VII

         Ánh nắng nhạt của trời tháng chín đã phá tan lớp sương mù bắt đầu in xuống mặt đất.

         Cánh đồng lúa chín tưng bừng biến thành làn biển sắc vàng.

         Hơi sương đọng lại ban đêm còn đầm đìa trên lá cây và lóng lánh trên ngọn cỏ.

         Bằng dáng bộ vui vẻ của một người đương được hả dạ, cô Ngọc - bây giờ có thể gọi là cô khoá Hạc tung tăng đi trên bờ đê với chiếc thúng nhòi cắp ở dưới sườn. Chốc chốc cô lại quay đầu về phía cổng làng để ngó xem chồng ra chửa.

         Nhưng mà chàng vẫn chưa ra.

         Thủng thẳng bước một, cô dạo tới một gốc cây đa ven đê. Và lật chiếc nón khua sơn nhôi bạc đặt ngửa xuống một đám cỏ, cô để cái thúng lên trên. Rồi vén váy áo cho khỏi loà xoà, cô ngồi vào một rễ đa cạnh đó, và giở thúng lấy kim chỉ và miếng mụn nhiễu cô vừa khâu túi vừa đợi chồng.

         Sau cái đêm đuốc hoa phòng động cô về quê chồng lần này là hai.

         Bởi vì từ khi xong lễ lại mặt, Vân Hạc đã cho người sang nhà trọ dọn hết sách vở đồ đạc sang nhà ông đồ Vân Trình, để cùng cô hưởng cuộc đoàn viên, cho nên cô dù đã đi lấy chồng, nhưng vẫn được ở nhà với cha với mẹ.

         Vợ chồng ông đồ cũng muốn cho cô trọn đạo làm dâu. Cho nên cách đó ít bữa, ông bà lại bắt Vân Hạc đưa cô về làng Đào Nguyên để thăm bà cống và đi chào các ông chú, bà bác trong họ.

         Cô ở nhà chồng chỉ có hai đêm một ngày, thì bà cống Đào Nguyên giục cả vợ lẫn chồng phải sang Vân Trình. Là vì năm đó, hương thi có kỳ ân khoa, bà sợ con trai nấn ná ở nhà, hoặc giả lại sao nhãng về việc đèn sách. Chiều ý mẹ, Vân Hạc lại phải đi ngay.

         Năm gian nhà khách của cụ đồ Vân Trình lúc ấy đã thành ra giang sơn riêng của vợ chồng cô. Với cái giang sơn ấy, đời cô hơn một tháng nay, có thể nói là đầy những thi vị. Ngày thì đi chợ bán hàng, tối về cô lại dệt cửi. Buồng cửi của cô đối nhau với buồng học của Vân Hạc. Những lúc đêm khuya nhà vắng, bóng trăng vàng rọi trước thềm, chàng học, cô thì dệt vải, tiếng đọc sách giòn giã xen với những dịp đều đặn của tiếng ác kêu, khiến luôn luôn cảm thấy cái sung sướng êm đềm của đời tuổi trẻ vô lo vô lự.

         Nhưng mà chí cô không phải có thế, cô còn muốn được hơn nữa.

         Bây giờ kỳ thi sắp tới. Chỉ còn cách năm ngày nữa, chàng phải trẩy trường. Vì vậy ông đồ bà đồ bảo chàng và cô phải về Đào Nguyên để sửa lễ thờ. Vân Hạc tuy vẫn không thích việc đó, nhưng vì chiều lòng ông nhạc, bà nhạc, chàng cũng không muốn từ chối.

         Sáng nay cô và chàng ăn cơm sớm hơn mọi ngày. Đáng lẽ hai người cùng đi một lúc, nhưng vì vợ chồng mới cưới cô vẫn chưa hết cái tính xấu hổ, sợ rằng đi đôi với chồng lại bị chị em chê cười. Cho nên cô mới dặn chàng đi sau để mình đi trước, ra khỏi cổng làng, cô sẽ vừa đi vừa đợi.

