LHPTK 10

CHƯƠNG  X

CHỦ TỊCH NƯỚC

I. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC

Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: Vua, Thống chế, Tổng thống, Đoàn chủ tịch, Hội đồng Liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ  tịch nước.  Những  cơ  cấu  này  có  vị  trí cũng rất khác nhau trong bộ máy Nhà nước của từng nước, nhưng đều có một quy định chung là Nguyên thủ Quốc gia - Người đứng đầu Nhà nước, có chức năng thay mặt cho nước về đối nội và đối ngoại. Theo hiến pháp hiện hành,  Nguyên thủ Quốc gia của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định là Chủ tịch nước.

Nguồn gốc của chế định này là Nhà Vua, hay Nữ Hoàng của các chế độ chính trị trước đây chiếm hữu nô lệ và của chế độ phong kiến độc tài chuyên chế. Trong Cách mạng tư sản, với chủ trương phải lật đổ chế độ chuyên chế, để xây dựng một chế độ dân chủ tư sản, thì chế định Nguyên thủ Quốc gia như là một trong những mục tiêu cần phải hủy bỏ hoàn toàn. Chính vì vậy sự tập trung quyền lực trong tay Nhà Vua, hoặc của Nữ Hoàng như là một trong những biểu hiện quan trọng của chế độ quân chủ chuyên chế, cần phải đập tan bằng nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp đó là cần phải phân chia quyền lực, tức là quyền lực nhà nước của nhà Vua cần phải bị chia xẻ cho các chế định lập pháp, hành pháp và tư pháp cả về phương diện học thuyết lẫn cả thực tiễn. Ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn thì ở đó không còn sự hiện diện của ngôi Vua trong bộ máy nhà nước, và ngược lại ở đâu cách mạng không giành thắng lợi một csh hoàn toàn, thì ở đó có có sự hiện diện và quyền năng của Nhà Vua.

Xét về bản chất, Nguyên thủ Quốc gia là một chế định thuần tuý của bộ máy Nhà nước  phpng  kiến  còn  rơi  rớt  lại  trong  chế  độ  dân  chủ  tư  sản.  Với  thắng  lợi  của  Cách mạng Tư sản, xác lập chế độ đại nghị thì về nguyên tắc, Nghị viện là cơ quan nắm quyền

lực Nhà nước cũng đồng thời là "người thay mặt Nhà nước" "đứng đầu Nhà nước", tức là Nguyên thủ Quốc gia thế chân cho nhà chuyên chế trước đây trong Nhà nước phong kiến. Tuy nhiên giai cấp tư sản, do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc muốn sử dụng vị thế của Vua phục vụ cho mục đích chính trị của mình, đã không hoàn toàn xoá bỏ ngai vàng phong kiến mà vẫn để Vua tồn tại để "trị vì nhưng không cai trị".

Những nước tư bản được coi là tiến bộ có hình thức Nhà nước cộng hoà  thì lại tạo

lập ra một cơ cấu mới là Tổng thống, có vị trí tương tự như Vua - Vua hiến định. Vua, Tổng thống được coi là Nguyên thủ Quốc gia song không  còn  chuyên  chế   theo đúng nghĩa của từ này. Câu thành ngữ của nhiều nơi: Nhà Vua trị vì, mà không cai trị, phản ánh một cách đúng đắn vị trí vai trò của chế định này.

Nguyên  thủ  Quốc  gia  (Vua,  Tổng  thống)  nói  chung  có  vai  trò  thực  tế  không  lớn trong cơ chế Nhà nước tư sản. Một số quốc gia thiết lập chế độ đại nghị "bảo thủ" (ở các nước gọi là cộng hoà Tổng thống) thì tổng thống được quy định có nhiều quyền hành hơn

- vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu quyền hành pháp. Vị trí của các Nguyên thủ

Quốc gia kiểu này giống như Vua trong chế độ quân chủ nhị nguyên tồn tại ở giai đoạn

đầu của chế độ nhà nước tư sản, sau khi ché độ phong kiến tan rã.

