, cảm tính và sinhđộng. Ví dụ như hình ảnh chị Trần Thị Lí chẳng hạn. Báo chí đã từng nêu tấm gươnganh dũng, kiên trinh, sắt son của chị đối với cách mạng, dù chị đã phải trải qua baotra tấn tù đày, như là hình ảnh những con người anh hùng trong sự nghiệp giải phóng201.3. Hướng dẫn học tậpdân tộc, sự nghiệp chính trị của dân tộc. Còn đối với nhà thơ Tố Hữu, người nghệ sĩ,tấm gương anh hùng ấy được tái hiện trong từng chi tiết đời sống cụ thể, sinh động,vừa thực, vừa hư: Em là ai, cô gái hay nàng tiên? Em có tuổi hay không có tuổi, Máitóc em đây hay là mây là suối, Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông, Thịt da emhay là sắt là đồng?...Thứ ba, con người trong văn học không được nhìn nhận một cách khách quan tuyệtđối như trong các ngành khoa học khác, mà được miêu tả dưới một quan niệm về đờisống, một lí tưởng, một tình cảm thẩm mĩ nhất định, một cảm hứng mãnh liệt của nhàvăn. Con người trong văn học do đó còn được trình bày theo những quy luật thẩm mĩnhất định. Ví như hình tượng những nhân vật tạo dựng thế giới đều mang nét dángkì vĩ: Nữ Oa, Lạc Long Quân, Thần Trụ Trời...). Hơn nữa các nhân vật còn được táihiện trong mối cảm tình (phủ nhận và khẳng định) của tác giả. Đây là một điều màcác ngành khoa học khác hoàn toàn tối kị.∙ Đặc trưng nội dungNội dung của văn học cũng chính là cuộc sống, nhưng là cuộc sống đã được ý thức,được chọn lọc, đánh giá theo một tư tưởng, quan điểm, cảm hứng về đời sống và thẩmmĩ nhất định.2. Hình tượng nghệ thuật là một phương thức biểu đạt nhận thức, tư tưởng, tình cảm mộtcách đặc thù của nghệ thuật. Nó vừa mang tính cảm tính của những hình thức đời sống,nhưng cũng vừa mang tính tinh thần, có khả năng vừa dựng lại những bức tranh sinh độngcủa đời sống nhưng cũng vừa chuyển tải được tư tưởng và tình cảm của con người.Câu hỏi1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học có gì khác so với các ngành khoa học khác?2. Bằng kiến thức lí luận văn học về đối tượng và nội dung của văn học, hãy giải thích câunói của M. Gorki "Văn học là nhân học".3. Hình tượng nghệ thuật là gì? Các đặc trưng cơ bản của hình tượng?Bài tập1. Phân tích và chứng minh nhận định: "Lấy con người làm đối tượng miêu tả chủ yếu, vănhọc có được một điểm tựa để nhìn ra thế giới".Gợi ý:Ý nghĩa của nhận định: khẳng định con người là trung tâm của đời sống hiện thực đượcphản ánh trong văn học."Điểm tựa" của văn học khi nhìn ra thế giới chính là con người, bởi trong tác phẩm, dùlà miêu tả thế giới khách quan hay thế giới chủ quan, thế giới ấy phải được nhìn nhận dướicon mắt của một con người, tức là một nhân vật cụ thể (nhân vật, người kể chuyện, nhânvật trữ tình). Không có một tác phẩm nào lại vắng bóng nhân vật. Con người trong văn họclà những trung tâm giá trị, trung tâm đánh giả và trung tâm kết tinh quan hệ. Chẳng hạn,dưới con mắt người trần thuật, cuộc đời và các nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụngđều là "vô nghĩa lí". Cuộc đời là trò chơi quái đản của Hoàng Thiên (Thần quyền), luôn bày211.3. Hướng dẫn học tậpđặt những ngẫu nhiên, may rủi khôn lường để định đoạt số phận con người, còn con ngườithì thấp kém về đời sống tinh thần, nhợt nhạt về mặt nhân tính. Bằng một con mắt rấtriêng, Bích Khê đã tạo dựng trong thơ mình một thế giới mộng ảo mà mọi yếu tố của cuộcđời đều thăng hoa trở thành chiêm bao cùng một cõi trời huyền diệu, bí ẩn với mộng tiên,mộng rừng trăng, mộng cầm ca, mộng quỳnh giao, mộng như ngà, mộng nở hoa, mộng rấtxanh, và những đêm kim sa, đêm ngời ngọc châu, đêm vàng, đêm tơ, đêm nhung...Nếu mỗi con người, mỗi nhân vật là một trung tâm quan hệ, trung tâm đánh giá thì khảnăng tiếp cận thế giới của văn học là vô hạn.2. Tìm hiểu giá trị thẩm mĩ và tư tưởng của hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng (ThếLữ), hình tượng con sông trong Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh)...Tài liệu tham khảo1. Trần Đình Sử. Về phạm trù hình tượng nghệ thuật, Sách Lí luận và phê bình, Nxb Giáodục, Hà Nội, 20002. Anđrêmốp. Hình tượng nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1962
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top