         Dưới bóng rợp mát của cây đa, mắt cô tuy nhìn vào mũi chỉ đường kim, nhưng bụng cô vẫn để cả vào người thày bói mà cô mới bói trong phiên chợ trước:

         "Người ta vẫn đồn lão thày bói ấy đoán quả hay lắm. Hắn bảo tháng này mình có tin mừng, chắc anh chàng ta thế nào cũng đỗ. Vả lại cụ bảng Tiên Kiều, cụ nghè Quỳnh Lâm và nhiều cụ khác đều nói quyết rằng anh ta phải đỗ kia mà. Nhưng, anh ta đỗ ngay, mình cũng không thích. Vợ chồng lấy nhau mới già một tháng, mà chồng đã đỗ, thiên hạ sẽ bảo mình không có công nuôi chồng đi học ngày nào. Ước gì anh ta hỏng vài khoa nữa, rồi sau hãy đỗ, để mình nuôi hắn cho thiên hạ biết tay". Nhưng rồi cô lại gạt đi mà rằng: "Sao mình lại nghĩ dại dột như thế? Gì thì gì, chứ chồng đỗ sớm vẫn có sướng hơn. Thi hương đã vậy, lại còn thi hội. Nếu khi mình đã con bận con mọn vác đôi vú ộ ệ mà lên ngồi võng vinh quy, có lẽ không thú gì nữa".

         Cái túi khâu đã gần xong, vẫn chưa thấy bóng Vân Hạc. Cô toan đứng dậy trở về, thì trong cổng làng một chiếc nón dứa vừa nhô ra khỏi bóng nắng.

         Nhìn cái dáng điệu nhanh nhảu và nhẹ nhàng của người đội nón, cô nhận đích là chồng mình, tức thì cô lại ngồi xuống để khâu cho xong cái túi.

         Bóng nắng lan đến gốc đa.

         Trận gió hiu hiu thổi qua đồng lúa.

         Những bông lúa chín lướt theo chiều gió cồn cộn như một lớp sóng vàng.

         Tiếng hát đưa liềm của mấy cô thợ gặt thi nhau lên bổng xuống chìm, réo rắt trong cánh đồng bát ngát.

         Trước cảnh tượng bao la man mác, cô dừng mũi kim, mơ màng nhìn ra đám chân trời xa xa.

         - Làm gì mà thơ thẩn vậy?

         Tiếng hỏi thình lình giội vào bên tai, khiến cô giật mình quay lại. Vân Hạc đã sừng sững đứng ở đằng sau với nụ cười. Chàng tiếp:

         - Đợi lâu thế hẳn nóng ruột lắm đấy nhỉ?

         Cô cũng mỉm cười và đáp:

         - Không nóng ruột. Chỉ tính quay về đấy thôi. Trang điểm những gì mà ở nhà bây giờ mới đi?

         Vừa nói, cô vừa thu xếp cái thúng, rồi cô uốn vai, vặn mình, uể oải đứng dậy.

         Vợ chồng liền sánh vai nhau vừa đi vừa nói những chuyện tầm phơ. Con đường tuy xa, nhưng chàng vẫn luôn luôn đi về, cô thì hàng ngày đi chợ đã quen, cho nên ai nấy cũng không mỏi lắm.

         Mặt trời đến đỉnh đầu, cổng làng Đào Nguyên lù lù hiện ở trước mặt. Cô toan lùi lại để chồng vào trước. Nhưng chàng bảo cô cứ việc cùng đi, không phải e lệ gì cả.

         Hai người mới nhô đầu vào cổng nhà, lũ cháu thi nhau cười reo:

         - Ấy a, chú tư, thím tư đã về!

         Rồi chúng đua nhau lạy chú, lạy thím và chúng xúm xít chung quanh, đứa này nắm tay, dứa kia níu lấy vạt áo của thím. Xoa đầu chúng nó khắp lượt, cô và chàng vui vẻ đi vào trước thềm. Bà cống đương ở trong nhà mừng rỡ bước ra. Cô và chàng cùng cung kính chào. Bà cống tươi cười:

         - Ừ các con đã về đấy ư? Đẻ đương có ý mong đợi. Nếu như hôm nay chúng bay không về, thì có lẽ ngày mai đẻ phải cho người đi gọi.

         Vân Hạc sửng sốt:

         - Thưa đẻ có việc gì ạ?

         Bà cống vội đáp:

         - Không! Có việc gì đâu. Vợ chồng hãy vào trong nhà mà nghỉ. Đi đương lúc nắng có mệt lắm không?