Nhìn chung sự hiện diện của Nguyên thủ Quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau, song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thoả hiệp giai cấp ở các nước tư bản. Nguyên thủ quốc gia được nhà nước tư

sản sử dụng như là một thiết chế tiềm tàng còn rơi rớt lại của chế độ phong kiến, nhằm mục còn có thể sử dụng trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, khi tất cả các thiết chế tư sản đã

bị tê liệt, cũng như là để kìm hãm phong trào cách mạng nhân dân lao động.

Hành pháp của nhà nước tư bản được chia ra làm hai phần; Hành pháp tượng trưng

và hành páhp thực quyền. Hành pháp tượng trưng của các nhà nước đại nghị do Nhà Vua

/ Tổng thống, và hành pháp thực quyền do Thủ tưứng   nắm. Hành pháp tượng trưng và hành pháp thực quyền đều do một người do nhân dân bầu ra đảm nhiệm là Tổng thống của chế độ Tổng thống.

Đoàn Chủ tịch, Hội đồng Nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây được coi

là Nguyên thủ Quốc gia tập thể. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác do truyền thống lịch

sử  của  mình,  còn  lưu  giữ  thiết  chế  Chủ  tịch  nước  thì  Chủ  tịch  nước  tuy  được  coi  là Nguyên thủ Quốc gia đứng đầu Nhà nước) song phái sinh từ cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và cùng với cơ quan này thực hiện các chức năng Nguyên thủ.

Như vậy có thể nói chế định Nguyên thủ Quốc gia (cá nhân, riêng biệt) là chế định riêng có của chế độ chính trị chiếm hữu nô lệ và nhất là của chế độ chính trị phong kiến trước đây. Sang đến chế độ chính trị dân chủ tư sản chế định này rất chao đảo tùy thuộc vào mô hình tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi quốc gia. Nếu như Nhà Vua / Nguyên

thủ  Quốc  gia  đảm  nhiệm  những  chức  năng  lập  pháp  thực  sự,  thì  đấy  lại  là  một  trong những biểu hiện quan trọng của chế đọ chính trị chuyên chế phong kiến. Vì vậy, nguyên

thủ quốc gia về nguyên tắc nguyên thủ quốc gia của các nhà nước tư bản không cho phép Nguyên thủ đảm nhiệm chức năng lập pháp, có chăng chỉ là nhằm mục đích kìm chế. Cho nên các nhà nghiên cứu đều phân định Nguyên thủ Quốc gia của các nhà nước tư bản nằm trong phân hành pháp.

Nếu như ở nhà nước tư bản còn có những biểu hiện khác nhau, thì đến Nhà nước xã

hội  chủ  nghĩa  bộ  máy  Nhà  nước  những  năm  trước  đây,  được  tổ  chức  theo  chế  độ  tập quyền, mọi quyền lực Nhà nước thống nhất (tập trung) vào cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước cao nhất của nhân dân (Xô Viết tối cao, Quốc Hội), thì về nguyên tắc thiết chế Nguyên thủ Quốc gia được thành lập riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp được các thiết chế của mọt chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lẽ đó chức năng Nguyên thủ Quốc gia luôn được thống nhất trong các chức năng thường trực giữa hai kỳ họp của Xô Viết tối cao / Quốc hội, đều do cơ quan này thực hiện. Vì vậy ở những nhà nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu cũ không có thiết chế Nguyên thủ Quốc gia. Mọi chức năng của Nguyên thủ Quốc gia do cơ quan thường trực giẵ 2 kỳ họp của Xô Viêt tối cao (Cơ quan lập pháp) Hội đồng Nhà nước (Cộng hoà dân chủ Đức cũ) đảm nhiệm.

Theo lý thuyết của nhà nước xã hội chủ nghĩa, về  nguyên tắc không cần có chế định Nguyên thủ quốc gia riêng biệt. Cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thống nhất tất cả các quyền và điều này bảo đảm thực sự quyền lực Nhà nước thuộc

về nhân dân, khắc phục được tính dân chủ hình thức như trong cơ chế Nhà nước tư sản.