         Cô Ngọc lễ phép:

         - Thưa đẻ, cũng không nắng lắm. Vì ở trên đường có gió luôn luôn.

         Rồi cô nhẹ nhàng lên thềm và sai một đứa cháu lớn đi xuống nhà dưới lấy cho cái đĩa. Sau khi đã giở thúng lấy mấy chiếc bánh cốm bày lên trên đĩa, bưng đến trước chỗ bà cống, mời bà xơi nước, cô đem gói kẹo phân phát cho lũ trẻ con. Mấy người chị dâu nghe tiếng vợ chồng chú tư đã về, ai nấy đon đả chạy lên chào hỏi. Trong nhà vui như ngày Tết.

         Hết một lượt chuyện hàn huyên, Vân Hạc đứng dậy tung tăng vừa đi bách bộ trong nhà vừa hỏi mấy người chị dâu:

         - Anh cả đi đâu không thấy? Anh hai, anh tú độ  này có về nhà không?

         Bà cống đón lời:

         - Bác cả sang chơi bên Bắc, mới đi sáng nay. Còn anh hai và anh tú thì hơn tháng nay, không về đến nhà. Hôm qua hai anh có nhắn về rằng: hễ con có về, thì con cứ việc sửa lễ ra thờ. Từ nay đến hôm trẩy trường, các anh ấy cũng không về nữa. Vì vậy, đẻ cứ mong ngóng vợ chồng nhà mày.

         - Con cũng đã toan không về. Nhưng vì mẹ con bên kia giục mãi, con cũng nể lòng, nên phải nghe lời. Lễ mãi, khoa nào cũng lễ, hỏng vẫn hoàn hỏng. Quỷ thần có giúp cho mình gì đâu, mà mình cứ phải cúng các ông ấy?

         Vừa nói Vân Hạc vừa ngồi xuống ghế, vớ lấy cái điếu, sai cháu châm lửa hút thuốc. Bà cống ra bộ không ưng lời con, vội gắt:

         - Cái thằng ăn nói hay chứ! Làm người thì phải kính trọng quỷ thần. Cúng ngài không phải chỉ cốt cầu ngài phù hộ. Mày dốt thì mày hỏng, trách gì quỷ thần? Nếu như cúng mà được đỗ, ai còn phải học làm gì?

         Cô Ngọc tiếp lời mẹ chồng:

         - Ấy ở bên kia anh ấy cũng cứ nói bướng như thế. Mẹ con khuyên mãi mới chịu về đấy.

         Vân Hạc mỉm cười:

         - Thì cứ cúng, tôi có ngăn cản gì đâu. Nhưng thưa đẻ, phải để đến ngày mai chứ?

         Bà cống dẽ dàng trả lời:

         - Gà gạo tao đã mua sẵn cả rồi. Nhưng cũng phải chờ đến sáng mai mới sửa. Việc lễ lạt, không nên sửa vào buổi chiều.

         Một đứa cháu gái với bộ mặt nhễ nhại mồ hôi, xách một siêu nước từ dưới nhà bếp lên thềm. Cô Ngọc nhanh nhảu chạy ra đón lấy. Rồi cô súc ấm, tráng chén, pha mấy chén nước, đệ đến trước mặt bà cống. Bà cống cầm chồng bánh cốm đưa cho cô và nói:

         - Con đem bóc ra, để các bác uống nước cho vui.

         Chị tú chạy lại đón lấy chồng bánh và nói:

         - Để con bóc cho. Thím nó chưa biết bát đũa để đâu.

         Rồi thì chị cầm mấy cái bánh đi xuống nhà dưới. Bà cống vui vẻ bảo chị cả, chị hai cùng sang bên ấy uống nước với mình. Với mấy bà chị này, bà chỉ là người nàng hầu của ông bố chồng, nhưng lúc ấy các bà vợ cả, vợ hai cụ cống đều mất. Bà được là chủ của gia đình. Cái nết hiền từ đứng đắn của bà, đã làm cho những người dâu con cụ cống, đều  phải kính trọng yêu mến như một người mẹ. Đối với bà, họ giữ rất đúng lễ phép, thường thường không ai ngồi đôi cùng bà bao giờ. Vì vậy, bây giờ bà tuy mời họ, họ vẫn nhất định từ chối:

         - Bà mặc chúng con.

         Chị tú đã bưng mâm bánh ở nhà dưới lên, rón rén đặt vào bên cạnh bà cống. Một lần nữa, bà lại giục các chị dâu sang đó ăn bánh. Nể lời bà, chị hai liền đến bưng lấy một đĩa, đem sang dãy phản bên này. Bà cống lại gọi lũ cháu vào quanh phản mình, rối bèn xắn bánh, xóc cho mỗi đứa một miếng.

         Cái tiệc đơn sơ cử hành trong một bầu không khí đầm ấm, khiến cho cô Ngọc nô nức mừng thầm về nền phúc đức nhà chồng. Và cô không khỏi băn khoăn trong cảnh vắng vẻ của nhà mình.

         Xong bữa trước, trời vừa đúng trưa. Chị cả, chị hai, ai đi làm việc của người nấy. Cô và chị tú cùng xuống nhà bếp nấu cơm.

         Mặt trời tà tà, cô vào xin phép bà cống cho mình và mấy đứa cháu nhỏ đi thăm mấy ông chú bác và vài chị em trong họ. Lân la hết nhà này đến nhà khác, khi cô trở về thì trời vừa tối.

         Trong nhà hãy còn đầy những khách khứa, bà con trong họ nghe tin Vân Hạc mới về, người ta rủ nhau đến chơi để hỏi thăm về chuyện thi cử của chàng.

         Mặc chồng tiếp khách ở nhà trên, cô xuống nhà dưới, ngồi chuyện vãn với mấy người chị dâu.

         Một lát sau, khách khứa về hết. Vân Hạc cũng cùng đi chơi với họ. Bà cống cho gọi cô và mấy người kia lên cả nhà trên. Rồi bà bắt cô thắp đèn, đem truyện Phật bà Quan âm kể cho cả nhà cùng nghe. Lâu nay bà vẫn thèm nghe truyện ấy, nhưng mà không có ai kể. Vả lại, bà vẫn nghe nói dâu mình biết chữ, nhưng bà chưa tin, nên muốn thử xem cô có biết chữ thật không.

         Thấy cô đọc được trôi chảy, đúng vần, dứt mạch không bị ngắc ngứ chỗ nào, thì bà rất lấy làm mừng.

         Chị hai như cũng ngạc nhiên về sự thông thái của em dâu, ngơ ngẩn nét mặt sẽ hỏi:

         - Thím đi học được bao nhiêu năm?

         Cô bấm đốt rồi đáp:

         - Tám năm tất cả. Em đi học từ năm lên sáu. Vì thày, mẹ em hiếm hoi, lúc đẻ em, thày em không xâu lỗ tai. Đến năm em lên sáu tuổi, thày mẹ em lại bắt em để hồng mao, mặc quần trắng, giả làm con trai, học chung lớp với học trò trẻ con. Em học lẽo đẽo đến năm đã mười bốn tuổi, phải đi chợ coi hàng cho mẹ em, bấy giờ mới nghỉ.

        Chị cả tươi cười hỏi tiếp:

         - Thế thím được học những sách gì?

         Cô thỏ thẻ trả lời:

         - Cũng như những học trò con trai, vỡ lòng em học Tam tự kinh, rồi đến Sơ học vấn tân, rồi đến Minh đạo gia huấn, rồi đến Ấu học ngũ ngôn thi, rồi đến Hiếu kinh, rồi đến Luận ngữ chính văn. Năm em mười tuổi, thày em mới cho em học kinh Lễ, nhưng chỉ học thiên Khúc lễ, và thiên Nữ tắc mà thôi. Hết hai thiên ấy, mỗi ngày em chỉ được viết một tờ phóng và học mấy bài thơ trong quyển Đường thi. Vì lúc ấy mà đi, ngày nào em cũng phải đánh ống, đánh suốt, tập nghề dệt vải.

         Chị cả ra bộ tần ngần:

         - Thuở nhỏ tôi cũng đã học như thím, nhưng chỉ học đến quyển Hiếu kinh thì thôi. Thế mà bây giờ không nhớ một chữ nào cả. Tôi tối dạ quá.