Sự hiện diện các biểu hiện "Nguyên thủ quốc gia" (Đoàn Chủ tịch Xô viết, Hội đồng Nhà

nước, Chủ tịch nước) phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động Nhà nước có tính long trọng, hình thức và trong chừng mực nhất định,

để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế Nhà nước. Vị trí thứ hai này của

"Nguyên thủ quốc gia" xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tuỳ thuộc vào từng nước.

Trong cơ chế Nhà nước ta như đã nói ở trên thiết chế Nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các Hiến pháp. Ở Hiến pháp 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp 1980 là Hội đồng Nhà nước và hiện nay, Hiến pháp 1992, trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí tính chất của các thiết chế này cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức Nhà nước. Trong từng Hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định Nguyên thủ Quốc gia nói riêng.

Tại Hiến pháp 1946, Chủ Tịch nước tuy không định nghĩa song theo các quy định về thẩm quyền thì là người vừa đứng đầu Nhà nước, vừa là người trực tiếp điều hành Chính phủ. Chủ Tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu chọn trong Nghị viện với thời hạn là 5 năm (không theo nhiệm kỳ Nghị viện nhân dân - là 3 năm). Chủ Tịch nước thay mặt cho Nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; ký hiệp ước với các nước; phân đại biểu  Việt  Nam  đến  nước  ngoài  và  tiếp  nhận  đại  biểu  ngoại  giao  của  các  nước;  tuyên chiến hay đình chiến; đặc xá; trong Nghị viện để đưa ra Nghị viện biểu quyết; bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các và cán bộ cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền (trong thời hạn 10 ngày) yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật đã được biểu quyết thông qua. Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ khi phạm tội phản quốc (Chương IV và Điều 31 Chương III). Như vậy ở đây Chủ tịch nước

có vị trí lớn tương tự như tổng thống ở các chế độ cộng hoà tổng thống hay cộng hoà lưỡng tính tư sản.

Trong bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1959, Chủ Tịch nước được tổ chức riêng thành một chế định độc lập với tính chất là người đứng đầu nhà nước, và không còn đồng thời là người điều hành Chính phủ như của Hiến pháp năm 1946 . Chủ Tịch nước thay mặt nước thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại; tham gia vào các hoạt động của Nhà nước về các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể nói Chủ Tịch nước

lúc này là khâu phối hợp giữa Quốc Hội và Chính phủ, tuy nhiên vẫn còn nghiêng nhiều

về phía Chính phủ như bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi cần thiết có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của hội đồng Chính phủ. Chủ Tịch nước do Quốc Hội bầu trong công dân và phải chịu trách nhiệm trước Quốc Hội.

Hiến pháp 1980 xác lập chế độ Chủ Tịch nước tập thể theo như mô hình thịnh hành ở

các nước xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Âu. Hội đồng Nhà nước - cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc Hội là Chủ Tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Cách thức tổ chức Chủ Tịch tập thể này bên cạnh một số tiện lợi là các vấn đề thuộc quyền hạn Nguyên thủ quốc gia được thảo luận tập thể và quyết định theo

đa số thường là chắc chắn và tránh được những thiếu sót chủ quan, bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn.v.v. song lại chứa đựng nhiều hạn chế khi mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể, quyết định theo đa số nên thường chậm chạp, không phân định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực của Quốc Hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động nhất

là hoạt động đại diện Nhà nước.

Tại Hiến pháp 1992, thiết chế Chủ Tịch nước được thiết lập trở  lại và hoàn chỉnh

hơn. Mô hình lần này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình lần trước vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc Hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội và Chủ Tịch nước trong việc thực hiện các chức năng Nguyên thủ Quốc gia (là đặc trưng của bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa) vừa bảo đảm sự phân công và phối hợp giữa các cơ cấu trong bộ máy Nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp (Điều 101) Chủ Tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại. Sự hiện diện

trở lại thiết chế Chủ Tịch nước cá nhân góp phần tăng cường tính phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới.