         Đêm đã khuya, bà cống thấy mình hơi mệt. Cuộc kể truyện bị tan giữa lúc nhiều người còn thèm. Chị cả, chị hai, chị tú rục rịch ai vào buồng riêng của người nấy. Những đứa cháu nhỏ chầu chực từ tối đến giờ tranh nhau đòi được ngủ với thím tư. Vân Hạc vẫn chưa về. Bà cống bảo cô đem cả lũ cháu vào trong phòng mình cùng ngủ. 

         Vừa lạ nhà, lại vừa băn khoăn không biết chồng mình bê tha ở đâu, cô dằn dọc mãi đến canh ba mới chợp mắt đi được một lúc. Mấy con gà trống phành phạch vỗ cánh thi nhau gáy ở sau nhà, làm cô giật mình thức giấc. Ngoài sân đã thấy có tiếng nồi xanh lạch cạch và tiếng vo gạo sàn sạt. Những người chị dâu đã dậy làm việc cả rồi. Cố nhiên cô cũng không thể nằm nữa. Sợ động giấc ngủ của mẹ chồng, cô sẽ rón rén xuống đất và sẽ ngỏ cửa ra sân để cùng các chị bắc chõ thổi xôi, đun nước làm thịt gà.

         Bấy giờ Vân Hạc mới về.

         Cô toan hỏi chàng đi đâu suốt đêm. Nhưng sợ mấy người chị dâu cười mình ghen bóng ghen gió, nên cô lại thôi.

         Trời rạng đông, tiếng gà giục giã gáy dồn. Bà cống trở dậy và xuống ngồi ở nhà bếp xem sóc công việc.

         Sáng rõ. Xôi, gà đều chín. Các thức cơm canh cũng vừa làm xong. Theo lời dặn cảu bà cống, cơm canh để cúng ở nhà, còn xôi gà thì đem cúng đình và cúng nhà thờ đại tôn. Sau khi hai chõ xôi và hai con gà đã được đóng làm hai mâm, bà bảo cô Ngọc sắp đủ trầu rượu vào đó và đi hái lấy hai bông hoa hồng cắm vào hai cái mỏ gà, rồi cho người nhà bưng đi.

         Bởi vắng anh cả, Vân Hạc phải chỉnh đốn khăn áo để thắp đèn hương khấn cụ. Rồi chàng đi theo hai mâm xôi gà ra đình lễ thánh và vào nhà thờ đại tôn lễ tổ.

         Bà cống dặn với:

         - Con nhớ nói với ông từ, ông trưởng khấn cho anh hai, anh tú nữa đấy.

         Vân Hạc tủm tỉm cười nụ:

         - Vâng! Con đã nhớ. Nhưng không biết con chỉ lễ đủ phận con hay phải lễ thay cả hai anh ấy?

         Bà cống cau mày:

         - Đừng nói trẻ con! Việc quỷ thần không phải chuyện đùa.

         Vân hạc im lặng ra cổng. Bà cống cung kính đến trước bàn thờ, dẽ dàng ngồi vào chiếc sập kê liền hương án, sẽ xổ nửa vành khăn vấn, hạ xuống ngang với sống mũi, và chìa hai tay nâng vành khăn ấy cho nó khòng khòng ở trước hai mắt, bà vừa lễ vừa khấn ông cống phù hộ cho các con khoa này thi cử cho may. Một hồi lầm rầm đã dút mạch bằng ba cái gật đầu trịnh trọng, bà nghiêm trang quay ra bảo các nàng dâu cùng vào lễ thầy và đi đánh thức lũ trẻ trở dậy, để cho chúng nó lễ ông.

         Ngoài cổng có tiếng chó sủa. Cả nhà đồng thời ngó ra.

         Cụ Năm, chú ruột Vân Hạc, lù khù chống gậy bước vào trong cổng với hai quan tiền vắt vai.

         Chị hai tất tả chạy ra coi chó và đón ông chú vào thềm.

         Bà cống chào hỏi bằng giọng vui vẻ:

         - Ông đem tiền đi dâu? Hay định cho cháu đấy chăng?

         Cụ Năm lễ phép trả lời:

         - Vâng! Cái nghĩa làm chú thì phải thế chứ!

         Rồi cụ đặt hai quan tiền xuống chiếc án thư giữa đôi tràng kỷ và tiếp:

         - Thưa bác, anh tư đi đâu! Bác đã cúng ông công chưa đấy?

         Bà cống đáp:

         - Cháu nó ra đình lễ thờ. Tôi khấn ông cháu rồi ạ!

         Cụ Năm lật đật đến trước bàn thờ và nói:

         - Xin vái ông anh vậy thôi. Mỏi lắm không lễ được nữa.

         Rồi cụ chắp tay cúi đầu, vái luôn năm cái.

         Vân Hạc vừa về, chàng mời ông chú sang ngồi ở bên tràng kỷ. Rót một chén nước đệ đến trước mặt cụ Năm, rồi chàng chắp tay đứng hầu bên cạnh. Cụ Năm cầm chén nước lên và hỏi:

         - Hôm nào thì anh trẩy trường?

         - Thưa chú hai nhăm tháng này!

         - Mồng một tháng sau đã phải vào trường, mà đến hai nhăm tháng này mới đi, e rằng chậm quá, anh nên đi sớm thì hơn. Bởi vì tới nơi còn phải đi tìm nhà trọ và phải sắp sửa các đồ dùng. Xong rồi cũng phải nghỉ ngơi vài ngày cho tinh thần khoan khoái, thì viết văn mới linh lợi.

         - Thưa chú đồ đạc cháu đã sắp sẵn ở nhà, còn nhà trọ thì cháu đã có chỗ quen mọi năm, không phải tìm nữa. Hai nhăm tháng này đi cũng vừa.

         Cụ Năm chỉ tay vào hai quan tiền:

         - Nếu được thế thì hay lắm. Đây chú đỡ cho vài quan, để khi tới trường mà cho... nhà trò.

         Bà cống nói xen:

         - Chết nỗi! Sao ông lại nuông cháu quá như vậy!

         Cụ Năm vừa cười vừa nói:

         - Chẳng nuông chiều cũng đến thế thôi! Ai theo cháu mà giữ chúng nó!

         Rồi cụ quay sang Vân Hạc:

         - Nhưng chơi thì chơi, cũng phải để bụng vào việc thi cử mới được, chớ có lu bù thái quá. Bây giờ chú đã già rồi, nghiệp nhà trông vào các anh. Các anh còn đương niên thiếu lực cường, phải cố nối lấy gia thanh, đừng có lẹt đẹt như chú. Hễ khi tới trường, có gặp anh hai, anh tú, cũng bảo chú dặn như vậy.

         Vân Hạc vâng lời, rồi xách cả hai quan tiền đem đặt sang phần bên kia.

         Ngoài cổng lại có bóng người thập thò, chị cả vội vàng chạy ra đón tiếp. Bà bác, bà thím, bà cô, một lũ lô nhô tiến vào trong sân. Sau khi đã chào bà cống, cụ Năm và ghé ngồi vào chiếc phản cạnh, mỗi bà mở bọc giở ra một chuỗi tiền đen và bảo Vân Hạc:

         - Nghe tin anh sắp trẩy trường, gọi là thế, chúng tôi mỗi người giúp anh một quan để anh thêm tiền đò giang.

         Vân Hạc chưa kịp nói sao thì một bọn nữa độ năm sáu người, vừa họ nội vừa họ ngoại, lũ lượt kéo đến.

         Cũng như các bà kia, những người này cũng đem tiền đến cho Vân Hạc: người một hai quan, người năm bảy tiền. Vân Hạc cảm ơn khắp lượt rồi chàng vừa cười vừa nói:

         - Giả sử mỗi tháng đi một lần, thì trong một năm tôi có thể cưới được một người vợ nữa.

         Rồi chàng thu xếp các món tiền đó chồng làm một đống.

         Hai anh người nhà bưng cỗ đi cúng lúc nãy đã đội cỗ về, bà cống giục các nàng dâu sắp sửa mâm bát để mời họ mạc uống rượu. Đàn bà con gái hết thảy chối là mới ăn cơm xong, chỉ có đàn ông nhận lời.

         Chừng nửa buổi, bữa rượu mới tan. Họ mạc lẻ tẻ ra về với câu ân cần chúc Vân Hạc khoa này nhất cử.

         Trông thấy trời chiều đã trưa, bà cống liền sai cô Ngọc đem cả số tiền bà con giúp đỡ, lấy mo bó làm hai bó. Rồi bà thúc giục con dâu con trai phải về Vân Trình để ngày mai còn phải lễ thờ ở bên ấy nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top