Chủ Tịch nước do Quốc Hội bầu trong số đại biểu Quốc Hội, theo sự giới thiệu của

Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  Hội  với  nhiệm kỳ  như  nhiệm kỳ  của  Quốc  hội  và  chịu  trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc Hội. Điều này cho thấy tính phái sinh và gắn bó giữa Chủ Tịch nước với Quốc Hội và cả Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội. Về mặt lý luận, như đã nói ở trên, trong chính thể xã hội chủ nghĩa, các chức năng đứng đầu Nhà nước cũng chính thuộc về cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (Quốc Hội). Vì vậy mà trước đây, Hội đồng Nhà nước nằm trong Quốc Hội là Chủ tịch tập thể. Nay Hiến pháp 1992 tách Chủ Tịch nước thành thiết chế riêng song vẫn ngiêng về phía Quốc Hội, phối hợp chặt chẽ với Quốc Hội.

Quan hệ giữa Nguyên thủ Quốc gia và Chính phủ luôn là mối quan hệ mật thiết trong

cơ chế Nhà nước Tư sản. Tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ mà phân biệt "hành pháp lưỡng đầu" (có Nguyên thủ Quốc gia và Thủ tướng cùng lãnh đạo Chính phủ) và "hành pháp một đầu" (Nguyên thủ Quốc gia đồng thời đứng đầu hành pháp, không có Thủ tướng). Trong  cơ  chế  Nhà  nước  nước  ta,  mối  quan  hệ  giữa  Chủ  tịch  nước  và  Chính  phủ  tuy không hoàn toàn giống như ở các nước Tư bản song cũng có những nét tương tự: Chủ Tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào  nghị  quyết  của  Quốc  hội  hoặc  của  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  hội  bổ  nhiệm,  miễn nhiệm, cách chức các phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải báo cáo trước Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ trước Chủ Tịch nước. Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó giữa Quốc hội, Chủ Tịch nước và Chính phủ.

Trước đây, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước (Hội đồng Nhà nước) với hai cơ quan này chưa được quy định rõ. Hiến pháp hiện hành thể hiện mối quan hệ này trên tinh thần bảo đảm cho Chủ tịch nước liên kết, phối hợp với tất cả các cơ quan trong cơ chế Nhà nước.  Chủ  tịch  nước  đề  nghị  Quốc  hội  bầu,  miễn  nhiệm,  bãi  nhiệm  Chánh  án  Toà  án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân các cấp và kiểm sát viên, điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Khác với tất cả các nước trên thế giới, Nguyên thủ quốc gia của nhà nước Việt Nam

kể từ khi thành lập nhà nước Việt Nam   dân chủ cộng hòa cho đến hiện nay của Hiến pháp năm 1992 hiện hành luôn luôn là một thiết chế do Quốc hội/Nghị Viện nhân dân của Hiến pháp năm 1946 bầu ra và nhất là chế định này phải báo cáo trước Quốc Hội.

II. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC

Thẩm quyền của Chủ Tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn

đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan (như Điều 135, và Điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ Tịch nước thành hai nhóm:

a. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước

về đối nội và đối ngoại. Hầu hết các Nguyên thủ Quốc gia đều được quy định quyền này.

Đó là:

- Cử, đại sứ  đặc mệnh toàn quyền  của Việt nam; tiếp  nhận  Đại sứ  đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài.

- Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam với người đứng đầu Nhà nước khác.

-  Quyết  định  phê  chuẩn  hoặc  tham  gia  điều  ước  quốc tế,  trừ  trường  hợp  cần  trình Quốc hội quyết định. Ở đây tùy mức độ quan trọng của điều ước hoặc theo quy định và điều ước mà quyết định Chủ tịch nước hay Quốc Hội phê chuẩn.

- Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt nam.

- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.

- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc Hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội   công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng địa phương.

- Quyết định phong hàm cấp sỹ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác.

Quyết định tặng thưởng huân huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước khác.

- Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá.

b. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp:

Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ Tịch nước có quyền:

- Trình dự án luật ra trước Quốc Hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ xung luật hiện hành (Điều 62 Luật Tổ chức Quốc Hội).

- Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh. Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật và một số nghị quyết có tính quy phạm do Quốc Hội thông qua thì Chủ Tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Riêng đối

với pháp lệnh và một số nghị quyết (do Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thông qua) thì Chủ

Tịch nước hoặc công bố trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được thông qua hoặc

đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội xem xét lại và sau khi xem xét lại vẫn không nhất

trí thì trình Quốc Hội quyết định. Trong trường hợp đó thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ ngày được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ

khi Quốc Hội quyết định (Điều 51 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

Tại Hiến pháp chưa quy định rõ quyền của Chủ Tịch nước về công bố một số nghị quyết  của  Quốc  hội  và  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  Hội  cũng  như  quyền  đề  nghị  Uỷ  ban thường vụ Quốc Hội xem xét lại - pháp lệnh, nghị quyết có tính quy phạm thiết nghĩ Hiến pháp cần phải quy định rõ điểm này không nên để cho luật quy định.

Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ Tịch nước tham gia thành lập Chính phủ (theo trình

tự đã nói ở trên), giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng

và  thành  viên  khác  của  Chính  phủ,  nghe  báo  cáo  công  tác  của  Chính  phủ,  Thủ  tướng

Chính phủ.

Đặc biệt đối với hai vấn đề (thuộc lĩnh vực hành pháp) được hiến pháp quy định cho

Uỷ  ban  Thường  vụ  Quốc  Hội  giải  quyết  trong  thời  gian  Quốc  Hội  không  họp  là:  Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị  xâm lược thì Chủ Tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban Thường  vụ  Quốc  Hội  xem  xét  lại   các  nghị  quyết  về  vấn  đề  đó  (trong  thời  hạn  mười ngày); nếu nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ Tịch nước trình Quốc Hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. (Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp).

Cùng với mục đích tăng cường quyền lực cho cơ quan đại diện quyền lực nhà nước – Quốc Hội, Nghị quyêt số 51 năm 2001 về Sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, những quyền nói trên của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội không còn, nên Chủ Tịch nước hiện nay cũng không còn quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc Hội xem xét lại.

Việc quy định cho Chủ Tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc Hội xem

xét lại pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của Nguyên thủ Quốc gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng (cơ chế phân quyền), còn ở nước ta giữa Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và Chủ Tịch nước là thống nhất không có sự đối trọng, nên không thể có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ do Hiến pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc Hội được giải quyết những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền Quốc Hội nên cần phải thận trọng. Sự tham  gia  của  Chủ  Tịch  nước  phối  hợp  giải  quyết  các  vấn  đề  quan  trọng  đó  một  cách chính xác nhất.

Trong  lĩnh  vực  tư  pháp  và  giám  sát,  Chủ  Tịch  nước  giới  thiệu  để  Quốc  Hội  bầu

Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bổ nhiệm

các thẩm phán toà án nhân dân các cấp, các kiểm sát viên và điều tra viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ Tịch nước xem xét và quyết định việc ân giảm án tử hình. Chánh

án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc Hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và Chủ Tịch nước.

Để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều. 105 Hiến pháp).

Hình thức văn bản của Nguyên thủ Quốc gia là lệnh và quyết định. Điều 103 Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

III. THỦ TỤC BẦU CHỦ TỊCH NƯỚC VÀ PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC

Khác với các nhà nước khác, trong cơ chế Nhà nước Việt Nam, Chủ Tịch nước theo quy định của các  Hiến pháp đều do Quốc Hội bầu ra. Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ Tịch nước chọn trong Nghị viện nhân dân; Hiến pháp 1959 quy định Chủ Tịch nước do Quốc Hội bầu. Công dân nước Việt nam dân chủ cộng hoà từ ba mươi lăm tuổi trở lên có

quyền ứng cử Chủ Tịch nước, Hiến pháp 1992 quy định lại việc Chủ Tịch nước do Quốc Hội bầu trong số đại biểu Quốc Hội do Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giới thiệu. Điều này bảo đảm cho sự gắn bó và tính chịu trách nhiệm của Chủ tịch nước trước Quốc Hội.

Nhiệm kỳ của Chủ Tịch nước được quy định theo nhiệm kỳ  của Quốc hội là năm năm.Trước đây, thời kỳ Hiến pháp 1946 nhiệm kỳ của Chủ Tịch nước không theo nhiệm

kỳ của Nghị viện nhân dân (5 năm và 3 năm). Còn từ Hiến pháp 1959 đến nay nhiệm kỳ của Chủ Tịch nước luôn theo nhiệm kỳ của Quốc Hội. Khi Quốc Hội hết nhiệm kỳ, Chủ Tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi bầu được Chủ Tịch nước mới.

Chủ Tịch nước là cơ quan cá nhân, song thường có thêm các phó Chủ Tịch nước để giúp Chủ Tịch nước làm nhiệm vụ. Các Hiến pháp nước ta nói chung đều quy định chức danh phó Chủ Tịch nước. Ở Hiến pháp 1946, Phó Chủ Tịch nước chọn trong nhân dân. Ở Hiến pháp 1959, Phó Chủ Tịch nước được bầu theo thủ tục như Chủ Tịch nước. Hiến pháp 1992 quy định phó Chủ tịch nước do Quốc Hội bầu trong số đại biểu Quốc Hội theo

đề nghị của Chủ Tịch nước. Phó Chủ Tịch nước giúp Chủ Tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ Tịch uỷ nhiệm thay Chủ Tịch làm một số nhiệm vụ. Khi Chủ Tịch không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ Tịch. Trong trường hợp khuyết Chủ Tịch nước thì Phó Chủ Tịch quyền Chủ Tịch cho đến khi Quốc Hội bầu được Chủ Tịch nước mới.

IV. HỘI ĐỒNG QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

Với tư cách là người đứng đầu nhà nước, Chủ Tịch nước là biểu tượng cho sự thống nhất và bền vững của Quốc gia. Vì vậy, như một thông lệ, Chủ Tịch nước thống lĩnh các

lực lượng vũ trang bao gồm các lực lượng quân đội và dân quân. Với thẩm quyền này Nguyên thủ Quốc gia có thể điều binh, khiển tướng trong trường hợp chiến tranh và khẩn thiết để có thể tiến hành việc giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện chức năng này, Nguyên thủ Quốc gia của cá nước thường có Hội đồng

An ninh Quốc gia và Nguyên thủ là người đứng đầu Hội đồng. Ở  Việt Nam, tại Hiến pháp 1980 khi Hội đồng Nhà nước là Chủ Tịch nước tập thể thì có Hội đồng Quốc phòng

và an ninh nằm trong Quốc hội để giúp Quốc Hội và Hội đồng Nhà nước hoạt động. Hiến pháp  năm  1992  quy  định  thành  lập  Hội  đồng Quốc  phòng  và  an  ninh  thuộc  Chủ  Tịch nước do Chủ Tịch nước là Chủ Tịch Hội đồng. Hội đồng có phó Chủ tịch và các uỷ viên

do Chủ Tịch nước đề nghị danh sách thành viên trình Quốc Hội phê chuẩn. Thành viên

Hội đồng không nhất thiết là đại biểu Quốc Hội.

Hội đồng Quốc phòng và An ninh động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc Hội có thể giao cho hội đồng quốc phòng và an ninh những nhiệm vụ và quyền hạn đặc biệt. Nhìn chung, trong điều kiện hoà bình hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và An ninh thường không nổi bật, thậm chí không hoạt động. Nhưng trong thời chiến hoặc tình trạng khẩn cấp thì Hội đồng được trao nhiều quyền hạn đặc biệt, được áp dụng các biện pháp cần thiết để giữ gìn

ổn định và bảo vệ đất nước.

Hội đồng làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số.

Kết luận

Chế định Nguyên thủ Quốc gia là một chế định rất đặc biệt của các nhà nước dân chủ kể cả tư bản lẫn của các nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên thủ Quốc gia của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam   theo quy định   của Hiến pháp là Chủ Tịch nước có quyền thay mặt cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt đối

nội và đối ngoại.

Câu hỏi ôn tập

1. Phân tích sự tiến hóa của chế định Nguyên thủ Quốc gia.

2. Địa vị pháp lý của Nguyên thủ Quốc gia Việt Nam hiện nay.

3. Thẩm quyền của Nguyên  thủ Quốc gia.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: